(Trích Hồi ký của Phạm Thành Tài)
Hồi còn ở quê nhà, sau tám năm
“cải tạo học tập” về, tôi có mở một phòng mạch chữa bệnh cho bà con để kiếm
sống qua ngày. Chữa bệnh bằng Tây Y kiếm cơm hơi khó vì thuốc hiếm, mắc quá,
bệnh nhân mua không nổi nên tôi chuyển sang chữa bằng Đông Tây Y kết hợp. Nhờ
trời cũng đắp đổi bữa có bữa không. Nhưng tôi quyết không bỏ nghề, không chỉ vì
sợ mất cần câu cơm, mà còn vì tôi không thể bỏ ngang thân chủ mình. Bà con lành
được bệnh tôi cũng có niềm an ủi, hơn nữa cái thế giới quen biết của mình ngày
càng rộng khắp với bao nhiêu tâm sự vui buồn trong thời ly loạn nhân tâm. Trong
số đó có một người con gái tên Thư. Cô gái này hình như là sinh viên cũ của
Sàigòn không được vô Đại Học Nhà Nước, rất thích đọc sách. Lạ một điều là cô ta
chỉ thích loại tiểu thuyết lịch sử. Cô kể cho tôi nghe gần như thuộc lòng nào
là “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng, nào là “Chiến Tranh và Hoà Bình”, nào là
“Ana Karenina” của Tolstoi. Cuốn này cô kể thật hấp dẫn, đây là cuốn có tình
tiết rất tinh tế, rất khó kể sao cho hấp dẫn, thế mà tôi nghe phải mê luôn các
nhân vật trong ấy. Có một lần nghe cô kể, không hiểu sao tôi buột miệng hỏi:
- À mà lâu nay cứ nghe chuyện
ngoại quốc. Còn truyện trong nước Thư có đọc nhiều không ?
- Chuyện nào em cũng đọc. Hễ
thấy là em mua ngay. Hết tiền vì đọc, má em la hoài… Em đọc cả sách “chui” nữa.
- Cả sách “chui” nữa, sách
“chui” thì Thu thích cuốn nào?
- “Một Ngày của Ivan” và “Quần Đảo Ngục Tù” của Solzenitsyne, nhất là cuốn “Tầng Đầu Địa Ngục” cũng của Solzenitsyne.
Tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng
ra mặt tỉnh bơ.
- Còn sách chui trong nước ?
- “Đường Đi Không Đến” của Xuân Vũ !
Thư trả lời trơn tru, gọn lỏn
làm tôi tá hỏa và có cảm giác ớn lạnh. . . Tôi nghe như ai lấy cục nước đá chà
vào lưng đốt sống nhất là nhắc đến cái tên mà tôi chứng kiến đã từng bị truy
nã. “Xuân Vũ! “ Ngay lúc ấy tôi như không còn nghe Thư
nói gì nữa. Sở dĩ mà cô dám đường đột nói như vậy là vì cô biết cái gốc của tôi
không phải là cán bộ Cộng Sản. Hơn nữa, tám năm sau “giải phóng” người dân đã
khinh nhờn Cộng sản rất xem thường vì chúng tỏ ra quá nham nhở, thua kém Sài
Gòn cũ xa.
Cô hỏi:
- Sao mà thầy đờ ra vậy ?
- Chả có gì!
(Chả lẽ tôi dám cả gan buột
miệng. - Xuân Vũ là người tôi
từng ‘biết”!)
Tôi còn hỏi lại:
- Cô thấy nói gì trong sách đó?
Thư không trả lời thẳng câu
hỏi:
- Cái ông xuân Vũ mà còn ở lại
thì phải “ăn đạn đồng” “đền tội trước nhân dân và Đảng.” – Thư nhấn mạnh và bĩu môi ở
từng lời.
- Làm gì mà ghê thế? – Tôi nói.
Như chuẩn bị hồi nào, Thư tuôn
ra một hơi không có vẻ sợ sệt e dè gì hết.
- Thầy coi viết như vầy có
‘độc” không? Mở đầu câu chuyện ông ta ví Đảng là người chủ ngựa, nhân dân là
ngựa. Con ngựa gầy còm mỏi mệt nai lưng ra kéo xe. Đảng nói: Cố lên, đấy năm cỏ
đằng trước mặt… rồi sẽ no nê… “ở đó thiên đường, gắng lên . . . “
Lại thêm một lần nữa, tôi nghe
Thư nói mà “rởn ” gây. Tôi đã đọc cuốn “Đường Đi Không Đến” quả là có câu đó,
Xuân Vũ có viết nhưng khi nghe Thư kể lại thì cái hồn của ý đó nó sống động
hơn, nó ma mãnh hơn…
Tôi suýt buột miệng kêu lên:
- Chao ơi, cô bé kể chuyện hay
quá, tôi nghe mê quá. Còn cái ông Xuân Vũ kia quả là tôi…
Tôi tự chế kịp thời ngay trong
tâm trí. Vì không thể nói ra một câu có thể làm cho tôi trở lại trại cải tạo
mục xương.
o O o
Tình thế đẩy đưa làm sao mà tôi
lại xin đi theo diện HO và được đi. Sang Hoa Kỳ tôi bơ vơ lắm không biết tìm ai
? Đất nước mình sống bỗng nhiên phải bỏ đi để lại cha mẹ già trên tám mươi
tuổi. Có thảm cảnh của dân tộc nào bằng thảm cảnh dân tộc Việt Nam ? Thâm tâm
tôi quyết tìm Xuân Vũ, người tôi có “quen ” từ lâu. Tôi hỏi các báo có tên Xuân
Vũ trong ban biên tập, chủ báo nói biết nhưng không được phép cho số điện thoại
và địa chỉ.
Một hôm buồn quá, tôi dạo nhà
sách Tú Quỳnh ở đường Bolsa. Có hai điều làm tôi chú ý bàng hoàng. Thứ nhất là
cuốn sách “Đường Đi Không Đến” và thứ hai là một người con gái giống Cléopâtre.
Sự chú ý của tôi chợt hướng hẳn
vào những tên sách đập vào mắt tôi: “Tự
Vi Thế Kỷ” truyện ngắn Xuân Vũ, “Xương
Trắng Trường Sơn”, hồi ký tập hai Xuân Vũ, “Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như
Tôi Biết,” hồi ký Xuân Vũ và
v.v….. Đột nhiên, buổi thẩm vấn tại của tên công an cách nay hơn mười năm hiện
lên trong đầu tôi như một thoáng ác mộng.
Tóc hắn húi ngắn. Đầu hắn hơi
bờm xờm, điều làm tôi chú ý là hai chân hắn đi như lướt nhẹ làm lất phất hai
cái ống quần rộng, chân hắn như không xương… lại một điều nữa làm tôi để ý là
da mặt hắn trắng hồng và râu xanh mờ ở mép qua các đường cạo thật nhẵn, chắc là
phải dùng loại dao cạo râu nổi tiếng Reles. Tôi mường tượng như gặp hắn đâu đó
thuộc ngày 30 tháng 4 năm 1975 và hình như hắn đã từng gặp Xuân Vũ trong một
dịp vô tình nào đó… chắc chắn hẳn không phải là một trong những nhân vật đi
trên đường mòn Trường Sơn “đường
đi không đến “… nhưng không thể không là một trong những tên mật vụ nhà
nghề…
Trong bản thảo đầu tiên bài “Truy nã một nhà văn: Xuân Vũ “ tôi viết:
Năm 1973, nhà văn Xuân Vũ được
giải nhất trong cuộc thi văn học giải Tổng Thống. Tác phẩm được giải là cuốn
truyện “Đường Đi Không Đến.” Vô tình tên tuổi một nhà văn gắn liền
với tên tuổi một Tổng Thống. Nhà văn Xuân Vũ và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Nhưng hai năm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày khai tử Việt Nam Cộng Hòa,
chúng ta mất nước, cố nhiên mất Tổng Thống và mất luôn Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng
không mất “Đường Đi Không
Đến” và không mất Xuân Vũ,
vì tác phẩm thì vào lòng người và nhà văn thì không phải là một chức sắc.
“Thằng Thiệu đã mất chức Tổng
Thống. Còn thằng Xuân Vũ nó không mất chức vì nó là thằng Nhà Văn. Thằng Thiệu
phải trả lại Việt Nam sau bao năm nó “bán đứng cho Mỹ. ” Còn thằng Xuân Vũ nó
“bán hồn” cho Thiệu, nó cũng bỏ tác phẩm mà chạy. Thằng Thiệu trốn, bỏ lại đất
nước, ta còn có thể sửa lại còn thằng Xuân Vũ bỏ lại tác phẩm thì chả ai sửa
lại được vì nó là chất độc, cực độc. Đất nước bị tàn phá Đảng ta sẽ làm lại
nghìn lần đẹp hơn. Con người Miền Nam bị hư hỏng Đảng ta thừa sức cải tạo thành
con người mới, con người Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng những tác phẩm văn học phản
động như kiểu “Đường Đi Không Đến” của thằng Xuân Vũ thì làm thế nào sửa lại
cho đẹp, làm thế nào cải tạo nó… Cái nguy hiểm độc hại là ở chỗ đó… Chắc anh,
một người trí thức, anh hiểu điều ấy hơn tôi… Vì vậy mới có hôm nay, chứng ta
gặp nhau… “
Đó là câu nói hằn học của tên
công an thẩm vấn sơ khởi thuộc Sở An Ninh Nội Chính thành phố, nhưng tôi không
được đến sở mà đến một biệt thự ngay trước cổng trường Gia Long…
Hôm nay tôi chép lại nhữg dòng
đầu tiên trong bản thảo đầu tiên viết theo thứ tự thời gian và sự kiện mà tôi
còn nhớ về cuộc thẩm vấn.
- Anh có biết Xuân Vũ liên hệ
với cơ quan Thông Tin Mỹ hồi trước 30 tháng 4 năm 75 không ?
- Có lẽ anh nên gặp Xuân Vũ thì
rõ hơn.
- Làm sao gặp được nó?
- Các anh cho tôi biết Xuân Vũ
còn “kẹt” lại đâu ở Phú Quốc hay Bến Tre gì đó mà!
Tên công an như lỡ lời, liền
bào chữa.:
- Rồi tôi sẽ bắt nó! Nhân dân
là lưới trời mà.
Viên công an cho tôi biết.:
Xuân Vũ vì liên hệ với một cô ca sĩ nào đó muốn xin đóng một vai trong cuốn
phim dự định dựng lại từ cuốn truyện “Đường Đi Không Đến. ” Cô ca sĩ mê Xuân Vũ
vì tài…, còn Xuân Vũ mết cô ta vỉ sắc. Tài sắc “đố kỵ” nên Xuân Vũ để gia đình
đi trước, còn Xuân Vũ ở lại đón người đẹp theo sau. Đâu ngờ cách mạng như “vũ
bão ” làm nhà văn và mối tinh vỡ mộng. Cô ca sĩ thì chẳng biết mô tê, còn Xuân
Vũ thì chui rúc đâu ở miệt Hậu Giang.
(Tôi cũng có tin đồn Xuân Vũ
chạy theo tàn quân về Bến Tre. Cũng có người nói Xuân Vũ đang “ấp” người đẹp
tại một ngôi nhà “bí mật” ở ngay “Hòn Ngọc Viễn Đông” đầy dấu dép râu và chập
chờn mũ cối…)
- Anh có biết tên cô ca sĩ đó
không nhỉ ? Tên công an hỏi.
- Tôi không hề gặp cô này.
- Anh nên thành thật khai báo!
Chính cô ca sĩ này gặp Xuân Vũ tại văn phòng Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương do
anh làm Giảm Đốc.
- Cô ca sĩ nào nhỉ?
- Anh Tài à, việc này chả có gì
quan trọng, anh cho tôi biết tên cô đó là mọi việc êm xuôi. Chúng tôi chả làm
phiền anh, mà tôi cũng xong việc.
- Có thể là Hoài Hương chăng ? - Tôi ngập ngừng đáp.
Người thẩm vấn viên như tìm
được một cái “đầu mối”. Mắt anh ta sáng rỡ, nhưng còn đề phòng.
- Đúng là Hoài Hương không ?
Thực ra, có một cái tên Hoài
Hương. Hình như cô này là xướng ngôn cho đài Tiếng Nói Tự Do, rồi sang đài Mẹ
Việt Nam. Tôi thoáng nhớ một cái tên như cậy và phịa ra cho xong chuyện. Nào
ngờ “trúng tủ ” tên công an, nhưng hắn neo lại đó, không hỏi vội. Hắn bọc một
vòng rộng chung quanh tôi:
- Anh quen với Xuân Vũ vào dịp
nào nhỉ?
Hắn vừa hỏi vừa chìa tay trao
tôi một điếu thuốc Điện Biên.
- Thưa anh, hồi ảnh mới về Sài
Gòn.
Tên công an hít một hơi dài phà
khói thuốc chạy dài thành một đường cong queo phía trước mặt hắn. Tôi đoán hắn
đang mơ màng hình dung một câu hỏi tiếp:
- À Xuân Vũ tên thật là gì anh
Tài nhi?
- Thưa, hình như, nếu tôi không
quên, là Bùi Quang Triết.
- Chắc hắn có họ hàng với tên
phản động tư sản Bùi Quang Chiêu thời Pháp đô hộ…
- Thưa có thể.. cùng là Bùi Quang…
mà không rõ có bà con không ? Chắc các anh rõ hơn tôi !
- Chuyện ấy không quan trọng,
hỏi cho vui thôi. Nhưng nguồn gốc giai cấp thường quyết định lập trường. Bùi
Quang Triết là cây bút thực tài dù chưa viết nhiều, nhưng tiếc là hắn đã quay
về giai cấp của hắn, chống cách mạng…
Thốt nhiên tên công an như trực
nhớ ra câu trả lời đầu tiên của tôi và hắn hơi có vẻ vội vàng:
- Hồi anh quen Xuân Vũ lúc nó
mới về là hồi nào nhỉ ?
Hắn nhìn thắng vào như tôi. Tôi
đang giả vờ dụi điếu thuộc vào cái gạt tàn bằng sứ để có chút thời gian đoán
hắn muốn gài mình vào bẫy gì nếu câu trả lời hớ hênh, thì hắn như chớp lời:
- Chắc là hồi nó ở Phủ Đặc ủy
Trung Ương Tình Báo đưa về Trung Tâm của anh phải không anh ?
- Thưa phải !
Và tên công an như buộc tôi
đồng ý với hắn:
- Hắn là công tác viên của Phụ
Đặc Ủy Tình Báo ngụy chớ gi?
- Theo tôi biết thì chắc là
không có.
Tôi trả lời tiếp:
- Trước khi anh Xuân Vũ về
Trung Tâm do tôi làm Giám Đốc có một người tự giới thiệu là Phụ Tá Phủ Đặc Ủy
hỏi tôi bằng điện thoại xem thử Xuân Vũ có phải là Nhà Văn không ? Tôi khẳng
định là phải, dù chưa hề quen ông ta. Người phụ tá ấy hỏi tôi rằng tại sao
không thấy Xuân Vũ khai báo gì cụ thể để kết thúc hồ sơ. Tôi nói rằng, nếu đúng
anh ta là nhà văn thì việc khai báo đối với họ là vất đi vì họ làm việc bằng hư
cấu, tượng trưng, điều cần thiết là tác phẩm của họ. Tôi còn nhớ tiếng nói của
người phụ tá Phủ Đặc ủy trong dây nói: “Thế à.!” Chuyện ấy bẵng đi một thời
gian mấy tháng thì từ Phủ Đặc Uỷ Tinh Báo có gởi đến tôi một bì thư rất lớn và ghi
là “tuyệt mật” khi mở bì ra, tôi thấy một xấp bản thảo trang đầu viết chữ thật
lớn “Xương Trắng Trường Sơn.” Nét chữ gọn sắc, bản thảo ở
dạng phát thảo bố cục, có đoạn viết thành văn, nhiều đoạn còn bỏ dở…
- À ra thế!… Cuốn này hắn chưa
cho in…
- Cuốn đó chính là “Đường Đi
Không Đến” tập một… Tôi ngưng một chút rồi tiếp - Theo tôi, hắn bắt đầu bất
mãn các anh hồi Cách Mạng tháng 8!
Tôi hơi mỉm cười làm tên công
an thẩm vấn nhìn chăm chăm vào tôi. (Hồi đó hắn chưa ra đời!)
- Anh nói sao tôi chưa hiểu ?
- Thưa anh tôi có ý nói. “Đường Đi Không Đến” là
cuốn sách mang tư tưởng “phản động ” ngay từ lúc Xuân Vũ đi kháng chiến thuở
Cách Mạng Mùa Thu.
- Tôi vẫn chưa hiểu ?
- Xin lỗi anh tôi nói không
được rõ. Tôi muốn nói là “Đường Đi Không Đến” chính là tác phẩm đã viết bằng tư
tưởng chống cách mạng ngay từ lúc Xuân Vũ không bằng lòng cách mạng thuở còn
kháng chiến chống Pháp. Từ ấy tích tụ đến nay và thể hiện ở “Đường Đi
Không Đến. “
Tên công an hiểu ra, mắt hắn
nheo cười, mỉa mai:
- Nếu nó để cái tên cũ “Xương Trắng Trường Sơn” thì
còn có lý. Phải có “Xương
Trắng” khắp“Trường Sơn” mới có ngày hôm nay. Nó vô
tình nói lên sự hy sinh vô bờ bến của Đảng và Nhân Dân. Đằng này nó viết đường Đi Không Đến là nó nói “phét. Nếu
không đến thì sao nó còn trốn lẩn quất đâu đây và làm sao tôi có thể gặp anh
hôm nay được ?
Tôi thầm nghĩ tên công an này
thật là tráo trở nên tôi giả vờ :
- Thưa anh, tôi nghĩ là Xuân Vũ
rất “phản động”, y còn viết một cuốn nữa…
- Cuốn gì anh nhỉ?
Hắn vừa hỏi vừa còn giữ nụ cười
mỉm.
Tôi nói
- Thưa cuốn “Đến Mà Không Đến” !
- Thật à. . . ?
- Thưa có thật như vậy…
- Anh có đọc chưa?
- Thưa chưa… nhưng đã có dư
luận độc giả rầm rộ lắm!
Nụ cười mỉa trên môi tên công
an chợt tắt ngấm, hắn có vẻ lúng túng và dằn giọng:
- Rồi chúng tôi bắt nó và sẽ
hỏi: “Đến Chưa” ? Nó còn trốn đâu đây. Làm sao thoát
khỏi lưới trời… Thôi ta tạm dừng câu chuyện này ở đây. Bây giờ tôi muốn gặp anh
để nhờ anh giúp một việc khác, cũng là chuyện Xuân Vũ Bùi Quang Triết…
o O o
Sau cuộc thẩm vấn nhậm nhầy kể
trên, tôi lại bị mời theo kiểu “bắt nguội”. Lần này chúng chở tôi đi. Ngồi trên
xe giữa hai họng súng cặp bên cạnh sườn. Tôi không dám nhúc nhích lỡ nó lãy cò
thì bỏ mạng. Tôi không sợ nó bắn chết mình ngay trên xe. Muốn hành quyết thì
phải đem ra bãi trống hoặc trong vườn hay là ở một sườn núi hoặc tiện hơn là ở
một băi sông… Bắn cho xác trôi sông… Tôi chỉ sợ súng cướp cò, súng Rouleau rất
nhạy. Tôi đành ngồi như phỗng. Chiếc Volkswagen quẹo qua góc chợ Thái Bình,
phía rạp hát Khải Hoàn rồi thắng ra đường Hồng.Thập Tự. Người đi đường vẫn thản
nhiên nào biết có một người vừa bị “túm gọn” đang bị giải đi. Một chiếc
Com-măng-ca chạy sau. Trên xe toàn là lính Bắc Việt. Họ đội mũ cối và nói giọng
trọ trẹ. Còn trên chiếc Volkswagen thì là lính người Nam, chỉ có một người ngồi
cạnh tài xế đội mũ cối là lính Bắc, mang cấp bực thiếu úy. Sau này tôi mới rõ:
Người tài xế là nhân viên của Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương sài Gòn. Còn hai
anh chàng lực lưỡng như hộ pháp ngồi hai bên chia súng vào mạn sườn tôi là nhân
viên cảnh sát đặc biệt làm việc thời ông Thiệu. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
những nhân viên cấp thừa hành của chế độ cũ đều được An Ninh Nội Chính Cộng Sản
huy động đi ruồng bố bắt bớ những sĩ quan trốn trình diện học tập và các tổ
chức “chống đốì chế độ” . Bọn An Ninh Cộng Sản tuy sử dụng họ nhưng luôn luôn
cảnh giác: Cứ một nhân viên tình báo chế độ cũ thì kèm theo hai hoặc ba tên An
Ninh Cộng Sản trong khi hành sự. Cộng sản có cấp súng cho họ, nhưng hết giờ bố
ráp thì thu lại. Họ được về nhà, nhưng cho tới tháng 10 năm 1975, nghĩa là sáu
tháng sau ngày mất nước, toàn bộ nhân viên thuộc các tổ chức Tình Báo chế độ cũ
đều trình diện và lãnh còng USA đều ra Tân Cảng để lên tàu ra Bắc.
o O o
Dựa lưng vào nệm xe tôi thấy
nhẹ nhõm và bắt đầu chú ý cuộc hành trình… Chiếc Wolswagen dừng khá lâu ở ngã
tư đường Cống Quỳnh và Hồng Thập Tự đợi cho hàng đoàn xe tải quân đội Bắc Việt
đi qua toàn là xe Molotova cũ kỹ và đầy bụi đường. Nếu chiếc Wolswngen quẹo
sang phải là chắc nó đưa mình lên đề lao Gia Định, nơi nổi tiếng nhốt tù chính
trị từ thời Pháp, còn nếu quẹo trái thì mình nằm ấp Chí Hòa. Chợt trong đầu tôi
thấy tiếc, nếu nó bắt tại nhà là mình mang được “đồ nghề” theo, nào bộ tadi,
cái mũ rộng vành, dép, bàn chải đánh răng…, giá như giờ nó đưa minh về nhà để
“xét nhà” thì hay quá, mọi thứ chuẩn bị cho việc ở tù sẽ như ý, chỉ sợ cái cuốn
” Tầng đầu địa ngục” nó tìm thấy thì hơi rắc rối… Nhưng tôi nghĩ lại, tụi nó
bắt kiểu này là bắt “nguội” , giống như nó bắt nhà văn Solzenitsyne vậy, sức
mấy mà nó đưa mình về nhà. Nghĩ vậy nên tôi chờ cho đoàn xe Molotova qua hết
xem nó quẹo trái hay phải.
Đoàn xe quân đội vừa qua chiếc
cuối cùng thì chiếc Wolswagen quẹo trái. Thế là đi hướng Chí Hòa rồi. Nhưng khi
xe chạy đến ngã tư Lý Thái Tổ thì nó vòng theo bùng binh quay ngược lại đường
Hồng Thập Tự. Không hiểu tại sao nó đi vòng vo như vậy. Xe bon bon chạy đằng
sau là chiếc Com-măng-ca. Sắp ngang qua đường Lê Vă Duyệt. tôi nghĩ, nếu nó
quẹo phải là đưa mình về nhà để xét nhà và đọc lệnh bắt giam. Nhưng ý nghĩ này
không vững, nêu vậy thì nó đến nhà bắt mình chứ. Nó cố ý bắt ” nguội” mà. Nếu
quẹo trái thì chắc nó cho mình nằm ấp “Trung tâm thẩm vân Việt Mỹ” đường Tô
Hiến Thành. Đây là một trung tâm khá lớn để thẩm vấn tù binh Việt Cộng thời
trước. Mọi dự đoán đều sai. Chiếc Wolswagen chạy thẳng trên đường Hồng Thập Tự.
Đường vắng ngất, 8àigòn sau hai tháng “giải phóng” như thất thần. Chiếc
Wolswngen lại chạy, nó như không định hướng. Cứ mỗi ngã tư thì người tài xế
ngoảnh sang tên thiếu tá Bắc Việt như xem thử hắn muốn đi đâu. Tên thiếu tá
lạnh lùng cứ mỗi ngã rẽ được thì hắn hất hàm hướng về phía trước, xe tiếp tục
lăn bánh trên đường Hồng Thập Tự qua cứ ngã tư Duy Tân, Hai Bà Trưng, rồi qua
cầu Thị Nghè, vậy là mình bị cho nằm ấp ở Biên Hòa rồi… Chiếc xe qua khỏi dốc
cầu đổ xuống thật nhanh nhưng đến ngã rẽ ngang chợ Thị Nghệ thì tên thiếu tá
ngồi ở ghế trước giơ cánh tay ra hiệu. Xe quẹo mặt, chạy thật chậm ngang qua
chợ, buổi chiều vắng. Vừa qua khỏi chợ Thị Nghè thì gặp một con đường ngang,
con đường tôi từng đi hằng ngày mà nay quên tên rồi. Vừa đến ngã ba thì tên
thiếu tá Bắc Việt lại giơ tay ra hiệu: Quẹo phải. Xe tiếp tục chạy, tên thiếu
tá giơ bàn tay đập đập vào cửa xe bảo chạy thật chậm…
Xe từ từ qua cổng trước không
còn lính gác như xưa. Hồi trước cổng được linh gác cẩn mật, bên ngoài có cảnh sát
đặc biệt theo dõi bọn đặc công cộng sản có thể tổ chức phá hoại. Tổng Nha Cảnh
Sát đã từng phát hiện đặc công đem mấy kí chất nổ để phá hoại. Âm mưu bị phát
giác và chúng bị bắt. Nay cổng không còn lính gác. Còn cái bảng thật lớn “Trung
Tâm Chiêu Hồi Trung Ương” cũng không còn. Xe chạy qua sân lớn của Trung Tâm rồi
thắng qua văn phòng của tôi, cạnh đó là văn phòng của ông Phó Giám Đốc Xuân Vũ.
Tôi thầm nghĩ: Nhà văn chống
Cộng khét tiếng lại làm Phó Giám Đốc cái Trung Tâm này thì Việt Cộng làm sao
tha được. Vậy mà không lo mà chạy còn ờ đó “bay bướm”.
Xe chở tôi ngừng ngay trước bậc
thềm vào văn phòng chính của Trung Tâm, còn chiếc com-măng-ca theo sau thì chạy
thẳng vào garage. Từ trên cao bậc thềm, hai người đàn ông tuổi trung niên bước
xuống. Tên thiếu tá Bắc Việt mở cửa xe bước lên. Ba người tụm lại nói đôi câu
rồi tên thiếu tá đến phía sau xe nói:
- Mời anh Phạm Thành Tài nào…
Tôi vừa bước xuống chưa kịp
khép của xe, thì hai người đàn ông trờ tới bắt tay chào và nói rất nhỏ:“Anh
Tài “
- Chào hai anh! – Tôi đáp.
Hai người đàn ông lạ hoắc, má
cóp, một người có con mắt mở sáng và cặp chân mày đậm hơi xếch, nói giọng Bắc,
còn người kia thì hơi thấp, có vẻ xuề xòa, đôi mắt mệt mỏi, nói giọng Nam…
Tôi chưa bao giờ đoán trước
rằng họ có thể đưa tôi vào Trung Tâm này vì đây không phải là cơ quan mật vụ,
cũng không phải là nơi lưu trữ hồ sơ gián điệp. Nó chỉ là một Trung Tâm trung
ương tiếp nhận những người tìm tự do, những người yêu nước bị cộng sản mua
chuộc, dụ dỗ, ép buộc hoặc đã lầm lẫn giữa cộng sản và dân tộc. Toàn bộ ngân
sách chi tiêu của Trung Tâm do Hoa Kỳ viện trợ. Người Hoa Kỳ rất thích thú và
vui vẻ chi tiền cho Trung Tâm điều hành công việc. Đó là nghĩa cử mở rộng vòng
tay đón nhận những người tìm tự do.
Ho đưa tôi vào trong phòng rồi
lên lầu. Tôi vẫn chưa rõ họ đưa tôi vào Trung Tâm này với mục đích gì ?
- Anh Tài, anh là Giám Đốc
Trung Tâm này trước đây phải không ? – Người Bắc hỏi.
- Thưa trước ngày 30-4-75, tôi
có làm giám đốc ở đây…
Người nói giọng Nam tiếp:
- Hỏi vậy thôi chứ chẳng dính
dấp gì chức vụ cũ của anh đâu! Anh yên tâm. Tụi mình gặp nhau là điều đáng
mừng. Anh em nhau cả…
Người Bắc đến ngồi phía sau bàn
ngày xưa Xuân Vũ ngồi làm việc, tôi còn nhớ cái bàn sắt của Mỹ bị quẹt ở phía
trước một lằn dài. Hắn đứng dậy khom người ra phía trước mời tôi một điếu thuốc
Đại Tiền Môn của Trung Cộng. Cách mời rất lịch thiệp, anh ta vỗ điêu thuốc ra
rồi đưa bằng hai tay.
- Mời anh… Thuốc này chắc không
hợp “gu ” anh…
- Cám ơn anh… Tôi hút thuốc gì
cũng được!
Người Nam ngồi trước bàn đối
diện với tôi liền bật chiếc Zippo.
- Cảm ơn anh…
- Không có xăng Zippo nên lâu
cháy...
- Dạ…
Người Bắc tiếp:
- Mời anh dùng trà, nước trà
Bắc Thái đấy. Anh thử xem, anh cứ tự nhiên.
Tôi cầm cốc nước ực một cái rất
ngon lành vì cũng đã khô cổ. Hình như thấy tôi tỉnh táo và chàng e dè mấy,
người Nam nhìn vào mắt tôi:
- Xin tự giới thiệu, chúng tôi
là nhà văn ở R về…
Tôi ngỡ ngàng. Nhà văn mà gặp
mình ở đây làm gì, có kèm theo thật vụ đi bắt người. Thế là sao ? Tôi nghĩ đây
chắc là hai tên Anh Đức và Nguyễn Quang Sáng, vì trước đây tôi có nghe Xuân Vũ
tâm sự là bạn của hai tên này. Tụi nó đều là dân Nam kỳ tập kết. Vậy chỉ một
tên, có thể là Đức hoặc Sáng
- Xin lỗi, xin quý anh cho biết
bút hiệu ? Tôi hỏi.
Hai người nhìn nhau, người Bắc
nhanh nhẩu:
- Rồi chúng tôi sẽ tặng sách
cho anh. Anh sẽ biết, muộn gì!
Tôi chưa kịp nói gì thêm thì
người Nam phân bua.
- Anh không biết bút hiệu tụi
tui, chứ tụi tui biết anh. Hồi anh còn Phụ giảng ở Đại học có làm thơ, tôi có
đọc và còn nhớ. Đó là bài “Chim Yến” đăng ở báo Văn Nghệ Quân Đội và bài thơ
“Thăm hang” đăng ở báo Văn học… Mỗi số bài tùy bút viết ở báo Sinh Viên… Tưởng
là gặp anh ở chỗ khác nào ngờ lại gặp ở đây… Trái đất tròn ở đâu cũng gặp… miễn
có gặp là vui vẻ là tốt rồi!
Người Bắc hỏi:
- Anh Tài, anh cũng là người
viết văn, anh có nhận xét gì về nền văn học cách mạng không ?
- Thưa anh, tôi chưa có dịp đọc
nhiều, thành ra không thể có ý kiến gì về nền văn học cách mạng.
- Còn tụi Ngụy, theo anh nó có
một nền văn học không ?
- Xin lỗi hai anh, cái đó để
cho lịch sử phán xét… Tôi không rành về văn học.
Người Nam nói:
- Mình nói vui thôi mà, đâu
nhằm tới cái lớn…
- Tôi bỏ viết lâu rồi, nên
không lưu tâm…
- Anh khiêm tốn quá, tôi có đọc
nhiều bài được ghi âm lại lúc chưa giải phóng. Anh có viết trên báo Khởi Hành,
báo Diễn Đàn và rất nhiều tùy bút được phát thanh trên Đài Tiếng Nói Tự Do.
Chắc anh còn nhớ các bài “Đoạn tuyệt danh vọng” ,”Hình
của nước”… Anh viết suốt cả
năm này qua năm khác, hàng tuần, hàng tháng Đài Tự Do phát thanh bài của anh
đều đều.
- Sau đó thì tôi không viết
nữa…
Tôi tự hỏi tụi này muốn cái gì
đây mà nó cứ đi vòng vòng
- Đúng, một năm gần đây không
nghe Đài Tự Do phát thanh các bài tùy bút của anh nữa… Nhưng theo anh Tài, nhà
văn nào viết khá nhất trong thời ngụy…
Tôi không ngần ngại:
- Doãn Quốc Sĩ, Võ Phiến, Duyên
Anh và… định nói thêm một tên nữa nhưng cái bàn đang
ngồi dựa tay vào là cái bàn của chính người tôi phải giả vờ quên: Xuân Vũ… nên lặng thinh không đáp.
Hình như hắn muốn tự tôi đưa
tôi vào tròng, hắn vội hỏi:
- Và ai nữa anh… ?
Tôi chưa kịp nghĩ ra một tên
khác thì người Nam cướp lời:
- Xuân Vũ, Xuân Vũ Bùi Quang
Triết.
Đến lúc này tôi mới hiểu ra.
Chúng nó gặp tôi chỉ có một mục đích: hỏi về Xuân Vũ. Nhưng hỏi về cái gì, điều
gì? Chả lẽ hỏi về sự nghiệp văn học chống cộng của Xuân Vũ sao ? Tôi chợt nghĩ:
Hay Xuân Vũ bị bắt, nó đem mình ra để điều tra Xuân Vũ. Vô lý! Xuân Vũ đã ra
Phú Quốc một tuần trước ngày 30-4-75. Dường như đi trước cả mười ngày, nửa
tháng nữa. Xuân Vũ có hẹn tôi nếu cần, cứ chạy ra Phú Quốc rồi tính sau…’ Tôi
lại nhớ: Ngày vừa mất Sài gòn chừng một tháng, nhà văn Sơn Nam có đến nhà chơi
và có nói: “Hình như thằng
Xuân Vũ bị tụi nó bắt. “ Tôi
cãi lại: “Làm sao bắt được
Xuân Vũ hẳn đi từ khuya. “ Sơn
Nam: “Nghe tụi nó nói là thằng Xuân Vũ đeo con nào đó, nên mới bị túm. ” Tôi
lại đính chính “Xuân
Vũ không phải loại đàn ông dại gái. sao có thể bị túm được. “ Nhà văn Sơn Nam: ” Ngựa sinh chứng thì sao.
Nó nổi tiếng với “Đường đi không đến ” rồi mà, ông không thấy sao?”. Tôi
không tin, nhưng thoáng chút ngậm ngùi: “Biết đâu chừng đó là sự thật. “
Tay tôi giả vờ rót liền hai các
nước và còn định rót thêm để có thì giờ suy nghĩ.
Người Bắc nhìn chằm chằm vào
tôi từ nãy, ngón tay trỏ gõ nhẹ trên mặt bàn, buông một câu:
- Anh có đọc Xuân Vũ chứ?
- Thưa có đọc.
- Anh mới đọc hay đọc lâu rồi ?
- Nói là có đọc, nhưng nghe
người ta nói nhiều hơn là đọc! – Tôi trớ ngang.
Hắn nhấn mạnh cụt ngủn:
- “Đường đi không đến.”
- Nghe người ta nói chứ tôi
chưa đọc được hết…
- Sách đoạt giải nhất giải Tổng
Thống mà anh chưa đọc à… ? Tay nghề khá vững, tiếc rằng nội dung… Hắn tiếp luôn:
- Xuân Vũ là bạn của tôi đó…
bạn từ thuở chưa viết văn, từ hồi còn đi học.
- Tôi tiếc cho nó… Nhưng con
người đâu phải là thần thánh, ai mà chẳng lầm lạc. . . – Người Nam cắt ngang.
Tôi thầm nghĩ thằng này là
thằng Sáng hay thằng Đức ?
Người Bắc hỏi tiếp:
- Anh Xuân Vũ hình như có làm
việc chung với anh ?
- Thưa anh ấý có làm việc chung
với tôi.
- Phó Giám Đốc - Người Bắc gật gù.
Người Nam:
- Cũng lạ, nhà văn Ngụy nó đưa
qua làm hành chánh…
Người Băc cười:
- Đâu có gì lạ. Tụi nhà văn
Ngụy không đi làm công chức, hoặc có một nghề gì tay trái thi cho có rách. Nên
Ngụy nó đưa Xuân Vũ vào làm ở đây cũng phải. Để có chút tiền rồi tha hồ viết
chửi… Mỹ Ngụy nó độc lắm….
Hai người nhìn nhau như trao
đổi ý kiến bằng mắt rồi người Nam nhìn sang tôi:
- Phải không anh Tài ?
Giật mình nhận ra nãy giờ hai
“nhà văn ” có vẻ lịch sự, giờ thì bắt đầu lòi cái đuôi công an của chúng ra.
Tôi nói:
- Thưa, không hẳn thế!
- Đúng thế chứ sao không hẳn
thế, anh Tài!
Thấy không nên tranh luận với
hắn, tôi giả vờ:
- Thế à!
Tôi linh cảm nhận ra, tụi này
không thể bắt mình đến đây để nói chuyện suông. Rõ là chúng muốn nhắm vào Xuân
Vũ. Đã biết vậy mà tôi vẫn chưa rõ mục tiêu cụ thể. Nhắm vào Xuân Vũ để làm gì
? Phải chăng đây là thời gian thử nghiệm để lần ra đầumối .. Nhưng cái đầu mối
đó là gì ? Chúng vẫn còn giữ kín…
Đang nói thì có một người mặc
áo đen, khăn rằn đã bạc màu đến bên cạnh người Bắc. Nói gì không rõ, nhưng sau
đó người Bắc hất hàm hướng về người Nam:
- Chúng ta xuống dưới một chút
đi ! Xin lỗi anh Tài, ngồi xơi nước, thuộc đây cứ tự nhiên.
Rồi hai người bước ra chỉ còn
lại mình tôi trong gian phòng thênh thang xưa kia là phòng làm việc của ông Phó
Giám Đốc Xuân Vũ, ngoài cửa là một nhân viên an ninh đi qua đi lại.
o O o
Một mình ngồi giữa gian phòng
thênh thang không có bất cứ một vật gì khác ngoài cái bàn của Xuân Vũ xưa kia
ngồi làm việc và ba cái ghế gỗ cái cao cái thấp, tôi nghĩ đúng là cuộc đời ‘bể
dâu”. Mới chỉ hai tháng “giải phóng” mà gian phòng của ông Phó Giám Đốc đã đổi
khác quá thể: cái bàn sắt khá đẹp nay đã phai màu, mà không còn một ngăn kéo
nào cả, nó trống hếch như lỗ mắt đầu lâu. Xưa những ngăn kéo này đầy chật bản
thảo của Xuân Vũ. Tôi còn nhớ, trên mặt bàn này, Xuân Vũ ngồi viết tùy bút
“Nắng và Tuyết” sau chuyến Xuân Vũ đi Bắc Âu về, 1973. Cái bàn thật nhiều kỷ
niệm: Ngày sắp về làm việc với tôi, Xuân Vũ nói: “Tôi chỉ cần xin anh một cái bàn
đặt ờ bất cứ góc nào cũng được và một xấp giấy “. Tôi đã cho Xuân Vũ một lúc ba ram
giấy pelure, một bó bút và cái bàn này.
Theo tôn ti chức sắc, trên bàn
ông Phó bao giờ cũng có cái bảng nhỏ màu xanh bằng nhựa với mấy chữ “Phó Giám
Đốc “. Cái bảng này có từ trước. Nhưng khi Xuân Vũ về thì một hôm tôi thấy cái
bảng biến mất. Tôi hỏi Xuân Vũ. Nhà văn đáp: “Tôi quăng nó đâu quên mất”. Tôi phải giải thích: “Đó là nguyên tắc hành chánh“.
Xuân Vũ: “À thế!”
Sau ngày 30-4-75 là “trải qua
một cuộc bể dâu ” . Chàng nhà văn Phó Giám Đốc giờ không biết trôi dạt phương
nào… hay đang ngồi trong phòng tối nào? Xuân Vũ thì nhất định chúng không cho ở
chung trong trại cải tạo thường. Mắt đảo qua phòng khách, anh nhớ lại không
biết bao nhiêu là khách bốn phương đến thăm trung tâm, không một tuần lễ nào
không có phái đoàn quốc tê.
Khách kinh ngạc vì những người
tìm tự do ngày càng đông trong khi ngày chiến thắng cộng sản chỉ còn là thời
gian. Người ta đến đây đê tìm hiểu một vân đề chính trị từ gốc rễ của nó: Tại
sao những người trong hàng ngũ kẻ sắp “chiến thắng lại bỏ về ” ? Đúng ra họ
phải ở lại để ngày vinh quang ngực sáng huân chương. Hay có chết đi bia mộ sẽ
còn ghi: “Tổ quốc ghi công. ” Người Mỹ đã tìm ra câu giải đáp ấy: đó chính là
cái nguồn gốc độc tài bạo chúa của chế độ cộng sản đã thúc đẩy những ai ở trong
quỹ đạo của nó hễ có dịp là tìm mọi cách để thoát ra, vì họ đã nhìn thấy trước
cái mặt trái của chiếc huân chương và những bộ xương khô dưới những nấm mồ đắp
vội. Người Mỹ thấu rõ điều ấy cho nên ngân sách giúp cho người tìm tự do cũng
chẳng thua kém gì ngân sách giúp cho người tỵ nạn sang Hoa Kỳ hôm nay. Và Xuân
Vũ, cũng như những người tìm tự do khác, cũng chỉ nhận nhúm xương còm không
phải tận tay người Hoa Kỳ trao, mà từ tay những người Việt Nam phải chịu trách
nhiệm ngày mất nước: 30-4-75. Thật tội nghiệp cho các nhà văn… Nhưng Xuân Vũ
chấp nhận đối đầu với cuộc sống khắc nghiệt. Anh không bẻù bút, anh vẫn viết và
đã giúp cho chúng ta được biết cái con đường mang tên một lão già ” tự cho mình
là “cha già dân tộc. ” Con đường ấy, con đường của lão già râu bạc cầm gậy
hướng dẫn ấy đã không bao giờ đến: Cái gậy đã gãy – “Đường đi không đến. “
o O o
Một người bước nhanh vào phòng:
- Chào anh Phạm Thành Tài !
- Kính anh… Tôi nghĩ ngay: thường ít ai gọi mình cả tên lẫn họ, chỉ các chức
sắc khi giao thiệp công tác, một là họ lịch sự “tôn vinh” mình, hai là họ sợ
lầm lẫn với người khác… Tôi lọt vào trường hợp thứ hai… công an sợ nhầm.
- Khỏe không anh Tài ?
- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe.
- Chắc là anh chưa gặp tôi lần
nào ?
- Thưa chưa!
- Nhưng tôi gặp anh hoài, hồi
trước giải phóng.
- Dạ, vậy là tôi quên, xin lỗi
anh.
- Khi thì gặp anh ở đài phát thanh
Tự Do, khi thì ở khu nhà Nguyễn Mạnh Côn và Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh.
- Thế à… vậy mà tôi không được
vinh hạnh biết anh.
- Tôi làm văn nghệ thành ra hay
giao du với các cơ quan truyền thông báo chí và các anh em nghệ sĩ…
- Thưa anh, tôi có viết ở đài
Tự Do, viết không nhiều. Thỉnh thoảng có đến thăm anh Côn và anh Duy ở cư xá
Chu Mạnh Trinh.
- Anh viết khá nhiều ở ĐàiTự Do
đấy chớ, nhưng không sao đâu, tôi biết “ở với ma phải mặc áo giấy” mà. Tôi có
đọc bài anh viết ờ báo Văn Nghệ Sài gòn. Chắc anh còn nhớ bài “Mấy vấn đề tự do trong văn nghệ, ” “Nhật ký cuối năm” , “Vấn đề
đảng tính trong văn nghệ cộng sản. “ Những
bài đó, thật sự xin lỗi anh, là “độc địa” không có lợi gì cho cách mạng. Nhưng…
chuyện ấy đã qua rồi… Tôi mừng là anh còn đây cho dù có “kẹt” tại… Lịch sử đã
sang trang, tụi mình đừng “quánh nhau” giờ bắt tay nhau được rồi… (Vâng, lạy Chúa, bắt tay hết tám cuốn
lịch!! Nếu không bắt chắc thêm vài cuốn)
- Cảm ơn anh.
- Giờ tôi muôn anh giúp tôi.
Nói thẳng ra cũng không hằn là giúp tôi, mà giúp tôi để tôi giúp bạn anh !
- Thưa anh, nếu được, tôi xin
sẵn sàng…
- Chúng tôi muốn hiểu thêm về
anh Xuân Vũ Bùi Quang Triết. Nếu ảnh còn ở lại thì chẳng sao cả. Chúng tôi sẽ
mời anh ấy viết lại, cố nhiên là phải thay đổi lập trường… Lúc nãy, hai anh ấy
có gặp anh phải không ? Một anh ở Hà Nội, một anh ở R.
Chúng bỏ tôi ngồi một mình, rồi
đột nhiên trở lại, đến người Bắc hỏi tôi:
- À mà thằng Trưởng có đến đây
thăm thằng Xuân Vũ không, anh Tài hả ?
- Tôi không thấy Trưởng đến
đây. Nhưng tôi nhớ lại hình như Trưởng có mời anh Xuân Vũ đến nhà chơi – Tôi bình tĩnh đáp, mặc dù chúng chuyển đề tài một cách đột ngột.
- Hồi nào, anh Tài hả ?
- Hồi nó là Tướng Tư Lệnh Vùng
I chiến thuật.
- Làm đến Tướng Vùng mà còn nhớ
đến bạn cũ cũng hay…
- Tôi muốn biết thằng Trưởng vì
tình bạn mà mời Xuân Vũ đến chơi hay là nó có mục đích gì ? Chắc là Xuân Vũ nó
nói chuyện với anh chứ?
- Xuân Vũ chỉ kể tôi nghe là có
gặp Ngô Quang Trưởng ở Đà Nẵng.
- Với ai nữa ?
- Chỉ có Tướng Trưởng và Xuân
Vũ…
Mắt hắn hơi nhíu lại, nghĩ ngợi…
- Anh Tài có nghe thằng Xuân Vũ
cho biết Ngô Quang Trưởng bàn gì với nó không ?
Tôi chưa kịp trả lời, thì hắn
tiếp:
- Anh Tài, anh cứ nói thật đi.
Tôi biết anh là người “có tình” với Xuân Vũ, anh không muốn nói hết những gì
liên quan về nó, sợ cắn rứt lương tâm . Đó là “chất ngọc” rất là “con người”
trong anh… – hắn ngưng ngang một hồi lại tiếp – Trong số các Tướng nguy, có lẽ
thằng Trưởng là Tướng vừa “sạch ” vừa có “lý tưởng”. Hình như thằng này không
xuất thân từ “lính tẩy” vừa không ăn cắp tiền Mỹ, vừa có “lý tưởng” chống cộng,
lại vừa “có tình” với bạn thì thật là hiếm có trong hàng ngũ “tai to mặt lớn”
của bọn ngụy. Xét cho cùng thì thằng Tướng này cũng nguy hiểm không kém cuốn
“Đường đi không đến ” của thằng Xuân Vũ, dù tác phẩm văn học nó táchại sâu xa
hơn, Mỹ bây giờ tìm một thằng Tướng để dân chúng “chưa giác ngộ cách mạng”
ngưỡng mộ như mò kim đáy giếng. .
.
Hắn đột ngột nhấn mạnh:
- Cho nên thằng Trưởng và thằng
Xuân Vũ là một cặp bài trùng Tôi không tin chỉ vi “tình bạn” cũ mà tụi nó gần nhau.
Còn cái mục đích lớn hơn. Mục đích đó là mục đích chống phá cách mạng.
Rồi hắn nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Anh Tài, tôi cần anh cho
chúng tôi biết tất cả những gì anh có thể biết được giữa thằng Ngô Quang Trưởng
và thằng Xuân Vũ. . .
Nói xong, hắn bỏ lửng rồi bước
ra ngoài…
Tôi nghĩ hắn đang nghi Xuân Vũ
đã trốn thoát vào “mật khu” của Tướng Ngô Quang Trưởng và đang cùng Ngô Quang
Trưởng tổ chức “chống phá cách mạng. ” Nghe đâu Tướng Trưởng có lần đã bí mật
về Sài gòn… Cả Sài gòn xì xào về tin này và có người nhận rằng mình đã gặp
Tưởng Trưởng. Có người tung tin họ vào mật khu của Ngô Quang Trưởng đâu ở vùng
IV và có gặp nhiều nhân vật trong bộ tham mưu của ông ta… Tôi nghĩ, biết đầu
trong số này cô Xuân Vũ? Song tôi lại nghĩ, tôi là người thấu rõ nhà văn này.
Xuân Vũ là con người “phi chính trị. ” Ngay như chuyện tính toán mưu sinh hằng
ngày, hắn vẫn là con người của cảm tính. Chuyện lớn mà bàn với hắn thì rốt cuộc
hắn sẽ cho ta một hư cấu văn chương.
- Sao anh Tài ? Anh nhớ gì nói
nấy. Chúng tôi cần biết rõ quan hệ giữa thằng Trưởng và Xuân Vũ càng chi tiết
càng tốt.
- Thưa anh, tôi chỉ nhớ toàn
chuyện lặt vặt…
- Chúng tôi cần…
- Thưa anh, theo Xuân Vũ kể
lại, nó gặp Trưởng lần đầu tiên ở Chương Thiện nhân dự lễ gì đó tôi cũng quên.
Ngô Quang Trưởng bấy giờ là Tư Lệnh vùng IV chiến thuật. Trong buổi lễ, Trưởng
bất ngờ bỏ bàn tiệc đến nhìn chăm chăm vào mặt Xuân Vũ rồi hỏi: “Phải Bùi Quang Triết không?”Xuân Vũ đáp: “Phải!”. Ngô Quang Trưởng ôm chầm Xuân Vũ
làm cả buổi lễ ngạc nhiên, kể cả các tai to mặt lớn, như các Bộ Trưởng, phó Thủ
Tướng. Xuân Vũ giải thích cho tôi: “Ông
biết sao mà Ngô quang Trưởng với mình gặp nhau mừng đến muốn rơi nước mắt vậy
không? Vì mình với Trưởng -
Xuân Vũ không nói họ và chữ lót –
có quá nhiều kỷ niệm thời thơ ấu… Trưởng đã từng đá banh với tôi mà. Lúc ấy
đang học lớp nhất sơ học ở Mõ Cày Bến Tre. Nó giữ “gôn” cũng khá. Chơi cho lọt
lưới không phải dễ, vì nó dong dõng cao, tay lại hơi dài, người gầy nên nó
“trùm” được cả khoảng cách hai hòn đá trụ gôn. Hôm đó tôi tức qua nghĩ ra một
cách có thể đá “thủng lưới, ” thằng “gôn ” Trưởng này một cú. Tôi lừa banh sang
góc trái. Trưởng dạng hai chân thủ ờ góc đối diện. Tôi nhá chân như sắp “sút”
một “sấm sét “, Trưởng đem hết “thần lực” để ôm banh, không ngờ tôi “hất ” nhẹ
bóng vào góc phải. Trưởng phóng tới nhưng bóng không dính vào đôi tay “nhựa” mà
túng trán làm đôi kính cân thị của Trưởng văng ra… Thế là lọt lưới “…
Tôi kể vòng vo để có thì giờ
suy nghĩ.
- Anh thử cố nhớ Xuân Vũ nó có
nói gì không. Có thể Xuân Vũ có nói mà anh không để ý, nên cố nhớ xem nào! – Hắn càng siết vòng vây.
Nhưng tôi chợt nghĩ là nó muốn
tìm điều đó mình cứ phịa ra may thì hắn không hỏi mình nữa, lại nữa còn có cái
lợi là “gạt ” nó để nó nghĩ là thực sự Xuân Vũ và Ngô Quang Trưởng đang kết hợp
với nhau làm một “việc lớn”. Tôi nói:
- Thưa anh, tôi thực sự không
nghe Xuân Vũ nói gì chuyện này, nhưng nghe đâu như hắn nói xa, nổi gần gì đó…
- Chúng tôi cần chuyện đó.
- Hình như Xuân Vũ có nói Ngô
Quang Trưởng tương lai sẽ được Nguyễn Văn Thiệu cho lên làm Tổng Tham Mưu
Trưởng rồi dần dà sẽ cho làm Thủ Tướng…
- Như vậy thì thằng Trưởng phải
chuẩn bị “quản lý” chính phủ ngụy.
- Thưa tôi không nghe, chỉ nghe
khi mất Đà Nẵng, Ngô Quang Trưởng có bị kỹ luật nhẹ. Nhưng Tướng Trưởng còn
được Tổng Tư Lệnh Nguyễn Văn Thiệu tin cẩn và có giao công tác mới, vì cho đến
lúc mất Đà Nẵng, tướng Trưởng vẫn còn uy tín trong quân đội và dân chúng.
Hắn nhảy tưng lên:
- Công tác mới gì ?
- Thưa tôi chỉ nghe vậy thôi.
Dư luận nói là sau khi mất Đà Nẵng, Tướng Trưởng có được phân công công tức
mới. Còn mới như thế nào thì tôi không nghe.
- Vậy sau mấy lần gặp Ngô Quang
Trưởng, Xuân Vũ không cho anh biết gì sao ?
- Tụi nó chỉ nhắc chuyện xưa…
hồi ở Bến Tre.
Hắn hỏi vội:
- Bây giờ tình hình như “nước
sôi lửa bỏng” mà tụi nó lại còn bình tĩnh nhắc chuyện quê hương… chắc là thằng
Xuân Vũ giấu anh những việc nó bàn với Ngô Quang Trưởng ?
- Thưa tôi chỉ biết đến đó,
không còn gì hơn…
o O o
Tên công an mật vụ này hỏi tôi
về vụ “Xuân Vũ liên hệ với Tướng Trưởng” đúng một tuần lễ. Hắn trở đi trở lại
hỏi ngoặc hỏi ngoéo để gài tôi vào tròng. Nhưng hắn đâu có kinh nghiệm về Cộng
sản bằng tôi. Tôi đáng tuổi bố nó mà. Cho nên nó càng hỏi nhiều tôi càng có cơ
hội “sáng tạo” nhiều tin tức lạ tháu cáy nó chơi.
Có điều tôi thấy rõ nhất là chúng nó sợ văn chương chữ
nghĩa không kém gì súng đạn.
Phạm Thành Tài
Hoa kỳ tháng 4-1992
QUYỂN IV
của
THIÊN HỒI KÝ “VƯỢT ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH”
- 1 -
Khi tôi về đến R không ai còn
nhận ra tôi, những người quen lâu cũng những kẻ mới biết trên đường Trường Sơn.
Tôi không còn ra con ngợm gì nữa. Đúng ra là tôi đã phải chết cả chục lần ở dọc
đường, nhưng không hiểu tại sao tôi còn sống mà về tới đây.
Hôm nay ngồi viết tiếp những
dòng này giữa căn nhà ấm áp, đèn điện, giấy bút đàng hoàng, bên ngoài trời mưa
như trút, một cơn mưa lớn nhất của thành phố tôi đang sống – từ năm mười năm
nay. Mưa ngập đến độ có người bị chết trôi, xe hơi nằm đường làng khang như củi
khúc. Thế nhưng tôi không bị dính một hạt mưa nào. Xem TV tường thuật trận
mưa ở vùng ven núi, thác đổ ào ào, tôi không khỏi giật mình nhớ lại những trận
mưa tàn ác ở lưng Trường Sơn hai mươi bảy năm qua. Lúc đó tôi còn trẻ quá, từ
khi cha sanh mẹ đẻ chưa hề biết nằm nhà thương là gì, thế nhưng chỉ sau bốn
tuần làm bạn với muỗi đòn xóc tôi đã ngã quỵ… Đó là lần tôi khát quá, phải nín
mũi uống nước vũng voi đầm rồi ốm.
Rồi bò dậy, quyết chí về quê,
sau một trăm ngày đêm sống không biết nhà cửa là gì, với một chiếc tăng
ni-lông, một cái võng, một hộp muối, một con dao găm cứa da không đứt. Khi về
đến trạm cuối cùng – hình như là trạm Kà Tum hay trạm gì đó tôi không còn đi
nổi nữa. Ông Trần Bạch Đằng là người xin và “bảo đảm” cho tôi về Nam đã cho hai
giao liên của R ra cõng tôi. Nhưng Hoàng Việt còn tệ hơn, nên tôi nhường cho
anh cái ân huệ được “cõng” về trước. Anh có triệu chứng ho lao: khạc ra máu mỗi
buổi sáng và không ăn uống được nữa.
Xin nhắc lại về cái “lịch sử về
nước” của tôi, để các bạn đọc không có dịp đọc các quyển trước (Đường
Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng) sẽ rõ cái sự
về của tên Nam Kỳ ly hương này cũng đau đớn không thua gì Ngũ Tử Tư là mấy. Nếu
không có ông Trần Bạch Đằng – xếp cũ của tôi thời đánh Tây – bảo đảm thì tôi
như những người khác, mọc rễ luôn xứ Bắc.
Số là năm 1956-57 gì đó, tôi
chán Hà Nội đến cùng cực nên tôi lên Ủy Ban Quốc Tế để xin về Nam một cách công
khai. Vì theo Hiệp định Giơ-Neo thì trong vòng bao nhiêu ngày đó người Bắc có
quyền vô Nam và người Nam có quyền ra Bắc định cư (tôi không nhớ nhưng lúc tôi
lên Ủy Ban Quốc Tế thì thời gian hãy còn hiệu lực). Vì ngây thơ nên bị tên công
an gác cổng báo cáo về cơ quan. Tôi bị kiểm thảo và bắt lên Đài Phát Thanh đọc
một bài nhắn về Nam nói rằng “Xuân Vũ không có xin về Nam và không có
bị đày đi Nông Trường”. Không hiểu sao báo Sàigòn lúc đó lại đăng tin về vụ
này chóng thế. Cái án “Ủy Ban Quốc Tế” treo trên cổ tôi sáu, bảy năm. Tôi phải
phục xuống tích cực công tác để “chuộc tội”. Thế nhưng khi vô trường đi B rồi,
tên cán bộ Tổ Chức gốc Liên Khu “nem” còn gọi tôi lên nhắc lại cái án treo đó.
Cộng Sản cướp được miền Nam
xong, Trần Bạch Đằng không có chức gì hết trong đảng cũng như trong chánh phủ.
Thiên hạ đổ thừa rằng “tại thằng Xuân Vũ đi. Đó là trách nhiệm của ông!” Khi ra
hải ngoại, Nguyễn Mộng Giác đến thăm tôi, cho biết như vậy.
Tôi cười, bảo: Nguyên nhân
chính vì Trần Bạch Đằng là người Nam Bộ. Nếu ông là dân Rau Muống thì mười
thằng Xuân Vũ hồi chánh ổng cũng chẳng hề gì. Có ai bỏ tù Lê Duẩn, giáng chức
Trường Chinh khi Hoàng Văn Hoan chui lỗ chó sang Tàu không? Vậy sao Xuân Vũ đi
mà Trần Bạch Đằng bị tội? Thói đời Cộng Sản là thế! Hễ dân Nam Kỳ thì ăn cơm
nguội ngủ hàng ba. Cái Câu Lạc Bộ Kháng Chiến mà ông là người lãnh đạo cắt
nghĩa rất nhiều.
Khi tôi về đến R thì tôi chẳng
gặp ông. Ông chỉ gởi tiền Rịa cho và kèm một bức thư. Đó là bức thư độc nhất
tôi nhận được của ông.
Đi đường chán ngán bao nhiêu,
về R sợ hãi bấy nhiêu. Không có gì khác trong cuộc sống. Cũng tăng lều ni-lông,
cũng hộp guy-gô nấu cơm cá thể và cũng … sốt rét.
Chỉ có khác một điều là mắc
võng giăng tăng không phải cuốn mỗi buổi sáng như trên đường Trường Sơn.
Các ông bà đi cùng đoàn với tôi
đã được phân phối đi các “cơ quan” như văn công R hoặc đi xuống các khu I, khu
II và bỏ trống vài cái sườn chòi và nền chòi. Ông Thủ-trưởng của tôi là người
rất tốt bụng. Là dân Thanh Hoá, vô Nam kháng chiến chống Pháp từ đầu, tên là
Nguyễn Văn Phổ làm báo Tổ Quốc, cơ quan của Bộ Tư Lệnh khu 8 của Trần Văn Trà.
Ông làm thơ, viết báo, chuyên viết mục gây căm thù thực dân và ký tên là “Sắt
Máu” (Thật đấy! Tôi không có bịa chút nào đâu). Khi tập kết ra Hà Nội thì làm ở
báo Quân Đội Nhân Dân ở phố Lý Nam Đế, đóng quân hàm đại úy. Năm 60, khi Mặt
Trận Giải Phóng thành lập, ông về Nam lãnh chức Trưởng Tiểu Ban Văn Nghệ gồm có
vài ngoe. Ông lấy tên là Bùi Kính Lăng tức Sáu Lăng. Về Sàigòn ông làm Tổng
Giám Đốc các nhà xuất bản – nghe nói đã qua đời.
Sáu Lăng cho tôi
ở một cái chòi hoang đó.
Ngay buổi chiều ông đến cho tôi
một mớ ruốc thịt nai. Còn những bạn bè “đồng hành” khác thì cũng tới chơi nhưng
không cho gì, vì không có gì để cho.
Cái hạnh phúc lớn nhất của nhà
leo núi Trường Sơn là được ăn thịt. Nhưng ở đây cái hạnh phúc to hơn cả miếng
thịt là sự “sáng mai không phải đi đâu nữa hết!” . Giao liên không mè nheo,
quát nạt, nhăn nhó v.v… Ta thuộc về ta. Nhưng khổ nỗi ta lại sốt rét.
Mặc kệ! Vẫn cứ hạnh phúc như
thường. Vì ở Trường Sơn sốt rét vẫn phải đi. Còn về đến nơi rồi, sốt rét không
phải đi. Hạnh phúc là vấn đề tương đối.
Cho nên được voi rồi, tôi chẳng
có đòi tiên bà, tiên cô gì ! Xin được nằm. Muốn nằm đến chừng nào thì nằm cho
khớp xương có thời giờ sản xuất chất nhờn.
Tôi đang rên hừ hừ thì một
người đàn bà đến hỏi tôi:
- Anh đỡ chưa?
- Dạ chưa.
- Tôi đã nấu cho anh chén cháo
hột gà rồi. Anh ráng ngồi dậy ăn cho khoẻ.
Trời đất! Không đòi tiên mà
tiên lại đến mang cho cháo hột gà.
Đó là chị Hai Lý vợ của anh Lý
Văn Sâm, nhà văn Sàigòn ra khu với Mặt Trận Giải Phóng là Phó Chủ Tịch hay Tổng
Thơ Ký Hội Văn Nghệ Giải Phóng của ông Tư Trang gì đó tôi không còn nhớ.
Chén cháo hột gà bốc hơi nghi
ngút thiệt tình chớ không phải mơ. Tôi ăn nhưng không biết mùi vị gì. Thực tình
như thế. Vì quá thèm khát và vì cháo quá nóng. Húp không kịp biết mùi vị. Ăn
xong như cọp ăn bù mắc. Như Bát Giới ăn sâm. Đáng lẽ phải ăn năm, bảy chén mới
vừa.
Chị Hai có nuôi một con gà. Lâu
lâu mới đẻ một trứng rất tùy hứng. Thế mà tôi được hưởng thì có khác gì trứng
gà vàng.
Một trong những người đến chơi
với tôi có Thủy Thủ, tên thật là Thái Trần Trọng Nghĩa, có tục danh là “anh
Tám”. Thủy Thủ người gầy, cổ cao, tóc ít, tiếng nói khàn khàn. Hồi ở Hà Nội tôi
có nghe vụ anh và Phan Lạc Tuyên cả hai cùng là đại úy quân đội Sàigòn đã rời
bỏ hàng ngũ ra khu “hợp tác” (!) với Mặt Trận.
Tôi có gặp Phan Lạc Tuyên trong
phái đoàn của Nguyễn Văn Tiến mà Hà Nội dựng lên thành “đại diện của Mặt Trận
Giải Phóng” ở Hà Nội. Tiến tên thật là Lư Sanh Kỉnh, người Tàu lai ở Mỹ Tho làm
bí thư cho Hoàng Xuân Nhị trong kháng chiến chống Pháp. Riêng Thủy Thủ có
truyện ngắn là “Chiếc Guốc Xinh Xinh” đăng ở báo Văn Nghệ Hà
Nội và được đảng tung hô dữ dội. Sự thực đó chỉ là một mẫu chuyện mà nhà văn
nào nhắm mắt viết cũng được, nhưng người ta tung nó lên để tuyên truyền cái đại
nghĩa bánh vẽ của Mặt Trận (Quả thật, sau này khi Thủy Thủ nhận ra cái
bánh không ăn được bèn tự vận bằng AK, bỏ ông đồng chí ở lại một mình trong
phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng ở Hà Nội như một con bú dù kém hấp dẫn hơn khỉ ở
vườn Bách Thảo. Tôi sẽ trở lại chuyện tự sát rùng rợn này sau).
Mỗi khi tôi qua cơn sốt, Sáu
Lăng và Thủy Thủ đến nấu trà uống với tôi. Một người nữa cũng đến là nhà văn
Anh Đức. Anh ta không thích tôi mà tôi cũng không thích gì anh ta. Hồi ở Hà
Nội, sống cùng nhà nhưng không chơi chung vì anh ta là ngôi sao sáng nhất trong
Hội Nhà Văn, còn tôi thì cứ như lục bình trôi, dở không dở hay không hay, ai
đến đâu tôi đến đó. Tôi vô Hội trước anh ta nhưng viết không được, cứ viết tới
viết lui ba cái chuyện kháng chiến không có lập trường và suông đuồn đuột, còn
anh ta thì lên như diều, tác phẩm lớp in sách lớp được lấy làm phim. Tố Hữu cho
đó là cây bút số một, trên cả Nguyên Ngọc.
Khi về gặp nhau ở đây thì hầu
như không còn những tình cảm cũ, thấy thương nhau hơn vì hai đứa bây giờ hiểu
ra mình đều là nạn nhân và tội nhân của đảng cả. Khổ như con chó để sau này Nam
Kỳ lại tiếp tục là thuộc địa của Bắc Kỳ như hai đứa cùng biết quá ể!
Nhìn thằng bạn, tôi hết biết
nói sao. Tôi vụt nghĩ đến thân thể mình rồi sau này cũng thế mà ớn lòng. Trước
kia nó trắng, cao, có một cái răng cửa sâu ăn, nói chung là đẹp trai. Đào hát bóng
xưởng phim Hà Nội có cô từng mê nó mà. Nhưng bây giờ than ôi ! Nó đã trở thành
một anh chàng nào khác. Mặt đầy nốt đen thâm như sẹo trái rạ, da bủn vàng hay
xám ngoét tôi cũng không rõ nữa, một thứ nước da kỳ dị, thú thực tôi chưa từng
thấy ở đâu. Tay thì nổi hột như da trái khổ qua, da chân như da cóc. Môi thâm
sịt. Trời ơi ! Đó là kết quả hai năm ở rừng của một chàng trai. Thoạt đầu nhìn
thấy nó tôi hoảng hồn, nhưng rồi tự bảo: mình thì cũng có đẹp đẽ gì ! Loan, vợ
chưa cưới của Anh Đức, nữ sinh Hà Nội, nhân viên giữ thư viện của Hội Nhà Văn,
cũng vô một chuyến với tôi. Ở đâu thì vợ chồng cũng có thể hưởng hạnh phúc,
nhưng ở rừng thì vợ chồng là một điều bi thương. Thằng đàn ông đã bệnh hoạn
kiệt sức lại càng kiệt sức bệnh thêm.
Lúc tôi còn ở Hà Nội, Anh Đức
gởi thơ ra xin cho Loan vào. Bố Loan là tù chính trị cải tạo, mười năm mà không
“tiến bộ” nên ở trên xét trường hợp của nàng một cách đặc biệt. Nếu không phải
là người yêu của nhà văn Nam Kỳ đã về Nam thì không đời nào Loan được vô. Loan
bị ở trên ngâm hồ sơ cả năm trời. Tố Hữu phán quyết cuối cùng Loan mới được đi.
Vào đây rồi, Loan sầu áo não. Chỉ được phút đầu. Cơ quan tổ chức đám cưới cho
hai đứa với hai gói trà và mấy thỏi kẹo. Vậy cũng đã là cả một vấn đề… tổ chức
!
Sau đám cưới là sốt rét. Hai
đứa thay phiên như hợp tác xã vần công. Loan đi đường khỏe mạnh, vượt lên đi
trước cả đoàn. Rủi thay, một lần vấp đá bị trẹo chân, cổ chân sưng vù. Đoàn
phải họp tức khắc, quyết định khiêng Loan đi theo như một ân huệ chưa từng có
bất cứ ở quãng nào trên đường này. Hồi đó tôi còn khỏe nhưng không tham gia vào
làm “phu kiệu cưới” vì tôi cho là dù có khiêng thì giỏi cũng chỉ được vài ba
trạm. Nhưng đám thanh niên thuộc đội vũ Ba Lê cố tỏ ra mình là lực sĩ nên cứ
khiêng.
Đâu được vài ba trạm thì tôi
sốt, đi không nổi, nằm lại, chẳng ma nào dìu dắt, mang dùm ba-lô nói chi tới
khiêng. Trên đường này cũng có những tên nịnh đầm dữ dội, không biết có được xơ
múi gì không. Bây giờ Loan đã vô đây và đã là vợ của nhà văn số một miền Bắc xã
hội chủ nghĩa cũng là người có thâm niên ở rừng cao nhất Hội Văn Nghệ Giải
Phóng, trừ Lý Văn Sâm.
Trong rừng lúc bấy giờ chỉ có
hai cặp uyên ương là vợ chồng Anh Đức và vợ chồng Lý Văn Sâm.
Vô đây tôi mới vỡ nhẽ ra được
nhiều thứ.
Ở Hà Nội khi nghe Đài Phát
Thanh Giải Phóng tường thuật “Hội nghị văn nghệ R dưới quyền chủ tọa của Chủ
tịch Trần Hữu Trang, nhà văn Lý Văn Sâm đọc báo cáo thành tích hoạt động của
hội trong năm qua, nhà văn Anh Đức báo cáo những mắc mướu trong vấn đề sáng
tác”, bọn tôi cứ nhảy nhổm cả lên, ngủ nghê không được. Phải chi có cánh bay về
gấp gấp để dự hội nghị và băng mình qua khói lửa để sáng tác v.v…
Sau đó đâu vài tháng lại nghe
đài tường thuật về buổi lễ long trọng phát phần thưởng cho các tác giả trúng
giải thưởng Văn Học Nguyễn Đình Chiểu. Những tác phẩm được nêu tên là “Hòn Đất”
giải nhất về tiểu thuyết, tập thơ cửa thi sĩ Giang Nam giải nhất về thơ v.v…
Đồng chí chủ tịch Mặt Trận trao tặng (chứ không phải chủ tịch Hội Văn Nghệ Giải
Phóng đâu đấy nhé, chớ có lầm. Ảnh chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ được treo ngang ảnh
Hồ Chủ Tịch ở tiền đình nhà hát lớn kia kìa. Vậy chẳng khác nào Hồ chủ tịch
trao tặng). Nghe thế bọn tôi càng nôn, nóng nảy muốn về mau. Đồ đạc ai xin cũng
cho, giá mấy cũng bán. Phải về, nếu không, thì không kịp hưởng vinh quang.
Bây giờ về rồi: Công chúa mặt
lọ!
Ông Tổng thư ký Hội Văn Nghệ
Giải Phóng mặt mũi trỏm lơ, ngồi đâu không đứng dậy nổi, cứ ngáp vắn ngáp dài.
Ông Phó chủ tịch thì khá hơn nhưng lại mang bịnh ghẻ hờm. Mỗi sáng phải bỏ ra
hai tiếng đồng hồ để gỡ mài ghẻ còn bao nhiêu thời giờ thì lại dành vào việc
chăm sóc đám lác voi. Nói có trời đất chứng miên, chỉ một mình Trưởng Tiểu ban
Văn Nghệ là Sáu Lăng được sức khỏe kha khá không ghẻ hờm, không lác voi, sốt
cũng ít. Nhờ vậy ông mới chạy chọt lãnh tiền xin gạo, thuốc ký-ninh và bông băng
thuốc đỏ về cho anh chị em dùng.
Té ra đài Giải Phóng gạt được
cả bồ nhà. Tài ! Tài thật. Tiên sư anh Giải Phóng! Trong số về trước tôi còn có
vài nhân vật độc đáo khác nữa. Trong đó có nhà phê bình trẻ Từ Sơn con nhà văn
Viện phó Viện Văn Học đầu sỏ số một chống Nhân Văn Giai Phẩm 1956 Hoài Thanh.
Cậu sinh viên này vừa soọc-ti đại học Văn Khoa của Phạm Huy Thông hay củaHoàng
Xuân Nhị gì đó muốn vô chơi cho biết xứ Nam Kỳ và dạy dỗ dân Nam Kỳ phê bình
văn học theo đường lối đảng. Nhưng vô tới đây nằm mắc kẹt ở đây vì tỉnh quận
giải phóng của ông Thọ đâu có rộng bằng cái bánh bẻng của bé gái lên ba mà có
sinh hoạt văn học. Không có văn học thì lấy gì để phê bình? Cái cầy đặt trước
con trâu nhà phê bình Từ Sơn tối ngày xung phong bửa củi cho nhà bếp. Đừng tưởng
đùa. Bửa củi tốt hơn ngủ trưa. Nếu nằm không thì cứ nằm ngáp dài một lúc là
ngủ. Ngủ dậy nghe ơn ớn, rồi vài hôm là sốt. Cho nên bửa củi rất lao tư lưỡng
lợi.
Nhân vật thứ hai là Ca Lê Hiến,
cũng sinh viên Văn Khoa cùng khóa với Từ Sơn, nhưng lại làm thơ. Thơ Ca Lê Hiến
được Tố Hữu khen. Do đó Hiến được tiến cử về Nam một cách suông sẻ, khỏe hơn
tôi nhiều! Hiến là con trai thứ bảy, thứ tám gì đó của cụ Ca Văn Thỉnh đốc học
liên tỉnh Bến Tre, thị xã quê tôi. Cụ Thỉnh có cử nhân văn chương, có bút hiệu là
Ngạc Xuyên, thời Pháp thuộc đã từng thông dịch cho toàn quyền Decoux tại sân
vận động Bến Tre khi tôi còn là học trò Trung. học. Cách mạng tháng tám nổ ra,
cả gia đình vợ con cụ đi kháng chiến đủ mặt. Nếu tôi không nhầm thì cụ từng làm
Bộ trưởng Bộ Giáo Dục hay một bộ nào đó trong chánh phủ liên hiệp hồi 1946. Bến
Tre kể cũng có nhiều người hữu dụng cho kháng chiến lắm nhưng khi kháng chiến
thành công họ đều ra rìa. Chính tôi thấy tận mắt, cụ Thỉnh được thưởng công
kháng chiến bằng chức Giám đốc Thư Viện ủy Ban Khoa Học mà sách vở phần lớn là
tiếng Nga cho nên mỗi ngày có chừng hai người tới đọc, trong đó có thằng con
trai của cụ là Ca Lê Hiến biết tiếng Nga. Nhà nước cho cụ cái nhà mà trước kia
Tây dùng nuôi chó bẹc giê ! Hỡi ơi dân Thành Đồng Tổ Quốc ! Phơi xương đổ máu
để cho ai ?
Ca Lê Hiến có người yêu đi học
Trung Quốc là em gái của Anh Đức. Cô nàng tên Lan Anh. Do đó, Hiến lấy bút hiệu
là Lê Anh Xuân. Khi Hiến lội tới trong này thì Lan Anh từ Trung Quốc về Hà Nội.
Thơ của Lê Anh Xuân làm nhiều hơn cả Giang Nam. Chàng đang làm trường ca “Tình
Yêu Song Sắt Nở Hoa” để ca ngợi mối tình của Nguyễn Văn Trỗi và cô Quyên thì
thư từ Hà Nội phóng vào, Lan Anh cho biết: “Em không thể chờ đợi anh. Vậy anh
cứ đi đường anh và em đường em!” Nhà văn Anh Đức giận cô em gái nổ trời nhưng
làm gì được khi trái tim Lan Anh không còn hòa nhịp cũ với trái tim Xuân ? Nhất
là hai bên ở cách xa ngàn cây số thì bàn tay phàm cũng khó nỗi rút ngắn đường
đất cho hai người gặp nhau để tâm tình và hôn hít được. Thói đời yêu nhau trên giấy,
hôn nhau trong thơ vài lần thì còn “thơ” nhưng cứ năm này sang năm khác thì thơ
hóa ra thơ thẩn rồi thơ thẩn trở thành ngơ ngẩn và nàng quất ngựa chuối dông
luôn.
Anh Đức gởi thơ ra dọa: “Tao từ
mày.”
Lan Anh gởi thơ đáp lễ: “Em có
cuộc đời của em ! “
Thế là nhà thơ Lê Anh Xuân “ôm
song sắt nở hoa” một mình.
Sau đó ít lâu, Lê Anh Xuân đi
Long An với một anh cán miền Bắc. Cả hai chết dưới hầm bí mật vì nghẹt thở. Cái
chết của Lê Anh Xuân được báo về Hội Văn Nghệ Giải Phóng như một tin sét đánh !
Nó làm cho những kẻ định đi Đồng Bằng lấy đề tài như tôi teo ruột.
Tưởng đến hóa ra chưa đến.
Từ rừng Cao Mên mà lội về tới
Bến Tre là cả một cuộc đi vô cùng nguy hiểm không bằng thì hơn cuộc leo núi
Trường Sơn chớ không phải dễ. Những người đã đi rồi về lại được R kể như đầu
thai kiếp khác. Trong những người này có Anh Đức, kẻ đã về tận Rạch Giá để lấy
tài liệu viết tiểu thuyết Hòn Đất. Theo anh ta kể lại thì phải qua vô số “cửa
tử. ” Đồng Chó Ngáp, Sông Cửu Long, Lộ Đông Dương và đồn bót, chụp dù, máy bay,
tàu lặn, cà nông của Mỹ gấp ngàn lần hồi kháng chiến chống Pháp.
Tôi nằm võng cả ngày nhìn lên
nóc tăng, cứ tưởng tượng đó là nóc nhà của mình cho đỡ khổ. Ở trên bảo riêng
tôi: Vê Bến Tre cố gắng viết một cái tiểu thuyết về Đồng Khởi ! Vẫn ghi khắc
lời dặn dò và mong ước ấy của cấp trên, nhưng làm sao về ? Về tới nơi thì mới
mong viết được chứ bỏ xác dọc đường thì viết làm sao?
Cái mộng viết tiểu thuyết Đồng
Khởi trong tôi rất to. Nó vừa là tác phẩm vừa là mối hận tôi phải rửa cho xong,
mối hận gần mười năm sống trên đất Bắc in ba quyển sách chẳng ra hồn.
Từ một hội viên trẻ nhất vô Hội
sớm nhất, sau một thời gian đã được xếp vào hạng “sắp bị đưa xuống hội viên dự
bị!” Điều này còn bí mật nhưng một thằng bạn Nam Kỳ vô Hội sau tôi bấy giờ đã
vào ban chấp hành, rỉ tai cho tôi biết.
- Mấy ổng chẳng có xét vấn đề
chính trị gì gì của mày đâu (tức là vụ lên ủy Ban Quốc Tế xin về Nam) mà xét
qua các truyện của mày.
Tôi bảo:
- Xuống dự bị thì xuống chứ tao
còn biết làm sao bây giờ. Tao viết không được vì tao viết không được ! Tao chịu
thôi !
Bây giờ lấy cái tiểu thuyết
Đồng Khởi mà phục hận cho chính mình vậy.
—>Chương 2
- 2 -
Những ngày nằm sốt rét lây lất
ở Hội Văn Nghệ Giải Phóng, tôi gặp lại Hoàng Việt đi móc vợ ở
sông Sài Gòn trở về. Sau một thời gian tẩm bổ, anh khỏe lên nhưng tóc thì bạc
hết và mặt như sưng, da mặt láng như vỏ vú sữa. Anh khoe:
- Tao đạt mục tiêu rồi ?
- Mục tiêu gì ?
- Mục tiêu tao nói hồi ngoài
Trường Sơn đó !
- À anh đã móc chị
Bảy vô rồi hả?
- Tao về tới là móc vô
ngay.
- Còn yếu vậy mà cũng cả móc!
- Hì hì… mày cũng nên tính việc móc đi.
Cơ quan đài thọ tiền móc.
- Nhưng tôi có quen với ai đâu
mà nhờ.
- Cơ quan lo luôn cho mày.
Có móc chuyên nghiệp. Họ đi một phát mócluôn năm,
bảy gia đình.
- Anh gặp chị Bảy thật không?
- Cái thằng ! Không chị Bảy mày
thì ai ?
- Có lòi mấy cái hình em bé tóc
vàng Bungari ra không?
- Tao đốt hết trước chứ mày !
- Bả có hạch hỏi gì không?
- Hạch gì mà hạch. Tao dẫn cái
xác về tới được cho bả thấy là quới rồi. Nhiều thằng từ Sài Gòn đi một lượt với
tao đâu có về nữa.
Hoàng Việt móc trà bao chì, lấy
sữa Con Chim ra pha cho tôi uống. Anh bảo:
- Của bả đem ra đấy. – Rồi vung
tay lên – Cái đồng hồ Movado này nữa. Rồi cả bộ đồ này nữa. Tao lột xác Trường
Sơn vứt cả rồi.
- Còn cái võng đâu ?
- Tao cũng có võng ni-lông mới.
Hoàng Việt vừa móc thuốc lá thơm ra hút vừa đáp – cái gì cũng mới cả chỉ có vợ
cũ Nhưng vieille marmite, bonne soupe ! (nồi cũ canh ngon!)
- Sao chỉ biết mà mua võng mua
dù cho anh?
- Mấy bà móc nói
cả chứ! Chắc chắn là thằng Lê Tương phùng ra đời vào năm tới !
- Lê Tương Phùng nào?
- Cái thằng ! Hoàng Việt trợn
mắt – Mày mau quên quá mậy . . .
Tôi sực nhớ ra đó là thằng con
mà anh dự định sẽ có sau khi gặp chị.
Anh đem nào sữa nào cà phê ra
liên hoan với tôi và kể chuyện bốp trời.
Sữa Con Chim thơm bát ngát cả
một vùng rừng âm u man rợ. . .
Chợt nhớ tới hộp sữa của thằng
Thuần cho trên đường Trường Sơn, tôi hỏi:
- Anh biết con Thu về tới đây
chưa?
- Nó vô đây lâu rồi. Nhờ nó đi
chung với đoàn của ông Mặt Sắt. Bộ mày muốn sưu tầm vốn cũ dân tộc hả? Để tao
chỉ cho. Nhưng mà phải chờ.
- Chờ gì?
- Chờ cho mày lấy lại sức chớ
chờ gì. Mày bây giờ ruồi đậu lỗ mũi không đập nổi mà ! Gặp làm gì ?
- Chậc! Thì hỏi cho biết vậy
thôi ! Nó đến nơi, tôi mừng chớ tôi có muốn gặp làm gì đâu ?
- Thiệt không muốn gặp không?
Mày mà bò đi được là mày tìm nó ngay chớ không muốn. Nó ở ngoài đoàn của chị Ba
Thanh Loan kia kìa. Tao vừa gặp bả. Tức cười quá. Hồi ở Sài Gòn trông bả mướt
xầy, vô đây lùi xùi quá đỗi.
- Thanh Loan nào?
- Mày nhớ Thanh Hương không?
Thằng cha ác thật. Cái gì chả
cũng biết. Toàn chặn họng mình. Thanh Hương là em Thanh Loan. Thanh Loan là đào
thương của Đoàn Cải Lương Văn Nghệ Nam Bộ từ hồi kháng chiến. Tập kết ra Bắc là
đào số một đoàn cải lương Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Bạch em ông bác sĩ Hưởng, Phó
chủ tịch Quốc Hội bù dìn. Thanh Hương trẻ đẹp (giống in như Kiều Lệ Mai bây
giờ). Tình duyên trắc trở sao đó nên đang ở Sài Gòn hái ra bạc, bỗng bỏ đi bưng
biền năm 1950. Ra Hà Nội đóng vai Nguyệt Nga và Điêu Thuyền độc chiếm sân khấu
Cải Lương Nam Bộ ở Hà Nội năm, sáu năm liền. Thanh Hương có quen với tôi, tới
lui nhiều lần và làm mai cho tôi một cô đào Nam Bộ cũng ở trong gánh hát này.
Nhưng tôi không khứng, mà tôi lại muốn người khác tuy rằng tuổi cao hơn tôi.
Nói thẳng ra là bà mai tốt số.
Tại sao Hoàng Việt cũng biết mà
khơi lại vết thương cũ?
- Mày có muốn ra đầu quân làm
lính của nữ tướng Thanh Loan không?
- Sao kêu bả là nữ tướng?
- Bả đóng các vai Phàn Lê Huê
Lưu Kim Đính ở SàiGòn nổi tiếng chớ sao.
- Rồi tôi vác cà bắp đi hầu bà
nữ tướng à?
- Mày soạn tuồng cải lương cho
bả.
- Tôi đâu biết món đó. Mà đã có
Nguyễn Ngọc Cung về rồi ! Ở trên đã cân đo sắp xếp cả.
- Thằng Cung đi về Bạc Liêu
luôn để móc gia đình chưa thấy lên.
Tôi lại nhắc vụ Lê Tương Phùng:
- Anh có chắc năm tới chị Bảy
ẵm Thiếu Nhi Cứu Quốc vô thăm anh không?
- Chắc. Bài bản tao thuộc làu
mà. Tuy mấy em tóc vàng bóc lột kha khá nhưng cây đờn kìm vẫn lên dây ngon như
thường.
- Anh chị trăng mật được mấy
ngày?
- Đếch họ chớ mấy ngày !
Hoàng Việt mắc võng nằm song
song với tôi và đốt thuốc hút. Anh hút không hở miệng. Một gói Ruby Queen đốt
một ngày không đủ. Tôi cũng hút tới ngủ mới thôi. Ngủ mà hút dược chắc anh cũng
hút. Anh thò đầu qua rỉ tai tôi, nói bằng tiếng Pháp:
- Révolution égale barbarisme.
Cách mạng có nghĩa là dã man! Mẹ, thằng anh đã mười bảy tuổi, thằng em mới oe
oe chào đời. Tao đi vòng quanh trái đất mất bằng ấy thời giờ. Tưởng đi đâu ai
dè cũng quay về chỗ cũ!
Hoàng Việt rít khói rồi tiếp:
- Trăng mật gì mà trăng mật.
Dập mật thì có.
- Sao vậy? Ở đâu?
- Bị ruồng chạy ra khói đít chớ
sao. Bờ sông Sài Gòn đẹp lắm mày ạ. Có thể ngồi ở đó mà tưởng tượng sông Cửu
Long cũng được nhưng bom pháo tơi bời chạy tuột quần tuột áo, ở đó mà trăng với
mật. Gặp nhau chỉ hai mươi bốn tiếng mà thấp thỏm như ngồi bàn chông. Trực
thăng nó bay như chuồn chuồn ! Cuộc chiến tranh này không có thơ mộng
kiểu Lá Xanh, Nhạc Rừng(*) đâu đấy nhé. Để mầy về đồng
bằng rồi sẽ nếm mùi tân khổ.
(*) Những bài hát của anh sáng
tác hồi chín năm.
Tôi hỏi:
- Tình hình căng như vậy anh
làm sao biết chắc Lê Tương phừng sẽ ra đời ?
- Bởi vì… chịp ! Tất cả đều từ
ước mơ. Attends-moi ! Je reviendrai ! Đợi anh, anh sẽ về. Về rồi ! ước mơ đã
thành sự thực. Nhưng rồi lại có ước mơ mới.
Hoàng Việt ném cái tàn thuốc
đưa tay lên miệng hú to và nói:
- Để tao kêu Ba Mực về nhậu.
- Ba Mực nào.
- Thằng Xuân Hồng !
À, ra Xuân Hồng, tác giả nhiều
bài nhạc giải phóng rất nổi tiếng ở Hà Nội, nổi tiếng hơn cả trong Nam, có cái
tên là Ba Mực. Tôi chưa hỏi thêm thì Hoàng Việt đã nói tiếp:
- Nó là huyện ủy viên một huyện
nào đó của Thủ Dầu Một tao quên rồi, không hiểu tại sao nó không lên tỉnh ủy mà
lại nảy nách ngang làm nhạc sĩ mới kỳ chứ!
Nhạc sĩ Xuân Hồng là một con
người khỏe mạnh, cù lự như nông dân cơ bản. Ở rừng tối kỵ là xoay trần và mặc
quần tiều (phơi sơ hở ra cho đòn xóc tiêm kí-ninh !) nhưng Ba Mực lại mặc quần
tiều và ở trần, khoe bắp thịt còn rất cợm và rắn chắc.
- “Chiến sĩ ta dầm mưa
dãi nắng. Rét run người nắng rám màu da!” – Hoàng Việt vừa nói vừa
cười – Làm một miếng trà Thiết Quan Âm cái đã rồi tính tiệc mặn !
- Chứ không phải “chiến
sĩ ta ngồi đâu ỉa đó, ỉa trong quần không biết mùi hôi” à? – Xuân Hồng
tự chế diễu.
Tôi cười xã giao:
- Có bài nào mới không, hát
nghe chơi ta !
Hoàng Việt xỏ ngang:
- Y đang sáng tác trường ca dài
hai trăm tám chục nhịp.
- Vậy hả, tên gì ? Gởi ra Hà
Nội chưa ? Ở ngoải đang chờ tác phẩm trong này gởi ra như chờ nước uống.
Hoàng Việt cười:
- Chưa. Còn chờ sả ớt !
- Bản gì mà có sả ớt trong đó.
- Trường ca “Săn Mển”!
Tôi bật cười. Hoàng Việt tiếp:
- Mục tiêu của nó là một tuần
phải hạ được hai khỉ, một mển, một cà khu còn chim cóc thì không kể. Mày mới về
chưa biết danh nó đâu. Để nay mai tao bảo nó sẽ bắn một con mển liên hoan mừng
mày về tới nơi.
Hoàng Việt quay sang Ba Mực:
- Vợ con có ra được không bồ .
- Ra gì nổi mà ra anh Bảy !
Ba Mực đưa tay cào cái đầu tóc
xùi lên như cái bùi nhùi thợ rèn và nói tiếp:
- Khó lắm anh Bảy ơi ! Hôm anh
đi rước chị Bảy tôi muốn cản anh ghê lắm vì tôi sợ anh không thành công nhưng
vì thấy anh nôn nóng quá xá, nên tôi không dám .
- Nóng chớ nguội sao được ! Hai
mươi năm trời vợ con bất biết, bây giờ về tới đây sống chết cũng phải gặp
Hoàng Việt nấu nước châm trà.
Quần áo có làn xếp thẳng hăng như giặt ủi. Trà rót ra ly tách văn minh đàng
hoàng chứ không uống bằng chén sắt Hungari hoặc nắp gà-mèn quốc doanh Hà Nội
đâu. Hớp một ngụm trà, rít một hơi thuốc thơm rồi lắc lư cái đầu bùi nhùi, Ba
Mực hỏi phong long:
- Biết ông Bảo không?
- Bảo nào?
- Nguyễn Văn Bảo, dân chiến khu
Đ hồi kháng chiến trước và là đồng chí Nam Kỳ 40 với Tô Ký.
Tôi vọt miệng:
- Phải Bảo sư đoàn 330 không?
Tôi biết. Người cao lớn, mặt mũi hiền hậu, ổng là Chánh ủy Sư đoàn của Đồng
Cống Bến Tre tôi mà. Ông có cho tôi đi ké xe jeep lên Nông trường Lam Sơn hồi
văn nghệ sĩ đi lao động thực tế sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm 1958.
- Chết rồi ? Ba Mực nói gọn
khô.
- Trời đất ! Tôi kêu lên.
- Ổng về đến bở sông Sài Gòn
thì biệt kích bắn chết. Ở trên đưa ông về làm chính ủy I/4.
- Vậy à? Vậy là lên chức dữ
dội. Từ chánh ủy F lên chánh ủy Quân khu.
Hoàng Việt ngồi lặng lẽ uống
trà và phà khói mịt mù như núi lửa phun, để mặc cho tôi và Ba Mực tân cổ giao
duyên chơi, hồi lâu mới trút xác trà ra và nói.
- Lên chức con mẹ gì !
- Từ chánh ủy F lên chánh ủy
một khu mà không lên chức à? Tôi cãi lại.
Hoàng Việt chậm rãi châm trà
mới rồi nói:
- Mày ở ngoài Bắc cả chục năm
mà vẫn còn ngây thơ. Chỗ nào bỏ mạng sa tràng dễ dàng thì thằng Nam Kỳ đi đầu
hết cả. Ngã rạp như cỏ lác bị phát rồi kế đó…
-…mới tới mình ! Ba Mực vuốt.
Hoàng Việt lắc đầu:
- Không! Mình đâu có được đi
tiếp theo. Mà là tụi Bắc Kỳ. Tụi nó dẫm lên xác mình và đi tới nẫng chiếu nhất
chiếu nhì ngồi chật hết. Xong đâu đó mới tới tụi mình chầu rìa đứng bốn góc
chiếu chờ chúng nó ném cái xương nào lên đầu thì mới nhào ra giật lấy mà gặm.
Ba Mực cười:
- Anh đi mấy năm trời bên
“Bun-da-ri” mà cũng còn bất mãn dữ vậy sao anh Bảy?
- Thì tao nói để rồi tụi mày
coi có đúng không? Bắc Kỳ vô đặc rừng này hết rồi đó. Chừng nữa đây rồi từ Bộ
trưởng cho đến tổ phó tam tam chế cũng đều Bắc Kỳ xực hết ráo, chứ đám dưa hấu
chả có được cái con mẹ gì. Tao bảo đảm tụi mày như thế. Giỏi lắm thì chỉ “phó”
thôi. Phó nháy, phó may, phó nhòm, phó cối, phó vịn, phó đè, phó đội!…
Ba Mực cười:
- Ông Tư Siêng vô đây là để làm
Bộ trưởng Bộ Văn Hóa đó cha nội !
- Ừ, thì ở trong rừng, nó phong
chức đủ hết ! Nhưng khi về thành phố, bày đặt ra tiêu chuẩn xe hơi nhà lầu
phiếu đi mậu dịch quốc tế kìa, chừng đó dân Nam Kỳ mới bị đá văng một cách rất
đau đớn mà đếch có dám la. Bây giờ ở trong rừng với ba con cà khu này, thằng
nào cũng ăn cơm nấu bằng chảo đụng, hơn nhau vài viên thuốc sốt rét, Bắc Kỳ nó
đâu có thèm tranh giành cho mang tiếng mậy!
Ba Mực ngẩn người ra. Tôi cũng
có một bụng bất mãn giống y như Hoàng Việt nhưng để Hoàng Việt sôlô cho Ba Mực
nghe êm ái hơn. Vì tôi là thằng ăn nói lỗ mãng hay chửi thề bọn Bắc Kỳ nên ngồi
im rung đùi cho khỏe bộ giò Trường Sơn nhão.
Hoàng Việt chưa chịu xì tốp.
Anh uống trà liền liền đốt thuốc liên miên và tiếp:
- Hồi kháng chiến chống Pháp
tao thấy các ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần mà thương. Hai ông ấy có ở
chiến khu D với tao một thời gian. Tao phục các ông lắm. Đại trí thức như vậy
mà không thèm bơ sữa xe hơi nhà lầu, bỏ tất cả để đi kháng chiến giành độc lập
cho dân tộc. Còn Luật sư Thái Văn Lung người Công giáo, hy sinh trong kháng
chiến, Lê Trần nhạc sĩ nữa, kể sao cho hết. Nhưng qui luật của tụi Bắc Kỳ là
như thế này: khi mò cua bắt ốc thì cục muối cắn làm hai nhưng khi mâm cỗ dọn
lên rồi thì Bắc Kỳ quất trọn.
- Bộ anh thấy vụ đó sao anh
Bảy? Tôi cười khảy chọc tức anh bạn Nam Kỳ sồn sồn chơi.
Hoàng Việt nguýt tôi một phát
kinh hồn rồi bảo.
- Mày biết rõ hơn tao chứ! Phạm
Văn Bạch thì ở hang chuột còn Phạm Ngọc Thuần thì bị đày đi làm đại sứ bên Đức
Quốc.
Tôi nói:
- Nói làm mẹ gì mệt cái mồm, để
uống trà Thiết Quan Âm cho nó ngọt.
Ba Mực nói:
- Tôi còn một mớ khô nai đây
đem ra “chống sốt” chơi.
Ba Mực và Hoàng Việt ở chung
một chòi một cách tương đắc. Khi Hoàng Việt vừa về là Ba Mực rước tới chòi
luôn. Vì Hoàng Việt không còn khả năng dựng nổi một cái sườn chòi và cũng không
có đủ ni-lông để mà lợp. Cả tôi lẫn ông nhạc sĩ Giao hưởng số một của chế độ
được xếp vào hạng sơ cấp(Xin phép dừng lại địt mẹ thằng Hồ và Trung ương
đảng mỗi đứa vài phút)trong khi anh vợ thằng Lê Đức Thọ và mụ già trầu vợ
Nguyễn Chí Thanh thì lại đi vô Nam bằng máy bay Hàng không dân dụng và trực thăng
Liên Xô. Chí công vô tư của đảng đấy !
Hoàng Việt đến trạm cuối cũng
là Kà Tum Kà Teo gì đó thì không còn lết được nữa. Trần Bạch Đằng nghe tin bèn
cho hai nhân viên ra cõng khiêng vác lôi anh nhạc sĩ về tới nơi thì ngáp ngáp.
Bây giờ đã lấy lại sức khỏe đi
rước vợ, đi lung tung là nhờ ba cái thịt rừng của Ba Mực và ba cái xa xỉ phẩm
Sài Gòn được tiếp tế qua tay bà vợ. Ba Mực ở chung với Hoàng Việt được cái lợi
là học hỏi thêm ở đàn anh tiên tiến còn Hoàng Việt thì được Ba Mực săn sóc như
một người yêu.
Ba Mực lấy khô đem dụi vào bếp.
Thứ khô này rất nhát lửa. Chỉ nháy mắt là đem ra dần là mềm mại ăn được ngay.
Ngon lắm. Lại có cả rượu Tây. Quên là hiệu gì nhưng không phải “đế quốc Miên”.
Thế là từ trà bắt qua rượu, từ việc nhà bắt qua việc nước, việc kia việc nọ
lung tung.
—>Chương 3
- 3 -
Từ hôm về tới nay, tôi chỉ toàn
ăn chực, uống chực chứ không có tiền mua sắm một thứ gì. Sáng dậy thì đầu này
hú, đầu kia hú đến uống trà, trưa lãnh cơm xong một bạn nào đó bí mật xì cho
một ít ruốc thịt rừng hoặc một dúm lạc rang muối. Vậy là đã quí vô cùng rồi.
Còn chỗ ở thì tấp vào cái chòi chung với nhà phê bình nòi là Từ Sơn con của ông
Hoài Thanh.
Anh này nghịch lắm. Đi ăn cơm
về là nhào lên võng nằm là rớt cái ạch thôi. Đó là do anh ta sửa dây võng. Ở
với anh ta nhưng tôi chỉ về để ngủ và những lúc bị ma rét hành, còn thì suốt
ngày tôi đi la cà hết lều này sang lều khác để hỏi thăm tình hình trong Nam và
tìm gặp người quen từ kháng chiến chống Pháp.
“Tiệc” sắp dọn ra thì có tiếng
cười khúc khích rồi tiếng chân khua lá khô. Tôi ngoảnh nhìn ra thì thấy một bầy
tiên cô tay ôm quần áo từ từ đi tới.
Như một ảo ảnh xa vời, đám con
gái vụt hiện ra trước mặt tôi, ngay bên thềm chòi.
- Đi tắm hả các em ? Ba Mực
nhắp miếng khô rồi hỏi – Đừng có quậy ngọp đục hết nước, để các anh uống trà
nhé !
Tôi vụt kêu lên:
- Thu !
Cô gái đi sau cùng còn lếch
thếch ở phía bụi cây vừa nhô ra đi tới chòi cũng khựng lại như tiếng gọi của
tôi.
- Thu với chả Đông ! Hoàng Việt
càu nhàu một cách vui vẻ – Mày đi đâu cũng gặp nợ !
Thu vừa tới thì lũ con gái đi
trước đã quá chòi khuất dạng về phía suối.
Thu đứng lại bên thềm ngẩn ngơ.
Tôi hỏi tiếp:
- Em vào đây đã lâu chưa?
- Cả tháng rồi !
- Ngồi trên võng kìa em gái,
đứng mỏi chân ! Ba Mực trỏ cái võng mời khách một cách ga-lăng.
- Em phải đi, kẻo tụi nó trêu.
Nó lại báo cáo với đoàn
- Trêu cái giống gì ? Báo cáo
cái gì ?
- Đoàn có kỷ luật nghiêm lắm.
Đi đâu phải đi tập thể!
- Ừ thì đi đi ! – Hoàng Việt
lúc nào cũng tỏ vẻ “ghét” các vụ nam nữ lăng nhăng.
- Bữa nào em xin phép đoàn vào
thăm anh ! – Thu nói xong quay lưng đi.
Tôi nhìn theo, sững sờ.
Kể từ chia tay ở cái trạm gặp
ông Mặt Sắt tới bây giờ là một trăm năm hay một tháng, tôi cũng không còn nhớ
được. Tôi đã chết năm bảy lần và cũng đã sống lại năm bảy lần, tôi cũng không
hiểu. Tôi càng không ngờ là tôi còn gặp được Thu.
Thu bây giờ trông có vẻ trắng
trẻo trơn tru không lùi xùi bủn beo như hồi đó.
- Cái gì mà ngẩn ngơ thế kia?
Này, uống một chút cay hâm bầu nhiệt huyết ! Hoàng Việt bảo.
- Đoàn gì mà có kỷ luật nghiêm
dữ vậy anh Bảy?
- Đoàn Văn Công chứ còn đoàn gì
?
- Trời đất ? Tôi kêu lên – Văn
Công gì ?
- Thì Văn Công chớ còn Văn Công
gì ? Cái thằng !
- Ở đây diễn cho ai coi ?
- Cà khu, khỉ mặt xanh, khỉ mặt
đỏ, nai, mển, rắn rít và tụi mình ! Ba Mực tiếp.
Tôi mới sực nhớ ra rằng trong đoàn
tôi đi có đến cả chục cô em đẹp nhất lấy từ trường Múa và các đoàn Văn Công
Trung ương trong đó có Phương của tôi và Thu.
Phương đã bị phục kích chết ở
Eo Máu trên đường về quê khu Năm. Còn Thu thì còn sống sót vô đến đây để gặp
người yêu, nhưng dọc đường chúng tôi đã đi quá xa trên con đường tình cảm. Tôi
muốn biết thêm về việc gặp lại người yêu của Thu ở trong này. Nhưng không tiện
hỏi thẳng Thu mà cũng hơi khó hạch Ba Mực. Nhưng Ba Mực biết tỏng bụng tôi nói:
- Vụ đó xù rồi ! Thằng kia ở
trong này lại lăng nhăng với một con nhỏ cải lương.
Hoàng Việt cười, nhìn tôi một
cách trêu chọc:
- Mày nên báo cáo với tổ chức
đi là vừa. Để nó trống chân lâu ngày có thằng nhảy vô đấy.
Ba Mực cười:
- Ra thế à ?
- Thì nó thế đấy. Còn hơn thế
nữa. Hà Nội đỡ rắc rối là nhờ nó và một thằng nữa đi vô đây.
Ba Mực hỏi:
- Thằng nữa là thằng nào?
- Thằng Sáng ủy viên Ban Chấp
Hành Hội Nhà Văn. Đó là hai con quỉ chùa phá nhà chay ở ngoài đó, cho nên để
cho dân Hà Nội an cư lạc nghiệp, người ta tống hai thằng vô rừng này.
Ba Mực hớp miếng rượu khà một
cái to và tiếp:
- Muốn làm gì thì dắt đi đâu
chứ ở đây không được đâu cha nội ơi !
- Dắt đi đâu là đi đâu?
- Không có đi đâu được hết,
nghĩa là không có làm gì được hết.
- Sao quái gở vậy? Hoàng Việt
hỏi.
- Các anh mới về nên chưa có
thông tình hình ở trong này đâu! Đoàn Văn Công không cho ai yêu ai, không có
nói tới cái vụ yêu đương trong lúc này. Để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng.
- Vậy sao cái thằng của con Thu
lại lăng nhăng với con nhỏ nào?
- Hai đứa vừa bị kiểm thảo một
trận trời long đất lở.
- Thế à? Hoàng Việt cười khè –
Bà trưởng đoàn đã “lên mốc” nên không cho đám trẻ con chơi trò hú tim chớ gì !
- Chị Ba ở Sài Gòn mới ra nhưng
chỉ giác ngộ mau lắm. Chỉ còn nghiêm hơn các ông ngoài ta.
- Chị Ba nào? Tôi hỏi.
- Chị Ba Thanh Loan chớ chị Ba
nào. Anh không biết sao? – Ba Mực nói.
- Không !
Hoàng Việt trả lời thay.
- Thanh Loan là chị Thanh Hương
Nguyệt Nga Điêu Thuyền của ông Tám Danh rõ chưa nào?
- Ủa!
- Ủa cái gì ! Bả là ủy viên
trung ương Mặt Trận ta đó chú em.
- Hiện phụ trách đoàn Văn Công
Giải Phóng của mình.
- Vậy thì “chú em” có muốn “đút
đờ-măng” vô con Thu phải báo cáo với nữ chúa nghe ! Vô đây là cơ quan rồi không
có đấu phép như trên đường Trường Sơn được nữa. Coi chừng sụp hầm chông đấy!
Tôi thở dài một cách vui vẻ:
- Vấn đề là tui có muốn oánh
phép hay không thôi chứ không phải vấn đề xin phép ai đâu!
Hoàng Việt cười ré lên:
- Mày là con quỉ. Đi đâu thì
phá làng phá xóm tới đó.
- Tôi tu lâu rồi anh Bảy!
- Ừ mày sắp thành ở ngoài
trường đi B rồi đấy nhỉ.
- Trường đi B nào? – Ba Mực
hỏi.
- Tức là cái trường tên mang
gạch mang đá của tụi này đấy. Trước khi vô đây phải trải qua một khóa luyện nội
công ba tháng. Ở đó vách tường khít rim mà nó còn đấu phép rần rần kia kìa, vô
đây rừng cây không có hàng rào nó coi như đồ bỏ.
Tôi hỏi sang vấn đề khác:
- Chị Ba có anh Ba không?
- Không có ai cả!
- Vậy ai làm người tình của nữ
chúa? – Hoàng Việt cười ngặt nghẽo hỏi.
Ba Mực ngó quanh rồi nói:
- Có ông Tám Năng nhà mình mới
xứng, nhưng ổng đạo đức lắm, ổng không dám đánh du kích đâu. – Ba Mực nói.
- Tám Năng nào?
- Huỳnh Minh Siêng đấy! Trại
cưa Kim Hữu, nhớ không?
- Á, à… ổng vô đây đổi Tư Siêng
ra Tám Năng hả?
- Ừ thì đại khái là ở rừng thì
cũng lấy tên cho nó có vẻ rừng rú một chút. Nay mai rồi mày cũng phải vứt bỏ
cái tên Trường Sơn của mày đi để tra một cái tên rừng vào. Xuân Vũ thì đổi ra
Tư Cọp, Năm Cheo hay Tám Bò Hóc vậy đó. Không thấy Xuân Hồng lại hóa ra Ba Mực
sao?
- Ba Mực là tên cũ của tôi bây
giờ đem ra xài rất hợp ní ! Còn anh thì lấy tên gì ?
- Tớ thì có sẵn rồi. Tụi nó bảo
Hoàng Việt cũng như Hoàng Cò… Thôi thì để cho Mỹ Ngụy nó không tìm ra tác
giả Tiếng Còi Trong Sương Đêm (*), sẵn rượu thịt đây, tôi tự
đặt cho tôi là Bảy Cò luôn nhé. Còn thằng Xuân Vũ thì tao đặt cho là Hai Cọc,
được không?
(*) Bài hát nổi tiếng của Lê
Trực tức Hoàng Việt.
Tôi cười ngất:
- “Cộc hay “cọc” ? Cộc thì có
nghĩa là cồng cộc bắt cá dưới đìa còn cọc là cây cọc, cọc gỗ, em gái ngồi phải
cọc. Anh muốn cho tôi là cồng cộc hay cọc cho em gái ngồi ?
Ba Mực đáp:
- “Cọc” hay hơn.
- Tại sao?
- Vì “cọc” không có “ô” cho nó
khỏe và khoái nữa. Còn “cộc” thì có “ô” mệt lắm. Ở đây mà bị một phát “ô” thì
sầu đời vô cùng.
- Ô che nắng che mưa, gì mà
rầu.
- Không ! Cái ” ô” kia cơ !
- Ô trong này ăn cực ăn khổ thế
mà cũng phạm cái “ô” đó nữa sao?
- Cả hai cái, “ô” này dẫm lên
chưa rút chân ra khỏi lại dẫm lên “ô” nọ. Có thằng dẫm một, có thằng dẫm cả
hai. “Buồn tình quê” lắm ông văn sĩ xã nghĩa ơi! ông về đây thì nên mau mau xin
xuống đồng bằng mà công tác đi thôi. Ở trên này chẳng có đề tài đâu.
- Đi đâu bây giờ?
- Ông ở Bến Tre thì về viết
Đồng Khởi. Ông Bảy Cò thì đi sông Cửu Long viết Giao hưởng số hai như ông đã
từng tâm sự với tôi.
- Còn ông ở đây à?
- Ở đây thì sớm muộn gì cũng
kênh cần cổ lên đội “dưa hấu” thôi, nhưng nếu đi hết thì ai thường trực? Tôi
với thằng họa sĩ Đức kia kìa được phân công ở lại thường trực.
- Đức nào ?
- Đức cháu họa sĩ Huỳnh Văn Gấm
đại biểu quốc hội hồi 46 đó!
- Ủa… Thế à !
- Ông ra ngoải có gặp ổng
không?
- Có chớ đi họp gặp hoài, ổng
có minh họa truyện của tôi đăng trên báo nữa.
- Nhưng mà nói chuyện với ông
họa sĩ này thì nên chú ý nghe !
- Tại sao ?
- Nó toàn dùng ngôn ngữ đặc
biệt không hè.
- Thí dụ như gì?
- Thí dụ như đi săn khỉ, cà khu
thì nó gọi là đi săn Tổ Tiên. Đi bệnh xá thì nó gọi là đi Diêm Vương, uống
kí-nin nó gọi là “thỉnh thị”, trà hiệu con khỉ nó gọi là con khỉ hộc máu… hoặc
con khỉ có tháng.
- Anh ta có định nghĩa “Rờ” là
gì không? Tôi cứ nghe nói rờ, rờ, mà không hiểu rờ gì !
Ba Mực nói:
- Tôi không hiểu cũng không rõ
nó có từ đâu. Ai đặt cho nó từ thời nào? Tụi tôi nói riết quen miệng, thành
thói quen luôn. Cũng như chứ “I”. I ngắn ông hiểu không. Chẳng hiểu tại sao
người ta không gọi là Khu Tư, Khu Ba, Khu Tám, Khu Chín như thời chống Pháp, mà
lại gọi là “I.” I Tư là khu Tư tức Sài Gòn Chợ Lớn. I Ba là khu 9. I Hai là khu
8 cũ. Rờ có lẽ là một tiếng lóng lấy từ câu “Rờ Râu, Râu Rụng, Rờ Rún, Rún Rung
Rinh” chăng?
- Không phải!- Hoàng Việt cãi
lại-. Rờ là “Ròm Rỉn Rầu Rỉ Rét Rên Rũ Riệt Rã Rời.”
- Vậy mình xài cái tiếng mà
chính mình không hiểu à?
- Có nhiều tiếng quái gở hơn
thế nữa cơ.
- Như tiếng gì ?
- Ví dụ như tiếng “Học.” Mình
dùng tiếng này một cách phổ thông là: Tôi đi học, học trường nào. Phải không?
Thế nhưng nếu ông xuống đồng bằng thì ông nghe các ông tỉnh ủy nói: “Tôi đi học
cho các đồng chí cơ quan ! ” . . .
- Nghĩa là sao ?
- Nghĩa là “tôi đi dạy cho các
đồng chí cơ quan một bài gì, một chỉ thị nào của ở trên!”
- Tiếng gì lạ vậy ai mà hiểu
cho nổi.
Ba Mực cười khè khè hiền hậu:
- Ở trong này nó toàn ngược
ngạo như thế. Anh ở đây hoặc xuống đồng bằng rồi sẽ thấy. Không có giống bất cứ
sinh hoạt nào hồi kháng chiến hết.
- Thí dụ coi.
- Thí dụ như tất cả sinh hoạt
đều về đêm. Chợ họp đêm, mít-tinh đêm, đi đêm, ngủ ban ngày và ở hầm bí mật. Ở
rừng này cũng vậy thôi. Chúng ta chỉ sống về đêm, chỉ hưởng được sự yên ổn về
đêm. Nhưng bây giờ đêm cũng không còn yên ổn nữa.
- Tại sao ?
- Trên rừng thì bị B52. Đồng
bằng thì bị trực thăng. Thằng Mỹ này ác gấp ngàn lần thằng Pháp. Khi nó đã đánh
thì nó đánh triệt để. Đại khái như nó bỏ bom nhé. Bom bỏ xong, đến pháo bắn.
Pháo bắn dứt trực thăng đến tỉa. Ba cuộc tấn công liên tiếp không cho mình ngóc
đầu dậy.
Ba đứa đã nhậu hết rượu và khô.
Kẻng cơm khua leng keng vừa đủ nghe. Ba Mực đứng dậy:
- Để tôi đi lãnh khẩu phần !
Đoàn tiên nữ tắm suối lại vừa
cười rúc rích vừa dẫm lên lá nát trở về.
Ba Mực nói:
- Chừng vài bữa nữa bọn đực rựa
các anh sẽ câm hết.
- Sao vậy? Một nàng gắt yêu.
- Tụi anh ở dưới nguồn chứ sao.
Hà hà hà…
Hoàng Việt đỡ giùm các cô:
- Bậy nào, uống nước tiên tắm,
giọng hát mới thanh tao chớ.
- Mấy anh ngày nào không ghẹo
tụi em là mấy anh bị sốt hả?
- Đâu tui có ghẹ… ẹo gì. Các em
chê tui xấu xí mà!
Hoàng Việt tiếp:
- Đứa nào sôlô Xuân Chiến “Xĩ”
đâu, vô đây tác giả thưởng miếng khô dê, ủa khô na..ai!
- Ảnh láu ăn lắm. Hôm nọ ảnh
săn được con nai, ảnh vác ngang đoàn tụi em, ảnh không đi đường mòn mà cắt
đường mới, sợ tụi em xin một đùi.
- Ai mà sợ ! Xin một đùi cho
liền, sợ bắt nguyên con chớ.
Thu đứng xa xa nhìn tôi qua vai
các bạn. Bây giờ tôi thấy khó gặp nàng. Có lẽ nàng cũng muốn nói gì với tôi
nhưng không tiện đứng lại. Cho nên khi các cô kéo nhau đi thì Thu cũng chỉ giơ
tay vẫy nhẹ tôi rồi quay lưng đi.
Ba Mực nói với theo:
- Mai anh bắn cho con tổ tiên
nhé.
- Con tổ tiên là con gì ?
- Là con tổ tiên ở trên ngọn
cây kia chứ con gì.
Hoàng Việt kêu giật lại:
- Ấy Thu ! Trở lại anh Bảy gởi
bài hát của anh về cho chị Ba phân công cho em nào dượt trước đi. Mai anh sẽ ra
duyệt.
Có lý do chính đáng, Thu quay
lại. Ba Mực xách gà-mèn lãnh cơm, vừa đi vừa hát:
“Chiến sĩ ta ngồi đâu ngủ
đó…đó… !”
Hoàng Việt hỏi Thu.
- Thế nào? Thằng kia chơi đểu
rồi hả?
Thu cúi xuống lí nhí trong
miệng:
- Chuyện của người ta, em không
để ý.
- Giỡn hoài ! Không để ý mà leo
hết dãy Trường Sơn vào đây !
- Em đi công tác chớ !
Hoàng Việt cười khẩy:
- Ờ, không để ý thì đừng có nhờ
anh Bảy giúp đỡ nghe ! Muốn nói gì, nói một câu đi ! Kỷ luật đoàn gắt gao lắm.
Nay mai anh Bảy đi đồng bằng, ở trên này không có ai hiểu em đâu.
Thu đứng trơ trơ không nói gì .
Hoàng Việt quay sang tôi:
- Nam Bắc chừng nào thống nhất
một nhà hả mậy?
Tôi rót miếng trà đưa cho Thu:
- Em uống tí trà chặn cứ sốt
chút đi. Em cứ tự nhiên. Chúng ta vẫn là bạn.
Hoàng Việt gắt:
- Bạn gì? Bạn đường, bạn đời
hay bạn trăm năm. Năm bảy thứ, thứ nào? Không được nói bạn này mà ra bạn nọ.
Tao thấy mày nên quyết định đi. Tình hình địch găng lắm. Mày không còn thì giờ
để nhởn nhơ như ở Hà Nội nữa đâu. Thằng Anh Đức nó khôn đấy. Vô đây là quèo con
nhỏ vô đám cưới liền. Nhảy pa-dô-đớp luôn đi, ở đó mà rà rê tango!
Tôi uống trà cầm chừng chờ xem
Thu tỏ thái độ ra sao. Nhưng dù thái độ của Thu sao đi nữa, tôi cũng không thể
đi tới bước nào. Vì hiện đang có một người con gái Nam Bộ từ Hà Nội vào đây. Chắc
Thu dư biết điều đó. Cũng như Thu biết tôi đã hứa với Phương…
Thu đã hớp hết chén trà và trao
cái bát cho Hoàng Việt. Hoàng Việt gắt:
- Trà ngọt không?
- Em không biết nữa! Thu lắc
đầu và hơi nhếch môi.
- Đắng à?
- Không.
- Không ngọt cũng không đắng hả
em? Không có trà ngọt hay trà đắng! Nó đắng hay ngọt là do cái lưỡi của mình.
Thấy Ba Mực xách cơm về, Hoàng
Việt chạy ra đỡ tiếp, đứng rù rì rồi rẽ vào một lối mòn đi sang chòi khác.
Lạnh lùng, Thu đứng dậy cáo từ.
Tôi hỏi:
- Em có hay Phương đã hy sinh
chưa?
- Hồi nào? Thu kêu lên – Anh
bày đặt hả?
- Thiệt mà.
- Các anh là ghê gớm lắm.
- Anh không đùa đâu. Chốc nữa
hỏi Hoàng Việt thì biết !
Thu sững sờ. Tôi cũng lặng
thinh. Và không hiểu mình nói ra chuyện đó để làm gì trong lúc này. Để cho Thu
yên trí rằng tôi không còn vướng bận ai nữa chăng? Tôi đã đi tới với Thu một
cách bất ngờ.
Thu gạn hỏi thêm. Tôi cho thêm
chi tiết về vụ phục kích ở Eo Máu mà kẻ sống sót là Thiệp chồng của Xuân Anh.
Thu hỏi:
- Chị Xuân Anh bị bắt à?
- Thì như thế đó. Truyền đơn bay
xuống từ phi cơ và tiếng loa nghe rõ ràng.
- Rồi anh Thiệp ở đâu?
- Thiệp định đi vào luôn với
anh, nhưng sau khi nghe tiếng nói của vợ thì nằm nín lại đó…
- …Để làm gì?
- Ai biết ! Đau chân thì há
miệng vậy thôi chứ còn biết làm gì !
—>Chương 4
- 4 -
Tôi chẳng ngờ rằng tôi sống lại cái không khí lều trại ở Tây Nguyên mấy tháng
trước. Cái làng đó không biết còn hay bị máy bay quét sạch thiêu rụi rồi. Tôi
về đến R là một việc không thể hiểu. Tôi cố nói câu gì để xua đi mùi tử khí
trong chuyện tôi vừa gợi lại, nhưng Thu đã nói ngay một cách chán đời cực độ.
- Chết thì vô lý mà sống thì vô
ích.
- Sao Thu lại nói thế. Chết thì
hy sinh cho cách mạng, còn sống thì phục vụ cho cách mạng chứ!
- Anh nghĩ thế thật không? –
Thu bĩu môi.
Cái lập trường của tôi như ngọn
cỏ bị phạt chân nhưng còn gượng:
- Không nghĩ thế thì còn nghĩ
thế nào nữa ?
- Em cảm thấy em là một ký sinh
trùng chết dở mà sống cũng dở. Tệ hơn nữa, một ký sinh trùng bị ký sinh trùng
phản bội !
- Thu định làm gì bây giờ?
- Em đâu có định làm gì. Mà có
muốn làm gì cũng không được.
Chúng tôi lặng thinh một chập
lâu. Tôi nghe câu nói của Thu như một mũi tên bắn vào tim tôi. Tôi là kẻ phản
bội Thu ? Tôi đâu có non thề biển hẹn với Thu ! Chúng tôi chỉ là bạn đồng hành.
Chúng tôi chỉ tựa vào nhau để cho đôi tim không phải chịu quá nhiều đau đớn khi
lăn lóc trên mặt núi đá Trường Sơn. Tôi biết Thu vào đây để gặp người yêu và
Thu cũng biết tôi yêu Phương, bạn đồng nghiệp của Thu.
Tình yêu đến bằng bước chân
nhung không ai biết được. Đôi khi mình tự nhủ lòng rằng không nên nhưng rồi vẫn
cứ. . .
Tôi không trách. Thu. Khi người
ta đau khổ thì người ta có quyền đổ lỗi cho bất cứ ai, nhưng khi người ta yên
vui hạnh phúc thì người ta không để ý đến những ai đau khổ vì mình.
Thu ngồi lại một chốc rồi đứng
dậy, chua chát:
- Bây giờ em mới hiểu một điều
ghê gớm.
- Điều gì ?
- Cách mạng là một lý do chính
đáng để những kẻ phản bội vin vào làm phản.
- Nghĩa là thế nào ?
- Em cũng không hiểu nghĩa là
thế nào cả.
Đám bạn của Thu đã đi xa, nhưng
còn một cô ở rốn lại có ý do thám. Cô ta bảo:
- Mình chờ Thu nãy giờ.
- À, thế hả ? Thu có vẻ mất tự
nhiên, tự bào chữa – Mình chờ anh Hoàng Việt đi lấy bản nhạc đem về cho chị
Thanh Loan.
- Bản gì?
- Anh ấy mới sáng tác.
- Bản Tình Rừng Rú. Nhịp Valse,
hay lắm ! Cô nào sôlô bản đó sẽ nổi tiếng ngay tức khắc! – Tôi hơi cáu, nói một
hơi dài. Nhưng nhìn ra thì đó là một cô bạn quen từ Hà Nội: Kim Ly.
- Kim Ly ? Tôi cười – Nè, có
nhắn gì thì tôi nhắn giùm cho chứ làm bộ chờ chi cho mất công.
Kim Ly cười:
- Sao anh biết em nhắn ai ?
- Tôi còn biết thấu chuyện gì
nứa cơ.
- Thôi mày có nhờ gì thì nhờ
quách đi. Để có người tới rồi mất dịp tốt. – Thu cười bảo Kim Ly, yên tâm rằng
có kẻ chung xuồng.
- Còn mày. Mày đã nhờ chưa?
- Tao không cần gì cả !
Thấy hai cô đùa nhau có vẻ gay
gắt, tôi xen vào:
- Thằng bạn tôi nó sắp sửa đi
đồng bằng đấy, Ly viết thư đi, tôi chuyển giùm cho. Bảo đảm bí mật trăm phần
trăm.
Kim Ly có hôn phu ngay bên
cạnh, cả hai đi vào Nam trước chúng tôi. Hai bên cứ sống song song với nhau.
Thiếp đâu chàng đó suốt từ Hà Nội vào đây nhưng không chịu dứt điểm cho rồi. Vỡ
nhẽ ra là nàng không yêu chàng mà không nỡ dứt đường tơ.
Chàng thì như kẻ nô tỳ lúc nào
cũng sẵn sàng quì gối dâng trái tim cho nàng. Chính vì thế mà nàng lại không
nhận. Một thứ tình yêu van xin. Chàng là “nhà quay phim” tài liệu còn nâng là
diễn viên điện ảnh đẹp nhất nhì Hà Nội. Nàng đòi hỏi phim truyện, phim tình
Othello, phim yêu say đắm, phim trên trời dưới biển nhưng chàng thì chỉ có khả
năng dí ống kính vào các nhà máy, hợp tác xã hoặc vào mặt mũi những anh hùng
chăn vịt, làm phân xanh. Hai tâm hồn, hai ước mơ. Con đường Trường Sơn đã có
một lúc là ngã rẽ nhưng rồi không hiểu sao họ vẫn còn song song tồn tại .
Thằng bạn tôi là một nhà văn
trẻ nhất và có tài nhất, sáng chói nhất của Hà Nội lại là uỷ viên Ban Chấp Hành
Hội Nhà Văn. Ở Hà Nội, một hôm bất ngờ tôi bắt gặp nàng đến phòng thằng bạn
tôi. Chúng tôi ở chung nhà, phòng chỉ cách vách, một tấm vách để lọt những âm
thanh chứ không lọt ánh sáng. Vô đến đây tưởng dứt ai dè chưa.
Tôi bảo Kim Ly:
- Nó đang sốt, có gì cho nó tẩm
bổ không?
- Có, anh đem giùm cho ảnh nhé.
- Đem thì đem.
- Anh không sợ bị kiểm thảo à?
- Tôi chưa biết sợ cái gì cả
ngoài sốt rét.
- Người ta vừa bị kiểm thảo
đấy.
- Ai ?
- Anh hỏi sẽ biết.
- Ai kiểm thảo tôi, tôi kiểm
ngược lại cho bỏ mẹ.
Thu xen vào:
- Anh lại nói cái giọng ngang
như cua nữa rồi !
Kim Ly liếc Thu:
- Thế mà có kẻ yêu gần chết đấy
mày ạ !
- Ai yêu ảnh ?
- Có chứ. Mày muốn biết không
tao chỉ cho – Kim Ly tiếp – Gái Bắc yêu mấy anh Nam là vì cái kiểu nghênh ngang
của các ảnh. Nếu tao là Bắc tao cũng thế.
Tôi bảo:
- Nam Kỳ chỉ được cái du côn ai
yêu họ thì đó là người khùng.
Hoàng Việt và Ba Mực về tới.
Kim Ly cười như nắc nẻ:
- Trông hai anh nhạc sĩ em tức
cười “oá” hè !
- Trông thấy chỗ nào của hai
anh mà cười ? Hoàng Việt hỏi gặn.
- Thì chỗ đó đó ! Chớ còn chỗ
nào nữa? – Ba Mực nói hớt.
Kim Ly úp mặt vào vai Thu cười
sục sục:
- Một ông thì giống chủ nhiệm
Hợp tác xã còn một ông giống công nhân đẩy xe ba gác bến Phà Đen.
- Bậy nào – Tôi gạt ngang – Một
ông giống ma Hời một ông giống ma Miên.
Hoàng Việt cười:
- Kệ tui, ma gì ma miễn tui có
khô nai và rượu Tây nhậu thôi. Nè, cô Ly chừng nào đám cưới? Ăn giầu cau lâu
rồi. Hồi tôi mới đi nước ngoài, tới bây giờ tôi về nước, về Rừng rồi cũng chưa
cưới nhau còn đợi chừng nào? Đợi anh về, anh có đi đâu mà đợi!
Kim Ly đáp giống như tài tử
xi-nê:
- Em đâu có đợi. Cái em đợi đã
không đến. Cái đến lại là cái em không đợi !
- Ba Mực ! Chú mày nên nhường
chỗ trong Hội Văn Nghệ Giải Phóng cho cô ấy đi !
- Tôi đâu có nằm hoặc đứng ngồi
gì trong Hội đâu mà bảo tôi nhường. Tôi đảm nhiệm việc săn khỉ mà.
Hoàng Việt nói:
- : Thôi, ai có sứ “miệng” cao
cả gì thì trao đổi đi, kẻo đóng trong chòi tôi lâu quá rồi người ta đồn tiếu
tùm lum oan cho tôi lắm.
Kim Ly nguýt ngang:
- Anh muốn đuổi tụi em thì nói
đi chứ ai đồn tiếu gì anh. Anh gần có cháu nội rồi ai không biết. Còn chú Ba
thì là chủ tịch hội sồn sồn của R, tụi em kêu bằng chú mà !
Hoàng Việt trỏ tôi:
- Thằng này có kêu bằng chú
không? “Chú” với “chó,” hai chứ đó chỉ khác nhau cái chứ “u.”
Kim Ly nói:
- Có người trong đoàn vừa đi
qua bên Bộ Chỉ huy về mang một cái tin có liên quan tới ảnh nên em trở lại cho
ảnh hay. Vậy mà ảnh nghi em do thám con Thu !
- Tin gì ? Tôi hỏi – mà có liên
quan đến tôi ?
- Người bạn của anh đang sửa
soạn đi vô.
- Bạn nào ! Tôi có cả trăm,
biết thằng nào ?
- Đây không phải là thằng đâu!
– Kim Ly cười khúc khích.
- Không phải ông cũng không
phải thằng.
Hoàng Việt biết là tin gì nên
nháy Kim Ly một cách kín đáo. Có lẽ Kim Ly không biết quan hệ giữa tôi với Thu trên
đường Trường Sơn, hoặc biết mà vì lý do gì đó cứ nói phứa ra.
- Anh có quen với ai tên Nguyệt
không?
Tôi suýt nhảy nhổm như bị kim
chích, nhưng bấm bụng ngồi bình tĩnh. Tôi giả bộ reo lên:
- . Tưởng ai chớ cô…ô ấy thì
tôi que…en!
Kim Ly hỏi tới:
- Quen thế nào ?
Hoàng Việt biết sự đời đã vở
tung ra rồi, nhưng còn cố đỡ giùm tôi: – Cái cô đó hả? Tôi biết rồi. Ở Văn Công
cũ của tôi hồi trước, nhưng ra Bắc lại bị rau muống quấn mất.
Kim Ly nói tới:
- Làm gì có vụ gái Nam Kỳ bị
rau muống quấn ! Có mấy ông Nam Kỳ bị bánh đa quèo thì có ! Anh tưởng em không
biết chị Nguyệt hả. Để em kể lại vụ rau muống quấn chỉ cho anh nghe. Rau muống
thấy dưa hấu ngon thì ham nhưng có quấn được không chứ?
Hoàng Việt sợ vỡ to hơn nên tạt
ngang:
- Thôi cái gì đã qua thì cho qua
luôn. Bây giờ mình ở rừng hãy nói chuyện rừng, phải không ông bạn Xuân Chiến
Sĩ?
Tôi để ý thấy Thu đổi sắc mặt.
Thu đứng lặng ngắt sau cây cọc lều tự nãy giờ. Thu nói hơi cộc:
- Đi về đi Ly ! Tớ đang nhận
vai vũ trong tác phẩm của ông Thái Minh.
Kim Ly đã ra đi còn quay trở
lại nói với tôi:
- Hôm nào có tin thêm em vô cho
anh hay nghe !
Đợi cho nhị vị tiên cô đi
khuất, Hoàng Việt lắc đầu:
- Bể nữa rồi !
- Chậc, con quỷ cái ! – Tôi
chép miệng.
- Tao tính bụm mà không kịp.
Con nhỏ kia đoán ra rồi chứ gì. Thế nào nó cũng cạch con Ly, không có giống gì
lại bí mật được.
Ba Mực cười khà khà:
- Nói vậy ông anh cũng đã hát
bài Tình Ca của anh Bảy dọc Trường Sơn ?
- Nó lúc nào cũng hát. Hát song
ca, hát chùm một lúc “ba bè” cơ đấy ông ơi ! – Hoàng Việt kể chuyện Phương và
tôi trong trường đi B, chuyện Nguyệt gặp lại tôi cho Ba Mực nghe.
Ba Mực lại cười hồn nhiên với
Hoàng Việt:
- Tại anh chớ sao !
- Tôi có xúi nó đâu. Tôi còn
ngăn nó nữa là đằng khác! Đi đường ráng giữ gìn ba cái sức khỏe để lúc bị Fulro
phục kích thì còn đủ xí quách mà chạy. Nhưng nó có nghe tôi đâu. Hết vụ này tới
vụ khác. Hoàng Việt chép miệng. – Mà nghĩ cũng kỳ, không biết tại sao đám con
gái tới với nó hoài hoài. “Chất nhờn” ở Trường Sơn hiếm thế mà nó lại có thừa.
Ba Mực trở ra bụi cây lấy ba
cái gà-mèn cơm đem vô lều rồi nói:
- Hắn học tập anh chớ sao anh
Bảy. Anh đã viết trong Tình Ca: … “Vượt băng băng qua đêm tối tìm hương hoa
mà!”. Anh nói sao làm vậy phải không?
- Tôi tu lâu rồi !
- Vâng, anh Bảy tu lâu rồi ông
Ba Mực ạ! Bây giờ mà có ai qua Bungari sẽ tìm thấy dấu vết của anh tu với mấy
cô vãi tóc vàng trong rừng thông ở mấy cái am Píc-níc !
Ba Mực banh cơm ra. Tôi liếc
thấy mà ngao ngán. Ba Mực biết ý nói:
- Để tôi nấu miếng canh lua mới
vô.
- Canh gì ?
- Canh bột ngọt.
- Ừ nấu đi ? Hoàng Việt giục !
Ở đây tuy thua Hà Nội nhưng còn sướng gấp trăm lần Trường Sơn. Đ.M. ở đường dây
đang nấu cơm, giao liên nó bảo đi cũng phải cuốn bếp đi !
Tôi leo lên võng nằm chờ Ba Mực
nấu canh.
- Con Kim Ly nó bảo ông Bảy nhà
mình giống chủ nhiệm Hợp tác xã là đúng đó anh Ba bày trẻ ! Con nhỏ có mắt tinh
đời phải biết !
- Mày định moi lý lịch của tao
ra hả mày thằng quỉ.
Tôi tiếp:
- Ảnh từng làm chủ nhiệm Hợp
tác xã rồi đó, anh Ba mày biết không?
Ba Mực đang thổi lửa khói bốc
mịt mù, quay ra gắt:
- Hợp tác xã sáng tác nhạc à?
- Không ! Hợp tác xã nấu cao
khỉ ! Tôi cười to khoái chí: – Ảnh đã từng nấu cao khỉ suýt thành công ở đường
Trường Sơn kia dấy! – Tôi kể luôn vụ bắn khỉ với thằng Phẩm, người trồng cây
mận Quảng Bá ở hốc núi Trường Sơn cho Ba Mực nghe rồi kết luận – Bây giờ xin
đổi lại “Cao Tổ Tiên” cho hợp lý với cuộc sống trong này.
Ba Mực kêu lên:
- Có vụ đó nữa sao?
- Thì ông chủ nhiệm còn đó, tôi
có bịa tạc đâu!
- Rồi có kết quả không anh Bảy?
Ba Mực hỏi.
- Tao nấu ba bốn trạm liền,
xương vẫn còn nguyên nên quẳng đi cho nhẹ.
Ba Mực nói:
- Hổng chừng vụ đó trở thành
sáng kiến ở đây nghe. Từ trước tới giờ ăn thịt tổ tiên xong, hài cốt quăng hết
ráo. Uổng quá ? Để tôi đi bắn một con về nấu cao tẩm bổ chơi.
Nước sôi, Ba Mực lấy bột ngọt
và ruốc nai bỏ vào quậy quậy rồi nhắc xuống đất:
- Canh bột ngọt là vậy đó !
- Không có chút rau gì sao?
- Rừng bạt ngàn rậm rịt, nhưng
không có cái lá gì ăn được.
- Ở dọc khư 6 có lá “bép” và
đọt cây “dớt” ăn đỡ khổ lắm. Ở đây không có hai thứ đó à?
- Không có gì cả ngoài lá “bờ
lờ”.
- Bời lời hả?
- Không “bờ lờ.”
Hoàng Việt cười như nắc nẻ:
- Quanh đi quẩn lại thì cũng
cái… lờ.
- Không. Bờ lờ là Bàng Lăng,
tức là cây thao lao ấy mà! Lá nó đẹp nhưng đó là đề tài vẽ tranh chứ ăn không
được
- Ở Tiểu ban mình có ai vẽ
chưa?
- Có ba ông họa sĩ nhưng một
ông là chuyên gia bửa củi, một ông suốt tháng cứ sốt, còn một ông thì chê rừng
không có ánh sáng nên đòi móc đất sét nặn tượng cà khu. Nghệ thuật ở đây vẽ
bằng nước cơm sôi và màu vẽ là gạo, nhạc là tiếng kêu của muỗi đòn xóc và thơ
văn là những bài kiểm thảo dài cả chục trang giấy.
Hoàng Việt cười hắc hắc:
- Mấy trang thì mấy nhưng anh
đây thấy cái gò má láng lẩy của mấy em, anh muốn dẫm bừa lên một cái ô cho biết
mùi cay đắng chút chơi !
- Anh có để ý thấy trong các
tiên cô có một nàng cổ cao ba lóng, ngực tròn vung vung không? Hề.hề… đó là cô
Miên lai, Văn Công ta mới tuyển vào đoàn.
- Thấy rồi. Nhưng cô nào lại
ngực không vung không tròn?
- Tròn nhất, vung nhất cơ! Đó
là đề tài của một bài thơ dài vừa mới xuất bản.
- Thôi Mực ơi ! Chuyện của Văn
Công cậu đem vào đây rủi thằng nhà văn nổi hứng nó ra ngoài đó “nghiên cứu”
nhân vật thì mình lại ngồi đau xương sống đấy.
Tôi hỏi:
- Đó là một bản song ca phải
không? Giọng Soprano thì là nàng Miên lai còn giọng Ténor là ai?
Ba Mực nghiêng qua nói vào tai
tôi. Tôi kêu lên và ngồi sững sờ hồi lâu.
- Tôi thật không ngờ.
- Ai ngờ nổi ! Ai mà ngờ một
chuyện như vậy lại xảy ra. Nếu nó trống chân thì cơ quan cũng xử nhẹm thôi,
nhưng ngặt một nỗi là con nhỏ đã có chồng. Chồng nó đang đi công tác bên vùng
biên giới. Nghe chuyện tùm lum nó về ngay.
- Đường dây luộc nào đánh tin
đi mau vậy?
- Nó có con em gái làm thơ
trong tiểu ban mình nè. Con nhỏ cho anh nó hay ngay. Đ.bà! Cơ quan vỡ lở còn
hơn ăn B52. Nó là Việt kiều mà ! Thành ra phạm chánh sách to !
- Thôi Mực ơi ! Nói chuyện khác
đi. Cứ nói ba cái chuyện Bờ… lờ đó hoài nghe mệ…ệt quá!
- Đó là đề tài chính mà. Chỗ
nào có Bờ lờ mình mới sống được.
- Kệ nó, kể nghe chơi để rút
kinh nghiệ…êm ! !
Ba Mực lua hết mớ cơm, rót canh
vào nắp gà-men húp lia lịa, hà một cái, thở phào:
- Hồi nãy bỏ ớt hơi quá tay nên
cay quá ! Hít hít hà ! – Ba Mực tiếp – Thằng chồng nó về có vẻ bình thản lắm.
Nó không tỏ vẻ gì cả. Nó lại còn tuyên bố: Chuyện đó chẳng ăn thua gì. Ở trong
rừng khủng hoảng sinh lý nên ai cũng thế thôi. Tôi về là vì xong công tác.
- Thằng ngon hả ! Tôi gật gù
bảo.
- Khoan khoan đã! Nó cao tay ấn
thật đấy. Thấy thái độ cao thượng của nó, ông Ténor nhà mình bèn mời nó đến để
xin lỗi. Xếp cơ quan mà đi xin lỗi thằng nhân viên, kể cũng hiếm có.
- Thằng chả cũng ngon chớ! Dám
làm sai, dám nhận lỗi !
- Khổ thay nó không để ông
Ténor nhận nhiếc gì. Nó quết cho ổng một nhát.
- Nhát gì ?
- Cũng may là nó không chơi
theo du côn Cầu Muối ! Nó chỉ dùng cây… Bờ lờ ủa gỗ Bờ lờ..
- Mày cứ xài cái chứ đó hoài !
- Rồi sao ? – Tôi hỏi .
- Thì vậy đó chứ còn sao nữa !
Do đó mà ở ngoài Bắc mới đưa ông chủ trại cưa Kim Hữu vào thay chứ gì ?
- Ông cũng biết danh từ trại
cưa Kim Hữu nữa à .
- Biết chứ. Ông Tám Năng nhà
mình chớ ai !
Tôi gác tay lên trán thở dài.
Hoàng Việt nói:
- Trường hợp của mày khác mà !
Thằng kia đã có con nhỏ Cải lương cải liếc gì đó cho nên con Thu trống chân. Mà
mày với nó đã quan hệ “mật chì” với nhau rồi.
- “Mật chì” là mật gì ? – Ba
Mực gặn ngay.
- “Thiếc” với “chì” cũng thế
thôi. “Mật thiếc” cũng như “mật chì”!- Hoàng Việt tiếp: – Mày nên báo cáo với
tổ chức đi thôi, để Văn Công nó xây dựng cho mày. Mày tới lui rù rì dưới bóng
mát Bờ Lờ không có ai trành tròn gì mà cơ quan cũng đỡ phải thả do thám theo
rình mò.
- Anh biết vụ tôi với con Nguyệt
mà anh Bảy. Nguyệt đã hứa với tôi sẽ vô. Bây giờ nghe tin. Nguyệt vô thiệt tôi
không thể làm gì khác hơn là chờ.
- Bao lâu?
- Không biết.
- Nó đã cho mày đi cầu tuột một
phát hộc máu ra đằng đít rồi, bây giờ lại thủy chung.
- Chuyện đó là do cơ quan, đâu
phải cô ta muốn.
- Mày luôn luôn tin miệng con
gái, suốt đời sẽ không ngóc lên nổi vì con gái. Ba mươi ba tuổi rồi. Người ta
có con hồi mười tám, mười chín tuổi là thường. Mầy còn ở đó ôm ống đồng của
Thoát Hoan mà thác oan !
Tôi lại thở dài. Quả Hoàng Việt
nói đúng. Tôi cứ chạy theo chữ thủy chung rốt cuộc chẳng sờ được cái vòi của
nó. Khi tôi giữ trọn thì người ta bẻ gãy nó ra, còn khi người ta giữ yên nó thì
tôi lại đành ngoảnh mặt đi, còn khi cả hai đều chung thủy với nhau thì một đứa
lại chết. Như trường hợp Phương hy sinh ở Eo Máu vừa rồi. Ba mươi ba tuổi chưa
phải già nhưng không còn trẻ. Có vợ có con là đã muộn lắm rồi. Nhưng tôi cứ bị
tình cảm gàn cản. Cái đã dứt lại nối như trong tiểu thuyết…
—>Chương 5
- 5 -
Nằm nói chuyện trời trăng với ông
nhạc sĩ Ba Mực một chập, tôi ngồi dậy vác gậy ra về. Ông Tư Mô là người bạn
“chung lều” với tôi. Từ hôm ông Hai Tân, phó ban tuyên huấn cho tôi hay rằng
tôi được ở trên chấp thuận cho đi đồng bằng, tôi đến ở chung lều để bàn việc
hành quân với anh. Anh là nhà thơ từ đầu kháng chiến, có nhiều bài đăng báo mà
tôi chép trong tập “lượm lặt” của tôi. Đời Tư Mô là cả một chuỗi éo le chua
xót. Anh cỡ tuổi với cậu với chú tôi, học cùng trường với chú tôi và đi kháng
chiến với cậu tôi.
Khi tỉnh Bến Tre bị lực lượng
UMDC (Unités Mobile de Défense Chrétienne) của Một On tức là Thiếu tá Le Roy
người Tây lai ở An Hóa, chiếm đóng, anh Tư và gia đình chạy xuống miền Tây,
tỉnh Rạch Giá ở đậu với một người nông dân trong Rạch Cái Nhào. Anh và chi Tư
mới có đứa con trai đầu lòng tên là thằng Lê. Cậu bé còn ẵm nhưng bị bịnh xụi
hết một tay, hình như tay mặt (bây giờ nó đã ba mươi bảy tuổi và đã có con).
Hai vợ chồng đi mua dừa khô và đường mía (bà con thương tình bán rẻ) về làm mứt
dừa đi bán cho các quán cóc trong vùng giải phóng. Khu giải phóng thời kháng
Pháp rộng ba tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng chèo xuồng đi mệt không hết chứ
không phải như thời đánh Mỹ không có lấy một cái chợ làng. Nhờ cái “lò” kẹo dừa
này mà chị Tư đã nuôi được chồng con. Tang thương thay, một người có bằng cấp
Tú tài (thời đó đâu có nhiều! Đốt đuốc kiếm cũng không ra) mà phải đi mua từng
trái dừa khô và từng kí đường mía !
Hồi đó tôi mới bắt đầu viết
báo, làm phóng viên đi theo bộ đội trong các chiến dịch hoặc những trận đánh lẻ
tẻ của chủ lực hoặc của bộ đội địa phương và du kích, nhưng hăng lắm. Chính anh
đã dịch bài thơ Attends-moi (Đợi anh Về của Simonov và chép một bản đưa cho
tôi. Sau này khi ra Hà Nội tôi so bản dịch của anh và bản dịch của Tố Hữu thì
thấy chẳng kém tí nào, nhưng không hiểu sao anh không được Tố Hữu gọi ra Bắc
như anh Phạm Anh Tài (Sơn Nam).
Hòa bình sau Giơ-neo đã là một
cái nạn cho anh. Anh về Sài Gòn bị ông Diệm bắt. Rồi tù. Tập kết là một chánh
sách mọi rợ và ngu xuẩn. Nó được Sơn Nam phê phán như sau: “Một đám đi, một đám
ở lại bị đám đi trói quăng vô chuồng cọp.” Cái chánh sách này đã phá nát hằng
triệu gia đình cán bộ và quân đội kháng chiến chống Pháp.
Theo anh Tư thì sau 54, cán bộ
cũ của Bến Tre bị “xúc” sạch vì tên tỉnh ủy viên thường vụ ra đầu thú và chỉ
điểm. Hắn tên Tuất. Đồng bào gọi là thằng chó.
Tôi biết hắn khi tôi còn làm ở
cơ quan Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh của hai anh Trần Chính và Mạch Văn Tư. Sau này
Cao Thái Tôn thay thế. Tên thật của hắn là Quang. Quang là cán bộ Thanh Niên
Cứa Quốc tỉnh không có gì xuất sắc nhưng vì sự thiếu hụt nên đưa hắn vào tỉnh
ủy. Hắn lấy một cô giao liên trẻ nên sợ bị kỷ luật và hai cu cậu dông luôn cho
được việc.
Anh Tư Mô được thả ra vào
khoảng 1960 là lúc manh nha có Mặt Trận Giải Phóng cái mà ông Diệm gọi là Mặt
Trận Côn Đồ. Tư Mô đang ngồi nhậu đầu cá ở Chợ Đũi thì có người tới quèo. Cột
kèo cũ không rủ cũng về. Thế là anh ra khu. Tưởng ngon lành: Ai dè ra khu anh
bị coi là tên đầu hàng phản bội, bị xử lý nặng nề trong đảng đến đỗi không còn
được coi như đồng chí mà chỉ là một nhân sĩ lô-can. Tư Mô buồn lắm, nhưng lỡ
tay trót đã nhúng chàm rồi, không còn làm gì được nữa. Đêm đầu tiên tôi gặp lại
anh, hai anh em nằm đâu đầu võng tâm sự suốt sáng.
Chuyện tù tội khổ ải và cay
đắng lắm, đã qua thì cho qua chứ nhắc lại làm gì. Anh cho tôi biết, anh có ý
định gả cô em cho tôi khi nghe tôi về gần tới.
Anh chưa biết gì về những
chuyện đây mơ rễ má của tôi khắp từ Nam chí Bắc, ngoài chuyện một người con gái
khác nữa. Cô này là đạo diễn kịch nói đã về trước trong Nam (cũng bằng đường
Trường Sơn) nhưng khi về tới R thì được ông Trần Bạch Đằng cho giao liên thành
đưa về Bạc Liêu quê cô ta. Cũng may, nếu cô còn ở lại Tiểu ban Văn Nghệ này thì
sẽ có một Đông Châu Liệt Quốc R.
Tôi về tới lều thì Tư Mô đang
ngồi chiên khô cá trèn hay cá mè gì đó. Mùi thơm bốc ngào ngạt. Anh bao giờ
cũng nấu nướng hoặc chế biến thức ăn “tùng cựu đáo tân” như anh nói, tức là
thức ăn “gốc” của nhà bếp lãnh về tanh lắm, thô sơ lắm, không thể để vậy mà ăn
được. Với bàn tay của anh nó sẽ thay hình đổi dạng phi thường. Anh là tay nấu
bếp rất có “gu” ăn uống giống như công tử. .
- Cơm chưa ?
- Tôi ké đằng chòi ông Bảy Cò
rồi.
- Tôi đang “ngào” lại ba con
khô. Có sum sum đây chú làm thêm ít miếng!
- Tôi nhậu đằng đó với ông Xuân
Chiến Sĩ rồi.
Tư Mô nói ngay:
- Coi bộ tình hình “găng
xi-măng” lắm nghe chú !
- Tình hình gì, anh?
- Ở trên cho biết là Mỹ sẽ mở
chiến dịch Johnson City.
- Chiến dịch Johnson City là
chiến dịch gì ?
- Đại khái đó là chiến dịch của
nó cũng như tụi nó có những cái tên chắc chú chưa nghe. Như Phượng Hoàng Vồ
Mồi, Bủa Lưới Phóng Lao v.v… vậy đó.
- Tên gì mà nghe ớn vậy?
- Về đồng bằng còn ớn nữa chú
em !
Bây giờ ngồi ghi lại cái quãng
thời gian trước CZ Johnson City tôi bỗng rừng mình. Nếu tôi không sớm quất ngựa
chuối thì có lẽ tôi đã theo ông theo bà. Chuyện đó cách đây ít nhất là hai mươi
bảy năm ! (1963-1990). Tình cờ một hôm tôi đi tìm một số các loại đá cho con
gái tôi làm bài về địa dư Texas, thì tôi đi ngang qua Johnson City nơi sinh ra
Tổng Thống Johnson.
Khi lái xe đi ngang qua tấm
bảng có chỉ mũi tên cho biết lối rẽ vào nhà của tổng thống, tôi vụt nhớ lại khu
rừng của R. Trong đầu tôi như có một sợi tơ ngàn dặm mà một đầu là khu rừng Tây
Ninh một đầu là nơi nhau rốn của người đẻ ra cái chiến dịch kể trên. Hai mảnh
đất này hoàn toàn xa lạ với nhau nhưng lại nhờ ký ức của tôi mà trở nên gần
gũi. Ghê gớm thay, tôi nghĩ vậy như một tia chớp. Nhưng tôi cũng chẳng biết là
cái gì ghê gớm và tại sao ghê gớm. Có lẽ là cái thằng tôi ghê gớm chăng? Tôi đã
đi từ đó đến đây. Đi từ cái hoang vu đến ánh sáng văn minh, đi từ đổ nát đến
kiến thiết, đi từ cái chết ra sự sống. Ghê gớm là vì thế chăng? Hai mươi bảy
năm một cái chớp mắt.
Tôi với Tư Mô bây giờ đã cách
nhau nửa quả địa cầu. Ai ngờ nổi chuyện đó. Vừa rồi (1988) nhân có người quen
đến Mỹ có cho biết Tư Mô vẫn còn sống và vẫn viết truyện. Tôi có tìm đọc được
một truyện của anh. Thì vẫn như thuở nào: giọng văn chua chát mỉa mai !
Bây giờ trở lại với Tư Mô ở
rừng Tây Ninh năm trước.Tư Mô nói tiếp:
- Ông Hai Tân bảo mình đi sớm
chừng nào hay chừng ấy. Vì khi nó khởi sự thì nó bao vây tất cả và chặt đứt mọi
đường huyết mạch mình sẽ không đi được.
Tôi chưa nếm bom đạn Mỹ nhiều
nên lơ lửng trả lời:
- Chừng nào anh đi thì tôi đi,
chớ tôi có biết gì !
- Chú lại đằng kho quản lý tìm
một đôi giầy bắt heo thủ sẵn đi !
- Chi vậy ?
- Lội Đồng Chó Ngáp.
- Đồng Chó Ngáp là đồng nào?
- Đồng Tháp Mười ! Nó nằm ở
tỉnh Kiến Phong Kiến Tường tức Mộc Hóa hồi trước.
- Nhưng giầy đâu ở đó mà tìm.
Dép Trường Sơn này không đủ hay sao ?
Tư Mô dọn cơm ra ăn một mình
còn tôi leo lên võng lắc lư. Cái lều lung lay như cái răng rụng của Tú Xương và
gầy guộc như Tú Mỡ tưởng chừng cây đu của Hồ Xuân Hương. Anh bao giờ cũng ăn
uống chậm rãi, tươm tất, dù thiếu thốn cũng có vẻ sang trọng phong lưu như
Nguyễn Tuân, chứ không ăn ẩu tả bạt mạng như tôi. Hễ đói bụng thứ gì ăn được
cũng nuốt càn.
Anh nhấm nháp rượu rót từ trong
một cái chai thuốc tây có nút vặn cũng do anh pha chế cho đúng miệng. Anh giải
thích tiếp về vụ giầy dép:
- Lội Đồng Chó Ngáp là giẫm lên
củi tràm lục, nó đâm lủng gan bàn chân, chú biết không? Cho nên phải có dép.
Nhưng dép không xài được. Vì lội lút bùn rút chân lên thì dép mắc ở dưới. Cho
nên phải mang giầy. Ràng rịt vô chân như cầu thủ đá bóng vậy.
- Trời đất! Tôi kêu lên – Lội
lầy mang giầy thì chỉ có mình thôi !
- Chứ ai mà kỳ cục như vậy
được. Nhưng nếu không mang giầy thì không lội nổi.
- Củi tràm ở đâu mà kỳ vậy?
- Tràm đâu thời Thiên Hộ Dương
ai biết !
- Rồi giầy ở đâu mà có?
- Thì tiếp phẩm họ mua để sẵn
cho ai đi đồng bằng thì sẽ “võ trang” cho. Hoặc những ông bà từ đồng bằng lên.
Ông bà nào có kinh nghiệm thì cũng thủ sẵn một đôi trong ba lô để cho Chó Ngáp.
Cơm nước xong lên võng “ru hồn”
với ma sốt. Đêm ở rừng thật là kinh khủng. Trẻ cũng hóa già. Vì nghĩ tới tương
lai thì mù mịt và là bịnh hoạn hoặc cái chết. Cho nên chỉ hồi tưởng là mang lại
chút ít an ủi mà thôi. Tư Mô ló đầu ra vách mùng hút thuốc và hỏi tôi:
- Chú năm nay bao nhiêu rồi ?
- Ba mươi ba.
- “Meo” lắm rồi. Chú là con một
phải không?
- Tôi còn một đứa em gái.
- Vậy là phải lo gấp !
- Nếu tôi biết đi ra Bắc mà lâu
vầy thì tôi đã rụt trở lại rồi.
- Chịp ! Ai mà biết trước cái
sự đời.
- Bố tôi đâu có cho tôi đi. Kể
cả kháng chiến cũng không. Nhưng tôi trốn đi, rồi đi luôn.
- Hồi đó ai cũng hăng. Bây giờ
ai cũng hết. Tôi lơ mơ suy nghĩ nhiều điều lung lắm. Chú đừng có nghe tôi mà bị
ảnh hưởng.
- Ảnh hưởng gì ?
- Lý lịch chú chưa bị “đổ mực
tàu.”
Tôi thở dài. Tôi biết đó là tâm
sự cay đắng của anh. Vô cộng sản hồi 48, kháng chiến mười năm ngon hơ. Hòa bình
bị bắt. Khi ra tù bị kỷ luật vì những chuyện không đáng gì. Bây giờ gặp tôi, có
lẽ là người hiểu gốc rễ của anh nhất nên anh mới nói tới câu đó. Tôi né đi vì
sợ động tới vết thương của anh. Tôi nói sang chuyện khác.
- Bây giờ mình tính cách về quê
đi anh. Anh xa quê mình bao lâu rồi ?
- Thì hồi UMDC của Một On chiếm
tỉnh. Rồi vô miền Tây gặp chú ở xã Hồ Văn Tốt gần Cái Nhào đó. Nhớ không?
- Nhớ chớ sao không – Tôi nói
luôn một mạch – Hồi đó anh có thằng Cu đầu lòng.
- Có đứa con gái nữa chớ. Thằng
bé bị Polio xụi một tay. Mẹ nó phải làm kẹo dừa bán cho quán ở Vàm Cái Dứa gần
nhà thằng Phục.
- Anh lấy tên là Trường Kháng
phải không? Anh có cho tôi một bản dịch bài thơ Đợi Anh Về của Simonov. Tôi có
đưa cho báo đăng.
Tư Mô thở dài:
- Hôi đó cũng khổ nhưng mình
sống với dân. Dù gì cũng có tiếng chó sủa gà gáy, thấy cái xuồng, cái ghe, thấy
cây dừa cây cau. Còn bây giờ chẳng thấy cái gì cả. Tối ngày chỉ nấu cơm là hết
giờ.
- Làm sao về được nhà anh Tư?
- Tôi cũng nôn nóng lắm nhưng
cái đó còn do trời. Trời cho thì đi tới. Trời không cho thì mình “nằm đường”.
- Tưởng về tới đây là đến.
Chẳng ngờ chưa.
- Sốt rét và bom đạn đều nguy
hiểm cả nhưng sốt rét thì có thể chữa được nhưng bom đạn thì vèo một cái là
xong.
- Anh bi quan dữ vậy anh Tư?
- Mấy chú mới về còn lạc quan
lắm. Vì sau một thời gian leo núi đã đến nơi nằm nghỉ khỏe hơn. Còn tôi ở đây
đã mục mấy cái võng rồi. Ngó xuống đồng bằng không thấy gì cả. Hy vọng thì to
còn triển vọng lại bé.
Hai cái võng đưa, rung lắc làm
cọc lều rưng rinh như trời đất sắp đổ! Chính ra trời đất đổ tự trong lòng
người. Tư Mô trở lại vụ cô Thu buổi chiều.
- Sao ở Bắc tám năm mà không vợ
con gì hết vậy?
- Cưới sao được mà cưới.
- Sao người ta được mà chú lại
không? ?
- Tôi biết thế nào cũng đi. Rủi
có con bỏ lại ai nuôi? Vô Nam đâu phải chuyện chơi.
- Còn vụ cô ba-lê .
- Cô ba-lê nào ?
- Tôi nghe tụi nó nói cả rồi.
- Tôi cũng có định nhưng đem
một cô Bắc về nhà Nam sợ e không hợp phong thổ. Ông già bà già tôi khó lắm. Khi
tôi còn ở ngoài Bắc đã có thư đi đường Cao Miên ra cho biết ở nhà đã đi hỏi vợ
cho tôi.
- Làm sao?
- Hỏi những chỗ quen từng là
bạn học cũ ở trường của tôi.
- Bây giờ vấn đề vợ con của mấy
chú là nan giải. Ngoài ba mươi cả rồi. Sợ khó ai ưng. Còn con nít mới lớn lên
thì đi dân công, văn công, cán bộ hư hỏng cả.
Tôi cười:
- Vậy ở ngoài Bắc tôi nghe Ban
Thống Nhứt cho biết là các cô chờ đợi dân Mùa Thu dữ lắm. Các cô sẵn sàng trừ
mười tuổi cho dân Mùa Thu.
- Vậy chú còn hai mươi ba. Khỏe
quá hả. Tư Mô bật cười, ném cái tàn thuốc vạch một vòng cung trong màn đêm và
tiếp:
- Mấy ông mình tuyên truyền
giỏi lắm. Hồi Đồng Khởi cũng thế đó. Đến chừng rõ ra mới ngã ngửa.
Tôi lặng thinh. Ở đâu cũng một
phách với báo Nhân Dân. Cái gì nghe cũng phấn khởi cả. Đụng vào thực tế thì mới
rõ là ở trên nói láo. Ngay con đường mòn cũng thế. Khi bắt đầu vào trường đi B
thì người ta bảo là dọc đường sẽ có các mậu dịch bán đủ thứ hàng bằng ba loại
tiền Việt Miên Lào. Ngay cả ông Bảy Cò cũng còn tin nữa là ai. Nhưng khi vào
vài trạm thì hỡi ôi ! Đến muối cũng không có.
Tư Mô bảo:
- Thôi bây giờ chú hãy ở lại R
một thời gian đã.
- Rồi sau, tôi đi với ai ?
- Tôi chờ.
- Để làm gì ?
- Thì nghe nói có cô Nguyệt nào
vô tới đó.
Tôi lặng thinh. Đây là một
chuyện vừa vui vẻ vừa là…nguy hiểm. Tôi gặp Nguyệt ở Cần Thơ năm 1952. Ra Bắc
vì ba cái vụ Cải Cách Ruộng Đất, lập trường bần cố nông nọ kia nên tôi và
Nguyệt hiểu lầm nhau. Cuối cùng chia tay. Nhưng rồi hai bên giảng hòa. Khi đi
vào Trường Sơn chúng tôi lại gặp nhau và cuộc giảng hòa đã đi đến kết thúc tốt
đẹp. Lúc đó Nguyệt là Trưởng đội văn công của Quân Đội Nam Bộ. Vì biểu diễn cho
các đơn vị trên đường Trường Sơn nên Nguyệt phải trở ra Hà Nội sau khi xong
công tác. Nhưng Nguyệt đã hứa với tôi là nàng sẽ xin trở về Nam. Con gái ba
mươi tuổi mà chưa chồng, kể cũng hiếm có. Vả lại ra vào con đường chết này
những hai lần, lại càng hiếm có hơn.
Quả thật nàng xin vô. Và đã vô
tới.
Khi ở trên đường Trường Sơn thì
gặp nhau là hạnh phúc. Bây giờ gặp nhau lại là trở ngại công tác vô cùng. Ai
cho ở đây để cưới vợ. Và nàng ở bên Bộ Chỉ Huy Giải Phóng còn tôi ở bên dân
chánh. Sự điều động của hai bên sẽ trớt he như lần tôi và Phương sắp trở thành
vợ chồng mà Phương bị đưa về Bác Kế, còn tôi thì lại đi tuốt da cây me ông Cụ.
Phen này có thành chuyện gì thì
cũng lại sẽ chia loan rẽ thúy. Vậy ra cưới vợ để phục vụ công tác cách mạng chớ
chẳng phải để gần nhau. Cách mạng là dã man. Đó là lời của Bảy Cò nói hồi
chiều. Tôi đã nghĩ vậy từ lúc Kim Ly cho biết Nguyệt đã vô tới.
- Vậy bây giờ chú tính sao?
- Đâu anh tính giùm tôi thử.
- Về đồng bằng không còn ma nào
đâu. Coi chừng chú buông hình bắt bóng cho mà coi.
- Hổng chừng anh nói đúng. Tôi
với Nguyệt biết nhau cả chục năm rồi. Vì cái lập trường Cải Cách Ruộng Đất
(Nguyệt là con địa chủ học trường Tây) nên Nguyệt bị dọa đủ điều. Do đó Nguyệt
tự ái với cách mạng và giận lẫy cả tôi. Tôi còn trẻ quá, cũng giàu tự ái như
ai, đâu có chịu năn nỉ và giải thích cho ra nhẽ hoặc liều mạng tương một câu
như ông đạo diễn Bích Lâm đã dạy tôi nói với Nguyệt: “Anh yêu cả những sai lầm
của em ! ” (Đúng ra Nguyệt không có sai lầm gì . Có chăng là cách mạng sai lầm
với Nguyệt.) May mà tôi chưa kịp nói câu ấy. Chứ nếu tôi nói câu ấy thì nàng
càng tự ái mạnh hơn.
- Chú nên quyết định đi ! Tư Mô
bảo.
Chả là Tư Mô cũng biết mối tình
“màu hoa anh đào” đó của chúng tôi hồi kháng chiến nên mới khuyên tôi đi tới.
- Con gái giải phóng nứt mắt ra
là có chuyện rồi vì ba cái Thanh Niên Xung Phong, ba cái cán bộ lưu động, chú
ơi. Tôi có con thà bỏ nó ở thành nó hư mình không tức, chứ cho nó đi theo giải
phóng mà mình cũng giải phóng, nó lại hư với giải phóng thì tức lắm. Không có
đứa con gái nào chịu trừ cho chú tám năm ở miền Bắc đâu. Thà là nó chửa hoang
với tỉnh ủy huyện ủy.
Tôi lùng bùng lỗ tai. Tư Mô lắc
lư cái võng và tiếp:
- Con bé ba-lê của chú là gì ?
- Là gì nghĩa là gì?
- Nghĩa là có ăn thua gì lắm
chưa ?
- Thì cũng chỉ tình cảm thôi.
- Thằng hôn phu của nó đang bị
một cú kỷ luật nặng. Nó nghe rồi, nó sẽ không có ngó tới nữa đâu. Bây giờ nó
đeo chú là cái chắc. Nhà văn không hơn thằng diễn viên múa lang ba à?
- Vậy anh không rõ vụ nhà văn
Anh Đức nhà mình à?
- Không !
- Ở Hà Nội có một cô đào
xi-la-ma mê anh ta lắm vì anh ta có cái truyện được trung ương cho làm phim. Cô
nàng muốn đóng vai chánh. Thế nhưng đá bóng với nhau vài lần không hiểu sao cô
nàng lại yêu một anh thơ ký xoàng thay vì trao trái tim cho nhà văn.
- Ở đây lại khác. Nàng diễn
viên ca múa lại muốn trao tim cho nhà văn hơn. Tôi bói chắc trúng đó.
Tôi bối rối. Về sắc đẹp thì cô
ba-lê hơn Nguyệt xa, lại trẻ nữa. Đâu hai mươi, hai mươi hai là cùng. Từng đi
học ngoại quốc, nói chuyện rất là hơi hám tiểu thuyết. Còn Nguyệt thì cũng là
nữ sinh nhưng đã trung niên rồi. Nhưng tôi có hơi nghiêng về Nguyệt vì là người
cố cựu và bản sở. Cắt với Thu thì dễ nhưng quay lưng lại Nguyệt thì quả là
không thể .
—>Chương 6
- 6 -
Đêm khuya lạnh lẽo như trong
khám tù. Gió không thổi nhưng ngọn cây xao động vì thú rừng chuyền qua lại trên
cành. Và những tiếng cú rúc nhọn hoắc như những chấm than, như những lưỡi dao
găm cắm vào tim mình. Ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nợ nước tình nhà.
Qua một đêm trằn trọc tôi như
ốm nặng. Sáng bét từ lâu nhưng tôi cứ trăn trở không thoát ra khỏi chiếc mùng
túm rụm.
Nhưng lại có một tin vui. Hoạ
sĩ Anh Đức đến bảo:
- Chuẩn bị nghe nhà “dăng”.
- Cái gì chớ vác gạo thì cho
tôi miễn.
- Biết rồi. Ai mà bắt người mới
dzô vác gạo sớm vậy? Chuẩn bị đi liên hoan tiễn ông Thép Cũ về Hà Nội.
- Thép Cũ nào?
- Thép Mới ấy mà. Chú nên phỏng
đoán chữ nghĩa của ông hoạ sĩ nầy. – Tư Mô bảo.
- Dịp may rất hiếm, bỏ qua rất
uổng.
- Liên hoan to lắm hả?
- To vô cùng.
- Sao ổng về Hà Nội vậy?
- Ổng lấy hết đề tài của mấy
ông rồi cho nên về nhanh Hà Nội để sáng “toác” chứ sao!
Đức cười hí hí rồi đi. Tư Mô
bảo tôi:
- Cũng một vụ tính nhầm, như
tôi và chú.
- Nhầm gì?
- Tôi nhầm kháng chíến chống
Pháp, tù xong lại nhầm giải phóng. Còn chú thì nhầm tập kết hai năm. Nhầm kháng
chiến là nhầm bài thơ:
Bao giờ kháng chiến thành công
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào
Tết này ta tạm xa nhau
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.
- Tết sau hay là Tết mười năm
sau? Bây giờ thì hai chục năm sau. Sum vầy đâu? – Tư Mô cười khẩy – Thì cũng
như chú xuống tàu ở bến Chắc Băng để ra Bắc vậy. Giơ hai ngón tay phải không?
Bây giờ thì mấy chục ngón? Hai chục phải không?
Tôi càu nhàu:
- Đ…bà mấy thằng Tây nói ẩu mà
đúng.
- Nó nói gì?
- Hồi đó tôi làm phiên dịch ba
ngù cho Ủy Ban Liên Hiệp Đình Chiến tỉnh. Mấy thằng sĩ quan Tây láu cá bảo
thằng với tôi: “Hai mươi năm chứ không có hai năm đâu!” Tôi quát trả lại:
“Chúng ta tin tưởng cách mạng sẽ thành công!” Tụi nó chỉ cười và mời tôi hút
thuốc Camel.
Khi tôi xuống tàu, bọn thủy thủ
lại trêu lần nữa. Chúng không nói gì, chỉ ngồi trên mui tàu. Nhìn đồng bào đứng
trên bờ gạt nước mắt tiễn chồng con ra đi, chúng xòe mười ngón tay và giơ cả
hai bàn chân lên nữa. Vậy mà đúng mới thấy mẹ chứ.
- Cách mạng có nghĩa là dã man
và nói láo! – Tư Mô nói bằng tiếng Pháp. Anh thường nói bằng tiếng Pháp với tôi
vì sợ mấy anh bần cố nông nghe được, đi báo cáo. Anh tiếp: – Mình tin cách mạng
một lần đã tiêu tùng rồi bây giờ lại tin lần thứ hai.
Tôi tiếp:
- Ai biểu ở Sài Gòn yên thân
rồi mà lại vọt ra đây chi ?
- Thì lại cũng “tin” chớ còn
sao nữa?
- Bộ người “ngoéo” anh ra khu
cũng hứa “hai năm”
- Không ! Họ không hứa gì cả.
- Vậy họ có hứa là năm sau ta
sẽ sum vầy không?
- Sum vầy ! Tôi cưới vợ đã hai
mươi năm ! Chẳng bao giờ gần được vài tháng, ngoại trừ lúc tản cư xuống khu 9
làm kẹo dừa bán.
- Thằng Lê nay đã bao lớn rồi ?
- Mười bốn. Cô nó nuôi chứ tôi
có nuôi ngày nào. Con Thi cũng vậy. Đi làm cái gì ở đây? Nhiều lúc nghĩ mà tự
thẹn một mình. Không hiểu hồi đó sao mình ham vui và dễ nghe lời người ta vậy.
Mặt trời đã lên cao, những tia
nắng yếu ớt của một bình minh tối om lởn vởn trên vòm lá. Tôi vừa rũ áo đi khỏi
cái xã hội chủ nghĩa oái oăm để về Nam mong hưởng lại không khí thời kháng
chiến chống Pháp, nhưng bây giờ lại thất vọng. Chẳng có cái gì mình ước mơ mà
thành sự thực cả. Ngay cả những giấc mơ nhỏ nhất của đời mình. Cách mạng là gì
? Đó là một mớ tà thuyết được tiêm vào đầu óc những lãnh tụ mù quáng coi dân
tộc và mạng người như cỏ rác. Mười năm ở miền Bắc tôi chẳng thấy một điều gì
nhân dân chấp nhận một cách vui vẻ. Về đây lại cũng y như thế.
Đột nhiên Tư Mô hỏi tôi:
- Già Tuế bị đụng xe mô tô chết
ở Liên Xô phải không?
Tôi giật mình, không hiểu tại
sao Tư Mô lại biết tới chuyện đó. Ở Hà Nội tôi có nghe phong phanh anh ấy đã
chết vì tai nạn. Nhưng tôi nói trớ qua:
- Tôi không hay gì cả.
- Giả đỗ Phó Tiên sĩ triết học
rồi. Ngày mai lên đường về nước thì ngày nay cỡi xe máy dầu ngoài đường Mốt-cu
bị xe đụng chết tươi. Tôi biết hắn hồi còn làm cán bộ tuyên truyền quận Mỏ Cày.
- Sao anh rành vậy ?
- Thì cũng do mấy cha ngoài đi
về nói lại chớ ai. Còn Nguyễn Xuân Ôn nghe nói làm nghề huấn luyện trong quân
đội phải không? Hai đứa nó học một khóa với nhau, sau tôi hai năm.
Chỉ tiếng “Mỏ Cày” làm tôi nhớ
lại tất cả khung cảnh kháng chiến chống Pháp. Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi đã
mang ba-lô đi tuyên truyền cho Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc và các quyền Dân Chủ
dưới chế độ Dân Chủ Cộng Hòa. Vui thiệt là vui. Đi đến đâu cũng được đồng bào
tiếp đón và lắng nghe nồng nhiệt. Tuế là một cán bộ tuyên truyền rất sáng chói
(người xã An Định cùng quê với vợ tôi), có bằng Tú tài trước 45. Trưởng ban
tuyên truyền là ông Nguyễn Văn Ngọc, thầy học của tôi ở trường quận.
Tôi rất mê nghe tuyên truyền và
tập làm cán bộ tuyên truyền vì thấy người ta vỗ tay hoan nghênh dữ quá. Tư Mô
là người thâm trầm không thích nghề ăn nói, mà chỉ làm thơ văn và ở trong Đoàn
Văn Hóa Kháng Chiến Tỉnh.
Giới trí thức đã tham gia nhiệt
liệt cuộc kháng chiến chống Pháp. Cả các tôn giáo cũng thế. Khắp thôn quê rộn
rịp. Ai không tham gia kháng chiến là tự thấy mình lạc lõng, không hợp thời.
Tôi buột miệng hỏi Tư Mô:
- Họa sĩ Đức là cháu của họa sĩ
Huỳnh Văn Gấm phải không anh?
- Đúng vậy !
- Sao hắn ra đây làm gì ?
- Đi học Liên Xô ! Nó đang học
Bô-da Gia Định, không biết ai móc nó ra khu để đi Liên Xô.
- Sao còn ở đây?
- Nghiên cứu nguồn gốc loài khỉ
!
- Chừng nào sang tới bên đó để
học tiếp ?
- Còn chờ ý kiến ban tổ chức
Trung ương.
- Trời đất !
- Chúa hài hước đó ! Nó nói
lái, nói xiên, nói xéo, nói móc nói ngoéo tối ngày vì cay cú việc đi học. Nhưng
nó được cái là dễ dãi và ai cần gì nó cũng giúp, một tay bắn khỉ cho cơ quan
ăn, chỉ thua Ba Mực tí thôi, nhưng nó siêng bửa củi hơn Ba Mực.
- Bửa củi mà cũng được chấm
công à?
- Chú đừng tưởng chuyện đó là
tầm thường. Đó là lý tưởng cao nhất đấy.
- Nghĩa là sao?
- Củi trên Trường Sơn dễ kiếm
chứ ở đây khó lắm.
- Ở Trường Sơn không dễ đâu
anh.
- Tôi không biết ở đó chuyện
củi lửa ra sao chứ còn ở đây phải đi xa khu vực đóng quân đốn cây rồi cưa khúc
bổ ra vác về nhà bếp. Nếu đốn cây ngay trong khu vực thì chẳng bao lâu tụi mình
bị lòi lưng hết. Ban chỉ huy An Toàn Khu đã cảnh cáo nhiều cơ quan rồi. Bây giờ
ngay cả vấn đề bắn khỉ cũng bị hạn chế nên sự cải thiện sinh hoạt gặp khó khăn.
- Tại sao hạn chế bắn khỉ ?
- Tại vì bắn mãi, tiếng động sẽ
lọt vào tai gián điệp.
- Trong rừng mà cũng gián điệp
?
- Phải đề phòng từ muỗi đòn xóc
đến B52 mới sống được chú ơi !
Đó là câu chuyện lót lòng vớ
vẩn buổi sáng. Tư Mô bao giờ cũng có một cữ trà tiếp theo để trụng cái bao tử
trong lúc chờ cơm. Đồ nghề của anh đã có sẵn. Anh như một chuyên gia về môn
uống trà. Ai có trà muốn uống cho ngon cũng mang đến lều của anh để uống. Trà
dở uống ở đây cũng trở thành ngon. Anh chẻ củi rất tỉ mỉ. Mớ nào để làm đóm, mớ
nào để đun, mớ nào mới chẻ còn tươi mớ nào đã gác trên giàn bếp đã khô anh đều
xếp có thứ tự hễ nhóm thì lửa cháy chứ bếp không tắt câm khói bốc mịt mù bị an
ninh cơ quan cảnh cáo như những lều khác. Ngoài sự uống trà chuyên nghiệp, Tư
Mô còn là một ông “Chủ Tịch Liên Việt” – nghĩa là với ai anh cũng đoàn kết
thiệt tình, bất cứ thành phần nào anh cũng chơi thân.
Nước sôi anh quay ra bốn phía
hô lên: “Uống trà nghen!” vài ba lần, thế là có khách tới. Khách thứ nhất là
ông Bảy Cò, khách thứ nhì là Ba Mực, thứ ba là Sáng, thứ tư là Tám Thủy Thủ,
thứ năm là họa sĩ Đức v.v…
Đề tài các buổi uống trà là săn
khỉ, vác gạo, móc gia đình, mua trà loại nào uống ngon mà rẻ, anh nuôi nấu cơm
sống chín, ai bửa củi, ai sẽ đi tản khai trong lúc CZ Johnson City sắp mở màn,
ai sẽ ở lại thủ trại. Và cuối cùng là đề tài muôn thuở: Các tiên cô của đoàn
Văn Công Giải Phóng dưới quyền cai quản của nữ chúa Thanh Loan !
Đây là chuyện “Cấm trẻ con dưới
hai mươi lăm tuổi.” . Vì ở đây trẻ con ít nhất cũng đã trên hai mươi lăm nên
không cần phải cấm ai, tha hồ ngả mặn.
Họa sĩ Đức mở màn câu chuyện
bằng cách nhắc lại:
- Uống trà nước suối này không
sớm thì muộn phải câm !
Sáng là nhà văn cùng đi một
chuyến với tôi vô đây, ngơ ngác một cách thật tình:
- Bộ suối ở đây độc lắm hả ta?
- Độc nhất vùng, đồng chí ạ!
Họa sĩ Đức nghiêm chỉnh đáp.
Ba Mực nói:
- Thôi, để các ông mới tới uống
cho ngon miệng mà !
- Khi các ông biết sự thực thì
uống càng ngon miệng hơn !
Bảy Cò cười khậc khậc. Sáng
tiếp:
- Trên đường Trường Sơn có lúc
tôi cũng được giao liên cho biết là có con suối độc, lội xuống rụng hết lông
chân, có con suối thì nước uống vô bị sốt rét hoặc thương hàn. Nói thì nói vậy
thôi chứ có con suối nào là chúng tôi không múc nước uống đâu mà rồi có rụng
cái lông nà…ào!
Họa sĩ Đức xua tay:
- Đó là suối hiền ông ơi ! Còn
đây mới là suối độc!
- Sao các cha ở đây hồi nào tới
giờ, uống nước đó mà chưa câm?
- Chậc, cái thằng ! Bảy Cò lên
tiếng – Mày không biết thằng Đức à? Nó nói vậy là mày phải ngẫm ra cái kiểu
biểu tượng hai mặt.
- Nghĩa là sao ?
- Nghĩa là nó nói chuyện này
phải hiểu chuyện kia.
- Suối hiểu ra cái gì ?
- Thì vẫn là suối nhưng suối
này…
- Có bảy con nhền nhện tắm giặt
hằng ngày – Bảy Cò tiếp – Rồi cá leo xuống đó, hiểu chưa?
Sáng vốn là anh chàng thích
chuyện hiện đại, không bao giờ mó tới truyện Tàu nên không hiểu cá leo là cá
gì. Cho nên cả bọn cười rộ mà Sáng vẫn ngơ ngác.
Thấy thế, Bảy Cò bèn rỉ tai
Sáng. Sáng kêu lên và vỗ đùi :
- Biết rồi. Tôi biết rồi !
Nhưng dù có nhền nhện tắm thì nước càng ngọt chứ sao uống phải câm ?
- Ai biết đâu ! ông Ba Mực đang
nói ngọng, nhạc của ổng toàn dấu “xị” bémol không thôi.
Bảy Cò nói:
- Ở ngoài Hà Nội thì dễ, nhưng
vô đây cây nhà lá vườn mà khó. Ngó thấy đó mà không bỏ ngón được, hả các em?
- Bên Bung-gia-ca-ri khó hay dễ
anh Bảy?
Bảy Cò cười:
- Tao tu rồi. Không nên nhắc
chuyện trần thế nữa nghe.
- Nói cho mấy em nghe rút kinh
nghiệm.
- Mày có đi thì đi Liên Xô chứ
đâu có sang xứ Bungari của tao.
- Sao vậy?
- Hội họa thì phải sang Liên Xô
chứ Bungari đâu có truyền thống về hội họa.
Mặc ai nói gì thì nói, Tư Mô
thủ phận chủ nhà nấu nước pha trà đều đều. Cốc uống trà thì tự túc. Ai muốn uống
trà thì phải mang dụng cụ theo – đúng ra là cái để đựng nước và cho vào mồm chứ
không phải chung uống trà. Nếu cái ông ăn mày trong “Những chiếc ấm đất” của
Nguyễn Tuân thấy cảnh này chắc phải khóc ròng chứ chẳng chơi đâu.
Ba Mực nói:
- Tôi không hiểu bà cụ Thanh
Loan giữ mấy con nhền nhện để làm mắm hay sao mà ai động tới bả cũng bắt kiểm
thảo cả. Bữa nào tụi mình phát thinh lên tổng ruồng thộp hết cái đám nhền nhện
đó về bó… óp gỏi nhẹc một bữa thử coi bả làm gì ?
Họa sĩ Đức cười, tiếng bể nghe
cạch cạch:
- Ai làm nguyên soái, tôi xin
lãnh ấn tiên phuông ngay.
Bảy Cò chêm vào:
- Ở ngoài đó có cô em Miên lai
“đầu gà đít vịt” coi khó khủm ! Thằng nào muốn hết đau lưng thì quơ lấy.
- Đọ anh Bảy mở đầu giao… hưởng
rồi đó nghe! Anh làm nguyên soái đi anh Bảy !
Tôi hỏi gặn:
- Anh cũng chân ướt chân ráo
sao anh biết có cô em “đầu vịt đít gà?”
- Tao ra dượt cho đám đồng ca,
tao liếc thấy chớ sao mậy.
Tư Mô nói:
- Tài thật. Mới ra vườn đã biết
ngay hoa thược dược giữa đám cỏ hoang. E he ! Nhưng mà coi chừng đó. Nó có chủ
rồi nghe ông Bảy !
- Có chủ thì có chớ, tao đâu có
mó vào !
- Chuyện rắc rối lắm ông Bảy ơi
! Đừng có ham. Ông mới về nên không rõ. Vì là chuyện của ông lớn nên người
trong cơ quan cố ém đấy thôi. Nếu của tụi nhãi nhép thì kiểm thảo trắng đờ con mắt
rồi.
Tám Thủy Thủ chỉ ngồi khoanh
tay rế uống trà và thỉnh thoảng cười mỉm chi cọp, không nói tiếng nào. Tôi hơi
giật mình. Vốn luôn luôn bị những cú sét ái tình ở mọi hoàn cảnh nên tôi nghe
mà lo. Nhưng vẫn tính trước khi đi đồng bằng thế nào cũng tìm cách gặp em
“ba-lết” một đôi lần. Kỷ luật chặt chẽ đến như ở trường đi B mà tôi cũng còn
hoạt động hữu hiệu, sá chi cái khu rừng mênh mông không có hàng rào và cửa ra
vào với ông Liên khu 5 xét giấy rất gắt này.
Bảy Cò bấm trúng tim đen của
tôi:
- Bữa nào tao ra dượt cho tốp
đồng ca, chú em theo để tìm đề tài nghe ! Tao sẵn sàng làm bình phong cho.
- Coi chừng trâu buộc ghét trâu
ăn ! Tụi cải lương ngoài đó cũng gắm ghé từng mục tiêu cả rồi. Tụi nó sẵn sàng
báo cáo bất cứ kẻ lạ mặt nào dám xâm nhập vào vương quốc “Cặm-bù-chìa” của
chúng nó. Nhưng tụi nữ ca nhạc mới lại không thích cải lương.
Họa sĩ Đức vừa dứt lời thì Bảy
Cò tiếp:
- Không nên nghĩ như vậy. Túng
quá thì cái gì cũng được nữa là cải lương.
Sáng nói:
- Ngoài đó còn có kịch nói, ca
múa nhạc nữa chớ bộ một mình cải lương thôi sao !
- Ông thầy “vũ đạo” tu rồi. Các
em giỡn mặt, xách… hồ lô múa qua múa lại ổng vẫn không quăng cây tru tiên kiếm
ra.
- Ổng đâu có kiếm tru tiên tru
tiếc gì mà quăng!
Cả mâm trà cười ré lên, ngã
nghiêng ngã ngửa. Bảy Cò nói:
- Ông trời thiệt là bất công.
Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra. Ổng có dư của ăn của để mà không biết làm
gì Không khéo mấy em bất mãn bỏ ca múa, vô trong này hợp xướng với mình hết cho
coi.
- Nói vậy thôi chớ có những cú
ngầm mình đâu có hiểu nổi chú em ! Quy luật cách mạng là “Sức ép mạnh sức bung
càng mãnh liệt” mà!
Câu chuyện đang hào hứng thì
bỗng có tiếng “rùng rùng” giây lâu làm rung rinh mặt đất. Trà trong chén cũng
xao động khe khẽ. Mọi người ngó nhau, lặng ngắt.
Chờ cho dứt tiếng rung, Ba Mực
nói:
- Kỳ này “dưa hấu” bán hơi gần
đó nghe các cha.
- Độ chừng ở đâu ta?
- Bình Dương, Tam Giác Sắt, Củ
Chi gì đó.
- Là ở đâu ?
- Vài chục cây số thôi ! Ba Mực
tiếp: Mấy lúc gần đây sáng nào nó cũng cho mình điểm tâm dưa hấu. Cái trận vừa
rồi, mình thiệt hại to, nên mới dời qua đây. Các cha mới về không biết đâu. Nó
đánh ngay chóc. Hai đợt. Mỗi đợt cách nhau năm phút.
Thật tình tôi không nghe gì hết
về cái vụ Ban Tuyên Huấn R bị B52, mà điểm nặng nhất là tiểu ban Văn Nghệ. Ngay
cả trong nội bộ cái tin này cũng được giấu kỹ và những ai biết hoặc, sống sót
sau trận đó phải thủ khẩu như bình, không được bàn ra tán vào gì hết. Nó đã vậy
thì cứ cho nó vậy luôn, không được bới móc ra.
Sau khi dư âm của trận giao
hưởng tan đi, buổi uống trà gượng hào hứng trở lại. Theo ông chuyên gia Ba Mực
thì buổi sáng nó chỉ chơi một cú thôi. Nếu hợp tác xã văn nghệ mình mà thất thu
cú sáng thì kể như yên ổn được hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nghĩa là tới sáng
mai. Cuộc đời được tính như thế, nếu không có việc mưa đêm cây rừng ngã đè
chết, không bị rắn chàm oạp gặm, không bị sốt ác tính v.v…
Ba Mực nói với Tư Mô:
- Anh cho chúng em xin bình trà
mới đi anh Tư. Tụi em phải ăn mừng mới được !
- Ăn mừng gì ?
- Ăn mừng chết hụt chớ ăn mừng
gì ! Há há há ! Mỗi đêm trước khi ngủ, em đều chắp tay lên ngực cầu xin ông
thần Chà Gạc phù hộ cho chúng em tai qua nạn khỏi.
Tôi hỏi:
- Thần Chà Gạc là thần gì?
Bảy Cò vọt miệng đáp:
- Đây là đất Miên, hiểu chưa
chú em ?
- Đây là đất Miên? Mình đang
ngồi trên đất Miên?
- Vậy chứ còn đâu nữa !
- Tôi tưởng là Tây Ninh chớ!
- “Tây” bất an “Ninh” của mình…
không ổn nữa nên mới dời qua đây.
Tôi ngơ ngác:
- Vậy sao ở ngoài Bắc tôi nghe
“la-diô” nói là Mặt Trận đã giải phóng ba phần năm đất đai và ba phần tư dân
chúng?
Bảy Cò chép miệng:
- Cái thằng! Mày ngây thơ quá
mậy.
- Ai cũng tin vậy chớ phải mình
tôi đâu !
Họa sĩ Đức cười hắc hắc:
- Giải phóng năm phần năm đất
đai và bốn phần tư dân chúng của mình xong rồi nhưng Miên chưa giải phóng cho
nên mình mới qua đây giải phóng Miên chớ sao !
Tư Mô moi ba lô lấy trà mới.
Nhưng lại hết nước.
Những cái bao tử lép đã tiêu
thụ hết cả thùng nước anh lấy dưới suối lóng trong hôm qua. Cái thùng con vốn
đựng thịt nạc heo của Mỹ gởi qua tiếp tế cho lính Mỹ lại chạy tọt vào nuôi sống
bọn ốm đói chúng tôi qua tay các con buôn Sài Gòn. Dung tích của nó chừng bốn,
năm lít. Một cái thùng không như thế không dễ gì kiếm trong rừng. Tư Mô là
người được kính trọng lắm lắm nên nhà bếp mới dành cho một cái, để chứa nước
nấu trà. Tư Mô hỏi họa sĩ Đức:
- Chú em giỏi giò đi xuống suối
lấy nước đi !
- Ừ được ! Ai có đồng hồ coi
giùm mấy giờ rồi ?
Bảy Cò vừa được phu nhân trang
bị cho một cái Movado, giơ tay lên xem và bảo:
- Mười giờ bốn mươi chín phút
mười lăm giây rưỡi !
Họa sĩ Đức cười ha hả:
- Vậy thì tôi xin xung phong
ngay.- Rồi rỉ tai tôi và Sáng.
Chúng tôi cười. Tôi hỏi:
- Nhưng có chắc không?
- Chắc chớ. Giờ này là giờ đại
lợi mà ta.
- Ông có kinh nghiệm lần nào
chưa?
- Cả chục lần rồi. Hễ mắt mũi
tôi hơi kèm nhèm là tôi đi ra suối rửa ngay.
- Sao bảo nước suối độc , uống
nước sẽ bị câm ? Bảy Cò gắt.
- Uống thì câm nhưng nhìn thì
sáng ! Nói vậy rồi họa sĩ kéo tay tôi lẫn Sáng – Đi hai cha! Mới leo dốc Trường
Sơn, bây giờ phải nên tẩm bổ.
Đức lôi hai đứa tôi. Tôi và
Sáng cũng hăm hở đi theo.
Ba Mực nói:
- Các tiên hay xuống suối vào
buổi sáng. Trời thanh tịnh và suối còn trong.
Bảy Cò nói:
- Mỗi ngày tắm hai lần còn gì
là suối ?
- Vậy nước uống trà mới ngọt
chớ anh Bảy !
Bỗng nối tiếp theo câu nói của
Ba Mực, một tràng “rùng rùng.” Ba Mực kêu lên:
- Coi bộ nó làm gần hơn anh
Bảy. Mấy cái chén nhảy tưng tưng.
Tư Mô nói với tôi:
- Nó sửa soạn mở màn chiến dịch
Johnson City. Mình phải đi gấp. Ở đây không có lợi đó chú Hai.
- Muốn đi cũng không phải dễ
đâu anh Tư. Còn phải chuẩn bị lương khô chớ. Ít nhất phải vài ba tuần mới đi
được. Hồi đi Trường Sơn tụi tôi không có chuẩn bị gì hết ráo nên dọc đường khan
thức ăn phải vô buôn đổi gà đổi chó nguy hiểm vô cùng.
Tư Mô nói:
- Ở trên đường mình sẽ đi, đâu
có buôn bản gì mà đổi gà đổi chó, chú em.
Đúng ra tôi cũng không còn có
gì để đổi. Vừa đến đó thì ông Tổng Thư Ký Văn Nghệ Giải Phóng Lý Văn Sâm đến.
Tôi có cảm tưởng đó là một con ma sốt rét hiện hình, trông thảm não vô cùng.
Ngó anh mà tôi hiểu tôi. Chắc tôi cũng không hơn gì anh. Chỉ khác là tôi trẻ
hơn đâu chừng mười tuổi thôi. Anh nói giọng khàn khàn:
- Chiều nay mình tiễn đồng chí
Thép Mới về Bắc. Dự trù của anh nuôi là giết con gà mái cuối cũng để làm tiệc,
ngoài ra thì ai bưng cơm thường nấy đến ăn chung một bữa.
Ba Mực vọt miệng hỏi:
- Đi tất cả hả anh Hai ?
- Ý quên ! Mỗi tổ cử một đại
biểu thôi. Tổ văn thì được ưu tiên ba đại biểu.
- Tại sao ?
- Vì đồng chí Thép Mới là nhà
báo. Hai Lý tiếp – Còn tổ thơ thì Giang Nam đi, tổ họa…
- Tôi xin nhường cho người khác
! Tư Mô nói – Tôi mệt lắm không dự nổi.
- Họa sĩ Đức đâu rồi, nãy giờ
tôi đi tìm mà không thấy !
- Nó đi coi tiên… ủa, nó đi lấy
nước uống trà!
Hai Lý thủ thỉ:
- Đồng chí Thép Mới vô cũng đã
gần ba tháng lại có đi đến cả Củ Chi lượm đề tài nữa. Hà Nội đâu có đồng chí
nào gan dạ bằng đồng chí ta. Vậy chiều nay trong buổi tiệc tiễn đưa, các đồng
chí nên phát biểu vài cảm tưởng cho ngọt để đồng chí mình về ngoài đó giữ những
cảm tình tốt đẹp với miền Nam.
- Có thể bảo thằng Xuân Vũ nói
cảm tưởng! Bảy Cò vọt miệng nói liền.
- Nó ở ngoài Bắc mới vô, để cho
nó phát biểu thì chẳng khác nào mèo khen mèo dài đuôi.
- Anh đừng lo ! Nó có đọc Tùy
bút của Thép Mới và quyển “Thời Gian Ủng Hộ Chúng Ta” của Ilya Erhembourg do
Thép Mới dịch, nó khen hay lắm. – Bảy Cò nói.
Tư Mô cãi lại:
- Cái chúng mình phải khen là
những gì Thép Mới viết về miền Nam, chớ còn mấy cái kia thì đã cũ rồi, vả lại
khen Thép Mới như là một dịch giả thì không cần thiết lắm anh Hai ạ.
Hai Lý lẩm nhẩm một hồi rồi
nói:
- Vậy thì thôi, trong bữa tiệc,
tự do cảm tưởng, nhưng đường hướng chung là đề cao đồng chí ta.
Vừa đến đó thì lại một loạt
“rùng rùng” khác tiếp theo, gần hơn hai lần trước.
- Mẹ kiếp! Ba Mực kêu lên: Bữa
nay nó thím xực ba lần. Coi bộ nó muốn chơi qua ranh giới Cao Miên nữa đó anh
Hai.
Hai Lý lắc đầu:
- May rủi tại trời, mình sống
như những con kiến dưới những lỗ nẻ vậy. Một gáo nước sôi, một mồi lửa là rụi
tèng heng hết ráo.
- Anh nói vậy làm sao “Nắng Bên
Kia Làng” nổi, anh Hai !
- Nắng đã tàn rồi, chú em !
- Nhưng nắng được thì cứ nắng
chứ anh Hai !
Tuy cà rỡn với nhau vậy chớ
trong bụng, người nào cũng hoang mang cực độ. Chiến dịch Johnson City đã mở màn
ở xa xa rồi đó. Nhưng bọn tôm tép này thì cứ ở đây chờ lệnh trên. Có lẽ nó khía
Củ Chi trước rồi đến các cơ quan R chung quanh biên giới Việt Miên. Nó không
cần đổ quân, chỉ chơi B52 là đủ.
Vài người rút lui. Mấy người
còn ở lại lơ láo mất hồn. Sáng, tôi và họa sĩ Đức lấy nước xong trở lại thì chỉ
còn có ông chủ lều ngồi chong ngóc một mình.
- Gặp tiên không? Tư Mô hỏi.
- Đi sớm quá, tiên chưa đáp
xuống.
Họa sĩ Đức cười:
- Coi hát đã đời rồi còn bảo là
chưa. Hề hề… bầy tiên cảnh giác nên rút lui không phơi cánh nữa. Nếu bây giờ mà
trở lại thì gặp chắc.
- Thôi đi cha non, dưa hấu sắp
rụng tới nơi rồi kìa ở đó mà coi tiên.
Hai Lý là người lãnh đạo tiểu
ban về mặt chánh quyền nên anh cũng chỉ làm hụ hợ vì đã có đảng bao sân, chánh
quyền giải quyết xong rồi cũng phải thông qua đảng. Đảng không đồng ‘ý thì cũng
vô ích thôi. Ngay như việc hi sinh con gà mái để tiễn nhà báo về quê cũng phải
có ý kiến của đảng.
—>Chương 7
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét