Viết
theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt / Sở Liên Lạc Nha Kỹ
Thuật / Lôi Hổ - Hồ Đăng Nhựt
Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những
anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đã bỏ mình trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ
Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn - THÁNG TƯ ĐEN.
Tôi
lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến,
tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh.
Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị
Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngũ làm Cộng quân khiếp vía, đối với Cộng
quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -
đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm
đối với chúng. Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết
Nga-Tàu, tràn qua giòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lìa Nam Bắc. Vượt
trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không
tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một
kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.
Chồng tôi là một sĩ quan
trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm
vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu
dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa
rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất
Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm
nhập, nỗi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!
Nha Trang, quê hương có rặng thùy dương và bờ
cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là
ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mỗi toán
không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán
trưởng đầu tiên là anh Phan văn Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn
Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt. Đại úy Nguyễn văn Khách đã chỉ huy trại này
được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyển đi nơi khác. Sau đó thiếu
tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên
khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết thẹo nào! Có lẽ một cái tên đặc
biệt anh em đã tặng cho. Đại úy Xuân từ bên Sư đoàn Nhảy Dù về, hai ông này là
xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể
xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố,
và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.
EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI
Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất
lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng
để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ
biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm
trạng nỗi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mỗi lần chàng chuẩn bị đi
vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mỗi lần tôi xót xa
thầm hỏi: Bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh
mới thông cảm nỗi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ
lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba,
khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thấp thỏm, tôi héo hon
theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát... sợ anh về trên
đôi nạng gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về "bên hòm gỗ cài
hoa..." chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha
Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu
nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở
về gia đình tôi tại Sài Gòn.
Sài Gòn không có biển, không có thùy dương cát
trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày
nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi", Sài
Gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm,
truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em
mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những
giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi
theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường
chim bay, súng nổ đạn bay, thây người ngã qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài Gòn, Hòn
Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân
xác loang lỗ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm gì
có áo lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghĩa, tôi chỉ cần có
chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn
hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!
Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để
chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp
chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào
lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai Việt Triết và đại úy Xuân
đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: Thím đã đến
trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giã chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ
trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán
Chinh Phụ: "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết
in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa
chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang
lừng, cất vó uy nghi nổi bật bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan
tái. Tôi, hôm nay đơn lẻ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn theo từng chiếc trực
thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư
tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt
từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím
thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh... !!! Bình Giả, một địa danh
đang sôi sục lửa chiến tranh... thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ
hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn
Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng
về.... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh.
Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy
ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở
về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn
ngủi tại Sài Gòn.
Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt
mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy
Trưởng trại Đằng Vân là Pham duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập
thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô văn Thơm, Tô Mười,
Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn, Nguyễn văn Biên,v.v. các toán trưng lần lượt
thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh
đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... Cường
độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và
trưởng toán đã hy sinh rất nhiều. Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2
người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là
"Bảy Lùn". Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng
của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng
sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã
bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực
thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng
những thùng lương thực.Từ trên cao trung úy Vui bỗng thình lình "cúp"
máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực
thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.
Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới
sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là
em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp
về, tôi được tin từ Sài Gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong
công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sài Gòn, anh Nguyễn
ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống,
cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến! Bất hạnh từng
ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã
vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người
vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp - người em rể trở về Sài Gòn an táng.
Những ngày phép qua mau trong sự buồn bã, mất mát của người thân. Anh trở lại
đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.
Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài Gòn và đứa con
thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài Gòn, khắp các
tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội,
trung úy Nguyễn văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên
kịch chiến. Nửa năm sau ông Phạm Duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến
Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh
được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân
của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa
anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua
trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê
Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.
Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận
cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa
ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn... bom
đạn cày nát mảnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm
đìa, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quãng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng
cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm
tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định
mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô... !!!
Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung
qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỹ Thuật và các quân
binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và
làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.
ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT
Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy
nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở
nên căng thẳng, hỗn loạn, phương tiện di chuyển vô cùng khan hiếm và khó khăn.
Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ,
anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình
diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến
ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành
quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mày" đã
xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa
đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút
quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về
chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh
chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài Gòn.
Trên đường rút quân "triệt thoái cao
nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hỗn tạp. Anh được lệnh thượng
cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng
tránh khỏi nạn đao binh và cướp bóc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi
và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài Gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngủi, tôi
chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng. Chiều cùng ngày
trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái
đạn B.40 từ phía Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn
xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt
nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy
hiểm đến tánh mạng.
Như thường lệ mỗi sáng, từ khu cư xá gia binh
của trại Nguyễn Cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã
thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái
ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: Xin chị bình tĩnh, tin chính xác báo
cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua.
Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bỗng tối sầm
và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bỗng nhiên nhấp nhô
dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đảo, tôi ngã qụy chiếc xe Honda với đứa con
tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ
tục đi nhận lãnh xác chồng.
"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi
nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ đăng Nhựt
ơi! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất
nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghĩa Trang Quân Đội tại
Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối
cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói
trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ
gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời
ơi! "Em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến
chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi
chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua
những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn
con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch,
cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu
đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!
ĐÁ NÁT VÀNG TAN.
Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xả,
lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau. Chỉ
có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân luật, tôi nóng ruột không biết
các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân
Sài Gòn.... Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại
cư xá Nguyễn Cao Vĩ.... Tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài Gòn súng nổ, Sài
Gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùng, tiếng xích sắt thô bạo nghiền
nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sài Gòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết
một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc
phi cơ đang vần vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sài Gòn, một chiếc bốc cháy chói
lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lã chã, một
chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói
đen nghịt bốc lên cao. Sài Gòn bốc cháy, Sài Gòn loạn lạc, Sài Gòn tiếng kêu la
thất đảm. Kẽm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm
trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ
cánh "Thiên Thần", giày sô "shaute" còn bám chặt gót chân
gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? Chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu
đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui. Tôi
như một cái xác phờ phạc, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư
Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn
pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy
phương nào? Tôi lại trở ra đường Nguyễn Văn Thoại, vừa đi vừa chạy về nhà
trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm
nhau òa khóc.
Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh
và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống
từ giã cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng
vẫn nặng trĩu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho
đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn
nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây
trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài Gòn hoang lạnh ơ thờ,
môi người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm gì đây
anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến
???
Cuộc đời sao lắm nỗi truân chuyên, sao quá đỗi đoạn trường đối với người vợ
Lính? ! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một
thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong
tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng
chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn
tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ
của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi
như thế. Chồng tôi đã gục ngã trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước
cỗ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: Dương-Cảnh. Tôi còn
gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại,
tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!
ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ
Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời
quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa
Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh,
về mọi mặt... nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác? Cuối
cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo
khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt
tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm
đen mưa nắng, trên khuôn mặt hốc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn
những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên
đàng" Cộng Sản. Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10
ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas city đoàn tụ
với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.
Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến
đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi
xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen vi i sống mới, gặp lại
những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của
người bạn cũ, tôi gặp được Đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu. Sau đó
tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin Đại tá Ngô Thế Linh đã từ
trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giỗ của chồng tôi rất
trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan,
trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó,
cao qúy thay cho cái tình huynh đệ chi binh.
Những chiều ở đây mỗi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến
sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ Đăng Nhựt - chồng của tôi, anh đã
làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo
đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử
một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên
xứ người, cuộc chiến đó còn dở dang và đang tiếp diễn trên một chính trường
không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC
GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong
loài qủy đỏ, tôi luôn hy vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ
can trường của QLVNCH.
CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha
Trang những ngày mưa đổ đìu hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại
gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như
ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều
trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng
rong rêu, mỗi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào
dâng bao kỷ niệm. "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi" hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng
chữ, từng âm thanh đứt lìa "vẳng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng
kèn truy điệu năm xưa."
Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng
bây giờ là tháng 3, đã 34 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên
"Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng". Trong một góc sâu thẳm của lòng
tôi, hình ảnh cố Thiếu tá Hồ Đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN
XONG NỢ NƯỚC.
San Jose, Mùa Quốc Nạn.
Lưu Trùng Duơng (Nguồn: Internet)
Những binh sĩ vnch trả nợ nước xong rồi còn những tên việt cộng còn nợ nước để trung quốc cướp đất cướp biển đáng xỉ vả
Trả lờiXóaNhững binh sĩ vnch trả nợ nước xong rồi còn những tên việt cộng còn nợ nước để trung quốc cướp đất cướp biển đáng xỉ vả
Trả lờiXóa