HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp
Gần năm năm sống trong chùa, nghe tiếng chuông ngân, hưởng mùi
hương hoa ngào ngạt, tâm hồn tôi nhẹ nhàng, dễ chịu, Nơi cửa thiền tịch mịch đã
xua đi vợi mùi ngột ngạt của cái gọi là đấu tranh giai cấp. Vì lẽ đó chế độ Cộng
sản không muốn để một tôn giáo nào tồn tại ngoài tín ngưỡng vô thần. Nếu chủ
nghĩa CS chiến thắng trên phạm vi toàn thế giới, chắc chắn nhà thờ, chùa chiền
bị san bằng, thay vào đó là những tượng đài hai “đức chúa”Marx và Lénine. Nhân
loại sẽ phải thờ hai “đức chúa”này. và mỗi nước thờ một ông “thánh sống”, chẳng
hạn Việt nam thờ “thánh”Hồ chí Minh, Trung quốc thờ “thánh”Mao trạch Đông,
Cuba…Fidel Castror, Triều tiên… Kim nhật Thành.
Trong chùa có một cô gái là Lê minh Nguyệt. Em ở với bà bác ngoại.
Dáng em thanh nhã, hơi gầy, khuôn mặt trái xoan. Và đặc biệt là cặp mắt em mơ
màng, xanh thẳm như lai người da trắng. Thời gian đầu tôi đến, bà Nguyệt nhờ
tôi dạy học thêm cho em. Bà bắt Nguyệt phải gọi tôi là cậu và xưng là
cháu. Ba năm làm gia sư cho Nguyệt không công, tự nguyện, tôi cảm thấy lòng
mình thanh thản, được làm một việc có ích cho đời. Năm học lớp mười, Nguyệt khước từ
vai trò gia sư của tôi, có lẽ do nữ tính phát triển, ngượng với bạn bè vì cách
xưng hô với tôi. Vả lại, Nguyệt biết tôi, không cha mẹ, không gia đình, không
nhà cửa, một thằng cha căng chú kiết đang sống nhờ anh Cương. Em coi tôi như
người xa lạ, ném vào cõi lòng tôi một khối sầu trĩu nặng, mặc dù lý trí khuyên
tôi: “Mi là kẻ khốn cùng. Mi hãy quên đi, hãy đào sâu chôn chặt cái ái tình dưới
nấm mồ vĩnh cửu để đời mi bớt đắng cay.”
Ái tình là cánh đồng hoa,
Đố ai tới đó không sa lệ sầu?
Tôi đâu dám yêu em, hình như em đã cướp mất hồn tôi, hình như em
tàn phá niềm vui của tôi còn sót lại. Tôi tự hỏi, cuộc đời còn gì nữa nhỉ, còn
một chuỗi ngày dài chán chường vô vọng? Nhớ đến truyện Tarax boulba của Gogol,
tôi nảy ra một ước mơ không tưởng. Nếu chàng Donjuan san sẻ tài năng và được thần
Cupidon phù hộ để Nguyệt thuộc về tôi, tôi sẽ thét lên: Em là quê hương, là tổ
quốc và cả thế giới này! Chỉ cần em nói: yêu anh, tôi dám từ bỏ cuộc đời nếu
em ra lệnh. Và như con hổ đói cũng sẵn sàng cắn xé em thành nhiều mảnh. Cực
chưa, không biết từ khi nào, như một thằng ăn trộm, tôi đã vụng yêu em? Vì em
mà nhiều phen tôi hoá ngơ, hoá ngẩn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy cách xa em
như xa cách chị Hằng.
Đầu năm 1965, tại gốc cây ngọc lan, Nguyệt đến nói với tôi:
– Nếu gọi là cậu, có thể xưng là cháu, nhưng cũng có thể xưng
là… tạo ra một khoảng cách xa lắc, xa lơ. Từ nay gọi là anh và xưng là em, như
thế anh có thuận lòng không?
– Hay lắm, sao Nguyệt không nói với anh từ sớm?
– Biết đâu anh thích bậc bề trên?
– Anh còn trẻ, muốn người ta coi tâm hồn anh như hoa đang nở,
đâu muốn em nhìn anh cằn cỗi như một ông già.
Nguyệt đọc truyện rất hay, gợi cảm. Có lần đang đọc Othello của
Shakespeare, thấy tôi đi qua, em hỏi:
– Anh có quan niệm gì về ghen nhỉ?
– Yêu là đẹp, có yêu mới có ghen. Yêu và ghen đồng biến, yêu tiến
đến vô cùng thì ghen cũng tiến đến cùng vô. Nếu yêu em như yêu cuộc sống thì
ghen em có thể dập tắt đời em.
– Anh dùng toán học để chứng minh, ghen cũng đẹp phải không?
– Hình như thế!
Em ngơ ngác nhìn tôi vẻ lạ lùng, cặp mắt em toả ánh hào quang
như hai ngọn đèn xanh. Rồi nhìn vào trang sách, em nói nhỏ như nói một mình:
– Một lý thuyết vừa mới mẻ, vừa kỳ cục. Nguyệt hỏi thêm:
– Nàng Nataxia sao không yêu hoàng thân mà theo lão thương gia?
– Mích kin từ thương chuyển thành yêu, còn Rô bô đin yêu nàng
say đắm, yêu chân thật.
– Ngoài ra, lão thương gia có mười vạn rúp để mua nàng. Buồn cho
ai đó cũng yêu say đắm nhưng chẳng có…
Em đã biết… và bắt đầu giễu cợt tôi.
Lần khác, em đọc truyện Ruồi trâu, đến bức thư của Arthur gửi
jema, em đọc to và hỏi:
– Anh Tâm ơi, anh bị trừng phạt của con gái như Arthur chưa?
– Anh chẳng dám yêu ai thì không thể…
– Tình yêu có ngôn ngữ riêng như tín hiệu của làn sóng điện, anh
giấu em sao được. Hiện thời, anh vẫn đang yêu.
– Yêu ai?
– Em không rõ lắm, anh cứ hỏi trái tim mình sẽ được trả lời.
Năm năm khuyết, trái tình cao
Mặt thường giáp mặt, lòng ngao ngán lòng.
Tiếng hát của Nguyệt ngọt ngào, âu yếm như muốn đưa những tâm hồn
đa cảm đến khoảng trời yêu thương nhớ tiếc. Tuy tiếng hát ở ở thể tự nhiên
không qua đào tạo nhưng theo cảm hứng của tâm hồn, phản ánh trung thành nhịp đập của
trái tim. Bởi vì tiếng hát của em không mặc cảm với cuộc đời, không có chỗ đứng
trong xã hội, không bị uy lực của đồng tiền chi phối. Khác với tiếng hát của một
nữ ca sỹ, buổi chiều toà xử ly dị chồng, buổi tối trình bày bài tình ca.
Giống như một miền hoang dã mà cảnh quanchưa có sự can thiệp của
con người, biết đâu miền hoang dã ấy có cảnh thiên nhiên lại tuyệt diệu hơn nhiều
nơi “hoa chăm, cỏ xén”…?
Đã bao lần, tôi đứng tựa gốc lan nghe Nguyệt hát, em mơ màng
nhìn qua hàng cây rợp bóng. Có bài như làn gió thu mát rượi thổi tâm hồn tôi đến
miền xa xăm huyền ảo, hưởng những giây phút êm đềm, thư thái. Có bài như dông tố
gầm gừ, gào thét như xô đẩy tôi về với quá khứ đau thương, tan vỡ. Có bài não
nùng, ai oán như khóc, như than, như dìm tôi chìm đắm trong biển cả đầy nước mắt
và tủi nhục. Khi ấy, tôi lặng lẽ khóc thầm.
Một lần em ngừng hát, hỏi tôi, giọng em đầy quyền uy và khiêu
khích, ánh mắt em lạnh lùng xa cách như ánh sao đêm:
– Anh Tâm ơi, ai thương nhớ ai cho lòng ai tê tái?
– Anh nhớ thương ai mà lòng anh rạo rực!
– Hãy nhớ thương đi, nhớ thương mãi, nhớ thương hoài, nhớ thương
cứ xuôi dòng chảy về đại dương tình cảm. Để trái tim ai đó quặn đau vì nhớ
thương không có dòng chảy ngược.
Tàn nhẫn quá nhưng Nguyệt đã trả lời sự thực. Em không thể yêu
tôi, mặc dù em biết tôi yêu thầm nhớ trộm.
Nếu có chăng, Nguyệt yêu theo cách một tâm hồn lãng mạn, yêu chỉ
để mà yêu, yêu để tìm nguồn cảm hứng – một cuộc tình đùa cợt đầy nguy hiểm.
Một buổi chiều vầng dương gần đi ngủ, em hát bài Santa Lucia.
Như một giấc mơ kỳ diệu, tâm hồn tôi bay bổng đến vùng Địa trung hải xa xăm,
trong vắt, tìm kiếm đấu trường Colisé thời trung cổ, bỗng tôi giật mình như
linh tính báo. Tôi chạy ra dốc hàngThan, thấy Khoa đang đứng tựa gốc cây
cũng đang nghe Nguyệt hát. Khoa lơ đãng nhìn tôi, hình như anh chẳng biết tôi
là ai cả. Có lẽ tâm hồn anh cũng đang du lịch đến một phương trời nào đó?
Nửa giờ sau, Khoa vào chùa, đọc cho tôi nghe bài thơ anh vừa
sáng tác. Tối hôm đó, đứng ngoài song cửa, tôi hỏi Nguyệt:
– Em có thích thơ không?
– Em thích thơ của Vũ hoàng Chương.
– Bài nào?
– Nhiều bài lắm, chẳng hạn bài thơ nào đó có hai câu cuối:
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời quên.
Anh Tâm muốn ai đó đưa anh về cuối trời của tác giả không?
– Chẳng bao giờ…
– Thế thì đau khổ đấy! Hai câu đầu của một bài thơ khác:
Anh biết em từ độ
Tuổi em mới mười hai.
Anh có thấy đúng với anh không?
– Muộn hơn một năm.
– Ra thế, anh biết ai đó từ năm mười ba tuổi. Và có lẽ yêu từ độ
tóc em còn xoã vai. Thật đau lòng, trái tim ai đó vẫn lạnh lùng, trơ như đá trước
những tín hiệu dồn dập của làn sóng tình dào dạt. Nếu có chăng, ai đó chỉ nghĩ
đến anh trong đạo thày trò.
– Người ta cũng tự hiểu mình rồi, em không cần nói nữa.Anh đọc
cho Nguyệt nghe bài thơ mới sáng tác của bạn anh nhé?
– Anh Khoa phải không?
– Sao em biết?
– Đến nhà lúc hoàng hôn chỉ có anh Khoa. Tâm hồn anh Khoa, em lạ
gì.
– Em tìm hiểu từ đâu thế?
– Việc gì phải tìm hiểu đâu xa? Bao lần hai anh tâm sự tại gốc
lan, em ngồi trong song cửa nghe như đài đọc truyện đêm khuya.
– Em mắc tội gian lận rồi, sao nghe trộm?
– Truyện kể bên tai không nghe sao được? Các anh mới mắc tội dại
khờ, không cảnh giác. Em biết anh Khoa vừa làm thơ hay, vừa biết hoạ.
– Bây giờ em nghe bài thơ của anh Khoa nhé?
– Anh đọc đi – Nguyệt nói như ra lệnh.
Tiếng hát giữa hoàng hôn
Mây chiều đã ngậm màu son,
Vừng ô còn ở đầu non chưa về,
Chân trời xa khuất sương che,
Cánh chim buồn bã bay về xa xăm.
Lời em văng vẳng đưa ngang
Như xưa một khúc Tầm Dương vọng về.
Khi cao réo rắt tái tê,
Khi trầm nho nhỏ như về chiêm bao.
Nghe như suối vắng rừng sâu,
Nghe như thánh thót gợi sầu giọt Thu.
Hồn mơ về thuở xa xưa,
Tình anh đã chết bao mùa thu rơi.
Em đừng hát nữa em ơi,
Ngày xanh tan nát, tơi bời đã lâu,
Nửa đời đã chín thương đau,
Hát làm chi nữa, trái sầu rụng rơi.
Quỳnh tương đã trót nhắp rồi,
Ngàn năm vọng tiếng chia phôi nghẹn lời.
Ngừng đi đừng hát em ơi,
Để cho hồn lạc trên trời phiêu diêu.
Nghe tôi đọc xong, Nguyệt nói:
– Anh Khoa mới hai mươi hai tuổi, sao anh vội vã chiết khăn tang
tình yêu sớm thế? Bao mùa lá rụng, anh đào huyệt chôn cất mối tình đầu để rồi
anh mong ước cả thế giới này im lìm, hoang vắng, không còn vang lên khúc hát, lời
ca.
Một ý nghĩ thật là cô đơn, ích kỷ.
Sau đó, Nguyệt nhìn tôi, cặp mắt em long lanh ngời ánh sáng màu
xanh, em nói:
– Còn anh, em nói nhiều rồi, chắc anh đã hiểu. Hôm nay, em nói
rõ hơn. Em yêu tâm hồn anh, nhưng không thể cùng anh xây tổ ấm, vì “phận mỏng
cánh chuồn phải núp bóng tùng quân”. Câu nói đó, anh hiểu rõ hơn em. Em biết,
anh đã yêu em – một tình yêu thầm lặng, đơn phư
ơng. Có lẽ chẳng bao giờ anh quên mối tình thơ mộng và tàn nhẫn ấy, chẳng phải
do em – một đứa con gái bình thường không thể cùng anh vượt qua chông gai, bão
tố – mà do xã hội. Khái niệm một túp lều tranh hai trái tim vàng đã lùi về dĩ
vãng. Em cũng biết, đời là cuộc bể dâu nhưng thường thì người ta chỉ ghi nhận
và lựa chọn cái giá trị của hôm nay, có mấy ai nghĩ đến ngày mai?
Em mong muốn, anh cứ coi em như bông hoa trong vườn ngự uyển,
anh chỉ được chiêm ngưỡng mà không có quyền được hái. Rồi đây, dù có cách núi,
cách sông bao giờ em cũng luyến nhớ anh – một tâm hồn tuyệt diệu.
Cuộc tình đùa cợt, lơ lửng ấy kéo dài thêm mấy tháng đến khi tôi
từ giã nơi cửa Phật. Ký ức tôi ghi lại trong trang sử tình ngắn ngủi, phũ phàng
thêm một người con gái họ Lê để trái tim tôi còn rung cảm mãi với nỗi buồn man
mác.
* *
*
Tháng sáu năm 1965, Hưng nằm ở một quân y viện; Anh bị thương,
bom Mỹ cắt mất cánh tay phải trong một cuộc chiến đấu bảo vệ cầu Hàm rồng hồi
tháng ba. Lúc đó cánh tay bị cụt đến khuỷu đã được giảm đau, anh đang nằm suy nghĩ
về tương lai của cuộc đời mình và gia đình thì nhận được thư của mẹ.
Hà nội ngày 3 – 6 – 1965.
Hưng con! Mẹ nhờ người viết thư cho con vì mắt mẹ đã loà. Tối
hôm ấy, sau khi con đi khỏi nhà nửa giờ, bố con bị bắt đi tập trung cải tạo. Yếu
quá, bố con không đi được, hai công an phải dìu bố con xuống cầu thang và đưa
lên ô tô.
Hiện nay bố con ở Yên bái, mới đây gửi thư về, viết là vẫn ốm
đang nằm trạm xã của trại giam.
Mẹ muốn đi thăm bố nhưng đi sao được? Năm ngoái, em Nga đi đâu
hơn một tháng rồi lại về. Nó thương bố mẹ lắm, chỉ khóc hoài và oán trách con
mê muội, tệ bạc. Gần đây Nga lại bỏ đi đâu, có lẽ em con đã hư hỏng. Mẹ khóc hết
nước mắt vì thương bố con. Thế là mắt mẹ mờ dần và hiện nay không nhìn thấy nữa.
Nghe người ta nói, ở trại cải tạo đói khổ lắm, phải được sự giúp
đỡ của gia đình nhưng mẹ không làm được gì, hầu bản thân cũng không xong, nói
chi đến việc kiếm tiến để sinh sống và hỗ trợ bố con? Mẹ xin con hãy thương bố,
có vì cái gì chăng nữa cũng không nên cắt đứt tình phụ tử và tình mẫu tử.
Chúc con mạnh khoẻ, bình an.
Người mẹ cô đơn đang chờ con.
Hưng đọc xong thư, mồ hôi toát ra ướt hết áo. Anh rùng mình hoảng
sợ. Như sét đánh ngang tai làm anh bừng tỉnh.
Anh tự hỏi “vì sao ta bỏ bố mẹ vào sống tập thể? Trước khi nhập
ngũ, tại sao ta không ở lại nhà một đêm với gia đình trong lúc bố ta đang ốm nặng?”Rồi
anh tự trả lời “Ta là thằng ngu, thằng mê muội và bội bạc như Nga oán trách”.
Anh từ bỏ bố mẹ, gia đình để phấn đấu vì mục đích gì và chiến đấu cho ai?
Tổ quốc và dân tộc, hai phạm trù đó hiện tại đối với anh còn xa xôi quá nhưng
thời gian sẽ cho anh biết, tổ quốc đang ở thời kỳ tối tăm nhất trong lịch sử và
dân tộc đang trong cảnh lầm than, cơ cực như thân trâu ngựa. Phấn đấu và
chiến đấu vì gia đình anh chăng? Một ngàn lần không phải, gia đình anh đang tan
tác, mẹ bị mù, em hư hỏng, bố đi tù. Nhưng bố anh bị tù vì tội gì nhỉ? Người cả
đời dạy học, chưa làm một điều gì thất đức, lúc nào cũng chỉ cầu mong một cuộc
sống an phận thủ thường. Phải chăng thân phụ anh đã mắc tội không giống những
người mà đảng áp đặt về ý thức hệ. Phấn đấu và chiến đấu vì bản thân anh chăng?
Cũng không phải, anh trở thành người tàn phế, được đảng bố thí cho đồng tiền trợ
cấp mạt hạng để mà tồn tại.
À phải rồi, anh đã phấn đấu vì mục tiêu của đảng và chiến đấu để
bảo vệ ngai vàng của đảng vì anh đã tin tưởng tuyệt đối vào đảng. Những ngôn ngữ
giáo điều, lừa bịp, anh đã được học tập ở nhà trường, nhà máy và trong quân đội:
Nào là đảng Cộng sản, đội quân tiên phong của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động; Đảng kết tinh sức mạnh của chủ nghĩa Marx – Lénine; Nào là đảng lãnh
đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc, thực dân, phong kiến,
tư bản, chống áp bức bóc lột, bất công và nghèo nàn, lạc hậu… Ngoài những mỹ từ
quen thuộc ấy, thực chất đảng là gì anh không hiểu? Chỉ vì cái niềm tin tuyệt đối
vào đảng – một lòng tin mê muội đã dẫn anh đến giai đoạn bỏ rơi bố mẹ, anh
đã chôn vùi tình phụ tử và tình mẫu tử – một chân lý vĩnh hằng của loài người.
Rốt cuộc, anh trở thành đứa con bất hiếu, phản bội lại chính mình. Nhìn xa hơn
nữa, anh đã phản bội lại cả tổ quốc và dân tộc. Anh là nạn nhân đáng thương của
sự lừa bịp.
Sáng sớm ngày hôm sau, Hưng trốn khỏi quân y, trở về Hà nội. Bước
chân vào nhà, Hưng thấy ớn lạnh vì cảnh vật tiêu điều hoang vắng. Bác Hiền ngồi
trên giường, thấy động, hỏi:
– Ai đấy?
– Con đây mẹ ạ! Hưng đã về với mẹ.
– Con lại đây – Bác Hiền gọi con rồi oà lên khóc. Hưng ngoan
ngoãn đến ngồi bên mẹ. Mẹ sờ đầu, tóc con rồi đến hai cánh tay. Như bị điện giật,
bác Hiền kêu lên:
– Sao thế này con?
– Tay phải con bị mất rồi mẹ ạ.
Bác Hiền vật vã, khóc than thảm thiết. Hưng ôm lấy mẹ, khóc như
một đứa trẻ.
Mùa hè năm ấy, người ta đồn rằng, ở trước vườn hoa hàng Đậu, cứ
chiều thứ bảy có một thương binh mất một cánh tay dẫn một bà mẹ mù tuổi chưa
già nhưng dáng người gầy yếu, tiều tuỵ, theo đường Quan thánh đến đường Cổ ngư
và ngồi bên gốc cây cổ thụ cạnh hồ Tây, gần chùa Trấn quốc. Họ im lặng, chẳng
ai nói với ai một lời nào. Đến khi còi phát thanh báo chín giờ họ lại dẫn nhau
về. Những kẻ cuồng tín khi thấy hình ảnh trên đã nói, chiến đấu dưới lá cờ
vinh quang của đảng, anh đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ
tổ quốc.
Những thanh niên nhạy cảm, thức thời mỉa mai, cánh tay phải anh
đã hiến dâng để bảo vệ ngai vàng của đảng, còn cánh tay trái để xây dựng cuộc đời.
Có lẽ trái tim anh cũng thế:
Phần tươi đỏ anh dành riêng cho đảng phần nhiều,
Phần thương mẹ mù và phần để em yêu.
Những nhà tư tưởng nhìn mẹ con anh với ánh mắt ái ngại, gợi sầu:
họ là những nạn nhân của thời đại.
Những bước chân của bà mẹ mù mỗi ngày một ngắn và chậm lại. Đến
một buổi tối thứ bảy, ngồi bên hồ Tây, họ không im lặng nữa. Bà mẹ hỏi:
– Hôm nay trời đẹp lắm phải không con?
– Đẹp tuyệt vời mẹ ạ, trăng sao vằng vặc, từng áng mây trắng nhởn
nhơ bay qua hồ vào thành phố.
Mẹ cũng linh cảm thấy trời hôm nay đẹp lắm. Bởi vì mẹ đang nhớ lại
cảnh trời của hai mươi bốn năm về trước tại nơi đây. Mùa hè năm ấy, mẹ đi bán
hoa thường rẽ vào chỗ này nghỉ mát. Bố con, sau giờ dạy học cũng thường dạo
chơi ở chốn này. Hôm nay là ngày kỷ niệm lần đầu bố mẹ gặp nhau. Những năm
tháng yêu nhau cũng nơi này là điểm hẹn. Bố con thích chơi thuyền, cứ đến chiều
thứ bảy trên chiếc perissoire II, bố đưa mẹ ra giữa hồ. Khi ấy bầu không gian
yên tĩnh, chỉ còn tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền. Có lần mê say với cảnh
trời mây trăng nước, bố con cất cao tiếng hát bài o�ne day, có lẽ tiếng hát
bay xa và lan toả khắp mặt hồ.
Khi con còn nhỏ, về mùa hè, bố mẹ thường đưa các con dạo chơi
trên đường này và ăn món bánh tôm. Kỷ niệm trên đường Cổ ngư và hồ Tây biết bao
êm đềm, đẹp đẽ!
Những năm tháng chiến tranh, bố con hay nghe đài phát thanh cách
mạng, bởi vì khi đó bố con có nhiều cảm tình với cách mạng. Có lần bố con nói với
mẹ, trong lúc quốc gia hữu sự không đóng góp gì cho đất nước thì thật là uổng
phí.
Bố con muốn vào chiến khu, mẹ chẳng hiểu gì chính trị, không muốn
xa chồng, một mình nuôi dạy các con dại nên cản lại. Ngày tiếp quản thủ đô, bố
mẹ diện những bộ quần áo đẹp nhất, dẫn cả hai con đi chào đón đảng, bác và
chính phủ, con còn nhớ chứ?
– Vâng – Hưng trả lời – có thể ngày đó cũng góp phần biến con
thành đồ mê muội.
– Sau ngày đó, bố con đi nghe ông Phạm văn Đồng nói chuyện, cảm
động đến nỗi khi kể lại với mẹ còn sụt sùi nước mắt. Cuộc đời tưởng như hoa
đang nở với bao hy vọng và ước mơ tuyệt đẹp. Đến nay con thấy gia đình ta trở
thành một tấn bi hài kịch chưa? Từ năm 1960 bão táp của xã hội dội xuống
gia đình, bố mẹ mất việc, kinh tế lâm vào cảnh cùng quẫn. Bố mẹ bắt đầu tỉnh
thì con bắt đầu mê – bệnh mê muội đáng thương của cả dân tộc. Tại sao lại có cảm
tình, say mê làm việc, thậm chí chiến đấu, hy sinh cho một thể chế – chính nó
là thủ phạm gây nên mọi nỗi đau thương, tan nát cho mình.
Ngừng một lát, bà mẹ tiếp:
– Hiện nay mẹ đã mù, ngoài cái dở cũng có cái hay, con ạ. Mẹ
không nhìn thấy những hiện tượng xấu xa của xã hội cũng như không phải nhìn thấy
đứa con thương tật của mình. Trong trí nhớ của mẹ chỉ ghi lại hình ảnh đứa con
khôi ngô, hoạt bát xưa kia.
Mẹ thấy trong người yếu lắm, hình như tử thần đang rình rập mẹ ở
đâu đây. Mẹ xin con lần cuối, hãy thương yêu những người cùng máu mủ.
Nghe mẹ nói, Hưng ôm lấy mẹ khóc hoài. Bởi vì anh đã và đang sám
hối.
Sau ngày đó, chiều thứ bảy đã vắng bóng mẹ con người mù trên đường
Cổ ngư. Một hôm tôi thấy Hưng ngồi trên ghế đá ở công viên hàng Đậu, đầu anh
chít khăn tang.
…
Tháng 3 –1965, anh Hoàng xin cho tôi vào làm hợp đồng tại xí
nghiệp Điện thông. Đây là một cử chỉ đặc biệt của một người keo kiệt của
Appagon. Chưa phải là công nhân chính thức nên chưa cần điều tra lý lịch nơi
nguyên quán, do vậy phòng tổ chức của xí nghiệp đã nhận tôi.
Thời gian này, Khoa thường dẫn một người bạn cùng quê, tên là Dậu
đến chỗ tôi ở và rủ nhau đi uống cà phê hoặc trà tại cửa hàng Thuỷ tạ, Nhân hay
Phúc châu… Dậu hoạt bát, mạnh khoẻ, nước da bánh mật dạn dầy với nắng mưa.
Anh mới mười chín tuổi, học dở lớp mười, không còn bố mẹ. Dậu là
công nhân đường sắt tại công vụ Bắc giang, cuộc đời tự lập trải qua nhiều khó
khăn, thiếu thốn. Từ đó anh đã thấy một phần sự bất công, vô lý của xã hội.
Dậu nói:
– Công nhân làm vất vả, tiền lương tồi tệ, chia ra ăn từng bữa.
Trong khi đó, bọn có chức, có quyền cương vị càng cao càng nhiều bổng lộc, sung
sướng trên mồ hôi, nước mắt của người lao động.
Một lần tôi đi cùng với tổ trưởng sản xuất đến thăm ông giám đốc
bị ốm đang nằm viện. Hôm ấy các ông trưởng phòng tài vụ, tổ chức cũng đến, hai
ông này mang nhiều quà lắm: giò, đường, sữa, duốc… tất cả đến vài ba chục ký.
Hai ông nói:
– Công đoàn và các phòng ban khác sẽ đến thăm thủ trưởng sau,
hôm nay chúng tôi đến thăm và có chút quà biếu đồng chí bồi dưỡng.
Ông giám đốc bảo:
– Tôi lấy một ít thôi, còn lại các đồng chí mang về.
– Kính thưa thủ trưởng, đồng chí phải cố gắng ăn để chóng phục hồi
sức khoẻ còn phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Gói quà trị giá bằng ba tháng lương của người lao động. Còn công
nhân có ốm đau đến chết, ngoài mấy người cùng tổ, chẳng có đứa nào dòm ngó tới.
Nghe hai chữ phục vụ vừa êm ái, vừa ghê tởm.
Đúng là công nhân làm chủ nhà máy, nông dân làm chủ ruộng đồng.
Họ bị vắt kiệt sức để làm ra sản phẩm nhưng họ không được quyền làm chủ sản phẩm.
Nhà nước cho ăn thế nào phải chịu thế ấy; nếu ai kêu ca, phản đối nhẹ thì mất việc
làm, nặng thì vào nhà đá.
Nói chung công nhân, nông dân và trí thức được tự do làm việc
theo điều khiển, tự do đói nghèo, tự do tin tưởng tuyệt đối vào đảng, nói và
hành động theo ý đảng. Thực sự họ biến thành bầy nô lệ của chế độ CS – kiểu nô
lệ hiện đại – không được mưu cầu hạnh phúc và bị bóp nghẹt các quyền tự do
tối thiểu.
Dậu hỏi:
– Anh có ý nghĩ gì về quy luật phủ định của phủ định trong phép
biện chứng của Marx?
– Trước hết phải khẳng định đó không phải một quy luật nhưng chủ
nghĩa ấy đang lũng đoạn cả hành tinh nên chúng ta đề cập đến một đôi điều. Theo
ông Marx, chủ nghĩa CS là giai đoạn phát triển cuối cùng của lịch sử xã hội
loài người – một thế giới đại đồng, không có vũ khí, không có chiến tranh,
không có áp bức, bóc lột, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Một
học thuyết tuyệt đẹp nhưng ngay trong mơ đã thấy hoàn toàn không tưởng. Vì thứ
lý thuyết ma quỷ này hiện tại làm khoảng một phần ba nhân loại đau thương,
cơ cực. Nhất trí với ông David Ricardo, tôi cho rằng chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu,
tuy nhiên luôn có sự đổi mới để phù hợp với nền văn minh của nhân loại. Lịch sử
xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giữa cái ác và cái thiện.
Nhìn lại, từ xưa đến nay, cái thiện đã dần dần chiến thắng cái
ác, tuy vậy vẫn có sự chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, ngày nay do khoa học và kỹ
thuật phát triển, nhiều nước phương tây đang thênh thang trên con đường tiến tới
đỉnh cao của hạnh phúc thì dân tộc ta và các nước trong phe CS, cái ác
đang loại trừ cái thiện.
Nhân vô thập toàn, ngọc còn có vết, làm gì có cái thế giới đại đồng
như trong học thuyết ma quỷ ấy – thứ học thuyết không tưởng về mục đích, biện
pháp thực hiện lại vô cùng tàn bạo gây nên thảm hoạ cho nhân loại trong thế kỷ
này. Vì thế, học thuyết Marx chỉ thực hiện được ở các nước lạc hậu, dân
trí thấp.
– Còn độc lập? – Dậu hỏi.
– Phạm trù độc lập chỉ có ý nghĩa thuần tuý ở các quốc gia phong
kiến thời xưa, do phương thức sản xuất còn lạc hậu nên quan hệ của con người chỉ
dừng lại tại quê hương hoặc tổ quốc mình. Ngày nay, do sự bùng nổ của khoa học, kỹ
thuật nên quan hệ của con người dẫn tới phạm vi toàn thế giới. Chủ quyền của mỗi
nước liên quan đến nền kinh tế, trình độ khoa học, kỹ thuật. Các nước chậm phát
triển lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Từ lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc
về chính trị. Nền kinh tế của một quốc gia còn lạc hậu đến độ chưa làm ra nổi
cái kim khâu thì quốc gia đó độc lập thế nào? Súng cao xạ, máy bay mig, tên lửa
của ai, súng AK, mũ cối và các khí tài quân sự khác của nước nào? Thế thì Việt
nam có chủ quyền không hay do sự sai bảo của nước ngoài?
Tôi cho rằng, các nước chậm tiến lệ thuộc vào bên ngoài là điều
tất yếu theo xu thế của thời đại.
Muốn đất nước phát triển kinh tế, người dân có ăn, có mặc, có tự
do thì những người cai quản quốc gia phải sáng suốt đi theo hệ thống chính trị
nào? Nếu chủ nghĩa CS chiến thắng trên toàn thế giới thì nền văn hoá dân tộc
bao gồm phong tục, tập quán, tín ngưỡng… đều bị thủ tiêu. Và thay vào đó
cái gọi là nền văn hoá CS. Cuộc chiến tranh hiện nay với chiêu bài độc lập, tự
do nhưng thực chất là cuộc chiến nhằm cộng sản hoá miền Nam.Chúng ta khẳng định
chủ nghĩa CS là thảm hoạ cho nhân loại và dân tộc thì vai trò của Hoa kỳ ở
miền Nam với mục đích ngăn chặn làm sóng đỏ là chính nghĩa, phù hợp với lương
tri và đạo lý.
Dậu hỏi:
– Đang lúc chiến tranh ác liệt, chúng ta không tránh khỏi cảnh
làm bia đỡ đạn. Tôi có ý định trốn khỏi nơi này.
– Còn anh? – Dậu hỏi tôi.
– Trước hết phải quan niệm rằng, nếu chiến đấu để bảo vệ tự do,
bảo vệ chân lý là nghĩa vụ của mọi người, không thể nói là cảnh làm bia đỡ đạn.
Hiện nay chúng ta đang sống dưới một chế độ đầy bất công, tội ác. Không muốn trở
thành một tên lính chiến đấu để bảo vệ chế độ ấy, chúng ta phải ra đi. Tôi biết
rằng, nhiều người có ý nghĩ ấy nhưng khi thực hiện trăm người chỉ thành công một,
số còn lại phải ngồi tù hoặc làm mồi cho thú dữ trong rừng, cuộc hành trình chỉ
có hoà hoặc thắng. Bỏ mạng hoặc vào tù là hoà, thoát là thắng. Bạn định trốn đi
đâu?
– Ra đi không phải vì giá áo, túi cơm, tôi muốn cùng góp sức với
nhân dân miền Nam chống Cộng.
– Ý nghĩ của bạn thật tuyệt vời. Nếu quân đội Việt nam Cộng hoà
và nhân dân miền Nam đều có ý nghĩ như bạn thì mặt trận giải phóng không còn đất
dung thân.
Điều đáng buồn là người miền Nam đa số “ăn cơm quốc gia, thờ ma
CS”. Họ chẳng hiểu gì về kẻ thù của họ, lẫn lộn trắng đen. Số đông vẫn coi chế
độ CS ở miền Bắc là một ước mơ. Vì lẽ đó, CS mới thực hiện được chiến tranh
nhân dân. Về mặt tâm lý chiến, Sài Gòn như một con cừu non dại thì Hà nội
như con cáo già nham hiểm trong cuộc chiến cài răng lược. Tôi không tán thành
quan điểm về vũ khí luận. Một đoàn quân được trang bị hiện đại nhưng không hiểu bản
chất xảo quyệt của kẻ thù, không có ý thức chiến đấu thì làm sao phát huy được
sức mạnh của vũ khí để giành chiến thắng?
Quyết định thắng bại của cuộc chiến ở miền Nam giống như cái kiềng
có ba chân là ba yếu tố: quân sự, dân sự và kinh tế. Chính phủ Việt Nam cộng
hoà chỉ có hai chân, còn chân thứ ba – dân sự nếu không nói là bị gẫy thì cũng
vô cùng yếu. Thực chất phía mà chúng ta định cộng tác là như thế, các bạn có
quyết tâm không?
– Còn mày? – Khoa hỏi.
– Cộng sản đã cướp đi của tôi tất cả, trong đó có quyền được làm
người, tôi ra đi là đúng và cần thiết.
– Chế độ CS làm gì có nhân quyền, phải chăng con người biến
thành cái máy thiếu dầu mỡ, han rỉ, hư hỏng trước thời gian – Khoa nói – chúng
ta cùng quyết tâm chuẩn bị lên đường.
– Ra đi chúng ta bị buộc tội là phản quốc? – Dậu hỏi.
– Một thể chế tốt đẹp có dân chủ và nhân quyền, mọi người được
mưu cầu hạnh phúc – Tôi giải thích – thể chế đó đồng nhất với phạm trù tổ quốc.
Ở đây tổ quốc có đồng nhất với CS đâu? Họ muốn bán rẻ tổ quốc Việt nam cho cái
gọi là phong trào CS quốc tế. Cũng như cuộc chiến hiện nay không phải là
cuộc chiến tranh ái quốc. Là tay sai trung thành, trước mắt họ muốn CS hoá miền
Nam và Đông dương, sau đó thực hiện vết dầu loang để CS hoá cả vùng Đông Nam
á. Cần phải nói thêm rằng, không có kẻ nào dám công kích chân lý mà chỉ đội lốt
chân lý để thực hiện âm mưu đen tối của mình. Họ đội lốt chân lý độc lập, tự do
để lừa bịp, để phát động cuộc chiến tranh này. Như vậy, chúng ta ra đi
không phải là phản quốc. Tuy nhiên, phải bỏ quê hương và tổ quốc là nỗi đau xót
của mọi người.
– Đường đi – Khoa nói – Trước kia nhiều người trốn từ Nghệ an
qua cửa Rào sang đất Lào. Từ đó về miền Nam. Hiện nay, vùng cánh đồng Chum –
Xiêng khoảng chiến sự đang diễn ra ác liệt, chúng ta không thể qua đường ấy.
Còn một đường nữa từ Điện biên sang Lào đến Luăngbrabăng, quãng đường hành
trình dài hơn, hiểm trở nhưng có thể ít nguy hiểm. Bây giờ phải tìm chi tiết miền
Bắc Lào.
– Dậu đề nghị – Tâm cứ tiếp tục đi làm để kiếm thêm tiền, còn
chúng tôi tiến hành ngay việc mua sắm các phương tiện đi đường.
* *
*
Ngày 21 – 7, buổi chiều Khoa đến nói với tôi:
Mọi phương tiện đã chuẩn bị xong, ngày mai Dậu mang ra đây, Khoa
đưa cho tôi mấy trang nhật ký của năm ấy và nói:
– Tao cho mày xem để tao còn mang về quê cất giấu nốt, còn lại
tao đã giấu hết rồi.
Năm 1965
Ngày mùng một tết. Sau giao thừa, từ chỗ Tâm ở, tôi lang thang cả
đêm trên đường phố, vùng quanh hồ Gươm ra phố bà Triệu, Trần hưng Đạo, ga hàng
Cỏ. Rồi theo đường Nam bộ – Nguyễn thái Học, tôi về nhà.
Lúc ấy trời sắp sáng, tôi làm bài thơ xuân 1965.
Lá rơi hiu hắt tơ lòng,
Sầu Thu chưa dứt mà đông đã tàn.
Chao ôi, xuân đã lại sang!
Lắng nghe pháo nổ mà tan nát lòng.
Đêm dài mênh mang,
Biển sầu vô tận,
Bơ vơ lạc lõng ánh sao mờ,
Bước đi thẫn thờ,
Dưới trời sương khuya.
Trong đêm khuya tiếng thời gian âm thầm nức nở,
Quá khứ xưa tàn nhẫn chết trong tôi.
Duyên kia tàn héo, bèo dạt, hoa trôi,
Đầu xanh lận đận, số kiếp bi thương.
Hận sầu vương khoé mắt,
Lệ tràn trên đôi môi.
Năm tháng lũ lượt về đây
Như đoàn người hành khất,
Đặt vào tim nỗi buồn thương da diết
Của đời người trĩu nặng nỗi ưu tư,
Để hôm nay hôn nàng xuân hoen ố.
…
Ta đi mãi, đi hoài trên đường đầy xác pháo hoa rơi
Như nẻo đường ấy đời ta tan nát tơi bời,
Giữa dông tố đất trời nghiêng ngửa.
Trái đất ơi, khi ta bước vào ngưỡng cửa
Của cuộc đời đã khóc tiếng bi ai.
Khơi mạch sầu con tim còn hơi sức
Đẩy con thuyền cay đắng đến ngày mai.
Ta đi mãi, đi hoài,
Ta đi hoài, đi mãi.
Để cõi lòng buồn thêm trống trải,
Để thần sầu siết chặt trái tim đau,
Để đời ta từ nay khô héo mãi,
Để thời gian gặm hết những ước mơ.
Cuộc đời, ý thơ
Biển sầu vô tận,
Đêm dài mênh mang.
Ngày mùng bốn tết, tôi và Tâm đến chơi nhà anh Thất, anh đọc bài
Đợi chờ:
Bão táp đang sa xuống đầu người thất bại
Biết nói gì đây nếu phải lìa nhau.
Ta yêu nhau đâu để nói trăm câu,
Một hành động, một câu thôi cũng đủ.
Một tâm hồn tìm nguồn ấp ủ,
Cố mong sao giữ xứng làm người.
Vầng trăng sáng, mảnh gương trong,
Em ơi, lòng không gợn sóng.
Mà mây mù bao phủ vẫn không đi.
Núi Lam Sơn, ngọn Hồng Lĩnh cỏ xanh rì,
Tố như nhớ nàng Kiều mà thao thức.
Dòng Dịch thuỷ còn chờ người tiễn bước,
Bến Ô giang, Hạng Vũ khóc Ngu Cơ.
Hà nội ơi sống mãi đợi trông chờ,
Mà dài thế, ôi thời gian lâu quá!
Đời tàn rơi như sao rụng giữa canh thâu.
Một cây đàn, một ngọn bút tiêu sầu
Ấp ủ mãi phương đông chưa rạng sáng.
Anh yêu em trong cơn anh hoạn nạn,
An ủi nhau giữa lòng nát tan hoang.
Có gì đâu nếu chỉ biết bình an ,
Thì cuộc sống hoàn toàn vô vị…
Bài Cố nhân, anh Thất làm dở, đến buổi tối tôi làm tiếp.
Cố nhân ơi, hề, cố nhân ơi!
Trót một ngày xanh để lỡ rồi.
Chiều xuân nắng cuốn hoa tơi tả,
Nhẹ nhàng một cánh én buông rơi.
Đêm nay ta đốt đèn tâm sự,
Ta gửi hồn ta tận cuối trời.
Người đi giờ ở phương nào nhỉ?
Có hết chua cay chuyện khóc cười?
Đêm nay ta nhớ về muôn thuở,
Đốt trái tim đau khóc nỗi đời.
Ngày xưa xa lắm, ngày xưa ấy,
Man mác mùa xuân khắp bốn trời,
Núi biếc sông xanh dòng bát ngát
Rừng hoa, biển cỏ núi chung đôi,
Còn cả linh hồn loài thảo mộc,
Chim muông cùng với gió trăng chơi.
Xuân qua, xuân đến đà bao độ
Kẻ bắc, người Nam vốn nghẹn lời.
Nghìn trùng xa cách bao thương nhớ,
Mà lệ năm canh vẫn chảy hoài.
Ta nghe tiếng thắm ngàn xưa vọng,
Để quạnh hồn thu giữa cuộc đời.
Người đi có nhuốm màu sương gió
Kẻ ở nhọc nhằn năm tháng trôi.
Thế sự du du nào đã rõ,
Bao giờ gặp lại cố nhân ơi?
Ngày 2 – 4. Buổi chiều, tôi đến dốc hàng Than. Trước mặt tôi là
phía sông Hồng, những cánh cò vội vã bay trong màn sương tím, bỗng cất lên tiếng
hát ngọt ngào, âu yếm làm sao! Tiếng hát thân quen của Nguyệt nhẹ nhàng nâng
cánh hồn tôi đến khoảng trời chia ly, tan vỡ và nước mắt. Cảm hứng theo tiếng
hát, tôi làm bài thơ Tiếng hát giữa hoàng hôn. Tâm không nói, tôi cũng biết nó
thầm yêu Nguyệt. Bởi vì tiếng hát của em có thể làm trái tim của cả đoàn quân
cùng nhịp đập. Tôi thương thằng Tâm quá, nó có tài, có đức mà bị cái xã hội đểu
cáng này cướp đi tất cả và đẩy nó ra ngoài lề cuộc sống. Đến nỗi yêu, nó cũng
chỉ dám thầm vụng trong trái tim mình.
Ngày 12 – 4. Buổi tối, tôi và Tâm đang ngồi uống cà phê ở Nhân,
một thanh niên khoảng hai mươi nhăm tuổi, mặc áo sơ mi trắng hở ngực, tay cầm tờ
báo nhân dân đến bàn chúng tôi. Gã gọi một cốc cà phê phin đá rồi hỏi:
– Hai anh có xem báo không?
– Cảm ơn anh, chúng tôi sắp về rồi – Tâm trả lời.
– Xem để biết họ nói gì thôi chứ đánh thế nào được Mỹ. Hắn ghé
sát tai tôi nói nhỏ. Tôi chợt hiểu ý thì Tâm lấy chân di vào chân tôi ra hiệu rồi
Tâm nói:
– Chúng tôi xin anh đừng phát ngôn lung tung nữa, không ai nghe
đâu.
– Tiến bộ đấy – Hắn vỗ vào vai Tâm nói.
Bàn bên có một bác già ngoài bốn mươi tuổi vừa đến. Bác mặc bộ
quần áo bảo hộ lao động, có lẽ là công nhân. Thấy thế, gã ngồi ở bàn chúng tôi,
cầm cốc cà phê sang ngồi bàn bác này. Hắn nói:
– Bác giai cấp tiền phong có đọc báo đảng không?
– Đèn điện tối quá, tôi không đọc được.
– Toàn là bịa ấy bác ạ – Hắn nói nhỏ.
– Chứ còn gì nữa. Bảo kiểm soát bốn phần năm đất đai mà chẳng có
lấy một thị xã nào.
– Anh phản tuyên truyền à? – Hắn quát to.
Bác già sợ quá run lên, chưa kịp nói gì thì gã đã móc túi ngực
giơ thẻ đỏ và quát:
– Anh đi về đồn. Nói rồi gã kéo bác công nhân đi. Số phận bác ra
sao chưa rõ, nhưng không thoát tội phản tuyên truyền.
Ngày 2 – 5. Tôi ra cửa hàng mua gạo. Một bà mua phải bao gạo hẩm,
nhiều trấu, thóc quá, bà xin nhân viên cửa hàng đổi bao khác. Bà xin ba bốn lần
thì cô nhân viên lạnh lùng trả lời:
– Đổi thế nào được, kh�
�ng may thì chịu.
– Chị trù tôi đấy phải không? Lần nào cũng mua phải gạo tồi tệ cả
– Bà già nổi cáu.
Thấy bà già to tiếng, tên công an từ xa chạy lại quát:
– Bà này gây rối trị an à? Dám bảo nhân viên nhà nước trù dân,
bà nói xấu chế độ chăng?
– Tôi xin lỗi anh – Nói xong bà già ngoan ngoãn mang gạo về.
Đến tôi mua, cũng bị một bao gạo hẩm có nhiều trấu thóc, có lẽ
do khác giới tính, dễ có cảm tình nên cô nhân viên hỏi:
– Anh có đổi bao khác không?
– Cảm ơn chị, nếu nhà tôi không ăn thì gia đình khác cũng phải
mua.
– Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa đấy – Cô nhân viên nói, nhìn tôi,
cười tủm tỉm vẻ mỉa mai.
– Chị nhầm rồi, xã hội chủ nghĩa không phải thế đâu. Nói xong
tôi mang gạo về và ngẫm nghĩ: cửa hàng Tông đản dành cho lũ “đầy tớ của dân”đâu
có loại gạo tồi tệ này.
Ngày 23 – 5. Buổi tối, tôi và Tâm ngồi chơi bên bờ hồ Hoàn Kiếm
gần cầu Thê húc, có hai thanh niên đến ngồi trên ghế đá sát chỗ chúng tôi. Họ
nói chuyện với nhau, nói rất nhỏ:
– Mày cố gắng phấn đấu sáu tháng đầu năm chứ?
– Khó lắm, còn hơn một tháng nữa mà tao mới thực hiện được hai.
Nếu gặp may cũng chẳng biết đâu? Mày chắc đạt lao động tiên tiến rồi?
– Chỉ thực hiện một vụ nữa là đạt chỉ tiêu, nếu không gặp thì
chưa chắc. Trội nhất trong đơn vị mình là thằng Tiến, nó hơn bọn mình trong nghệ
thuật nhử mồi.
– Trò đó cậu còn được chứ tớ thì vô duyên quá, cứ như tiếng mèo
kêu, chuột nghe thấy bỏ chạy cả…
Lúc đó trên vỉa hè xuất hiện một bác già gần sáu mươi tuổi, vừa
đi lảo đảo, vừa chửi đổng:
– Đ…mẹ nó hà hiếp dân! Đ…mẹ nó!
Hai thanh niên bảo nhau:
– Gặp dịp may rồi.
– Tớ nhường cho cậu đấy!
– Hai đứa cùng làm thành tích chia đôi. Kịp thời hành động mày.
Nói xong, cả hai chạy đến đón đường bác già quát:
– Anh bảo ai hà hiếp dân?
– Tôi không dám chửi ai ở đây mà bảo cái thằng chủ nhiệm hợp tác
xã hà hiếp vợ con tôi ở quê cơ.
– Đi về đồn!
Ra lệnh xong, mỗi đứa cầm một tay bác già lôi đi.
– Không nghe bọn chúng nói, có thánh mới biết, bắt giam, bỏ tù
con người cũng có chỉ tiêu thực hiện – Tâm nói.
– Thế đấy, nếu đứa nào cũng đạt danh hiệu lao động tiên tiến hoặc
chiến sĩ thi đua thì nhà tù phải nhiều hơn trường học – Tôi nói.
Ngày 6 – 6. Tối hôm nay, sau khi uống cà phê ở Nhân, ngồi bên bờ
hồ Gươm, tôi, Tâm và Dậu cùng nhất trí ra đi.
Ngày 28 – 6. Em gái tôi đi học về, đưa cho tôi một bức thư của
thằng Long, bạn học cũ ở phố Chu văn An. Tôi mở ra xem, có vài dòng: “Chiều
nay, lúc hai giờ gặp mày ở núi Nùng, bách thảo. Rất cần, mày đừng lỡ hẹn. Xem
xong nhớ đốt ngay”
Chiều đến, y hẹn tôi gặp thằng Long. Nó nói:
– Mày nguy hiểm lắm, hãy nghe tao tường thuật lại sự việc đã.
– Mày nói đi.
– Cách đây nửa tháng, có một người tuổi gần bốn chục, mặc dân
thường đến gặp tao. Dẫn tao ra vườn hoa Cột cờ, hắn hỏi:
– Anh là bạn của tên Khoa có phải không?
– Vâng, nói cho đúng là bạn học cũ, bác hỏi gì nó?
– Tôi là cán bộ sở công an đến giao cho anh một nhiệm vụ. Hiện
nay tên Khoa có tư tưởng xấu với chế độ. Anh đến nhà nó chơi, sở cho phép anh
được nói bất mãn với đảng hoặc ca ngợi Mỹ. Tên Khoa phản ứng ra sao, anh sẽ làm
bản báo với chúng tôi. Ngày giờ đến nhà tên Khoa do anh lựa chọn nhưng phải báo
cho đồn địa phương anh ở trước. Sở nghiêm cấm anh tiết lộ chuyện này, nếu anh
làm sai phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tối hôm kia hắn lại đến hỏi: đã tiến hành chưa? Tao trả lời:
cháu chưa biết tên Khoa thường ở nhà lúc nào nên chưa đến. Hắn còn nói là nếu
tao thực hiện tốt việc này sẽ được sở thu dụng.
– Mày nên nhớ là “khi rừng hết thú quý thì chó săn và cung tên
cũng bỏ đi”.
– Mày nói đúng, tao cũng hiểu được dã tâm của họ. Quả thật, nửa
tháng nay, tao đang suy nghĩ cách cứu giúp mày, bởi vì đột ngột tao đến nhà mày
là mắc mưu họ như chơi. Tao định trình diễn màn kịch tối hôm nay, vậy báo cho
mày biết trước để đóng cho thành đạt, nếu không thì nguy hiểm.
Buổi tối thằng Long đến. Tôi hỏi to:
– Long! Lâu nay mày đi đâu mà biến mất thế?
– Tao vẫn ở nhà ăn bám.
– Mày chưa xin được việc làm à?
– Bố tao là công chức lưu dung, xin sao được việc.
– Chỗ bạn bè nói thật, mày không nên nói năng như thế, chẳng lợi
lộc gì cho mày mà còn có hại cho bạn bè!
– Đó là sự thật, mày cấm được tao à?
– Mày để tao yên, tao không muốn nghe cái sự thật ấy.
– Sao hồi này mày thay đổi lạ lùng thế?
– Tao vẫn như xưa, chẳng quan tâm đến việc gì.
– Mày hay đọc báo và nghe đài không? Tao thấy toàn nói sai sự thật.
– Thôi, thôi tao xin mày. Bạn bè gặp nhau là quý nhưng cứ tuôn
ra luận điệu như mày, có khi phải đi tù cả lũ. Từ nay mày đừng đến nhà tao nữa.
Long giả vờ hầm hầm nổi giận:
– Tao cần đ… gì mày.
Nói xong, Long bỏ về. Tôi đoán, mụ tổ trưởng lúc ấy phải áp sát
tai vào tường để nghe trộm.
Ngày 2 – 7. Tôi đến khu công an xin giấy thông hành đi Điện
biên. Hình như họ nghi ngờ gì đó nên xem xét, đắn đo lâu lắm.
Ngày 10 – 7. Tôi mang hộ tịch đến khu công an để làm thủ tục di
chuyển về quê.
Ngày 11 – 7. Tôi đến văn phòng hợp tác xã xin rút cổ phần. Vì có
giấy di chuyển khỏi thành phố nên ban chủ nhiệm giải quyết ngay. Số tiền này để
sắm một số phương tiện đi đường.
Ngày 15 – 7. Công an hộ tịch đến nhà hỏi:
– Tại sao anh Khoa cắt hộ tịch rồi mà vẫn ở đây?
Có lẽ họ đang theo dõi tôi.
Ngày 18 – 7. Buổi sáng, tôi vào thư viện quốc gia mượn tập bản đồ
miền Bắc lào bằng tiếng Pháp để vẽ. Ngồi gần tôi, một người chẳng làm gì cả chỉ
xem tôi vẽ. Thấy không an toàn tôi bỏ về…
Xem xong đoạn cuối trang nhật ký, tôi sửng sốt nói với Khoa:
– Nguy hiểm! Nếu chúng ta không nhanh thì mày bị bắt nay mai.
– Chờ ngày mai Dậu ra, tất cả phải mang về quê đã, ngày lên đường
sẽ bàn sau.
Rủ tôi ra ngồi chơi bên Hồ Hoàn Kiếm, Khoa nói:
– Chúng ta đến thăm hồ lần cuối.
Khoa mơ màng nhìn hàng liễu rủ bên hồ, bỗng anh ngâm nho nhỏ mấy
vần thơ của Lưu Lan Phương:
Ai về thương liễu hồ Gươm úa.,
Năm cửa ô hờn dưới nắng trưa,
Ba sáu phố phường nằm ủ rũ,
Nghe người Hà nội khóc trong mưa.
Ngẫu hứng, Khoa lại ngâm mấy vần thơ vịnh Kiều:
Buồn trông liễu rủ ven bờ,
Sớm in bóng nước chiều mưa lệ đầm.
Buồn trông phố cũ âm thầm,
Đâu còn những bóng trăng rằm thướt tha.
Buồn trông rùa Tháp xa xa,
Bâng khuâng lưu luyến tháp là từ nay.
Buồn trông Thê húc mê say,
Xa em luống những bao ngày nhớ thương.
Nhìn những lá vàng rập rờn theo sóng hồ nhè nhẹ. Khoa ngâm bài
Phương xa của Vũ hoàng Chương:
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông hay dạt tới phương Đoài.
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,
Lòng cô đơn cay đắng cũng dần vơi.
…
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi bơ vơ,
Đời phiêu dạt không mong hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Không phải chúng ta đầu thai lầm thế kỷ – Tôi nói – Khi nhân loại
bước vào kỷ nguyên văn minh, tràn đầy ánh sáng thì trên tổ quốc mình không phải
chỉ một đôi người u uất nỗi bơ vơ mà cả dân tộc hàng chục triệu người đang lầm
than cơ cực trong đêm trường đầy bóng tối của chế độ CS – một dân tộc đang
tồn tại mà chẳng được tồn sinh.
* *
*
Gần tối hôm sau, Dậu hớt hải đến báo với tôi:
– Khoa bị bắt rồi. Dậu kể lại:
– Tôi chưa kịp nói gì thì xe công an cũng vừa ập tới. Tôi vội vã
xuống cầu thang và lẻn vào phòng vệ sinh. Khi họ lên gác, tôi lẩn ra đường. Sau
khi bắt Khoa và khám xét nhà xong, tôi lại đến. Gia đình Khoa cho biết, lệnh bắt
Khoa là tập trung cải tạo. Mọi giấy tờ, kể cả hành lý tôi vừa mang đến đều
bị thu.
– Gói hành lý có những gì? – Tôi hỏi:
– Địa bàn, đèn pin, lương khô, thuốc chữa bệnh, áo bạt, giầy đi
rừng… Nếu Khoa kiên cường, dũng cảm và khai khéo léo thì chúng ta thoát nạn.
– Không thoát được, trang nhật ký năm nay, Khoa có viết việc
chúng ta chuẩn bị ra đi. Xem xong trang cuối thấy nguy hiểm tôi bảo Khoa đề
phòng nhưng không kịp. Đau lòng hơn là nhật ký của Khoa sẽ kéo theo một số người
khác vào tù.
– Khoa bị bắt về tội khác, sống không khôn khéo chứ không phải
việc chúng ta đã bị lộ.
– Đúng thế nhưng từ việc họ thu nhật ký của Khoa sẽ dẫn đến tai
hoạ.
– Chào tạm biệt, có thể chúng ta vào Hoả lò cả. – Dậu chào tôi
và ra ga lên tàu về Bắc giang.
Tôi không ngờ sự việc diễn ra xấu thế. Chưa đi được bước nào mà
phải chịu cảnh tù đầy. Khoa có tâm hồn nghệ sĩ nhưng ứng xử với bên ngoài chưa
nhạy cảm, nếu anh đến với tôi trước một tuần, có thể tai biến được phòng ngừa.
Anh sẽ khai trốn đi đâu? Tất nhiên Khoa không đến nỗi khờ khạo
khai thật trốn vào Nam hoạt động chống Cộng. Còn Dậu tuy hoạt bát thông minh
nhưng chưa từng trải, khó mà đối phó nổi với thủ đoạn của bọn chấp pháp Hoả lò.
Tôi tự hỏi:“Bây giờ ta trốn đi đâu trong cái lồng sắt khổng lồ này? Những
chiến sĩ tự do với cái gọi là “gián điệp biệt kích”được trang bị đầy đủ phương
tiện hiện đại cũng không mấy ai thoát khỏi vòng nguy hiểm, huống chi ta khi ý định
đã bị tiết lộ với kẻ thù. Thôi cũng đành chờ ngày vào lồng sắt hẹp”.
Tôi đi lang thang đây đó để thăm lại những nơi tôi thường lui tới,
có nhiều kỷ niệm êm đềm. Đến thư viện quốc gia và thư viện Hà nội hai nơi đó
tôi coi như những trường tự học. Đến cửa hàng Thuỷ tạ, mấy cô nhân viên trẻ ngơ
ngác nhìn tôi, một cô hỏi:
– Nhân tình của anh đi đâu vắng?
– Tôi cắt đứt rồi.
Chả là tôi và Khoa thường đến cửa hàng, tìm bàn giải khát vắng để
ngồi, rủ rỉ tâm sự nên các cô gái ở đây bảo chúng tôi như một cặp uyên ương.
Theo đường Yên phụ, tôi đến nhà thuyền hồ Tây, nơi chúng tôi
cũng thường có mặt. Mặt hồ hôm ấy gợn sóng long lanh dưới ánh trăng vàng, lũ ve
trên hàng cây bên hồ thi nhau rên rỉ như khóc than nhớ thương người sắp ra đi.
Đến một gốc cây cổ thụ gần chùa Trấn quốc, tôi dừng lại để hoài niệm. Tại gốc
cây này, năm xưa là điểm hẹn của một mối tình thơ mộng: Thày giáo trường Bưởi
và cô gái bán hoa Ngọc hà. Cây đã chứng kiến nhiều năm hạnh phúc của họ, cây
cũng nghe sự đau thương, ly biệt của hai người. Cuộc đời bác Vũ thị Hiền và Lê
Ngọc Văn như một dòng sông đầu nguồn trong sau đục, còn cuộc đời tôi như một
dòng nước đục ngầu không một ngày hạnh phúc. Tôi ước mơ một lần và một lần
thôi, được ngồi bên em trên chiếc Périssoire II giữa hồ Tây rập rờn sóng vỗ,
cùng ngắm các vì sao và vầng trăng trên nền trời cao lồng lộng. Và một ngày được
sống trong thế giới tự do. Ôi, cái ước mơ nhỏ xíu ấy trong đời tôi bao giờ
trở thành hiện thực. Ôi, Hà thành ngàn năm văn hiến đang bị giam cầm trong cái
lồng sắt khổng lồ, tôi sắp phải từ giã nơi văn hiến ấy để nối tiếp chuỗi ngày
cơ cực, nhục nhã hơn – cuộc sống một thằng tù. Nghĩ đến chị Bích Hằng – một
phụ nữ có nhan sắc khuynh thành và phẩm hạnh; chị đã, đang trở thành mục tiêu
cho bầy quỷ đói – những quái thai của thời đại hành hung và đầy đoạ, tôi thầm
kêu lên: chị Bích Hằng ơi, em với chị cùng chung số phận, sinh ra đời để
chịu mọi nỗi đau thương, cơ cực và tủi nhục.
Một buổi chiều, tôi đứng tựa gốc lan, mông lung suy tưởng, lơ
đãng nhìn đàn chim xanh nhỏ xíu đang tung tăng nhảy nhót trên cành, tai văng vẳng
nghe tiếng đàn violon trình bày bản Serenade de Shubert từ xa vọng lại. Người
chơi đàn là một cô gái yêu văn nghệ, nhiều lần tôi gặp Vân ở thư viện quốc
gia và nhiều lần nói chuyện với Vân về văn chương lãng mạn. Cả hai đều ý hợp –
tín hiệu cho một tương lai hai trái tim cùng nhịp đập. Nhưng khi biết em là con
ông cán bộ cấp cao sống trong nhà cao cửa rộng ở phố Yên phụ, tôi đã tránh
mặt Vân để trốn chạy một mối tình dang dở mất nhiều nước mắt vì nghịch cảnh. Kể
cũng lạ, thân phụ là ông quan cách mạng mà Vân bài xích văn học nghệ thuật của chế
độ. Em nói, đó là thứ văn nghệ quái gở phục vụ chính trị, không có linh hồn.
Bỗng tiếng hát bên song cửa vang lên buồn da diết: “..ai nức nở
thương đời, châu buông mau, dương thế bao la sầu…”.
Tiếng hát như mũi kim nhọn nhói vào trái tim tôi, không tự chủ
được mình, tôi gục mặt vào gốc lan, lệ rơi lã chã.
Nguyệt ngừng hát, em an ủi tôi:
– Xin lỗi, có thể anh khóc vì tiếng hát của em. Gần đây, em biết
anh buồn lắm, đáng lẽ có anh, em nên hát những bài…
Tôi muốn nói với em đôi điều trước lúc chia tay nhưng không biết
nói gì mà cũng chẳng còn nghị lực. Không hiểu vì sao, trái tim tôi quá mềm yếu
trước những ân tình hoặc những lời ngọt ngào, êm ấm của tình thương?
Đêm hôm đó, chuông đồng hồ điểm một tiếng, hai tiếng rồi ba tiếng,
tôi vẫn nằm trằn trọc. Tôi nghĩ về quê hương với bao kỷ niệm yêu thương và tàn
ác: Nhớ cánh đồng màu xanh mênh mông, bát ngát mỏi cánh chim bay, những làn
sóng màu xanh vẫy chào từng cơn gió mát từ biển Đông đưa đến và chào đón ánh
bình minh; nhớ tiếng sáo diều ngân nga vi vút lan toả khắp trời xanh như một bản
trường ca êm ái; Nhớ hình ảnh kính yêu của mẹ – người mẹ dịu hiền trước đàn con
nhỏ và cái chết thảm thương của người. Khắc sâu và còn khắc sâu mãi sự kiện bầy
quỷ đỏ hành hình bố tôi hồi cải cách, khắc sâu đến bầm gan tím ruột mối hận
thù. Ôi mảnh đất quê hương đã nhuộm máu của bao người lương thiện vì thứ
lý thuyết ngoại lai đấu tranh giai cấp mất hết tính người. Nhớ những tháng năm
cắp sách đến trường trên những chặng đường làng gồ ghề khúc khuỷu như những dấu
ấn của quãng đời học sinh đầy gian truân, cơ nhục. Nhớ những chuỗi ngày u buồn,
vô vọng ở Hà thành với hình ảnh người chị hững hờ, lạnh nhạt, đối với các em chị
đã bỏ rơi mất tình thương. Nhớ những thân nhân nội ngoại gần xa với cái gọi là
giai cấp tính, người ta coi tôi như người xa lạ hoặc khinh rẻ vì nỗi nghèo hèn.
Chao ôi, cuộc đời cơ cực, tủi nhục triền miên và tương lai vẫn triền miên và
triền miên như thế.
Nhìn ra khung cửa có cây lan, trước mắt tôi một khung trời nham
nhở với những vì sao lấp lánh như những con mắt của thượng đế đang lơ đãng nhìn
tôi. Thượng đế đã thờ ơ với số phận bất hạnh của một kiếp người. Tôi đau lòng
khi thấy khắp bốn bề năm châu còn nhiều người mỉm cười với bầy quỷ đỏ vì
chúng hiện hình như những đ�
�c Phật từ bi. Xót xa như
dao cắt khi trên đất nước này, có hàng triệu người là nạn nhân vì sự mê muội và
hèn hạ, họ vẫn trung thành cam chịu một cuộc sống đoạ đầy,vẫn coi bầy quỷ đỏ là
thiêng liêng và tuyệt đối. Tôi mong ngày thiên hạ hội đồng, mong có thời nhân
loại cùng nhau làm một cuộc thập tự chinh mới để quét sạch lũ vô thần tác yêu,
tác quái, để trả lạibầu trời trong xanh và chuông nhà thờ ngân vang bay cao vút
và để dân tộc phục hồi nền văn hiến cuả tổ tiên…
Mắt tôi mờ dần để tâm hồn bay đi tìm những ảo giác diệu kỳ. Nguyệt
ngồi bên tôi trên chiếc thuyền buồm giữa dòng sông rộng lớn. Em nhìn tôi, mắt
em ngời sáng màu hy vọng, em hớn hở một nụ cười như hoa xuân tươi thắm:
– Anh thân yêu ơi! Anh hãy vui lên. Nơi đây là ước mơ của cuộc đời
anh. Nơi đây không phải chiếc lồng sắt khổng lồ đang giam cầm quê hương anh và
tổ quốc mình. Nơi đây là trái tim của thế giới tự do, là quê hương của
Washington vĩ đại.
Tôi sung sướng đặt lên môi em, một nụ hôn nóng bỏng – nụ hôn đầu
của cuộc đời. Hơi thở em phả vào mặt tôi, hơi ấm lan truyền đến một trái tim
giá lạnh. Hơi thở của tình yêu huyền diệu biết bao làm trái tim tôi rung lên
như một khúc nhạc rộn ràng. Cặp mắt xanh mơ màng nhìn lên bầu trời tự do,
em nói tiếp:
– Nơi đây không phải cái ước mơ nhỏ xíu “một lần và chỉ một lần
ngồi bên em trên chiếc Périssoire II…”. Nơi đây là dòng Mississippi, em và anh
đang ngồi trên chiếc thuyền buồm no gió để chiêm ngưỡng khoảng trời và miền đất
như mùa xuân của nhân loại. Chúng ta sẽ hành trình khắp nơi trong thế giới
tự do. Em và anh ngồi bên nhau trên con tàu vượt Đại tây dương đến thăm xứ sở
sương mù, nơi có thành phố Luân đôn mờ ảo và những tiểu thư điệu bộ nhất thế gian.
Chúng ta sẽ đên thăm nơi có lâu đài Tem pơn tô thuở trước, nơi đã diễn ra cuộc
huyết chiến để bảo vệ nàng Rebecca kiều diễm của chàng hiệp sĩ Ivanhoe và Bois
Guilbert dòng tu thánh chiến. Vượt qua biển Manche, chúng ta cùng sánh bước trên
đường phố Paris hoa lệ. Chúng ta sẽ dạo chơi trong vườn Luxembourg để ôn lại mối
tình thầm lặng của chàng Marius và nàng Cosette. Chúng ta sẽ tắm mát bên bờ Địa
trung hải trong xanh và đến thành Venise để chiêm ngưỡng những cô gái lẳng
lơ hàng đầu thế giới. Rồi từ đó, em và anh bay đến đất Phù tang, chúng ta sẽ
hái hoa anh đào để chào đón vầng dương thức dậy trên ngọn núi fuji…
– Dậy, dậy mau!
Tôi bừng tỉnh thấy công an Hoả lò, hộ tịch và bảo vệ dân phố đã
có mặt.
– Anh biết chúng tôi đến đây làm gì không? – Phó phòng chấp pháp
Nguyễn hữu Viên hỏi.
– Tôi không biết.
– Anh đứng nghiêm nghe lệnh.
– Sở công an Hà nội ra lệnh bắt tên Nguyễn Tâm đang tích cực chuẩn
bị trốn theo địch. Anh nghe rõ chưa?
– Tôi rất ngạc nhiên.
– Còn giả vờ ngạc nhiên à? – Viên ra lệnh tên cảnh sát đeo súng
ngắn khoá tay tôi và khám nhà.
Chúng thu những sách của nhà xuất bản sự thật. Tôi thoáng nghĩ,
tại sao chúng lại thu những sách này? Và tự trả lời, đây là những sách lý thuyết
nói về bản chất của chế độ CS. Vì khô khan, trục trặc nên rất ít người đọc, thậm
chí nhiều trí thức không quan tâm đến. Khác với báo chí, đài, văn học nghệ thuật
là sách lược, công cụ tuyên truyền bịp bợm. Chẳng hạn, trong báo chí thường
đăng: bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược và gây chiến, hay đế quốc là cơ
sở vật chất gây ra chiến tranh. Nhưng trong lý thuyết lại viết, còn đế quốc, tư
bản là còn giai cấp đối kháng. Để tiêu diệt giai cấp đối kháng, chúng ta dùng bạo
lực cách mạng hay chiến tranh cách mạng. Từ đó, tôi có quan điểm ngược lại là
chủ nghĩa CS chỉ tồn tại và phát triển trong chiến tranh. Bởi vì tàn bạo và bịp
bợm là thứ vũ khí có hiệu quả cao trong cuộc chiến. Nhưng trong hoà bình, thứ
vũ khí này trở thành con dao hai lưỡi kìm hãm sức sản xuất đưa đến nền
kinh tế chỉ huy của CS trì trệ. Đọc sách chủ nghĩa Marx – Lénine có suy luận là
tìm thấy một phần bản chất tàn bạo, nham hiểm của CS, nên những người như tôi đọc
loại sách này là kẻ thù của chúng.
Trong lúc bắt tôi và khám nhà, anh Cương tuy là người ngoài cuộc,
trông anh thảm hại làm sao! Mặt anh tái mét, thân hình dúm dó ngồi ở góc giường.
Ở thời đại này, người có lòng nhân ái khi muốn làm điều thiện phải có thêm lòng
dũng cảm. Gần mười một năm tù, tôi không một lần nhận được của anh thư hay lời
thăm hỏi.
Mọi người có mặt trong chùa đứng xa nhìn lại, riêng Nguyệt đứng
gần hơn, khoé mắt em rưng rưng lệ. Tôi chào từ biệt, em khẽ gật đầu rồi lấy
khăn mùi xoa lau nước mắt.
Trước khi lên xe tù, tôi nhìn lại ngôi chùa lần cuối, cây lan đứng
im, hoa không toả hương thơm. Hình như cây cũng buồn vì từ nay không được nghe
tôi tâm sự. Đàn chim xanh ríu rít hót trên cành hằng ngày hôm nay cũng không thấy đến,
làm tôi nhớ lại câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”.
Và có lẽ em Lê minh Nguyệt từ nay cũng không hát nữa, bởi vì em không còn thính
giả.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Nhà tù
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 12
HỒI BA – Nhà tù
I Hoả lò
Vào Hoả lò, Viên hỏi cung tôi ngay:
– Chúng mày định trốn đi đâu?
Tôi thoáng nghĩ, phải biết Khoa đã khai thế nào? Muốn thế, tôi
giả vờ như chẳng biết gì để hắn bực mình, không tự chủ được sẽ nói ra. Tôi trả
lời:
– Tôi chẳng biết ông định hỏi gì?
– Muốn được khoan hồng, mày phải khai ngay, mày ngoan cố phải
không?
– Thưa ông, tôi không biết thì khai gì được?
Mắt Viên trợn ngược, hai bàn tay đập mạnh xuống bàn, quát:
– Mày có bàn với tên Khoa trốn sang Thái lan không?
– Tôi không bàn đi đâu cả.
Tôi nghĩ, giấy trắng mực đen trong nhật ký của Khoa, tôi không
thể không nhận có ý định trốn đi. Nếu Khoa khai trốn ra nước ngoài với mục đích
kinh tế thì nhận được rồi nhưng nếu mình nhận ngay hắn sẽ không tin, cho rằng
đã bàn với nhau từ trước.
– Chúng mày đã mua sắm những gì để chuẩn bị trốn theo địch?
– Tôi vô cùng ngạc nhiên câu hỏi của ông?
– Mày có quan hệ với tên Khoa và tên Dậu không?
– Thưa ông, ngày trước tôi có làm với Khoa ở hợp tác xã nhưng
không thân. Còn Dậu, tôi không biết.
Hắn hỏi đi, hỏi lại, quát tháo hồi lâu không có kết quả, hắn
nói:
– Tao cho mày nằm suy nghĩ vài ngày, nếu tiếp tục ngoan cố sẽ tống
mày xuống Cacho.
Nói xong, hắn đưa tôi vào phòng giam.
Sau khi khám xét kỹ càng quần áo, đồ dùng, tên cảnh sát trông
coi nhà giam đưa tôi vào phòng số bảy. Lúc ấy đã gần mười hai giờ trưa phòng
giam đã khoá cửa. Buồng có gần ba chục người bao gồm nhiều đội khác nhau: ngụy
quân, ngụy quyền, tu sĩ, giáo dân ngoan đạo, đảng phái, vượt biên, phản tuyên
truyền, nghe đài địch, hát nhạc Sài gòn, tham ô, lừa đảo, hiếp dâm, trộm cắp…
Thấy tôi mới đến họ nói đùa:
– Ở đây toàn là khách đến chơi lâu, xem ra chú khách này bình
thường quá.
– Bình thường là thế nào? – Tôi hỏi.
– Ai đến đây cũng phải mưa rơi lúc đầu, riêng chú khô khan như nắng
hạn.
– Nước mắt có rửa được tù đầy đâu mà phải khóc?
– Tuyệt! Thằng cha này cứng cổ lắm đây. – Lê Sinh nói. Gã dáng
người cao to, gáy phẳng, mắt ốc nhồi. Nghe đâu gã là cán bộ văn hoá tham ô vụ
triển lãm Vân hồ, bị xử bốn năm tù. Nhưng Lê Sinh không phải đi trại, được ở lại
làm cò mồi cho chấp pháp. Để lập công chuộc tội, gã đã đưa nhiều người vào bẫy,
lĩnh án nặng. Nhiều người khuyên tôi phải cảnh giác gã, nhưng tôi nghĩ phải
tương kế tựu kế, dùng Lê Sinh khai cung cho mình địmh trốn sang Thái lan vì lý
do kinh tế. Tôi muốn bản cung sớm kết thúc, nếu kéo dài sẽ nảy sinh ra nhiều vấn
đề phức tạp hơn. Thế là tôi giả vờ tâm sự với Lê Sinh.
Ba ngày sau, Nguyễn hữu Viên lại gọi, tôi đoán Lê Sinh ngầm báo
cho hắn biết rồi. Viên hỏi:
– Hôm nay, mày nhận chưa?
– Thưa ông, tôi không làm gì, không biết gì để nhận cả?
– Mày đừng ngoan cố nữa. Báo cho mày biết đã có thêm nhân chứng
về tội của mày.
– Thôi được, hôm nay tôi xin thành thật khai. Tôi, Khoa và Dậu uống
cà phê ở cửa hàng Thuỷ tạ, thấy hai vợ chồng Việt kiều từ Thái lan mới về nước,
nói chuyện với nhau làm ăn bên Thái dễ, nếu tu chí sẽ mau chóng giàu có. Do vậy,
chúng tôi bàn nhau trốn sang Thái để làm ăn sinh sống. Việc chuẩn bị hành lý do
Khoa và Dậu, tôi chưa biết đã mua sắm được đến đâu.
– Mày định trốn đi bằng đường nào?
– Chúng tôi định lên Điện biên. Từ đó sang Lào, đến Luăngbrabăng
và cuối cùng là sang Thái. Một việc làm đầy tính phiêu lưu, mạo hiểm.
Viên bảo tôi ký vào bản cung và cho về phòng giam. Hiện tại, Dậu
vẫn chưa bị bắt, vậy Dậu sẽ khai thế nào, làm tôi lo lắng? Dù sao cũng bị tù rồi
nhưng nếu cùng khai trốn sang Thái để làm ăn sinh sống sẽ giảm được thời gian
tù tội.
* *
*
Hơn một tháng ở nhà giam, tôi biết được tình tiết tội trạng của
một số người, thật là những câu chuyện cười ra nước mắt.
Người mắc trọng tội là bác Vũ quang Nghĩa. Xưa kia, bác học tại
trường Colleg Vinh, sau tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, cấp đại uý.
Hoà bình lập lại, bác chuyển sang ngành giáo dục, dạy ở trường Tây sơn. Vì
không tán thành các chính sách của đảng, bác bất mãn với chế độ. Bác Nghĩa cùng
với một ông bạn là Phan khắc Liên – nhà thơ kịch và một giáo viên là Đỗ văn Kha
thành lập một đảng phái chống Cộng. Đảng chưa có tên gọi, chưa thảo cương lĩnh
và điều lệ. Thực ra mới trong các buổi uống cà phê, tán gẫu. Sau đó có thêm một
người, qua vài buổi hội đàm, thấy nguy hiểm, người đó đã làm đơn tố cáo. Cả
nhóm bị bắt, sau một thời gian giam cứu, toà án phạt Vũ quang Nghĩa mười hai
năm tù, Phan khắc Liên mười năm, Đỗ văn Kha tám năm. Khi tuyên án xong Kha khẩn
khoản van xin: quý toà thay đổi cho tôi cái tội danh, chẳng hạn tội hiếp dâm hoặc
tội lưu manh cũng được, còn mang tội phản cách mạng thì nhục lắm, nhục lắm.
Vũ công Hoà mười chín tuổi, con một gia đình cách mạng. Thân phụ
Hoà làm việc ở uỷ ban nhân dân thành phố. Hòa có nét mặt đần độn, tuy học hết lớp
mười nhưng chẳng hiểu biết gì. Trong trại giam Hòa có biệt danh là Lửng.
Hoà cùng bạn đi uống bia, trong lúc ngà ngà say, Hòa nói, có ước
mơ sang Pháp sống. Bạn của Hòa phản phúc đi tố cáo, Hòa bị bắt khẩn cấp vào Hỏa
lò lúc mười hai giờ đêm. Nhiều người nói với Hòa, không có nhân chứng, mày đừng
nhận. Nếu là phạm pháp hình sự như trộm cắp, lưu manh thì cương vị của bố mày sẽ
che chở được, còn tội phản cách mạng thì không thể. Hòa bị hỏi cung liên tiếp
ngày đêm. Đồng thời thân phụ Hòa gửi thư cho con với nội dung: “Con cứ nhận sai
lầm, không khi nào đảng lại truy tố con. Bởi vì gia đình ta là gia đình cách mạng”.
Một hôm vào Hỏa lò gặp con, ông nói: nếu không nhận tội từ nay bố sẽ từ con.
Không đủ nghị lực để chịu đựng đói khổ nếu không được gia đình tiếp tế, Hòa đã
nghe lời bố, nhận tội muốn trốn sang Pháp nhưng đi bằng cách nào quả thực chưa
nghĩ đến, nên anh ta cứ quanh co mãi. Chấp pháp ép cung nhiều lần Hòa không biết
phải khai thế nào? Và cuối cùng, Hoà nhận có ý định chạy vào tổng đại diện Pháp
ở phố Hàm long. Rốt cuộc Hòa bị xử sáu năm tù và ba năm mất quyền công dân. Khi
hết án Hòa không được về Hà nội mà phải đi công trường trong lúc chiến tranh.
Sau khi xử
, Hòa được gặp bố, anh ta khóc lóc bắt vạ bố đã ép anh ta phải nhận tội. Ông bố
cũng khóc và nói rằng, bố không hiểu gì pháp luật. Ông ta nói đúng lắm, ngoài bộ
công an và ngành toà án, có mấy ai hiểu nổi luật rừng của CS.
Phan văn Được hơn ba mươi tuổi, tính tình cấc lấc hay nói lăng
nhăng, bậy bạ. Quê Được ở Thanh Hoá, hồi cải cách gia đình là địa chủ. Đầu năm
1960, Được ra Hà nội xin làm phụ động ở nhà máy cơ khí Mai động. Thời gian ở
nhà máy, Được đánh vỡ hai cái bóng đèn điện. Anh ta yêu một phụ nữ là vợ của bộ
đội nhưng anh ta lại mắc bệnh si tình. Biết tin đó, người bộ đội làm đơn kiện.
Được bị bắt vào Hoả lò và xử sáu năm với những tội danh sau: nói
lăng nhăng phản tuyên truyền, hai năm tù, làm vỡ hai cái bóng đèn quy vào tội
phá hoại kinh tế, hai năm, quyến rũ vợ bộ đội, hai năm.
Nguyễn Kỳ, giáo viên cấp hai, dạy văn. Một buổi tối anh dạo chơi
qua hồ Hoàn Kiếm. Đến câu lạc bộ Thống nhất, gặp một tên côn đồ đang hành hung
một người, máu hiệp sĩ bốc lên “giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”, Kỳ xông
vào bênh kẻ yếu. Ngay sau đó, công an có mặt, gọi cả bọn về khu lập biên bản và
bắt xuất trình chứng minh thư. Đến nửa đêm, người bị nạn và cả kẻ hung thủ được
tha, còn Kỳ bị giữ lại. Anh thắc mắc:
– Tại sao không cho tôi về?
– Có việc cần đến anh – Công an trả lời.
Thì ra trong chứng minh thư gấp một lá thư viết cho người yêu với
nội dung chán đời, buồn xã hội. Sáng hôm sau, Kỳ bị đưa vào Hoả lò, anh bị xử bốn
năm tù và hai năm mất quyền công dân. Tên anh là Kỳ, sự kiện dẫn đến phải ngồi
tù cũng kỳ đấy chứ!
Bác Nguyễn văn Ty, người thành phố Sài gòn. Sau khi hiệp định
Geneva ký kết, là chức sắc trong tổ chức phật giáo, bác bị cưỡng bức di cư ra
miền bắc và làm ở sở nhà đất Hà nội với mức lương không thay đổi hơn mười năm,
bốn mươi nhăm đồng một tháng. Đến nay bác bị bắt đi tập trung cải tạo.
Về sau, tôi còn biết rất nhiều người ở các đô thị miền Nam bị cưỡng
bức ra Bắc và lần lượt đi tù.
Bác Đoàn văn Thích hơn năm chục tuổi, người thấp bé, mắt kèm
nhèm, làm nghề đạp xích lô từ khi còn trẻ, vợ bác buôn bán hàng rong. Gia đình
bác vào diện phải đi khai hoang miền núi. Do vậy, nhà vừa bán được con lợn hai
trăm đồng thì công an hộ tịch đến vay một trăm. Biết thân phận mình không thể
chối từ nên bác phải cho vay. Hơn một năm, công an hộ tịch vẫn không trả lại
bác, tất nhiên bác cũng không dám đòi. Đúng vào thời điểm vợ bác bị bệnh nặng,
phải nằm viện, bác liều đến đòi tiền. Tên công an ngang ngược trả lời:
– Khi nào có tôi trả, ai bảo bác đến đây?
Bác Thích phát khùng lên:
– Vợ tôi đang nằm viện, anh muốn giết người thì không trả.
Tên công an bắt bác ra đồn, lập biên bản buộc tội bác vu khống,
gây rối trị an. Bác Thích phải nhận lệnh tập trung cải tạo.
Đúng là tiền mất, tật mang.
Hồ văn Hoan, một nông dân quê ở Nghệ an. Thời gian đó đang chiến
tranh ác liệt bằng không quân của Mỹ nên ở vùng Trong nhiều mặt hàng giá đắt đỏ:
giá một bao diêm bảy hào (giá ở Hà nội một hào), một gói thuốc lá Trường Sơn
giá một đồng hai hào (ở Hà nội giá ba hào). Hoan có ba trăm đồng ra Hà nội định
ăn chơi một thời gian cho thoả thích rồi mua diêm, thuốc lá về quê bán lấy lãi
bù vào khoản tiền đã chi tiêu. Đến ga hàng Cỏ, thấy cửa hàng uốn tóc lạ mắt,
Hoan vào làm đầu rồi ăn uống, nghỉ ngơi ở khách sạn Đồng lợi.
Ngày sau, Hoan hỏi thăm về hồ Hoàn Kiếm và nhậu ở khách sạn Phú
gia. Hoan hỏi một người làm trong khách sạn, ở Hà nội có khách sạn nào sang nhất
và lớn nhất? và được trả lời là khách sạn Thống nhất. Tội cho chú quê mùa, mới
bước vào cánh cửa quay của khách sạn đã bị tóm cổ đưa vào Hoả lò. Nhìn Hoan rất
ngộ nghĩnh, quần áo nâu còn dính nhiều vết bùn loang lổ, mặt đen thui vì cháy nắng,
tóc lại uốn, tiếng nói trọ trẹ khó nghe. Ấy thế mà cũng phải ngồi tù năm tháng.
Trong giấy tạm tha của Hoan có câu: tình nghi phản cách mạng. Hoan khóc như một
đứa trẻ và nói:
– Tôi tưởng nông dân thì khó phạm tội phản cách mạng, không ngờ
còn dễ hơn cả đi chơi.
Những chuyện phạm tội có tính chất như trên nhiều lắm, được quy
vào tội danh phản cách mạng, đến nỗi đa số tù ở đây không ai tin tội lỗi của
ai, thậm chí không tin vào tội của chính mình tại sao phải nhận án nặng, phải
ngồi tù hoặc mắc tội gì mà phải đi tập trung cải tạo?
Tôi ở đây đã gần hai tháng. Ở buồng giam này, tên quản giáo rất
khắt khe. Hắn là người liên khu năm, nói nhát gừng từng tiếng một, mắt trắng dã
trông dễ sợ. Chiều thứ bảy, can phạm được nhận tiếp tế, không được gặp gia
đình. Tên quản giáo ra lệnh không ai được cho ai một thứ gì, phải ăn tiếp tế
vào bữa cơm.
Từ cái “lệ làng” này, nhiều người bị cùm hoặc các hình thức kỷ
luật khác vì tội ăn vụng đồ tiếp tế của mình. Có nhiều người nhận được tiếp tế
sau bữa cơm chiều thứ bảy, mặc dù rất đói đành phải để ngày sau chờ đến bữa cơm
mới dám ăn.
Trong Hoả lò mới đúng là tù ngồi. Theo giờ hành chính, suốt ngày
tù phải ngồi xếp bằng ngay ngắn để nghe đọc báo, đọc sách hoặc kiểm điểm.
* *
*
Giữa tháng mười, nhân ngày đi đổ thùng, tôi thấy Dậu ở buồng số
8. Dậu giơ tay chào tôi. Ngay ngày hôm sau tôi lại bị đi cung. Tên chấp pháp là
Lê hữu Lượng người miền Trung nam bộ, hắn nói:
– Anh đã lừa cơ quan pháp luật, khai bịa đặt. – Viên ngồi bên Lượng,
hắn hằn học nói:
– Mày có ý thức phản cách mạng rõ ràng.
Lượng đọc bản cung khai của Dậu cho tôi nghe, nội dung như sau:
“Tôi và Khoa khởi xướng việc trốn vào Nam, mục đích đầu tiên: tố cáo trước dư
luận về cuộc sống cơ cực, mất tự do của nhân dân miền Bắc. Khi có được lòng tin
của chính quyền Sài gòn sẽ xin sang Mỹ học, xin vào các trường theo năng khiếu
của từng người. Tâm có năng khiếu về triết học, logique học, Khoa về thơ văn,
còn tôi về quân sự. Vì theo nhận xét của Tâm, tính tôi lầm lì, dũng cảm, có thái
độ bình tĩnh trước những diễn biến bất ngờ, hợp với tính cách của một người
lính. Khi học hành thành tài, nếu chiến tranh chưa kết thúc, chúng tôi sẽ trở lại
miền Nam hoạt động chống Cộng. Việc chuẩn bị lên đường do tôi và Khoa đảm nhiệm.
Khi nào xong xuôi cả ba đều trốn. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng, việc trốn đi
hết sức phiêu lưu, mạo hiể
m, không dễ dàng gì thoát được… ”
Đọc xong, Lượng nói:
– Chúng tôi không cần lời nhận tội của anh cũng đủ bằng chứng
đưa ra toà. Tuy nhiên, để giảm bớt một phần tội trạng, tôi cho anh giấy bút,
suy nghĩ khai thế nào cũng được. Nếu tiếp tục ngoan cố, pháp luật sẽ thẳng tay
trừng trị.
Đúng là Dậu không đủ khả năng đối phó với thủ đoạn của bọn chấp
pháp nên anh đã khai thật, nhưng còn rất đơn giản. Tôi phải nhận theo lời khai
của Dậu để bản án không nảy sinh phức tạp. Nếu Dậu khai thêm tập nhật ký của
Khoa từ năm 1961 – 1964 và tập hồi ký của tôi thì bố Khoa là người cất giấu
cũng không tránh khỏi tai hoạ. Còn tôi và Khoa có thể không hẹn ngày về.
Trong lúc ngồi ở hành lang phòng chấp pháp viết bản khai cung,
tôi thấy trong cổng Hoả lò một toán tù nữ sắp lên ô tô đi trại. Tôi thoáng nhìn
thấy Nga, và có lẽ, em thấy tôi đã lâu, em giơ tay chào tôi. Nga thay đổi quá
nhiều, dáng người gầy yếu, quắt queo, má hóp lại, da xanh nhợt không còn là một
cô gái đẹp, duyên dáng như xưa. Khoảng cách xa nên chẳng nói với nhau được lời
nào, thế là cuộc đời Nga thực sự bước vào bóng tối.
Tết năm ấy, ngoài tôi, ai cũng có gia đình đến gửi quà tiếp tế.
Người ta nói với nhau:
– Il est sans famille.
– He has no family.
– Nó không có gia đình – Người nói nhỏ với vẻ mỉa mai, chế giễu.
Họ không biết, tôi không có gia đình là do CS cũng như họ đang bị
tù đầy. Lời nói thiếu ý thức của họ làm lòng tôi quặn đau thêm. Cách đó mười
năm, bố tôi qua đời vì bàn tay hung bạo của bầy quỷ đỏ, nhà cửa bị cướp, tình
thương yêu thiêng liêng duy nhất còn lại, tôi đã bị chôn vùi không gì thay thế
hoặc bù đắp. Kiếp sống đơn côi đã thấm vào từng làn da, thớ thịt của tôi. Thời
gian cứ nặng nề, lặng lẽ trôi, số phận đơn côi, hiu quạnh ấy cứ lẩn quẩn trong
vòng cơ cực, tủi nhục để anh chị em xa lánh, họ hàng khinh miệt cùng với sự hắt
hủi của xã hội và những mưu cầu vô vọng. Họ không hiểu rằng, tôi chỉ là một nạn
nhân đáng thương nhất trong số họ. Rồi đây, ai sẽ là người may mắn được sum họp
với gia đình, ai phải bỏ xác nơi rừng núi?
* *
*
Cuối tháng ba, công an Hoả lò đưa tôi sang viện Kiểm sát nhân
dân Hà nội để thẩm lại cung. Tôi bước vào phòng, một ông trạc ngoài năm mươi tuổi,
đeo kính trắng, hỏi tôi:
– Anh có phải là Nguyễn Tâm không?
– Vâng, thưa ông!
– Hôm nay, tôi thay mặt viện Kiểm sát nhân dân Hà nội hỏi anh một
số vấn đề bổ sung cho bản cung của anh chưa rõ.
Trước hết, hỏi anh ngoài đề một chút, ở ngoài có một số người
quen và tên Khoa thường gọi anh là cái máy tính điện tử, người theo trường phái
Hegel trẻ hoặc học trò danh dự của Bruno baue có đúng không?
– Thưa ông, đó là những lời bông đùa của tuổi trẻ, tôi xin ông
tha thứ – tôi trả lời và thoáng nghĩ, những câu nói đùa với nhau lúc này cũng
thành ra tội rồi đây.
– Trước khi vào việc – ông viện kiểm sát nói – Tôi đề nghị, về
phần tôi, thay mặt cho cơ quan pháp luật muốn buộc tội anh phạm tội có nguyên
nhân theo ý nghĩ của mình. Về phần anh thì ngược lại, nghĩa là tìm mọi lý lẽ để
biện bạch cho hành vi sai phạm của mình. Tôi cho rằng, theo chủ quan của từng
người là sai. Do vậy, hãy lấy thực tế khách quan là kim chỉ nam làm việc của
tôi và anh hôm nay. Anh có nhất trí không?
– Vâng, thưa ông!
– Câu hỏi thứ nhất: Vì động cơ gì anh đã chuẩn bị vượt tuyến trốn
theo địch? Câu hỏi này, anh hãy lấy tính nhân quả để phân tích.
Tôi nảy ra ý nghĩ, mình bị bắt vì lý do chính trị trong thời buổi
chiến tranh, nếu có giả ngây, giả ngọng, chúng cũng chẳng tha mình sớm nên tôi
trả lời:
– Thưa ông, tôi sinh ra trong một gia đình phong kiến. Mặc dù vậy,
thân phụ tôi ăn ở hiền lành. Sau cách mạng, gia đình tôi đã làm hết sức mình để
làm nghĩa vụ với chính quyền. Chẳng những thế, gia đình tôi lại có ba thân nhân
bị thực dân Pháp giết hại trong cuộc chiến. Thế mà hồi cải cách ruộng đất gia
đình tôi vẫn không thoát nạn, thân phụ tôi bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu
toàn bộ. Tôi trở thành một đứa trẻ không cha, không mẹ, không nhà cửa, ăn đói mặc
rét, cố gắng vừa học vừa làm kiếm sống, mong ước có được một nghề để sinh sống
sau này. Cả ước mơ tầm thường phải có cho mọi con người, tôi cũng bị dập vùi
tàn nhẫn: học bị đuổi, xin việc làm không được vì lý lịch gia đình.
Thưa ông, đã là một con người, dù là một tên nô lệ cũng phải có
việc làm để kiếm sống, chưa nói đến quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Những năm tháng tôi bơ vơ, thất nghiệp, cuộc sống thiếu thốn trăm bề. Chẳng những
thế về mặt tinh thần thì liên miên lo sợ, hoảng loạn vì nay bị doạ đi quê hương
mới, mai bị vận động ra khỏi thành phố.
Phải chăng xã hội đã dồn tôi đến bước đường cùng? Đó là nguyên
nhân thứ nhất. Từ đó buộc tôi phải quan sát rộng hơn, nhìn toàn xã hội. Tôi tự
hỏi, hiện nay nhân dân đang sống thế nào? Và tự trả lời, họ đang lầm than, cơ cực,
bị bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ. Một xã hội không có quyền con người thì
xã hội đó không thể có hạnh phúc…
Ông kiểm sát ngắt lời tôi:
– Nhân dân cả nước đang hào hùng khí thế cách mạng chống Mỹ, cứu
nước. Tại sao anh dám nói nhân dân không có quyền tự do?
– Thưa ông, muốn biết một thể chế có quyền con người, quyền tự
do hay không, trước hết phải xét đến quyền tự do ngôn luận. Ở Hà nội, ai cũng
biết rằng, có tờ báo nhân dân là tờ báo đảng, ngoài ra còn những tờ báo khác
như thời mới, Hà nội, thống nhất, lao động, tiền phong, văn nghệ… Những tờ báo
này đều do cơ quan nhà nước phát hành, những bài quan trọng đều rập khuôn theo
tờ báo đảng, có tờ báo nào đại diện cho tiếng nói của nhân dân đâu? Nói chung
báo chí, đài phát thanh là cơ quan ngôn luận của đảng, phim ảnh, văn nghệ cũng
phục vụ cho đảng. Thật là một điều nghịch lý nếu có quyền tự do ngôn luận lại
có tội phản tuyên truyền. Khi quyền tự do ngôn luận bị tước bỏ thì làm gì còn tồn
tại các quyền tự do, dân chủ khác. Đây là nguyên nhân thứ hai đã dẫn tôi đến
con đường phải vượt tuyến vào Nam.
– Tôi cho rằng, tư tưởng là thống soái – Ông viện Kiểm soát nói
– Anh trốn vào Nam chống Cộng vì ý thức giai cấp và bố anh bị cách mạng xử trí.
– Thưa ông, tôi không phủ nhận việc chết oan của bố tôi là một
nguyên nhân nhưng chỉ là th
ứ yếu. Người cha dù chết bất cứ trong hoàn cảnh nào thì con cái cũng phải
thương tiếc, khóc than, đó là lẽ sống vĩnh hằng. Tuy nhiên, trong xã hội loài
người từ xưa đến nay có rất nhiều trường hợp cha thờ một vua, con thờ một chúa,
cha đi đường này, con đi nẻo khác. Nếu ngày nay đảng tạo ra một xã hội để mọi
người có quyền tự do, dân chủ, có quyền mưu cầu hạnh phúc, từ đó vì lương tâm đối
với cộng đồng buộc tôi phải phục vụ cho đất nước.
Thưa ông, tư tưởng là thống soái, chỉ huy mọi hành động nhưng
trong học thuyết Marx lại nói: “Con người là sản phẩm của hoàn cảnh”, có nghĩa
là hoàn cảnh đã dẫn tôi đến bước đường cùng phải bỏ trốn đi nơi khác, giống như
bản năng tự vệ của muôn loài. Còn ý thức giai cấp như lời buộc tội của ông, cho
phép tôi được trình bày. Cách mạng tháng tám, tôi mới lên ba tuổi. Gia đình tôi
không có của cải để lại, không có nguồn thu nhập nào khác ngoài những bàn tay
lao động. Tôi lớn lên và trưởng thành dưới chế độ mới. Mặt khác, tôi không nhà
cửa, không tài sản, không việc làm, không được học hành tử tế. Chẳng những thế,
tôi mất cha, mất quyền mưu cầu hạnh phúc, mất niềm vui, bị dập tắt mọi ước mơ
và hy vọng mà tất cả đều do đảng.
Thưa ông, đó là hoàn cảnh của tôi. Hoàn cảnh ấy chỉ dẫn đến ý thức
chán ghét chế độ chứ không thể sản sinh ra ý thức phong kiến hay tư bản. Ông
suy luận để buộc tội tôi: con mang ý thức của cha – ý thức phong kiến chống
cách mạng. Có nghĩa là ý thức sản sinh ra ý thức, tôi e rằng ông là marxist mà
theo cách suy luận ấy không có cơ sở khoa học của phương pháp tư duy biện chứng.
Thưa ông, cho phép tôi được giải thích thêm: Dậu xuất phát từ một
gia đình nông dân nghèo, bố là liệt sỹ. Anh ta sinh ra và lớn lên sau cách mạng.
Trước khi bị bắt, Dậu là công nhân biên chế ở công vụ đường sắt Bắc giang. Vậy
anh ta có ý thức gì nếu không phải đã nhận thức được sự bất công của xã hội? Có
thể ông buộc tội tôi đã xúi giục anh ta trốn theo địch nhưng sẽ là một điều phi
lý nếu cho rằng tôi – một kẻ cùng cực của xã hội, đang bị dồn đến chân tường lại
có khả năng thuyết phục Dậu. Để bỗng chốc anh ta từ bỏ lý lịch tốt đẹp của gia
đình và bản thân với chế độ và phủ nhận sự giáo dục của đảng hàng chục năm về ý
thức cách mạng.
– Anh tìm mọi lý lẽ để ngụy biện và bào chữa cho sai phạm của
mình. Anh dám cho rằng, xã hội ta không có tự do, dân chủ. Vậy đảng ta độc tài
à?
– Thưa ông, ngôn ngữ mà đảng dùng trong sách báo là nền chuyên
chính vô sản. Tôi học được một ít từ tiếng anh, theo sự hiểu biết nông cạn của
tôi, từ độc tài đồng nghĩa với từ chuyên chính mà tiếng anh là dictatorship. Vậy
có thể viết lại là nền độc tài vô sản. Nếu có dân chủ thực sự, ông hãy hỏi xem
có bao nhiêu phần trăm gia đình muốn làm việc trong hợp tác xã nông nghiệp và
có bao nhiêu phần trăm số người tình nguyện đi vùng kinh tế mới với ước mong của
họ. Nếu tôi không nhầm, đại đa số là do bắt buộc.
– Anh nói láo, ai muốn vào hợp tác xã nông nghiệp hoặc đi miền
núi đều có đơn xin, nhà nước không cưỡng bức.
– Thưa ông, là người thi hành các chính sách, ông rõ hơn tôi.
Tuy nói là vận động nhưng muốn thực hiện được, ai chẳng biết nhà nước phải áp dụng
biện pháp chính quyền, cao hơn là toà án và nhà tù.
– Câu hỏi thứ hai: Anh cho rằng, nhà nước bắt anh sai hay đúng?
Câu hỏi này, anh hãy lấy tính tự do và tính tất yếu để phân tích.
– Thưa ông, vì an ninh và sự tồn tại của chế độ bắt tôi là đúng.
Ngược lại, vì chân lý và lương tri của loài người, mà bỏ tù tôi là sai lầm.
– Anh đặt phạm trù chế độ đối lập với chân lý à?
– Thưa ông, đúng thế. Tôi cho rằng một thể chế không mang lại tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, đứng về bình diện chân lý, thể chế đó không được
phép tồn tại nữa. Do vậy mọi mưu đồ, mọi hành động kéo dài sự sống của thể chế
đó đều là sai lầm.
– Đảng lãnh đạo nhân dân đã chiến thắng thực dân Pháp, đang chiến
thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nếu không có chính nghĩa, không có chân lý
thì tại sao liên tiếp chiến thắng vẻ vang như vậy? Bởi vì chính nghĩa bao giờ
cũng thắng.
– Thưa ông, câu nói chính nghĩa bao giờ cũng thắng không phải là
một quy luật, một tính tất yếu. Câu nói đó còn rất nhiều sai số. Chỉ nhìn lại lịch
sử Việt nam cũng rõ. Các cuộc khởi nghĩa của hai bà trưng, bà triệu, Lý bôn,
Mai thúc Loan… chống lại sự thống trị của phong kiến Trung hoa, cuối cùng đều
thất bại. Các cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng, đội cung, đội Cấn, Phan bá
Vành… chống lại thực dân Pháp cũng cùng số phận. Theo quan điểm lịch sử hiện
nay, vua Quang trung là vị anh hùng dân tộc có công diệt chúa Trịnh, phá tan
quân xâm lược Mãn thanh nhưng quân Tây sơn không thu được thắng lợi cuối cùng
và chết yểu. Ngược lại Nguyễn Ánh là vị vua bán nước “rước voi về giày mả tổ” lại
chiến thắng Tây sơn, thống nhất giang sơn lập nên triều đình nhà Nguyễn tồn tại
gần một trăm năm mươi năm. Tôi cho rằng, sự nghiệp chống Mỹ của đảng có giành
được thắng lợi hoàn toàn cũng không có cơ sở để khẳng định sự nghiệp ấy là
chính nghĩa.
– Anh muốn phủ nhận hoàn toàn sự nghiệp chính nghĩa của đảng phải
không?
– Thưa ông, tôi không có ý định hồ đồ ấy. Một tên tướng cướp có
khi còn làm điều thiện, huống chi một chế độ. Tuy nhiên tội ác của một tên tướng
cướp dù ở tầm cỡ nào cũng không thấm vào đâu so với một chế độ độc tài, tàn bạo
tồn tại nhiều thập kỷ.
– Nếu thế, anh hãy nói những chủ trương, chính sách nào của đảng
theo ý nghĩ của anh là đúng đắn.
– Thưa ông, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ chủ tịch ngày 2 – 9 –
1945 là tiếng nói chính nghĩa, đầy sức thuyềt phục. Đảng kêu gọi xoá nạn mù chữ,
phát động phong trào bình dân học vụ sau cách mạng là một chủ trương hay. Cuộc
chiến tranh chống thực dân Pháp về danh nghĩa là cuộc chiến ái quốc. Tuy nhiên
sau này đảng sử dụng nhiều biện pháp tàn bạo đối với những người lương thiện bị
nghi ngờ.
Nhưng sau ngày hiệp định geneva được ký kết, nghĩa là sau ngày
chính quyền cách mạng đã giành được một nửa giang sơn thì mọi chủ trương, chính
sách của đảng không phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân nữa. Tôi có cảm
tưởng rằng, mỗi chủ trương, mỗi chính sách là một cái thòng lọng thắt vào cổ
người dân. Đảng lại đi t
heo vết đường mòn của lịch sử: “Nhân dân là công cụ để thực hiện ý chí của một
vị anh hùng, đến khi sự nghiệp thành công, họ trở thành những nạn nhân để trả
giá cho những cuồng vọng dẫn đến những sai lầm; Chẳng những thế, họ còn trở
thành những nạn nhân vì những luận điệu, những hành động bịp bợm, phỉnh phờ và
tàn bạo của vị anh hùng đó”.
– Từ khi diễn ra cuộc cách mạng tháng mười vĩ đại – Ông viện kiểm
sát hỏi – phe xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh, đến nay đã chiếm một phần
ba diện tích và dân số toàn thế giới. Ngoài ra, cao trào cách mạng của Á, Phi,
Mỹ la tinh cũng đang dâng cao như vũ bão. Sự kiện trọng đại đó đúng với quy luật
mà Marx đã chứng minh: Chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Anh nghĩ
thế nào về quy luật đó?
– Thưa ông, sự kiện đó không phải là một quy luật mà chỉ là một
thực thể, cũng giống như các đế quốc Macédoine, La mã, Nguyên Mông, Napoléon…
hay chủ nghĩa phát xít là những thực thể không mang tính chân lý.
Chân lý là quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý thức con
người, không phải lúc nào cũng thuộc về số đông hay đa số, cũng như không có
quê hương hay tổ quốc. Nhận thức chân lý không phải một sớm một chiều mà có khi
kéo dài hàng thế kỷ. Bản án nhà bác học Galiléo năm 1633, ở thời kỳ đó. giáo hội
và có thể đại bộ phận nhân loại đều cho rằng lý thuyết về quả đất xoay quanh
mình nó và quanh mặt trời của ông ta là một tà thuyết. Mãi sau này, hàng thế kỷ
trôi qua, nhân loại mới xác quyết đó là một chân lý. Chủ nghĩa xã hội từ khi ra
đời dến nay mới gần nửa thế kỷ, tôi cho rằng chưa đủ thời gian để nhân loại khẳng
định đó là một chân lý hay một sai lầm.
– Theo anh, loài người cứ giậm chân tại chỗ là chủ nghĩa tư bản?
– Thưa ông, chủ nghĩa tư bản không giậm chân tại chỗ, từ khi ra
đời với cái máy hơi nước đến nay nó đã đi được một chặng đường dài. Chủ nghĩa
tư bản hiện đại khác xa với chủ nghĩa tư bản sơ khai đương thời ông Marx. Và
tương lai sẽ có một chủ nghĩa tư bản luôn được đổi mới để phù hợp bước tiến hoá
của nền văn minh nhân loại. Dẫu sao tội ác và bất công vẫn tồn tại ở bất cứ xã
hội nào, không thể và không bao giờ có cái thế giới đại đồng như trong học thuyết
Marx.
– Câu hỏi cuối cùng: anh cần luật sư bào chữa không?
– Thưa ông, tôi không cần. Và biết rằng, luật sư của chế độ xã hội
chủ nghĩa là một đảng viên, ăn lương nhà nước. Việc bào chữa của luật sư chỉ để
giải thích nhà nước bỏ tù tôi là đúng. Giống như tổ chức công đoàn, không bênh
vực quyền lợi của người lao động mà đứng về phía nhà nước bắt công nhân phải
làm việc nhiều hơn, ngăn chặn mọi hành động tự phát của quần chúng.
Buổi thẩm cung diễn ra bốn giờ liền.
Ngày 21 – 5, chúng tôi cùng bị gọi ra phòng thường trực để giải
sang toà án phố Lý thường Kiệt nghe cáo trạng.
Mười tháng xa nhau, nay cùng ngồi trên một chiếc ghế băng, Khoa
nói:
– Chúng mình phải chịu mức án đến mười năm.
– Đến bây giờ mày còn ngây thơ thế? – Tôi nói – Toà án là công cụ
tuyên truyền cho thứ công lý giả hiệu của đảng. Đa số phải đi tập trung cải tạo,
đảng cần gì toà án. Khi hết án được về hay không còn phụ thuộc vào ý riêng của
người cầm quyền lực. Nếu chiến tranh chưa chấm dứt, họ chuyển mình sang tập
trung có khó khăn gì?
Tên công an dẫn giải từ xa chạy lại đập mạnh đầu tôi vào đầu
Khoa làm hai đứa choáng cả óc. Hắn quát:
– Chúng mày nói chuyện gì?
Chúng bàn với nhau:
– Khoá đưa phạm đi trại chưa mang về, vậy đưa bọn này sang toà
thế nào?
– Tôi điểm huyệt cho què rồi đưa sang – Tên công an vừa đánh
chúng tôi đề nghị.
– Đồng chí giải từng tên sang – Tên trung uý cấp cao hơn ra lệnh.
Tôi bị giải sang toà trước, nghe bản cáo trạng với nội dung sau:
Ba tên Tâm, Khoa, Dậu tích cực chuẩn bị trốn vào Nam theo địch. Tên Tâm xuất
phát từ ý thức giai cấp phản cách mạng, thời gian không có việc làm y đã dày
công nghiên cứu triết học Marx – Lénine và triết học duy tâm. Khi trốn thoát
vào Nam với mưu đồ trở thành tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, vận dụng kiến thức
đã học được để chống phá cách mạng hai miền. Đó là phần cáo trạng của tôi.
Thư ký toà án hỏi:
– Anh có đề nghị gì không?
– Không – Tôi trả lời.
– Cần báo cho ai không?
– Không.
Ngày 28 – 5, phiên toà xử kín vào buổi sáng có hai vụ. Vụ thứ nhất,
tội phản tuyên truyền là Nguyễn đức Ân phố hàng Bạc. Toà xử anh năm năm tù
nhưng anh đã bị giam cầm gần mười hai năm.
Thứ hai là vụ chuẩn bị vượt tuyến của chúng tôi. Trong lúc chờ đợi
anh Ân khoảng nửa giờ, công an khoá tay ba người bằng hai chiếc khoá số 8, tôi
ngồi giữa nên bị khoá cả hai tay. Khoa quấn thuốc lá vụn đưa cho tôi hút. Cả ba
nói chuyện bình thường, không tỏ thái độ gì sợ sệt.
Tôi nói với Khoa:
– Hôm nay, họ có xử nặng cũng không buồn, nếu xử nhẹ cũng không
thấy thế mà vui. Bởi vì toà án của chế độ này đối với người bị bắt vì lý do
chính trị như một trò phù phép, xử nhẹ có khi phải ở tù lâu hơn xử nặng. Kẻ quyết
định cuối cùng số phận của mình không phải toà án mà là bộ công an.
Thấy thế, tên cảnh sát áp giải đến quát:
– Thái độ của các anh trước giờ ra toà thế à?
– Chúng tôi phải khóc hay phải van xin? – Tôi trả lời.
– Đừng nói láo – Tên cảnh sát lại quát.
Khi ra trước vành móng ngựa, chúng tôi không được tháo khoá tay.
Lời buộc tội của ông công tố viên dựa vào nội dung bản cáo trạng, y nói:
– Đây là những vật chứng về tội trạng của chúng.
Y chỉ vào đống tang vật bao gồm những phương tiện đi đường và đống
sách của nhà xuất bản sự thật.
Y nói thêm:
– Trong nhật ký của tên Khoa phần lớn là nói xấu chế độ. Ngoài
ra, thời gian vừa qua, viện còn nhận được bảy lá đơn tố cáo tội trạng phản
tuyên truyền của tên Dậu, đậc biệt có hai lá, một lá tố cáo tên Dậu nói xấu
lãnh tụ, trong khi nhân dân cả nước và nhân dân thế giới hết lòng kính yêu bác
thì y nói “cái giỏi nhất của ông ta là thủ đoạn dùng người và bịp bợm”. Lá đơn
thứ hai tố cáo y phủ nhận nền văn học hiện thực chủ nghĩa trong hai mươi năm
qua. Y nói: “Văn học, nghệ thuật của chế độ làm theo đơn đặt hàng của đảng, thực
chất là những tác phẩm khô khan, trống rỗng, mi
nh họa sặc mùi chính trị. Còn văn nghệ sĩ hoá thành một lũ bồi bút kiếm ăn”.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng, hiện nay tên Dậu mới mười chín tuổi, y chỉ sao
chép lại ý thức phản cách mạng của tên Tâm và tên Khoa. Trong vụ án này, tên
Khoa và tên Dậu nhận vai trò khởi xướng và tích cực chuẩn bị. Còn tên Tâm tòng
phạm nhưng xuất phát từ ý thức giai cấp phản cách mạng, trước viện, y tìm mọi
lý lẽ để bao biện cho tội lỗi của mình và phủ nhận sự ưu việt của chế độ đối với
nhân dân lao động. Y còn ngang ngược dám đặt chế độ ta đối lập với phạm trù
chân lý. Tôi thay mặt viện kiểm sát nhân dân Hà nội đề nghị xử tên Tâm và tên
Khoa chịu mức án từ bốn đến năm năm, còn tên Dậu chịu mức án từ ba đến bốn năm,
y thuộc thành phần cơ bản, nếu cải tạo tốt thì hết án nhà nước sẽ khoan hồng.
Đến giờ giải lao, chúng tôi mới được tháo khoá tay. Hôm ấy thân
phụ Khoa cũng đến phiên toà, ông nói nhỏ, vì sợ nguy hiểm nên mọi giấy tờ ông
đã đốt hết, tôi và Khoa thở phào nhẹ nhõm. Mặc dù Dậu bị mắc lừa thủ đoạn chấp
pháp, nhưng chúng tôi không tin anh ta nữa.
Sau đó, toà tuyên phạt, tôi và Khoa bốn năm tù giam và hai năm mất
quyền công dân, Dậu ba năm tù giam và hai năm mất quyền công dân. Trên đường giải
phóng tôi về Hoả lò, tôi nói với Khoa:
– Mày thấy họ xử mình có đúng là màn mở đầu trong một vở kịch
dài không? Hát một bài nhạc Sài Gòn hoặc một câu phản tuyên truyền cũng bốn năm
tù. Tại sao họ xử mình nhẹ thế? Tao cho rằng, vở kịch sau này sẽ diễn nhiều màn
dài và đặc sắc.
– Đúng thế – Khoa gật đầu.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: II Trại cải tạo An Thịnh
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 13
HỒI BA – Nhà tù
II – Trại cải tạo An thịnh
Đầu tháng sáu, họ đưa chúng tôi đi trại. Buổi chiều mỗi tù nhân
được một nắm cơm ngô và một con cá mắm, khoá tay hai người một, đưa lên ô tô tải.
Mặt trời sắp lặn, ô tô chạy một mạch từ Hoả lò qua thị xã Tuyên quang đến thị
trấn Hàm yên. Từ đó đi thêm gần hai mươi cây số nữa đến phân trại phụ họ mới
cho tù nghỉ và uống nước. Cả xe, tù đều khát, có nhiều người như sắp phát điên
lên. Khi đến bến Bình ca, nhiều người khát quá không chịu nổi, chắp tay lạy van
mấy tên cảnh sát áp giải nhưng chúng làm thinh. Tù tranh nhau bê cả chậu uống
như trâu, rồi mồ hôi toát ra như tắm, có người mệt quá xỉu đi. Sau đó, tù bị
khoá giằng với nhau thành một xâu dài, đi khoảng bốn cây số đường rừng nữa mới
tới phân trại chính. Đúng vào lúc tù đi làm, những hàng người áo sọc trắng, sọc
xanh nối tiếp nhau ra khỏi trại với những khuôn mặt hốc hác, nhăn nhúm, da xám
xịt. Nhiều khuôn mặt có thể hình dung những bộ xương đầu người được bọc trong
những túi bằng da: Lỗ mắt sâu hoắm, trắng dã, xương gò má và xương quai hàm lộ
ra vì hai má đã teo gần hết thịt, tóp lại. Nhiều người đi không vững phải chống
gậy. Cảnh này làm tôi nhớ lại những bức ảnh của Võ an Ninh chụp người chết đói
năm ất Dậu, có lẽ liên tục một vài tuần không có ăn nên phải chết. Do vậy, thể
xác họ không đáng sợ như những thằng tù ở nơi này.
Trưa hôm đó, tôi ăn bữa cơm đầu tiên trong trại cải tạo của một
chế độ tự xưng là ưu việt: hai gạt bát cơm mục độn hai phần sắn và một thìa muối
trắng lẫn riềng. Những bữa ăn ở đây thường xuyên là thế, nếu có mấy miếng chuối
xanh hoặc bí đỏ nấu muối được coi là bữa ăn tươi. Bữa cơm chiều giống như bữa
sáng, nhưng mỗi tù nhân được thêm một quả chuối chín, do trại mua lâu, thỉnh
thoảng cho ăn nên chuối xanh hoá chín.
Tù cũ kháo nhau:
– Bọn mới đến gặp may rồi, bon chúng cũng được ăn chuối chín như
mình.
Mỗi chậu cơm hàng chục người, ngoài những người mới đến, chia
nhau bằng cân tiểu ly tự chế. Quả chuối buổi chiều hôm ấy cũng bốc thăm theo
may rủi cho từng người. Tôi được một quả nửa xanh, nửa chín, chưa bóc ăn thì có
hai ba người đến xin:
– Ăn xong, anh cho em nhé?
– Đã ăn thì còn gì để cho? – Tôi hỏi.
– Em xin cái vỏ thôi.
Nghe nói, tôi mới quan sát thấy, đa số tù đều ăn cả vỏ. Nếu ai
không ăn vỏ, có người khác xin ngay. Đứa cuối cùng đến xin tôi là một thằng bé
khoảng mười ba tuổi, chân tay khẳng khiu như que củi. Cái đầu to quá tải so với
cặp giò, khuôn mặt hốc hác dài, da sạm, mắt sâu mờ mờ đục, cái cổ nó nhỏ nhăn
nheo như cái tăm cắm vào quả táo là cái đầu. Một đứa trẻ hiện thân của nỗi cơ cực
triền miên từ thuở nhỏ.
– Ăn xong chú cho cháu cái vỏ, chú mới đến chưa chắc đã dám ăn.
Tôi ái ngại hỏi:
– Tại sao em phải đi tù, tù đã lâu chưa?
– Hồi cải cách gia đình cháu là địa chủ, phản động, bố cháu phải
đi tù rồi chết trong trại, mẹ cháu bị bức cung, bị đấu tố nên tự tử vì uất ức
quá, gia đình cháu bị tịch thu toàn bộ. Cháu phải ở với bà nội. Sau đó bà cháu
mắc bệnh cũng qua đời. Chú thím cháu vì đông em nên đuổi cháu đi không nuôi được.
Năm 1962 cháu lên Hà nội xin ăn ở chợ Bắc qua. Cuối năm 1964 mú càn cháu về khu
rồi đưa lên trại giáo dưỡng Hải phòng. Sợ máy bay Mỹ bắn phá, họ mới chuyển phần
lớn trại giáo dưỡng đến trại này vài tháng.
– Anh cho em, cầm cả lấy mà ăn. – Tôi nói.
– Cảm ơn chú – Thằng bé cầm quả chuối ăn ngấu nghiến. Tôi thoáng
nghĩ, đời thằng này còn cơ nhục hơn mình.
Buổi tối, trong buồng giam, chúng tôi mới đến không phải bình
công, chấm điểm nhưng phải ngồi xếp hàng ngay ngắn để nghe ban văn hoá trại đọc
báo. Buồng giam có mười gian, phên liếp bưng kín, bên ngoài lại ken thêm nứa
cây sát vào nhau, mỗi gian để hở mấy lỗ vuông mèo chui lọt để vũ trang kiểm
soát ban đêm. Hai bên trong buồng là sàn nằm cũng bằng phên nứa, hai tầng, giữa
để đi lại. Gian cuối cùng là nhà vệ sinh cũng ngăn bằng phên nứa, không có cửa
ngăn với phòng nằm. Gian đầu buồng có một cửa ra vào duy nhất. Chúng tôi mới đến
phải nằm sát nhà vệ sinh. Khi đi ngủ phải nằm sát với nhau như nêm lại. Mùa hè
nóng nực, mùi khai thối từ nhà vệ sinh bốc ra nồng nặc, quyện vào nhau. Bởi vì
ban đêm không khí bị tù đọng trong phòng, không lối thoát. Như ở Hoả lò, đến
chín giờ, sau kẻng cấm, tù phải đi ngủ, không ai được nói gì tạo nên một bầu
không khí ngột ngạt, im lìm…
Suốt đêm hôm trước phải ngồi ô tô mất ngủ, nên tù ai cũng mệt mỏi
ngủ ngay.
– Báo cáo ông bộ đội, tôi xin đi tiểu.
Nghe câu nói ấy, tôi giật mình tỉnh dậy. Một lần, hai lần, ba lần…
nhiều lần như thế. Hôm sau mới được bọn cai ngục phổ biến nội quy, trong đó có
đoạn “Ban đêm, sau kẻng cấm, trong phòng giam, phạm đi đâu khỏi chỗ nằm phải hô
to “Báo cáo ông bộ đội, tôi xin đi… ”. Nếu không, coi là hành động lén lút trốn
trại. ” Tôi nghĩ, cả phòng hơn một trăm người, ít nhất có ba chục người dậy ban
đêm với ba chục lời hô như thế rải rác suốt đêm thì ngủ sao cho yên giấc. Tuy
nhiên, dần dần ai cũng quen cả, thì ra cuộc sống của con người bị dồn đến kiếp
sống của loài gia súc rồi cũng thích nghi để tồn tại.
Chuyến xe tù đến đại đa số là lưu manh và phạm pháp về hình sự
chỉ có ba chúng tôi là tù phản cách mạng.
Hai ngày sau, cai ngục g
iải ba đứa chúng tôi đi phân trại khác, sâu vào rừng thêm ba cây số và đưa vào
toán làm nông nghiệp. Nơi đây, tôi gặp lại bác Lê ngọc Văn. Khi ấy, bác Văn đã
khỏi bệnh nhưng thân thể không còn dáng bệ vệ như xưa mà gầy yếu tiều tụy.
Bác nói, gần đây nhận được thư của Hưng, con trai bác cho biết
gia đình vẫn bình thường, Hưng yếu sức nên được về phục viên. Bác hỏi thêm tôi
về gia đình bác, tôi cũng không dám nói thật. Vì nếu bác biết cảnh tan nát ở
nhà, có lẽ bác không thể nào sống được. Tôi trả lời:
– Cháu chỉ biết tin bác phải đi cải tạo, còn gia đình bác, lâu
nay cháu không đến nên không rõ.
Hôm sau, buổi đầu tiên tôi đi lao động làm cỏ. Đột nhiên năm bảy
người xô nhau đuổi bắt một con nhái, bác Văn may mắn chộp được, tức khắc bác
xâu vào một cái que hơ qua quít vào đống lửa rồi ăn ngay, bác ăn rất ngon miệng.
Thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, bác nói:
– Anh mới đến chưa quen cuộc sống ở đây. Cái đói vò xé không thể
chịu được, không làm chủ được khi thấy cái gì ăn được là phải vồ lấy ăn liền,
chẳng hạn, lá cây non, búp măng, rau rừng và mọi thứ khác. Bác nói thêm:
– Hôm nay, ông vũ trang quản chế dễ đấy, anh nhặt rau mà cải thiện.
Tôi không thể tưởng tượng thày giáo trường Bưởi xưa kia đường bệ
mà nay lại khốn đốn đến nỗi này. Ngày lao động hôm ấy, sáng và chiều bác Văn kiếm
được hai ống bơ rau rừng: rau dệu, bầu buy, rau má, rau sam… luộc ăn ngay ở
ngoài đồng làm mặt mày bác rạng rỡ khác.
Tối đến vào phòng giam, sau khi bình điểm lao động, nghe đọc
báo, bác Văn nói chuyện với tôi:
– Tối nay may mắn là tối thứ bảy nên được thoải mái hơn ngày thường.
Về mặt tinh thần, các anh vào tù đúng vào thời kỳ hoàng kim của trại cải tạo. Mấy
năm trước, ai cũng tin là hết lệnh tập trung cải tạo ba năm sẽ được về nên
ngoài việc lao động như trâu, ngựa, còn cấu xé lẫn nhau để lập công, gây nên nỗi
đồng cảnh tương tàn. Mỗi thằng tù vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, phải chịu bốn
vòng kìm kẹp: vòng ngoài là cai ngục, vòng thứ hai là trật tự, văn hoá trại,
vòng thứ ba là toán trưởng, vòng cuối cùng là cảnh hành hạ lẫn nhau. Đành rằng
thằng tù chỉ tạo ra vòng kìm kẹp cuối cùng nhưng nó đưa đến các vòng kìm kẹp
khác nghiệt ngã hơn nhiều. Còn về vật chất từ trước đến nay, cuộc sống trong
nhà tù CS, mọi phạm nhân đều trở thành man rợ vì đói khát. Các truyện cổ Trung
quốc như Việt vương câu tiễn, Hán Sở tranh hùng viết “con người dễ cộng khổ,
khó đồng cam”, như thế chưa hoàn toàn đúng. Khi con người bị bệnh đói giày vò hết
năm này qua năm khác sẽ man dại như loài thú, không còn biết gi đến nhân phẩm của
mình.
– Còn một vấn đề, tôi nói với anh để thêm phần hiểu biết. Người
ta làm nhà để ở, có ai trong lòng “chim múa, hoa cười” đem hết hơi tàn, lực kiệt
để làm những cái cũi để nhốt mình? Nghe thì hài hước nhưng lại là sự thật.
Trước khi chúng tôi ở trại Yên bái chuyển về đây, ban giám thị
trại tuyên bố:
– Các anh được lựa chọn để xây dựng trại mới là những trại viên
đã cải tạo tốt, chỉ một thời gian ngắn nữa là được tha hết. Vậy các anh phải
lao động theo ý thức của người công dân, bỏ ngay cái ý nghĩ: nước sông công tù…
Chúng tôi đến đây là khu rừng hoang vắng, ai cũng lao vào việc
như con thiêu thân lao vào lửa, nào phát hoang, mở đường, nào đốn gỗ, chặt tre
nứa, san đồi để làm nhà, quên cả đói khát, mệt mỏi. Trong lúc dựng nhà, cai ngục
nói:
– Làm nhà là để giam phạm mới đi cải tạo, còn các anh đã được tự
do một nửa rồi. Đến khi làm xong nhà, lần lượt lại vào đó để cai ngục khoá lại,
có lính gác bên ngoài. Sự thật đã rõ ràng, có tù nhân mạnh dạn hỏi:
– Các ông bảo chúng tôi làm việc theo ý thức của người công dân…
Vậy đến bây giờ… ?
– Đợi đấy! – Tên cai ngục vừa mỉm cười, vừa nói mỉa mai.
Có người nói nhỏ:
– Tôi biết bị mắc lừa nhưng không dám hé răng.
Nhiều người thất vọng kêu lên:
– Chúng tôi cứ tưởng…
Ngoài xã hội cũng như trong nhà tù, không ít người bị mắc lừa
cho đến chết. Từ cứ tưởng này cho đến cứ tưởng khác nối tiếp nhau thành một chặng
đường dài của những nạn nhân bị bịp bợm và bị đầy đoạ…
Cặp mắt bác Văn mơ màng nhìn qua khe hở ra quả đồi trước mặt,
bác cất tiếng hát nho nhỏ bài o�ne day của Strauss:
… When we were young, o�ne day
One wonderful morning in may
You told me, you loved me
When we were young, o�ne day.
Sweet songs of spring are sung and music was never so gay…
Nghe bác Văn hát, mấy người ngồi và nằm bên nói:
– Hôm nay giáo sư cải thiện được một con nhái, hai ống bơ rau rừng
đưa tâm hồn giáo sư bay xa quá, đến thành Vienne cơ đấy!
Chẳng biết thằng tù nào hèn hạ nào làm chó săn cho cai ngục,
sáng thứ hai, thiếu uý Hồ sỹ Tưởng, cán bộ giáo dục gọi bác lên văn phòng, hỏi:
– Tại sao tối thứ bảy, anh hát tiếng Anh trong phòng?
– Thưa ông, bài hát của nhạc sỹ người Áo, một danh nhân thế giới.
– Danh nhân tôi không cần biết, tại sao anh hát thứ tiếng đế quốc
trong trại cải tạo?
– Thưa ông, tiếng nói là ngôn ngữ của một hay nhiều dân tộc,
không có tiếng nói riêng nào của đế quốc, Tư bản hay Cộng sản cả.
– Anh nói láo, tiếng Anh hay tiếng Pháp và nói chung tiếng nói cả
những nước không thuộc phe xã hội chủ nghĩa là tiếng nói của đế quốc và Tư bản.
Ngay ở bên ngoài, kẻ nào không có nhiệm vụ được giao mà nói các thứ tiếng ấy
cũng phải đưa đi cải tạo. Anh có nhớ trong nội quy của trại, cấm nói tiếng nước
ngoài không? Chúng tôi quyết định kỷ luật anh một tuần.
– Thưa ông, kỷ luật tôi là quyền của các ông. Tôi khẳng định rằng,
ngôn ngữ là biểu hiện trong nền văn hoá của một hay nhiều dân tộc, thể chế
chính trị không có tiếng nói riêng.
Tại một góc trại giam, có một ngôi nhà xây kiên cố. Nền nhà được
đào sâu xuống một mét, đổ bê tông như đáy bể chứa nước. Sau đó xây tường cao
khoảng hơn hai mét bên trên đổ mái bằng. Trong nhà được chia thành nhiều phòng
nhỏ với kích thước một mét nhân hai mét. Khi đóng cửa lại, trong phòng tối
không còn ánh sáng lọt vào, nếu không có tiếng động bên ngoài thì dễ lẫn lộn
ngày và đêm. Quanh năm nhà ẩm ướt, về mùa hè thì ngột ngạt, về mùa đông thì giá
rét. Đây là công trình dành cho những thằng tù phạm kỷ luật trại giam. Ai bước
vào ngôi nhà này, chân bị cùm cao hơn sàn nằm khoảng hai mươi phân, mỗi ngày được
tháo cùm hai lần cho ăn cơm hai mươi phút, mỗi bữa được nắm cơm nhỏ gọi là cơm
quả bàng.
Hết hạn kỷ luật, bác Văn không đứng được, trật tự phải dìu bác về
phòng. Bác nói với tôi, nếu chúng kỷ luật bác hai tuần sẽ là một bản án tử
hình.
* *
*
Một hôm ở ngoài đồng, hàng chục tù chạy đến chỗ một con trâu
đang ăn dây khoai, tranh nhau mỗi người một nắm. Tên vũ trang quản chế trông thấy,
hắn bắt vất lại. Riêng bác Quách văn Đông giấu được, bác lấy lưỡi cuốc cắt dây
khoai ra thành đoạn ngắn, cho vào ống bơ nấu, định mang dây khoai về trại ăn
cùng với cơm cho ấm bụng. Thật rủi ro, buổi trưa hôm ấy, tên trực trại ra lệnh
cho trật tự khám trước khi cho tù vào trại. Thấy động, bác Đông xếp hàng cuối
tranh thủ ăn. Tên trật tự phát hiện, hắn chạy lại bắt bác Đông há mồm ra rồi hắn
giật mạnh cả nắm dây khoai trong mồm bác. Dây khoai cứa vào lợi, máu mồm bác
Đông chảy ra ròng ròng. Bác còn bị một cú đá ngã sấp mặt xuống đất. Cán bộ quản
giáo toán bắt bác Đông viết kiểm điểm. Đến tối, sau khi bình công chấm điểm
xong, bác Đông nhờ tôi viết hộ. Bác nói:
– Tôi học hành ít, viết chậm lắm, nhờ anh viết cho nhanh.
– Bác bị án hay là tập trung? – Tôi hỏi.
– Án mười năm!
– Bác mắc tội gì mà nặng thế?
– Tội nhảm nhí ấy mà. Rồi anh sẽ biết, đa số tù ở đây đều mắc tội
nhảm nhí thôi: người cộng tác với đối phương xưa kia, mấy anh tu sĩ, mấy bác
giáo dân ngoan đạo, dăm anh phản tuyên truyền hoặc nghe đài địch, vài ba người
mắc tội gọi là đảng phái phản động như tôi…
– Sự kiện diễn biến dẫn đến tù tội thế nào?
– Có gì đâu, đời sống nông dân hiện nay rất khổ chắc ai cũng biết.
Trong hợp tác xã nông nghiệp, tôi có một ông bạn. Hàng ngày hai đứa cứ than phiền
với nhau khổ thế này chịu sao nổi? Một hôm ông bạn tôi nói, nông dân nơi nào
cũng khổ, ta bảo nhau thành lập một tổ chức chống lại hợp tác xã nông nghiệp.
Tôi ái ngại nói:
– Tuy khổ cả đấy nhưng chống lại đảng thì ai cũng sợ, chưa chắc
dám tham gia đâu? – Mà thôi được, ta cứ thử xem sao?
Chúng tôi rủ rê thêm được hai người nữa. ông bạn tôi giết chó mời
cả bọn đến uống rượu. Khổ nỗi, rượu vào lời ra, không cảnh giác nói to để thằng
đội trưởng sản xuất nhà bên nghe thấy. Nó làm đơn tố cáo, cả bọn bị bắt và đều
nhận tội vì tưởng rằng họ chỉ cảnh cáo rồi cho về. Không ngờ, họ đưa ra toà án
tỉnh xử ghép vào tội tổ chức đảng phái phản động. Toà phạt ông bạn tôi khởi xướng
mười ba năm tù, tôi mười năm, còn hai người kia tám năm.
– Các bác đặt tên đảng là gì chưa, cương lĩnh thế nào?
– Mới uống rượu say nói nhảm nhí, mấy đứa đều là dân ít học, nào
đã đặt tên là tổ chức gì? Bọn này cũng chẳng biết thế nào là cương lĩnh? Còn
may đấy chứ, như anh nói đã có tên đảng và cương lĩnh hẳn hoi như một nhóm người
khác ở Hà bắc thì tội nặng lên bội phần. Người đứng đầu cũng là nông dân ít học
phải chịu án hai mươi năm, người thứ hai mười bảy năm…
Bác Đông quê ở Hà bắc, con trai đi bộ đội vào Nam chiến đấu, con
gái làm việc ở nông trường. Còn vợ bác vẫn làm ở hợp tác xã nông nghiệp. Bác đi
cải tạo từ năm 1964. Bác cao đến một mét tám mươi, trước khi đi tù, chắc bác to
lớn lắm. Ai cũng muốn tạo hoá sinh ra cho mình có ngoại hình cao lớn nhưng phải
vào tù là điều bất hạnh. Bởi vì có cao lớn thì mỗi bữa cũng chỉ được hai gạt
bát cơm độn sắn hoặc ngô.
Theo lời kể của bác Đông, tôi viết kiểm điểm: Tôi là Quách văn
Đông toán bốn. Gần nửa năm về trại này, tôi mắc những khuyết điểm sau:
1) Hồi tháng ba, ngày dọn về sinh trong đơn vị vũ trang, tôi cướp
một miếng xương còn dính thịt của con chó đang gặm. Tôi bị ông bộ đội phát hiện,
ông ấy đánh tôi hai báng súng vào lưng.
2) Tháng tư, khi đi làm qua chuồng lợn, tôi xúc một ống bơ thức
ăn của nó. Đến chỗ làm, tôi đang ăn thì bị ông quản giáo bắt được.
3) Ngày 2 – 5, ruộng rau muống của cơ quan vừa tưới nước phân
tươi thì toán làm cỏ. Đói và thèm quá, tôi hái
rau đưa vào mồm ăn bị ông bộ đội quản chế bắt được. Ông định bạt tai tôi thì
nhìn thấy con bọ phân đang bò trên má tôi, sợ bẩn ông ấy tha cho.
Ngoài ra, trong giờ làm việc, tôi thường xuyên vi phạm quả xanh,
rau sống, đun nấu rau rừng, nướng ăn ếch nhái, dế mèn… ở trong trại tôi hay cãi
nhau lúc chia nước uống và chia cơm canh.
Những khuyết điểm trên, tôi xin sửa chữa dần dần xin ông quản
giáo tha tội. Còn hôm nay, dây khoai trâu đã ăn hết lá, tôi chỉ sai phạm đun nấu
trong giờ làm việc chứ không phải cướp thức ăn của nó.
Sáng hôm sau, bác Đông đưa bản kiểm điểm cho tên quản giáo là một
thiếu uý, hắn gọi bác vào phòng làm việc hỏi:
– Anh làm bản kiểm điểm này đầy đủ chưa?
– Thưa ông, còn thiếu những sai phạm nhỏ, chẳng hạn, tôi cải tạo
về tội phản động bán nước, nay vào trại lại phạm tội cướp nước.
– Thế là thế nào? – Tên quản giáo ngạc nhiên hỏi.
– Thưa ông, mùa hè, mỗi người một bữa chỉ được chia một ca nửa
lít nước. Như vậy cả đêm lẫn hai bữa ăn cộng lại được một lít không đủ uống,
thành ra không chia nữa mà túm lại cướp. Còn những vụ cướp thường xuyên diễn ra
nhưng ít người quan tâm đến.
– Cướp cái gì nữa?
– Thưa ông, phòng giam bưng kín, không khí lọt được vào rất ít,
sàn nằm hai tầng chen chúc nhau hàng trăm người một phòng tất nhiên không đủ dưỡng
khí thở. Do vậy, ai có lồng ngực rộng chứa lá phổi to cướp được nhiều dưỡng khí
hơn.
– Trong bản kiểm điểm, anh nhận cướp thức ăn của gia súc, như thế
anh ngang với con vật à?
– Thưa ông, không được ngang mà còn kém. Mức sống của con chó
becgiê cao quá, tôi không dám so sánh. Đời sống của con lợn là ước mong của
chúng tôi. Chúng tôi ăn gạo mục, sắn khô thì lợn cũng ăn như vậy, còn được thường
xuyên ăn thêm rau. Chúng tôi phải ăn đói thì lợn được ăn no, thừa thãi. Chúng
tôi phải lao động cưỡng bức, còn lợn thì ăn chơi. Chúng tôi phải giam trong
phòng thiếu không khí thở thì lợn được ở trong chuồng thoáng, rộng, mát mẻ.
Chúng tôi ốm đau không có thuốc, không ai quan tâm đến. Lợn ốm được chăm sóc, uống
thuốc hoặc tiêm chu đáo. Trong số chúng tôi có người bị chết, ngoài mấy thằng
tù đào huyệt đem chôn, các ông không cần để ý tới, lợn chết làm hàng trăm thằng
tù bàn tán được ăn thịt. Thực ra, chúng tôi phải cố quên cái chết của đồng cảnh
để giảm bớt sự lo sợ cho số phận của mình.
Còn đời sống của con trâu so với chúng tôi có cái hơn, cái kém,
có cái bằng. Trâu ăn cỏ là kém người được ăn cơm gạo, nhưng hơn là được ăn no.
Trâu được ở nơi thoáng mát rộng hơn người, vào chuồng trâu được nghỉ ngơi, còn
người vào buồng giam phải còng lưng ngồi nghe bình công chấm điểm, kiểm điểm và
nghe đọc báo.
Về lao động thì như nhau, trâu không chịu kéo cày, kéo gỗ trâu bị
ăn roi vọt, người không làm, nhẹ thì ăn báng súng, nặng thì vào nhà kỷ luật cùm
và ăn cơm quả bàng.
– Cũng là tù, tại sao có người vẫn giữ được nội quy còn anh thì
vi phạm?
– Thưa ông, phạm nội quy như tôi là đại đa số, họa may còn một số
ít người giữ được. Tuy nhiên khả năng chịu đựng mỗi người một khác, tiến bộ
cũng không phải giống nhau. Chẳng hạn cùng tuổi ông trong ngành công an, có người
mới là trung sĩ, nhưng cũng có người là cấp tá.
– Anh muốn nói gì nữa không?
– Thưa ông, tôi muốn nói rất nhiều. Nếu hôm nay ông cho phép,
tôi chỉ xin trình bày một vài cảm nghĩ.
– Cảm nghĩ gì?
– Xưa kia những người CS trong lao tù của thực dân Pháp là có
hành động thực sự chống lại chúng. Ngày nay, trong nhà tù xã hội chủ nghĩa, đại
đa số tù nhân chưa có hành vi cụ thể chống lại chế độ. Như tôi chẳng hạn, đang
làm ruộng riêng lẻ làm đủ ăn thì nhà nước bắt phải vào hợp tác, công điểm thấp,
cuộc sống thiếu thốn sinh ra kêu ca, nói nhảm nhí. Thế mà phải chịu án mười
năm…
– Thành lập đảng phái phản động mà không phải là tội à?
– Thưa ông, bây giờ tôi mới biết, nếu gọi là một đảng phải có
cương lĩnh, điều lệ và người tham gia. Ông thử nghĩ xem, bốn nông dân vô học
thì biết gì đến cương lĩnh, điều lệ mà thành lập đảng.
– Còn may cho anh đấy, cơ quan an ninh phát hiện ra sớm, kịp thời
ngăn chặn.
– Thưa ông, trong lao tù của thực dân Pháp, những người CS có mấy
ai chịu án nặng như chúng tôi đâu. Mặt khác tôi thường nghe, chính sách nhân đạo
của đảng là trị bệnh cứu người đối với kẻ mắc sai lầm. Điều đó chỉ có ý nghĩa
tuyên truyền ngoài xã hội. Thực tế trong trại giam các ông làm hoàn toàn ngược
lại. Cách đây mấy năm, tôi được nghe con trai đọc cuốn Dưới lá cờ vinh quang của
đảng, tác giả Song Hào, viết về nhà tù Sơn la. Có đoạn đại khái như sau: Nhân
ngày 1 –5, những người CS góp tiền mua bò, lợn mổ, mời cả tri phủ địa phương đến
ăn liên hoan mừng ngày quốc tế lao động. Tại sao trại giam của chế độ ta có nhiều
ưu việt mà các ông để tù đói khát và nhiều hình phạt khắc nghiệt thế?
– Bọn đế quốc, thực dân ngu nên chúng mới thất bại. Đảng cho các
anh ăn no, kỷ luật lỏng lẻo để các anh tiếp tục tổ chức chống chế độ ngay trong
trại giam à?
Đến chiều, bác Đông vào nhà kỷ luật một tuần.
* *
*
Chúng tôi đến trại này đã hơn một tháng. Cơ thể Khoa tàn tạ
nhanh chóng, khuôn mặ
t gầy quắt, hốc hác, má tóp lại, chân tay khẳng khiu, đi lại như ông già. Tất
nhiên tôi cũng tiều tụy chẳng kém gì Khoa. Anh nói:
– Nếu không tin có thượng đế thì chúng mình và nhiều người khác
chắc chắn bỏ xác nơi này.
Một buồi sáng, tôi bị sốt, trước giờ đi lao động, tôi xin tên quản
giáo nghỉ. Hắn bảo với y tá trại:
– Anh Thân khám cho anh Tâm xem có phải ốm không? Chắc hiểu ý của
tên cai ngục, thằng tù làm y tá khám cho tôi xong, hắn nói:
– Thưa ông, anh Tâm sốt nhẹ, có thể đi làm được.
– Anh Tâm phải đi làm, đừng để tôi phải gọi trật tự cưỡng bức –
Tên cai ngục ra lệnh.
Bác Văn ngồi bên nói nhỏ với tôi:
– Anh cố gắng đi thôi, nếu trật tự cưỡng bức là nó đấm đá ngay đấy.
Nghe theo lời bác Văn, tôi đi theo toán ra khỏi trại. Tên trung
úy bên vũ trang nói với tên quản giáo cho ba người đi gánh gạo từ trại A về.
Tên quản giáo ra lệnh cho tôi và hai người nữa là nông dân.
Tôi xin hắn:
– Hôm nay tôi bị ốm, hơn nữa tôi chưa quen gồng gánh, xin ông miễn
cho lần này.
Hắn cười nhạt nói:
– Lao động ở trại giam là cưỡng bức không phải chiều theo ý muốn
của anh. Nếu không quen gồng gánh, cần phải làm cho quen.
Không còn đường nào khác, tôi phải tuân theo lời hắn. Ra đến trại
A, tên vũ trang quản chế bắt mỗi người gánh bốn mươi cân. Mới trèo đèo, lội suối
đi không, tôi đã mệt rồi, chân rời rã không còn muốn bước, bây giờ phải gánh bốn
mươi cân thì gánh thế nào? Tôi liều xin tên vũ trang:
– Tôi yếu quá, không thể gánh được. Tôi xin ông.
– Không gánh được cũng cứ phải làm – Hắn lạnh lùng trả lời.
Bác nông dân đi cùng nói nhỏ với tôi:
– Anh phải cố gắng lên, nếu không thì tai hoạ đấy.
Tôi gánh được hơn một trăm mét, mắt hoa lên, đầu óc quay cuồng,
chân tay bủn rủn, rụng rời. Đến đoạn lên đồi dốc ngược, tôi lảo đảo ngã xuống,
không còn biết gì nữa.
Khi tỉnh dậy, thấy mình nằm ở buồng giam, tù chuẩn bị đi làm buổi
chiều, đầu óc tôi đau như búa bổ. Khoa ôm lấy tôi, vừa khóc, vừa hỏi:
– Họ đánh nên mày ngất đi à?
– Không tao có biết gì đâu?
– Mặt mày có hai chỗ tím lại là vì sao?
– Nghe mày nói, tao mới thấy đau, không biết tại sao lại thế?
Một bác cùng đi gánh gạo, nói:
– Khi anh ngã, ông vũ trang tưởng anh giả vờ nên đấm vào mặt anh
hai quả. Không thấy anh phản ứng gì, biết anh bị ngất, ông ấy mới thôi. Ông vũ
trang nói với cán bộ trại ngoài cho tù tự giác cõng anh về trại này.
Khoa đến trạm xá, gọi y tá khám cho tôi. Hắn cho cặp nhiệt kế,
báo tôi bị sốt 40, 1o C. Khoa hỏi xin thuốc, tên y tá nói:
– Nhiệm vụ của tôi được cán bộ giao là phát hiện những hiện tượng
ốm giả vờ để cưỡng bức lao động, còn thuốc thì không có. Vả lại, nếu có thuốc
cũng chỉ phát cho những phạm khi được lệnh của cán bộ.
– Tâm bị sốt từ sáng, lương tâm anh để đâu mà không cho người ta
nghỉ. – Khoa nói.
– Lương tâm, lương tâm! – Hắn cười gằn lên – Không biết đã bao
năm tôi không được nghe nói đến. Còn ở đây, tôi chỉ biết theo lệnh của cán bộ để
có ngày đoàn tụ với gia đình. Các anh thông cảm nhé – Nói xong, hắn bỏ đi ngay.
Tôi ốm gần nửa tháng, vài ngày đầu bỏ ăn, sau ăn cháo rồi khỏi.
Tiếp ngay sau đó là bệnh kiết lị hành hạ tôi hơn hai tháng, không được một viên
thuốc nào. Có mấy ngày nguy kịch, tôi không mặc quần nữa, ban ngày ngồi trên tấm
ván khoét lỗ, bên dưới để cái giành tro, đi đại tiện liên tục hai, ba mươi lần
một ngày đêm. Thế rồi bệnh đó cũng tự nhiên lại khỏi. Gần một tháng sau, tôi đi
chưa vững thì bệnh ngứa phát sinh, cơ thể tôi từ cổ đến chân tay, da thâm lại
vì mụn ngứa và nhọt. Lúc đó, yếu quá tôi phải chống gậy dò đi từng bước. Nằm
bên tôi, nhiều lần Khoa khóc và nói:
– Tao thương mày quá! Xin lỗi, tao có ý nghĩ rằng, nếu mày không
may chết vì bom đạn, có lẽ không làm tao đau lòng bằng nhìn thấy thân thể điêu
tàn của mày hiện tại.
Nhiều người trong toán nói nhỏ với nhau, tôi nghe được:
– Anh ấy khó mà qua được mùa đông này.
Bác Văn buổi tối thường đến thăm tôi, bác nói:
– Anh đủ nghị lực để nhìn vào sự thật, nếu con người không có định
mệnh thì anh không thể thoát khỏi bàn tay của tử thần trong thời gian tới.
Bác Quách văn Đông cũng nói:
– Không ngờ tuổi trẻ mà sức đề kháng với đói khổ, bệnh tật lại
kém hơn những người già. Chúng tôi ai cũng thương anh, lại lo cho số phận của
chính mình có thể chẳng may mắn gì hơn, chỉ có khác là trước với sau thôi.
Nhưng không! Ngoài bàn tay hung bạo của bầy quỷ đỏ còn có bàn
tay nhân từ của thượng đế. Bệnh tật hành hạ liên tục trong hoàn cảnh tù đầy
nghiệt ngã ấy tôi vẫn không chết, cũng như bao người khác, thân thể đã tàn cách
nấm mồ không đầy gang tấc mà sao tử thần không bắt? Giải thích theo khoa học đành
bất lực trước những cuộc sống huyền bí ở nơi này.
Tuy nhiên, hàng ngày vẫn diễn ra những cuộc tiễn đưa người về
bên kia thế giới một cách âm thầm, lặng lẽ.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Trại cải tạo An thịnh
(2)
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 14
HỒI BA – Nhà tù
II – Trại cải tạo An thịnh
Ngày chủ nhật đầu tháng mười cả trại tập trung ở sân để nghe quyết
định ân giảm, ân xá nhân ngày kỷ niệm quốc khánh. Đối tượng là những người phạm
tội tham ô, hiếp dâm, giết người vì tình ái. Nhờ ngày ấy, mỗi thằng tù cũng được
mấy miếng thịt trâu, một bát rau muống nấu với lòng và tiết. Do bữa ăn tươi đặc
biệt này, nhiều người cả đêm không ngủ, nằm chờ sáng vì sung sướng. Tù bàn cách
chia làm sao cho thật công bằng, sau khi cân bằng cân tiểu ly còn bốc thăm nhờ
vào may rủi được miếng thịt ngon hay không.
Trong buổi công bố quyết định, ông giám thị nhắc đi, nhắc lại
nhiều lần lời biểu dương thái độ cải tạo của Phi Lân trật tự trại. Ông ta coi
Phi Lân là tấm gương sáng để mọi tù nhân học tập mà cải tạo. Vậy Phi Lân là người
có lai lịch thế nào? Hắn con một gia đình cách mạng. Mẹ hắn con nhà nghèo, trước
cách mạng tháng tám chuyên đi ở. Bố hắn nhiều hơn mẹ hắn mười ba tuổi, sau ngày
toàn quốc kháng chiến, đi bộ đội. Còn mẹ hắn tham gia du kích, hồi cải cách là
cốt cán và chánh án toà án nhân dân đặc biệt, sau đó làm cán bộ phụ nữ xã. Bố
Lân mắc bệnh sốt rét kinh niên phải về phục viên. Lân được sự ưu đãi của chính
quyền địa phương, mười chín tuổi hắn đánh chết mẹ ngoài đồng. Sự kiện diễn ra bất
ngờ làm rung chuyển dư luận cả một vùng.
Sau đây là lời khai của hắn trước toà:
Cách đây hơn một năm, lúc đó tôi vừa tròn mười tám tuổi, một hôm
mẹ tôi bảo:
– Bố con ốm đau, con ngủ chung, bố không yên giấc. Tối nay vào
buồng ngủ trên giường của mẹ. Tôi nghe theo, bởi vì chuyện thường mẹ con mà lị.
Tối hôm đó, khi nằm bên, mẹ tôi hỏi:
– Mày muốn lấy vợ chưa?
– Còn trẻ, nay mai đi bộ đội, vợ con gì – Tôi thật thà trả lời.
Sau đó bà ấy sờ từ mặt tôi xuống người tôi, sau cùng là cái ấy của
tôi, bà ấy nắn và hỏi:
– Thế này mà chưa thích vợ à?
Hôm ấy trời nóng, tôi chỉ mặc cái quần đùi. Đột ngột bà ấy kéo
quần tôi xuống và nói nhỏ:
– Anh cứ thử tôi xem có thích không?
Bà ấy vừa nói, vừa cởi quần mình rồi ôm chặt lấy tôi. Quả thực
lúc đó, tình dục bốc lên, tôi cũng không chịu nổi, nhưng tôi nói:
– Thích thì đi tìm chỗ khác có được không?
Bà ấy thì thầm:
– Bố anh yếu lắm, chẳng còn yêu tôi được nữa. Trong nhà bảo nhau
được mới hay. Ở ngoài, nếu tôi bị lộ sẽ ảnh hưởng đến lý lịch của anh.
Lần đầu mẹ tôi ngủ với tôi diễn ra như thế. Bà ấy còn nói thêm:
– Tuổi mới gần bốn mươi, tình dục của tôi còn mạnh lắm, anh
thông cảm vì anh cũng chẳng thiệt gì.
Trải qua hơn một năm, mẹ con tôi ăn nằm với nhau như một cặp vợ
chồng nhưng đều do mẹ tôi chủ động. Đến khi tôi nhận giấy báo đi bộ đội, bà ấy
nói:
– Còn mấy ngày nữa phải xa anh rồi, anh cố sức chiều tôi đấy
nhé.
Từ hôm ấy, mẹ tôi hình như không ngủ nữa, mỗi đêm khua tôi dậy đến
bốn năm lần mà không biết chán. Vài ngày sau tôi không còn sức để chiều bà ấy nữa.
Đêm cuối cùng tôi nằm ngủ mê mệt, bà ấy để trần truồng, lột quần tôi ra và cả
đêm bà ấy xoay vần tôi. Bực quá tôi hất mạnh làm bà ấy ngã nhào xuống đất. Sau
đó tôi sang giường bố tôi nằm ngủ.
Mẹ tôi không đi ngủ nữa và hằn học bảo tôi:
– Hôm nay anh ra đồng xới lúa với tôi buổi cuối cùng.
Ra đến ruộng, đứng đầu bờ, mẹ tôi nói:
– Mày hư lắm, tao phải mách bố mày.
– Bà bảo tôi hư cái gì?
– Cái ấy chứ còn gì nữa – Mẹ tôi trả lời rất thản nhiên.
– Do tôi hay do bà?
– Cứ cho là do cả hai, mày còn trẻ mới cần tiến bộ, tao chẳng cần
gì nữa.
– Bà nói năng vô trách nhiệm thế à? – Tôi quát lên – Hiện nay bà
là một cán bộ cơ mà.
– Không cần, tao sẽ nói hết.
Tức không chịu nổi, tôi đập cho mẹ tôi một đầu cuốc vào đầu, mẹ
tôi ngã xuống chết ngay.
Toà tuyên phạt Phi Lân giết người do ngộ sát, mười hai năm tù. Hắn
bị bắt từ năm 1960. Năm 1961 hắn đi trại, sáu tháng sau hắn được làm trật tự trại
và mới chuyển về trại này hồi đầu năm. Năm ngoái hắn được giảm án một năm và
năm nay giảm hai năm. Hắn cao to, béo húp híp, mắt lươn. Hắn được làm trật tự
vì tính hung hãn. Một sai phạm nhỏ của tù là hắn đánh rất dã man. Hắn góp sức
cùng bọn cai ngục làm nhiều người bỏ mạng hoặc thành thương tật. Đây là một tấm
gương trong trại cải tạo của một chế độ tự xưng là ưu việt.
Cải tạo theo phương pháp của chế độ là phải cắn xé lẫn nhau, mất
hết tính người mới thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai cấp trong nhà tù.
Điều nham hiểm là chúng nhốt chung tù chính trị với tù hình sự và xúi giục, gây
mâu thuẫn để tù hình sự đánh đập, hành hung tù chính trị.
Chúng thường nói với tù hình sự, các an
h là con em tầng lớp lao động chỉ sai phạm nhất thời, khác với bọn phản cách mạng,
chúng đã tiêm nhiễm những tư tưởng xấu để các anh phạm pháp. Lưu manh, đĩ điếm,
giết người, cướp của và các tệ nạn xã hội khác là tàn dư của chế độ cũ. Các anh
là sản phẩm, còn bọn phản cách mạng là thủ phạm.
* *
*
Đầu cầu Long biên có một người chữa xe đạp, anh ta còn trẻ, tuổi
ngoài ba mươi, thích làm nghề tự do – một nghề không phù hợp với xã hội đương
thời. Anh vui tính, hay nói chuyện và cũng là người hiểu biết.
Mùa hè năm 1966, một người khách đến nhờ anh chữa chiếc xe đạp
thống nhất. Xe bị vỡ côn, chờn răng trục bánh sau. Người khách cũng trạc tuổi
anh, anh vừa chữa xe, vừa nói chuyện vui với khách:
– Cứ có cái Peugeot là yên tâm hơn cả. Một chiếc xe này phải bền
bằng năm lần xe thống nhất. Khẩu hiệu nhanh nhiều tốt rẻ nên thay đổi lại là chậm
ít xấu đắt…
Người khách cứ thản nhiên nghe anh thợ nói chuyện, đến khi chữa
xong, khách thử lại thấy trơn tru, lập tức anh ta hỏi anh thợ:
– Anh ca ngợi xe Peugeot của đế quốc à?
– Sự thật là thế – Anh thợ ngạc nhiên trả lời.
– Anh tuyên truyền không công cho đế quốc – Nói xong người khách
giơ thẻ đỏ, bắt anh thợ chữa xe về đồn. Hôm sau giải anh thợ lên khu vài ngày
và đưa vào Hoả lò giam cứu. Toà án phạt anh thợ năm năm tù và ba năm mất quyền
công dân vì tội tuyên truyền không công cho đế quốc.
Cai ngục giải anh đến trại này hồi đầu tháng mười một. Anh gặp lại
thày giáo cũ là bác Lê ngọc Văn. Thày trò ôm nhau thương cảm trong cảnh tái ngộ
đắng cay, trò mở hết bầu tâm sự với thày, trong đó có sự kiện đau thương tan
nát của gia đình thày. Như sét đánh ngang tai, bác Văn ngất đi một hồi lâu
không tỉnh. Từ đó, thể xác và tinh thần bác vốn đã héo mòn lại càng sa sút
nghiêm trọng hơn. Gánh nặng của hai năm tù cơ cực, tủi nhục và sự đau thương,
tan vỡ của gia đình đè lên đôi vai gầy guộc của bác, uốn cái lưng còng lại như
một cánh cung, mái tóc bạc phơ, xơ xác, cặp mắt sâu hoắm thâm quầng dấu ấn của
nhiều đêm mất ngủ.
Những nếp nhăn trên trán bác hằn lên từng vết đậm và sâu. Bác phải
chống gậy dò dẫm từng bước. Yếu quá, bác được chuyển sang toán chẻ tăm hương, một
toán gồm những người già yếu, đại bộ phận phải chống gậy. Một buổi sáng bác Văn
sốt xin nghỉ. Tên quản giáo còn trẻ, có cặp mắt sắc như dao, hắn bảo y tá trại:
– Anh Thân khám cho anh Văn xem có thể đi làm được không?
Tên y tá muốn duy trì địa vị, được ăn no, lao động nhàn, hăn phải
hiểu ý của từng tên cai ngục, khám cho bác Văn xong, hắn nói:
– Thưa ông, anh Văn có thể đi làm được.
Tên quản giáo quát:
– Anh Văn phải đi làm.
– Tôi bị sốt và rất mệt, xin ông cho tôi nghỉ.
– Phi Lân đâu làm nhiệm vụ –tên quản giáo gọi.
Trật tự trại từ xa chạy lại chỗ bác Văn, hắn hỏi:
– Lệnh của ông cán bộ, anh có chấp hành không?
– Tôi đang sốt rất nặng, xin anh tha cho.
Bốp, bốp – Hắn đấm vào mặt và đá vào sườn bác Văn. Bác ngã sõng
soài ra đất. Hắn nắm lấy tay bác Văn kéo quệt lê ra ngoài cổng trại. Sau đó,
tên quản giáo sai tù khiêng bác ấy ra nơi làm việc.
Đến chiều, tên quản giáo cho bác Văn nghỉ. Bác chống gậy dò dẫm
mãi mới đến được trạm xá xin thuốc. Tên y tá trại nói:
– Lệnh của cán bộ không cho, mà thực tế cũng không có thuốc.
Lúc đó tù đi làm về trại, gặp tôi, bác nói nhỏ:
– Tôi không thể sống được nữa, Cộng sản đã hãm hại cả nhà tôi.
Bác Văn đã biết định mệnh của mình. Nhìn bác thương tâm quá tôi
ngậm ngùi không giữ nổi dòng nước mắt.
Sáng hôm sau, giờ điểm danh, tù ngồi xếp hàng đợi trong phòng để
trật tự điểm trước và cai ngục điểm sau. Thấy cái màn vẫn buông, tên trật tự giật
đứt dây màn nhưng người nằm trong màn vẫn im lặng. Hắn cầm chân người ấy giật mạnh
mới biết người ấy đã chết ban đêm, Người ấy chính là bác Văn. Trước giờ đi làm
tôi lẻn đến chỗ để thi hài bác và thầm gửi bác lời chào vĩnh biệt. Bác Văn
không còn nữa nhưng hình ảnh thày giáo trường Bưởi đường bệ xa xưa và hình ảnh
món súp nhái ngoé, quả găng luộc bằng chiếc gáo dừa mà bọn trật tự, văn hóa bắt
được bêu giếu thày trước cổng trại sẽ còn tồn tại mãi. Cuộc sống đau thương, cơ
nhục và cái chết thê thảm của thày giáo danh tiếng một thời dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa như thế đó.
* *
*
Gần tết Nguyên đán, trước giờ đi làm, ông phó giám thị Vũ anh Cửu
nói chuyện trước tù nhân toàn trại:
– Trại mới xây dựng, cơ sở vật chất còn thiếu. Do vậy kinh phí
nhà nước cấp cho các anh dùng chưa hết. Chúng tôi muốn mua ngô, khoai, sắn cho
các anh ăn thêm lại phạm vào chính sách lương thực. Muốn mua trâu lợn mổ để cải
thiện bữa ăn của các anh lại phạm vào chính sách thực phẩm. Còn một biện pháp
duy nhất là các anh phải tích cực lao động, trồng nhiều khoai sắn rau để tăng
thêm mức sống.
Ông nói tiếp:
– Gần đây ban giám thị nhận được nhiều đơn của các anh
theo đơn vị toán, tổ hoặc cá nhân đề nghị: với chính sách nhân đạo của đảng,
ngày tết bán cho mỗi anh một vài cân sắn ăn thêm cho no để đỡ nhớ gia đình.
Tôi thay mặt ban giám thị tuyên bố ngày tết ăn hương ăn hoa. Nếu
bán sắn cho các anh, sẽ có kẻ bên tù phản cách mạng xuyên tạc ngày tết cho phạm
ăn sắn thay cơm. Ông nói vẻ bông đùa:
– Đói mới không nhớ nhà chứ. Ăn thêm cho no để đỡ nhớ gia đình
là không logique.
Tết năm ấy, đêm giao thừa, hầu như không ai ngủ được do quá nhớ
nhà và cái đói vò xé theo cấp số.
Sáng mùng một tết, theo thường lệ tù nhân phải tập trung nghe
ban giám thị chúc tết nhưng do đói quá, đại bộ phận nằm dài, lấy chăn trùm kín
mặt. Ngày tết bọn trật tự, văn hoá trại chỉ thúc giục chứ không được cưỡng bức
bằng cú đấm, cú đá.
Buổi trưa hôm đó, tôi may mắn được một bữa “đại tiệc”. Bác Phạm
cao Tòng, quê ở Hải phòng, trong toán văn nghệ quản chế lỏng lẻo hơn nên trước
tết bác nhổ rau má và giấu đi được một túi xách đầy. Rau để lâu nên đã úa, bác
gọi tôi:
– Tâm mang cơm đến ăn “tiệc” với anh.
Hai người ăn hết túi rau má và cơm được một bữa no nê.
Đến tối trong phòng giam, số đông tù đang nằm, tiếng thở dài
liên tiếp xì ra thì ban văn hoá trại gọi loa:
– Các anh chú ý nghe tin đặc biệt của ban giám thị. Xuất phát từ
chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ, cũng như sự quan tâm của giám thị và
các ông cán bộ, bộ đội vũ trang đối với trại viên, nay quyết định bán cho mỗi
anh một cân sắn vào ngày mùng hai tết.
Nghe xong tin đó, tiếng hò reo trong các buồng giam vang lên cả
một vùng đồi núi. Bỗng chốc trong buồng giam vui như hội, nhiều người cả đêm
không ngủ, ngồi bàn tán, trò chuyện chờ đến sáng. Bác Quách văn Đông nói:
– Tôi cứ tưởng nếu chết ở đây mình sẽ hoá thành con ma đói mãn
tính nhưng ngày mùng hai tết được một bữa ấm bụng thì chưa đến nỗi thế. Tôi mừng
quá chờ suốt đêm không chợp mắt.
Anh Phạm gia Ngoan cười nói:
– Số tôi son hơn các bác, các anh, hai mươi tám tết đến trại, bốn
ngày sau được một bữa chắc dạ dầy.
Sáng hôm sau, bầu không khí trại giam sôi nổi hẳn lên, túm năm,
tụm ba bàn tán. Chẳng những thế, sắn là mặt hàng quý hiếm có thể trao đổi lấy bất
cứ thứ gì nên đột xuất nhà tù biến thành một phiên chợ lớn, người đi, kẻ lại xì
xào mặc cả. Các con buôn gặp ai cũng hỏi để mua đi, bán lại, đổi chác kiểm lời.
Một áo len dài tay giá bốn cân sắn, một quần orlon mới giá ba cân, năm điếu thuốc
lào giá một cân, hai lạng đường trắng một cân và một thìa con cá muối trắng giá
một cân…
May nhất là những người đang nằm trên giường bệnh không có gia
đình trợ giúp, cân sắn tạo điều kiện cho họ có cốc nước đường hoặc cốc sữa. Mặt
hàng quốc cấm ở đây là muối trắng. Không hiểu vì sao, ngoài cái đói giày vò, ai
cũng thèm mặn, có thể uống được nước muối. Một cân đường chỉ đổi được vài lạng
muối. Sắn luộc chấm muối trắng được coi là bữa siêu đại tiệc của những tù nghèo
không có gia đình tiếp tế. Nhiều người phát biểu, ăn một khúc sắn bở còn ngon
hơn bên ngoài ăn một khoanh giò.
Do vậy những tù có gia đình tiếp tế phải bỏ ra những thứ quý như
quần áo mới, đường sữa, duốc để đổi lấy sắn và muối ăn thêm.
Toán bốn làm nông nghiệp và toán tám chẻ tăm hương ở cùng phòng,
tổng số một trăm bốn chục người. Hai toán cử người đi lấy sắn và luộc, họ đề
nghị luộc cả vỏ, sau đó họ chia nhau cả nước luộc. Còn sắn thì chia rất cẩn thận
bằng cân tiểu ly rồi bốc thăm.
Một cân sắn, người to lớn như bác Đông và anh Ngoan cũng ấm dạ dầy,
còn người khác được một bữa no nê, khoái chí. Sau khi ăn sắn cùng với bữa cơm
chiều thì mặt trời sắp lặn, niềm vui kéo dài được khoảng một giờ. Bắt đầu điểm
danh vào phòng giam, nhiều người bị nhức đầu, chóng mặt, sau đó cuộc say sắn diễn
ra cả phòng, nhẹ thì nôn mửa, nặng thì đi ỉa chảy. Những thằng tù chống gậy vội
vã đi đại tiện như trẩy hội. Nhà vệ sinh không chứa hết người cùng một thời điểm,
thành ra nhiều người ỉa ra quần, sàn trên nôn mửa, ỉa xuống sàn dưới. Bỗng chốc
phòng giam biến thành một nhà xí công cộng khổng lồ, kèm theo tiếng cãi cọ kêu
khóc, rên rỉ đan xen tiếng chửi bới và uỳnh uỵch đánh nhau.
* *
*
Mùa xuân năm 1967, nhìn những dòng người thân tàn, quần áo sọc
xanh, sọc đỏ đi làm, trong đó có tôi mà lòng tê tái. Cái đói đã vậy, lại thêm
cái rét thấu vào da thịt trong cảnh mưa phùn, gió bấc. Do sức lao động của thằng
tù, những đồi sắn mọc lên xanh tốt, những lô xu hào, bắp cải bạt ngàn. Bọn cai
ngục bắt tù thu hoạch đưa lên ô tô ra thị trấn Hàm yên bán. Có những lô bán
không kịp, rau thối ra. Lá xu hào, lá bắp cải già lợn ăn không hết chất thành đống
ngoài đồng. Trong khi đó, mỗi bữa của một thằng tù chỉ được vài gắp rau, vẫn phải
nhặt lá cây, rau rừng để ăn thêm cho đỡ đói.
Nhiều người hỏi xin cán bộ trại giam:
Các ông cho chúng tôi lá su hào, lá bắp cải vất ngoài đồng. Có
tên lịch sự trả lời:
– Tiêu chuẩn của các anh cho ăn đủ rồi.
Có tên trả lời thẳng thắn:
– Rau thối làm đất thêm màu mỡ, cho các anh ăn nhiều để phản
cách mạng à?
Trong toán của tôi có một anh là Dương hữu Lạc. Anh bị tù từ năm
1960, án phạt hai mươi
năm, tội đảng phái phản động ở Thái Nguyên. Anh đứng thứ hai trong vụ, người đứng
đầu bị tử hình. Bảy năm tù thì sáu năm anh nằm xà lim vì liên tục phạm kỷ luật.
Anh cho rằng, án tử hình còn dễ chịu hơn án hai mươi năm – một khoảng thời gian
dài để chết dần mòn. Anh chống lại bọn cai ngục quyết liệt và tuyệt vọng để tìm
cái chết sớm hơn.
Một hôm sau trận mưa, mọi tù nhân đã đi làm, riêng Lạc vần ngồi
nghỉ. Tên thiếu uý quản giáo đến hỏi:
– Anh Lạc sao chưa đi làm?
– Còn nghỉ. – Lạc thản nhiên trả lời.
Biết Lạc liều lĩnh nên tên quản giáo nói lảng sang chuyện khác:
– Có lẽ anh căm thù chế độ lắm?
– Tất nhiên!
– Nếu bây giờ trong tay anh có súng thì anh sẽ làm gì?
– Tôi bắn chết ông trước, còn viên cuối cùng dành cho tôi.
Tên thiếu uý vỗ nhẹ vào vai Lạc, nói:
– Thôi, anh đi làm.
Lạc đứng dậy, liền đấm vào mặt tên thiếu uý. Tên vũ trang từ xa
chạy lại dùng báng súng đánh Lạc túi bụi và định bắn Lạc ngay, nhưng tên trung
uý vừa đi đến nhìn thấy, gọi:
– Đồng chí hãy chờ lệnh bắn nó làm gì cho phí đạn.
Ngay sau đó, đưa Lạc vào xà lim. Móng cùm chân Lạc sắc như cưa.
Gần hai tháng trong nhà kỷ luật, mỗi bữa cho ăn hai quả bàng cơm, hai chân Lạc
bị liệt, sắp chết thì được đưa ra bệnh xá. Trong lúc Lạc hấp hối, một tên trung
uý khác nói:
– May cho anh được chết nguyên lành, nếu vào tay tôi dạo nọ, anh
phải nát xác ngay. Tuy nhiên để anh chết dần dần cũng là điều cần thiết, có đủ
thời gian để anh thấm thía, quằn quại với tội ngoan cố chống đối.
Cái chết của anh Lạc làm nhiều tù nhân quan tâm bàn tán. Kẻ hèn
nhát nói Lạc là ngu ngốc, người có máu hảo hán nói Lạc là một anh hùng. Lạc mới
ngoài ba mươi tuổi, vóc người to lớn, da trắng, khuôn mặt Lạc nhìn trong ảnh
trước lúc đi tù đầy đặn dịu dàng như con gái. Đối với đồng cảnh, Lạc hiền lành,
nói năng nhỏ nhẹ như người xấu hổ. Nhiều lần tâm sự với Lạc, tôi hiểu, anh nhìn
cuộc đời, xã hội hiện tại và tương lai như một bức tranh xám xịt. Lạc không tin
một thế lực nào có thể chống lại sức mạnh và sự tàn bạo của kẻ thù ở thời kỳ lịch
sử dân tộc cái ác chiến thắng cái thiện. Phải nói Lạc là người dũng cảm, bất
khuất nhưng thiếu lòng nhẫn nại, anh thường hành động theo cảm tính và liều
lĩnh.
Do vậy, cái chết của anh thật là uổng phí, lẽ ra phải tính toán
sự hy sinh của mình để đổi lấy một sự kiện vinh quang.
Cũng vào thời gian này, tử thần bước vào mùa gặt hái. Một vụ bội
thu, có ngày không đủ gỗ làm quan tài mặc dù có sáu cặp xẻ liên tục. Cuộc tàn
sát thầm lặng bằng cách cho chết dần mòn ở trại này có nguy cơ bị tiết lộ ra
ngoài nên để đối phó với tình hình đó, một mặt cục quản lý nhà giam cho tù ăn
thêm ngô để hạn chế chết đói, mặt khác cho chuyển trại giam đến một khu rừng mới.
Trên quả đồi A1, hàng trăm ngôi mộ bia gỗ viết bằng sơn đen họ,
tên và địa chỉ người xấu số, nằm lặng lẽ dưới rừng cây, không hương hoa, không
người phúng viếng. Lẽ dĩ nhiên thời gian sẽ xoá đi tất cả. Và thể xác họ bón
cho rừng cây thêm xanh tốt. Quả đồi này có một cây cổ thụ, ai đó đã vạch lên
thân cây mấy vần thơ:
Ở đây yên nghỉ những người,
Nhà tù tàn bạo, số trời gian nan,
Đói ăn nên phải chết oan,
Một đồi lửa hận, khói lan khắp trời.
* *
*
Một chậu cơm ở toán chẻ tăm hương ở mức thấp nhất có sáu người:
thày giáo trường Tây sơn, nhà thơ kịch, nhà văn kiếm hiệp, nhạc sĩ, ông tham tá
và một bác đi tù từ năm 1949. Bữa chia cơm nào cũng cãi chửi nhau. Hồi tháng mười
năm ngoái, nhân ngày công bố quyết định ân giảm, ân xá, bữa trưa hôm ấy có món
rau muống xào lòng trâu và tiết. Một miếng tiết to nhất bằng nửa bao diêm, nhà
văn kiếm hiệp chia cả vào một bát, sau đó bốc thăm. Vận đỏ đến với nhà văn,
nhưng khi cắn miếng tiết thấy đắng và có mùi thum thủm, nhà văn nhè ra xem té
ra miếng tiết là một cục phân trâu. Nhà văn nhổ phì phì, vội lấy nước súc miệng,
sau đó tuôn ra hàng tràng chửi tục:
– Đ… mẹ bọn nhà bếp làm cẩu thả!
– Tổ sư kiếp! Có bao giờ nấu lẫn cứt mà ăn không?
Một thằng tù nhà bếp là tù lưu manh nghe thấy, đến tặng cho nhà
văn dăm quả đấm vào mặt, nhà văn ngã sõng soài ra đất, van xin, rên rỉ, mấy
phút sau mới lóp ngóp bò dậy được. Vận đỏ của nhà văn tức thì biến thành vận hẩm.
Nguyên nhân cũng dễ hiểu thôi, tên cai ngục phụ trách toán rau xanh,
khi thu hoạch, hắn bắt tù cắt sát đất để tăng trọng lượng. Mặt khác tù phải làm
theo mức khoán cưỡng bức, súng kề bên, do đói và mệt mỏi một thằng tù nào đó cắt
rau quơ cả cục phân vào, bó lại. Bọn nhà bếp với số người rất ít so với tỷ lệ số
người tù, muốn bảo đảm được thời gian, mang rau ra suối để cả bó rửa qua loa rồi
bỏ vào chảo. Rau muống trong trại giam lẫn nhiều cỏ, rác, phân trâu và lá cây…
Mùa xuân năm ấy, một buổi tối lại được nghe ban văn hoá trại
phát thanh một tin đặc biệt: “Ngày mai, quyết định của ban giám thị cho toán
nhà bếp thu lá su hào, lá bắp cải thừa ngoài đồng để cải thiện cho toàn trại”.
Niềm vui được một bữa no l
ại đến với mọi thằng tù. Tuy nhiên lần này không sôi động như cân sắn dịp tết
vì mới được ăn thêm ngô hàng ngày nên bệnh đói kinh niên đã giảm một phần. Bữa
trưa hôm sau, rau nhiều, tù chỉ cân cẩn thận chứ không bốc thăm. Bác Khanh hẩm
hiu bị nhiều lá su hào úa, bác thắc mắc phần rau của nhà văn kiếm hiệp ngon
hơn. Máu nóng được hâm sẵn trong đầu, hai người giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực.
Thật nực cười, hai người vừa mới xô vào nhau thì cả hai đều ngã. Yếu quá, chẳng
ai dậy được để tiếp tục cuộc chiến, cả hai nằm sấp xuống sân mà rên rỉ. Nơi
chia cơm, dưới một cây to gần cổng trại. Đứng trên chòi gác, một lính vũ trang mới
đến, mặt còn non choẹt khoảng mười bảy tuổi. Có lẽ lần đầu thấy cảnh này, không
chịu nổi, chú lính quát:
– Các anh là loài vật hay sao mà chia ăn cũng đánh nhau?
Cố hết sức, bác Khanh bò dậy được, trả lời:
– Ông nói đúng! Ai vào đây một vài năm là hoá ra con vật.
– Tên anh là gì? – Chú lính trẻ quát to hơn.
– Tôi là Khanh, Phạm bá Khanh.
Chú lính sửng sốt hỏi:
– Có phải đi tù từ năm 1949 không?
– Vâng!
– Quê ở Thanh hoá phải không?
– Vâng, sao ông biết?
– Bố ơi, con của bố đây – Chú lính trẻ vừa gọi vừa khóc.
Bác Khanh ngơ ngác, chẳng hiểu gì? Trong khi đó, tên cán bộ trực
trại ngồi phòng dưới chòi gác, nghe thấy, hăn chạy ra hỏi:
– Đồng chí vừa nói gì?
– Kia là bố tôi, xin đồng chí cho gặp.
– Phải có lệnh của cấp trên, đồng chí về ngay doanh trại.
Bác Phạm bá Khanh đi buôn gạo bằng thuyền từ Thanh hoá ra Nam định
trong thời kỳ chống Pháp. Năm 1949 bác bị bắt về tội tiếp tế lương thực cho địch
tại vùng tạm bị chiếm. Không cần xét xử, họ giam bác đến nay. Sau ngày hoà bình
năm 1954, bác được gửi hai lá thư nhưng không thấy vợ trả lời.
Khi bác Khanh bị bắt thì vợ bác có mang hai tháng. Từ khi bặt
tin chồng, lại phải nghe nhiều lời đồn đại, sự tra tấn của dư luận:
– Tên Khanh là gián điệp!
– Tên Khanh đã theo địch!
– Tên Khanh đã bị cách mạng xử trí!
– Loại đàn bà vô phúc là vợ của tên bán nước!
– Là vợ của tên tay sai cho đế quốc nên đâm đầu xuống sông mà chết…
Sau khi sinh đứa con trai ba tháng, vợ bác bế con bỏ quê hương
ra thành phố Nam định làm thuê để nuôi con. Đợi tin chồng ba năm không thấy tăm
hơi, vợ bác đi bước nữa. Đứa con trai bác lấy họ và địa chỉ của chú dượng. Người
chồng kế nghiện hút, bất nhân đánh đập con của vợ nhiều lần tàn ác. Tưởng chú
dượng là bố mình, thằng con trai bác Khanh oán trách bố vô đạo đức, không có
tình thương con. Đến ngày chuẩn bị lên đường nhập ngũ, vợ bác Khanh mới nói thật
họ, tên và lai lịch của bác cho đứa con trai biết. Chú lính trẻ vô cùng đau xót
nhưng cũng cho rằng, bố mình đã chết. Nào ngờ đâu được gặp bố trong hoàn cảnh
thê thảm này. Nhưng ban giám thi không cho chú lính trẻ gặp lại bố, ngay chiều
hôm ấy điều chú đi phân trại khác. Uất ức và đau lòng quá, chú tự bắn vào đầu.
Khi bác Khanh biết người lính ấy là đứa con duy nhất của mình thì con bác đã về
nơi yên nghỉ.
Sức khoẻ của bác Khanh thật kỳ diệu mới tồn tại được mười tám
năm trong nhà tù Cộng sản. Tuy nhiên cơ thể bác đã bước vào giai đoạn gần đất
xa trời.
* *
*
Mùa hè năm 1967, phần lớn tù đã chuyển đến trại mới, cách trại
cũ khoảng bảy cây số. Bác Quách văn Đông, tôi và một số người nữa chuyển sang
toán xây dựng. Một hôm bác Đông được làm việc tự giác đi vác mía. Trên đường,
bác thấy bên bờ suối gần nơi ở của bọn cai ngục, một rổ lòng trâu không có ai
trông coi, bác liền quẳng mía bên đường, lần xuống lấy một ít cho vào ống nứa.
Khi lên, bác phát hiện một lính vũ trang đang trên đường đi xuống. Bác luống cuống
vất ống nứa đựng lòng trâu xuống suối và tìm chỗ ẩn nấp. Cạnh đó có một nhà tắm,
bác vội vã đẩy cửa chạy vào. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, mụ cấp dưỡng của cơ quan
béo như con lợn ỷ, ngoại tứ tuần vẫn chưa chồng gọi là Tam táo quân đang trần
truồng tắm. Thấy bác Đông chạy vào, mụ hô hoán om xòm. Lính vũ trang đến bắt và
khoá tay bác đưa về phòng giáo dục. Trong lúc chờ đợi hỏi tội, bác Đông có đủ
thời gian chọn cái giá phải trả rẻ nhất. Nếu bác nhận ăn cắp lòng trâu thì phải
cùm hàng tháng, nên bác đã khai:
– Tôi vác nứa đi qua, nghe thấy trong nhà tắm nữ có tiếng nước dội
vì xa nhà nhớ vợ nên tôi đã…
– Đã gì? Anh định hiếp dâm à?
– Tôi không dám, mà đẩy cửa vào để nhìn cho đỡ nhớ thôi.
– Chúng tôi có thể quy anh vào tội hiếp dâm.
– Thưa ông, thằng tù sống được về với vợ con là may rồi, lấy đâu
ra sinh lực mà làm điều đó. Vả lại, bà Tam táo quân khỏe gấp mười lần tôi, bà
chỉ gẩy tay là tôi ngã không dậy được.
Lời khai của bác Đông có tình, có lý nên tội này, bác chỉ bị cùm
trong xà lim một tuần.
* *
*
Cách cổng trại một trăm mét, có một cây lâu năm, thân cây to đường
kính bảy, tám mươi phân, cành lá sum sê tán rộng hàng trăm mét vuông, quả sai
díu dít, ăn ngọt hơn vải đồng bằng. Đặc biệt, hạt rang ăn bùi và ngon như lạc,
có tên là cây vải guốc. Trong lúc lính vũ trang quản chế lỏng lẻo, tù trèo lên
hái quả vừa ăn cùi, vừa nướng ăn hạt. Bệnh đói kinh niên mà được ăn loại quả
này còn gì thích thú hơn? Tù thi nhau hái ăn không biết chán, người không trèo
được thì đổi chác hoặc mua để có ăn. Cuộc vui vẻ diễn ra tấp nập như buổi tiệc
tùng. Tên lính vũ trang đi đâu về nhìn thấy cũng lờ đi như không biết, mặc dù mọi
ngày cũng tên lính này có tiếng là hung ác, tù sai phạm là hắn đánh liền. Hôm ấy,
hắn bỗng dưng hiền như bụt. Thấy thế tù được đà trèo lên hái ăn cho thoả thích
khen ông vũ trang tốt. Có người hô to:
– Ông bộ đội muôn năm!
Đến tối, trong phòng giam, tấn thảm kịch bắt đầu. Người ăn nhiều
quằn quại, vật vã chết ngay hôm ấy. Người ăn ít hơn bị đầu độc, hành hạ một tuần
mới qua đời. Đau thương hơn cả là những người ăn số lượng vừa đủ ngộ độc, mắc bệnh
tâm thần hoảng loạn, tự xé quần áo mình, nói nhảm nhí. Cứ thế chết dần, có người
kéo dài hàng năm tử thần mới cho về cõi. Bác Quách văn Đông cũng là người bị nạn.
Trong khi đó, vợ bác Đông đã bị mù lần mò đến thăm chồng.
Một buổi chiều tà, một người đàn bà mù cùng đi với hai đứa trẻ:
một trai, một gái dắt tay người đàn bà đến nhà tiếp đón. Lúc đầu ai cũng tưởng
đó là ba mẹ con, thực ra hai đứa trẻ kia là con anh Lê hữu Cát người Phú thọ.
Xưa kia, anh Cát cộng tác với đối phương sáu tháng, đeo lon binh nhì. Biết thân
phận mình có vết đen với chế độ, anh ngoan ngoãn nhịn nhục để cầu mong một cuộc
sống bình an. Anh đẹp trai nên lấy được người vợ xinh xắn nhất làng. Năm 1964,
anh lên đường vào trại. Anh đã vậy, vợ anh còn đáng thương hơn. Ngoài những lời
mỉa mai, nguyền rủa của dân làng và sự đe doạ, khủng bố của chính quyền địa
phương, vợ anh làm công điểm trong hợp tác xã nông nghiệp chỉ được mấy lạng
thóc một ngày, không đủ nuôi con. Anh em, họ hàng xa lánh chẳng nhờ được ai, buộc
vợ anh phải làm trò giải trí cho bọn lãnh chúa miền quê để có thêm tiền sinh sống.
Vợ anh trở thành con mồi hấp dẫn, mấy tên mặt người dạ thú tranh nhau để hậu quả
vợ anh phải gánh. Họ đã bắt vợ anh về tội gái làm tiền. Nhục quá, vợ anh thắt cổ
tự tử. Có ai đó đã xui hai đứa con anh nên chúng đến trại giam xin bọn cai ngục
tha anh về để nuôi dạy chúng.
Đi ô tô đến thị trấn Hàm yên, vợ bác Đông và hai đứa con anh Cát
làm quen nhau và cùng trên đường vào trại, vừa đi vừa hỏi thăm đường, trèo đồi,
lội suối từ sáng sớm đến chiều họ mới tới khu vực trại giam.
Cách trại giam khoảng ba trăm mét, có một khu nhà rất đẹp, làm bằng
gỗ, sơn các màu bóng lộn, trên mái lợp ngói. Trong nhà kê những bộ bàn ghế bằng
gỗ lát, đánh véc ni bóng như gương và những chiếc giường hộp kiểu Đức, trải chiếu
hoa mới. Xung quanh vách bằng gỗ dán nhiều tranh ảnh đẹp. Ngoài sân, có một vườn
hoa hình bán nguyệt trồng nhiều loại: cúc, thược dược, hoa hồng, glaieulle…
Ngoài ra, còn các chậu hoa, cây cảnh, một bể to chứa nước trong
vắt, thả cá cảnh, giữa bể có non bộ. Bên cạnh khu nhà, một dòng suối chảy qua,
nước trong veo, chảy xiết bốn mùa. Tiếng chim hót líu lo xa gần tôn thêm vẻ trữ
tình, thơ mộng của khu nhà. Nơi đây có người trông nom thường xuyên quét dọn
nhà cửa, biết chăm sóc, tỉa tót vườn hoa. Khu nhà thông ra đường bằng một ngõ rộng,
sửa sang sạch đẹp. Đầu ngõ có biển đề: nơi tiếp đón gia đình các trại viên. Nơi
đây chúng tôi gọi là phòng tuyên truyền của địa ngục trần gian. Đứng đầu phòng
này là một sĩ quan công an – cán bộ giáo dục. Chắc ông cán bộ này được đào tạo
rất công phu nên mới có tài uyên bác về đổi trắng thay đen. Tuy nhiên ông ta chỉ
là cái đinh vít nhỏ trong guồng máy tuyên truyền khổng lồ của chế độ. “Lưỡi
không xương nhiều đường lắt léo… ” đã, đang được cái guồng máy này khai thác
triệt để và sử dụng tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.
Nơi đây đã diễn ra bao cảnh chia ly vĩnh viễn của những cặp vợ
chồng còn trẻ, con cái không tin cha, vợ chẳng hiểu chồng, anh chị oán trách
em. Trong cái địa ngục trần gian kia hàng trăm người bỏ mạng vì ốm đau không có
thuốc, không được cứu chữa, vì đói hoặc vì những cực hình khác thì tại phòng
tuyên truyền này được giải thích: với chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ,
chúng tôi đã hết lòng cứu chữa và chăm sóc nhưng do bệnh tật hiểm nghèo không
qua khỏi…
Trước khi vợ bác Đông được gặp chồng và hai đứa con anh Cát được
gặp bố, ông cán bộ giáo dục cho nấu cơm gạo ngon, thức ăn có thịt lợn và canh
ngọt mời. Ông nói chuyện với vợ bác Đông là bác Hoà, trước hết ông hỏi thăm sức
khoẻ và tình hình kinh tế của gia đình. Bác Hoà nói:
– Nhà tôi đi cải tạo một thời gian thì con trai tôi đi bộ đội, mới
hy sinh ở miền Nam năm ngoái. Con gái tôi làm việc và lấy chồng ở xa, chẳng giúp
được gì bố mẹ. Đầu năm nay tôi ốm nặng, không có điều kiện vào bệnh viện, bệnh
khỏi thì mắt bị mù, kinh tế gia đình rất khó khăn. Đây là lần đầu tiên tôi đi
thăm ông ấy sau ba năm cải tạo.
Ông cán bộ bắt đầu giải thích:
– Chủ trương nhà nước đưa chồng bác đi cải tạo là mong muốn anh
Đông gột rửa những tư tưởng xấu đi trở thành người lương thiện cùng đóng góp
xây dựng xã hội chủ nghĩa, mức án chỉ là cái mốc để anh Đông phấn đấu. Rất nhiều
người cải tạo tốt được về trước án hoặc được giảm án, ngay án chung thân cũng
chỉ ở tù trên dưới mười năm. Hiện nay toàn đảng, toàn dân và toàn quân, tất cả
để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Trai trẻ trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu ngoài
chiến trường, còn lại đang chiến đấu trên mặt trận sản xuất ở hậu phương.
Anh Đông cải tạo tốt, sớm được đoàn tụ với gia đình là xã hội
thêm một thành viên, đất nước thêm một người lính
chiến đấu trên mặt trận sản xuất góp phần chống Mỹ.
Mặc dù kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, chúng tôi thường
xuyên quan tâm đến những người đi cải tạo, bao giờ cũng đầy đủ. Nếu có thiếu
chăng là về mặt tình cảm gia đình. Thế mà anh Đông nay vi phạm cái này, mai cái
khác, gần đây lại ăn bậy bạ quả vải guốc, tự đầu độc mình, tự phá hoại thể xác
mình. Chúng tôi đã hết lòng cứu chữa mà bệnh vẫn chưa khỏi. Tôi sơ qua thái độ
cải tạo của anh Đông để bác biết và khẳng định rằng, sở dĩ anh Đông chưa được
giảm án, gần đây mắc bệnh là lỗi của chính mình. Bác nên khuyên nhủ, động viên
anh ấy.
Nghe ông cán bộ nói, bác Hoà than khóc và oán trách chồng không
biết thương vợ, thương con.
Sau đó, ông cán bộ giáo dục gặp hai đứa con anh Cát. Ông chưa kịp
nói gì thì hai đứa trẻ vừa khóc, vừa van lạy:
– Bác ơi, chúng cháu xin bác, tha cho bố chúng cháu về để nuôi dạy
chúng cháu. Mẹ chúng cháu vừa chết rồi, chúng cháu không biết trông cậy vào ai,
phải đi xin ăn từng bữa, từng ngày. Bác thương chúng cháu với, chúng cháu chắp
tay lạy bác.
Ông cán bộ tỏ lòng thương cảm, ông an ủi dỗ dành hai đứa:
– Các cháu nín đi, đừng khóc nữa nghe chú nói. Chú sẽ đề nghị
trên tha bố cháu ngay. Nếu bố các cháu cải tạo tốt thì được về lâu rồi, khốn nỗi
bố các cháu chưa chịu cải tạo nên chưa được tha về thôi. Các cháu phải khuyên bố
nghiêm chỉnh chấp hành nội quy của trại, ăn năn hối lỗi, mau cải tà quy chính để
sớm được về. Chú rất thương các cháu, ước mong của các cháu cũng là ước mong của
chú và của đảng, ước mong bố các cháu cải tạo tốt sớm về đoàn tụ với gia đình
cùng toàn dân chống Mỹ và xây dựng quê hương, đất nước…
Lời của ông cán bộ giáo dục tỏ vẻ thiết tha, trìu mến.
Sau đó bác Đông được gặp vợ. Bác Hoà thay đổi nhiều, mắt lại mù,
bác Đông ngơ ngác nhìn vợ thì ông cán bộ bảo:
– Vợ anh đấy, quên rồi à?
Bỗng bác Đông nhảy chồm lên rồi ngã lăn ra đất, hai tay xé quần
áo tả tơi, chân đạp không khí, kêu:
– Đói lắm, có vải guốc không?
Ông cán bộ phải ra lệnh cho người trông coi nhà tiếp đón giữ bác
Đông lại và dìu về trại. Bác Hoà khóc nức nở, hai tay chới với trong không khí:
– Ông ơi, ông không thương vợ con à? Ông tự gây nên và bây giờ
ông tự hành hạ mình để cả nhà đều khổ.
– Bác cứ yên tâm, chúng tôi tiếp tục cố gắng chạy chữa cho anh
Đông khỏi bệnh và đề nghị trên tha – Ông cán bộ dỗ dành.
– Bác có quà cho anh ấy đưa tôi gửi về trại?
– Nghèo quá, tôi chỉ mua cho nhà tôi hai gói thuốc lào – Bác Hoà
trả lời nghẹn ngào trong tiếng khóc.
Đến lượt anh Lê hữu Cát được gặp con. Chúng khóc oán trách bố
không chịu cải tạo, không thương con. Anh Cát thầm hiểu hai đứa con thơ dại của
anh đã ăn phải bả lừa bịp của tên cai ngục, nhưng hắn ngồi đó, anh biết nói với
chúng thế nào? Chính vì thương vợ, thương con, khi chưa đi tù anh đã cố nhịn nhục
và phục tùng mọi sự bất công, vô lý. Trong ba năm cải tạo, anh cam chịu đói khổ
đoạ đầy, kiếp sống không bằng con vật, ngoan ngoãn chấp hành tất cả để mong chờ
ngày đoàn tụ với vợ con. Vợ anh ngày nay không còn nữa, cô ta tự giết mình vì
nhục. Trong thâm tâm anh, nếu bỏ mạng vì hạnh phúc của hai con nhỏ anh cũng sẵn
sàng. Chua xót chưa những đứa trẻ thơ ngây, người ta cướp đi tình thương yêu,
chăm sóc của cha mẹ đối với chúng. Rồi người ta lại lừa chúng trút hết tội lỗi
lên đầu người cha bất hạnh.
Anh ôm hai con vào lòng vừa khóc vừa nói:
– Các con ơi, hãy biết cho lòng bố, bố thương mẹ và thương các
con hơn cả cuộc đời mình.
Hai đứa trẻ càng khóc to hơn như bắt vạ người bố thiếu tình
thương:
– Bố ơi, bố hãy thương chúng con mà cải tạo tốt để sớm được về.
Chúng con hiện nay khổ lắm. Sau khi mẹ chết, nhà chẳng còn gì ăn, chúng con
sang xin cô chú, mỗi người chỉ cho một bơ gạo và dặn từ nay không được đến nữa,
nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến gia đình cô chú. Đói quá, chúng con đi xin ăn,
xin ở làng không ai cho, họ bảo không liên quan với con tên bán nước, Chúng con
phải đi từ sớm, xin ở thật xa mới được về. Có ngày trời mưa to quá, không đi được
đành nhịn đói. Chẳng những thế, bọn trẻ trong làng, chúng chế giễu chúng con là
con tên bán nước, chúng đánh chúng con nhục nhã lắm, bố ơi! …
– Thời gian các cháu gặp bố đã hết – ông cán bộ ra lệnh – Các
cháu có cái gì cho bố không?
– Chúng cháu có vài đồng mua cho bố cháu mấy cái bánh nếp – Thằng
con trai nói – nhưng trên đường đi đói quá, chúng cháu ăn hết rồi.
– Anh Cát chào hai con rồi về trại – ông cán bộ nói.
Anh Cát đứng lên bịn rịn nhìn chằm chằm vào mặt hai đứa con tội
nghiệp một lần nữa rồi về trại giam.
Hai đứa trẻ vừa khóc, vừa nói theo:
– Bố phải cố gắng cải tạo tốt để sớm về với chúng con, bố nhé!
Trên đường về trại, anh Cát vừa đi, vừa khóc.
Hôm sau, bác Hoà và hai đứa con anh Cát được đi nhờ ô tô tải của
trại ra thị xã Tuyên quang, ông cán bộ cho tiền ăn đường và tiền vé ô tô về
nhà.
Đến cuối năm ấy, bác Đông qua đời. Nơi yên nghỉ của bác đã có
hàng trăm bạn bè nhưng chưa đông đú
c như trên đồi A1. Còn anh Lê hữu Cát đến giữa năm 1973 mới được tha. Năm 1969,
một số lớn sĩ quan được về, anh Cát hỏi Hồ sĩ Tưởng, cán bộ giáo dục:
– Thưa ông, nay sĩ quan đã được sự khoan hồng của đảng, chúng
tôi là những lính quèn thì đến bao giờ… ?
– Các anh ấy à? – Hồ sĩ Tưởng nhếch mép cười – Nay mai tha ra
thì có lợi gì cho cách mạng?
Năm 1975, tôi thấy anh Cát lại đến trại Vĩnh quang tiếp tế cho đứa
con trai, con anh mắc tội trộm cắp phải đi tập trung cải tạo. Nghe nói, hồi cải
cách bố anh cũng phải đi tù về tội đảng phái phản động. Thế là ba thế hệ nối tiếp
nhau đi cải tạo.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Trại cải tạo An thịnh
(3)
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 15
HỒI BA – Nhà tù
II – Trại cải tạo An thịnh
Trong toán xây dựng, hàng ngày tôi cùng làm việc chẻ nứa, đan
phên với bác Trần khắc Tụ. Dáng người bác cao, cân đối, khuôn mặt trái xoan, da
trắng, đẹp trai.
Xưa kia bác có bằng cử nhân luật, làm thẩm phán toà án binh của
quân đội viễn chinh Pháp, sau hiệp định Geneva, bác ở lại Hà nội. Xuất phát từ
bệnh ngây thơ về chính trị, bác còn gọi điện cho em ruột là Trần khắc Tư, thiếu
uý truyền tin ở Cần thơ về, nói dối là mẹ ốm nặng.
Bác nói với Tư:
– Đất nước đã độc lập, tự do, em về đây sống với mẹ và anh, còn
đi đâu nữa?
Thời gian chính quyền CS chưa tiếp quản Hà nội, Tư ra phố nghe
được tin gì về cách mạng cũng nói với anh. Một lần Tư than thở:
– Nghe người ta nói sau này nhà nước bán cả phở.
– Chuyện bịa đặt, nhà nước nào lại bán phở. – Bác Tụ gạt đi.
Lần khác Tư nhặt được tờ truyền đơn đưa cho anh xem, bác Tụ bảo:
– Đây là truyền đơn của bọn phản động xuyên tạc chính quyền cách
mạng. Sao lại viết đảng rồi mới đến chính phủ? Chuyện ngược đời, đảng lại cao
hơn chính phủ à? Vì chính phủ là cơ quan đại diện cho cả một nước, còn đảng chỉ
là tập hợp của một nhóm người. Một nước có thể có nhiều đảng phái nhưng chỉ có
một chính phủ mà thôi.
Bác cũng như nhiều trí thức Hà nội, nghe ông Phạm văn Đồng nói
chuyện sau ngày tiếp quản, cảm động, vui mừng quá đến rơi lệ. Năm 1960, bác bắt
đầu thấm hương vị đắng cay của cách mạng, lần thứ năm viết đơn xin hạ mức lương
mới được chấp nhận. Tưởng mình thoát nạn, bác mở tiệc mời anh em, bạn bè và họ
hàng đến ăn mừng, nhưng nợ với cách mạng, có bao giờ người CS quên đòi. Không
phải riêng gì bác Tụ mà đại bộ phận người cộng tác với đối phương đều có nợ và
phải trả nợ. Tháng mười năm 1963, bác Tụ lên đường vào trại để đền bù tội lỗi.
Một năm sau, Tư cũng kế bước anh. Khi bị bắt, là một cử nhân luật khoa, bác vẫn
không hiểu mình mắc tội gì? Tất nhiên, nếu không trở thành một nạn nhân bị đầy
đoạ trong nhà tù CS thì không ai hiểu nổi luật rừng của họ.
Bác Tụ bị đưa đến trại cải tạo Bát bạt. Trong thời gian học tập
bốn tiêu chuẩn cải tạo, bác cho là cơ hội để thanh minh mình chẳng những vô tội
mà còn có công với đảng. Bởi vì thời gian làm việc cho toà án binh của Pháp,
bác chỉ là thẩm phán dưới quyền của một chánh án cấp đại tá người Pháp. Còn lại
chín năm làm việc cho toà án nhân dân Hà nội, bác đã lập được nhiều thành tích.
Không ngờ, bác đưa bản tường thuật quá trình hoạt động của mình
cho tên cai ngục phụ trách học tập bị hắn xé ngay và nói:
– Chúng tôi cần biết anh đã gây nên những tội ác gì cho các chiến
sĩ cách mạng chứ không phải để anh kể công với nhà nước, với đảng nghe chưa?
Đến lúc đó, bác mới hiểu một phần thế nào là thứ luật pháp phục
vụ cách mạng của chế độ. Cũng may, xưa kia gia đình buôn bán lớn, kinh tế còn
khá giả, bác thường xuyên nhận được tiếp tế nên những năm tháng bên bờ vực của
nạn chết đói, bác đã vượt qua một cách dễ dàng. Về nhân cách, bác Tụ là người đứng
đắn, sống công bằng và sòng phẳng. Tuy nhiên, bác thiếu lòng nhân ái và luôn cầu
mong sự bình an. Chính nhờ vào điều kiện kinh tế gia đình, bác bớt phần tha hoá
trong nhà tù. Thật là trớ trêu, vẫn mang tiếng là ngài thẩm phán của đối phương
nên bao giờ bác cũng trở thành mục tiêu theo dõi và trấn áp của bọn cai ngục.
Qua bác Trần khắc Tụ, tôi suy luận, có lẽ nhiều quan chức của
chính phủ Việt Nam cộng hoà cũng chẳng hiểu gì chế độ CS. Trong cuộc chiến
tranh cài răng lược, một bên không biết thủ đoạn nham hiểm xuất quỷ nhập thần của
đối phương thì thất bại là điều chắc chắn.
Nhân ngày Mỹ ngừng ném bom miền Bắc để bắt đầu hội nghị Paris,
bác Tụ hỏi tôi:
– Chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc của tổng thống Johnson
thu được gì?
– Ông Johnson mắc sai lầm khi ông ta tiến hành chiến tranh leo
thang theo từng bước. Ông ta tập dượt cho người miền Bắc làm quen và dạn dầy với
chiến tranh đến một thời điểm người ta quan niệm rằng, bom đạn Mỹ không đáng sợ
bằng vai trò của ông công an hộ tịch hoặc ông trưởng xóm. Thế thì mục đích làm
rối loạn hậu phương của địch sao mà thực hiện được?
– Theo anh, muốn có hiệu quả thì phải làm thế nào?
– Để thực hiện được ý đồ, Mỹ phải dùng hoả lực tối đa huỷ diệt gọn
từng vùng, làm cho người dân thấy sự tàn khốc của bom đạn mạnh hơn nanh vuốt thống
trị của Cộng sản. Chiến tranh như thế mới mong hậu phương kẻ thù bị rối loạn, đồng
thời hạn chế được sự thiệt hại về người, vật chất cho cả hai bên và dân thường.
Nghe tôi nói, bác Tụ cười và bảo:
– Anh có những ý kiến quả là táo bạo.
Cuối mùa xuân năm 1968, lần đầu tôi bị gọi lên phòng giáo dục.
Người hỏi tôi là thiếu uý Hồ sĩ Tưởng, dáng người hắn béo lùn, cặp mắt sắc nham
hiểm. Quê hắn ở vùng Nghệ tĩnh. Tù thường gọi hắn là cảnh sát trưởng javert. Thực
ra, hắn không xứng đáng với biệt danh đó. Vì javert hành động theo pháp luật,
theo cái gọi là pháp luật, theo cái gọi là chân lý tuyệt đối, javert không tha
thứ cho chính mình khi thấy bản thân phạm phá
p. Trong con người javert còn tồn tại lương tâm nên hắn phải đâm đầu xuống sông
Seine tự tử sau khi tha cho ông janvaljan. Cái tên thiếu uý Hồ sĩ Tưởng chỉ là
con thú dữ mất hết tính người. Hắn luôn theo dõi sát tù chính trị. Sau vài câu
hỏi thăm gia đình, hắn nói:
– Gần hai năm anh đến trại, tôi được các ông quản giáo cho biết
anh không sai phạm gì nội quy, mặc dù anh không được sự giúp đỡ của gia đình. Về
phần hiện tượng như thế là tốt, nhưng theo phương pháp tư duy biện chứng, anh
đã lấy hiện tượng để che đậy bản chất phản cách mạng của mình. Chúng tôi không
khuyến khích vi phạm nội quy, chẳng hạn ăn quả xanh, rau sống, nướng ăn cóc,
nhái, dế mèn, la liếm, bê tha… Những vi phạm ấy nội quy của trại cấm vì làm mất
nhân cách nhưng chúng tôi không cần lưu tâm đến. Bởi vì trước sức mạnh của nền
chuyên chính vô sản, ý chí của những anh hay vi phạm đã biến chất hoặc sụp đổ,
còn anh thì ngược lại. Chúng tôi được nghe báo cáo có phạm đã nói “đứng bên bờ
vực của nạn chết đói, thằng Tâm chịu đựng phi thường như một ông thánh”. Đành rằng
đói cho sạch, rách cho thơm nhưng qua đó đã chứng tỏ ý chí phản cách mạng của
anh chưa mai một. Anh thấy nhận xét của tôi có đúng không?
– Thưa ông, theo quan điểm của ông, đã phủ định hoàn toàn hai chữ
cải tạo. Một con thỏ run sợ trước con sói không phải con thỏ đã cải tạo theo
con sói. Một con người run sợ trước toà án, biến chất trong nhà tù không phải
người đó đã cải tạo để có quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa là ưu việt. Thưa
ông, đúng nghĩa của hai chữ cải tạo là gột rửa những thói hư, tật xấu, những ý
nghĩ sai lầm và tạo cho mình những đức tính hay, sự hiểu biết đúng đắn. Tôi có
ý nghĩ đây là nhà tù, không có một dấu hiệu nào được gọi là nơi cải tạo. Phương
ngôn có câu “có thực mới vực được đạo”, các ông muốn tù có quan niệm nơi đây là
trại cải tạo trước hết các ông phải tạo cho họ một cuộc sống tương đối đủ về vật
chất. Điều kiện thiết yếu này đã không có còn nói gì đến những tiêu chuẩn cải tạo.
Là một tù chính trị mà theo cách gọi của đảng là tù phản cách mạng, tôi hiểu rằng
chỉ khi nào chiến tranh kết thúc, các ông mới tha tôi.
– Anh nhầm, các anh chỉ là bọn phản cách mạng mà thôi. Nhà nước
không công nhận kẻ nào phạm tội là tù chính trị.
– Thưa ông, đấy là theo cách dùng từ của đảng. Về luật pháp quốc
tế, kẻ nào phản đối hoặc chống lại chế độ đương thời mà bị bắt giam là tù chính
trị. Tuy nhiên, tôi phải nói thêm rằng, ngoài một số ít người, cái gọi là tù phản
cách mạng thực ra họ chẳng phản ai cả, đại bộ phận chỉ cầu mong hai chữ bình
an.
– Có tư tưởng không yêu chế độ tức là phản chứ còn gì?
– Thưa ông, có tư tưởng bất phục chế độ dẫn đến có hành vi chống
lại là cả một khoảng cách xa vời, mấy người có đủ can trường dám làm điều đó?
– Anh thì sao?
– Vâng thưa ông, tôi có ý định vào Nam chống Cộng. Tuy nhiên những
người dám hành động như tôi so với những người bất phục chế độ chỉ chiếm một tỷ
lệ rất thấp, độ một vài phần trăm.
– Anh cho rằng, anh không cải tạo được gì à?
– Thưa ông, riêng tôi chưa, còn nhiều người khác theo quan điểm
của ông đã cải tạo được. Phương ngôn có câu “no ra bụt, đói ra ma”, vì cuộc sống
cơ cực ở nơi đây, các ông đã biến nhiều thằng tù trong đó có nhà văn, nhà giáo,
nhà thơ, nhạc sỹ… thành bầy người nguyên thuỷ, ăn sống lá cây, rau rừng, nướng
ăn cóc, nhái… nhặt nhạnh từng hạt cơm rơi, vỏ khoai, vỏ chuối dưới đất cho vào
mồm, cướp thức ăn của các loài vật như trâu bò, lợn chó… Đấy là bên phía chúng
tôi những thằng tù phản cách mạng, mang số giam lẻ. Còn tù lưu manh, hình sự
thì sao? Có lẽ còn tệ hại hơn nhiều so với tù phản cách mạng. Những thanh niên
nông thôn bị tù về tội ăn trộm vặt buồng chuối, con gà, sau khi cải tạo về,
chúng có đủ tài năng và kinh nghiệm lấy cắp những tài sản lớn hoặc có gan giết
người cướp của, hiếp dâm.
Tất nhiên, cũng có một số người run sợ trước roi vọt của pháp luật
trở thành người lương thiện – lương thiện trong hành động, còn tâm hồn bị vẩn đục,
tha hoá gấp nhiều lần trước lúc đi cải tạo. Phần lớn tù lưu manh được tha ra khỏi
trại sau đó lại phạm pháp, tái diễn nhiều lần. Họ thường nói với nhau:
Sống ăn sắn không cần ăn phở
Chết không cần chết ở nhà ai.
Tôi được chứng kiến mấy anh tù về tội trộm cắp hết án được về,
những anh tù khác chúc:
– Mày ra nhanh chóng rồi lại vào đây cho vui nhé!
Thưa ông, điều đó là thực chất của trại cải tạo. Tôi cho rằng, đảng
muốn giảm bớt nhà tù, trước hết phải cải thiện đời sống của nhân dân bớt phần
khó khăn, thiếu thốn. Chẳng những thế, phải giáo dục về luân lý, kỷ cương, phải
có công lý trong luật pháp, không bỏ tù oan những người vô tội. Nếu đảng chỉ
thiên về trấn áp, càng bỏ tù nhiều người thì phạm pháp hình sự càng tăng lên
theo cấp số.
– Nhà nước bắt anh có oan không?
– Thưa ông, việc đó tôi đã trình bày trước viện kiểm sát nhân
dân Hà nội, ông xem hồ sơ của tôi sẽ biết.
– Anh Trần khắc Tụ thường xuyên làm việc với anh, anh ấy có kêu
ca gì chế độ không?
– Thưa ông, anh Tụ chỉ kêu nhà nước bỏ tù oan.
– Cộng tác với toà án binh của Thực dân Pháp, giết hại nhiều cán
bộ cách mạng mà còn oan à?
– Thưa ông, theo điều 14 của hiệp định Geneva thì nhà nước bắt
anh Tụ là sai.
– Anh
phải biết, hiệp định Geneva của người chiến thắng, đảng có quyền thi hành theo
cách của mình.
– Thưa ông, tôi hiểu con người cư xử với con người cũng giống
như các quốc gia với nhau thường theo truyện ngụ ngôn của La Fontaine “Con chó
sói và con cừu”. Chính phủ ta có quyền vi phạm hoặc xé bỏ hiệp định Geneva cũng
được. Rồi đây hiệp định Paris sẽ được ký kết, nếu có đủ sức mạnh và thời cơ, đảng
cũng biến hiệp định ấy thành những tờ giấy loại. Nhưng nếu không phải vì lý do
trả thù, nhà nước bắt anh Tụ là thừa nếu không nói là có hại.
– Tại sao có hại?
– Thưa ông, nếu anh Tụ không bị bắt, anh ấy vốn là người vẫn mẫn
cán trong công việc của toà án, nay lại càng mẫn cán hơn. Cấp trên bảo sao, anh
ta cũng phải răm rắp chấp hành, không dám nói to hoặc thở dài nơi công cộng,
không có nguy hại nào đến an ninh xã hội. Như thế là có lợi cho cách mạng. Còn
việc bỏ tù anh Tụ như hiện nay nhà nước đã mất đi một công chức tận tụy mà chẳng
có cái lợi nào.
– Gần đây tôi được nghe nhiều lời tố cáo, anh thường xuyên nói
chuyện với anh Tụ, nói xấu chế độ?
Tôi thoáng nghĩ, nếu mình chối, hắn sẽ không tin, phải đánh tráo
tiền đề vậy. Tôi trả lời:
– Thưa ông, trên cơ sở nào các ông có thể tin tôi có quan hệ gần
gũi với anh Tụ? Mang tiếng là một trí thức nhưng anh ta rất ngây thơ về chính
trị. Nếu là người hiểu biết, anh Tụ đã đi Nam năm 1954 chứ không ở lại miền Bắc
để vào tù. Có người nói, bằng cử nhân luật khoa của anh Tụ nên quẳng vào sọt
rác. Tuy là những thằng tù, chúng tôi vẫn thương cảm anh Tụ vì anh ấy chỉ là kẻ
tầm thường, có học vấn như không.
Nghe tôi nói, Hồ sĩ Tưởng thích quá cười khà khà. Hắn không hiểu
bị mắc lừa từ tiền đề chính trị tôi đã dẫn hắn đến tiền đề trình độ.
* *
*
Trong toán xây dựng có một người ở Tây Nguyên là Thân quân, dáng
người lùn, da bánh mật, đầu lúc nào cũng vấn khăn. Xưa kia anh ta là du kích,
ra miền Bắc tập kết năm 1954. Đến năm 1956, anh phản đối chính sách cải cách ruộng
đất:
– Cùng máu đỏ, da vàng sao gây nên cảnh cốt nhục tương tàn, nồi
da nấu thịt?
Năm 1957, anh bị bắt. Trong trại giam anh ngang bướng luôn chửi
bới, chống lại bọn cai ngục. Thân quân hiểu biết rộng nhưng lĩnh vực nào cũng
sơ sơ: nói được mấy câu tiếng Pháp, âm nhạc chữ Nho biết gọi là… Anh quan tâm
nhiều đến triết học nhưng theo cách dạy của CS, anh chỉ nhớ những từ trống rỗng,
giáo điều. Khi đi làm, bao giờ cũng đeo cái cạp lồng vuông đen thui vì ám khói
bên mông, anh nhặt lá cây non, rau rừng, vỏ khoai, bắp chuối rừng nấu ăn. Có lần
lính vũ trang hỏi:
– Tại sao lúc nào anh cũng đeo cái cạp lồng bên mông, anh phải vất
nó đi?
– Đeo cái này– Thân quân trả lời – để cứu sống người, khác với
cái của ông đeo để giết người. Ông nên quẳng cái của ông đi trước.
Tên lính vũ trang xông lại định giằng cái cạp lồng của anh, tức
khắc anh hô:
– Đả đảo bọn cai ngục giết người!
– Đả đảo chế độ nhà tù khắc nghiệt!
Sau đó, anh bị đưa vào nhà kỷ luật cùm hai tháng. Mỗi năm có hai
lần viết kiểm điểm cải tạo là những cơ hội để Thân quân viết thành diễn văn lên
án chế độ. Tuy nhiên, mỗi lần viết kiểm điểm là một lần bọn cai ngục đưa anh
vào xà lim cùm vài tháng. Thân thể anh quả thật là mình đồng, da sắt, mỗi lần
ra kỷ luật anh gầy gộc như một nắm xương rồi lại phục hồi nhanh chóng.
Trại giam này, có một ông thượng uý phó giám thị mới đến là Lê
xuân Tam. Thấy Thân Quân, ông ta hỏi:
– Tên anh là gì, tôi thấy quen quen?
– Quen quen thôi à? – Thân Quân trả lời – Ngày xưa ở Tây Nguyên
anh là cấp dưới của tôi, anh nhớ ra chưa?
– Anh Thân Quân phải không, tại sao phải vào đây?
– Chống lại bất công, vô đạo lý nên vào đây chứ còn sao nữa? Từ
lý tưởng độc lập, tự do anh chuyển sang lý tưởng Cộng sản rồi phải không?
– Tư tưởng anh sai lầm đến thế cơ à? Độc lập, tự do và chủ nghĩa
Cộng sản là cùng một lý tưởng, tại sao anh lại đặt hai phạm trù ấy mâu thuẫn
nhau?
– Cộng sản làm gì có tổ quốc và dân tộc mà nói đến độc lập, tự
do? Chẳng nói đâu xa, vì cái lý tưởng Cộng sản nên các anh để người cùng con Hồng,
cháu Lạc cơ cực đến nỗi này.
– Lúc khác tôi gặp. – Nói xong, Lê xuân Tam lảng đi nơi khác.
Giữa năm 1968, nhân lúc viết kiểm điểm sáu tháng đầu năm, Thân
Quân nói với tôi:
– Tâm ạ, tao sắp đi nghỉ trong buồng kín, lại xa mày một thời
gian.
Bản kiểm điểm của anh viết như sau:
I – Tư tưởng: mười một năm tù làm đầu óc tôi thêm nặng những sự
kiện tàn bạo và lừa bịp của cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa. Người ta bảo
tôi có tội với tổ quốc với nhân dân. Đúng lắm! Vì lý tưởng và ước mơ độc lập, tự
do của phong kiến Trung hoa và thực dân Pháp, tôi đã chiến đấu quên mình. Tôi
không ngờ khi nắm được chính quyền, chế độ này đã áp đặt ách thống trị còn khắc
nghiệt gấp nhiều lần bọn phong kiến, thực dân. Tôi đã chiến đấu để xây dựng và
bảo vệ chính quyền ấy. Không! Tôi chỉ là nạn nhân của sự lừa bịp cũng như hàng
triệu người Việt nam yêu nước khác. Phải chăng cái tội của tôi đối với dân tộc
là tội bị lừa bịp, bị phỉnh phờ để xây dựng và bảo vệ ngai vàng của tên bạo
chúa và bè lũ của y?
II – Lao động: Tôi xuất thân từ một gia đình làm ruộng, lao động
tôi coi như một bản năng, nhưng ở đây họ cho ăn cầm hơi, hàng trăm người đã về
địa ngục vì đói, vì các cực hình. Có thời gian tôi phải chống gậy mới đi được,
lấy sức đâu để lao động như một bản năng của mình.
III – Học tập: Thành ngữ có câu gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Mười một năm, tôi chỉ gần cái xấu, cuộc sống man rợ đang diễn ra hàng ngày:
đánh cãi chửi nhau vì ăn uống, những cuộc hành hung, đánh đập người tàn nhẫn, cảnh
người chết vì đói, vì ốm đau không có thuốc, bị bắn vì trốn tù… Chẳng những thế,
thường xuyên phải nghe những lời vô đạo lý, đổi trắng thay đen. Từ đó, không hiểu
tôi đã học tập được những gì? Con người tôi cái chắc cũng là sản phẩm của hoàn
cảnh ấy.
IV – Nội quy: Tôi là một phó thường dân trước khi bị bắt, vào
đây bị sa đoạ là điều tất yếu, nếu một nguyên thủ quốc gia cùng sống với chúng
tôi vài ba tháng, có thể ngài cũng biết bắt cóc nhái nướng ăn. Câu nói… đói ra
ma, có mấy ai giữ được là người.
Lần viết kiểm điểm này Thân Quân không bị đi cùm ngay, người đồng
chí cũ là ông phó giám thị Lê xuân Tam gọi anh lên văn phòng, hỏi:
– Thân Quân! Hiện nay anh còn tin vào đảng không?
– Trời! – Thân Quân trả lời – Đến lúc này anh còn hỏi tôi câu kỳ
quặc ấy. Ngày xưa vì ước mơ độc lập, tự do của dân tộc và niềm tin tuyệt đối
vào đảng, tôi đã nguyện hiến dâng đời mình cho lý tưởng cao đẹp ấy. Không ngờ,
sau khi giành được nửa giang sơn, đảng lại đi theo vết đường mòn của lịch sử,
có cải tiến thêm về sự tàn bạo, lừa bịp và phi đạo lý, người dân trở thành nạn
nhân của đảng. Tôi bị mắc lừa, nhưng tôi đã tỉnh ngộ. Không phải là kẻ vì giá
áo túi cơm, tôi đã đứng về phía hàng triệu người không có tự do, đang đói cơm,
rách áo chống lại sự thống trị hà khắc của chế độ mới. Tôi hỏi, đảng là gì? Và
tự trả lời, đảng là một bè phái. tay sai trung thành của cái gọi là phong trào
Cộng sản quốc tế. Hiện nay đảng đối với tôi chỉ như loài yêu quái, uống máu, ăn
thịt người, nó luôn hiện hình như một ông thánh cứu nhân, độ thế để lừa gạt người
nhẹ dạ, cả tin. Tôi và anh xưa kia là tình đồng chí, vì không chấp nhận sự bất
công, tàn bạo và lừa bịp… tôi đã đi theo con đường khác. Ôi, cái từ đồng chí
sao mà ghê tởm vậy? Không biết có nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nào như F. de
saussure diễn tả được hết sự ghê tởm của từ đó không?
Từ khi từ đồng chí được dùng để gọi nhau rộng rãi thì thảm hoạ của
dân tộc bắt đầu. Đấu tố, bắn giết, cướp giật. Nếp sống đạo đức bị băng hoại,
luân thường đạo lý bị suy đồi, thuần phong mỹ tục bị đập phá tan tành, đất nước
triền miên trong cảnh cốt nhục tương tàn, cũng đều do những người gọi nhau là đồng
chí. . Tôi đi con đường khác là li khai những người gọi nhau là đồng chí, li
khai anh. Thật đau lòng, vì địa vị, vì miếng cơm manh áo, mắt anh đã mờ đi,
không dám nhìn vào sự thật – một sự thật kinh hoàng, ghê tởm. Đến nay anh là kẻ
thống trị cầm trong tay tính mạng tôi – một thằng tù. Tôi biết lắm, anh có quyền
kết liễu cuộc đời tôi còn dễ hơn người dân thường giết một con gà, một con vịt.
Nếu có diễn ra sự kiện đó, tôi không trách anh đâu anh Lê xuân Tam ạ, mà còn cảm
ơn anh nữa đấy. Thứ nhất cảm ơn anh đã chấm dứt những tháng năm tù đầy khốn khổ
của tôi. Thứ hai cảm ơn anh vì tình xưa nghĩa cũ, anh sẽ cho tôi chiếc áo sáu tấm
bằng gỗ tốt và được yên giấc ngàn thu ở nơi có phong cảnh thiên nhiên thơ mộng.
Khi Lê xuân Tam gọi, anh mang theo một túi khâu bằng vải áo tù.
Nói đến đây, Thân Quân mở túi ra và đổ xuống đất gồm có cỏ rác, lá cây, sỏi đá,
vài cục phân trâu nhỏ bằng hạt ngô thành một đống.
– Anh xem đây – Thân Quân nói tiếp – với cái gọi là nhân đạo,
các anh đã cho thằng tù ăn thêm những thứ này. Anh thấy cái trại cải tạo của
các anh tử tế chưa, ưu việt chưa? Những của quý này hẳn nằm trong cái số lượng
được cân, đong bố thí cho tiêu chuẩn ăn của những thằng tù. Anh về trại này đã
gần một tháng, tôi biết thế nào anh cũng gọi nên tôi chỉ nhặt những của quý này
riêng trong bữa ăn hàng ngày của tôi từ buổi anh về.
– Đây là sai sót của toán làm bếp, chứ không phải do cán bộ
chúng tôi – Ông phó giám thị nói.
– Tôi hỏi anh, ai chỉ đạo chúng? Ai lựa chọn những thằng tù cải
tạo tốt để đưa về toán ấy? Ai sử dụng bọn nhà bếp như một công cụ để trấn áp,
hành hạ chúng tôi? Ai bắt cắt rau muống sát đất, ai bắt thằng tù cân xu hào, bắp
cải cả lá già úa, ngô thối vì ngâm trong nước lụt vào trại giam cho thằng tù
ăn, có khi phải ăn ròng rã mấy tháng liền? Trại nào cũng thế, ai chọn những thằng
tù hung hãn, côn đồ nhất làm trật tự được quyền đánh đập, hành hung tù nhân một
cách dã man, ai bầy ra cách bình bầu mức ăn hàng tháng để mấy thằng tù hơi tàn
lực kiệt cắn xé nhau vì miếng ăn to hay nhỏ? Xin lỗi, tôi muốn nói với anh nhiều
nhưng tôi mệt lắm rồi.
– Để đập tan ý chí phản cách mạng, đảng phải có biện pháp cứng rắn,
phải trấn áp và trừng trị.
– Nếu thế, anh hãy đề nghị với bộ công an bỏ cái tên trại cải tạo
để lừa bịp đi và thay vào một cái tên trại trấn áp và trừng trị kẻ thù cho đúng
chức năng của nó.
– Nếu anh còn nghĩ đến độc lập, tự do, anh quan niệm cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ hiện nay như thế nào? – Ông giám thị hỏi.
– Độc lập và tự do là một chân lý, một ước mơ của mọi dân tộc.
Nhưng như tôi nói với anh bữa nọ, Cộng sản làm gì có tổ quốc và dân tộc. Người
ta sử dụng ngôn từ ấy là một chiêu bài để phát động chiến tranh với mục đích Cộng
sản hoá miền Nam. Tôi hỏi anh, chính quyền Sài gòn lệ thuộc vào Mỹ, chính quyền
Hà nội có lệ thuộc vào Mạc tư Khoa và Bắc kinh không? Thực chất của cuộc chiến
tranh này là sự đối đầu giữa hai thế lực: Cộng sản và Tư bản mà Việt nam biến
thành bãi chiến trường.
Là người Việt nam yêu nước ai chẳng khắc sâu trong trí nhớ hàng
trăm năm của thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước chia đôi trong cảnh cốt
nhục tương tàn; ai chẳng ước mong Bắc Nam thống nhất, nhưng phải sum họp trong
khúc nhạc, lời ca, chứ không phải cảnh máu và nước mắt chảy thành sông, cảnh phải
cam chịu một cuộc sống tối tăm, cơ cực trong một nhà tù khổng lồ là xã hội.
Nghe Thân Quân nói, ông phó giám thị buộc phải quên tình đồng
chí cũ và ký quyết định đưa anh vào xà lim cùm hai tháng. Người dẫn anh về xà
lim là thiếu uý Hồ sĩ Tưởng, hắn hỏi:
– Thân Quân muốn theo gương Dương hữu Lạc à?
Dương hữu Lạc còn được tiếng là bất khuất, tôi hỏi ông, hàng
trăm người bỏ mạng ở trại này có ai theo gương anh Dương hữu Lạc đâu? Phải
chăng vì sự khắc nghiệt của nhà tù Cộng sản?
* *
*
Vào sinh ra tử, xông pha nơi bom rơi, đạn nổ thường được coi là
nơi nguy hiểm nhất nhưng vẫn có nhiều người tình nguyện, có thể vì sự nghiệp
“trai thời loạn”, cũng có thể do tâm hồn lãng mạn. Người ta coi chiến tranh là
những cuộc đi săn lẫn nhau tuy nguy hiểm nhưng hứng thú hơn những cuộc đi săn bắn
thú trong rừng. Còn nhà tù, không mấy ai tự nguyện xin vào để tìm nguồn cảm hứng
hay chứng kiến những cảnh đắng cay, thê thảm nhất thế gian. Tuy nhiên, những
nhà văn, nghệ sỹ chân chính thì nhà tù họ cũng cần biết chứ! Nơi đây, có nhiều
người đã trải qua nhà tù của các thể chế khác nhau: Côn đảo, Sơn la của thực
dân Pháp, trại giam của phát xít Nhật, nhà tù của chính quyền Sài gòn.
Tựu chung, chỉ có nhà tù của Cộng sản mới thể hiện toàn diện
tính chất tàn bạo và dã man, nơi hành hạ và đầy đoạ con người bậc nhất thế gian
ở thời hiện đại. Đáng tiếc nơi đây, ngoài những tên cai ngục mất hết tính người
và đối tượng của chúng là đám tù nhân khốn khổ, không ai được phép bước vào
đây. Trại tập trung cải tạo là một bí mật quốc gia, những người được tha về, nếu
kể lại cảnh đoạ đầy ở đó mà cơ quan an ninh bắt được coi là hành động tuyên
truyền nói xấu chế độ. Có người được tha rồi lại vào tù vì mắc tội này. Do vậy,
nhiều người hèn nhát, sau khi thoát khỏi cái địa ngục trần gian ấy đành gói
ghém nỗi khổ nhục trong lòng, không dám hở môi với những người thân là bố mẹ, vợ
con, anh chị em… Trong cuộc chiến thầm lặng để vượt qua cái đói kinh niên vò xé
là vô cùng khủng khiếp. Ai cũng vậy, tối mong sáng, sáng mong trưa, trưa mong
chiều, mong để có bữa ăn. Nhưng ăn xong bữa thì giặc đói lại vùng lên hoành
hành ác liệt hơn. Trước bữa ăn còn hy vọng, chờ đợi, sau bữa ăn là nỗi thất vọng,
căm hờn. Nhiều người phải thốt lên:
– Nếu phải trả giá, được ăn no một bữa rồi có chết cũng đáng đời.
Anh Phạm gia Ngoan trong bữa cơm vào buổi tối, anh nhấm nháp và
đếm từng hạt ngô, từng hạt cơm. Có người hỏi, tại sao anh ăn như vậy? Anh Ngoan
trả lời, tôi chỉ sợ hết.
Từ ngàn xưa đến nay, chỉ có Cộng sản đã thành công trong việc bỏ
tù tâm hồn, tư tưởng con người. Ông Hồ có mấy vần thơ:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao…
Có lẽ từ những vần thơ đó, khi nắm được chính quyền, ông ta đã tạo
ra một chế độ nhà tù giam được cả phần hồn và phần xác của con người. Nếu thế
giới công nhận đây là một tài năng siêu việt, ông ta xứng đáng với giải thưởng
siêu Nobel.
Sau một thời gian ngắn đến trại, Dậu được coi là kẻ bồng bột, a
dua, bố là liệt sỹ nên anh được bọn cai ngục cho đi làm tự giác chăn dê. Dậu xa
lánh tôi và Khoa từ hồi ấy. Xa lánh vì hai lẽ: một là, sợ liên quan, hết án
không được về; hai là, có điều kiện kiếm được thứ ăn thêm, anh dành riêng cho
mình, không muốn chia sẻ cho bạn bè trong cơn hoạn nạn.
Ngoài chiến trường có bạn chiến đấu nhưng ở đây khó mà có tình bạn
chia sẻ ngọt bùi, cùng ngậm đắng nuốt cay.
Đúng như lời bác Lê ngọc Văn nói, cái đói kinh niên vò xé, cuộc
sống của con người trở nên man dại, không thể cộng khổ. Nếu có chăng là quan hệ
môn đăng hộ đối về kinh tế gia đình, những tình bạn tiểu nhân “đồng nhưng không
hoà”. Họ quan hệ với nhau trên cơ sở trao đổi sòng phẳng về vật chất. Tuy nhiên
trên mảnh đất khô cằn, nghiệt ngã ấy vẫn mọc lên những bông hoa tươi thắm của
tình thương và lòng nhân ái. Bác Phạm tiến Tập quê ở Vĩnh tường, Vĩnh phú bị tập
trung về tội quốc dân đảng, hàng ngày bác thường sẻ phần cơm khốn khổ của mình
cho người khác. Có lần tôi hỏi lý do, bác trả lời: tôi có nghị lực chịu đựng
hơn các anh em khác. Chẳng những thế, bác luôn quan tâm đến những đồng cảnh
không có gia đình giúp đỡ hoặc những người đau ốm, tai biến bất ngờ. Quả thực,
bác đã thương người hơn cả thương thân. Bác có nghề thợ mộc giỏi, bọn cai ngục
cho bác làm toán trưởng để xây dựng nhà cửa. Trong thời gian ấy, buổi tối, toán
không phải họp hành, bình công chấm điểm. Ai vi phạm gì, bác tìm cách bao che.
Khi mất cương vị toán trưởng, Hồ sĩ Tưởng hỏi:
– Chúng tôi cho anh làm toán trưởng để anh bao che sai phạm cho
anh khác, chống lại lệnh của ban giám thị à?
– Thưa ông, ở đây tù nhân không cùng một chí hướng, một mục đích
– Bác Tập trả lời – nên chẳng ai dại gì vận động chống lại các ông để mang theo
tai vạ. Tuy nhiên, chúng tôi là những người cùng cảnh ngộ nên phải thương nhau.
Qua tám năm tù, tâm hồn bác vẫn trong sáng, thuỷ chung và ý chí
vững vàng. Cuộc sống trong nhà giam chia tù nhân thành hai thái cực: một là tha
hoá, ích kỷ và hèn hạ, hai là trong sáng và diệu kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét