Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

HỒI KÝ TRẦN ĐỘ - KỲ CUỐI

1      2      3     4      5
CHƯƠNG 5  TỪ ĐẠI HỘI NHÀ VĂN LẦN 4 ĐẾN ĐẠI HỘI CỬA VIỆT
Giữa lúc không khí đổi mới trong Văn nghệ đang sôi nổi khắp nơi, đặc biệt là cao trào chuẩn bị cho nghị quyết của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ lên đến đỉnh cao thì ngày 23-6-1987, Ban bí thư Trung ương Đảng ra thông tư về việc các Hội Văn học nghệ thuật Trung ương.
Thông tư do anh Đỗ Mười, Ban bí thư ký viết:
"Ban bí thư đồng ý để các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức đại hội toàn quốc trong năm 1988. Trên cơ sở tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đại hội các Hội văn học, nghệ thuật cần quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới -đổi mới tư duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ, giải phóng năng lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật, nhằm lích cực tham gia vào việc giải phóng sức sản xuất, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội do Đại hội VI của Đảng đề ra. Đại hội các hội kỳ này phải đánh dấu một chặng đường mới trong sự phát triển văn học nghệ thuật và trong tổ chức hoạt động của các Hội sáng tạo ở nước ta".

Nếu ai chú ý sẽ thấy những nội dung chính của Thông tư là những quan điểm cốt lõi của nghị quyết 05 này. "Đổi mới tư duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức cán bộ, giải phóng năng lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật". Nó được thông qua dễ dàng trong không khí cởi mở của Đại hội VI.
Cùng với các Hội khác, Hội nhà văn sôi nổi, khẩn trương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ 4 của mình. Từ đại hội Nhà văn lần thứ 3 năm 1983 nay đã hơn 4 năm. Không chỉ riêng độ dài thời gian đã chín mùi mà nhiều vấn đề khác về cơ chế tổ chức, về sáng tác, lý luận phê bình đang được đặt ra một cách bức xúc dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội Đảng VI.
Bốn năm qua, đặc biệt là từ năm 1986, nền văn học nước nhà đã có những khởi sắc mới. Những sáng tác của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Văn Tuấn, Phùng Gia Lộc, Hoàng Hữu Các, Nguyễn Khắc Tường, Trần Huy Quang... làm sôi động diễn đàn văn học. Để gây men không khí chuẩn bị tiến tới Đại hội, nhà văn Nguyên Ngọc, Tổng biên tập báo Văn Nghệ có sáng kiến mở mục "Văn nghệ phỏng vấn" để trao đổi những vấn đề sẽ đặt ra trong Đại hội, với 2 câu hỏi:
1 Thông tư của Ban bí thư Trung ương Đảng "về Đại hội các hội văn học Nghệ thuật Trung ương nêu rõ: "Các đại hội cần đánh giá một cách toàn diện, khách quan, trung thực tình hình phát triển của ngành và hoạt động của Hội trong thời gian qua". Trên tinh thần đó, đồng chí nhìn nhận như thế nào về nền Văn học của ta từ Cách mạng tháng Tám đến nay, qua các thời kỳ, nhất là hiện nay; cái đã đạt được cái chưa đạt được, chỗ mạnh, chỗ yếu, tiềm năng, triển vọng... của nó."
2. Thông tư của Ban bí thư cũng nêu rằng "Đại hội cần quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới - Đổi mới tư duy, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ, giải phóng năng lực sáng tạo của giới văn học nghệ thuật". Theo đồng chí để thực hiện được sự "giải phóng" đó cần tháo gỡ ở khâu nào?"
"Văn nghệ phỏng vấn" vừa đưa ra lập tức được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà văn, nhà hoạt động văn hóa, làm cho phong trào văn học càng thêm sôi nổi, và báo Văn Nghệ trở thành một diễn đàn có sự hấp dẫn mới. Có những bài vừa sâu sắc vừa thú vị, đem đến cho người đọc những cảm thụ mới về nhiều lĩnh vực đáng được mọi người quan tâm:
Với "Câu chuyện cũ mới", nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nổ phát súng đầu tiên trong mục này:
"Vụ đổi tiền tháng 9-1985 quả là một tai họa ập đến với nhân dân ta.
Nhưng nói như một ngạn ngữ phương Tây bao giờ tai họa cũng có mặt hay của nó.
Lần đầu tiên, ở nước ta mọi người đều thấy, lãnh đạo tối cao cũng có thể phạm những sai lầm nghiêm trọng.
Trước đó, một số người đã suy nghĩ như vậy, nhưng cái mới là nay số đông bắt đầu nghĩ như vậy. Và dĩ nhiên, tiếp theo là, từ rày, ta không thể khoán trắng cho lãnh đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi người. Quốc gia hữu sự ai cũng có trách nhiệm không những gánh vác bằng chân tay, mà bằng cả trí óc nữa.
Anh viết tiếp:
Chưa bao giờ, người cầm bút (và máy ảnh hay quay phim) thấy rõ vinh quang và trách nhiệm của mình như hiện nay. Phản ánh, đúc kết dư luận, nói lên những đòi hỏi và nguyện vọng của nhân dân nổi lên thành nhiệm vụ hàng đầu của các mê-đi-a, chứ không chỉ dành để phổ biên những chỉ thị của trên. Ngày nay, thông tin hằng ngày là món ăn tinh thần của toàn dân, quan trọng không kém so với cơm gạo. Đứng vào những hàng người kéo dài đợi mua báo hay tụ tập chung quanh loa truyền thanh khi cả nước hay đia phương có một tin gì quan trọng mới thấy rõ sự khát khao của quần chúng. Các mê-đi-a của chúng ta đang trên đà dân chủ hóa, đó là một trong những chìa khóa mở ra con đường tiến lên của dân tộc.
Quá trình dân chủ hóa thể hiện qua mấy khâu:
- Đầu tiên là nhận thức của số đông là mỗi người có quyền làm công dân, có quyền suy nghĩ, nói lên ý của mình, không ai được xâm phạm những quyền cơ bản mà hiến pháp và pháp luật đã quy định.
- Báo chí trở thành công cụ sắc bén của dư luận.
- Các cơ quan dân cử như Quốc Hội, các đoàn thể làm tròn nhiệm vụ là thay mặt cho dân, chứ không làm "cây cảnh " nữa.
- Những cơ quan tư pháp giữ tính độc lập xử theo pháp luật, không chấp nhận một sức ép nào bất kỳ từ đâu. Bốn khâu này cần hoạt động đồng bộ, khâu này hỗ trợ khâu kia. Và dân chủ ở thành phố phải hỗ trợ cho dân chủ ở nông thôn và ngược lại. Quên mất nông thôn, để một nông thôn rộng lớn (80 phần trăm dân số) phi dân chủ bao vây các thành phố thì chóng chầy những mầm mống dân chủ chớm nở ở thành phố cũng bị bóp nghẹt. Chúng ta còn phải lâu dài "tập sự dân chủ tập làm quen với chế độ dân chủ, dưới làm quen với việc tranh cãi với trên, trên tập nghe ý kiến của dưới mà không nghĩ rằng đó là "phạm thượng", là "chống Đảng.
Thật là một trùng hợp ngẫu nhiên khi đúng vào dịp này, anh Nguyễn Văn Linh lại có bài "Những việc cần làm ngay" đăng trên báo nhân dân ngày 10 tháng 7 năm 1987. Nội dung của bài tưởng như chỉ nói về chính trị, về kinh tế và tiêu cực nói chung nhưng xét về ý nghĩa thúc đẩy phong trào đổi mới toàn dân, tôi thấy bài này cũng hoàn toàn thích hợp với mục "ý kiến chúng tôi" của Văn Nghệ- phỏng vấn do anh Nguyên Ngọc đã cho đăng lại bài này trên báo Văn Nghệ :

Những Việc Cần Làm Ngay
Sau vài bài đầu cũng "Những việc cần làm ngay " có đồng chí khuyên tôi nên thôi, vì lo: Những bài tôi viết sẽ không được hưởng ứng, lúc đó mới thôi viết, thế là đánh trống bỏ dùi, đã vô ích lại mất tín nhiệm.
Sợ tôi làm sao biết hết, biết thật đúng mọi việc, sẽ có sự đôi co phản tác dụng. Hoặc viết ít bài rồi hết đề tài, sẽ cùng là một thứ đánh trống bỏ dùi. Mới nói những việc nhỏ, ắt có sự không bằng lòng, cho rằng chỉ nhằm từ vai xuống, còn đầu thì chưa, hay không dám.
- Cũng có người có trách nhiệm đã chỉ trích biết bao nhiêu việc cần làm, sao lại phải hăng hái chống tiêu cực?
Vài trărn tấn tỏi mấy vị mang hộ chiếu ngoại giao đi buôn... có gì là ghê gớm. Phê và tự phê công khai chỉ làm rối lòng dân, làm cản trở công việc của lãnh đạo... (có lẽ cũng nên xem xét kỹ động cơ và thái độ của cách đặt vấn đề theo kiểu này.
Đành trái lời khuyên, tôi vẫn viết tiếp vì thấy cần quá. May thay: chỉ vài ngày sau, dư luận rộng rãi khắp cả nước hưởng ứng bằng nhiều cách đúng đắn, đáng mừng, đáng khâm phục:
- Nhiều Bộ trưởng, thủ trưởng các đơn vị cho điều tra ngay các vụ việc nói về ngành mình, xử lý nghiêm túc và cho đăng công khai trên báo, với tinh thần trách nhiệm và tôn trọng công luận cao.
- Nhiều địa phương từ Bắc chí Nam, cả cấp ủy cũng bàn, khuyến khích quần chúng góp phần với báo, đài, cho đi kiểm tra kịp thời và đã phanh phui ra ánh sáng nhiều vụ tiêu cực quá to, quá đau lòng, đụng đến cả một hệ thống cán bộ, cơ quan, có khi có cả ô dù lớn che chở. Cấp ủy, ủy ban và các đoàn thể đã xử lý nghiêm cả về mặt Đảng và đem truy tố trước pháp luật.
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống tiêu cực. Mong rằng chúng ta sẽ làm theo đúng tinh thần của nghị quyết, và cũng là tinh thần câu châm ngôn cổ truyền của dân tộc: "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao".
N.V.L sẽ vẫn tiếp tục viết, và mong muốn cán bộ từ Trung ương xuống đến cơ sở, mong đồng bào trong và ngoài Đảng tới đây sẽ tham gia ngày càng đông đảo cùng viết cùng phanh phui những việc mà N. V.L tôi không tài nào biết hết và biết chi tiết được. Việc thôi không đủ, các cấp lãnh đạo phải xử lý nghiêm minh và công bằng mới được. Ai xấu quá thì phải trừng trị. Ai có lỡ lầm nhỏ nhưng thực lòng cải hối thì giáo dục lại thành người tốt. Khuyên nhau làm việc tốt, tôn trọng kỷ luật, pháp luật.
Những việc này phải chung tay mà làm một cách kiên trì mới thành công được. Phải vừa nghiêm khắc, vừa độ lượng. Dạy bảo, phê bình nhau với động cơ trong sáng, tâm lòng chân thành và ý thức trách nhiệm cao.
Báo chí từ Trung ương đến địa phương, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình tiếp tục là diễn đàn chung của Đảng và của nhân dân, là công cụ để thực hiện chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", là phương tiện thông tin tới mọi người dân thường, chẳng những thành thị mà phải đưa sâu vào nông thôn, những nơi xa xôi hẻo lánh, trong đồng bào Kinh cũng như đồng bào các dân tộc. ánh sáng trong lành phải được lan rộng, đẩy lùi và xua tan bóng tối.
N.V.L
(Báo Nhân Dân ngày 10 tháng 1 năm 1987)
Dưới bài "Những việc cần làm ngay" là bài "Về cái tiêu cực và cái tích cực" của Nguyên Ngọc, giống như một "hợp đồng tác chiến" tuyệt đẹp:

Cái Tiêu Cực Và Cái Tích Cực
Những ngày gần đây chúng tôi đang chứng kiến sự hình thành, hoặc đúng hơn sự khẳng định một quyền lực mới trong xã hội, quyền lực của báo chí. Có lẽ, ít nhất là kể từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, chưa bao giờ như bây giờ, báo chí lại có vai trò năng động đến thế, lại tham gia trực tiếp, mạnh mẽ và có hiệu lực đến thế vào các quá trình xã hội sôi động và phức tạp.
Tất nhiên điều đó phản ánh một hiện tượng khác sâu sắc và to lớn hơn, to lớn hơn chính bản thân "hiện tượng báo chí" nhiều: nó phản ánh quá trình dân chủ hóa đang diễn ra đầy khó khăn, trăn trở nhưng quyết liệt và không gì ngăn nổi trong đời sống của đất nước. Quyền lực của báo chí những ngày này, đó chính là quyền lực của nhân dân. Đó chính là một cách - và quả là một cách khá hiệu lực - nhân dân dùng cái quyền của mình đòi hỏi và tham gia trực tiếp vào công việc lập lại trật tự, lập lại công bằng xã hội.
Đã bao nhiêu lần chúng ta nói về cái khái niệm đẹp đẽ "nhân dân làm chủ. Nhưng làm chủ bằng cách nào vậy? Cái số đông và vì là số đông nên lại trừu tượng ấy có thể thực sự làm chủ bằng cách nào? Thì ra nhân dân có thể làm chủ bằng công luận. Đó là sự thức tỉnh mạnh mẽ của nhân dân, của xã hội ta.
Vậy nên, không có gì phải lo sợ về "tỷ lệ thích đáng" giữa biểu dương cái tích cực và phê phán cái tiêu cực trên báo chí. Bản thân việc nhân dân biết nắm lấy cái quyền lực công luận của mình, và sử dụng nó ngày càng có hiệu quả để làm trong sạch cuộc sống, là một điều tốt đẹp biết bao, tích cực biết bao.
7-1987
Nguyên Ngọc

Bản thân tôi, với cương vị "Trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương", chịu trách nhiệm trước Ban bí thư về kết quả của Đại hội các Hội, đặc biệt là Đại hội Nhà Văn, tôi phải dành nhiều tâm sức cho quá trình chuẩn bị đại hội. Ngay sau khi có chỉ thị của Ban bí thư, tôi đã phát biểu một số gợi ý có tính chất chỉ đạo những nội dung chủ yếu của các Đại hội bằng bài báo đăng trên trang nhất số báo Văn Nghệ số 1236 ngày 11-7-1987 với nhan đề "Đổi mới Văn nghệ và Văn nghệ đổi mới".
Khi nêu vấn đề này, trước hết có câu hỏi cần trả lời.
Đó là: trong khi cần đổi mới toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực vậy văn nghệ có cần phải đổi mới không? Và văn nghệ đổi mới thế nào? Chắc chắn, không có ai nói rằng văn nghệ không cần đổi mới. Có điều văn nghệ cần đổi mới, thì văn nghệ trước đây có những gì yếu kém và sai trái, có những gì lạc hậu và lỗi thời. Chỉ có vạch rõ những điều đó, ta mới có thực sự đổi mới. Muốn tìm được những điều đó ta phải tìm từ ở nhiều khâu:
- Trước hết là ở khâu bản thân văn nghệ sĩ, những chủ thể sáng tạo là lực lượng sáng tác.
Tiếp theo là phải xem xét những tác phẩm đã có, đánh giá chung được tình trạng hay là trình độ chất lượng các tác phẩm. Phải xem xét từ trình độ nội dung tư tưởng, đến trình độ nghệ thuật, phải có quan niệm chính xác về chất lượng nghệ thuật, để có căn cứ và tiêu chuẩn đánh giá.
- Lại cần phải xem tình trạng phân phối và phổ biên các tác phẩm trên các mặt xuất bản, biểu diễn, triển lãm, tiêu thụ các giá trị nghệ thuật từ quan điểm, quan niệm cho đến các cơ chế tổ chức và kinh tế tài chính.
- Sau nữa phải xem xét đến sự chuyển biến của công chúng, những thị hiếu lạc hậu, tầm thường, những nhu cầu mới, tâm lý mới, thị hiếu mới. Phải có sự đối chiếu mọi hoạt động sáng tác và phân phối nghệ thuật với những nhu cầu chính đáng và thị hiếu phát triển của công chúng, phân tích được chỗ phù hợp và chưa phù hợp. Có như thế mới thấy chỗ cần đổi mới.
Ngoài việc đi dự và phát triển tại các đại hội, tôi còn được mời đến dự các đại hội các hội Văn học nghệ thuật địa phương.
Ngày 13 tháng 9 năm 1987, tôi vào thành phố Vinh dự đại hội lần thứ IV ngành văn học nghệ thuật tỉnh Nghệ Tĩnh. Tại đây tôi phát biểu một bài dài nhưng chủ yếu xoay quanh những nội dung mà chỉ thị của Ban bí thư đã nêu ra:
Trước đây, khi làm công tác quân sự, rồi chính trị trong quân đội, do nhiệm vụ, tôi thường hay đi nói chuyện. Được đi nhiều nơi, gặp gỡ chuyện trò với nhiều tầng lớp, thật thú vị. Và gần đây, khi từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên đều sôi nổi bàn luận về việc đổi mới tư duy, tôi lại càng thấy những cuộc gặp gỡ nói chuyện, nói rồi nghe, nghe, nói, làm rồi lại nói... thấy vỡ ra nhiều điều, tôi càng thấy phấn khởi và thú thật là càng... thích nói chuyện?
Bài nói chuyện có mấy ý như sau:
Có thật là văn nghệ cũng cần phải đổi mới không nhỉ? Đặt câu hỏi này ra trong tình hình đang tiến triển của sự đổi mới toàn diện trên cả mọi lĩnh vực xem ra có vẻ "hợp thời" đấy! Nhưng nên nhớ sự hợp thời ở đây hoàn toàn không phải là cái "một", là sự "chả nhẽ" hình thức nào, mà là sự đổi mới dứt khoát phải có, vô cùng cần thiết và không thể khác! Có người còn muốn rõ ràng hơn, cụ thể hơn liền dùng cặp từ "giải phóng" để nói về sự đổi mới, như "giải phóng tiềm năng sáng tạo "... chẳng hạn. "Giải phóng " thế thì trước đây ta bị tù hay sao mà nay đòi giải phóng? Cô nhiên chẳng ai hiểu theo nghĩa như thế, nhưng quả thực trước đây trong văn nghệ chúng ta đã có những yếu kém và sai trái, có những cái lạc hậu và lỗi thời, đã hạn chế tiềm năng sáng tạo mà nay phải đổi mới tháo gỡ để mở ra một thời kỳ phát triển mới, một chặng đường cách mạng mới cho sự hoàn thiện.
Không nên kiêu ngạo và huyễn hoặc mình, nhưng người nghệ sĩ chân chính cần ý thức được vị trí cao quý của mình trong nền văn hóa của dân tộc và trong tình cảm của nhân dân. Có lần tôi làm trưởng đoàn một đoàn trong đó có các văn nghệ sĩ xuống thăm một địa phương.
Khi giới thiệu đoàn với những chức danh lãnh đạo và hành chính thì công chúng phản ứng bình thường. Nhưng khi giới thiệu các văn nghệ sĩ với những tác phẩm tiêu biểu và quen biết của họ, thì công chúng xôn xao hẳn lên. Họ ùa lại với văn nghệ sĩ, xem mặt, xin chữ ký, đòi chụp ảnh chung, đòi hẹn gặp lại v.v... Như vậy nhân dân thực sự mến yêu các văn nghệ sĩ và mến yêu tác phẩm của họ với một tình cảm xứng đáng, một tình cảm thật sự vô tư mà sâu sắc. Có địa phương, nhân dân còn đòi dựng tượng các ông nhạc sĩ đã có bài hát tuyệt hay về quê hương... Thế đấy!
Trong mục "ý kiến chúng tôi" của Văn Nghệ phỏng vấn có hai bài tôi rất thích và được đông đảo bạn đọc chú ý đó là bài của anh Trần Bạch Đằng và anh Nguyễn Khải.
Có nhất trí hoan nghênh tất cả hay không tôi không biết, có thể nói nội dung hai bài này đã phản ánh được không khí và tâm tư tình cảm của giới văn học trong quá trình chuẩn bị cho đại hội...
Bài viết của anh Trần Bạch Đằng viết từ tháng 10 năm 1987, mãi đến tháng 4 năm 1988 mới được đăng trên báo Văn Nghệ số 1278 dưới tiêu đề "Phiếm luận về Văn học nghệ thuật có những suy nghĩ thật mới và thật mạnh mẽ:
Cuộc sống thì nhiều mặt, sôi động. Qua rồi thời kỳ "tô hồng, bôi đen" thô sơ và lộ liễu. Bây giờ, trách nhiệm của nhà văn định giá trị của nhà văn. Tất nhiên, còn tài năng, song nói như thế nào đây về hai chữ "tài năng" gọn gãy lại cực kỳ rối rắm. Ta đành bằng lòng đồng hóa "tài năng" với khả năng" vậy. Và ta hãy cổ vũ mọi người sáng tác, thậm chí chưa nói vội chữ sáng tác kênh kiệu, mà viết và vẽ mà làm nhạc, mà dàn dựng phim, tuồng, kịch... Trên một cái nền xum xuê, của nào đứng được qua sàng lọc cửa người thưởng thức và thời gian, của ấy là sản phẩm quý và người đẻ ra sản phẩm quý nhất định có tài. Đôi khi dùng một lăng kính nào đó, sự phán xét vội vàng về tài năng bóp chết tài năng đích thực.
.........
Trong mọi nỗi buồn, nỗi buồn day dứt chúng ta hơn cả là cảnh thiếu trung thực của người sáng tác lẫn người phê bình. Né tránh cái đúng, cái cần ủng hộ, né tránh cái sai, cái cần phê phán... chúng ta có thể thông cảm được bởi những kiềm tỏa rất phi lý. Nhưng, chuyển cái sai thành cái đúng, chuyển cái đúng thành cái sai thì là điều không sao biện bạch nổi. Tiếc thay vừa qua không phải không có những chuyện trái khoáy. Nền văn học nghệ thuật của ta thấp xuống vì ba thứ lộn xộn lẽ ra tránh được áy.
Anh Thái Duy thuật cho tôi nghe một câu chuyện vui. Lúc anh làm báo Cứu Quốc, có viết một bài tố cáo một cán bộ cấp huyện bê bối về tiền bạc hay về một cái gì đó không sạch sẽ lắm: Anh vào Nam chiến đấu một số năm, trở ra làm báo cũ, đến tỉnh kia xin gặp cán bộ có trách nhiệm thì người tiếp anh là... ông cán bộ cấp huyện độ nọ, bây giờ lên chức to hơn; anh lặng lẽ rút lui, hú ba hồn chín vía!
Nếu không có tư trào đổi mới -kể cả một số người chỉ bán rao đổi mới- thì Bên kia bờ ảo vọng khó sinh đẻ, Lời khai của bị can sẽ là lời... phản tỉnh (có thể giả bộ của người viết).
..........
Lý luận cơ bản thì không có gì phải tranh luận, nhưng lý luận vào thời kỳ trở mình hiện nay quả đáng được lật mặt nọ mặt kia; lý luận văn học càng cần đặt ra để tiến tới sự xác lập thống nhất..
Nếu chấm dứt những kết luận có vẻ khẳng định mà kỳ thực chưa đủ sức thuyết phục. Tôi nêu ví dụ: các bài Thiên Thai, Suối Mơ, Đàn Chim Việt... của Văn Cao bị cho nhãn "nhạc vàng", trong khi Đời Cô Lựu của Trần Hữu Trang, Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính... tuy chẳng thể nào "đỏ " được, vẫn được ca ngợi. Đâu là chỗ nhất quán? Và chúng ta trầm trồ Sô-panh khen đáo đểĐô-stôi-ép-xki, cả Héc-to Ma-loi, cả Con-nan Doy-le thì lại e dè Buồn tàn thu, Làm đĩ, Cha con nghĩa nặng, Mai Hương và Lê Phong... Ngay văn học cổ cũng vậy, chúng ta cho in bài điếu chiến sĩ trận vong của Nguyễn Văn Thành nhưng cấm bài văn tế Võ Tánh và Ngô Tòng Châu của Đặng Đức Siêu (hay Vũ Lượng?). Thiếu nhất quán là một cách đánh giá, tùy tiện là một cách đánh giá khác.
Những lời cuối cùng của Trần Bạch Đằng trong bài viết có sức vang lớn:
"Chúng ta báo động về xuất bản... về truyện vụ án.v.v.. Nhưng cái đáng báo động hàng đầu là một chính quyền do Đảng vô sản phụ trách đất nước hoàn toàn giải phóng 13 năm rồi lại chưa có chính sách về quyền lợi của nhà văn, nghệ sĩ - những người lao động vất vả - Tôi xin kết thúc bằng lời kêu cứu của giới văn nghệ".
Nguyễn Khải, trong bài "Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn" giống như một lời tâm sự đối với các đồng nghiệp của mình trước ngưỡng cửa bước vào Đại hội 4 nhà văn có những đoạn như sau:
Chúng ta thử xem xét trong đại hội lần này những vấn đề gì sẽ được giới ta quan tâm nhiều. Vẫn là những chuyện về nghề nghiệp, tôi nghĩ thế. Cái nghề văn là nghề của tâm hồn. Cái nuôi sống tâm hồn phải là tự do chứ không thể là cái khác. Tự do sáng tác là khắc khoải của người cầm bút, cả trẻ, cả già. Vì có nhiều chuyện lắm. Nặn tượng, vẽ tranh, viết nhạc không lời không đụng chạm trực tiếp với các nhiệm vụ chính trị như một cuốn tiểu thuyết, như một vở kịch, như một bộ phim, vì phim có kịch bản phim, có lời bình, có đối thoại, vẫn là chữ nghĩa. Ca khúc cũng thế. Viết truyện lịch sử, viết truyện viễn tưởng cũng vẫn cứ đụng chạm. Đụng chạm từng câu, từng chữ. Nên hội nhà văn thường được các cơ quan tham mưu của Đảng về tư tưởng, về văn hóa văn nghệ chú ý nhiều hơn, chăm sóc nhiều hơn. Mà là nên, là phải. Vì đã có biết bao nhiêu vụ việc đáng tiếc từ hội nhà văn mà ra. Anh em nhà văn đều là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ là những chiến sĩ đứng ở hàng đầu chứ chưa bao giờ đứng ở hàng chót, sự nghiệp một đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng bằng tác phẩm của mình, chả lẽ lại luôn luôn không đồng tình với Đảng?
Từ sau khi có Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, anh em ta cũng hay bàn luận về những tác phẩm của mình và của bạn bè, theo tinh thần dám nhìn thắng vào sự thật, dầu nó nhức nhối đến thế nào. Cái sự tự nhìn ngắm mình, nhìn ngắm những đứa con tinh thần của mình vẫn là việc thường làm đối với mỗi nhà văn chứ chẳng phải đợi đến bây giờ. Có thể nói gọn một câu: Là buồn nhiều hơn vui, khắc khoải nhiều hơn là mãn nguyện. Thời gian còn được ôm ấp nó, nghĩ ngợi về nó và khoe khoang với bạn bè là lúc vui nhất, chứa chan bao nhiêu là hy vọng, phen này tác phẩm được ra mắt đồng nghiệp và công chúng thì phải biết, phải biết... Cuối cùng sách đã ra cả tháng, cả năm cũng chả được mấy ai nhắc nhở, vì nó vân như cũ, như những cuốn trước, có khi còn tệ hơn. Chúng tôi chả đổ lỗi cho ai. Khi tác phẩm của mình không được như mong muốn, như lúc ấp ủ, như lúc hy vọng. Mình kém tài thì mình đành chịu hận chứ còn biết trách ai, có ai lại ngốc nghếch đi trách người khác cái công việc tự nguyện của mình. Vì có ai buộc mình phải viết đâu, lại phải viết đúng như thế đâu. Có điều do cái tài của mình kém nên cũng muôn dựa dẫm vào sự nghiệp to lớn của Đảng làm sự nghiệp riêng của mình. Sự nghiệp chung vinh quang thì sự nghiệp riêng cũng có phần vinh dự. Như những tác phẩm đã viết về cuộc chiến tranh giải phóng ba chục năm chẳng hạn. Cho đến nay, nói gì thì nói, những tác phẩm văn học viết về chiến tranh vẫn là thành công hơn cả.
................
Nói cho cùng kỳ lý, không một ai có thể chú ý loại bỏ hoặc công nhận một tác phẩm văn học hoặc một tác giả. Nói gì tới một giai đoạn văn học, một nền văn học. Cái số phận của Vũ Trọng Phụng là một ví dụ rất tiêu biểu. Rồi ông Tản Đà. Rồi ông Hàn Mặc Tử. Và vân vân. Vì các tác phẩm của họ vẫn âm thầm lắng đọng tâm hồn nhiều thế hệ bạn đọc. Người xưa chúng ta còn biết tôn trọng huống hồ người của bây giờ, là thầy mình, là đàn anh mình, là bạn bè mình là chính mình nữa, làm sao mà sổ toẹt. Nhưng chúng ta phải lựa chọn lại, phải đánh giá lại cho thật đúng. Nếu mình đánh giá không đúng thì con cháu mình sẽ cười rồi họ cũng phải đánh giá lại theo cách của họ, dĩ nhiên. Vả lại chúng ta đã trưởng thành, chẳng lẽ không biết nhìn lại một thời cho chính xác, cái hay và cái dở, cái mạnh và cái yếu của một nền văn học thì mới tìm được ra một phương hướng xây dựng không đến nỗi viển vông cho những năm tới.
...........
Cuối cùng Nguyễn Khải tiên đoán:
Đại hội nhà văn họp lần này sẽ là một đại hội rất vui, rất đẹp. Vì Đảng đã cởi bỏ cho chúng ta rất nhiều vướng mắc, tin cẩn giao trách nhiệm qua Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác văn hóa văn nghệ không có sự chuẩn bị nhẫn nại, tích cực, thông cảm của nhiều nhà lý luận và phê bình văn học, của các cơ quan tham mưu của Đảng về tư tưởng, về văn hóa văn nghệ thì không thể có Nghị quyết lịch sử lần ấy. Mọi thiên kiến đều sai lầm là thế. Những người, những cơ quan mình vốn sợ, vốn ngại phải tiếp xúc rút lại đã cứu cả giới mình ra khỏi bao nhiêu là phiền muộn, đã "cởi trói " cho mình như hiện nay ta thường nói. Còn đòi hỏi gì hơn? Riêng tôi, là một người viết, tôi không muốn đòi hỏi gì thêm nữa. Hôm qua khó là thế mà còn viết được huống hồ bây giờ. Bây giờ nếu có lo là lo không đủ tài để thả sức tung hoành, không đủ tiền để nuôi mình và nuôi vợ con trong một thời gian dài ngồi viết, lại lo không đủ giấy để in sách của mình, của bạn bè cho văn đàn được bừng khởi. Cũng vẫn là lo, nhưng là "cái lo trong vui mừng" trong bàn bạc, trong hy vọng. Chỉ riêng một cái lo thôi cũng đã khác với hôm qua nhiều lắm.
***
Qua mục "Văn Nghệ phỏng vấn" có thể nói Đại hội Nhà văn lần thứ 4 đã họp trước khi Đại hội khai mạc. Đó chỉ là mới nói đến những ý kiến trên báo Văn Nghệ Trung ương. Còn biết bao nhiêu ý kiến ở các Hội địa phương ở các báo Văn nghệ địa phương.
Thật là sôi nổi và hào hứng. Tôi vừa nhận nhiệm vụ Trưởng ban văn hóa Văn nghệ mới hơn một năm nay, nhìn thấy phong trào phát triển như thế này mà thấy phấn khởi vô cùng
Rõ ràng nghị quyết Đại hội Đảng lần VI không chỉ mở đường cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội mà cả trong lĩnh vực Văn hóa Văn nghệ, Đại hội VI cũng là chiếc đòn bẩy thần kỳ.
Lại thêm một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đúng thời gian chuẩn bị tiến tới Đại hội Nhà văn lần thứ tư, nhà văn Nguyễn Tuân qua đời. Thông thường cái chết là một sự buồn đau, một sự mất mát. Nhưng cái chết của Nguyễn Tuân bên cạnh sự buồn đau, sự mất mát còn là sự đóng góp quan trọng làm cho nghề văn, nhà văn, hội nhà văn, nền văn học nước nhà càng thêm cao quý. Đây là một trong những cái chết hiếm hoi làm nảy sinh cuộc sống, làm đẹp thêm cuộc sống. Thông thường chỉ có cái chết của các lãnh tụ, các bậc vĩ nhân mới có thể làm nên điều đó Nhưng ở đây, Nguyễn Tuân, một hội viên của Hội nhà văn Việt Nam, người đã từng viết những bài "Phở", bây giờ sống giản dị trong một căn nhà đơn sơ, thường đi xe đạp, hoặc đi bộ với chiếc batoong ngất ngưởng trên đường phố, đã làm nên điều kỳ diệu đó.
Cái chết của Nguyễn Tuân thực sự đã trở thành một sự kiện văn học, một sự kiện xã hội, và cũng là một sự kiện chính trị của Hà Nội, của cả nước lúc bấy giờ. Đồng chí Lê Quang Đạo, ủy viên Trung ương Đảng Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch danh dự ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, cùng nhiều đồng chí lãnh đạo của các cơ quan đoàn thể ở Trung ương và Hà Nội đã đến viếng nhà văn quá cố. Tới dự lễ tang còn có đại diện Đại sứ quán Liên xô và một số đại sứ quán, cơ quan Thông Tấn báo chí nước ngoài.
Bà Bác-ha-ra Crô-xát, phóng viên thời báo Niu-looc từ nước Mỹ sang công tác ở Việt Nam cũng đến viếng. Có tất cả 172 đoàn đại biểu từ Trung ương đến các địa phương đến viếng và dự lễ tang nhà văn. Nhiều tờ báo ở Trung ương và các địa phương đã viết bài tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Tuân. Trong số các bài đó, tôi thích nhất hai bài, một của Kim Lân, một của Nguyễn Minh Châu. Bài của Kim Lân với tiêu đề "Anh là người sung sướng nhất".Viết:
Một lần anh em xuất bản cử tôi đến gặp anh Nguyễn Tuân đề nghị anh sửa cho mấy chữ trong một bài ngắn, anh vừa mới viết. Tôi đến gặp anh nói cứ lo ngay ngáy. Không biết chuyện gì có thể xảy ra đây. Thôi thì cứ phải liều cứ thực bụng mình nghĩ thế nào cứ nói thế ấy. Tôi nói với anh: "Bài của anh gửi cho là hay lắm rồi. Chỉ có mấy chữ, thật tình tôi thấy nó cũng chẳng làm sao... Thế nhưng nếu không sửa... Anh thì anh chẳng cần gì nhưng bọn tôi bọn tôi thì... "
Thế là anh Tuân vui lòng sửa ngay. Đã đến cái nước đàn em chịu xuống bò thế thì ông anh tôi không hẹp lượng.
Cắt được ít lâu không biết ngẫm nghĩ nghĩa thế nào ông anh tôi lại thấy tiếc, thấy đau... Trong một buổi họp, giữa cơ quan Hội nhà văn, anh chỉ vào mặt tôi mắng: ".... Thằng cha Kim Lân này có quyền chức nó cũng không phải vừa đâu, nó cắt của mình mấy chữ đểu quá! Đểu quá!
Anh đỏ bừng lên, hai mắt sáng loáng, anh chống hai tay vào hai gối, cúi gập người xuống, cái đầu rất to phơ phât mấy túm tóc bạc. Anh em có mặt trong cuộc họp cũng đều ngồi lặng chờ đợi.
Lúc sau anh Tuân mới ngửng lên, nét mặt đã hòa dịu trở lại anh mệt nhọc nói tiếp:
- Cũng là miếng cơm manh áo cả thôi... Tôi mà làm biên tập lúc này, tôi cũng phải làm như vậy.
Anh ngừng lại một lúc:
- Thì ra cái nét chung của chúng ta lúc này là cái nét sợ các ông ạ. Sợ đến cả những cái chẳng đáng sợ nữa...
Anh khẽ lắc lắc cái đầu:
- Sĩ khí nhà văn chúng mình... Buồn quá... - Anh đứng dậy, chống ba-toong lừ đừ ra khỏi phòng họp.
Tôi biết anh Tuân không chỉ nói tôi. Anh nói cái gì ngoài tôi, trên tôi kia. Cái gì đó rất vô lý và bí hiểm, từ lâu vẫn đè nặng trên tâm tư những người cầm bút...
Anh Nguyễn Tuân ơi! Anh vốn là người yêu hoa, quý hoa. Trong phòng viết của anh quanh năm không lúc nào vắng hoa. Hôm nay hoa Hà Nội tề tựu cả ở đây, cùng chúng tôi, các bạn bè thân thiết của anh, các bạn đọc xa gần từ lâu vẫn ái mộ anh, tất cả hoa, và chúng tôi cùng đưa tiễn anh về nơi yên nghỉ cuối cùng. Thế thì anh Tuân ạ, trước sau anh vẫn đúng là người sung sướng nhất đời đấy.
Bài của Nguyễn Minh Châu với tiêu đề: "Người cầm bút ấy..."
Người cầm bút ấy như trời sinh ra giữa hạ giới để minh chứng cho một lời phán truyền: "ép dầu ép mỡ" chứ không bao giờ ép được văn chương, văn chương nói thật ra là một cái gì rất riêng của từng cá thể nghệ sĩ, cá biệt đến độ dị biệt, văn chương là một cái gì có thể vô cùng vô hạn độc đáo con người ấy vừa rời bỏ cái cuộc đời trần thế vừa đầy thú vui, vừa đầy tục lụy và thô thiển mà ra đi, nhà văn lão thành mà đường tài hoa văn chương có một không hai ấy vừa vĩnh biệt làng văn chúng ta -những con người hậu thế, đàn em đồng nghiệp của ông- một đám người đông đúc tuy không bao giờ nói ra, nhưng tôi dám đoán chắc có lẽ ông vừa yêu mến, vun đắp vừa cười cợt sau hàng ria.
Đời người được cưng chiều. Thời nào ông cũng được người đời hết mực nâng niu chiều chuộng, vì lòng mến mộ một tài năng đích thực và đồng thời vì một khát vọng cháy bỏng của mọi con người: được sống giữa cõi đời này với tất cả các bản ngã đích thực của mình. Nhà thơ Chế Lan Viên một lần nói với tôi: văn chương ta mà tất cả đều là Nguyễn Tuân thì mệt quá, nhưng thiếu đi một Nguyễn Tuân thì thiệt to quá hỏng lớn quá, thiếu đi nhiều quá!
Nhớ ngày nào thuộc một thuở nào, ông còn khăn đóng áo dài ngất ngưởng ngồi uống rượu ở nhà nhà thơ Tản Đà dưới Cầu Mới -và nhà thơ Tản Đà chống một thanh kiếm đứng sừng sững lẫm hết giữa phản, giảng giải cho Nguyễn Tuân nghe cái lý ở đời: người có văn mà thiếu võ thường ươn hèn, kẻ có võ mà thiếu văn tất trở thành kẽ võ biền. Rồi Tản Đà xuống tấn, trịnh trọng nâng lưỡi kiêm lên ngang mày, rồi bất ngờ vung lưỡi kiếm sắc, múa kiêm vù vù cho Nguyễn Tuân xem (rất tiếc là không hiểu sao Nguyễn Tuân không đưa vào trong văn chương của mình những đường kiếm tuyệt diệu của Tản Đà?)
Vô cùng xúc động là những lời ghi của bạn bè, đồng nghiệp, của nhiều tầng lớp độc giả trong sổ tang của Nhà văn. Những dòng chữ ghi vội vàng xuất phát từ tấm lòng, rất mộc mạc, nhưng thật sâu sắc đang thực sự là tiếng nói từ trái tim chân thành của con người đối với Nguyễn Tuân nói riêng và Văn học nói chung.
Thực sự cái chết của Nguyễn Tuân đã làm cho vai trò, vị trí của nhà văn, của nền văn học được nâng lên một tầm cao mới... Tôi biết có nhiều nhà văn đau buồn tiễn đưa Nguyễn Tuân đến nơi an nghỉ cuối cùng, đồng thời cũng cảm ơn Nhà văn đã đem đến cho mình niềm vinh quang, niềm tự hào của nghề văn, của nhà văn.
Có thể nói sự ra đi của Nguyễn Tuân trong dịp này đã góp phần làm cho con đường đi của Nghị quyết 05, con đường đi đến Đại hội nhà văn lần thứ 4 thêm đẹp, thêm sinh động.

Đại hội Nhà văn lần thứ 4 lẽ ra được tập hợp vào quý 3 năm 1988 nhưng do có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình chuẩn bị nên cứ lần lữa mãi cho đến hết sáu tháng đầu năm 1989 vẫn chưa được quyết định. Lúc này, do sát nhập hai ban Văn hóa Văn nghệ và Ban Tuyên huấn thành ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương do Trần Trọng Tân, Trưởng ban tuyên huấn cũ, làm Trưởng ban nên mặc nhiên tôi không còn trách nhiệm gì với đại hội nữa, ngoài trách nhiệm phải làm một "bản kiểm điểm" của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương (cũ) để trình bày trước Hội nghị Đảng viên các nhà văn.
Tôi đã chuẩn bị khá công phu "bản kiểm điểm" này, chuẩn bị một cách hào hứng và có phần vui thích vì tôi nghĩ là dịp tốt nhất để nói rõ quan điểm của mình, nói công khai những vấn đề tranh cãi suốt hai năm qua, sau khi có Nghị quyết 05 mà vẫn chưa ngã ngũ. Chưa ngã ngũ là trên phương diện lý luận thôi, trong đấu tranh tư tưởng thôi, còn trên thực tế thì người ta đã dùng quyền lực để giành phần thắng về mình. Mọi người chờ đợi Đại hội Nhà văn như những đứa con mong mẹ về chợ. Thông tri của Ban Bí thư về đại hội có từ tháng 6/1987. Ban chấp hành Hội nhà văn đã chính thức thông báo sẽ tiến hành đại hội vào quý 3 năm 1988. Các Hội bạn đã họp xong từ lâu. Chỉ riêng Hội nhà văn cho đến hết quý I năm 1989 vẫn chưa biết là sẽ họp vào lúc nào.
Trong lúc đó, tôi đã làm xong bản kiểm điểm. Theo tinh thần của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương thì đây là bản kiểm điểm của ban văn hóa văn nghệ (khóa 6) nhưng thực chất là bản kiểm điểm Trần Độ, và Ban Văn hóa Vãn nghệ làm gì còn nữa. Do đó, nói rằng là kiểm điểm Ban Văn hóa văn nghệ nhưng thực chất là muốn kiểm điểm Trần Độ. Bản báo cáo này sẽ mang hai chủ thể, hai đại từ nhân xưng, một là tôi: Trần Độ, hai là Ban văn hóa văn nghệ Trung ương (khóa 6). Nhưng chủ yếu là Trần Độ. Tôi muốn như thế. Tôi muốn tính cả những gì mà người ta quy tội cho Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương (khóa 6) thì chính tôi, Trần Độ, Trưởng ban sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn. Tôi muốn như thế, bởi vì tôi là người không muốn chối bỏ trách nhiệm. Ban Văn hóa Văn nghệ (khóa 6) là một tập thể gắn bó, làm việc hăng say, có hiệu quả. ưu điểm thành công là thuộc về tập thể Ban, còn thiếu sót tôi xin một mình gánh chịu. Mặt khác tôi muốn một mình đứng ra trước "vành móng ngựa" theo ý đồ của một số người, bởi vì tôi không sợ ai cả. Tôi muốn công khai bảo vệ những quan điểm của mình. Và đây là dịp tốt nhất để tôi làm chuyện đó.
Trong thời gian này, có một sự việc đáng chú ý là Đảng thành lập cái gọi là "Hội đồng tư tưởng". Tổ chức này vẫn có từ trước, nhưng hoạt động không có những thể chế quy định. Khi tôi bị rời khỏi Ban Văn hóa văn nghệ, Bộ chính trị lại nhắc lại việc lập Hội đồng tư tưởng và khẳng định tôi vẫn là Trung ương ủy viên và thành viên chính thức của Hội đồng tư tưởng. ý kiến này là để an ủi tôi đôi chút là tôi không phải bị cách chức như đồn đại. Bộ Chính trị còn yêu cầu Hội đồng tư tưởng xây dựng quy chế hoạt động, để Bộ chính trị phê chuẩn và Hội đồng phải hoạt động theo quy chế đó.
Nguyên tắc tổ chức là Hội đồng tư tưởng do Trung ương lập ra gồm tất cả các đồng chí Trung ương ủy viên hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng. Trưởng ban tuyên huấn Tổng biên tập các Báo tạp chí Cộng sản, Nhân dân, Việt Nam Thông tấn xã, phụ trách các viện nghiên cứu, Ban khoa giáo, các hội văn học nghệ thuật, phụ trách trường Đảng... Có những cơ quan không có Trung ương ủy viên thì thỉnh thoảng có việc gì liên quan nhiều, Hội đồng sẽ mời đại biểu dự hội nghị. Nhưng điều này cũng hay tùy tiện, tùy theo ý thích của đồng chí chủ trì có khi mời nhiều có khi mời ít, và tư cách của các đồng chí Trung ương ủy viên bị lu mờ rất nhiều.
Thời gian này bắt đầu có những ý kiến ngang ngửa về một số hiện tượng văn nghệ và một số tác phẩm thì thấy Hội đồng tư tưởng họp luôn. Nhưng vì cung cách làm việc không có định chế, nếu đến cuộc họp, mạnh ai nấy phát biểu và khi kết thúc thì Chủ tịch tóm tắt một cách rất tùy tiện, ý kiến đó được ghi lại và đều được thông báo là ý kiến của Hội đồng tư tưởng. Hồi đó những vấn đề được đem ra xem xét cũng là những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, vấn đề được gọi là "Phủ nhận sạch trơn" nói tiêu cực nhiều, ít nói về tích cực v.v... Những chuyện này tôi đều phải có ý kiến và đã ghi đầy đủ trong cái gọi là "Bản kiểm điểm" sẽ nói đến sau này.
Lúc đó tôi cũng nóng ruột và rất mong muốn cho Hội đồng tư tưởng làm việc có hiệu quả. Tôi đã chủ động "dự thảo một bản quy chế làm việc" gửi cho anh Đào Duy Tùng và yêu cầu tổ chức thảo luận để đi tới những quyết định chính thức. Nhưng văn bản ấy của tôi cũng bị rơi vào im lặng một cách đáng sợ và sau đó Hội đồng tư tưởng cũng không có hoạt động gì và cũng không nhắc đến nó nữa. Nó có hay không, nó bắt đầu và kết thúc như thế nào cũng không ai biết.
Trong quá trình chuẩn bị bản kiểm điểm, tôi đã ngồi với Nguyễn Văn Hạnh nhiều buổi và Nguyễn Văn Hạnh rất tâm đắc với tôi. Và một điều vô cùng lý thú đã diễn ra: Nguyễn Văn Hạnh, Phó Ban Tư tưởng Ban hóa Trung ương, phụ trách mảng Văn hóa Văn nghệ, người lẽ ra là quan tòa để xử tôi, lại chính là người đang cùng tôi chuẩn bị những lý lẽ vững chắc cho bị cáo. Và thật không ngờ, thật là đẹp, sau này chính Nguyễn Văn Hạnh lại thay mặt bị cáo đọc bản luận tội ngược trở lại đối với các quan tòa, lúc bấy giờ đủ mặt 3 bí thư Trung ương Đảng, có mặt toàn Ban lãnh đạo Ban tư tưởng văn hóa Trung ương. Thật vô cùng thú vị. Cho đến bây giờ, tôi vẫn cảm thấy vô cùng thích thú.
Nhân chỗ này, tôi cũng nhớ lại một kỷ niệm đáng chú ý của cuộc đời tôi. Tôi đã bị thôi chức Trưởng ban Văn hóa văn nghệ của Đảng, nhưng duyên nợ của tôi với văn hóa chưa dứt, tôi vẫn là đại biểu Quốc hội và là chủ nhiệm ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội. Lúc ấy Đảng có một ý định là Bố trí các trưởng ban chuyên môn của Đảng là Chủ nhiệm các ủy ban chuyên môn của Quốc hội. Làm như thế để cho có sự dễ dàng kết hợp chức năng giám sát của Quốc Hội với chức năng giám sát của Đảng. Tôi cũng được coi là người có điều kiện thích hợp để làm việc đó. Vì vậy khi Quốc Hội bước vào khóa VIII có sự sắp xếp lại nhân sự, tôi vẫn được chỉ định ứng cử đại biểu Quốc Hội khóa VIII ở Thái Bình, quê tôi. Khi khóa VIII Quốc Hội bắt đầu hoạt động, trong một dịp tôi đến thăm anh Linh, anh Linh bảo tôi là Bộ Chính trị đã cân nhắc việc sắp xếp và một quyết định là yêu cầu tôi ứng cử chức vụ Chủ tịch Quốc Hội.
Tôi nghe tin này, hơi bỡ ngỡ, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ làm những chức vụ quan trọng như thế. Tôi không dám nghĩ tôi là nghệ sĩ, nhưng tính tôi và phong cách của tôi là bình dân và thoải mái. Có người đã chấn chỉnh tôi, cho là tôi tự do chủ nghĩa, và tôi đã đáp lại là tôi không tự do chủ nghĩa, nhưng tôi thích tự do và tôi tự hào về điều dó, người chấn chỉnh tôi nói là anh hãy nên tự hào là người Cộng sản. Tôi nói: Đúng người cộng sản thì phải đấu tranh cho tự do, là một quyền cơ bản của con người, không có gì mâu thuẫn.
Tôi trình bày với anh Linh, tôi xin không làm Chủ tịch Quốc Hội, vì cương vị này người làm luôn có một phong cách trang trọng và trang nghiêm, phải để rất nhiều thì giờ vào các thứ thủ tục, các cuộc thù tiếp. Tôi muốn được sống bình dân và thoải mái, dành nhiều thời gian cho việc học tập, nghiệm và thường thức văn hóa văn nghệ.
Anh Linh bảo tôi: Bộ Chính trị đã quyết định rồi. Anh thân tình bảo cho tôi biết trước, còn thì có đại diện của Bộ chính trị thông báo chính thức cho tôi sau. Như vậy, có nghĩa là tôi chỉ có việc chấp hành? Tôi về rất băn khoăn lo nghĩ và sợ hãi quyết định này, tôi không sợ trách nhiệm nhưng sợ làm hỏng công việc của Đảng và Nhà nước. Quả nhiên sau đó ít lâu, Anh Nguyễn Đức Tâm ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban Tổ chức của Trung ương Đảng mời tôi đến làm việc và anh chính thức thông báo cho tôi điều đó. Vì anh Tâm là bạn đồng hương của tôi (cũng là người Thái Bình) và lại là bạn đồng học từ nhỏ, nên tôi nói năng thoải mái và thẳng thắn hơn. Anh Tâm hỏi tôi: "Nếu ông không chịu làm thì ông định giới thiệu ai?"
Tôi đáp : Tôi xin tiến cử một trong hai người là anh Lê Quang Đạo và chị Nguyễn Thị Định". Về sau anh Lê Quang Đạo chính thức giữ chức vụ này.
Một lần anh Đỗ Mười bảo tôi: "Cậu phải có một chức vụ gì có trách nhiệm trong cơ quan Quốc Hội và Hội đồng nhà nước chứ!"
Tôi xin: Cho tôi làm phó cho anh Đạo và có một chân ủy viên trong Hội đồng nhà nước mà vẫn chủ nhiệm ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc Hội. Nguyện vọng ấy của tôi được chấp nhận. Và tôi còn được tiếp tục hoạt động văn hóa một thời gian cho đến năm 1992, tôi tròn bảy mươi tuổi, tuy không còn có quyền lực và uy thế gì nữa. Buồn cười là khi tôi không còn là Trung ương ủy viên (Đại hội VII) mà vẫn là Chủ nhiệm ủy ban của Quốc Hội. Một cán bộ giúp việc trong Văn phòng Quốc Hội rất lo buồn ở chỗ từ nay đi địa phương, anh không còn được giới thiệu tôi là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng và do đó, làm việc sẽ khó khăn. Tôi không nghĩ thế và khi đi làm việc tôi vẫn làm việc hồn nhiên và đàng hoàng như trước...
Trở về với Bản kiểm điểm. Bản kiểm điểm của tôi mang tiêu đề : Hai năm thực hiện nghị quyết 05 của Bộ Chính trị và hoạt động của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương (cũ).
Mở đầu tôi xác định ngay vị trí chủ thể của mình: "Tôi xin phát biểu ý kiến theo đầu đề trên. Gọi nó là kiểm điểm cũng được. Nhưng tôi không muốn coi là kiểm điểm với ý nghĩa "xưng tội" và "xưng tội" một cách cưỡng ép và giả tạo. Tôi muốn góp một tiếng nói trung thực, góp phần làm sáng rõ sự thực, sự thực về các vấn đề quan điểm nhận thức sự thực về tình hình..."
Tiếp đó, tôi khẳng định những việc đã làm được của Ban Văn hóa Văn nghệ trong giai đoạn tôi là Trưởng ban. Tôi chuẩn bị bản "kiểm điểm" này khá công phu và khá kỹ, tôi muốn phản ánh trong đó một số tình hình và một số ý kiến đang có sự tranh cãi, và tôi muốn trình bày những ý kiến quan điểm của tôi. Đó cũng là những vấn đề tôi hết sức quan tâm lúc đó. Nay tôi chép lại toàn bộ bản "Kiểm điểm" đó để "hồi ký" lại một thời gian sôi động đầy hứng khởi và đầy lo âu. (Bài này đã được công bố trong Đại Hội Nhà văn cuối tháng l0/1989).
.... Ngay từ trước và sau khi có Nghị quyết Đại hội VI tôi đã dành thời gian nghiền ngẫm tình hình đất nước và các tư tưởng "đổi mới " trong Nghị quyết. Vận dụng những suy nghĩ ấy vào lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Toàn ban văn hóa văn nghệ Trung ương đã tập trung trí lực và có quyết tâm cao trong gần một năm xây dựng Nghị quyết cho Bộ chính trị, dựa trên cơ sở thu thập, gạn lọc nhiều ý kiến của rất nhiều trí thức văn nghệ sĩ trong Nam ngoài Bắc. Vì vậy, có thể nói điều tâm đắc nhất của tôi về văn hóa văn nghệ cũng là những quan điểm chứa đựng trong Nghị quyết 05 của Bộ chính trị ký ngày 28 tháng 11 năm 1987, mà khi thông qua văn bản, Bộ chính trị và Ban bí thư đã thảo luận khá kỹ.
Nghị quyết đã có một số quan điểm nhận thức mới, quan trọng như:
- Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống con người, là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại chứ không phải chỉ là cái gì thứ yếu, phụ thuộc và phù phiếm.
- Văn hóa là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người, chứ không phải là một hoạt động tiêu phí sản xuất.
Văn hóa nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân thiện mỹ, có tác dụng bồi dưỡng, tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, chứ không phải chỉ làm công việc tuyên truyền cổ động cho các nhiệm vụ hằng ngày. Văn nghệ có tiếng nói riêng, tiếng nói độc lập không gì thay thế được để thực hiện sứ mệnh của mình, là tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của sự thật, của lương tri, của tinh thần nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, chứ không phải là tiếng vọng lặp lại từ một tiếng nói khác. - Một chính sách quan trọng được nêu ra trong Nghị quyết 05 là chính sách tự do sáng tác. Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa văn nghệ. Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Tự do sáng tác phải đi đôi với tự do phê bình. Mọi tác phẩm đặt dưới sự giám sát, đánh giá của công chúng và của các nhà phê bình, lý luận và các tác phẩm phê bình của các nhà lý luận cũng phải đặt dưới sự kiểm định của độc giả.
Một nội dung quan trọng của "đổi mới " là các cấp lãnh đạo và quản lý xã hội phải nâng cao được trình độ để có thể phát huy mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo của giới văn hóa văn nghệ. Người lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa văn nghệ cần có kiến thức văn hóa nghệ thuật rộng và sâu và phải có năng lực cảm thụ nghệ thuật đủ để hiểu và xử lý các vấn đề do nó đặt ra. Đổi mới tổ chức phải đi đôi với đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý mới bảo đảm thực sự cho tự do sáng tác. Một phương thức quan trọng là cần phát triển rộng rãi các tổ chức xã hội về văn hóa văn nghệ, thu hút sự đóng góp tự nguyện của nhân dân, tạo thành nguồn đầu tư xã hội lớn cho sự nghiệp văn hóa.
- Một tinh thần quan trọng nữa của chính sách văn hóa hiện nay là Đảng và Nhà nước phải: cần tạo những điều kiện vật chất và tinh thần cho văn hóa văn nghệ phát triển. Nghĩa là phải đặt sự phát triển văn hóa trên cơ sở của phát triển kinh tế và nằm trong sự phát triển kinh tế.
Trên đây là những quan điểm cơ bản của Nghị quyết 05. Nghị quyết còn có những vấn đề khác cũng quan trọng nhưng tôi thường tập trung nhấn mạnh và để nhiều thì giờ phân tích kỹ hai nội dung cơ bản.
a- Vai trò văn hóa văn nghệ và chính sách tự do sáng tác.
b- Vấn đề đổi mới và nâng cao trình độ, lãnh đạo quản lý và như vậy cố làm bật cái "thần " của Nghị quyết. Tôi đã gặp những đồng chí phụ trách ở địa phương, khi muốn biết Nghị quyết, thường nói các anh tóm cho cái "thần" chủ chốt của Nghị quyết chứ chúng tôi nghe nhiều cũng chẳng nhớ được.
Tôi có ý thức sâu sắc và nhất quán là lấy hai điểm cơ bản trên làm cái "thần " của Nghị quyết làm điểm tựa, làm xuất phát điểm cho mọi suy nghĩ, mọi ứng xử, mọi hành động và mọi kế hoạch công tác, làm phương hướng tống kết kinh nghiệm các quan điểm chính sách văn hóa văn nghệ ghi trong các Nghị quyết của Đảng, tôi có ý thức xây dựng một cơ quan tham mưu cho Đảng về văn hóa văn nghệ. Tôi quan niệm: tham mưu là nghiên cứu đề xuất các vấn đề thuộc phương hướng, chính sách theo tinh thần của các Nghị quyết của Đảng. Cơ quan tham mưu không thể và không được tự coi mình là cơ quan quản lý hay chỉ đạo trực tiếp, nó không được quyết định thay thế các đơn vị các tổ chức có chức năng quản lý và các hoạt động khác và cũng không thể trực tiếp làm thay các hoạt động sáng tạo và lý luận văn hóa văn nghệ cụ thể. sau khi có Nghị quyết 05 của Bộ chính trị, trong năm 1988, Ban văn hóa văn nghệ Trung ương đã đề xuất và tiến hành theo chức năng tham mưu của mình một số công việc như sau:
1 Xây dựng Ban văn hóa văn nghệ Trung ương về các mặt tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quy chế làm việc của chuyên viên. Bản dự thảo về quy chế làm việc của Ban văn hóa văn nghệ Trung ương đã được Ban bí thư thông qua ra quyết định chính thức từ quý 3/88.
2- Đề xuất phương hướng hoạt động và xây dựng những nguyên tắc tổ chức các Hội đồng nghệ thuật theo một quan niệm mới mẻ là: Đảng tổ chức ra và trao cho các cơ quan và những người am hiểu một lĩnh vực nghệ thuật nào đó giúp Đảng nghiên cứu và có ý kiến về những vấn đề thuộc phương hướng phát triển lĩnh vực nghệ thuật xử lý và có ý kiến quyết định về những vấn đề chuyên môn đó giúp Đảng.
3. Xây dựng các nguyên tắc tổ chức Quỹ văn hóa Việt Nam, với tính chất là một tổ chức xã hội, có nhiệm vụ động viên mọi lực lượng toàn xã hội tham gia vào công cuộc xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
4- Dự thảo chỉ thị của Ban bí thư về phát triển công tác lý luận và phê bình văn nghệ.
5- Cùng với Học viện Nguyễn ái Quốc xây dựng khoa văn hóa xã hội chủ nghĩa với một chương trình giảng dạy thích hợp
6- Chăm lo bồi dưỡng kiến thức lý luận văn hóa văn nghệ trong ngành từ Trung ương đến địa phương (lớp học 25 người tại Học viện các khoa học xã hội trực thuộc Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô).
7- Thực hiện hướng dẫn cho công tác các bộ phận tham mưu của cấp ủy tỉnh về văn hóa văn nghệ và các hội văn nghệ địa phương, thông qua tổng kết hằng năm của Ban.
8- Cùng các Hội và giúp các Hội tiên hành các đại hội theo tinh thần đổi mới. Vì các Hội đã hết nhiệm kỳ. Trong tám điểm trên đây thì các điểm 1, 4, 5, 6 đã được thực hiện các điểm 2, 3 và 7 còn để lại, điểm 8 thì thực hiện được phần lớn.
Ngoài ra trong quý 1 năm 1988 Ban đã và đang tiến hành một số công việc khác như:
- Xây dựng chỉ thị về chính sách cụ thể đổi mới lực lượng sáng tác trẻ.
- Chuẩn bị kế hoạch tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tham mưu trong ngành.
- Cùng với Học viện Nguyễn ái Quốc hoàn thiện chương trình giảng dạy của Khoa văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Thúc đẩy các hoạt động phê bình, lý luận, tiến tới xây dựng tạp chí lý luận, phê bình ủng hộ việc lập Hội lý luận phê bình do một sanh em đề xuất đóng góp vào sự định hướng hoạt động văn hóa văn nghệ theo chủ trương của Đảng biệt là tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp luật trong văn hóa văn nghệ, nhằm thể chế hóa các tư tưởng của Nghị quyết 05 thành các văn bản pháp quy, góp phần nâng cao trình độ lãnh đạo và quản lý.
Sau khi điểm qua những việc chủ yếu của Ban văn hóa văn nghệ đã làm được hai năm qua, tôi tập trung khẳng định những thành tích nổi bật của công tác văn hóa văn nghệ và ý nghĩa của những thành tích đó:
Bình tĩnh mà xem xét, ta có thể nhận thấy lĩnh vực văn hóa văn nghệ trong hai năm qua đã có những chuyển biến tích cực rất đáng trân trọng.
Nghị quyết 05 của Bộ chính trị là một sự lãnh đạo quan trọng của Đảng, có hiệu quả, có tác dụng tích cực trong đời sống - trong một bản điều tra dư luận của Ban Tuyên Huấn trước Hội nghị Trung ương VI thì trong số hơn mười nghị quyết, chỉ thị của Đảng chỉ có ba nghị quyết số 05, 10, 16 và một số chỉ thị của Ban bí thư là chỉ thị 15 là được trên 50% đến trên 60% người được hỏi ý kiến cho là có tác dụng tích cực. Vậy đó là những nghị quyết chỉ thị tốt và vai trò Nghị quyết 05 là đáng quý. Nó khẳng định thêm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết 05 có thể nói đã thổi một luồng gió mới hào hứng hồ hởi vào văn nghệ sĩ. Đó là sự hoan nghênh tinh thần dân chủ tự do của sự lãnh đạo của Đảng. Văn nghệ sĩ có một vai trò mới trong cuộc sống xã hội.
Văn nghệ sĩ có ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với nhân dân, với đất nước. Hoạt động văn nghệ trở nên sôi động, hồ hởi, tâm huyết, đa dạng và phong phú hơn. Người viết dám nhìn thẳng vào sự thật, bám sát cuộc sống, đi sâu vào tâm tư, số phận từng người.
Theo hướng đổi mới, rõ ràng hoạt động văn nghệ đã tác động tích cực đến đời sống xã hội, góp phần tạo ra không khí dân chủ trong xã hội, thức tỉnh ý thức trách nhiệm và lương tâm, góp phần khôi phục niềm tin vào Đảng, bồi dưỡng tính tích cực công dân cho mọi người. Đây cũng là sự đóng góp có ý nghĩa của giới văn nghệ vào việc thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VI. Rõ ràng sự lãnh đạo của Đảng được đề cao, tăng cường.
Đành rằng trong văn nghệ chưa có tác phẩm kiệt xuất, nhưng rõ ràng nó đã có những tác phẩm mới, thành tựu mới. Vì vậy, cho rằng diện mạo văn hóa văn nghệ hai năm qua có một bước "khởi sắc" là một nhận định hoàn toàn đúng đắn. Không những thế, mà đã có hàng loạt tác phẩm tiểu thuyết (kể đến hàng chục) mới, hàng trăm truyện ngắn mới khá hay. Nhiều tên tuổi mới đang tích cực tạo nên bộ mặt mới cho văn học nghệ thuật của ta.
Chúng ta đã có những tiền đề hay ít nhất là những dấu hiệu bắt đầu một nền văn nghệ của giai đoạn cách mạng trong thời đại mới. Hầu hết văn nghệ sĩ mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, mọi địa phương đều khao khát đổi mới đều cùng một chí hướng xây dựng một nền văn nghệ mới phù hợp với yêu cầu "Đổi mới ". Đó là hiện tượng đáng mừng và đáng phấn khởi.
Đương nhiên hoạt động văn hóa văn nghệ thời gian qua không tránh khỏi có những bước đi chệch choạc, vấp váp cần khắc phục. Nói về thiếu sót của văn hóa văn nghệ, nhận định của đồng chí Đào Duy Tùng trong cuộc nói chuyện với cán bộ Ban tuyên huấn Trung ương nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VI) về cơ bản là chấp nhận được, đồng chí nói: "Trong văn hóa văn nghệ thể hiện một số thiếu sót cần được uốn nắn, như có lúc chỉ viết nhiều về các hiện tượng tiêu cực mà lại coi nhẹ việc phản ánh các nhân tích cực. Thiếu sót này đang được khắc phục. Có những tác phẩm phê phán gay gắt những hiện tượng tiêu cực, có tác dụng đổi mới tình cảm, tư tưởng người xem, nhưng có số bài viết, vở diễn, phim nội dung chưa tốt, để gây tâm lý bi quan. Trong khi thảo luận các quan điểm văn học, nghệ thuật, việc nói thẳng các quan điểm khác nhau, thẳng thắn tranh luận là việc bình thường, nhưng có một số quan điểm không đúng chưa được uốn nắn kịp thời.
Có hai khuyết điểm có thể nói là nghiêm trọng cần được sớm khắc phục là: khuynh hướng thương mại, chạy theo doanh thu, theo tiền cả trong sáng tác, biểu diễn và trong xuất bản, và sự lỏng lẻo trong việc quản lý chiếu phim video..." Nhận xét thế là thỏa đáng và đúng sự thật, mặc dù vẫn có những vấn đề và tình hình mới cần tiếp tục nghiên cứu và phân tích sâu hơn.
Về nhận định tình hình, tôi xin trình bày rõ thêm ý kiến của tôi.
1- Khi đánh giá tình hình chung cần phân biệt nhận định những tình hình trong khu vực sáng tác và lý luận phê bình và nhận định riêng khu vực truyền bá, phổ biến không nên gộp làm một. Những ý kiến trình bày trên tôi tập trung nói về khu vực sáng tác và lý luận phê bình, cần nói chung là tình hình đáng lạc quan.
- Về sáng tác, nét cơ bản là có phát triển mới là một hiện tượng đáng mừng. Các tác phẩm đã có, còn nhiều điều cần phê bình, chê trách, nhưng không thể coi là những sáng tác có khuynh hướng xấu. Mặc dù có một số sách đã viết vội vàng với những chủ đề nông cạn chiều nịnh thị hiếu thấp kém nhưng đa số đó không thể coi là phần quan trọng của bộ mặt văn học.
- Về lý luận phê bình, những cuộc tranh luận vừa qua có nhiều hiện tượng có ích và đáng mừng -sự phân cực ý kiến rất rõ. Đối với bất cứ một tác phẩm, một tác giả, một hiện tượng, một sự kiện đều có ít nhất hai cách nhìn nhận khác nhau và thông thường là có nhiều cách nhìn nhận khác nhau.
Điều tôi cho là đáng phàn nàn nhất và cũ kỹ nhất là có những thứ ý kiến "quy kết chính trị" - những ý kiến này phân tích nâng lên quan điểm, quan điểm chính trị, đẩy tới quy kết "chống Đảng" - "xa rời chủ nghĩa xã hội" - ý kiến khác nhau thì cứ phân tích, có thể chê nhau là dốt, là thấp là dở chẳng sao, nhưng ý kiến đi tới "anh là phản cách mạng, phản mác xít, chống Đảng", "chống chủ nghĩa xã hội" thì đó là ý kiến kết tội vô căn cứ, mà đã kết tội vô căn cứ, thì là vu cáo. Nếu gạt được sang một bên sự quy kết chính trị có chủ ý, tôi thấy đội ngũ văn nghệ sĩ của ta tuy tính cách khác nhau, có đủ điều kiện đoàn kết thân ái với nhau chung quanh sự nghiệp chung. Cần làm cho rõ là cần trừng phạt đầy đủ những hành vi chống đối, phản quốc phản Đảng - nhưng tội đó phải được có chứng cớ, và có tội danh thuộc khoản nào, điều nào của luật như thế mới được, tôi kiên quyết phản bác và phẫn nộ lên án những ý đồ "vu cáo chính trị", kết tội một cách mơ hồ. Tôi hoàn toàn có căn cứ để nhận định và báo cáo với Đảng rằng "Đội ngũ văn nghệ sĩ của ta trải qua nhiều giai đoạn cách mạng, đến nay là một đội ngũ hoàn toàn đáng tin cậy của Đảng, tôi không tin có một người nào đó, có ý nghĩ chống Đảng. Tất cả đều mong muốn công việc tốt hơn, Đảng ta cao hơn, mạnh hơn. Tất nhiên không thể loại trừ có một số ít phần tử cơ hội. Nhưng chỉ là cơ hội cá nhân chủ nghĩa mà thôi. "
Trên tinh thần các Nghị quyết của Đảng, tôi mơ tưởng tạo nên một bức tranh văn nghệ như sau: Có nhiều người hồ hởi, hào hứng, đua tranh bộc lộ và phát triển tài năng. Họ đã có đầy đủ ý thức trách nhiệm về dân tộc, về tổ chức và chủ nghĩa xã hội, họ được quyền và có sự hào hứng nói lên hết những suy ngẫm của họ về sự nghiệp cách mạng về Tổ quốc, nhân dân, về cuộc đời, về đạo lý, về số phận con người theo cách của họ và không phải e ngại ai, e ngại gì. Tình hình hoàn toàn có thể được diễn ra như thế, và rất nên như thế. Như thế là rất tự nhiên và bình thường.
Các nhà lý luận thì đua tài phân tích phát hiện những cái hay, cái sâu sắc, cái còn ẩn giấu, cái kém cỏi, cái dở, cái chưa đạt và cũng hào hứng nói hết ý kiến của mình, dù cho có khi gai góc, nóng mặt.
Đảng mong cuộc sống của xã hội được dân chủ hơn nữa, công khai hơn nữa (Nghị quyết Trung ương VI) thì lẽ ra cuộc sống và hoạt động văn nghệ phải được sôi nổi hơn, hào hứng hơn và hồ hởi hơn, mới là thuận chiều. Tôi tán thành cần có sự uốn nắn những điều lệch lạc. Nhưng sự uốn nắn ấy phải tạo được ra không khí "dân chủ hơn nữa, công khai hơn nữa" mới phải.
Như vậy là ta có một bức tranh sôi động nhiều màu sắc vui vẻ mới mẻ. Thế mà tôi lại rất lo lắng là hiện nay đã bắt đầu xuất hiện trở lại một số tâm trạng lo buồn dè dặt và e ngại thậm chí chán nản về những điều muốn sáng tác mà tác giả hoàn toàn tự tin và bảo đảm về lòng trung thành và trung thực của mình. Cái thứ "lo sợ một cái gì vô hình" lại đang trở lại, và có người cho là còn nặng nề hơn trước. Xin nói như vậy là tình hình diễn ai ngược lại với tinh thần các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là đối với Nghị quyết 05.
Thêm vài lời về cái gọi là mất đoàn kết và bè phái. Hiện tượng bè phái là một hiện tượng xấu trong Đảng và trong xã hội. Nhưng trong cuộc sống có những tình hình ý kiến khác nhau, tính cách khác nhau - không nên quy kết tất cả sự khác nhau thành ra mất đoàn kết, bè phái. Cái thứ đáng lên án là những thứ mưu mô làm hại nhau, hạ bệ nhau, vu cáo nói xấu nhau. Câu chuyện Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, tôi có cách nhìn thế này: Hai anh đều có tài, đều tôn trọng tài nhau. Cả hai đều hiểu sâu sắc về văn học, đều có tâm huyết và trách nhiệm cao đối với văn học. Anh Ngọc có sơ xuất về việc đăng lời phát biểu của anh Khải. Anh Khải bực mình. Anh Ngọc đã xin lỗi anh Khải. Sơ xuất của anh Ngọc cũng dễ xảy ra, và là bình thường tham sự việc lại được coi là tôi là người ủng hộ anh Ngọc và gạt anh Khải. Thực sự tôi yêu cả hai anh. Anh Ngọc cũng đã nghe tôi nói về anh Khải và anh Khải cũng thế. Tính cách anh Khải và Ngọc khác nhau, Ngọc thì bảo vệ chính kiến mình một cách quyết liệt và kiên trì, Khải thì mềm mỏng, hay suy nghĩ kỹ càng, sâu sắc và cân nhắc nhiều bề. Nhưng những ý kiến quá khích cứ đẩy thêm vào tạo ra hình ảnh: Nguyên Ngọc là tên phiêu lưu và Nguyễn Khải là tên chay dài. Lại còn có ý kiến: Ban văn hóa văn nghệ trực tiếp nắm báo Văn Nghệ để báo Văn Nghệ tách khỏi Hội Nhà Văn với những chi tiết bịa đặt quá mức trắng trợn. Sự thật thế nào, nó vẫn còn đó, tôi không muốn nói nhiều. Hiện tượng gọi là "bè phái", trước đây đã có một sự lên án những người "bè phái " át giọng người khác, bịt miệng người khác. Có người cho là đã dẹp xong cái này. Nhưng thực chất hiện nay lại xuất hiện hiện tượng nêu cần gọi là bè phái khác. Đó là một loại giọng át giọng người khác "cả vú lấp miệng em" (như báo Sài gòn giải phóng có nói). Và sự át giọng này bây giờ lớn hơn. Phải có sự công bằng ở chỗ này như thế nào? Ai bè phái với ai?
Tiện đây cũng xin nói thêm về sự việc gọi là "áp đặt nhân sự" ở Hội Nhà văn. Tôi có đưa ý kiến thành lập Ban trù bị đại hội Hội nhà văn, nhưng Ban thư ký không đồng ý và cuối cùng là Ban chấp hành quyết định. Và chúng tôi tôn trọng quyết định đó. Tình thế đầu năm 1987 của Hội Nhà Văn có nhu cầu bổ sung Ban thư ký và bổ nhiệm Tổng biên tập báo Văn Nghệ. Việc bổ sung và bổ nhiệm này các anh ở Ban thư ký có nghĩ đến ai, thì chúng tôi cũng nghĩ đến người đó và chúng tôi cũng thu nhận được những ý kiến của một số hội viên ở Hà Nội. Chúng tôi trao đổi nhiều lần với Ban thư ký và chúng tôi có đầy đủ ý thức là để Hội tự quyết định công việc của mình". Vì thế rõ ràng cuối cùng là Ban chấp hành họp quyết định vị trí của anh Nguyễn Khải và Ban thư ký họp quyết định bổ nhiệm anh Nguyên Ngọc.
Sự việc nó như vậy. Nhưng sau đó nó lại được trình bày như tôi đã đề xuất ý kiến và Ban thư ký đầy thiện ý (nể tôi) nên cũng giới thiệu theo ý chúng tôi (việc này đã kể rõ trong hai văn bản. Tờ trình của Ban thư ký Hội Nhà Văn và văn thư giải đáp của Ban Văn hóa Văn nghệ ngày 25/ 6//988). Tôi tin rằng Ban thư ký Hội nhà văn đã ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, nên khi "thuyên chuyển công tác" anh Nguyên Ngọc, các anh trao đổi với chúng tôi chúng tôi vẫn cho là không nên vội vàng và nên xem xét thêm nhiều mặt về phía anh Nguyên Ngọc, Ban thư ký và dư luận công chúng. Nhưng các anh vẫn tiến hành công việc một cách kiên quyết và khẩn trương theo tinh thần nghị quyết của Ban chấp hành Hội Nhà Văn tháng 9-1988. Chúng tôi có ý thức đầy đủ để các Hội tự giải quyết và tự chịu trách nhiệm về công việc của mình là tốt hơn. Có ý kiến chúng tôi trao đổi, còn trách nhiệm quyết định là ở Hội. Sau này Ban bí thư cũng đã khẳng định tinh thần quan hệ như vậy là đúng.
Trên thực tế đã qua 6 đại hội các Hội, Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương đã cố gắng làm đúng chức trách của mình là cơ quan tham mưu cho Đảng. Không can dự mang tính áp đặt nhân sự đối với bất cứ đại hội nào.
Kết thúc phân tích đánh giá tình hình, một lần nữa tôi khẳng định:
Trong hai năm qua Đảng lãnh đạo văn hóa văn nghệ là tốt có hiệu quả, có tác động chuyển biến trong thực tiễn. Thực tiễn văn nghệ trong sáng tác, lý luận phê bình có bước phát triển tốt đang có triển vọng tạo nên bức tranh văn nghệ tốt đẹp, nhưng đà hào hứng đó nay đang bị chùn lại. Đó là điều đáng tiếc.
Tiếp đó tôi nêu lên một số hiện tượng cần làm rõ.

Trong quá trình đổi mới hoạt động văn hóa văn nghệ đã xuất hiện nhiều sự việc, nhiều hiện tượng còn rất trái ngược nhau. Xem xét phân loại các hiện tượng ấy, thấy chúng xuất hiện trong sự vận hành hai chủ trương lớn của Nghị quyết 05: tự do sáng tác và nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý. Thuộc về tự do sáng tác nổi cộm lên là các vấn đề buông lỏng hay nắm chặt trong lãnh đạo văn nghệ, định hướng rộng, lựa chọn món ăn tinh thần, có hay không sự áp đặt nhân sự đối với các hội sáng tác... Dưới đây xin phân tích từng điểm một.
A- Nhóm vấn đề "tự do sáng tác ".
1- Mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ:
Có ý kiến cho rằng vấn đề này đã xưa cũ rồi, xới xáo lên chỉ là do muốn tách rời giữa chính trị và văn nghệ. Đúng là vấn đề đặt ra đã từ lâu, nhưng giải quyết về mặt lý luận thì chưa lúc nào dứt điểm. Vả chăng mối quan hệ này nó cũng có sự vận động và phát triển qua các giai đoạn của thực tiễn cách mạng. Hơn nữa, một sanh chị em văn nghệ thường có mặc cảm là ít được tin cậy về chính trị, cho nên làm rõ mối quan hệ chính trị - văn nghệ không phải là thiết thực.
Mọi người đều thừa nhận đường lối chính trị quyết định sự thành bại của cách mạng, mất còn của đất nước, nó chi phối các hoạt động khác vận hành theo một hướng chung. Văn nghệ cũng như các lĩnh vực khác phải hoạt động ăn khớp với đường lối chính trị của Đảng, như một bộ phận trong toàn bộ guồng máy cách mạng. Cuộc thảo luận vừa qua đã làm rõ thêm chính trị và văn nghệ là hai hình thái ý thức thống nhất nhưng không đồng nhất, quan hệ giữa chúng là chính trị có vai trò chỉ huy, chi phối và điều hòa mọi dạng hoạt động trong đó có văn nghệ. Nhưng, văn nghệ vẫn có đời sống riêng, có tính độc lập tương đối của nó với chính trị. Trước đây chúng ta quen nói "văn nghệ phục vụ chính trị", nay nhận thấy nói như vậy dễ gây hiểu lầm, cho nên có ý kiến đề nghị nói: "Văn nghệ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng " có lẽ đầy đủ và đúng đắn hơn.
Trong thời đại ngày nay, lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là một tất yếu khách quan, văn hóa văn nghệ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là nằm trong quy luật ấy. Có điều hoạt động sáng tác văn nghệ là dạng hoạt động mang tính chất đặc thù, thì Đảng cần có phương thức lãnh đạo phù hợp nhằm kích thích trúng tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ. ở đây yêu cầu của đổi mới là nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý nhằm bảo đảm thực hiện "tự do sáng tác", "tự do phê bình" làm cho văn hóa văn nghệ phát triển tự nhiên, lành mạnh phong phú và đa dạng.
Tôi cho rằng trong cuộc thảo luận này vấn đề được nhận thức sâu hơn. Không ai có ý định phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, muốn tránh khỏi sự lãnh đạo của Đảng. ý kiến chung là mong mỏi có được sự lãnh đạo tốt hơn.
2- Vấn đề phủ nhận "văn nghệ cách mạng "
Trước mắt phải nói ngay là đọc những bài viết trong vài năm qua tôi không hề có ấn tượng về sự phủ nhận thành tựu văn nghệ hai cuộc kháng chiến. Thành tích văn nghệ hơn 40 năm qua đã được Đảng đánh giá cao, những giá trị của nó mãi mãi góp phần làm giầu kho tàng văn hóa tinh thần của dân tộc. Tuy rằng ta phải thấy có một sự thật là văn nghệ của ta thời gian qua cũng bộc lộ những điểm yếu kém. Việc soát xét lại những nhược điểm, tự phê bình về những thiếu sót là cần thiết cho sự đổi mới văn nghệ. Tuy nhiên, cũng có một số người nhìn nhận sự tự phê bình ấy như những lệch lạc đáng lo ngại cho văn hóa văn nghệ, rồi phát ra tín hiệu báo động rằng có sự phủ nhận sạch trơn thành tựu văn nghệ cách mạng.
Nhìn nhận tình hình văn nghệ hiện nay, có một ý kiến rất đáng suy nghĩ đại ý là: văn nghệ hiện nay "có lệch mà không có lạc" "thơ không vần", "cửa mở" là những ví dụ về hiện tượng "lệch mà không lạc" trong văn học. Không thừa nhận các hiện tượng "lệch mà không lạc" thì không thể có phát triển, tiến bộ. Sở dĩ có trì trệ là do quá sợ lệch, không dám đi tìm lối thoát ở những sự "lệch" (mà không lạc) Người viết không được lạc nhưng có quyền lệch. Không có quyền này, không còn sáng tác (Hoàng Ngọc Hiến).
Đổi mới phải có phủ định, không phủ định cái cũ, cái lỗi thời thì làm sao mờ đường cho cái mới phát triển? ở đây là sự phủ định biện chứng, trong đó có kế thừa những giá trị hợp lý để tự nó tiến lên, chứ không phải phủ định trơn tuột đối với cái cũ. Và cũng không phải là tuyệt nhiên không được đụng đến những cái đã có, đã cũ. Theo nghĩa này, trong phong trào đổi mới văn nghệ vừa qua có một số sự phủ định. Hai nhà văn có biểu hiện phủ định "mạnh mẽ nhất" là các anh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Các anh ấy tự xem lại giá trị những đứa con tinh thần của mình là một nỗi đau, nhưng các anh vẫn dũng cảm vượt qua để tự đổi mới mình, đổi mới sự sáng tạo. Riêng trường hợp Nguyễn Minh Châu, anh có thể hơi quá lời trong bài "Hãy đọc lời ai điếu... " nhưng thái độ của anh đầy trách nhiệm, chứ không phải thái độ dửng dưng của người đứng ngoài cuộc. Không phải thái độ hư vô. Nói tóm lại, không thể có sự phủ nhận sạch trơn những thành tựu văn nghệ cách mạng, và thực ra cũng không ai định phủ nhận những thành tựu của quá khứ trong đó có sự đóng góp của bản thân mình. Nhưng tích cực mổ xẻ, phân tích phê phán những thứ bệnh ta đã mắc trong quá khứ là tuyệt đối cần thiết là đáng mừng đáng hoan nghênh.
3- Vấn đề hạ bệ thần tượng:
Đây chỉ là trường hợp cá biệt, liên quan đến chuyện ngắn "Phẩm tiết" của Nguyễn Huy Thiệp. Anh có thể chưa hay, chưa giỏi trong việc xây dựng nhân vật văn học lấy nguyên mẫu từ một anh hùng dân tộc, vua Quang Trung.
- ở đây nhận thấy có sự bất bình của một số người đọc đối với truyện ngắn Phẩm Tiết, nhà văn cần rút kinh nghiệm về trường hợp này. Nếu trong truyện ngắn Phẩm Tiết (tôi nhấn mạnh chữ nếu, để công bằng với anh Thiệp) anh Thiệp thực có ý định nêu tên để chửi rủa vài người nào đó, thì đó là ý định xấu, có hại, tác động phức tạp vào mối quan hệ nội bộ Hội Nhà Văn.
Tôn trọng anh hùng dân tộc mà không nên thần bí hóa, thiêng liêng hóa. Do đó không nên hạn chế nhà văn miêu tả chuyện đời thường của anh hùng dân tộc. Tôi có biết được một ý kiến, một cách thưởng thức hình tượng vua Quang Trung trong "Phẩm tiết" là Nguyễn Huy Thiệp đã ca ngợi Quang Trung đã nêu nên hình tượng một nhà vua tuy xuất thân nông thôn còn có sự thô tục của văn hóa nông dân, nhưng lại là một nhà vua có phẩm chất cao, có những hành vi văn hóa cao. Đó là biết tôn trọng sắc đẹp, cái đẹp, có một tình yêu cao vì vua có đủ quyền hành với một tù binh mà không cưỡng bức lại còn yêu sâu sắc đến chết không nhắm mắt được. Quang Trung là một nhà vua tôn trọng trí thức, thấy Vinh Hoa thông minh, lại đem quốc sự ra hỏi ý kiến - Vinh Hoa trả lời ngang ngược, hết sức trái ý mà Quang Trung vẫn bình tĩnh và coi như chuyện bình thường. Tôi cho đó là một ý kiến nhận xét hay.
Tôi bác bỏ ý kiến kết tội Nguyễn Huy Thiệp là chối bỏ tổ tiên, là hạ bệ cả thần tượng anh hùng dân tộc, là có ý định từ chỗ hạ bệ Quang Trung rồi đi đến hạ bệ các anh hùng khác, là phản dân tộc v. v... Đó là quy kết chính trị vừa không đúng vừa rất đáng phàn nàn.
4- Văn nghệ phản ánh hiện thực nào? Có chuyện tô hồng hay bôi đen hiện thực không?
Trong sáng tác văn nghệ có ý kiến cho rằng, nhân vật tiêu cực các loại xuất hiện nhiều quá, chiếm lĩnh văn đàn khiến các nhân vật tích cực phải rút lui, nhường chỗ và như vậy có phải là bôi đen hiện thực không?
Theo tôi, vấn đề không hẳn là như vậy - Trong văn nghệ không có chuyện tô hồng hay "bôi đen", vì hồng hay đen đều xuyên tạc hiện thực đều là không đúng sự thật. Đối với văn nghệ thì nhân vật tích cực hay tiêu cực đều là nhân vật cả, cái chính là làm sao cho các nhân vật ấy được xây dựng chân thực và sâu sắc có khả năng xúc động lòng người, hướng về chính nghĩa. Sự sáng tác văn nghệ thường tìm cảm hứng lớn trong cuộc sống con người, vì vậy từ lâu Gorki đã gọi văn học là nhân học. Trong cuộc sống có vấn đề đạo lý làm người. Trong đạo lý lại có luân lý chung, là những chuẩn mực hình thành một cách tự nhiên trong suốt lịch sử loài người mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng đã công nhận, những quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn, trọng già, yêu trẻ, thông cảm với người hoạn nạn... là những tình cảm tự nhiên, xã hội nào cũng có. Bên cạnh đạo lý chung đó còn có những yêu cầu về đạo lý trong đấu tranh giai cấp, đạo lý của cách mạng. Giới văn nghệ thường suy nghĩ và trăn trở về những điều này. Họ căm giận bất công và đau xót cho những bất hạnh của con người. Văn nghệ xới lên những vấn đề của cuộc sống hôm nay để trong mỗi con người dấy lên những suy nghĩ về trách nhiệm và lương tâm, về hạnh phúc và nỗi đau, về niềm tin và hy vọng. Các điều đó có gắn bó với các vấn đề chính trị, kinh tế nhưng trước hết chúng là những vấn đề dạo đức, mà đạo đức thì gắn liền với chính trị, các chuyện đạo lý làm người, đạo đức luôn gắn liền với nền chính trị chính nghĩa.
Những kẻ cầm quyền phản động lạc hậu của các chế độ cai trị phản động lạc hậu cũng vẫn nhân danh đạo lý để mà hành động khủng bố tàn ác, bạo liệt. Nhưng ngay trong chế độ như vậy, vẫn xuất hiện những tác giả và tác phẩm có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc lưu lại cho các đời sau. Văn nghệ vẫn có sức mạnh riêng của nó - ở nước ta có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. ở Nga có Lép Tolstôi, Tchekhốp, ở Pháp có Vichto Hu-go, Bandăc. Chế độ ta hiện nay phải có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho văn nghệ mới phải.
Tôi nghĩ, Đảng ta không có gì phải lo ngại, khi giới văn nghệ có nêu lên một số hiện tượng sa sút về đạo đức xã hội. Cái chính là họ có đúng với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật " và "nói rõ sự thật " hay không, và cách nói của họ có thật sâu sắc và xúc động lòng người hay không? Đảng ta cũng không nhất thiết yêu cầu văn nghệ phải đưa ra lời giải đáp cho từng vấn đề cụ thể. Bản chất của nghệ thuật là nhận thức, khám phá, phát hiện vân đề, còn giải quyết vấn đề lại thuộc về trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ta không loại trừ có những nhà văn sắc xảo có thể có những gợi ý hay. Đang cần chú ý nghe tiếng nói của văn nghệ sĩ, vì đó là tiếng nói cất lên từ những day dứt trong cuộc sống, từ những tâm trạng của con người. Càng bình tĩnh càng nghe được nhiều giọng nói, trong đó có cái hào hứng, cái bi thương, cái hoành tráng của cuộc sống chiến đấu, cái oan khuất của đời thường... Đó là những thông tin về con người về cuộc sống xã hội để bổ sung vào những thông tin khác cho các nhà lãnh đạo trong việc suy ngẫm tìm tòi giải đáp đúng đắn cho mỗi bước đi lên của dân tộc.
Đứng trước một sự kiện văn hóa mới, một tác phẩm văn nghệ, kinh nghiệm của cá nhân tôi là: nghe cả lời khen và tiếng chê, qua gạn lọc phân tích mà nhận ra thực chất của vấn đề. Đánh giá tác phẩm văn nghệ cũng vậy, không thể chỉ dựa vào cảm xúc của riêng mình, mà còn có ý kiến của công chúng. Công chúng là người trọng tài vô tư nhất đối với tác phẩm văn nghệ mọi thời đại. Tôi rất đồng ý thái độ của nhà xuất bản văn hóa trong lời cuối sách tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Xin trích ra đây: "Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vừa ra đời đã chiếm được sự chú ý nhiều của dư luận bạn đọc trong thời gian vừa qua".
"Nhiều nhà phê bình đã phát biểu chính kiến của mình về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều ý kiến hết sức trái ngược nhau ".
"Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết sức ca ngợi anh và cho rằng anh có trách nhiệm cao với cuộc sống hôm nay."
"Trong văn học không có lời bình xét nào là lời bình xét cuối cùng ".
"Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp còn đó và anh vẫn tiếp tục cầm bút. Rất nhiều người đang chờ đợi anh. "Anh như người dọn cỗ. Còn chúng ta là những thực khách. Tùy theo thể trạng của mình có người không thích món béo quá, món cay quá và có món lạ miệng quá. Xin cứ tùy sở thích."
"Trong mấy chục năm gần đây, ít có nhà văn nào mới cầm bút đã làm xôn xao dư luận đến như vậy ". Có người kết tội báo Văn Nghệ là "nống " Nguyễn Huy Thiệp lên, trong đó có cả ý kiến cho tôi là người tích cực đề cao Nguyễn Huy Thiệp... Có người cho rằng tôi đọc Nguyễn Huy Thiệp mà không để ý ẩn ý và không hiểu rõ ý là dốt nát, kém cỏi, là "giả vờ ngây thơ". Tôi cần nói rõ: tôi thích một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và cũng có cả những điểm chưa thích, không thích, tôi thường chờ đợi để đọc Nguyễn Huy Thiệp. Cũng như có thời tôi đã đóng sổ tay để chép thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận và Tố Hữu. Tôi cũng đã từng thích và khâm phục Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan từ trước cách mạng tháng Tám. Đó là quyền của tôi và quyền ấy không phạm vào bất cứ lỗi gì, tội gì, không vi phạm một luật lệ nào.
Không phải ngẫu nhiên mà cả nước xôn xao về Nguyễn Huy Thiệp: hàng 5, 6 tỉnh từ nam chí bắc tổ chức hội thảo về Nguyễn Huy Thiệp, đồng thời hàng loạt các bài báo bàn luận về Nguyễn Huy Thiệp dồn dập một thời. Hiện tượng ấy là đáng mừng hay đáng lo, tôi chỉ mong văn nghệ ta cứ tháng nào hoặc quý nào cũng có một xôn xao như vậy thì vui biết mấy. A i làm ra hiện tượng ấy. Báo văn nghệ xui được à? Tôi ra chỉ thị được à? Điều đó phải hỏi và tìm ra từ trong bản thân những cái mà anh Nguyễn Huy Thiệp viết ra chứ. Tôi không là người nghiên cứu văn học, tôi chưa viết ở đâu một chữ về Nguyễn Huy Thiệp. Thế mà lại bảo là tại tôi, Trần Độ nống Nguyễn Huy Thiệp lên nên Nguyễn Huy Thiệp nổi "tiếng". Thật là bật cười.
5- Vấn đề địch lợi dụng và cảnh giác:
Tôi hiểu tư tưởng chung của cơ quan lãnh đạo Đảng ta trong nhận định tình hình là:
- Cuộc đấu tranh giai cấp quy mô thế giới rất gay gắt, âm mưu đế quốc muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội rất kiên quyết và xảo quyệt.
- Trong cuộc đấu tranh này thì đâú tranh tư tưởng là mặt trận quyết liệt nhất, có chỗ ta thua.
- Trong mặt trận tư tưởng thì mặt trận văn nghệ là trận địa hiểm yếu.
Đó là sự thật tôi muốn đi sâu thêm mấy ý kiến quan điểm:
1- Cảnh giác là gì: là phải hiểu rõ địch và ta, vậy cảnh giác về lý luận về tư tưởng, ta phải hiểu rõ địch đang có thứ lý luận gì, tư tưởng gì. Tôi không cho rằng cảnh giác là đề phòng và ngăn cấm nhân dân ta không biết gì đến những luận điệu của địch, cho rằng nếu biết đến thì bị ảnh hưởng. Trong thời đại này, không ngăn được và không bịt được. Nhưng tin tức và lý luận tư tưởng như vậy vẫn có nhiều người biết mà có khi lại biết sai lệch - như thế nguy hiểm hơn. Nâng cao cảnh giác (về tư tưởng) là thông báo rộng rãi những thông tin thế giới cho nhân dân biết, kèm theo phải có sự phân tích phê phán như thế trình độ nhân dân ta càng cao - Nên chú ý là trình độ lý luận thế giới hiện nay cao lắm. Ta phải hiểu rõ và có đủ trình độ phân tích phê phán đủ sức thuyết phục nhân dân chứ không thể đưa ra vài thứ lý luận đã cổ lỗ sĩ đã quá quen thuộc, thứ lý luận "nói lấy được " - Làm như thế là mất cảnh giác- Chỉ ví dụ một chủ đề tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là thế nào? Về lý thuyết của chủ nghĩa xã hội là thế nào? Về lý thuyết và thực tiễn -là một vấn đề "cảnh giác" lớn.
2- Cảnh giác - tất cả phải cảnh giác, có nhiều loại người phải cảnh giác. Công an và an ninh phải cảnh giác kiểu công an. Cơ quan nhà nước phải cảnh giác kiểu công an và cơ quan nhà nước, thanh niên, trí thức văn nghệ sĩ phải cảnh giác kiểu thanh niên trí thức văn nghệ sĩ. Trong đối phó với địch, hiện nay ta có một nhược điểm và một thế yếu khá gay go, tức là các thứ cơ chế vận hành trên đất nước ta, và tình hình khó khăn kinh tế của ta tạo nên những tình hình.
- Đời sống khó khăn, bất công xã hội phổ biến và cay đắng.
- Nhiều xử lý trong quản lý và trong pháp luật chưa rõ rệt, chưa sòng phẳng tạo nên nhiều cái phức tạp, nhiều nỗi oan khuất, nhiều thân phận con người còn khổ, bị đè nén.
- Nảy sinh trong bộ máy Đảng và Nhà nước những kẻ tha hóa, biến chất nảy sinh in tệ nạn cường hào mới. Kẻ địch công kích ta, và kích động nhân dân ta, nó lại nhè đúng vào chỗ yếu của ta nó khai thác những nguyện vọng dân chủ và công bằng nhân đạo chân chính của nhân dân ta. Ta đã không giữ vững được ngọn cờ dân chủ, nhân đạo (nhân quyền). Cảnh giác là ta phải nắm được những tổ chức, những hành động phản loạn và đập tan nó. Đồng thời ta phải dân chủ hơn nữa, công khai hơn nữa, công bằng hơn nữa, phải có luật pháp công minh hơn nữa, chấm dứt tình trạng cơ quan Đảng và Nhà nước vi phạm Hiến pháp, phá hoại luật pháp, chấm dứt các hiện tượng cán bộ Đảng và Nhà nước cậy quyền, cậy thế cưỡng bức hà hiếp nhân dân, thì nhờ vậy ta mới tước bỏ được vũ khí của kẻ địch. Văn nghệ và báo chí phải được cổ vũ khuyến khích tiến hành cuộc đấu tranh này theo hướng đó.
Nhận xét có những bài "có tính chất kích động " là một nhận xét mơ hồ, chỉ cần có quy định rõ về kỷ luật bí mật và kỷ luật về chính xác trong thông tin là được, cảnh giác đấu tranh với địch là dân chủ hơn nữa, công bằng hơn nữa, pháp chế hơn nữa, chứ không phải tăng cường bí mật, tăng cường che chắn, tăng cường che giấu.
B- Nhóm vấn đề "lãnh đạo quản lý "
1. Chung quanh cái gọi là "buông lỏng " trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ.
Theo ý kiến tôi, không nên đặt vấn đề "buông lỏng" hay "nắm chặt" mà nên nói "dân chủ hóa" trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ là thế nào. Trong văn kiện báo cáo của Bộ chính trị trình Hội nghị Trung ương 6 có câu: ta đã nắm chặt những cái cần buông lỏng mà lại buông lỏng những cái cần nắm chặt. Tôi cho rằng văn nghệ là không nên nắm chặt, cái cần nắm chặt là an toàn xã hội. Hiện nay, cách mạng đã chuyển đoạn: từ nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc sang nhiệm vụ xây dựng đất nước, kỷ luật chiến tranh thay bằng cuộc sống dân chủ. Trải qua hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta nói chung, văn nghệ sĩ nói riêng đã trưởng thành về chính trị, hoàn toàn có ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, không tha thứ cho bất cứ kẻ nào chống lại cách mạng, chống lại dân tộc, chống lại Đảng.
Tôi cho rằng, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay vai trò của khoa học kỹ thuật, của giới trí thức có một tầm quan trọng đặc biệt. Đội ngũ trí thức của ta hiện nay phần lớn do Đảng đào tạo. Đội trí thức ấy có trình độ cao, họ có đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ do cách mạng đề ra. Tôi thường tâm niệm rằng, bản thân mình phải lắng nghe nhiều ý kiến và có thể tìm thấy ở đó có nhiều hiểu biết bổ ích.
Đối với trí thức nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng, tôi biểu thị sự tôn trọng, tin cậy và cởi mở đối với họ. Tôi cho là cần có điều kiện để anh em được tự do phát huy khả năng của mình. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã ghi nhận "đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo đảm tự do sáng tạo". Lớp trí thức hiện nay có khả năng khá lớn, trong họ đang tiềm ẩn nhiều tài năng cần thiết cho đất nước rất đáng tin cậy và cần phát huy lớp trung niên đã trải qua thử thách. Tôi mong muốn Đảng ta tập trung được xung quanh mình đội ngũ trí thức ấy, tin cậy họ, thu hút họ tham gia các nhiệm vụ cách mạng một cách hào hứng. Trong trí thức, nhiều người già lại là những tài sản quý giá lớn của quốc gia. Cần quan tâm quý trọng và khai thác tài năng hơn là sự chú ý quá đáng vào "trẻ hóa ". Trong quan hệ làm việc với trí thức, tôi nhận thấy khi lắng nghe những ý kiến khác nhau, cần giữ thái độ bình tĩnh kiềm chế, có lòng tin cậy, để họ nói ra những ý nghĩ thành thật, hơn là tạo ra ở họ tâm lý e ngại không dám nói hoặc không muốn nói. Tin cậy và đối xử cởi mở với trí thức văn nghệ sĩ không thể coi là buông lỏng được. Tôi cũng được học tập một tư tưởng của Lênin là: Lãnh đạo văn nghệ không thể cào bằng đồng loạt mà phải quan tâm đến từng người, làm việc riêng với từng người. Tôi hiểu như thế nghĩa là lãnh đạo cần biết rằng mỗi văn nghệ sĩ là một người riêng biệt có những suy nghĩ, tính cách và sức tưởng tượng của mình, nó độc đáo và không giống ai. Chứ không phải như thế nghĩa là lãnh đạo có thể dạy bảo dìu dắt từng người và chỉ bảo người ta phải sáng tác như thế nào?
Đối với sáng tác văn nghệ, lãnh đạo không bao giờ có nghĩa là tác động vào từng tác giả, từng tác phẩm và chịu trách nhiệm về mọi tác phẩm văn nghệ. Mỗi tác giả là một tài năng, một chủ thể có ý thức đối với sự nghiệp chung và đứa con tinh thần của mình, không ai có thể thay thế nghệ sĩ chăm sóc đứa con ấy. Ta chỉ nên có quan hệ bạn bè với văn nghệ sĩ. Đối với tôi, được anh chị em coi là bạn bè thì đấy là một niềm vui và vinh dự cho tôi.
Trong đời sống tâm lý, mọi sự giải độc đều phải tiến hành bằng tranh luận, thuyết phục. Giải quyết những xung đột ý kiến bằng sự nghi ngờ và ngăn cấm không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả tối ưu. Cuộc sống là muốn mặt, có những mặt ta có thể kiểm soát và hướng dẫn, nhưng có cả những mặt ta không thể kiểm soát và can thiệp vào được. Đó là sự sáng tạo nghệ thuật. Người lãnh đạo, quản lý chỉ cần nghiên cứu nên định hướng cho sáng tác, sau đó làm các việc "chuẩn bị hậu cần " cho hoạt động ấy. Những cách làm "cầm tay chỉ việc" hoặc "uốn nắn kịp thời " đều không thích hợp đối với quá trình sáng tạo của văn nghệ sĩ Như vậy hoàn toàn khác với cái gọi là không lãnh đạo. Lãnh đạo là định hướng và định hướng rộng, cần tiếp tục quan niệm sâu sắc hơn về khái niệm định hướng.
2- Vấn đề "định hướng rộng " trong hoạt động văn hóa văn nghệ.
Nghị quyết 05 của Bộ chính trị, đã hoạch định một vùng cấm là: "Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình) và không đồi trụy (truyền bá tội ác sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm), đều có quyền được lưu hành. Bộ luật hình sự của ta cũng đã có một số điều khoản giải thích về các tội phản động, đồi trụy. Như vậy là trừ vùng cấm ra, mảnh đất dành cho sáng tác và hoạt động văn hóa văn nghệ vô cùng rộng rãi. Đó chinh là về "định hướng rộng". Nhờ định hướng rộng mới có thể tạo ra nền văn hóa văn nghệ có nội dung sâu sắc về lý tưởng xã hội chủ nghĩa và có hình thức biểu hiện phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên tôi công nhận tôi nói "định hướng rộng " còn chưa đầy đủ, vì trong hoạt động văn hóa văn nghệ có khâu sáng tác và khâu phổ biến và trong khâu truyền bá phải quản lý phải có xử lý cụ thể nhiều trường hợp cụ thể. Nhưng những sự xử lý này cũng phải theo hướng định hướng rộng. Sáng tác có thể không phạm luật, nhưng phổ biến thì lại chưa có lợi. Vì vậy, định hướng rộng cho sáng tác nhưng lại phải có xử lý cụ thể cho lưu thông phân phối các tác phẩm văn nghệ cho thích hợp với nhu cầu thực tê hiện thời. Vấn đề đặt ra ở đây là phải nhanh chóng thể chế hóa Nghị quyết 05 thành các văn bản pháp luật đầy đủ và đúng đắn, làm chỗ dựa cho sự phát triển các hoạt động văn hóa văn nghệ phong phú và đa dạng. Với trách nhiệm hiện nay, tôi vẫn đang tập trung nỗ lực vào phương hướng này.
3- Vấn đề "lựa chọn món ăn tinh thần "
Hoạt động văn hóa văn nghệ thuộc lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Trong sinh hoạt tinh thần của nhân dân có một kiểu nhu cầu của họ về tình cảm, tư tưởng thể hiện thông qua vô số các mối quan hệ giữa người với thiên nhiên, giữa người với người và giữa con người với chính mình.
Trong mỗi mối quan hệ, con người có nhu cầu về nhận thức, lý giải và lựa chọn cách ứng xử cho phù hợp. Giữa đời thường nổi bật lên là các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, ông cháu, xóm giềng, bầu bạn, trong sinh hoạt xã hội có các quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia, quốc tê, ở đây con người luôn luôn phải giải đáp câu hỏi về đạo lý làm người, phẩm chất con người như (anh dũng hoặc hèn nhát, trung thực hay giả dối, chung thủy hoặc phản bội, vị tha hay vị kỷ v. v... và v. v...). ở đây ta thấy Đảng có yêu cầu truyền bá hệ tư tưởng để giáo dục nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra. Yêu cầu ấy là quan trọng và thường xuyên bức thiết. Nhưng điều đáng lưu ý là hoạt động tư tưởng của Đảng không thể ôm đồm hết mọi khía cạnh của sinh hoạt tinh thần trong xã hội. Nói khác đi là, sinh hoạt tư tưởng của Đảng chỉ chiếm một bộ phận trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Vì vậy nhân dân ta trong đó ngay cả những đảng viên cộng sản ngoài việc tham gia các sinh hoạt tư tưởng của Đảng, vẫn còn phải lựa chọn các món ăn tinh thần phù hợp với nhu cầu của mình. Tự do xét đến cùng là tự do lựa chọn. Tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng là các quyền lợi tinh thần của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Tôn trọng các quyền tự do ấy là tôn trọng quyền lựa chọn món ăn tinh thần của nhân dân trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Tư tưởng "không lựa chọn món ăn " chủ yếu là muốn nói về chống lại sự áp đặt tinh thần, sự bao cấp về phương diện tư tưởng trong đời sống tinh thần của xã hội.
Định hướng rộng là một tư tưởng, tư tưởng này ghi trong Nghị quyết của Đảng đã trích dẫn ở trên. Nó là tư tưởng cho cả sáng tác, cho cả lưu thông, cho cả hưởng thụ. Tôi bác bỏ dứt khoát một loạt ý kiến cho rằng có sự lung tung về video và xuất bản sách là nguyên do ở chỗ định hướng rộng. Vậy hóa ra là nguyên do từ ở tư tưởng Nghị quyết 05. Tôi thừa nhận phát biểu về hai điểm "định hướng rộng" và "không chọn thức ăn" như vậy là chưa đầy đủ chứ không phải sai về quan điểm. Quan điểm đó là đúng. Tôi đang cố gắng bổ sung bằng tham gia thúc đẩy công việc xây dựng luật pháp - chuyện video và xuất bản còn liên quan tới nhiều mối quan hệ cơ chế, kinh tế xã hội khác. Tôi xin có ý kiến vào dịp khác.
Cuối cùng tôi cần nói thêm như sau:
1- Suốt cả cuộc đời tôi gần 50 tuổi Đảng, tôi luôn luôn ý thức sâu sắc là tôi phải suy nghĩ và hành động theo tư tưởng của Đảng trong 30 năm chiến tranh cũng thế và hơn mười năm trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ cũng thế. Tôi cũng ý thức rằng tôi không hành động như một cái máy thô sơ, mà luôn luôn trăn trở suy nghĩ và năng động để phát triển tư tưởng của Đảng để đóng góp có ích cho sự nghiệp của Đảng.
Trong hai năm qua tôi không chút ân hận và hổ thẹn về tư cách đảng viên của tôi, và tôi tự thấy tôi có phần đóng góp có ích cho Đảng. Nghị quyên 05 của Bộ chính trị là một nghị quyết quan trọng và đúng.
Tôi biết rõ nhiều ý kiến đã phát triển tư tưởng của tôi qua nghị quyết 05, còn có chỗ có thể bắt bẻ và tranh luận. Tôi công nhận sự thiếu sót đó. Và tuy đó là những ý kiến còn thiểu số nó cũng vẫn có ích cho Đảng vì nó mở rộng đường suy nghĩ, nó không chết đi theo đường mòn. Tôi cho ý kiến của tôi là có căn cứ, đặc biệt có căn cứ khi tôi tiếp xúc ngày càng nhiều với các tác phẩm văn nghệ, nghe được nhiều ý kiến khen chê khác nhau... Tôi bị thiểu số nhưng thiểu số không phải là sai, hay ít ra là chưa chắc đã sai. Tôi vẫn xin bảo lưu và kiên trì những ý kiến của tôi cho đến lúc tôi gặp được những ý kiến sâu sắc hơn, mới mẻ hơn, có sức thuyết phục cao hơn.
2- Trong ứng xử hằng ngày, tôi vôn xuất thân nông dân, tiểu trí thức nông thôn, nên tôi còn nhiều vụng về thô thiển. Tôi cảm ơn rất nhiều anh chị em có dịp chỉ rõ những vụng về thô thiển của tôi và có những lời khuyên đầy tình nghĩa. Phải thú thật có những lời tôi nghe và sửa chữa, có những lời tôi nghe nhưng không muốn sửa chữa và không sửa chữa được. Bởi tôi cũng muốn được sống "tự nhiên " với bản tính mình đã có. Đồng thời tôi thành thật xin lỗi những anh chị em nào có tiếp xúc hoặc gặp cách ứng xử của tôi vụng về thô thiển để các anh các chị phải phiền lòng. Còn trong thâm tâm tôi, tôi chân thành yêu quý mọi người hoạt động văn nghệ và luôn biết chia sẻ những nỗi mềm, những suy nghĩ của anh chị em.
Tuy tôi không còn chức trách gì về văn nghệ trong Đảng, nhưng tôi vẫn tự xác định, tôi là người hoạt động văn hóa văn nghệ, tôi không có quyền lực gì để tạo điều kiện cụ thể cho công việc, nhưng tôi xin phép các anh các chị, tôi vẫn được coi như một người bạn của văn nghệ và luôn tích cực làm được việc gì có ích cho văn hóa văn nghệ và luôn luôn đón chờ, chào mừng những thành tựu mới của nền văn học nghệ thuật của chúng ta.
Tôi đã chuẩn bị xong "bản kiểm điểm" rất sớm, và chờ đợi đại hội khai mạc để đóng vai một bị cáo ra trước vành móng ngựa. Tôi cũng biết có một số người vốn chẳng thích gì tôi, cũng chờ đợi, để được nhìn thấy Trần Độ phải kiểm điểm trước hội nghị Đảng viên các nhà văn cũng chẳng khác gì là kiểm điểm trước đại hội...
Nhưng đến ngày Ban Bí thư quyết định Đại hội sẽ họp vào cuối hạ tuần tháng 10 năm 1989 thì theo kế hoạch của ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội, tôi phải lên đường đi công tác một số tỉnh phía Nam.

Đối với tôi đây là điều không may nhưng cũng là điều may, vì thực ra tôi cũng không muốn có mặt ở đại hội lắm, tôi có phải là nhà văn đâu mà ngồi chung với các nhà văn. Tôi vào hội là do yêu cầu lãnh đạo, chứ tôi tự xét, về mặt nghề nghiệp tôi chưa xứng đáng được gọi là nhà văn. Điều quan trọng nhất mà tôi mong chờ ở đại hội nhà văn lần này là được công bố bản kiểm điểm của mình... Và điều này tôi đã đạt được một cách may mắn. Với lý do bận công tác không dự Đại hội được, tôi nhờ Nguyễn Văn Hạnh gửi đến các đồng chí chủ trì Hội nghị các Đảng viên Hội nhà văn "bản kiểm điểm" kèm theo lá thư với nội dung:
Hà Nội ngày 20/10/1989
Kính gửi:
Các đồng chí chủ trì Hội nghị
Các Đảng viên Hội nhà văn
Tôi cũng là một hội viên Đảng viên, nhưng thời gian này tôi phải thực hiện một chương trình công tác của ủy Ban Văn hóa Giáo dục của Quốc Hội ở các tỉnh phía Nam, nên không dự được hội nghị.
Theo thông báo của Ban Tư Tưởng Văn Hóa, trong chương trình Hội nghị có sự báo cáo kiểm điểm của Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung ương (cũ). Tôi đã chuẩn bị bản báo cáo đó xong từ vài tháng trước. Rất tiếc là tôi không dự được hội nghị để trực tiếp đọc báo cáo. Vậy tôi xin gửi đến Hội nghị bản báo cáo đó (ba bản) để các đồng chí sử dụng. Có thể đọc chung trong Hội nghị hoặc chuyển cho những đồng chí cần biết đến nó. Những ý kiến của tôi viết trong báo cáo cũng là những ý kiến tôi đã phát biểu nhiều lần trước Ban Bí thư Trung ương và Hội đồng tư tưởng. Xin chúc Hội nghị nhiều kết quả và xin gửi lời kinh chào tất cả các đồng chí.
Trần Độ
Khi Đại hội diễn ra ở Hà Nội thì tôi đang ở miền Nam. Tuy ở xa nhưng tôi rất quan tâm tới Đại hội. Tôi biết nhiều anh đang bước vào cuộc chiến đấu với niềm lạc quan vốn có của những người luôn tự tin ở sự đúng đắn của mình. Tôi cũng nhìn rõ những khuôn mặt trên Chủ tịch đoàn và cảm thấy cuộc đấu này sẽ diễn ra quyết liệt. Nhưng tôi tin Đại hội Nhà văn sẽ thắng, sẽ vui như Nguyễn Khải đã dự đoán hơn một năm trước đó... Bởi bối cảnh lần này đã khác xa bối cảnh của Đại hội III. ở Đại hội III, vụ án đề dẫn của Nguyên Ngọc vẫn còn treo lơ lửng trên đầu mọi người như một chiếc thòng lọng. Không khí của Đại hội III tôi cho vẫn còn theo cách cũ, chỉ đạo từ trên xuống là chính.
Còn bây giờ Đại hội IV diễn ra sau Đại hội VI, sau nghị quyết 05, sau những trao đổi thẳng thắn trong mục "Văn nghệ phỏng vấn" suốt hai năm qua, đã tiếp thêm sức mạnh cho họ vững vàng bước vào cuộc chiến đấu mới.
Từ đồng bằng sông Cửu Long tôi về tới thành phố Hồ Chí Minh đúng lúc Đại hội Nhà văn kết thúc, tôi tìm gặp Nguyễn Duy và một số đại biểu hội viên và nhìn thấy rõ sự vui mừng hớn hở trên nét mặt mỗi người. Tay bắt, mặt mừng, họ chuyền sự phấn khởi sang tôi như niềm vui của những người lính thắng trận từ chiến trường trở về. Khi tôi hỏi về không khí của đại hội và diễn biến cụ thể của Đại hội, Nguyễn Duy không nói mà trao cho một bài thơ song thất lục bát dài, với nhan đề "Nhìn từ gần... Đại hội Nhà văn".
Trở về nhà nghỉ T78, suốt đêm tôi cứ đọc hoài bài thơ của Nguyễn Duy, vừa đọc vừa cười một mình. Bài thơ thật là hay, thật là dí dỏm, nhưng cũng thật là chân thực.
Bài thơ đó như sau:
Nhìn Từ Gần... Đại Hội Nhà Văn
1- Thuở trời đất nổi cơn đại hội
Dân làng văn lắm nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai cách trở cho nên nỗi này.
2- Trống Hà thành lung lay bóng nguyệt
Sương Ba Đình mờ mịt như mây
Bảy lần nghị quyết trao tay
Đêm đêm bàn bạc ngày ngày tung tin
3- Phút khai mạc hội trường ngơ ngác
Nghe Đông Hoài giảng Mác Lênin
Nhà văn phải có niềm tin
Đổi mới, dân chủ kề bên kết đoàn
4- Hội thảo thọ tràng giang hùng biện
Tới Bắc Kinh bàn chuyện Xô Nga
Dài như chuyện nước nam ta
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao
5- Ngôn luận chiến cứ ào ào sấm nổ
Tưởng cơ đồ sụp đổ tới nơi
Bác Sáu à - Bác Sáu ơi
Nhà ta nó phá tan rồi còn đâu
6- Trang giấy trắng một màu quan ải
Oan khiên này biết giải cùng ai
Giận hờn quá hóa thiên tai
Văn đàn bỗng hóa vãn đài phải chăng?
Đọc xong, tôi cứ thú vị và cười một mình. Lớp trẻ bây giờ thật tuyệt vời - vừa có tài vừa có bản lĩnh. Tôi rất yêu quý họ và nhiều người trong số họ cũng yêu quý tôi. Tôi không chủ quan khi khẳng định điều này. Và đây chính là lại thêm một hạnh phúc lớn nữa của đời tôi...
Sau Đại hội Hội nhà văn lần thứ IV, tôi lại có một sự kiện nữa. Đó là chuyện báo Cửa Việt phỏng vấn tôi. Khi các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình tách ra khỏi anh Bình Trị Thiên, tỉnh Quảng Trị có một hội văn nghệ riêng và Hội đó ra một tờ báo riêng, đó là báo Cửa Việt, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng biên tập. Sau khi Cửa Việt ra số 1 tôi nhận được một thư phỏng vấn của Cửa Việt. Thư phỏng vấn có 4 câu hỏi:
-Về Nghị quyết 05.
- Về tình hình văn học hiện nay.
- Về Nguyễn Huy Thiệp.
- Về Đại Hội lần IV của Hội nhà văn.
Tôi vốn rất có cảm tình với nhóm Sông Hương trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong không khí đang còn hào hứng của đổi mới, tôi đã trả lời phỏng vấn. Ba câu hỏi trên tôi đã trả lời tóm tắt nội dung bản "kiểm điểm". Còn về câu hỏi thứ tư tôi đã không do dự trả lời đúng như những gì tôi nghĩ, đúng như những gì nó đã diễn ra mặc dầu một số người cố ý không chấp nhận điều đó.
Báo Cửa Việt hỏi: Anh không tham gia nhưng đã theo dõi Đại hội Nhà Văn lần thứ tư, xin anh cho biết suy nghĩ của anh về Đại hội này?
Trả lời: Đại hội Nhà văn là một đại hội rất tốt đẹp, tôi rất vui mừng và yêu mến thêm các nhà văn rất nhiều. Đại hội đã chứng minh được giúp tôi một nhận định của tôi đã có từ lâu mà có nhiều người phản bác: Nhận định đó là các văn nghệ sĩ của ta rất đáng tin cậy, được rèn luyện khá nhiều đã có đủ sức để biết giải quyết công việc của mình tốt hơn những người khác cứ muốn làm hộ. Tất nhiên, các việc Hội Nhà văn và các Hội khác đã làm chưa đầy đủ chưa hoàn toàn. Nhưng đã là tốt đẹp. Sau này các Hội sẽ bổ sung, sẽ chỉnh lý, sẽ làm thêm, và cũng chỉ các Hội mới biết làm thế nào cho tốt. Có những việc, các Hội có thể làm không tốt làm sai, làm có hại vì nhiều lý do. Nhưng rồi cuối cùng cái gì là sự thật, cái gì là tốt hơn cũng sẽ có người nói lên, vạch ra. Đại hội Hội Nhà văn đã làm việc đó, đã cất lên những tiếng nói vừa xúc động vừa có sức mạnh vạch trần những sai lầm, bất công, những dối trá, xuyên tạc vu cáo. Tiếng nói đó có khi là những lá phiếu. Vì vậy Đại hội Nhà văn là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong quá trình dân chủ hóa của Đảng ta và của nước ta.
Trong Đại hội có một sự việc liên quan đến tôi tiện dây tôi muốn nói rõ, để có một số người nghe những tin đồn khác nhau cứ đến hỏi tôi rằng: sự thật thế nào?
Sự thật là như sau: Trong thời kỳ chuẩn bị cho Đại hội Hội Nhà văn, thời gian mà Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương không còn, tôi được thông báo là sẽ có Hội nghị Hội viên là Đảng viên và trong Hội nghị đó Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương cần có bản kiểm điểm, vì trước đó giữa Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương và Ban thư ký cũ của Hội Nhà Văn có một sự việc quan hệ không thuận lắm. Tôi đã chuẩn bị một bài viết gọi là kiểm điểm. Có những người cho rằng bản kiểm điểm đó sẽ là sự nhận hết những tội lỗi mà họ đã báo cáo với cấp trên. Tôi gửi lại bản tài liệu, tôi xin phép vắng mặt vì tôi cũng là Hội viên, Đảng viên. Tôi không yêu cầu công bố bản đó mà chỉ gửi cho các đọc chủ trì Hội nghị. Nhưng tất nhiên, tôi cũng không yêu cầu không công bố. Thế rồi ra Hội nghị chính thức, có người và sau đó nhiều người yêu cầu công bố, Chủ tịch đoàn quyết định cho công bố, yêu cầu anh Nguyễn Văn Hạnh phó Ban Văn hoá Văn nghệ cũ và cũng là một hội viên đọc tài liệu đó giữa Đại hội. Tôi đã nói tôi viết tài liệu đó không phải để xưng tội, mà là để góp tiếng nói trung thực làm sáng tỏ những sự thực về quan điểm nhận thức và về một vài sự kiện. Tôi được biết đa số đại hội chấp nhận những điều tôi trình bày - Tất nhiên cũng có những người không chấp nhận, không dám chấp nhận và không muốn chấp nhận. Thật ra tôi còn muốn bài đó được đăng báo nữa. Và ai muốn bác bỏ nó thì cũng viết báo nói lại cho mọi người cùng xem và xét. Nhưng tất nhiên sau Đại hội, tự nhiên tất cả các báo từ Nam chí Bắc đều im hơi lặng tiếng. Báo Đất Quảng có đăng một số tham luận của Đại hội thì bị giữ lại, không được phát hành. Ai và ở đâu có chỉ thị ngầm này. Đồng thời sau Đại hội lại có lan truyền một tin tức nghiêm trọng là anh Nguyễn Văn Hạnh bị kiểm điểm nặng nề và bị cách chức! Tôi đã công khai đặt ba câu hỏi (tôi không tiện nói đặt ra với ai):
1 - Tài liệu của tôi có phải tài liệu bị cấm lưu hành không? Có phải tài liệu loại "tuyệt mật " không? Nếu không bị cấm, không tuyệt mật thì anh Hạnh hay ai đó có truyền đi, tại sao lại có thể là "phải kiểm điểm " phải có tội
2- Tôi không yêu cầu công bố vì tôi tự thấy không thể tự tôi yêu cầu công bố kiến của tôi trước Đại hội - vì nó là tài liệu quá dài nên đọc nó gấp ba lần thời gian cho phép tham luận- nhưng tôi cũng không yêu cầu không công bố. Trong thâm tâm, tôi muốn được nhiều người biết để xóa bỏ một loạt ý kiến xuyên tạc vu cáo có thể nói là bỉ ổi.
3- Sự việc rành rành như vậy tại sao anh Nguyễn Văn Hạnh cứ bị yêu cầu kiểm điểm làm cho anh Hạnh không biết mình phải kiểm điểm như thế nào?
Đại hội vui thế, tốt thế, thế mà sau Đại hội lại có việc "vớ vẩn " thế. Tôi cũng muốn bắt chước Nguyễn Duy quát to lên rằng : Ai? Ai định làm gì? Ai định làm thế để làm gì? Hãy nói công khai huỵch toẹt ra xem nào? Thời kỳ dân chủ và công khai sao lại còn có những việc úp úp mở mở, lắt léo, mù mờ, ám muội thế này? Có người bảo là ý kiến Ban bí thư yêu cầu, tôi trực tiếp hỏi anh Đào Duy Tùng là bí thư phụ trách tư tưởng, anh Tùng bảo là không có. Vậy có bao nhiêu việc mà người ta cứ nhân danh Ban bí thư áp đặt quyền uy một cách ám muội như thế này? Tôi đã trả lời một cách thẳng thắn các câu hỏi của các đồng chí. Cảm ơn các đồng chí Cửa Việt đã hỏi để tôi được nói lên những điều cần nói. Ai muốn bác bỏ những điều tôi nói xin báo Cửa Việt cũng thu nhận và đăng bài công khai... cho nó vui.
Trong sự kiện Đại Hội Nhà Văn, anh Nguyễn Văn Hạnh có bị liên lụy nặng nề. Số là trước khi tôi đi công tác ở miền Nam, tôi gửi lại anh Hạnh, lúc ấy là phó ban văn hóa văn nghệ cùng với tôi, ba bản "kiểm điểm" như tôi nói trên và tôi có tặng riêng anh Hạnh một bản "làm kỷ niệm". Vì tôi gửi cho các đồng chí chủ trì Hội nghị Hội viên - Đảng viên, nên Chủ tịch đoàn của Đại hội không có trong tay bản nào.
Khi trong Đại hội có người đòi công bố bản kiểm điểm của Trần Độ với dụng ý là được nghe những lời "xưng tội của Trần Độ, để sau đó có dịp đánh hôi thêm, tấn công rầm rộ vào xu hướng đổi mới. Những người công khai thì thành thật muốn biết ý kiến của tôi, thế là trong đại hội nổi lên một yêu cầu rầm rộ và gay gắt. Chủ tịch đoàn đành phải đáp ứng yêu cầu này. Trong Hội nghị Đảng viên, các đồng chí chủ trì không thông báo sự việc "có bản kiểm điểm" và chủ trương "cất kín" không công bố. Đến nay ở Đại hội có việc này, Chủ tịch đoàn bảo là Chủ tịch Đoàn không có bản đó trong tay và cất tiếng hỏi "Ai có không?" Anh Hạnh với lòng trung thực của mình liền bảo: "Tôi có". Thế là Chủ tịch đoàn yêu cầu anh Hạnh đọc luôn cho Đại hội nghe. Tôi nghe nói lại là, khi anh Hạnh đọc, không khí Đại hội rất sôi nổi, nhiều đại biểu tán thành và hưởng ứng, nhiều tràng vỗ tay.
Nhưng sau đó thì anh Nguyễn Văn Hạnh mang một vạ lớn: Cấp nào đó yêu cầu anh Hạnh phải kiểm điểm! Thương thay, anh Hạnh không biết phải kiểm điểm thế nào, vì anh tự thấy anh không hề có khuyết điểm gì? Anh không làm việc gì có hại hoặc không có lợi. Anh liền viết bản "Trình bày về việc... đọc bản kiểm điểm của anh Trần Độ. Nhưng cấp lãnh đạo cho rằng kiểm điểm thế là không thành khẩn, không đạt yêu cầu. Anh Hạnh phải kiểm điểm lần thứ hai. Lần này anh cũng không biết nói gì hơn, anh chỉ biết sửa đầu đề từ chỗ "bản trình bày" thành "Bản kiểm điểm" và thế là lại không đạt yêu cầu. Lãnh đạo lại yêu cầu anh Hạnh phải kiểm điểm trước Hội nghị Chi bộ của Ban Văn hóa văn nghệ. Tôi đã thôi làm Trưởng ban, nhưng vẫn là một đảng viên trong chi bộ của Ban. Tôi đi công tác miền Nam về Hà Nội đúng vào dịp có Hội nghị chi bộ đó. Hội nghị đó anh Trần Trọng Tân trưởng ban mới của Ban tư tưởng văn hóa đến dự. Trong cuộc Hội nghị đó có đồng chí phê bình anh Hạnh là "thiếu ý thức tổ chức kỷ luật", biểu hiện ở chỗ không biết đón ý cấp trên. Cấp trên đã không muốn cho công bố tài liệu đó của Trần Độ, mà anh Hạnh lại cứ tạo điều kiện cho tài liệu đó được công bố. Tôi phát biểu ý kiến bác bỏ ý kiến đó. Tôi nói: Nếu quan niệm ý thức tổ chức kỷ luật là phải biết "đón ý cấp trên" thì là sai lầm và bản thân tôi cũng không muốn có cái ý thức đó
Anh Trần Trọng Tân thì cho là anh Hạnh không khéo ứng xử. Anh Tân nói nếu như anh Tân gặp trường hợp đó thì anh sẽ ứng xử khác. Anh Hạnh đáp lại là mỗi người có một cách ứng xử riêng. Và cách ứng xử của anh Hạnh không có tội lỗi gì.
Tôi đề ra ba câu hỏi, như đã nêu trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Cửa Việt. Cuối cùng anh Tân cũng chỉ kết luận được là anh Hạnh đã ứng xử "không khéo". Vậy là cuộc kiểm điểm đã kết thúc dưới dạng một cái đuôi chuột. Và sự việc không đi đến đâu.
Sau khi báo Cửa Việt số 2 đã phát hành. Tôi được ban bí thư thông báo cho biết là có nhiều ý kiến phản ứng ở các nơi gửi về Ban bí thư, đặc biệt là có một số ý kiến của một số đảng bộ trong quân đội.
Tiếp theo đó, tôi phải có mặt làm việc với Ban bí thư và Bộ chính trị và tôi được Ban kiểm tra Đảng thông báo là sự việc của tôi phải được đem ra trong Hội nghị Trung ương sắp tới. Trong Hội nghị này Trung ương sẽ xem xét mấy vụ kỷ luật. Những vụ kỷ luật thì Ban kiểm tra Đảng sẽ báo cáo trước Hội nghị. Còn việc của tôi, Bộ chính trị không coi là vụ kỷ luật, mà chỉ là một sự việc có các phản ứng của Đảng bộ. Sự việc này sẽ do Bộ chính trị thông báo lại với Trung ương và Bộ chính trị không đề nghị kỷ luật.
Đến Hội nghị Trung ương sự việc diễn ra đúng như thế Nhưng sau khi Bộ chính trị, mà anh Đào Duy Tùng là đại diện thông báo, Chủ tịch đoàn Hội nghị hỏi Trung ương có ý kiến gì, thì lập tức có một số đồng chí phát biểu (độ 5, 6 người tôi không nhớ rõ) lên án tôi gay gắt cho tôi là vì bênh vực các văn nghệ sĩ nên gây rất nhiều khó khăn cho các địa phương. Các địa phương không đưa văn nghệ sĩ vào trật tự được, có người thì lên án tôi là đã phát biểu như là nói Ban bí thư có những việc làm mờ ám, như thế là xúc phạm cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Sau đó Chủ tịch đoàn nói là "Yêu cầu Trung ương cho ý kiến về kỷ luật", và văn phòng phát phiếu kỷ luật cho toàn thể các đồng chí chính thức để ghi ý kiến. Tôi cũng nhận được một phiếu. Tôi có lưu ý đến một số chi tiết: Phiếu này được in sẵn với đầu đề: "Phiếu về thi hành kỷ luật đồng chí Trần Độ" và có 4 mức kỷ luật: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức và khai trừ. Tôi chỉ nhớ được kết quả là có 65 ý kiến: Cảnh cáo, chỉ có 3 ý kiến là không kỷ luật còn độ hơn mười ý kiến là khiển trách. Như vậy kết luận là tôi bị kỷ luật cảnh cáo.
Tôi còn nhớ một chi tiết nữa là các bản thông báo kỷ luật thì hai đồng chí bị thi hành kỷ luật thông báo tội trạng chỉ có khoảng nửa trang đánh máy và riêng bản thông báo kỷ luật của tôi dài tới 5 trang, trong đó có cả những nội dung như là tranh cãi lý luận với tôi vậy.
Thế là kết thúc một quãng đời tôi 15 năm (1975 - 1991) là quãng đời hoạt động trong hòa bình và thống nhất của đất nước.
Cuộc đời tôi có nhiều quãng:
1 940 - 1 945 hoạt động bí mật và ở tù.
1946 - 1954 Kháng chiến chống Pháp.
1955 - 1964 Xây dựng quân đội trong hòa bình.
1965 - 1974 Chiến đấu chống Mỹ ở B2.
Và quãng 15 năm này nghĩ lại cũng thấy có nhiều việc vui buồn đáng tiếc và đáng nhớ. Nhưng nói chung, tôi không có gì phải ân hận. Hiện nay tôi được nghỉ ngơi hoàn toàn, lấy việc theo dõi tin tức, tiếp nhận những kiến thức mới làm niềm vui cuộc sống.

BÚT XUÂN KỶ MÃO

1- vì Đâu TôI VIếT BàI BúT Ký NàY?

Vì nhiều lẽ.
Lẽ thứ nhất là: Thông thường mọi người, phần nhiều là người già, đầu xuân hay khai bút, làm thơ hoặc viết văn nói lên cảm nghĩ của mình về ngày xuân. Các nhà văn hay viết văn, các nhà thơ hay làm thơ, các cụ không phải là nhà thơ cũng làm thơ. Mấy năm nay, nhà văn Hoàng Tiến đều viết: "Cảm xúc mùa xuân" và đều gửi tặng tôi. Vì thế tôi là hội viên hội nhà văn, cũng muốn nghí ngoáy đôi dòng nói lên nhiều điều ứ tràn trong người.
Lẽ thứ hai là : Kể từ ngày tôi được nổi tiếng là "chống" "..." (Tuy không ai nói tên), và từ ngày bị được khai trừ thì càng nổi tiếng hơn và rõ tên tuổi hơn. Tôi nhận được rất nhiều thư từ của nhiều người gửi đến. Có người là bạn quen, có người chưa quen. Thư là một bài viết, một tiểu luận, một kiến nghị, một khiếu nại, một tố cáo, một bài thơ. Có bài có ghi tên để gửi tôi, có bài không, có bài qua đường bưu điện, có bài cứ thấy được vứt vào nhà các con cháu tôi nhặt được đưa cho tôi. Có bài có nội dung liên quan đến tôi, hoặc hoan nghênh tôi ở điểm này, điểm khác, hoặc ngỏ ý muốn bổ xung cho tôi điểm nọ, điểm kia, hoặc ngỏ ý muốn thảo luận với tôi. Cũng có bài phê phán tôi. Tôi không có văn phòng để có người "Công văn đi đến" nên tôi không thống kê và ghi chép ngày giờ được Nhưng tôi nhớ đại khái là thời gian tôi nhận được nhiều nhất là từ tháng 11 năm 1998 đến nay. Tôi không ghi được số lượng bản viết, có bản vài trang, có bản trên dưới chục trang. Tổng cộng số lượng có đến mấy trăm trang giấy. Nội dung thì có thể thu xếp vào một số hồ sơ như:
- Hồ sơ quan trọng nhất là hồ sơ chống tham nhũng ở cấp cao, vụ thủy cung Hồ Tây.
- Hồ sơ vụ án Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, vụ Nguyễn Trung Thành, vụ Bùi Minh Quốc.
- Hồ sơ về các góp ý về lãnh đạo và xây dựng Đảng...
Tôi thấy trong các ý kiến đó, có nhiều ý kiến giống tôi, có nhiều ý kiến có thể bổ xung cho tôi. Tôi mơ ước có điều kiện thuận lợi gặp nhau (Ví dụ có một hình thức Câu lạc bộ nhỏ nào đó, hoặc một cơ quan ngôn luận nào đó) thì có sự trao đổi, tôi chắc chắn là tuyệt vời, vui vẻ và rất bổ ích, củng cố thêm an ninh Quốc gia. Nhưng tôi chỉ dám mơ ước như hồi nhỏ mơ ước làm võ sĩ vậy thôi. Một lẽ khác nữa là gần đây tôi được nghe thuật lại có một vị lão thành trí thức phát biểu ở một hội nghị quan trọng, đặt vấn đề là Tình hình thế giới và trong nước bây giờ đã thay đổi lớn lắm rồi, không thể dùng cách nhìn cũ mà nhìn được nó. Xu hướng toàn cầu hóa các mặt ở thế giới đang là xu hướng quan trọng chủ yếu. Ta cần đặt vấn đề nghiên cứu và xác định đường lối. Phải giải quyết vấn đề đường lối, chứ không thể chạy theo giải quyết những việc cụ thể nó có hàng vạn, hàng triệu. Tôi rất tâm đắc ý kiến này. Dòng suy nghĩ của tôi như được tiếp một sức mới, và tôi thấy có lẽ cũng có nhiều người khác nữa cũng thấy như tôi.
Một lẽ nữa là trong năm vừa qua tôi xem tivi, được xem nhiều phim của Trung Quốc (Lục Địa, Đài Loan, Hồng Kông) được đọc nhiều tiểu thuyết của Trung Quốc (nhất là tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết xã hội, tạp văn). Tôi thấy nhiều giá trị và tài năng ở các văn nghệ sĩ Trung Quốc (cả tư bản và xã hội chủ nghĩa). Tôi cứ ấm ức trong người rằng: Các văn nghệ sĩ Việt Nam, thanh thiếu niên Việt Nam tuyệt nhiên không thể kém hơn Trung Quốc. vậy tại sao các tài năng Việt Nam không xuất lộ được để có những giá trị cao, đẹp ra đời??? Cái tội làm thui chột tài năng trải qua nhiều thế hệ là tội nặng nhất trong các tội đối với nhân dân và tổ quốc. Tôi nhìn hình ảnh các cháu nhỏ tươi vui, thông minh, nhanh nhẹn trên tivi mà thấy thắt ruột, thắt gan với câu hỏi: Các cháu lớn lên có được hưởng hạnh phúc tự do và được tự do phát biểu không hay lại chỉ có thể trở thành những con rối? Công lao của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản lớn nhất là mang lại độc lập, tự do cho Việt Nam? Vậy tự do đâu? Mùa xuân ơi! Còn nhiều lẽ khác nữa, nhưng kể thế tạm đủ rồi.

II cảm XúC MùA XUÂN BắT ĐầU Từ Đâu?

Hồi tôi 16 tuổi, mới học vỡ lòng làm người cộng sản. Bài học vỡ lòng đầu tiên của tôi là tổ chức và điều khiển một cuộc "Khai hội" (Ngày ấy chưa nói "Hội nghị và đại hội"). Công việc quan trọng nhất trong công tác vận động và giác ngộ quần chúng là Khai hội. Mà khai hội thì nghị sự bao giờ cũng có năm tiết mục cố định.
- Tình hình thế giới.
- Tình hình trong nước.
Và sau đó
- Linh tinh
- Phê bình
- Giải tán
Lúc ấy đi khai hội với quần chúng, bao giờ cũng phải được trang bị mục tình hình thế giới, hoặc do cấp trên cho, hoặc tự chuẩn bị lấy.
Có lần, sau cuộc khai hội ở làng tôi, một anh nông dân mời tôi về nhà uống nước chè xanh, ăn khoai luộc. Anh tỏ vẻ rất phấn khởi vì tiếp xúc với cách mạng mà biết nhìn ra được thế giới, thấy rõ thế giới quan hệ tới vận mệnh của mình và gia đình mình. Anh ấy khen tôi "Có cái tinh thần rất cao" và anh hỏi tôi học ở đâu? Và anh ấy yêu cầu tôi viết ra "Cái tinh thần" ấy cho anh học với. Tôi nhớ rất kỹ kỷ niệm này. Do đó bài này cũng phải bắt đầu từ tình hình thế giới. Tôi được gặp và nghe (Có được đọc một ít) nhiều người đọc sách và báo chí thế giới thuật lại, thì thấy những trí thức, học giả thế giới họ bàn và nhận định về thế giới ngày nay hay quá, lạ quá, mới quá, rộng quá, cao quá. Càng nghe họ, mình càng thấy mình "ếch ngồi đáy giếng". Dù sao, tôi cũng thấy được trong thế kỷ qua (thế kỷ XX) có hai sự việc làm cho lịch sử loài người biến động lớn, tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của loài người. Hai sự việc ấy có thể thể hiện ra thành mấy câu hỏi:
1 - Tại sao ta dự đoán là Tư bản giãy chết, mà nó không chết, nó lại cứ phát triển mạnh hơn. Cả thế giới bây giờ đều phụ thuộc vào bảy tám nước mạnh nhất về kinh tế, văn hóa, xã hội và quân sự. Đời sống của nhân dân các nước ấy ngày càng cao. Giai cấp công nhân bây giờ là công nhân "Cổ trắng" và có đời sống cao hơn cả Nguyên thủ nước ta. Và những nước lớn ấy đều là nước Tư bản. Tại sao và thế nào?
2- Tại sao ta bảo "Nội dung của thời đại hiện nay là quá độ từ Tư bản chủ nghĩa lên Xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới" mà ở cuối thế kỷ thì Chủ nghĩa xã hội lại biến mất ở tầm thế giới, đánh rụp một cái, trong vài năm từ thành trì Liên Xô, cho đến hàng chục nước khác nữa. Sự tan vỡ sao lại diễn ra nhanh gọn thế? Tại sao? Và thế nào?
Thế giới đã có những giải đáp khác nhau. Việt Nam cũng có những lời giải thích. Nhưng lời giải thích của Việt Nam có những điều quá mông muội, quá mơ hồ, quá hồ đồ Chỉ có việc vác những khái niệm cổ lỗ để úp lên những thực tiễn quá lớn lao, quá sôi động. Sự giải thích như vậy trở thành những chuyện tiếu lâm trước các tầng lớp thanh niên. Bản thân những tác giả của các lời giải thích cũng tự biết mình chẳng bịp được ai. Nhưng vì đã chót là người làm cái nghề "Nói lấy được", thì cứ việc "Nói lấy được".
3- Còn một câu hỏi cực kỳ quan trọng nữa mà phải giải đáp được rõ thì mới có cơ sở trọng yếu mà vạch ra đường lối phát triển đất nước. Đó là câu hỏi: Đặc điểm quan trọng nhất của xu thế phát triển thế giới là gì? Một điều hết sức hiển nhiên, ai cũng thấy là thế giới hiện nay không có hai phe nữa, mà đang hình thành những cực, những khu vực. Không có quan hệ hai phe địch, ta mà quan hệ phổ biến cần xây dựng là hợp tác, đua tranh và phụ thuộc vào nhau. Nhiều lĩnh vực xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh. Đó là toàn cầu hóa về kinh tế, tài chính, về văn hóa, về xã hội, về khoa học công nghệ, về môi trường. Các vấn đề trên, không có một vấn đề nào mà một nước tự khép kín, dù cho nước lớn đến bao nhiêu, có thể giải quyết cho mình được. Sự toàn cầu hóa có thể lan sang lĩnh vực chính trị, và chưa ai ước đoán là nó sẽ diễn biến thế nào? (Hiện đã có vai trò Liên Hiệp Quốc và Nghị Viện Châu âu). Sự thật hiển nhiên dó đang phủ nhận một cách phũ phàng cái thứ tư duy mông muội, là tư duy hai phe. Cái lý luận máy móc : "Địch khen thì là ta xấu, định chê là ta tốt" quá lạc hậu này vẫn còn ngự trị ở một số đầu óc. Những đầu óc này không chịu được ai chê mình, nhưng lại sợ người ta khen mình, vậy không biết họ muốn gì. Như đối với Việt Nam, có người chê là thiếu dân chủ. Theo logic trên, thì ta "Thiếu dân chủ là ta rất hay rất tốt rồi hay sao?
Trong chiến tranh, công tác tư tưởng làm sao phân biết bạn, thù, ta là cực kỳ quan trọng, mà cũng khá dễ dàng. Còn ngày nay, ai là bạn, ai là thù? Bạn ở đâu thù ở đâu, cần làm cho rõ. Khẩu hiệu "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi người" là một khẩu hiệu thực, hay chỉ là nói cho hay thôi, còn không cần làm bạn với ai cả?

III- CảM XúC XUÂN Về ĐấT NƯớC RA SAO?

Đất nước Việt Nam có 4000 năm lịch sử có những thành tích dựng nước và giữ nước, có những giá trị văn hóa tinh thần cao đẹp. Đó là những điểm rất đáng kính trọng, và thế giới đã từng ngưỡng mộ. Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam và Đảng cộng sản đã lập những công tích rực rỡ xứng đáng với cha ông. Mặt thành công, thắng lợi, ta đã nói khá nhiều, sự khen tặng của thiên hạ, của bản thân ta cũng đã khá nhiều. Nhưng hình như ta chưa quan tâm đúng mức tới các mặt trái của cuộc sống. Ví dụ thắng lợi vĩ đại của cách mạng và chiến tranh đã có một hậu quả hết sức nặng nề: Sự tàn phá, sự kiệt quệ tài nguyên, sự tổn thất và mất mát của hàng triệu gia đình, hàng triệu bà mẹ. Ngày nay, sau thắng lợi ta phải chịu một gánh nặng hết sức lớn về những vết thương và tổn thất chiến tranh, gánh nặng phải đến bù những sự hy sinh, phục hồi những tàn phá, tổn thất. Và đó là một điều kiện khó khăn rất lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội, và sự hàn gắn đoàn kết dân tộc. Sự hạn chế về trình độ, về kinh nghiệm của lực lượng lãnh đạo trong phát triển kinh tế xã hội, không được coi trọng phân tích và nghiêm túc khắc phục. Cái kiểu tư duy : "Đã anh hùng trong chiến tranh và đã thắng được kẻ thù hùng mạnh, thì bất kể khó khăn phức tạp nào cũng dùng chủ nghĩa anh hùng đó khắc phục dễ dàng". Đó là một thứ men say nguy hiểm!
Hiện nay ta đang đứng trước một loạt nghịch lý của đời sống xã hội, và sự quản lý xã hội. Những nghịch lý này đang làm đau đầu bộ phận lãnh đạo và làm day dứt, trăn trở hàng chục triệu con tim. Một loạt vấn đề về lý luận cơ bản và tư tưởng chính trị đặt ra mà chưa có phương hướng lý giải. ý định của lãnh đạo là phải xác định mấy nguyên tắc đã định từ trước, rồi thôi không thảo luận nữa, ai tuân theo thì được, không tuân theo thì bị trừng phạt. Tôi vô cùng lo sợ cho cái ý tưởng này. Và điều đáng lo sợ không phải là lo sợ cho lực lượng lãnh đạo, mà lo sợ cho triển vọng của nhân dân, đất nước. Như thế lãnh đạo không làm việc dẫn dắt đất nước đi lên, mà đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm.
Tình hình đất nước phải là cảm xúc đầu xuân lớn nhất. Ta đang sống trong một loạt nghịch lý hay mâu thuẫn như sau:
a- Trước hết là nghịch lý càng chống tham nhũng bao nhiêu thì tham nhũng vẫn tồn tại và phát triển ngày càng nghiêm trọng.
Về mặt chống thì sự lên án đã hết mức nghiêm khắc: "Quốc nạn", "Nội xâm"... Về mặt tổ chức thì có các ban chống tham nhũng gồm những người quan trọng. Về mặt luật pháp thì đã có luật, pháp lệnh. Quốc hội thì kỳ họp nào cũng đầy dư luận phẫn nộ.
Thế mà nạn tham nhũng càng ngày càng lan rộng, lan ra khắp các ngành kể cả những ngành xã hội tốt đẹp của ta là giáo dục, y tế; Lan ra các địa phương, các ngóc ngách. Những vụ án tham nhũng ngày càng lớn. Tiền mất vào tham nhũng gần ngang ngân sách quốc gia: hàng chục nghìn tỷ đồng, nạn tham nhũng còn leo lên ở cấp cao nhất ở đây có những vụ việc, nhân dân đòi giải trình mà chưa ai giải trình, hoặc chỉ giải trình nội bộ. Trong khi lại có những vụ kỷ luật rất ghê.
Chưa ai đụng được đến nguồn gốc nguyên nhân của tham nhũng. Không tìm đến nguồn gốc thì không chống được tôi mới được một tin ở một xã ở Nam Định có mấy nghìn dân mà từ năm 1990 đến 1998 tham nhũng đã vét của dân hai nghìn tấn thóc, một trăm cây vàng (kém 2 chỉ), 6,2 tỷ đồng bạc. Đây có phải là bóc lột không? Có nặng không? Và ai bóc lột ai ở đây? Có phải chống tham nhũng là chống bóc lột không?
b- Ta hô hào và kêu gào mãi tinh giản biên chế cho bớt cồng kềnh, đỡ cho ngân sách, thì từ năm 1993 đến 1998 biên chế nhà nước lại tăng 11 %. Nhà nước biết là lương cán bộ nhân viên thiệt nhiều: hơn 30% nhưng ngân sách chỉ bù được 20%. Cần giảm biên chế, nhưng yêu cầu giảm người mà tổ chức cứ tăng lên. Thêm đầu mối, thêm đơn và lại thêm xây dựng và mua sắm. Một bài báo ở báo Nhân Dân 1991 nói về tình trạng tài sản cố định của khu vực hành chính sự nghiệp cho biết là số tài sản này chiếm 27% so với khu vực kinh doanh sản xuất, nhưng có những nhà cửa hư hỏng chưa sửa chữa được chiếm 700.000 mét vuông, 2,25% tổng diện tích nhà cửa. Thế mà học sinh trung học có được 2,4m2 đầu học sinh, còn học sinh tiểu học thì chỉ có 0,15m2 đầu học sinh. Mới đâu nghe nói Thủ tướng lại quyết định cho mỗi huyện đều được xây nhà tạm giam (có người cho là đó cũng là nhà tù) thì sẽ có ít nhất là thêm 500 nhà tù. Ngày xưa ta đã lên tiếng chửi đế quốc Pháp cai trị ta là "Nhà tù nhiều hơn trường học". Bây giờ ta lại làm cái việc mà ta đã chửi. Ta hô hào nhân dân tiết kiệm: "Tiết kiệm là nghĩa vụ của toàn dân". Tôi nghĩ dân nói chung có gì đâu mà tiết kiệm. Còn chỗ nhà nước có tiền thì cứ tiêu vô tội vạ mà tiền đó cũng là của dân đóng góp. Tại sao bộ máy đã cồng kềnh lại cứ phình ra? Ngân sách đến bao giờ mới chịu đựng nổi sự tốn phí của bộ máy. Gốc gác vấn đề là ở chỗ cơ cấu bộ máy? Sao chưa bàn tới? Lại nữa, ta nêu khẩu hiệu cải cách hành chính thực hiện "Một cửa, một con dấu" mà bộ máy lại quá nhiều cửa, nhiều con dấu. Thế thì làm sao???
c- Càng ngày xã hội càng nhiều tệ nạn, ta càng chống tệ nạn càng phát triển, các tệ nạn phổ biến là: Buôn lậu, trộm cắp, ma túy, thất nghiệp, mại dâm, trẻ em lang thang ăn mày.
Mỗi tệ nạn lại có một quyết định chống, lại có tổ chức chống, và kinh phí chống. Đặc biệt có hai tệ nạn: thất nghiệp và mãi dâm, trước đây ta cho nó là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. ở ta không có chủ nghĩa tư bản mà hình như cái tệ nạn ấy phát triển không kém (có khi còn hơn) các nước tư bản chủ nghĩa. Nghịch lý này có là tại sao??
d- Tại sao xã hội ta nhiều sự khiếu kiện, tố cáo. Đó là chưa kể ý kiến đóng góp kiến nghị mà đại diện chính phủ nói là mỗi năm có hàng chục nghìn. Rất nhiều giai thoại và "bi thoại" về đơn từ khiếu tố.
Số đơn được giải quyết quá ít, số đơn lâu không giải quyết bị "hóa bùn" quá nhiều.
Hiện tượng khiếu kiện, tố cáo ngày càng nhiều nói lên tình huống gì? Rõ ràng đó là "tình hình" "Lòng dân không yên". Các nhà tư tưởng "Nói lấy được" sẽ giải thích "đó chỉ là hiện tượng, Hiện tượng ấy không phản ánh bản chất chế độ ta".Ô? Thế nó phản ảnh bản chất gì? và "Bản chất tốt đẹp" của chế độ ta nó biểu hiện ra hiện tượng gì. Tôi không muốn và không dám, cũng không thể nói hết cảm xúc đối với toàn diện tình hình đất nước. Tôi chỉ muốn nói đến một số điểm nổi bật, rõ ràng, hiển nhiên ai cũng thấy, cũng day dứt lo lắng và muốn lý giải.
Trước tình hình phức tạp như vậy, tình hình tư tưởng chính trị của xã hội không thể ổn định. Nó tất yếu phải có diễn biến và diễn biến phức tạp. Tôi cũng đã biết có nhiều cách nhận xét, đánh giá. Đại khái có cách nhận xét đánh giá theo công thức cổ điển:
Đại đa số yên tâm, phấn khởi, tin tưởng. Có một số ít ở nơi này nơi khác, lúc này lúc khác chao đảo, dao động, giảm lòng tin. Kẻ địch lợi dụng tuyên truyền chống ta. Công thức này mơ hồ nhưng rất cần thiết đối với một số người, không ai bác bỏ được và do đó nó rất không đúng và không dùng vào việc gì được.
Tôi nghĩ có lẽ có nhiều người có thể có nhiều ý kiến khác nhau nhận xét đánh giá. Tôi có được đọc một bản ý kiến của một vị lão thành tôi không quen biết. Vị ấy có cách đánh giá, tóm tắt như sau:
Tình hình tư tưởng chính trị trong Đảng viên có năm loại như sau:
- Loại nhiệt tình.
- Loại ngoan đạo - Chỉ biết yên tâm theo cấp trên.
- Loại giảm lòng tin.
- Loại cơ hội.
- Loại đi ngược.
Ông cho rằng loại nhiệt tình là người tuyệt đối tin tường vào lý tưởng và học thuyết. Nhưng những người này quá trớn một tý thì rơi vào loại đi ngược. Loại đi ngược quá đi một chút thì trở thành thù địch, cả năm loại đều có sự xen kẽ và chuyển hóa, chứ không thể phân biệt rạch ròi. Ông ước lượng:
- Loại nhiệt tình có được khoảng 10 - 15%.
- Loại ngoan đạo có đến 50%.
- Loại giảm lòng tin có 10% - 15%.
- Loại cơ hội có đến hơn 20%.
- Loại đi ngược có rất ít.
Tôi thấy cách đánh giá này có một hệ quy chiếu cũ và cứng nhắc, và cũng không giúp ta rút ra được vấn đề gì! Tôi thì tôi thấy tiêu chí để đánh giá nhận thức, tư tưởng chính trị hiện nay phải là tình hình nhận thức và suy nghĩ có sự đối chiếu với tình hình thực tiễn xã hội ta và thực tiễn diễn biến của thế giới. Những thực tiễn đó cần đối chiếu với những nguyên lý và dự đoán mà ta đã học tập và thấm nhuần.
Sự đối chiếu này sẽ làm bật ra những sự khấp khểnh nghiêm trọng. Nó đặt vấn đề ta phải nhận thức thực tiễn như thế nào. Tôi quan sát và theo dõi thì tôi thấy, có 3 loại nhận thức:
a) Có người đã thấy rất rõ là những nguyên lý và dự đoán cũ đã sai lạc hoàn toàn với tình hình thực tiễn trước mắt. Những màu sắc lý tưởng đẹp đẽ trước kia đã bị phai lạt hết và bị thay thế bằng những hiện thực rất chua chát và mỉa mai. Cách nhận thức này đi đến tâm trạng phẫn nộ và xuất hiện yêu cầu phải lý giải chính xác tình hình, dựa vào kho tàng trí thức của loài người cả ở Tây và ở Đông, cả kim và cổ để tìm hướng đi tương đối chính xác và thiết thực không thể bám vào những giáo điều cứng nhắc và cũ kỹ.
b) Loại thứ hai là có những người nhận thấy những mặt, những bộ phận, những khía cạnh thực tiễn mâu thuẫn với các giáo điều. Nhưng lại cho rằng đó là do những thực tiễn mới diễn biến và phát triển không đúng như những nguyên lý đã có, nên nảy sinh tiêu cực. Những nguyên lý cũ vẫn đúng. Phương hướng khắc phục hiện nay là phải kiên trì trở lại các nguyên lý đã có.
c) Có những người chỉ có một hệ quy chiếu duy nhất và cố định là những nguyên lý giáo điều đã hình thành từ ít nhất 50 năm trở về trước. Họ tuyệt đối và thành thật tin vào hệ quy chiếu đó, và do vậy chỉ có khả năng khuôn khổ tất cả thực tiễn hiện nay vào những nguyên tắc, quan điểm đã có. Có thực tiễn nào khác với nguyên tắc và quan điểm cũ là do lỗi của thực tiễn. Họ muốn bắt thực tiễn phải được sửa chữa cho phù hợp với nguyên tắc và quan điểm đã có. Những người này có điểm giống với những người ở điểm b nên chiếm một số đông tuyệt đối. Còn thái độ của các người nói trên cũng có chỗ khác nhau. Trong các người loại a và b thì có người nhận thấy những sai lệch giữa nguyên lý và thực tiễn, thì thẳng thắn và phẫn nộ nói lên những điều đó. Có những người thì ấm ức trong lòng, nhưng không nói ra, giữ im lặng, để chôn chặt trong lòng tâm sự của mình.
Có người không dám nói ra, không muốn nói ra, vì phải giữ vững các điều kiện tồn tại và tăng tiến. của mình. Cũng có người thì không thèm nói ra, vì cho rằng nói ra không có ai nghe, nói ra vô ích và có hại cho mình. Thế nhưng những người này cứ ôm lấy mối day dứt trong lòng, cứ có những câu hỏi "tại sao", làm thế nào? và không lời giải đáp. Thế là có một sự im lặng đáng sợ. Sự im lặng này cứ tiếp tục tiếp nhận các sự giảng giải giáo điều và dốt nát. Những người này cũng khó xếp vào loại "ngoan đạo" hay "cơ hội". Có người ngoan đạo chăng, thì cũng ngoan đạo giả vờ, mà ngoan đạo giả vờ thì cũng ít nhiều cơ hội rồi. Tôi không thể ước lượng được tỷ lệ các loại nhận thức Nhưng qua sự quan sát và tiếp xúc của tôi, tôi đoán chắc rằng thực sự có những loại nhận thức khác nhau như vậy Tình trạng tư tưởng chính trị như vậy, không được giải quyết đúng đắn, thì hậu quả của nó rất khó lường trước được thế nào?
Cho nên vấn đề quan trọng, then chết và thiết yếu là vấn đề đối chiếu thực tiễn với lý thuyết. Sự đối chiếu này không thể thực hiện tùy tiện và không thể giao cho bất cứ một người hoặc nhóm người nào nhất là những người mà trong thực tiễn tỏ ra bị hạn chế và thậm chí ngu dốt. Làm việc này, chỉ có thực hiện một sinh hoạt dân chủ đúng đắn và trung thực. Bất cứ một sự không trung thực nào đều không tìm được ra chân lý và chắc chắn sẽ bị trừng phạt.

III- CảM XúC XUÂN HƯớNG VàO MùA XUÂN NàO?

Ta đang ở năm 1999, Kỷ Mão, là năm cuối cùng của thế kỷ XX. Ta chờ đợi năm 2000. Năm 2000 là năm giao thừa giữa hai thế kỷ. Thông thường, ta đều mong muốn và chúc từng nhau năm sau tốt đẹp hơn năm trước, gấp năm gấp mười lần. Năm 2000 là năm con Rồng. Theo biểu tượng thì từ con Mèo mà trở thành con Rồng, sự lớn mạnh đó phải gấp 100, gấp 1000 lần. Ta không nên ảo tưởng như vậy, mà ta thử nhìn qua lại một cách bình tĩnh và thực tế xem Việt Nam ta trong năm con Mèo như thế nào?
Tôi được biết và được tiếp xúc với nhiều ý tưởng nhận định đánh giá thực trạng nước ta, thực trạng bộ máy lãnh đạo và quản lý của ta. Tôi chưa tổng hợp được, tôi muốn ghi lại một số ý tưởng đáng chú ý để tiếp tục suy nghĩ và trông chờ có sự thảo luận tổng hợp cho cẩn thận. Đây là những ý tưởng của sự khái quát tóm tắt, chứ không phải sự nhận định mô tả. Về bộ máy lãnh đạo và quản lý xã hội thì có nhận định rằng: Bộ máy của ta có 3 đặc điểm: 1 cồng kềnh, 2 quan liêu quá, 3 bất lực quá. Tôi quan sát thấy đúng như vậy. Chả thế mà nó tốn kém quá, nó chiếm nhiều tài sản của nhà nước quá (nhà cửa, trụ sở, phòng họp, nhà khách, thiết bị giải trí, xe cộ sang trọng, đồ dùng hàng "xịn").
Có người đã quan sát thấy quan chức nước ta sống sang hơn các nhà tư bản các nước lớn. Chả thế mà nó không đủ sức nắm được thực trạng tình hình, không phân tích và dự đoán được tình hình một cách chính xác, nó cứ phải thay đổi ý kiến luôn luôn. Nó cứ tồn tại, trong khi nhân dân gặp những khó khăn của mình, phải kêu oan khiếu tố, nó không giải quyết hoặc không giải quyết được. Thì ra Nó (bộ máy) chỉ vì nó thôi, nó ít tác dụng vì dân, do dân.
Đó là thực trạng đáng buồn. Trong bộ máy, nạn tham nhũng rất phổ biến. Mà tham nhũng thì có thể có 3 cấp: Cấp thấp là những người lương không đủ sống, phải xoay sở, kiếm chác ít nhiều để sống và để nuôi gia đình. Cấp vừa, là đã đủ sống rồi, nhưng muốn xoay sở để đời sống được cải thiện hơn, sung túc hơn một chút.
Cả hai cấp này đều có thể nguyên lượng và thông cảm, chỉ cần khiển trách cảnh cáo và phải có phương cách cải thiện đời sống toàn diện, chứ không phải chống tham nhũng mà giải quyết được. Cấp cao là những người có đời sống đủ cao rồi, nhưng còn muốn cao hơn, còn muốn chu cấp cho họ hàng, muốn dành cho con cháu của cải dồi dào. Bản thân thì có nhà rồi muốn nhà sang hơn, có xe rồi muốn có xe nữa "xịn" hơn. Đồ dùng cũng cần nhiều và sang hơn, tiếp khách cũng cần tiếp khách sang trọng, hào hiệp hơn, làm ăn thì nhu cầu lợi nhuận ngày càng lớn hơn, tài sản tích trữ ngày càng nhiều hơn.
Trọng điểm chống tham nhũng là ở cấp cao này, nhưng lại rất khó chống vì những người này bản thân đã là cấp cao, ít nhất cũng là thân tín của cấp cao. Cho nên không tính đến nguồn gốc thì dứt khoát là không chống tham nhũng được, đành phải nhìn bọn tham nhũng phá đất nước đến tan tành và rồi cùng nhau... chết hết! Muốn chống được tham nhũng phải cải cách bộ máy từ cơ cấu, vận hành và chất lượng, nhân sự.
Lại nói về tính chất của xã hội Việt Nam hiện nay:
- Có phải là nước xã hội chủ nghĩa không? Hiển nhiên là chưa phải, chỉ là một nước lạc hậu, nghèo đói, đang bắt đầu phát triển thôi.
- Có phải là nước đi theo con đường tư bản không? Cũng không phải. Lực lượng lãnh đạo hiện nay đang cương quyết định hướng cho nó tránh con đường Tư bản chủ nghĩa. Nhưng trong xã hội hiện nay rõ ràng là đang có những yếu tố xã hội chủ nghĩa. Quả thật nước ta có những thành tích về giáo dục, y tế mà thế giới kiêng nể. Những thành tích đó đã xếp nước ta kinh tế thì nghèo nàn vào loại nhất nhì, nhưng về mặt xã hội thì lại vào loại trung bình. Chúng ta lại có rất nhiều chủ trương các vấn đề xã hội như đến ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, từ thiện, lá lành đùm lá rách. Nhà tình nghĩa, quỹ tình nghĩa, quỹ cứu đói, quỹ cứu nạn...
Đó là những yếu tố xã hội chủ nghĩa rất đáng trân trọng. Ta chủ trương kinh tế nhiều thành phần kinh tế thị trường, học tập và sử dụng nhiều phương pháp tư bản chủ nghĩa, làm cho kinh tế trong một số năm phát triển khá nhanh. Đặc biệt ta có một thành tích kỳ diệu là từ chỗ thiếu gạo ăn trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới. Điều đó thực chất là do nông dân được làm ăn tự do hơn, họ được tự làm chủ trong làm ăn hơn. Quyền đó của nông dân được lãnh đạo chấp nhận. Cho nên ở đây cần thấy là lãnh đạo thấy được quyền làm ăn của dân mà công nhận quyền đó thì sẽ có thành tích lớn ngay. Bác Hồ xưa kia đã nói đến mấy chữ "Tự do làm ăn". Bảo đảm quyền ấy cho dân thì lĩnh vực nào cũng sẽ có những thành tích phi thường cả, đặc biệt trong khoa học và văn học nghệ thuật. Chứ lãnh đạo có tài thánh cũng không làm ra được một tấn gạo hay một bài hát, thậm chí có tài thánh cũng không định hướng hướng dẫn cho từng ngành, cho các ngành được. Cái quyền tự do làm ăn ấy là kiểu tư bản hay kiểu xã hội chủ nghĩa. Tôi thấy nó là cả hai và nó cũng không phải là cả hai. Nó là đạo lý thông thường của người đời mà thôi
Gần đây tôi tình cờ bắt gặp một ý tưởng và một khái niệm thú vị: Đó là khái niệm "Tư bản quyền lực" và có người nói "Tư bản quan chức" (Capitalisme momenklatưra).
Thì ra ngoài tư bản là tiền của ra, có cái quyền lực cũng trở thành tư bản (vốn) được. Là quan chức thì có quyền lực, mà quyền lực lại là cái vốn để làm ăn. Nước ta hiện nay chưa xã hội chủ nghĩa được, nhưng có những yếu tố tốt đẹp của xã hội chủ nghĩa, không phải tư bản, rõ ràng là có cái thứ tư bản quyền lực và tư bản quan chức và đó là thứ tư bản quan liêu, tư bản hoang dã, dã man. Đó cũng là một sự thật. Có lẽ nhiều người sợ cái sự thật này. Nhưng tôi không có lý do gì để sợ nó cả.
Nhìn nhận tình hình đất nước hiện nay nhất thiết phải tìm kiếm phân tích các sự thật này?

IV MùA XUÂN ĐI Về Đâu?

Tôi đã được biết nhiều người sốt ruột với những lời kêu ca và lên án các hiện tượng tiêu cực, cho rằng "Biết rồi, khổ lắm nói mãi!" vấn đề là phải làm thế nào? Có giải pháp nào để ra khỏi tình trạng này. Đúng, đây là vấn đề hết sức bức xúc. Các cơ quan lãnh đạo cũng đã nhiều lần cảnh báo rằng tình hình sẽ càng ngày càng khó khăn hơn, nhiều thử thách nghiêm trọng hơn, gay gắt hơn. Tình hình đất nước đứng trước thử thách gay gắt thật. Mỗi người đều có một số ý kiến về giải pháp. Nhưng xét ra các ý kiến giải pháp (kể cả ý kiến giải pháp của lãnh đạo) đều khó thực hiện và khó có hiệu quả, vì nó chưa xuất phát từ những phân tích khoa học mới mẻ, sâu sắc và chính xác. Nó còn xuất phát từ sự nôn nóng, bức xúc, sốt ruột và nó còn mang nhiều nét tư duy cũ. Cho nên nó chưa hứa hẹn một triển vọng nào và nó chưa đưa lại cho mọi người một hào hứng nào. Tôi không thể không có điều kiện để đề xuất một ý kiến giải pháp nào. Tôi chỉ ghi lại hai ý kiến cảm xúc xuân như sau:
1- Giải pháp sắp đưa ra, phải là giải pháp chiến lược, nó phải là vấn đề đường lối khái quát bao trùm, nó sẽ làm phương hướng cho sự giải quyết các vấn đề cụ thể như phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại, cải cách bộ máy chống tham nhũng...
Đường lối mới ấy phải là đường lối xây dựng và phát triển đất nước, lấy đất nước, dân tộc tổ quốc là đối tượng cao nhất, mục tiêu cao nhất, nó phải thoát ra khỏi những loay hoay về định tính: xã hội chủ nghĩa hay Tư bản chủ nghĩa, tả hay hữu, đỏ hay trắng, phản động hay cách mạng. Đường lối ấy là một đường lối đưa đất nước vượt qua thử thách, thoát khỏi khó khăn để đi lên. Đường lới đó phải đưa được đất nước đi lên phù hợp với đặc điểm phát triển của thế giới, hòa nhập với những bước đi của khu vực và thế giới, phát huy được những yếu tố tốt đẹp xã hội chủ nghĩa đã có ở trong nước và những phương pháp, những công nghệ và kinh nghiệm của thế giới Tư bản chủ nghĩa, của các nước dân chủ xã hội, khắc phục kiểu tư duy biệt phái: "không phải là ta thì là địch". Phải thực sự tôn trọng và thực hiện khẩu hiệu rất hay đã có là "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi người?" Mục tiêu chiến lược và tư duy chiến lược đó là cao nhất, nó cao hơn và bao hàm cả những nguyên tắc đã có như là : kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa; kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin; vai trò của Đảng cộng sản..., chứ không ra ngoài và không ngược lại. Đảng cộng sản cần phải thu hút trí tuệ toàn dân để bồi bổ cho trí tuệ của Đảng và làm cho Đảng xứng đáng vai trò tác giả, tiền phong và tham mưu cho toàn dân tộc. Tôi cho đó là phương hướng tốt nhất. Mục tiêu chiến lược và tư duy chiến lược phải đi đôi với vấn đề chiến lược nhân sự, chiến lược nhân tài. Chiến lược phải bảo đảm sự tuyển chọn được người có thực tài ở những vị trí thích hợp. Hiện nay ở rất nhiều vị trí có những người không xứng đáng, trái ngành nghề, không được đào tạo chuẩn bị, thậm chí có nhiều chỗ người kém lại lãnh đạo chỉ huy người giỏi. Đó là vì công tác tổ chức nhân sự chỉ tập trung vào cơ quan tổ chức của Đảng, lại quá phụ thuộc vào tiêu chuẩn chính trị và yêu cầu chính trị Chiến lược nhân sự mới nên phát huy truyền thống của dân tộc : thực hiện phổ biến chế độ khảo thí, sát hạch, thi tuyển, nghe ý dân, dành cho dân quyền giám sát, quyền có ý kiến, có thông tin nhân sự quyền nhận xét và tham gia chọn lọc. Nhân sự không nên là vấn đề bí mật của một nhóm người.
2- Sau khi đã xác định mục tiêu chiến lược và tư duy chiến lược rồi, thì nó sẽ là căn cứ, là chỗ dựa vững chắc để chỉ đạo tư tưởng cho các chính sách cụ thể: Về kinh tế về đối ngoại, về văn hóa, về an ninh quốc phòng, về các vấn đề xã hội và những chính sách cụ thể về hòa hợp, đoàn kết dân tộc, một cách nhất quán cả nói và làm. Được như thế, sẽ mau chóng khôi phục lòng tin và tinh thần đoàn kết toàn dân, tạo nên hào hứng mới và sức mạnh mới.
Trong tình hình có rất nhiều mặt mâu thuẫn, có rất nhiều mối quan hệ phức tạp, ta phải dự đoán mỗi chính sách, mỗi giải pháp đều sẽ có mặt được, mặt không được (hoặc là mặt thiệt, mặt mất) mặt phải trả giá. Có khi mặt được lớn hơn, mặt mất nhỏ hơn. Nhưng cũng có khi mặt được nhỏ hơn, nhưng lại không có không được, thì vẫn phải chấp nhận. Cần có những dự đoán như vậy để cân nhắc mỗi chính sách, có đạt được mặt được lớn tối đa và mặt mất, thiệt nhỏ đến mức thấp nhất. Phải dự đoán mỗi chính sách của ta được cái gì đó, thì cũng có phải trả giá một cái gì đó. Ta cần cân nhắc tính toán để sự trả giá là nhỏ ở mức ta chịu đựng được, xứng đáng với cái ta được. Cái được và cái phải trả giá phải có được sự đồng thuận của nhân dân và của đối tác. Tuyệt đối không nên ảo tưởng là mỗi chính sách ta đưa ra là chỉ có được và hoàn toàn được, không muốn trả giá chút nào. Ví dụ tự do ngôn luận có nhiều cái được, nhưng cũng phải trả giá là có nhiều khó chịu. Tự do bầu cử cũng có nhiều cái được và cũng phải có cái phải trả giá là ta không thể tự tung tự tác 100%

- HẾT -
1      2      3     4      5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét