Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 4

1      2      3      4      5 
- 17 -
Về đêm, trạm trong rừng trông như con rắn ngủ im. Không biết đầu đâu, đuôi đâu. Những lều nối tiếp những lều. Mỗi một cái lều là một trời riêng tâm sự. Phần lớn nằm ngủ ở đây là dân Nam kỳ. Trước mặt họ là cha mẹ vợ con quê hương làng mạc gắn bó, sau lưng họ là miền Bắc lừa dối bạc bẽo mọi rợ xã nghĩa, một thứ đất đai đổi thay hình đổi dạng dần dần và sẽ biến thể không còn cái gì đặc sắc của Việt Nam. Ngay cả cái Tháp Rùa! Bây giờ đây cũng phải cụp cổ độ; một ông Sao to tổi bố nặng như xích như cùm. Hồ Gươm bây giờ là nơi người Hà Nội uống bia để than thở vận nước mạt rệp chứ không phải để ngắm di tích của ông cha.
Những thắng cảnh ở bãi biển Đồ Sơn, Sầm Sơn là nơi để cho các đồng chí Liên Xô phơi đùi phơi rốn, để cho Bộ Chánh trị đem vợ nhỏ xuống hú hí với nhau, để cho thủ trưởng đem gái con nuôi đến âu yếm, còn những thằng tập kết hai chục năm đi lính, những bần cố nông khố rách áo ôm không được bén mảng đến. Đã có lính xua họ như đuổi ruồi.
Những thằng Nam Bộ ra đất Bắc ăn mười cái Tết như đưa mười cái đám ma. Cụ Hồ đâu? Hồi ở trong Nam nghe lời kêu gọi của cụ chúng con coi lửa đạn như trò chơi, quyết chí xông pha giành độc lập cho Tổ quốc. Nguyễn Đình Chín tức Chín Heo sắp ra trường bắn lãnh đạn của thực dân vào ngực, còn cắn ngón tay lấy máu viết thư gởi Cha già dân tộc, bây giờ Cha già dân tộc ở trong hoàng cung, thăng “con” nào léo quéo tới lính cận vệ đặc biệt của cụ bắn thấy mẹ: “Cha già không có vợ, không có con?”
Địt mẹ chúng mày. Thực dân trở lại lần nữa để cho chúng mày kháng chiến. Ông trỏ c…, nằm không, chờ thực dân tới làm “dân nô lệ sướng hơn làm chủ nhân ông đất nước xã nghĩa quái gỡ !”
Bất thình lình tôi hỏi Cao:
- Mày tính về hay không mậy?
- Để coi !
- Coi gì nữa. Mười năm coi chưa đã sao, từ đầu đến háng, từ háng xuống chân mày còn coi thiếu cái gì nữa hả ?
- Tao chỉ ngại một điều là về trong đó gặp lại vợ tao.
- Sao ngại ?
- Tao không muốn nhìn thấy sự tan vỡ ở ngay trước mặt mình.
- Thì nó đã tan vỡ, ở trước mặt hay sau lưng cũng vậy thôi.
- Đã đành, nhưng nghe dễ chịu hơn thấy.
- Thấy rõ thì mới giải quyết được, còn nghe mơ hồ, chẳng giải quyết được gì. Mày gởi hình và thư mày về tức là mày chưa dứt được tình vợ chồng. Chi Hoa là một người đàn bà hiếm có. Phải không? Đêm tân hôn bỏ nhà ra đi theo mày. Mày còn đòi gì và với ai mà được như thế?
- Tao làm gì nào?
- Mày bỏ gia đình luôn từ đó đến nay!
- Tao đi kháng chiến mà!
- Đã đành là đi kháng chiến, nhưng đàn bà không có đàn ông trong nhà, điều đó, bây giờ tao mới nghĩ ra, là một tội lỗi… của thằng chồng.
- Nhưng đâu phải tao muốn làm nên tội lỗi đó..
- Mặc dầu mày không làm nhưng đó là tội lỗi của mày.
Cao thở dài đau đớn. Hồi lâu. Ánh đèn loạng choạng trong tay, bước chân gập ghềnh trên những mô đá đất dưới chân.
-Tao không biết làm sao bây giờ! Cao sịt mũi hai ba cái liền.
- Về đi, rồi sẽ có cách ! – Tôi quả quyết.
Cao đưa tôi đến lều bảo:
- Nằm đó đi, tao đi triệu bà tới cho mày.
Tôi nằm, nghe rã rời cả tứ chi lẫn tâm thần. Tôi như một gốc cây mục bi xô ngã một cách hạnh phúc.
Rầm rầm rầm…! Rầm rầm rầm! Rầm rầm!
Tôi lăn xuống đất. Khi tôi tỉnh hồn dậy thì bốn phía rộ lên tiếng kêu thét hãi hùng. Hoàn hồn lại tôi mới hiểu ra đó là tiếng bom. Máy bay bỏ bom. Ban đêm !? Hay cà nông? Hay là cái gì khác?
Tiếng bom rền còn e e trong tai tôi. Có lẽ một trái bom rơi gần lắm cho nên hơi bom đánh bật tôi ra khỏi võng.
Tôi định thần lại một chốc rồi chạy bạt, mạng trở lều Vân. Vì tôi nghĩ có thể sau trận bom này giao liên đến di chuyển đoàn đi chỗ khác. Mình phải có mặt.
Đứng là tôi chạy bằng cặp “mắt cá” ở chân giữa trời tối như mực ngửa bàn tay không thấy. Vậy mà cuối cùng tôi vẫn đến nơi.
- Thằng Cao đâu? – Vân hỏi khi nhận ra tôi.
- Nó đi về đoàn chưa trở lại lều – Tôi hỏi lại – Cái gì vậy mậy?
- Bom trộm !
- Là bom gì ?
- Là nó trút một phát cả chục trái lên đầu mình rồi đi chứ không chơi kiểu như cồng cộc bỏ bom ban ngày vọt lên lao xuống, bỏ từng chập chỉ chết ba con rắn mối.
- Cha chả, Mỹ chơi kiểu mới hả!
- Tại mình tụ họp ở đây nấu nướng tùm lum. Đấy hồi chiều, máà có thấy không, mỗi lều mỗi bếp, lửa đỏ như đèn bán hàng bông chợ Tết trong mình.
- Bom dội khúc đằng kia.
- Mày ở đâu?
- Gần đó.
Chập sau tôi mắc võng ướt ngoài lều, trải một tấm ni lông lên võng. Vân đưa cho tôi cái khăn khô của nó. Tuy lạnh lắm nhưng nước không thấm áo nên nằm một chốc là lại ngủ trong tiếng nhao nháo văng vẳng xa xa đằng kia.
Một chập. Tôi nghe có người đi ngang và hỏi:
- Ở đây có ông nào là y tá hay bác sĩ gì không các cha.
Tôi cố gắng trả lời :
- Tụi tôi là nhạc sĩ và nhà báo !
- Đồ ăn hại. Cút mẹ mày đi. Người ta bị thương, được cái ích lợi gì nhạc với báo.
Rồi đi thẳng. Tôi nằm im thin thít.
Tôi thiếp đi tới sáng. Vẫn còn nghe tiếng nhốn nháo. Tôi tỉnh lại hoàn toàn và nhớ lại câu chuyện đêm qua. Tôi muốn trở lại tìm Cao, nhất là để biết xem nó có hề hấn gì hay không. Rủi nó có mệnh hệ gì thì tôi ẩn hận suốt đời .
Giao liên tới mắng mỏ một chập, nào là ăn ở bừa bãi, nào là vô kỹ luật, nào là chủ quan khinh địch – rồi ra lệnh đi theo anh ta sang chỗ mới.
Anh ta dặn:
- Hai mươi mấy người chết và bị thương đó, các ông các bà liệu mà ăn ở có lợi cho cách mạng và cho bản thân. .
Tôi hỏi: .
- Đồng chí có biết đoàn Văn Công bị thiệt hại gì không?
- Tôi không biết, nhưng tôi thấy bộ đội bị nặng nhất.
Người giao liên bảo bây giờ phải phân tán mỏng mỗi đoàn mỗi nơi cách nhau xa xa càng thưa người càng ít thiệt hại.
Bạn cứ tưởng tượng trong xóm có mười lăm, hai chục cái đám ma xảy ra cùng một lúc! Nó phải náo động cả xóm làng, nó phải tràn ngập nước mắt và khăn tang. Cỏ cây cũng phải rúng động, trời đất cũng thảm sầu. Ấy vậy mà ở đây không gì cả. Cả đến việc chôn cất !
Tôi không biết ai sẽ đảm nhận hay cứ bỏ đó mà đi. Ai chết cứ nằm đó hưởng vinh quang. .
Đến chỗ mới, chứng tôi lại bày cái cửa hàng xén của chúng tôi ra. Mặc dù tai nạn suýt chết nhưng người vẫn thản nhiên. Ai chết thì cứ việc chết. Ai sống cứ lo ăn uống như thường.
Vấn đề trước tiên cửa tôi và Hoàng Việt là xay bột. Vân nói ngay:
- Mấy ông thấy Chệt tán thuốc bắc làm cao đơn huờn tán không? Một là đâm như đâm tiêu, hai là nghiền trong cái cối giống hình chiếc mo nan dừa. Thằng Chệt đứng trên cái bánh xe sắt chạy lên chạy xuống, tay thì vịn gốc cột cho khỏi té.
- Nhưng mình tìm đâu ra cái “mo nan” đó?
- Túm gạo trong vải rồi kê lên đá, cầm hòn đá mà nện. Thế là gạo thành bột gạo chớ gì !
Theo kế hoạch của ông dược sĩ chúng tôi biến thành hai cái máy nện gạo. Tay kềm túm gạo, tay đập bình bịch, coi không giống đánh đàn piano chút nào hết.
Nhìn Hoàng Việt, tôi bật cười:
- Anh đinh ngủ với cọp đêm qua à?
- Thì liều mạng chớ biết sao bây giờ.
- Sao hồi vừa đứt đuôi anh không kêu lên cho người ta chờ.
- Mày chờ tao nhưng người ta đâu có chờ mày. Đứt chỗ nào cho đứt một chỗ. Nguyên tắc của đường dây là ai đi được cứ đi, ai đau ốm cứ nằm lại, ai chết cứ chết mà !
Đập xong cả chục kí gạo, cả hai cũng rã rời. Tôi mới biết sức khỏe của mình tiêu tán đi nhiều vì leo đá tai mèo cũng có mà vì nọ kia cũng có.
- Vụ mày tới đâu rồi ?
- Vụ nào ?
- Vụ con Nguyệt!
- Sao ông nghe ?
- Tao nằm nghe mơ màng thằng Cao bàn với mày.
- Chẳng tới đâu cả. Tôi cũng muốn gặp Nguyệt nhưng Nguyệt chưa tới thì bản đại hòa tấu nổ loạn xà bì hất tôi ra khỏi võng. Chắc trời không cho anh ạ.
Nhờ chị Phụng giúp sức mà chúng tôi có hai bòng bột khá to. Nhưng bột thì được cái gì ? Chỉ để dành khuấy hồ và nấu chè trôi nước chạy lạt với nước suối theo kiểu bột mì Liên Xô ở các hợp tác xã ăn ở Hà Nội thôi. Chúng tôi sẽ phơi khô rồi mang theo như một thứ lương khô.
- Mớ xương tổ tiên anh còn giữ đó không?
- Còn chứ! Bỏ sao được mậy!
- Đưa cho ông dược sĩ nấu dùm cho.
- À, phải. Ngồi buồn lại gặp chiếu manh. Mày thấy không, nếu tao bỏ đi thì bây giờ ân hận biết mấy.
Vân nghe nói xương khỉ thì rất khoái chí.
- Anh đưa đây tôi coi. Còn đủ bộ xương không?
- Còn đủ cả móng, chỉ có c… Hoàng Việt thấy chị Phụng ngồi gần đấy nên tốp lại kịp – chỉ có bộ đồ lòng thi thiếu thôi. – Hoàng Việt moi ba lô lấy gói xương đưa cho Vân.
Ông dược sĩ cầm cái gói vừa mở gói ra:
- Ở Hà Nội thì tôi nấu ra một ngàn chai cao bang long bán…
- Biếu cho Bộ Chính trị.
- Mấy lão đó thì phải uống cao hổ cốt mới nhảy lang ba nổi chớ cao khỉ nhằm gì!
- Hổ cốt cũng chưa đủ phải cao sư tử kia.
Vân hỏi:
- Bộ anh có nấu rồi hay sao vậy?
- Tôi mới nấu có vài tiếng đồng hồ thôi, thấy không ăn thua gì cả.
- Tôi có thuốc, bỏ vô nấu độ chừng một đêm thì rục !
- Vậy thì còn gì bằng!
Vân đem xuống suối cạo rửa thật kỹ rồi trở lên tìm chỗ nắng trải ra phơi.
Một cuộc chuyển quân lao nhao khắp vùng. Đoàn này đoàn nọ kéo qua địa điểm đóng quân của chúng tôi liên tục. Họ vừa đi vừa bàn về vụ bom trộm đêm qua, râm ran, hầu như vui vẻ như đàn bà đi chợ, không tỏ vẻ gì xót thương đồng đội vừa hi sinh.
Cuộc đời ở Trường Sơn là như thế. Văn minh vô cùng. Cái chết cũng chỉ đáng cười. Người ta có thể giở một chiếc mùng mắc trùm lên võng, thấy một mạng người nằm trong đó, hố mắt đã lọi nhọi những dòi mẹ dòi con, và bịt mũi quay mặt chạy như tránh một bãi phân, người ta thấy một bàn chân lòi ra dưới mô đất lê tè và cứ lạnh lùng đi qua, cũng như người ta thấy những bộ xương rũ trong hốc đá và chẳng có cảm xúc gì ngoài sự gớm ghiếc.
Chính tôi cũng thế. Cái chết, xác chết, xương người, tai nạn chết người, thấy như cơm bữa nên thần kinh chùng dần, không run nữa. Và ai cũng có ý nghĩ nay mai là sẽ tới phiên mình nằm trên võng chết bị dòi đục hố mắt, nay mai xác mình sẽ bi dập lòi chân ra, nay mai mình sẽ rũ xương trong hốc đá, ai sẽ khóc mình ?
Chẳng ai khóc ai. Con đường này một khi đã vào, không có lối trở ra mà càng đi tới thì càng thấy sự bi thảm mà cự bi thảm cuối cùng là cái chết.
Với mọi người, ai cũng như ai, tất cả đều không được thương xót và tất cả không phải thương xót ai. Xin thủ một cửa “Huề Vốn” cho canh bạc Trường Sơn này.
Tôi vừa “giã” gạo vừa có ý nhìn các đoàn đi qua để tìm đám Văn Công của ông nhạc sĩ nhưng không thấy.
Tôi nói với Hoàng Việt:
- Mình rủ thằng Cao đi lậu đi anh Bảy !
- Nó đám đi không?
- Gì mà không dám. Mình đã thấy mấy ông tướng đi lậu ở trạm ngoài rất kết quả!
- Sợ nó còn vướng rau muống ngoài đó chớ!
- Đó chẳng qua là một trạm thu mua thôi.
- Nó có con với người ta rồi, giỡn hoài mậy?
- Thì chánh phủ và đảng nuôi ! – Vợ tào khang còn bỏ đi tập kết được, thứ vợ chùm gởi không bỏ được để về xứ về với vợ tào khang hay sao?
- Mày chưa có vợ mày nói vậy chớ nếu mày có vợ rồi, lại có con nữa, mày sẽ biết là việc bỏ một người đàn bà không phải là chuyện dễ như ở trạm thu mua, nữa là một người đã biết mình có vợ, mà còn lấy và lại có con với mình.
- Tôi rủ nó, coi mòi nó xiêu xiêu rồi !
- Nó nói sao?
- Nó nói nó không muốn về để nhìn thấy sự tan vỡ. Nghe tan vỡ nhẹ lòng hơn thấy tan vỡ.
- Ở đó mà triết lý !
- Thì cũng như cái vinh quang vậy. Đời mình có những hai lần vinh quang. Lần thứ nhất, tập kết “Đi cũng vinh quang, ở cũng vinh quang!” Bọn mình đã cong lưng vì đội cái vinh quang “đi,” gia đình mình ly tán vì cái vinh quang “ở.” Mười năm cái lưng còng như vành nia, lại tới cái vinh quang Trường Sơn này.
- Ai bảo mày Trường Sơn vinh quang?
- “Đây Cửu Long hùng tráng, đây Trường Sơn vinh quang, thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù…” Phải không? Hì hì… ông chủ trại cưa Kim Hữu mần nhạc do Bộ Chính tri trẹo họng mớm lời. Không vinh quang là gì. Cái vinh quang này có lẽ nặng hơn cái vinh quang tập kết ! Nghe vinh quang không nặng bằng đội, cõng, đạp, đèo vinh quang trên lưng trên đầu trên cổ.
- Cái thằng, mày viết văn hả?
- Đêm qua nếu không có ông dược sĩ đi rước anh thì có lẽ cái vinh quang đó nặng cả tấn đấy ạ.
- Đâm hơi hoài mầy ?
- Vinh quang quá sá nên thằng nào được gọi đi Nam cũng mừng thấy mẹ ! Mừng vì được về quê. Về tới hay không là một chuyện nhưng được về là đã mừng rồi !
Mừng quá, mừng như Tôn Tẩn tái sinh.
Tôi được kêu đi Nam như một tin sét đánh vỡ tan nấm mộ kiên cố của tôi đắp bằng ai oán u buồn và hoài hương ở Miền Bắc.
- Anh biết tôi được gọi đi Nam trong hoàn cảnh nào không ?
- Trong hoàn cảnh nào ?
- Tôi đang công tác tại vinh, trong thời kỳ Mỹ leo thang ra Miền Bấc. – Tôi tiếp – Anh biết không? Nguyễn Tuân viết câu này: Trời đất gì cứ giềnh giang ra mãi!
- Là thế nào ?
- Là ông ta chán đời, ông ta muốn trái đất nổ tung đi cho rảnh. Tôi cũng vậy. Tôi muốn có một cái gì xảy đến quậy lên cái dĩa rau muống chính tri nhàm chán Miền Bắc mà các cái loa rỉ rắc tiêu lên hằng ngày. Chán đến cái mức độ tôi hết sức khoan khoái khi nghe có vụ tàu Mỹ vô Hạ Long và máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Hòn Gai Cẩm Phả.
- Cái thằng !
- Tôi nói thiệt mà. Tôi muốn cuộc kháng chiến chống Pháp tái sanh. Tôi muốn đi kháng chiến, sống trở lại cái không khí vinh quang và sáng ngời tinh thần dân tộc đó. Tôi thấy tôi vĩ đại vô cùng.
- Còn ra Miền Bắc xây dựng Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa không vinh quang à?
- Anh đi học nước ngoài anh không biết sự đời ở trong nước. Rồi khi tốt nghiệp về nước anh được gọi đi Nam ngay, anh không sống những bước đường gieo neo khổ ải của dân Nam kỳ quốc như bọn tôi.
- Thì cũng lãnh phiếu xếp hàng mua gạo mua thịt mua rượu là cùng chứ gì ? Nhưng như thế chẳng hơn trong kháng chiến bữa đói bữa no hay sao?
- Bữa đói bữa no nhưng chí khí ngang trời, còn phiếu thịt phiếu gạo phát đều nhưng con người cong xuống như những con vật. Tôi căm ghét xã hội chủ nghĩa. Tôi cảm thấy chủ nghĩa xã hội là cái cùm đeo trên cổ dân tộc ta mà kẻ tạo ra nó chính là đảng.
- Tại sao ?
- Tổ quốc Việt Nam là một cái, chủ nghĩa xã hội là một cái khác, không thể nhập hai thành một. Tôi yêu Miền Bắc, dù nghèo đói đến đâu tôi cũng coi đó là quê hương tôi nhưng tôi không thấy có một chút tình cảm nào – ngay cả sống một ngày trên đó, – với Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tôi đã có ý đinh chui trở lại tàu Liên Xô trở về Nam ngay khi còn ở bến Sầm Sơn kia đó anh
- Hồi đó xã hội chủ nghĩa đâu đã ló đuôi ra !
- Vâng! Nhưng tôi không chịu nổi sự nhớ nhà. – Tôi tiếp – Cho nên sau khi sống ở Miền Bắc chưa đầy năm tôi đã lên Ủy ban Quốc tế xin về Nam.
- Ái dà ? Cái đó bậy dữ à, chú em !
- Tôi là thằng kỳ cục khó chỉ huy mà anh Bảy. Chuyện không ai làm, tôi lại làm. Chuyện mọi người làm, tôi không làm !
- Như chuyện gì người ta làm mày không làm đâu?
- Khi ông Tố Hữu đến nói chuyện thì ai nấy đều đứng dậy, tôi không đứng. Hoàng Văn Hoan nói chuyện ở Thái Hà ấp, thiên hạ vỗ tay, tôi ngồi im rơ. Đến đỗi có người trừng mắt nhắc tôi đứng lên và vỗ tay. Mặc, tôi vẫn ngồi lỳ bất động.
Tôi kể tiếp về trường hợp tôi được gọi đi B.
- Kỳ đó tôi đang ở Vinh. Vinh đã trở thành một đống gạch vụn tua tủa những xương sườn xương sống nhà phố sập chĩa lên trời. Trường đại học Vinh đã di tản ra các làng lân cận. Tôi đang ở tại trận địa pháo thì nhân viên bưu điện đến báo cho tôi có điện khẩn từ Hà Nội. Tôi hỏi nội đung bức điện. Y bảo không biết nhưng là điện tối khẩn. Tôi không có cách nào đến bưu điện để xem mặt bức điện. Thành phố đang báo động cấp một. Pháo thủ đang ngồi trên mâm pháo chuẩn bi bắn. Cơm phải đưa tới cho họ ăn tại mâm pháo. Lúc bấy giờ đã mười hai giờ trưa. Tôi định liều mạng đi thì máy bay tới. Sau khi đánh bến tàu, nhà ga, phà, trường đại học, nhà tù bây giờ đến bưu điện. Sau trận bom, tôi vác xe đạp chạy đến bưu điện. Chẳng còn gì để gặp. Tôi trở về trận địa pháo. Nhờ điện lên Bộ Tư lệnh hỏi Hà Nội dùm. Ở trên bảo không có loại điện cho cá nhân. Tôi nghĩ: Có lẽ tòa báo muốn tôi sẵn ở Vinh đi luôn ra Cồn Cỏ chăng? Như thế sẽ đỡ tốn tiền và tốn máu cho một người đi từ Hà Nội vào tới Vĩnh Linh, trong lúc máy bay đã đánh gục cầu Hàm Rồng ở Thanh Hoá rồi. Nhưng anh tiểu đoàn trưởng bảo: “Cồn Cỏ không ai ra đó được trong lúc này. Tiếp tể cho chiến sĩ ngoài đó còn năm ăn năm thua nữa là chở nhà báo…hại !”
May sao tôi nhớ lúc ở Hà Nội sắp đi công tác, có thằng bạn ở Ban Thống Nhất tới chơi, rỉ tai cho biết tên tôi đã lọt vào “chung kết” và chừng một tháng thì có “trát” gọi. Hôm nay là trên dưới một tháng. Vậy là đi B chắc rồi!
Tôi bèn từ giã khẩu đội pháo, nơi tôi dầm sương dãi gió với các chiến sĩ và đã trông thấy họ bắn máy bay như thế nào. Rồi xách xe đạp lên đường phản hồi cố đô. Tôi đâm đầu chạy như cua-rơ. Cũng may là cặp lốp mới nên không ăn-panh dọc đường. Tôi tưởng mình đang gần lại quê hương mặc dù bánh xe lăn càng xa phía Nam đi về hướng Bắc. Trời lại mưa dầm dề. Tôi choàng ni-lông rồi tiếp tục đạp. Qua những đoạn đường bị bom cắt đứt, tôi phải làm “xe” cho xe cỡi ngược lại. Những cây cầu bị đánh gục chỉ bắc tạm bằng những mảnh ván lung lơ cho bộ hành đi tạm. Xe hơi đùn đống ở hai đầu cầu. Phà kéo tay không cung ứng nổi những chuyến đi cho xe quân sự. Mặc! tôi len lỏi tìm mọi cách qua được tất cả các chặng đứt.
Trời tối, xe đạp không có đèn, tôi lấy đèn pin ra xẹt lên tay rọi đường tay lái xe, chân đạp vun vút tưởng như đẩy lùi cả chục dặm trong một phút. Lòng yêu Quê Hương Tổ Quốc được thấy lại trong tôi như mười mấy năm trước. Với một chiếc xuồng với cặp chèo gãy chắp, tôi đã chèo qua cả sông Cái và vượt hằng trăm sông rạch từ miền Trung đến Tây Nam Bộ, coi cái chết như lông.

Ra đi ra đi bảo tồn sông núi,

Ra đi ra đi thề chết chớ lui!
Hùng tráng biết bao anh Bảy bày trẻ ơi!
Hoàng Việt cười:
- Tao ở chiến khu D cũng gian khổ chứ mậy!
- Để khoan, tôi kể tiếp cái vụ cầm đèn pin chạy xe đạp cho anh nghe.
- Sao không chờ sáng hãy đi?
- Chờ sáng à? … Cũng được thôi nhưng mà tôi nôn nóng không ở lại được. Nếu bức công điện bảo tôi đạp xe qua cầu Hiền Lương tôi cũng đi mà. Ngủ sao được với một cái điện gọi về Nam mà ngủ? Tôi đạp tới Cầu Giát, tức là quá Diễn Châu một đỗi xa xa, gần Quỳnh Lưu. Anh không biết vụ Quỳnh Lưu đâu. Để đó tôi kể cho anh nghe sau. Tới Cầu Giát thì đèn hết cháy. Pin Văn Điển hơi yếu công suất nên mới có hai tiếng đồng hồ đèn đã trở thành đom đóm. Ủa tôi quên nói cho anh rõ tại sao không chờ sáng hãy đi. Là vì đi đêm an toàn hơn ban ngày. Chả là máy bay nó đang “băm” khúc đường từ Vinh ra Thanh Hoá mà. Ban ngày không có bóng người trên Quốc Lộ 1.
Tôi té nhiều cái nín thở anh ạ! Những cái hố ở giữa đường mình thấy đâu có rõ. Cứ việc tông ngay xuống đó. Xe văng một nơi, người một ngã. May là bị nạn mấy lần mà đèn không đứt bóng.
Về đến Cầu Giát chừng ba giờ sáng. Tôi tắp vào một cái quán đèn đóm leo heo ở vệ đường. Ngọn đèn đón khách xe thồ và xe quân sự để bán bánh ú và chè xanh. Tôi tấp vào ngay ném chiếc xe bên hè và rứt bánh ú ăn, không cần hỏi giá cả. Nhưng lại cũng may. Tôi gặp may luôn luôn mà anh Bảy.
- May gặp bánh ú khi đói rã ruột hả?! Chà bây giờ mà có ba cái bánh ú o ở đây tao dám mua bạc ngàn! – Hoàng Việt chép miệng.
- Nhưng không chỉ gặp bánh ú mà thôi đâu. Tôi gặp cả người bán bánh ú nữa chứ. Một cô gái quê Bác chứ lỵ…Hí hí!!
- Cái thằng quỷ. Mày lúc nào cũng vậy!
- Thì anh đi bên Bún-cà-ri anh trả thù bố mẹ bằng cách rủ mấy em tóc vàng mắt xanh vô rừng thông hát song ca văn minh ra phết, còn em ở xứ mình em cũng cò lã trống quân ở trong nhà tranh vách đất có cái ổ rơm đầy dân tộc tính chớ sao anh Bảy bầy trẻ…ẻ! Không trả thù được để bây giờ ân hận sao? Số là hồi ra dưỡng lão ở đoàn 78 tại Sầm Sơn để chuẩn bị cởi áo lính, em đã xin đi Nông trường Trình Môn để viết một cái Đất Vỡ Hoang như Sô-lô-cốm.
- Cholokhov!
- Cốm với cốp với cột, cộm, côm, cốp gì thì cũng dissonant như nhau thôi anh Bảy. Khi vô nông trường này em được phong cho chức thư ký của một khu vực lớn nhất của nông trường. Trong số nhân viên văn phòng có một em coi khớ lắm, nhưng vì chức vụ cao cả, ông thư ký không dám bỏ ngón mi-nơ ma-giơ với nhân viên. Khổ cái là em đá lông nheo với đồng chí thư ký luôn. Hồi đó em mới hai mươi ngoài. Còn cô em thì lại chưa hai mưoi mà có thằng chồng đang độ quàng khăn đỏ. Tức mình thằng cu con chẳng nên cơm cháo gì nên cô em mới xin vào nông trường cho rảnh nợ. Trời xui đất khiến làm sao hôm nay ông cựu thư ký của nông trường lại đi công tác ghé vào quán cô em ăn bánh ú. Chả là cái nông trường này sau hai năm hoạt động thì dẹp luôn vì không có trồng được một cái cây gì kể cả cây lúa. Cô em lại trở về nhà và bán quán. Sống vất vưởng cho qua ngày. Gặp tôi, em mừng không thể tả. Em chẳng nói gì ý nhị nhưng ý cứ quấn quít bên tôi. Khi tôi ăn xong, cô trỏ cho tôi cái ổ rơm trong nhà và nói:
- Cầu Rừng bị đánh sập rồi. Anh không đi được đâu. Về đêm lại có cướp đấy. Lắm khách đi buôn đi xe thồ bị bóc sạch, chạy lùi về đây gọi công an, nhưng công an đi “chống Mỹ..ỹ” hết cả rồi. Anh chờ sáng hãy đi!
Tôi đang mệt nhừ lại còn có cướp chặn đường nữa, ở lại ngủ khoẻ rồi mai đi. Đó là sự hợp lý quá cỡ rồi. Không ở lại thì còn đi đâu.
- Cô em muốn hát tuồng dưng dưa cho vua Đường rồi!
- Ấy, anh nóng quá, để tôi nói hết đã. Tôi ngả lưng trên nệm rơm thơm phức. Hương rơm khô làm cho tôi nhớ thuở nhỏ chơi trò “vợ chồng” trên những đống rơm ở sân đạp lúa nhà tôi hết sức. Tôi ngủ lịm đi với giấc mơ lạ lùng anh ạ. Tôi mơ thấy tôi trở về quê. Tôi đã lớn và tôi thành chồng, cô bạn thuở xưa thành vợ. Chúng tôi làm đám cưới. Và tôi thấy chúng tôi trở thành vợ chồng thiệt, tôi thấy hạnh phúc thiệt, nghe rêm hết cả người.
- Đồ quỷ, nói bóng nói gió, hạnh phúc thiệt trong ổ rơm chớ mơ mộng gì, phải không? Mười bảy mười tám lấy thằng cu con sáu bảy tuổi. Nó gãi lưng con chị không đã ngứa, chị chịu sao nổi. Gặp ông thư ký xếp cũ cô em tặng cho cặp bánh ú nước tro đậu xanh là lô-gích lắm rồi.
Tôi ngó quanh không thấy vợ chồng ông dược sĩ ở trong lều nên không úp mở nữa:
- Sáng ra cô không e lệ tí nào cả. Cô nói: “Cầu Rừng vẫn chưa chữa được. Đêm qua lại có kẻ bị cướp. Ban ngày máy bay Mỹ đến liên tục, anh đi không được đâu. Để tối hãy đi.
- Mệt nhừ lại còn ăn bánh ú chắc mệt dữ hả? Ú o hay ú nguyên?
- Ngược lại anh ạ! Tôi không thấy mệt gì cả! Cứ như là không không ấy.
- Có hát đi hát lại Điệp Khúc không?
- Không hát Điệp Khúc nhưng bản nhạc có ba đoạn chính đàng hoàng. Mỗi đoạn hát xong nghỉ xả hơi bằng một bát chè xanh rồi lại hát. Hát xong đoạn ba, cô em tát vào má tôi mắng yêu: “Thế mà hồi ở nông trường cứ ra cái điều đạo đức. Người ta nhìn lại cứ lờ ra lạnh như tiền ấy!” Tôi bảo:” Có thằng cu đeo sau lưng nếu anh động tới em, nó khóc rinh lên làm sao?” Cô em bảo: “Em tống nó đi rồi em mới vô nông trường đấy.”
- Hèn gì ở Thanh Hoá dân bảo là một sư đoàn Nam Bộ uống rượu bằng một triệu dân Thanh Hoá, còn anh đội thì khoẻ nhu vâm, đánh ba ván liền không bỏ dở ván nào! Quả danh bất hư truyền. – Hoàng Việt cười nói.
- Nhưng mặc dù cô em cầm chân, sắc có ba đào đi nữa cũng không dìm được anh đội Miền Nam. Nàng khóc anh ạ! Nàng nói: “Em đã cho anh trinh tiết của em nhưng em không ân hận. Em biết anh không bao giờ trở lại đây nữa nhưng em vẫn toại nguyện vô cùng.” Tôi nói: “Anh sẽ trở lại đây đón em cùng về Nam với anh.” Nàng lắc: “Em không đi đâu.” -”Tại sao?” – “Vì anh không bao giờ giữ lời hứa. Người Nam không yêu người Bắc. Chỉ có người Bắc yêu người Nam thôi.” “Tại sao?” ” Người Nam bộc trực và nồng nhiệt. Người Bắc khéo léo nhưng xảo quyệt. Hai vợ chồng giống tính nhau không sống được với nhau, có chăng cũng thủ thế” . Tôi tưởng cô gái mộc mạc chỉ biết yêu đơn giản thôi, chẳng ngờ có nhận xét lạ lùng thế. Quả thật vậy, tôi biết nhiều cô gái Miền Bắc lấy chồng Nam Bộ lớn hơn mình mười lăm hai mươi tuổi mà vẫn hãnh diện và có hạnh phúc.
- Bị chúng níu áo rồi mày làm sao dãy cho thoát?
- Tôi chỉ hứa. Hứa theo kiểu lãnh tụ hứa với chúng ta. Đại khái tập kết hai năm. Tổng tuyển cử thống nhất đất nước trở về…
- Tội nghiệp con nhỏ bị mất trắng ba bàn hả?
- Đành thôi. Tại cô em khiêu chiến chứ tôi đâu có bụng gì. Tôi đang ngủ ngon, bỗng trở mình thì đụng làn da là lạ và hương tóc lẫn hương rơm nồng ấm rất thần tiên. Tôi tấn công như máy, trong mơ say như trong mộng vậy.
- Cha chả! Thôi đi ông nội. Mộng gì mà hát đến ba đoạn? Chắc là sáng bữa đó đạp xe trên đường, dây xích nghiến cót két, ổ đạn khua như xe ba gác hả??
- Không sao cả. Tôi đạp như bay ấy mà.
- Chút tí nữa ẵm một em Huế chính gốc Xô Viết Nghệ An đem về xứ, nói toàn dấu nặng nghe mệt điếng hồn, he!
- Dấu nặng nghe cũng êm tai chứ anh!
- Ừ vui lắm. – Hoàng Việt bật cười rồi tiếp – Để tao kể chuyện cái dấu nặng cho mày nghe về cái dấu nặng nghe êm tai. Hồi tao ở Chiến khu D bị ruồng bố liên miên nên ở trên chủ trương quân sự hoá cơ quan, Phòng Chính Trị được tổ chức thành một đại đội lính cậu. Đại đội do một ông Huế Nghệ chánh hiệu Nai Vàng tên là Vũ Sơn làm đại đội trưởng. Buổi sáng nào cũng thức đậy, bốn bộ phận tập họp thành bốn trung đội hàng dọc. Đại đội trưởng Vũ Sơn đứng trước quân hàng dõng dạc ra lệnh:
- ” Cạc trụng đội một, hai, ba bộn kiệm điệm quận sộ xọng bạo cạo”
Lần lượt các trung đội trưởng báo cáo. Khi các trung đội báo cáo xong, đại đội trưởng quát:
- “Trụng đội nạo đụ rội thị cho vệ trại, trụng đội nạo chựa đụ thì đựng đọ, trụng đội vệ trại xẹm cọ ạnh chị ẹm nạo bệnh khộng?”
Trừ các anh Huế Nghệ còn kỳ dư thì Nam lẫn Bắc đều cười rộ lên. Đại đội trưởng không biết chuyện gì , càng quát to:
- “Đụ rồi thì vệ trại lậy cuộc đi sạn xuật, chị riệng nhựng trụng đội chựa đụ thị đựng lại đọ chợ ạnh chị ẹm rạ đụ đạ rội hạy vệ trại sạu.”
Mọi người lại bịt miệng cười, riêng các bà thì đỏ mặt tía tai. Một anh Nam Kỳ vọt miệng nói:
- “Đụ rồi mệt lắm đại đội trưởng ạ, không đi sản xuất nổi, cho nghỉ một bữa.”
Đại đội trưởng gắt:
- “Tự rạy cạc trụng đội tự động kiệm điệm lại trại, hệ trụng đội nạo đụ rội thị cự cho đị sạn xuật, khộng cận lệnh đại đội nựa. Rọ chựa nạo?”
- Rõ! Hễ đụ rồi thì đi cuốc đất, chưa đụ thì đứng đó chờ đụ rồi mới đi.
Cả đại đội cười ì ì như vỡ chợ. Ông đại đội trưởng ngơ ngác không hiểu lý do gì. Mãi về sau, khi rõ ra thì cái dấu nặng đã thành trò đùa khắp cơ quan. Và ông đại đội trưởng hạn chế việc tập họp toàn đại đội, nhưng lại xảy ra chuyện dấu nặng khác. Chuyện “nước mắm đổ lộn mỡ”. Ông đại đội trưởng là Huế Nghệ rồi ông anh nuôi cũng Huế Nghệ. Hồi đó mỡ heo rất hiếm. Bữa cơm nào có tí mỡ pha với nước mắm thì môi người nào cũng láng láng béo béo. Anh nuôi đứng trước ba quân hãnh diện tuyên bố: Hôm nay thay vì muối muôn năm, anh em được xơi “nước mắm độ lộn mợ.” Từ tiếng “lộn mợ” anh em lại bỏ một dấu huyền thành ra anh em được ăn nước mắm đổ “l…mợ”! Bữa nào ăn muối, anh em lại hỏi: Chừng nào mới có nước mắm đổ “l… mợ” cho anh em xơi đây anh nuôi? Nước mắm đó ăn béo phải biết. Đó – Hoàng Việt cười – Dấu nặng nghe êm tai chưa?
Tôi hỏi:
- Anh húp được mấy lần?
- Biết mấy lần mà nói!!
- Giá bây giờ có mợ để mình đổ nước mắm!!
- Ngã mặn hả các cha? – Ông dược sĩ từ dưới suối đi lên vuốt đuôi.- Chuyện nước mắm đổ lộn mỡ đó mới báo động cấp hai về sự bất đồng ngôn ngữ. Để tôi kể cho hai ông nghệ sĩ câu chuyện báo động cấp một. Bà xã tôi còn ở dưới suối giặt giũ lâu lắm, tụi mình thừa cơ hội này mà tiếu lâm cách mạng một bữa.
—>Chương 18


- 18 -
Ông dược sĩ bỏ hai bọc ni-lông nước vĩ đại xuống đất rồi rề lại ngồi bên Hoàng Việt, soán ngôi giã gạo của ông ta và nói:
- Cái vụ này không phải là nghề của anh. Đưa cho tôi sáng tác thuốc tán cho. Rồi tiếp – Hồi mới ra Hà Nội, tôi bi đày vô Ty Y tế Hà Tĩnh, một cái ty nhỏ bằng cái bẹn l… con nít. Công tác ở đây hai năm, chẳng thu thập được một kinh nghiệm hoặc kiến thức nghề nghiệp gì, nhưng tôi có nghe được một chuyện thiệt ngộ. Số là ở Ty Y tế tỉnh có một nữ bác sĩ mới ra trường. Một hôm có một cặp vợ chồng Nam Bộ tập kết đến. Anh chồng vào phòng trình bày với bà bác sĩ như sau: “Không biết tại sao tôi cứ địt liên miên không ngưng được, cứ mười lăm hai mươi phút lại… một phát. Vợ tới nằm bên cạnh không chịu nổi phải bỏ đi. Không tin bà hỏi vợ tôi xem có đúng không?” Bà bác sĩ đỏ mặt tía tai nhưng cũng gượng mời bà vợ vô xác nhận. Bà vợ cũng khai thật như vậy: Đàn ông nhà tôi địt liên tục bà bác sĩ ạ. Tôi không có ngủ nghê gì được, bà bác sĩ có thuốc gì ngưng bớt lại không, nếu cứ thế này thì tôi ốm mất. Bác sĩ hỏi: Anh ấy thường bữa ăn những món gì. Chi vợ đáp: Dạ thì cơm cơ quan đâu có gì cho lắm, cho nên tôi mua đậu phộng rang mặn để trong hộp ghi-gô, mỗi bữa ăn xúc ra vài muỗng thêm với thức ăn
- Vậy còn tệ hơn nước mắm đổ lộn mỡ nữa! – Tôi vọt miệng nói.
- Đâu có tệ gì ! Bà bác sĩ đã chắc mẽm là đã phát hiện một phương thuốc mới cho nhân dân nhất là cho mấy ông Bộ Chính Trị già cúp rồi mà còn ham hầu non. Bà bảo anh chồng: Đấy là vấn đề sinh lý lẫn tâm lý. Vậy ta phải dùng khoa tâm lý lẫn thuốc men, nhưng phải lấy tâm lý làm chính. Đồng chí có biết khi Hồ chủ tịch yếu đôi mắt, Hồ chủ tịch tập nhìn vào bóng tối để tự luyện nhãn lực hay không. Và phương pháp này đã thành công. Bây giờ Hồ chủ tịch đã có cặp mắt sáng vô cùng. Về bệnh… của đồng chí, đồng chí nên biết tự chế. Khi muốn… cái vụ đó thì đồng chí nên tự bảo thầm là không nên… làm thế nữa, chẳng những có hại sức khỏe cho đồng chí mà còn hại sức khỏe cho vợ đồng chí, như vậy năng suất công tác sẽ xuống thấp, sẽ có ảnh hưởng cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà…
- Và Hòa bình thế giới nữa chứ! – Hoàng Việt chêm vào – Bốn kí lạc bằng kí thép mà!
- Bà bác sĩ không cho thuốc men gì cả mà bảo anh chồng về thi hành phương pháp đó, ba hôm sau trở lại khám ! Hôm sau có một cặp vợ chồng người Bắc đến khám. Ông chồng thú thật là mình yếu sinh lý không thỏa mãn được vợ. Anh ta còn thú thật rằng khi ở nhà trọ hợp tác xã anh có nghe qua tấm vách cót thưa thớt hai vợ chồng một anh cán bộ cãi nhau. Người vợ than phiền “Anh đ. gì đ. không nghỉ vậy ai chơi cho nổi ! Bác sĩ bảo anh nghỉ ăn đậu phộng mà anh không chịu nghỉ thế nên vẫn bệnh nào tật ấy! Mai tôi đem quăng cái hộp đậu phộng thế là anh dứt cái vụ ấy ngay.” Kể xong câu chuyện đó, bệnh nhân nhờ bác sĩ xác nhận xem đậu phộng có phải là củ lạc ở xứ ta không và có phải lạc rang chữa bịnh yếu sinh lý một cách hiệu quả không? Bà bác sĩ gật đầu lia lia và ghi liền một đơn thuốc: “Mỗi ngày cung cấp cho bộ phận tiêu hóa hai thìa vun lạc rang mặn liên tục, trong hai tuần lễ, khám lại.” Hai tuần lễ sau, bệnh nhân đến báo cáo kết quả không mấy gì lạc quan. Bác sĩ gia tăng liều lượng gấp đôi. Hai tuần sau lại đến, vẫn không lạc quan. Bác sĩ lại gia tăng lên gấp bốn của lần thứ nhì ! Không đợi đến tuần sau mà chỉ hôm sau, vợ bệnh nhân tới than thở: Anh ấy nằm mẹp không dậy nổi ! – Bác sĩ gắt – ” Cái gì quá lố đều không tốt cả. Phải biết tự chế lấy mình chứ. Tôi đã cho liều cực mạnh, nên anh ấy ham hố cái vụ kia quá mức kế hoạch cho nên bây giờ mới ngóc đầu dậy không nổi chớ gì. Nếu anh ấy điều độ như mấy ngày đầu vậy thì đâu có đến nổi ?” Vợ bệnh nhân nói: “Mấy ngày đầu anh hoàn thành kế hoạch gia đình cũng như cơ quan hoàn thành kế hoạch nhà nước vậy ạ!” Thấy không? Năm trăm phần trăm – Bà bác sĩ suýt kêu lên vì mừng rỡ nhưng sực nhớ lại năm trăm phần trăm của cơ quan là báo cáo ma nên tốp lại kịp và gắt: “Vậy ra ba cái củ lạc không ra cái củ… gì ráo à?” – “Dạ ảnh toàn đánh dấm ạ!” Ối giời ơi ! – Bà bác sĩ kêu lên – Thằng cha Nam Bộ hại tôi rồi. Đánh dấm không nói đánh dấm mà nói đ… có chết người không? May cho tôi là tôi chưa báo cáo sáng kiến lên Bộ Y tế (*) chứ nếu tôi nhanh nhẩu đoản thì tôi bay chức rồi.
(*) Bà bác sĩ ơi, bà chớ có ngây thơ, dù bà đã tìm ra cái sáng kiến lạc rang kia nữa thì các lão Bộ Chính Trị cũng không có dùng đâu. Các lão có dái bò Mông Cổ và sâm Triều Tiên. Cũng như năm nay 1989 các lão hô hào nhân dân ta uổng nước tiểu để tri bệnh, nhưng các lão và dòng họ thi xài thuốc Mỹ thuốc Tây mút mùa cu xanh thôi
Ông dược sĩ kể xong thì buông hòn đá cuội dùng làm chày giã gạo từ nãy giờ, kêu:
- Ngôn ngữ bất đồng, kẻ nói “dấm” người hiểu “ớt” làm thế nào thống nhất đất nước được !
Tôi cười:
- Thì cả hai thứ đó cũng bỏ chung vô “nước mắm đổ lộn mỡ” cả chứ gì !
Cả bọn cùng cười. Hoàng Việt ngẫm nghĩ một hồi rồi tiếp:
- Tao đang nghĩ xem bên Bungari có thể dịch cái chuyện đó của mình không?
- Cái “sự” đó bên Bungari gọi là gì anh Bảy?
- Tao không biết !
- Ở bên đó lâu vậy mà anh không biết cái tiếng phổ thông đó sao ? Vậy mỗi khi anh dắt mấy em vô rừng nhậu pícnic rồi đi tới cái sự đó anh nới làm sao ?
- Đâu phải nói bằng mồm nữa mà nói bằng tay bỏ ngón sol đố mì chớ mậy!
Có lẽ ông dược sĩ ở gần bên vợ luôn nên phải giữ mồm giữ miệng và có cả một bầy tiên nữ đi theo nên càng giữ đạo đức, bao nhiêu tiếu lâm y tế đều bị ém chặt trong dạ dày, kỳ này gặp các nhà nghệ sĩ tha hồ ngã mặn.
Ông ta hăng hái tiếp:
- Còn một chuyện nữa ác lắm!
- Chuyện “anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chứ gì ! Hoàng Việt xen vào.
Tôi cười lăn ra:
- Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó chắc tôi đã ghi sổ tay rồi. Đâu kể nghe coi giống không?
- Thì cũng đại khái đó là hên như cô nông trường của mày chớ gì. Thằng cu con hoàn thành kế hoạch năm trăm phần trăm bỏ chỉ tiêu nằm trơ trơ mà chạy làng.
Vân tiếp:
- Nhưng may cái là có anh đội Miền Nam.
- … được điện khẩn về ghé qua, phải không?
- Nàng ta kêu ” anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí ! ” Thế là anh đội tiến vào cái chỉ tiêu và nghiến răng: Muốn chết tao cho mày chết. Nó . .ào !
- Ba ván không bỏ dở ván nào !
Ba thằng đang cười thì có tiếng từ dưới suối vọng lên:
- Anh Vân ơi 1 Giúp em tí !
Bọn này lại cười ầm lên! Vì đó là tiếng của chị Phụng. Tôi bảo Vân:
- Đi xuống giúp vợ mày đi. Đạt kế hoạch nhanh nhanh nhé! Đứng lên…nà…ào ! !
- Không đạt nổi đâu cha non !
Vân “giúp em tí” mang đồ lề lên lều nào nước, nào quần áo ướt lùm đùm lề đề. Chị Phụng trách yêu chồng:
- Anh bảo anh lên rồi trở xuống liền sao ở trên này lâu thế. Em đợi mãi.
- Mà nó có “giúp” chị tí nào không?
- Dạ có ạ, ảnh giúp nhiều chứ ạ!
Tôi và Hoàng Việt cười ngặt nghẹo. Hoàng Việt hỏi:
- Thím biết tại sao nó ở trên này lâu vậy không?
- Chắc ảnh uống trà với anh chớ gì !
- Không, nó mắc rang đậu phộng đó chị ơi !
- Đậu phộng ở đâu mà có !
Tôi và Hoàng Việt cười ầm lên. Chị Phụng không hiểu chuyện gì. Vân nói:
- Hộp đậu phộng lương khô của mình đấy em.
Chị Phụng gật đầu:
- Ừ phải rồi, đem ra cho mấy ảnh uống trà đỡ đỡ!
- Ủa vậy chú Vân có món thuốc quý đó nữa sao thím ? — Hoàng Việt hỏi .
- Có chứ anh, đeo dính trong lưng mà. Anh ấy bồi dưỡng bằng hộp đậu rang đó.
- Mỗi ngày chú uống mấy thìa vun?
- Dạ đậu phộng mà, đâu có uống được anh !
- Tôi nghe ông dược sĩ nói đó là thuốc quí. Bác sĩ nào viết toa cho chú ấy vậy thím ?
- Bác sĩ nào đâu anh? ảnh tự “cho toa” ảnh đó chớ!
Vân cười :
- Anh mới vừa kể cho các ông nghe xong cái vụ bà bác sĩ ở Hà Tĩnh.
Chị Phụng đỏ mặt và quay đi:
- Hết chuyện rồi sao anh kể chuyện đó ? Các ảnh ngạo anh cho coi !
Nhờ lều của ông dược sĩ kín đáo nên chị Phụng nấu cơm bên trong, khói ít bay lên. Cơm xong Vân bắt đầu nấu cao khỉ .
Hai cái nhà máy nghiền gạo đã hoàn thành kế hoạch. Bột gạo rây rắc tùm lum trắng một vùng đất sỏi. Cả hai đều phồng tay. Vân nói:
- Vợ tôi có thể làm bánh chiều nay ăn chơi .
- Bánh gì ?
- Bánh bèo, bánh bò, bánh lá, bánh xếp, các thứ bánh làm bằng bột gạo, kể cả bánh xèo.
- Bánh xèo ! – Tôi reo lên – Chị cho ăn một bữa bánh xèo đi ! Nhưng mà… Tôi giật mình rút ý kiến lại – Ở đây đâu có phải là Vườn Cò hoặc Ông Dèo Cần Thơ mà chị làm được các món đó. Làm sao có chảo? Mỡ đào ra? Đâu có nghệ để pha bột?
Vân xua tay:
- Mày đừng có lo ! Tao có cả.
- Trời đất ! ăn một miếng bánh xèo ở giữa Trường Sơn này còn hơn ăn yến với Ngọc Hoàng nữa đó.
Vừa dứt lời thì anh giao liên tới. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Một anh chàng gầy như những chàng giao 1iên khác mà tôi đã gặp từ Làng Ho tới đây, nhưng anh chàng này lại mang giày ba ta, loại giày mà quân đội Nhân Dân Việt Nam dùng ở Hà Nội khi duyệt binh. Anh ta nói:
- Trận bom đêm qua tôi tưởng vừa chết vừa bị thương trên hai mươi người, nhưng các đoàn báo cáo tổng cộng lại, trên ba chục. Hiện đoàn đang đi tim người mất tích của họ.
Tôi vọt miệng hỏi :
- Hồi nào tới giờ mình có bị trận nào như vầy chưa đồng chí.
Anh giao liên nói:
- Đây là lần thứ nhất.
- Thứ này không đề phòng được !
- Trời kêu ai nấy dạ thôi ! Đang ngủ chết luôn không biết gì hết! – Anh ta nói tiếp – Chúng tôi yêu cầu mỗi một đoàn cho một vài người đến tiếp với chúng tôi thu dọn chiến trường. Ở đây ai trưởng đoàn ?
- Tôi ạ! – Vân đáp.
- Đoàn đồng chỉ có bao nhiêu người ?
- Mười hai người, nhưng toàn là nữ giới ! Chỉ mình tôi là sồn sồn đây thôi.
- Các bà thì làm gì được.
- Không sao, tôi xung phong ! Tôi là bác sĩ !
- Thế thì hay lắm. Đồng chí cứ lại đằng trạm kia !
- Trạm nào ? Trạm cứu thương à ?
- À! Không có trạm nào cả, lại đằng chỗ thương binh tập trung chờ cứu thương.
- Ở đây không có trạm xá trạm gì hết sao đồng chí ?
- Một cuộn băng còn không có nữa là trạm xá. Người ta bị lùa vô đây và tự lực sống, tự lực chết. Đồng chí xem, tất cả tài sản trang bị của một tên giao liên, tôi đi đâu cũng mang dính theo người, có thế này thôi. Trước tình thế này, tôi giải quyết cách nào? Tôi chỉ trốn. Nếu không, họ đánh tôi. Họ đã dọa bắn bỏ rồi.
- Tại sao đánh ?
- Họ điên họ đánh bậy vậy thôi ! Đồng chí là bác sĩ thì hãy đến đó dùm đi. Tôi không dám trở lại. Họ hạch sách đủ thứ. Tôi không có thứ gì. Họ nổi sùng lên.
- Rồi có chuyện thì ai dẫn đường?
- Tôi ở luẩn quẩn quanh đây chứ có dám đi đâu. Tôi cũng còn có trách nhiệm với các đồng chí.
- Hiện giờ có chừng bao nhiêu người ở đây?
- Cứ đến ào ào, tôi đâu có biết.
- Không có kiểm điểm quân số gì hết, rồi làm sao đồng chí biết ai còn ai mất.
- Cái đó tôi không chịu trách nhiệm !
Hoàng Việt xen vào:
- Rủi có vài người đau đi không kịp đoàn, bị rơi lại sau rồi đồng chí làm sao?
- Đâu có làm sao! Rủi lạc hoặc theo không kịp thì rán chịu.
Vân nai nịt và quảy túi thuốc lên vai. Tôi cũng đi theo cho biết. Lâu quá mới thấy hố bom. Hồi kháng chiến chống Pháp tôi thấy được chục rưỡi lần. Khi máy bay leo thang ra miền Bắc thì tôi thấy dấu đạn rốc kết lẫn hố bom. Nhưng hố nhỏ thôi. Bây giờ hố to gấp ba lần cái hố mà tôi thấy ở Vinh. Và không phải một cái. Sáu cái liền. Cách một quãng, lại năm sáu cái liền nữa. Cái gì có thể còn được (dù cái đó là sắt đá đi nữa) ở khoảng cách giữa hai chiếc hố với nhau? Sức hủy diệt thật kinh khủng. Một vùng đất trống rộng được khai phá giữa rừng đêm qua bằng bom, trong nháy mắt. Nơi đó, trước một phút là rừng cây với tàng lá bịt bùng mặt trời không rọi thấu đất, là bếp lửa, là cơm nước, là trò chuyện, là nghỉ ngơi ,là mơ tưởng quê hương. Sau tiếng ầm tất cả không còn gì ngoài cát bụi. Cây bật gốc, đất đào thành hố, đất nghiền thành cám thịt xương cũng tan như bụi. Cố nhiên rồi. Nhưng những ai? Vì sao? Cha mẹ vợ con họ ở Miền Nam trông chờ. Hai năm. Không thấy. Mười năm vẫn không thấy. Và không bao giờ thấy. Cũng không bao giờ biết được tại sao người ra đi không trở về. Sẽ không có một mẩu giấy nào báo tin. Chính những kẻ chủ trương đẩy họ vô đây cũng không có sổ sách nhật ký của một anh đồ tể của lò sát sinh. Họ lùa vô đây đông quá. Có số triệu. Ai đếm nổi ? Nhất là tất cả đều đổi tên. Ai mò cho ra gốc.
Khi tôi vừa trông thấy chỗ tập trung thương binh, tôi bảo Vân:
- Mày ở đó làm việc, tao về lều.
- Tại sao?
- Tao không chịu nổi…
- Mùi tanh à?
- Không phải ! Chính là sự bi thảm.
- Nghề của tao là thế đó.
- Mày đã trở lại thời kỳ hai mươi năm trước. Cắt tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc.
Bỏ Vân ở lại, tôi quay về. Vừa đi vừa nhắm mắt, vấp ngã, mở mắt, bò càn qua những thân cây, những hố bom đất đen như than.
Về đến nơi tôi mắc võng nằm ngay, mắt nhắm tít, cố xua đuổi những gì mắt tôi đã chụp được: toàn bộ bức tranh máu.
Bữa bánh xèo dự định đã tan trong ý tưởng. Chỉ có bữa cơm chiều lạt lẽo.
Tối mịt Vân mới về. Hắn đứng ngoài lều gọi vợ:
- Em lục đưa anh cục xà bông.
- Cần chai cồn không?
- Cồn đâu cho đủ.
Chờ cho Vân tắm rửa xong trở lên lều, tôi mới vào, hỏi:
- Bao nhiêu?
- Ai biết được !
- Mày băng bó bao nhiêu người ?
- Từ đó tới giờ. Không có gì hết. Xé chăn màn làm băng. Chặt cây rừng cặp nẹp xương gãy.
- Có nghe tin đoàn thằng Cao không?
- Không! Nhiều đoàn bay gần hết.
- Rồi giải quyết số chiến thương thế nào ?
- Không biết t Cứ để đó cho họ rên. Một số lớn sẽ không qua khỏi đêm nay. Một số khác vài ngày thì chết nếu không đưa kịp đến viện: Đưa bằng gì? Khiêng! Ai khiêng? Ai chịu trách nhiệm? Giao liên! Mà giao liên không nhận trách nhiệm đó. Và chỉ có một thằng là tao, làm gì được? Nó trốn là phải! Phải trốn.
Ngưng một chút.
- Sáu chục quả bom mày ạ. Vân nói. .
- Mày đếm à?
- Mấy chả bảo thế.
- Ai ?
- Tụi chết hụt!
- Chôn cất thế nào?
- Ai chôn?
- Biết đâu ! Chứ không ai chôn cất gì hết à?
- Đâu còn ai ở đó mà chôn cất.
- Rồi để vậy hay sao ?
- Tao biết trả lời cho mày thế nào? Ai còn sống đã bò lê đi hết ráo rồi ! – Nói xong, Vân móc túi quần đưa cho tôi một cái bóp, bảo – Đây là cái bóp của tao lượm được, rồi rút trên túi quần một xấp giấy, nói – Đồng chí này bị đứt mất một cánh tay, cánh kia còn dính da. Tao dùng dao mổ cắt tiện như đồng đội chặt tay La Văn Cầư trong chiến dịch biên giới. Máu đã ra nhiều quá. Nếu tao đến sớm có thể kịp Tao băng bằng cái áo của tao. Anh ta còn tinh nhưng nói hết ra tiếng rồi. Môi mấp máy và đầu gục gặc xuống ngực. Tao đoán chắc anh ta muốn tao móc đồ trong túi áo anh ta ra. Tao móc xấp thư vấy máu, liếc qua thấy mấy chữ Biển Bạch ở dưới cuối tờ giấy. Tao hỏi “Nhà ở xã Biển Bạch hả?” Anh ta gật. Tao hỏi: “Có vợ con gì chưa?” Anh ta lắc. Tao hỏi cha mẹ có còn đủ không? Anh ta gật. Tao nói: “Để tôi giữ mấy lá thư này, khi về tới trong Nam tôi tìm cách nhắn tin dùm cho”. Anh ta gật khe khẽ mà nước mắt ròng ròng.
Vân cũng nghẹn ngang, không nói nữa và kêu chị Phụng lấy cơm ra ăn. Tôi không ăn được, bỏ về võng nằm, lấy đèn pin bấm lên và giở chiếc bóp ra. Một tấm hình bán thân gắn ở ngăn đầu. Tôi kêu lên. Hoàng Việt nằm im từ lúc Vân về lều tới giờ nghe tiếng kêu cửa tôi, bèn hỏi.
- Lại một thằng quen thăng thiên hả?
- Anh nhớ ba lão “tá” đi lậu không?
- Nhớ chớ !
- Cái lão đen đen trán hói hói ! Anh nhớ không?
- Mấy chả đi đổi chó đổi gà trong làng khu Eo đó mà ! Rồi sao ?
- Đây là cái bóp cửa chả.
- Trời đất ! Sao mày biết chắc là của chả?
- Hình chả đây nè. Ảnh chụp mang lon đại úy.
Hai đứa lặng im. Tôi xếp bóp lại, tắt đèn. Cái chết đến thật là chóng vánh. Đáng lẽ mấy ông đi tuốt rồi ! Nếu không kẹt đường thì đâu có bị bom trộm.
Bôn ba về xứ, chẳng ngờ nằm lại giữa đường. Ở mấy trạm trước đây một ông già năm mươi lăm tuổi đã kiệt sức Và cũng nằm lại trong một cái hố cạn sát và không đủ bề dài cho ông, đào bởi những cánh tay rũ liệt. Nhưng ông hãy còn được vùi dập ấm áp hơn nhà quân sự này. Ai biết được thịt xương ông bay về hướng nào hay văng mắc trên cành cây ngọn cỏ nào? Có thánh thần mới biết.
Khi tôi đến đơn vi Công binh của ông ta đóng ở Bến Phà Lược gần đền Vua Lê ở Lam Sơn, để tìm tài liệu và truyện “Những Tiếng Nổ Ngầm” nói về chiến công đánh sập cầu Bến Lức trong cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Bộ, tôi được ông chỉ huy này ưu đãi vô cùng. Muốn gì cũng được cả. Kể cả ăn uống ăn chung mâm với Ban Chỉ Huy. Lúc đó ông đã ngoài bốn mươi mà chưa vợ con gì. Đi kháng chiến hồi 45 lúc hai mươi hai tuổi, hòa bình ba mươi hai, mươi năm trên đất Bắc gió bấc mưa phùn gã thanh niên đã trở thành ông già tóc lốm đốm bạc. Có một lần đánh bạo hỏi một cô gái địa phương, liền bị từ chối thẳng thừng. Ông ta cũng nói trắng trợn ra: Về Nam kiếm ổ nào đố, “hốt” một cái, chớ con gái hết ưng mình rồi. Có lần tôi nói, cho ông biết là con gái quê mình chờ dân tập kết về đón cả hai tay và sẵn sàng trừ cho mười tuổi, nghĩa là ông còn thanh niên mới ba mươi hai xuân xanh. Ông cười khè khè: Tụi nó nói vậy thôi, chứ khi mình về, tụi nó kêu bằng “bác.” Bây giờ cả mộng hốt ổ cũng không thành. Sống cô đơn, chết cũng cô đơn.
Tôi đã được cậu giao kết giao cho kỷ vật của một thằng bạn ở trạm ngoài, bây giờ vô đây lại thêm một món nữa. Từ đây về đến nơi còn bao nhiêu loại kỷ vật này, hay ngược lại, một người khác cũng sẽ lượm được cái bóp của tôi.
Không ai bảo ai, những người đi trên đường này đều ghi rõ tên mình, địa chỉ bố mẹ, hoặc vợ con sau lưng tấm hình của mình hoặc trên một mảnh giấy con cất kỹ trong bóp. Tôi cũng thế. Khi giã từ Hà Nội thì chưa làm, nhưng sau vài cơn sốt thì tôi làm việc đó một cách rất cương quyết. Không đợi tới bây giờ.
Vân ăn cơm xong, tôi hỏi:
- Mấy giờ rồi mậy?
Chị Phụng giơ tay lên bấm đèn pin và kêu:
- Ủa sao bây giờ mới có hai giờ.
- Đồng hồ của chị là loại ô-tô ma… lắc chắc.
- Xách-mác-đâm-ba nha (*) đó nghe mậy ! – Vân cười hóm hỉnh.
(*) Đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Printania Suisse made.
- Xách-mác gì kỳ vậy.
Chị Phụng lắc lắc đưa lên tai nghe và nói:
- Chết cứng rồi ! – Chị mở ra đưa cho Vân xem.
Vân lắc lắc, vặn vặn, nhưng vẫn lắc đầu. Rồi thốt lên:
- Thôi đúng rồi. Bom nổ chấn động hỏng trục gió.
Hôm sau giao liên tới bảo dời địa điểm vì có mùi. Anh ta lắc đầu:
- Nguy quá! Không biết chừng nào mới xoi thông đường. Ở tràn lan thế này nó chơi một phát nữa rụng hết.
- Đi đâu đồng chí ?
- Kỳ này tôi phải cho đóng xa suốì mới được.
- Sao vậy?
- Tụi nó biết chỗ nào có suối là có mình đóng chớ sao.
Tất cả đoàn này đoàn nọ lôi thôi lếch thếch đi theo anh ta, không còn trông ra cái thể thống đi giải phóng Miền Nam gì nữa. Kẻ quảy, người xách, ôm, gánh một cách trăm hoa đua nở.
Tôi hỏi Vân:
- Đi trở ra hay sao thế này?
- Nó dắt đi thì đi, nó bảo đứng thì đứng. Không được hỏi.
- Mình đã qua khỏi khúc Eo chưa?
- Ối ồi ! Qua lâu rồi , sắp tới Cà Mau!
- Vậy qua khỏi Bà Đầm Thái Lát Ông Dèo rồi à?
- Chưa, sắp tới ! Chừng nào qua vịnh Trà Bay là thấy lố dạng Kinh Xáng Xà No đổ qua Kinh Mười Thước thì tới Kinh Xáng Bà Đầm.
- Thôi mấy ông ơi, đừng có nói kiểu đó, nhớ nhà đứt ruột đứt gan đi ! – Chị Phụng phản đối.
- Tới nơi làm bánh xèo nghe chị!
- Tôi rầu thút ruột đây xèo gì nổi mà xèo. .
- Sống ngày nào lạc quan ngày nấy chứ chị? Sống phải no để khỏi chết đói chứ!
Giao liên dắt đi gần nửa ngày đường mới cho hạ trại. Anh ta trỏ tay bảo: “Suối hướng đó.”
- Chừng nào đi, đồng chí?
- Chừng nào có lệnh thì đi ! Các đồng chí ăn ở cho cẩn thận ! – rồi biến mất.
Bọn chúng tôi trên dưới mười lăm người, kể cả đám nữ tùy tùng của dược sĩ Vân, – ngơ ngác như một bầy vịt bị lùa tới giữa đồng hoang phải tự tìm lấy bồ cào châu chấu ốc đỉa rắn rết mà rỉa mà tự tìm lấy cách sống.
Chúng tôi không dám kêu than gì, bởi vì hắn ta còn di chuyển nhiều đoàn khác nữa. Theo hắn nói thì lần này giàn thật mỏng rủi có ăn bom thì không bi thiệt hại nặng như vừa rồi. Dưới chân là cỏ và lá cây mục ngập đến quá mắt cá, trên đầu thì tàng lá bịt bùng. Nhiều thứ cây có gai, lạ lùng. Nhiều thứ dây leo cũng có gai như móng ó, chúng tôi gọi là dây ác ó. Đang lom khom chui chui bị một cái móc vào trán hoặc vành tai thì dựng ngược lại như cá bị lưỡi câu.
Buông ba-lô và các đồ lề xuống đất, chúng tôi nghĩ ngay tới việc đi lấy nước. Vân bảo:
- Chuẩn bị lon hộp và ni-lông, bi-đông đi một chuyến xài vài ngày.
Vân bảo các cô nàng hãy ở tại chỗ, để đám đực rựa “mở đường khai lối trước” rồi sau hãy “theo vết người xưa”.
Tôi và Hoàng Việt đi theo dưới sự lãnh đạo của ông dược sĩ. Đường phải mở lấy mà đi. Nước phải đi múc mà uống. Vỏ cây đó phải cạp lấy mà ăn. Giây ác ó rậm bi rậm bịt vạch qua được lùm này tới bụi khác. Máu đổ trên đường . Đang đi bỗng Vân quay lại.
- Các ông có nghe gì không?
- Nghe gì là nghe gì ?
- Thum thủm.
- Có à?
- Tao nghe rõ ràng mà ? – Vân vừa nói vừa đi tới .
Chỉ được một quãng thì mùi thum thủm đã chạm mũi tôi
- Đúng rồi.
- Tanh tanh ! Hoàng Việt nói sau tôi.
Bỗng Vân dừng lại và kêu lên:
- Xui bỏ mẹ!
- Cái gì?
- Thây ma ! – Vân nói tỉnh bơ.
- Ai tới đây được mà chết ?
- Chỉ có một cái đùi thôi !
- Bậy hoài mậy!
- Đây kìa! – Vân né qua một bên rồi đẩy tôi đến. – Coi kìa!
Tôi nom theo tay Vân chỉ. Một chiếc đùi người ta mắc trên cành cây hình chữ V lật úp bàn chân còn mang dép cao su. Tôi vừa bịt mũi vừa ói:
- Thôi, quay trở lại cha! Cái đùi bay từ đằng kia tới đây cơ à ?
Vân quẹo sang một bên rồi đi tới và nói:
- Chiếc dép còn tốt. Để tao mách cho đứa nào cần thì tới lột lấy xài.
- Thằng nào dám ?
- Mày giỡn hoài ? Mày không biết chứ. Nó lột cả mùng tăng và vứt cái xác đồng đội xuống đất để lấy cái võng.
- Để nằm à? Còn võng của “nó” đâu?
- Một cái võng đổi được mấy con gà hoặc nửa con heo. Mấy thằng có võng đôi xé một nửa đổi đồ ăn với đồng bào Thượng còn có nửa cái ngủ không có gì đắp, muỗi đòn xóc chích, bị sốt rét. Cái việc tuần hoàn ăn ngủ của lính ta ở đây là thế.
Suối không xa lắm. Đã nghe nước chảy róc rách, nhưng càn rách quần áo mới tới được mé nước. Bất cứ nước gì, có nước là được rồi. Không có nước không làm gì được Tôi đã từng lọc nước vũng voi nằm để uống. Chỉ hôm sau là ngã bệnh.
Chúng tôi lấy nước đầy các lon hộp và xếp ni-lông lại hai ba lớp để túm nước buộc thật chặt và vác trên vai. Hoàng Việt lão thành dược miễn vác nước, chỉ đeo bốn chiếc bi-đông và một chùm hộp lon. Chúng tôi đi tránh cái chữ V dựng ngược. Vì phải vạch đường mới nên một bọc nước của tôi bị gai ác ó móc rách một đường dài. Nước đổ xòa cả ra, không bụm lại kịp .Tôi la lên. Vân quay lại và có sáng kiến ngay:
- Bỏ đi. Kỳ sau ta mang ba lô theo, bỏ bọc nước trong ba lô không gai gì móc thủng nổi, ngoài ra các túi ba lô còn chứa được nhiều lon hộp nữa.
Ông dược sĩ bỏ hai bọc ni-lông nước vĩ đại xuống đất rồi rề lại ngồi bên Hoàng Việt, soán ngôi giã gạo của ông ta và nói:
- Cái vụ này không phải là nghề của anh. Đưa cho tôi sáng tác thuốc tán cho. Rồi tiếp – Hồi mới ra Hà Nội, tôi bi đày vô Ty Y tế Hà Tĩnh, một cái ty nhỏ bằng cái bẹn l… con nít. Công tác ở đây hai năm, chẳng thu thập được một kinh nghiệm hoặc kiến thức nghề nghiệp gì, nhưng tôi có nghe được một chuyện thiệt ngộ. Số là ở Ty Y tế tỉnh có một nữ bác sĩ mới ra trường. Một hôm có một cặp vợ chồng Nam Bộ tập kết đến. Anh chồng vào phòng trình bày với bà bác sĩ như sau: “Không biết tại sao tôi cứ địt liên miên không ngưng được, cứ mười lăm hai mươi phút lại… một phát. Vợ tới nằm bên cạnh không chịu nổi phải bỏ đi. Không tin bà hỏi vợ tôi xem có đúng không?” Bà bác sĩ đỏ mặt tía tai nhưng cũng gượng mời bà vợ vô xác nhận. Bà vợ cũng khai thật như vậy: Đàn ông nhà tôi địt liên tục bà bác sĩ ạ. Tôi không có ngủ nghê gì được, bà bác sĩ có thuốc gì ngưng bớt lại không, nếu cứ thế này thì tôi ốm mất. Bác sĩ hỏi: Anh ấy thường bữa ăn những món gì. Chi vợ đáp: Dạ thì cơm cơ quan đâu có gì cho lắm, cho nên tôi mua đậu phộng rang mặn để trong hộp ghi-gô, mỗi bữa ăn xúc ra vài muỗng thêm với thức ăn
- Vậy còn tệ hơn nước mắm đổ lộn mỡ nữa! – Tôi vọt miệng nói.
- Đâu có tệ gì ! Bà bác sĩ đã chắc mẽm là đã phát hiện một phương thuốc mới cho nhân dân nhất là cho mấy ông Bộ Chính Trị già cúp rồi mà còn ham hầu non. Bà bảo anh chồng: Đấy là vấn đề sinh lý lẫn tâm lý. Vậy ta phải dùng khoa tâm lý lẫn thuốc men, nhưng phải lấy tâm lý làm chính. Đồng chí có biết khi Hồ chủ tịch yếu đôi mắt, Hồ chủ tịch tập nhìn vào bóng tối để tự luyện nhãn lực hay không. Và phương pháp này đã thành công. Bây giờ Hồ chủ tịch đã có cặp mắt sáng vô cùng. Về bệnh… của đồng chí, đồng chí nên biết tự chế. Khi muốn… cái vụ đó thì đồng chí nên tự bảo thầm là không nên… làm thế nữa, chẳng những có hại sức khỏe cho đồng chí mà còn hại sức khỏe cho vợ đồng chí, như vậy năng suất công tác sẽ xuống thấp, sẽ có ảnh hưởng cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà…
- Và Hòa bình thế giới nữa chứ! – Hoàng Việt chêm vào – Bốn kí lạc bằng kí thép mà!
- Bà bác sĩ không cho thuốc men gì cả mà bảo anh chồng về thi hành phương pháp đó, ba hôm sau trở lại khám ! Hôm sau có một cặp vợ chồng người Bắc đến khám. Ông chồng thú thật là mình yếu sinh lý không thỏa mãn được vợ. Anh ta còn thú thật rằng khi ở nhà trọ hợp tác xã anh có nghe qua tấm vách cót thưa thớt hai vợ chồng một anh cán bộ cãi nhau. Người vợ than phiền “Anh đ. gì đ. không nghỉ vậy ai chơi cho nổi ! Bác sĩ bảo anh nghỉ ăn đậu phộng mà anh không chịu nghỉ thế nên vẫn bệnh nào tật ấy! Mai tôi đem quăng cái hộp đậu phộng thế là anh dứt cái vụ ấy ngay.” Kể xong câu chuyện đó, bệnh nhân nhờ bác sĩ xác nhận xem đậu phộng có phải là củ lạc ở xứ ta không và có phải lạc rang chữa bịnh yếu sinh lý một cách hiệu quả không? Bà bác sĩ gật đầu lia lia và ghi liền một đơn thuốc: “Mỗi ngày cung cấp cho bộ phận tiêu hóa hai thìa vun lạc rang mặn liên tục, trong hai tuần lễ, khám lại.” Hai tuần lễ sau, bệnh nhân đến báo cáo kết quả không mấy gì lạc quan. Bác sĩ gia tăng liều lượng gấp đôi. Hai tuần sau lại đến, vẫn không lạc quan. Bác sĩ lại gia tăng lên gấp bốn của lần thứ nhì ! Không đợi đến tuần sau mà chỉ hôm sau, vợ bệnh nhân tới than thở: Anh ấy nằm mẹp không dậy nổi ! – Bác sĩ gắt – ” Cái gì quá lố đều không tốt cả. Phải biết tự chế lấy mình chứ. Tôi đã cho liều cực mạnh, nên anh ấy ham hố cái vụ kia quá mức kế hoạch cho nên bây giờ mới ngóc đầu dậy không nổi chớ gì. Nếu anh ấy điều độ như mấy ngày đầu vậy thì đâu có đến nổi ?” Vợ bệnh nhân nói: “Mấy ngày đầu anh hoàn thành kế hoạch gia đình cũng như cơ quan hoàn thành kế hoạch nhà nước vậy ạ!” Thấy không? Năm trăm phần trăm – Bà bác sĩ suýt kêu lên vì mừng rỡ nhưng sực nhớ lại năm trăm phần trăm của cơ quan là báo cáo ma nên tốp lại kịp và gắt: “Vậy ra ba cái củ lạc không ra cái củ… gì ráo à?” – “Dạ ảnh toàn đánh dấm ạ!” Ối giời ơi ! – Bà bác sĩ kêu lên – Thằng cha Nam Bộ hại tôi rồi. Đánh dấm không nói đánh dấm mà nói đ… có chết người không? May cho tôi là tôi chưa báo cáo sáng kiến lên Bộ Y tế (*) chứ nếu tôi nhanh nhẩu đoản thì tôi bay chức rồi.
(*) Bà bác sĩ ơi, bà chớ có ngây thơ, dù bà đã tìm ra cái sáng kiến lạc rang kia nữa thì các lão Bộ Chính Trị cũng không có dùng đâu. Các lão có dái bò Mông Cổ và sâm Triều Tiên. Cũng như năm nay 1989 các lão hô hào nhân dân ta uổng nước tiểu để tri bệnh, nhưng các lão và dòng họ thi xài thuốc Mỹ thuốc Tây mút mùa cu xanh thôi
Ông dược sĩ kể xong thì buông hòn đá cuội dùng làm chày giã gạo từ nãy giờ, kêu:
- Ngôn ngữ bất đồng, kẻ nói “dấm” người hiểu “ớt” làm thế nào thống nhất đất nước được !
Tôi cười:
- Thì cả hai thứ đó cũng bỏ chung vô “nước mắm đổ lộn mỡ” cả chứ gì !
Cả bọn cùng cười. Hoàng Việt ngẫm nghĩ một hồi rồi tiếp:
- Tao đang nghĩ xem bên Bungari có thể dịch cái chuyện đó của mình không?
- Cái “sự” đó bên Bungari gọi là gì anh Bảy?
- Tao không biết !
- Ở bên đó lâu vậy mà anh không biết cái tiếng phổ thông đó sao ? Vậy mỗi khi anh dắt mấy em vô rừng nhậu pícnic rồi đi tới cái sự đó anh nới làm sao ?
- Đâu phải nói bằng mồm nữa mà nói bằng tay bỏ ngón sol đố mì chớ mậy!
Có lẽ ông dược sĩ ở gần bên vợ luôn nên phải giữ mồm giữ miệng và có cả một bầy tiên nữ đi theo nên càng giữ đạo đức, bao nhiêu tiếu lâm y tế đều bị ém chặt trong dạ dày, kỳ này gặp các nhà nghệ sĩ tha hồ ngã mặn.
Ông ta hăng hái tiếp:
- Còn một chuyện nữa ác lắm!
- Chuyện “anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chứ gì ! Hoàng Việt xen vào.
Tôi cười lăn ra:
- Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó chắc tôi đã ghi sổ tay rồi. Đâu kể nghe coi giống không?
- Thì cũng đại khái đó là hên như cô nông trường của mày chớ gì. Thằng cu con hoàn thành kế hoạch năm trăm phần trăm bỏ chỉ tiêu nằm trơ trơ mà chạy làng.
Vân tiếp:
- Nhưng may cái là có anh đội Miền Nam.
- … được điện khẩn về ghé qua, phải không?
- Nàng ta kêu ” anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí ! ” Thế là anh đội tiến vào cái chỉ tiêu và nghiến răng: Muốn chết tao cho mày chết. Nó . .ào !
- Ba ván không bỏ dở ván nào !
Ba thằng đang cười thì có tiếng từ dưới suối vọng lên:
- Anh Vân ơi 1 Giúp em tí !
Bọn này lại cười ầm lên! Vì đó là tiếng của chị Phụng. Tôi bảo Vân:
- Đi xuống giúp vợ mày đi. Đạt kế hoạch nhanh nhanh nhé! Đứng lên…nà…ào ! !
- Không đạt nổi đâu cha non !
Vân “giúp em tí” mang đồ lề lên lều nào nước, nào quần áo ướt lùm đùm lề đề. Chị Phụng trách yêu chồng:
- Anh bảo anh lên rồi trở xuống liền sao ở trên này lâu thế. Em đợi mãi.
- Mà nó có “giúp” chị tí nào không?
- Dạ có ạ, ảnh giúp nhiều chứ ạ!
Tôi và Hoàng Việt cười ngặt nghẹo. Hoàng Việt hỏi:
- Thím biết tại sao nó ở trên này lâu vậy không?
- Chắc ảnh uống trà với anh chớ gì !
- Không, nó mắc rang đậu phộng đó chị ơi !
- Đậu phộng ở đâu mà có !
Tôi và Hoàng Việt cười ầm lên. Chị Phụng không hiểu chuyện gì. Vân nói:
- Hộp đậu phộng lương khô của mình đấy em.
Chị Phụng gật đầu:
- Ừ phải rồi, đem ra cho mấy ảnh uống trà đỡ đỡ!
- Ủa vậy chú Vân có món thuốc quý đó nữa sao thím ? — Hoàng Việt hỏi .
- Có chứ anh, đeo dính trong lưng mà. Anh ấy bồi dưỡng bằng hộp đậu rang đó.
- Mỗi ngày chú uống mấy thìa vun?
- Dạ đậu phộng mà, đâu có uống được anh !
- Tôi nghe ông dược sĩ nói đó là thuốc quí. Bác sĩ nào viết toa cho chú ấy vậy thím ?
- Bác sĩ nào đâu anh? ảnh tự “cho toa” ảnh đó chớ!
Vân cười :
- Anh mới vừa kể cho các ông nghe xong cái vụ bà bác sĩ ở Hà Tĩnh.
Chị Phụng đỏ mặt và quay đi:
- Hết chuyện rồi sao anh kể chuyện đó ? Các ảnh ngạo anh cho coi !
Nhờ lều của ông dược sĩ kín đáo nên chị Phụng nấu cơm bên trong, khói ít bay lên. Cơm xong Vân bắt đầu nấu cao khỉ .
Hai cái nhà máy nghiền gạo đã hoàn thành kế hoạch. Bột gạo rây rắc tùm lum trắng một vùng đất sỏi. Cả hai đều phồng tay. Vân nói:
- Vợ tôi có thể làm bánh chiều nay ăn chơi .
- Bánh gì ?
- Bánh bèo, bánh bò, bánh lá, bánh xếp, các thứ bánh làm bằng bột gạo, kể cả bánh xèo.
- Bánh xèo ! – Tôi reo lên – Chị cho ăn một bữa bánh xèo đi ! Nhưng mà… Tôi giật mình rút ý kiến lại – Ở đây đâu có phải là Vườn Cò hoặc Ông Dèo Cần Thơ mà chị làm được các món đó. Làm sao có chảo? Mỡ đào ra? Đâu có nghệ để pha bột?
Vân xua tay:
- Mày đừng có lo ! Tao có cả.
- Trời đất ! ăn một miếng bánh xèo ở giữa Trường Sơn này còn hơn ăn yến với Ngọc Hoàng nữa đó.
Vừa dứt lời thì anh giao liên tới. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Một anh chàng gầy như những chàng giao 1iên khác mà tôi đã gặp từ Làng Ho tới đây, nhưng anh chàng này lại mang giày ba ta, loại giày mà quân đội Nhân Dân Việt Nam dùng ở Hà Nội khi duyệt binh. Anh ta nói:
- Trận bom đêm qua tôi tưởng vừa chết vừa bị thương trên hai mươi người, nhưng các đoàn báo cáo tổng cộng lại, trên ba chục. Hiện đoàn đang đi tim người mất tích của họ.
Tôi vọt miệng hỏi :
- Hồi nào tới giờ mình có bị trận nào như vầy chưa đồng chí.
Anh giao liên nói:
- Đây là lần thứ nhất.
- Thứ này không đề phòng được !
- Trời kêu ai nấy dạ thôi ! Đang ngủ chết luôn không biết gì hết! – Anh ta nói tiếp – Chúng tôi yêu cầu mỗi một đoàn cho một vài người đến tiếp với chúng tôi thu dọn chiến trường. Ở đây ai trưởng đoàn ?
- Tôi ạ! – Vân đáp.
- Đoàn đồng chỉ có bao nhiêu người ?
- Mười hai người, nhưng toàn là nữ giới ! Chỉ mình tôi là sồn sồn đây thôi.
- Các bà thì làm gì được.
- Không sao, tôi xung phong ! Tôi là bác sĩ !
- Thế thì hay lắm. Đồng chí cứ lại đằng trạm kia !
- Trạm nào ? Trạm cứu thương à ?
- À! Không có trạm nào cả, lại đằng chỗ thương binh tập trung chờ cứu thương.
- Ở đây không có trạm xá trạm gì hết sao đồng chí ?
- Một cuộn băng còn không có nữa là trạm xá. Người ta bị lùa vô đây và tự lực sống, tự lực chết. Đồng chí xem, tất cả tài sản trang bị của một tên giao liên, tôi đi đâu cũng mang dính theo người, có thế này thôi. Trước tình thế này, tôi giải quyết cách nào? Tôi chỉ trốn. Nếu không, họ đánh tôi. Họ đã dọa bắn bỏ rồi.
- Tại sao đánh ?
- Họ điên họ đánh bậy vậy thôi ! Đồng chí là bác sĩ thì hãy đến đó dùm đi. Tôi không dám trở lại. Họ hạch sách đủ thứ. Tôi không có thứ gì. Họ nổi sùng lên.
- Rồi có chuyện thì ai dẫn đường?
- Tôi ở luẩn quẩn quanh đây chứ có dám đi đâu. Tôi cũng còn có trách nhiệm với các đồng chí.
- Hiện giờ có chừng bao nhiêu người ở đây?
- Cứ đến ào ào, tôi đâu có biết.
- Không có kiểm điểm quân số gì hết, rồi làm sao đồng chí biết ai còn ai mất.
- Cái đó tôi không chịu trách nhiệm !
Hoàng Việt xen vào:
- Rủi có vài người đau đi không kịp đoàn, bị rơi lại sau rồi đồng chí làm sao?
- Đâu có làm sao! Rủi lạc hoặc theo không kịp thì rán chịu.
Vân nai nịt và quảy túi thuốc lên vai. Tôi cũng đi theo cho biết. Lâu quá mới thấy hố bom. Hồi kháng chiến chống Pháp tôi thấy được chục rưỡi lần. Khi máy bay leo thang ra miền Bắc thì tôi thấy dấu đạn rốc kết lẫn hố bom. Nhưng hố nhỏ thôi. Bây giờ hố to gấp ba lần cái hố mà tôi thấy ở Vinh. Và không phải một cái. Sáu cái liền. Cách một quãng, lại năm sáu cái liền nữa. Cái gì có thể còn được (dù cái đó là sắt đá đi nữa) ở khoảng cách giữa hai chiếc hố với nhau? Sức hủy diệt thật kinh khủng. Một vùng đất trống rộng được khai phá giữa rừng đêm qua bằng bom, trong nháy mắt. Nơi đó, trước một phút là rừng cây với tàng lá bịt bùng mặt trời không rọi thấu đất, là bếp lửa, là cơm nước, là trò chuyện, là nghỉ ngơi ,là mơ tưởng quê hương. Sau tiếng ầm tất cả không còn gì ngoài cát bụi. Cây bật gốc, đất đào thành hố, đất nghiền thành cám thịt xương cũng tan như bụi. Cố nhiên rồi. Nhưng những ai? Vì sao? Cha mẹ vợ con họ ở Miền Nam trông chờ. Hai năm. Không thấy. Mười năm vẫn không thấy. Và không bao giờ thấy. Cũng không bao giờ biết được tại sao người ra đi không trở về. Sẽ không có một mẩu giấy nào báo tin. Chính những kẻ chủ trương đẩy họ vô đây cũng không có sổ sách nhật ký của một anh đồ tể của lò sát sinh. Họ lùa vô đây đông quá. Có số triệu. Ai đếm nổi ? Nhất là tất cả đều đổi tên. Ai mò cho ra gốc.
Khi tôi vừa trông thấy chỗ tập trung thương binh, tôi bảo Vân:
- Mày ở đó làm việc, tao về lều.
- Tại sao?
- Tao không chịu nổi…
- Mùi tanh à?
- Không phải ! Chính là sự bi thảm.
- Nghề của tao là thế đó.
- Mày đã trở lại thời kỳ hai mươi năm trước. Cắt tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc.
Bỏ Vân ở lại, tôi quay về. Vừa đi vừa nhắm mắt, vấp ngã, mở mắt, bò càn qua những thân cây, những hố bom đất đen như than.
Về đến nơi tôi mắc võng nằm ngay, mắt nhắm tít, cố xua đuổi những gì mắt tôi đã chụp được: toàn bộ bức tranh máu.
Bữa bánh xèo dự định đã tan trong ý tưởng. Chỉ có bữa cơm chiều lạt lẽo.
Tối mịt Vân mới về. Hắn đứng ngoài lều gọi vợ:
- Em lục đưa anh cục xà bông.
- Cần chai cồn không?
- Cồn đâu cho đủ.
Chờ cho Vân tắm rửa xong trở lên lều, tôi mới vào, hỏi:
- Bao nhiêu?
- Ai biết được !
- Mày băng bó bao nhiêu người ?
- Từ đó tới giờ. Không có gì hết. Xé chăn màn làm băng. Chặt cây rừng cặp nẹp xương gãy.
- Có nghe tin đoàn thằng Cao không?
- Không! Nhiều đoàn bay gần hết.
- Rồi giải quyết số chiến thương thế nào ?
- Không biết t Cứ để đó cho họ rên. Một số lớn sẽ không qua khỏi đêm nay. Một số khác vài ngày thì chết nếu không đưa kịp đến viện: Đưa bằng gì? Khiêng! Ai khiêng? Ai chịu trách nhiệm? Giao liên! Mà giao liên không nhận trách nhiệm đó. Và chỉ có một thằng là tao, làm gì được? Nó trốn là phải! Phải trốn.
Ngưng một chút.
- Sáu chục quả bom mày ạ. Vân nói. .
- Mày đếm à?
- Mấy chả bảo thế.
- Ai ?
- Tụi chết hụt!
- Chôn cất thế nào?
- Ai chôn?
- Biết đâu ! Chứ không ai chôn cất gì hết à?
- Đâu còn ai ở đó mà chôn cất.
- Rồi để vậy hay sao ?
- Tao biết trả lời cho mày thế nào? Ai còn sống đã bò lê đi hết ráo rồi ! – Nói xong, Vân móc túi quần đưa cho tôi một cái bóp, bảo – Đây là cái bóp của tao lượm được, rồi rút trên túi quần một xấp giấy, nói – Đồng chí này bị đứt mất một cánh tay, cánh kia còn dính da. Tao dùng dao mổ cắt tiện như đồng đội chặt tay La Văn Cầư trong chiến dịch biên giới. Máu đã ra nhiều quá. Nếu tao đến sớm có thể kịp Tao băng bằng cái áo của tao. Anh ta còn tinh nhưng nói hết ra tiếng rồi. Môi mấp máy và đầu gục gặc xuống ngực. Tao đoán chắc anh ta muốn tao móc đồ trong túi áo anh ta ra. Tao móc xấp thư vấy máu, liếc qua thấy mấy chữ Biển Bạch ở dưới cuối tờ giấy. Tao hỏi “Nhà ở xã Biển Bạch hả?” Anh ta gật. Tao hỏi: “Có vợ con gì chưa?” Anh ta lắc. Tao hỏi cha mẹ có còn đủ không? Anh ta gật. Tao nói: “Để tôi giữ mấy lá thư này, khi về tới trong Nam tôi tìm cách nhắn tin dùm cho”. Anh ta gật khe khẽ mà nước mắt ròng ròng.
Vân cũng nghẹn ngang, không nói nữa và kêu chị Phụng lấy cơm ra ăn. Tôi không ăn được, bỏ về võng nằm, lấy đèn pin bấm lên và giở chiếc bóp ra. Một tấm hình bán thân gắn ở ngăn đầu. Tôi kêu lên. Hoàng Việt nằm im từ lúc Vân về lều tới giờ nghe tiếng kêu cửa tôi, bèn hỏi.
- Lại một thằng quen thăng thiên hả?
- Anh nhớ ba lão “tá” đi lậu không?
- Nhớ chớ !
- Cái lão đen đen trán hói hói ! Anh nhớ không?
- Mấy chả đi đổi chó đổi gà trong làng khu Eo đó mà ! Rồi sao ?
- Đây là cái bóp cửa chả.
- Trời đất ! Sao mày biết chắc là của chả?
- Hình chả đây nè. Ảnh chụp mang lon đại úy.
Hai đứa lặng im. Tôi xếp bóp lại, tắt đèn. Cái chết đến thật là chóng vánh. Đáng lẽ mấy ông đi tuốt rồi ! Nếu không kẹt đường thì đâu có bị bom trộm.
Bôn ba về xứ, chẳng ngờ nằm lại giữa đường. Ở mấy trạm trước đây một ông già năm mươi lăm tuổi đã kiệt sức Và cũng nằm lại trong một cái hố cạn sát và không đủ bề dài cho ông, đào bởi những cánh tay rũ liệt. Nhưng ông hãy còn được vùi dập ấm áp hơn nhà quân sự này. Ai biết được thịt xương ông bay về hướng nào hay văng mắc trên cành cây ngọn cỏ nào? Có thánh thần mới biết.
Khi tôi đến đơn vi Công binh của ông ta đóng ở Bến Phà Lược gần đền Vua Lê ở Lam Sơn, để tìm tài liệu và truyện “Những Tiếng Nổ Ngầm” nói về chiến công đánh sập cầu Bến Lức trong cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Bộ, tôi được ông chỉ huy này ưu đãi vô cùng. Muốn gì cũng được cả. Kể cả ăn uống ăn chung mâm với Ban Chỉ Huy. Lúc đó ông đã ngoài bốn mươi mà chưa vợ con gì. Đi kháng chiến hồi 45 lúc hai mươi hai tuổi, hòa bình ba mươi hai, mươi năm trên đất Bắc gió bấc mưa phùn gã thanh niên đã trở thành ông già tóc lốm đốm bạc. Có một lần đánh bạo hỏi một cô gái địa phương, liền bị từ chối thẳng thừng. Ông ta cũng nói trắng trợn ra: Về Nam kiếm ổ nào đố, “hốt” một cái, chớ con gái hết ưng mình rồi. Có lần tôi nói, cho ông biết là con gái quê mình chờ dân tập kết về đón cả hai tay và sẵn sàng trừ cho mười tuổi, nghĩa là ông còn thanh niên mới ba mươi hai xuân xanh. Ông cười khè khè: Tụi nó nói vậy thôi, chứ khi mình về, tụi nó kêu bằng “bác.” Bây giờ cả mộng hốt ổ cũng không thành. Sống cô đơn, chết cũng cô đơn.
Tôi đã được cậu giao kết giao cho kỷ vật của một thằng bạn ở trạm ngoài, bây giờ vô đây lại thêm một món nữa. Từ đây về đến nơi còn bao nhiêu loại kỷ vật này, hay ngược lại, một người khác cũng sẽ lượm được cái bóp của tôi.
Không ai bảo ai, những người đi trên đường này đều ghi rõ tên mình, địa chỉ bố mẹ, hoặc vợ con sau lưng tấm hình của mình hoặc trên một mảnh giấy con cất kỹ trong bóp. Tôi cũng thế. Khi giã từ Hà Nội thì chưa làm, nhưng sau vài cơn sốt thì tôi làm việc đó một cách rất cương quyết. Không đợi tới bây giờ.
Vân ăn cơm xong, tôi hỏi:
- Mấy giờ rồi mậy?
Chị Phụng giơ tay lên bấm đèn pin và kêu:
- Ủa sao bây giờ mới có hai giờ.
- Đồng hồ của chị là loại ô-tô ma… lắc chắc.
- Xách-mác-đâm-ba nha (*) đó nghe mậy ! – Vân cười hóm hỉnh.
(*) Đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Printania Suisse made.
- Xách-mác gì kỳ vậy.
Chị Phụng lắc lắc đưa lên tai nghe và nói:
- Chết cứng rồi ! – Chị mở ra đưa cho Vân xem.
Vân lắc lắc, vặn vặn, nhưng vẫn lắc đầu. Rồi thốt lên:
- Thôi đúng rồi. Bom nổ chấn động hỏng trục gió.
Hôm sau giao liên tới bảo dời địa điểm vì có mùi. Anh ta lắc đầu:
- Nguy quá! Không biết chừng nào mới xoi thông đường. Ở tràn lan thế này nó chơi một phát nữa rụng hết.
- Đi đâu đồng chí ?
- Kỳ này tôi phải cho đóng xa suốì mới được.
- Sao vậy?
- Tụi nó biết chỗ nào có suối là có mình đóng chớ sao.
Tất cả đoàn này đoàn nọ lôi thôi lếch thếch đi theo anh ta, không còn trông ra cái thể thống đi giải phóng Miền Nam gì nữa. Kẻ quảy, người xách, ôm, gánh một cách trăm hoa đua nở.
Tôi hỏi Vân:
- Đi trở ra hay sao thế này?
- Nó dắt đi thì đi, nó bảo đứng thì đứng. Không được hỏi.
- Mình đã qua khỏi khúc Eo chưa?
- Ối ồi ! Qua lâu rồi , sắp tới Cà Mau!
- Vậy qua khỏi Bà Đầm Thái Lát Ông Dèo rồi à?
- Chưa, sắp tới ! Chừng nào qua vịnh Trà Bay là thấy lố dạng Kinh Xáng Xà No đổ qua Kinh Mười Thước thì tới Kinh Xáng Bà Đầm.
- Thôi mấy ông ơi, đừng có nói kiểu đó, nhớ nhà đứt ruột đứt gan đi ! – Chị Phụng phản đối.
- Tới nơi làm bánh xèo nghe chị!
- Tôi rầu thút ruột đây xèo gì nổi mà xèo. .
- Sống ngày nào lạc quan ngày nấy chứ chị? Sống phải no để khỏi chết đói chứ!
Giao liên dắt đi gần nửa ngày đường mới cho hạ trại. Anh ta trỏ tay bảo: “Suối hướng đó.”
- Chừng nào đi, đồng chí?
- Chừng nào có lệnh thì đi ! Các đồng chí ăn ở cho cẩn thận ! – rồi biến mất.
Bọn chúng tôi trên dưới mười lăm người, kể cả đám nữ tùy tùng của dược sĩ Vân, – ngơ ngác như một bầy vịt bị lùa tới giữa đồng hoang phải tự tìm lấy bồ cào châu chấu ốc đỉa rắn rết mà rỉa mà tự tìm lấy cách sống.
Chúng tôi không dám kêu than gì, bởi vì hắn ta còn di chuyển nhiều đoàn khác nữa. Theo hắn nói thì lần này giàn thật mỏng rủi có ăn bom thì không bi thiệt hại nặng như vừa rồi. Dưới chân là cỏ và lá cây mục ngập đến quá mắt cá, trên đầu thì tàng lá bịt bùng. Nhiều thứ cây có gai, lạ lùng. Nhiều thứ dây leo cũng có gai như móng ó, chúng tôi gọi là dây ác ó. Đang lom khom chui chui bị một cái móc vào trán hoặc vành tai thì dựng ngược lại như cá bị lưỡi câu.
Buông ba-lô và các đồ lề xuống đất, chúng tôi nghĩ ngay tới việc đi lấy nước. Vân bảo:
- Chuẩn bị lon hộp và ni-lông, bi-đông đi một chuyến xài vài ngày.
Vân bảo các cô nàng hãy ở tại chỗ, để đám đực rựa “mở đường khai lối trước” rồi sau hãy “theo vết người xưa”.
Tôi và Hoàng Việt đi theo dưới sự lãnh đạo của ông dược sĩ. Đường phải mở lấy mà đi. Nước phải đi múc mà uống. Vỏ cây đó phải cạp lấy mà ăn. Giây ác ó rậm bi rậm bịt vạch qua được lùm này tới bụi khác. Máu đổ trên đường . Đang đi bỗng Vân quay lại.
- Các ông có nghe gì không?
- Nghe gì là nghe gì ?
- Thum thủm.
- Có à?
- Tao nghe rõ ràng mà ? – Vân vừa nói vừa đi tới .
Chỉ được một quãng thì mùi thum thủm đã chạm mũi tôi
- Đúng rồi.
- Tanh tanh ! Hoàng Việt nói sau tôi.
Bỗng Vân dừng lại và kêu lên:
- Xui bỏ mẹ!
- Cái gì?
- Thây ma ! – Vân nói tỉnh bơ.
- Ai tới đây được mà chết ?
- Chỉ có một cái đùi thôi !
- Bậy hoài mậy!
- Đây kìa! – Vân né qua một bên rồi đẩy tôi đến. – Coi kìa!
Tôi nom theo tay Vân chỉ. Một chiếc đùi người ta mắc trên cành cây hình chữ V lật úp bàn chân còn mang dép cao su. Tôi vừa bịt mũi vừa ói:
- Thôi, quay trở lại cha! Cái đùi bay từ đằng kia tới đây cơ à ?
Vân quẹo sang một bên rồi đi tới và nói:
- Chiếc dép còn tốt. Để tao mách cho đứa nào cần thì tới lột lấy xài.
- Thằng nào dám ?
- Mày giỡn hoài ? Mày không biết chứ. Nó lột cả mùng tăng và vứt cái xác đồng đội xuống đất để lấy cái võng.
- Để nằm à? Còn võng của “nó” đâu?
- Một cái võng đổi được mấy con gà hoặc nửa con heo. Mấy thằng có võng đôi xé một nửa đổi đồ ăn với đồng bào Thượng còn có nửa cái ngủ không có gì đắp, muỗi đòn xóc chích, bị sốt rét. Cái việc tuần hoàn ăn ngủ của lính ta ở đây là thế.
Suối không xa lắm. Đã nghe nước chảy róc rách, nhưng càn rách quần áo mới tới được mé nước. Bất cứ nước gì, có nước là được rồi. Không có nước không làm gì được Tôi đã từng lọc nước vũng voi nằm để uống. Chỉ hôm sau là ngã bệnh.
Chúng tôi lấy nước đầy các lon hộp và xếp ni-lông lại hai ba lớp để túm nước buộc thật chặt và vác trên vai. Hoàng Việt lão thành dược miễn vác nước, chỉ đeo bốn chiếc bi-đông và một chùm hộp lon. Chúng tôi đi tránh cái chữ V dựng ngược. Vì phải vạch đường mới nên một bọc nước của tôi bị gai ác ó móc rách một đường dài. Nước đổ xòa cả ra, không bụm lại kịp .Tôi la lên. Vân quay lại và có sáng kiến ngay:
- Bỏ đi. Kỳ sau ta mang ba lô theo, bỏ bọc nước trong ba lô không gai gì móc thủng nổi, ngoài ra các túi ba lô còn chứa được nhiều lon hộp nữa.
—>Chương 19


- 19 -
Chúng tôi vừa về đến lều thì chị Phụng nói:
- Có khách !
- Ai vậy?
- Ai, vô đây thì biết !
Tôi vừa ló đầu vô thì bật ngửa, ú ớ một chập mới nói được!
- Nguyệt !
- Anh ! – Nguyệt chỉ kêu lên một tiếng rất khẽ rồi quay mặt vào vách lều.
Tôi đứng sựng, không biết làm gì nói gì. Vân bảo chị Phụng ra ngoài giúp đỡ nước xuống. Chị nhìn tôi, cười nháy nháy tôi và bước ra. Mặc dù hoàn cảnh vô cùng thuận tiện nhưng tôi vẫn cứ bàng hoàng không định tâm được May sao nghe có tiếng nhạc sĩ Cao ở ngoài, tôi bước ra và kêu lên:
- Hồi hôm mày ở đâu ?
- Ở đó chứ ở đâu.
Hoàng Việt thì chưa biết gì nên bảo tôi dóm bếp nấu trà uống bồi dưỡng sau chuyến đi, nhưng Vân xua tay:
- Tôi cho nó miễn công tác từ giờ đến… sáng mai.
Cao nháy Hoàng Việt và nói:
- Nó có một cái bếp khác cần nhóm lại lửa.
- À thế hả ! – Hoàng Việt cười khắc khắc – Vậy thì lui cho mau kẻo tro nguội lạnh khó nhóm.
Tôi đứng xớ rớ một chút rồi trở vào lều lấy gan đi lại gần Nguyệt:
- Đêm qua Nguyệt ở gần trận bom không?
- Trái gần nhất nổ cách em chừng năm chục thước, còn anh?
- Cũng gần em thôi !
Im lặng chắn ngang giữa hai người như một bức tường. Bỗng
- Em còn yêu anh sao Nguyệt? – Tôi hỏi.
- …
- Anh đã là con thuyền xa bờ tình ta ngàn dặm từ lâu.
- Em biết !
- Anh cũng có lỗi một phần.
- Anh không có lỗi gì t Đó chỉ tại hoàn cảnh thôi. Nếu không có vụ tập kết thì không có chuyện gì xảy ra cả.
- Tập kết cũng chưa đến nỗi nào. Tại ba cái lập trường ! – Tôi lấy lại tự nhiên nhanh chóng, bảo – Em ngồi lên võng đi Nguyệt ! Anh mệt quá, phải nằm nghỉ chút đã.
- Anh đi lấy nước vừa về hả?
- Đem về nửa chừng bọc nước bị gai móc rách, đổ nước hết trơn. Đổ rồi khó hốt hả em? – Không hiểu sao tôi lại triết lý bất ngờ như vậy rồi cảm thấy mình bi sa lầy.
Nguyệt lặng thinh và vẫn đựng quay mặt vào vách lều.
Tôi nói:
- Anh đã quên em lâu rồi.
- Em biết. Chính vì em có lỗi nên em bị anh xua đuổi mà em vẫn muốn gặp anh.
- Anh xua đuổi em hay em xua đuổi anh ?
- Lần thứ nhất ở gần Đò Lèn.
- Anh đến tìm em kia mà! Em biết anh lội bộ ba mươi cây số không?
- Rồi anh giận anh bỏ về, chị Loan theo anh để nói chuyện anh vẫn bỏ đi.
- Sao em không tiếp anh mà để chị Loan tiếp.
- Anh không ở trong cuộc nên anh không biết chuyện gì đã xảy ra cho em trong chỉnh huấn cải cách ruộng đất. Nếu anh biết một phần nào thì anh đã đối xử với em khác đi rồi.
- Họ đấu cái thành phần của em là cùng – cũng như anh thôi – chứ làm gì nữa?
- Sau cải cách ruộng đất cấp ủy kêu em lên nói thẳng là em không có được dính líu gì với anh nữa. Anh đã phản tỉnh ở cơ quan của anh là anh yêu em phải không?
- À thì đó là chuyện không thể giấu tổ chức được, em phải biết là lúc đó không những anh mà ai ai cũng vậy. Không phản tỉnh họ truy rồi cũng phải khui ra.
- Bởi vậy người ta biết nên người ta chặn em. Em khóc ghê lắm.
- Rồi sao anh đến, em không ra gặp anh?
- Cơ quan bảo thế, em còn mặt mũi nào? Vả lại em cũng không dám.
- Anh lại nghĩ là em đã thay đổi.
- Chẳng lẽ mới hứa lại thay đổi. Người gì như vậy?
- Sao em không cả viết thư?
- Em cũng không dám. Vả lại người ta đã bảo vậy rồi còn thư từ gì nữa. Riêng anh nếu em không ra gặp anh thì anh phải trở lại lần nữa chớ, sao anh đi luôn ?
- Tự ái!
- Em không tự ái sao? Người ta đã bỏ mình. Mình còn thiết gì nữa?
- Có thiếu gì bạn của anh trong đoàn Văn Công, sao em không bảo chúng nó nhắn anh ?
- Em không muốn nhờ ai cả. Em là đứa cứng đầu!
- Chị Loan có nói em là đứa con cứng đầu nhất trong gia đình. .Nhưng sao cứng đầu với anh?
- Anh đã không tới, em lại đi tìm à?
- Sao hồi em đi diễn ở Sầm Sơn em cũng không muốn gặp anh ?
- Em nghe anh đã có người bạn nào rồi !
- Chỉ là một cách trả thù em thôi. Giận cá chém thớt.
- Thiệt không?… Anh biết không? Em luôn luôn có người muốn ngỏ lời. Trong ba năm trời. Em nhất định không. Chờ nghe cho rõ vấn đề của anh đã, để sau khỏi ân hận.
- Rồi em nghe ra sao?
- Anh biết đấy. Anh ở Hà Nội mà! Anh có nhiều người làm mai lắm.
- Ai nói với em ?
- Những người làm mai cho anh !
- Anh không nhờ bất cứ một người nào làm mai cho anh.
- Người ta tự nguyện. Nhưng tự nguyện hay do mai mối thì cũng thế thôi. Em muốn lập gia đình quách.
- Với ai?
- Em có thể chọn trong mười người chầu chực ở cửa ngoài.
- Thì sao không chọn ?
- Vì anh.
- Vì anh cái gì kia chớ?
- Vì anh chưa có vợ, anh còn đó, anh chưa thuộc về ai, em cũng không muốn em thuộc về ai khi em còn một tí hi vọng gặp lại anh.
- Sao em không viết thư.
- Tự ái!
- Hừ!
- Có cả một lần em thấy anh đi coi Văn Công ở Nhà hát lớn với người ta nữa kia mà.
- Với ai? Kịch gì?
- Kịch Lu Ba ! . . . Em được đoàn đưa ra Hà Nội xem để rút kinh nghiệm, nhưng gặp vụ đó, em bỏ về, không xem đêm kịch.
- Xốn mắt à ?
- Em muốn trả thù anh.
- Cách nào ?
- Thiếu gì cách ! Nhưng em nghĩ lại. Làm anh khổ thì em lại là người khổ hơn.
- Mấy tên chạy đèn cù chung quanh em nói lén anh dữ lắm. Anh biết.
- Mấy người bạn của anh học lại với anh chớ gì ! Cấp ủy xây dựng em cho một người lái xe…
- Cho đúng lập trường!?
- Em không tưởng tượng được nếu chồng em là một người lái xe, thì em sẽ nói những gì với anh ta, và anh ta sẽ nói gì với em trong lúc ăn cơm, đi dạo.
- Em thì phản tỉnh việc mạnh dạn rứt bỏ thành phần cũ còn anh ta thì nói về những cây số lái xe an toàn, quý xe như con, quý xăng như máu hà hà…
- Ê gặp nhau, không có đấu tranh giai cấp đa nghe ! Khi gần bên nhau thì phải vui sống trong “Niềm thương mến” (‘) đa nghe – Tiếng Hoàng Việt từ bên ngoài vọng vào
(*) Một câu trong bài hát của Xuân Vũ – Phan Vân.
Cao xuất hiện ở cửa, nói oang oang vào:
- Mười năm rồi ! Giận gì dai thế. Vuốt giận đi cô dượng. Đáng lẽ có con chín mười tuổi rồi, mà bây giờ vẫn còn chân trơn. Tôi biết cả hai người đều tự ái chứ không có lỗi gì cả Tôi cũng biết hai người còn yêu nhau. Nếu không, kẻ đã có chồng người đã có vợ lâu rồi, chứ không còn nhùng nhằng tới bây giờ.
Gặp nhau ở đây là vạn hạnh. Thì giờ không có nhiều. Cuộc sống như hai mặt của một tờ giấy. Thấy không? Nếu đêm qua, bom lia tới vài chục thước nữa thì chưa biết ai sẽ khóc ai. Xí xoá hết, hãy hôn nhau, hôn nhau đi, đừng hờn giận nữa, mệt lắm. Như tôi đây nè, muốn gần vợ mà không gần được, cô dượng gần nhau sao cứ làm cho xa ra?
- Hà hà… Hoàng Việt tiếp – Nhạc sĩ văn hoa gớm nhỉ ! Mới mi-nơ chuyển qua ma-giơ ngọt ngào, thôi vứt bỏ nhịp chỏi đi em trai em gái.
- Ở đây có đủ. Nè tao làm chủ hôn bên gái, ông Lá Xanh chủ hôn bên trai. Vợ tao phù dâu, thằng Cao phù rể, lấy lều tao phòng hoa chúc. Chiều nay làm một tiệc bánh xèo ! – Vân hăng hái vẽ thêm chi tiết – Sẵn rượu cồn chín mươi chữ đây, pha nước suối uống cho say mèm một bữa mừng tụi bây ký “hiệp định” R..rrơ….neo liền đi !
Tôi bỗng thấy lại cả khung cảnh ngày hai đứa mới yêu nhau. Nàng ra khu sau vụ Trò Ơn với sự hướng dẫn của chị Loan là chị ruột của nàng. Lúc đó tôi bị thương về nằm Quân y xá. Cùng là học sinh xa trường, nhưng tôi đi kháng chiến trước nàng vài năm. Chúng tôi yêu nhau một cách tự nhiên không có sự gàn cản cũng không ai mai mối.
Chỉ hục hặc từ lúc ra Bắc và sau chỉnh huấn cải cách ruộng đất.
- Bây giờ em định sao, Nguyệt?
- Em cũng chưa định sao cả, chỉ thấy cần gặp anh nói với anh mấy lời như vậy thôi .
Tôi bước xuống võng đến gần bên Nguyệt. Nàng vẫn quay lưng lại tôi như từ lúc đầu. Tóc nàng trổ màu hoe và bím thành hai đuôi sam buông thả sau lưng chứ không kẹp đuôi gà như trước. Mảng da gáy vừa sạm vừa mét vì sương gió và sốt rét. Từ ngày yêu nhau cho đến lúc ra Bắc tôi vẫn sợ cầm tay nàng, không dám hôn nàng, cũng không nói cả mấy tiếng “anh yêu em,” nàng cũng không hề thốt ra câu “em yêu anh.” Tất cả tình yêu chỉ được chứa trong mắt và tỏa ra từ mắt.
Tôi vịn vai nàng. Rồi bất thần nắm hai vai xoay nàng ra và hôn má hôn môi nàng. Nàng đầy tôi ra nhưng tôi không buông. Tôi hôn nàng như nói những lời thú tội. Tội gì tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi cảm thấy mình có tội. Để cho nàng đau khổ mười năm phải chăng vô tội ?
Đôi má nàng vừa xám vừa xanh, nhưng tôi cảm thấy làn da bừng lên đốt tan mọi nỗi niềm u ẩn, mọi thứ đau buồn chồng chất trong tôi.
- Nguyệt ! Nguyệt. Anh vẫn yêu em ! Anh đã thầm nói với em những lời ấy từ những phút đầu gặp em. Anh chỉ nói với em!
Nàng nhắm mắt. Nước mắt trào ra. Mặt nàng ngửa ra hứng những cái hôn mà tôi đặt lên với tất cả sinh lực, với tất cả hận thù, không biết hận thù ai.
- Em chỉ đến với anh lần này và là lần cuối ! – Nàng bỗng mở to mắt nhìn tôi như bừng tỉnh và hốt hoảng. Nàng có vẻ không phản đối nhưng cũng không chấp nhận những cử chỉ nồng nàn của tôi.
Tôi thầm thì bên tai nàng với sự hối hận tràn lòng. Lâu nay mình đi ta bà thế giới như con bướm lãng tử không có một lần nhớ lại hình dáng hoa xưa, chẳng ngờ hoa vẫn còn đứng còn chờ.
- Em vẫn còn yêu anh sao, Nguyệt?
- Em đến đây để nhận sự khinh bỉ cửa anh.
- Không bao giờ. Anh mới là người đáng cho em xa lánh.
- Em muốn gặp anh nhưng anh từ chối, tại sao?
- Tự ái.
- Nếu em cũng từ chối ? Mà em là người đáng lẽ phải từ chối và người yêu cầu là anh.
- Từ chối vì anh không muốn chắp lại cái gì đã nát tan…
- Trong anh thôi.
- Thôi bỏ đi, Nguyệt ạ! Bây giờ mình đâu có thì giờ để trách móc nhau.
Thì ra tôi vẫn còn yêu Nguyệt. Vậy mà lâu nay tôi tưởng tôi đã quên được nàng rồi. Cái tôi cố quên chính là cái tôi không thể quên. Mười năm qua đi trong đời một người con gái với bao nhiêu là khuấy trộn, hết ba cái lập trưởng bá láp đến những rình chụp của đám sĩ quan khát tình vây quanh nàng và nàng phải xua đuổi tất cả với hai tay yếu đuối cửa nàng để chỉ sống với những hình ảnh xa vời ngày xưa với đóm lửa tình leo lét.
- Mời anh chị ra xơi cơm “mí” chúng em ạ! – Tiếng Cao vọng vào.
- Có ớt đây ăn thêm một chén, (*) chú thím !
(* ) câu chuyện hài hước trong kháng chiến Nam Bộ. Một anh cán bộ đến nhà đồng bào, chủ nhà mời ăn cơm nhưng anh ngại ngùng mãi với tìm được lý đo. “Có ớt, cháu xin ăn thêm một chén!”
Tôi kéo tay Nguyệt đi, nhưng Nguyệt vùng ra.
Cơm đã dọn sẵn. Trời ơi, một bữa giỗ ở Trường Sơn. Giỗ ai ? Giỗ những người Nam kỳ vừa về quê chớp nhoáng trong tiếng bom đêm qua, giỗ anh chàng thiếu tá đi lậu giải phóng Miền Nam, giỗ Phương vừa nằm xuống ở ven Eo Máu, giỗ những mối tình của tôi liệm oan sau khi bị bức từ vì chuyến xuôi Nam buôn vinh quang của tôi – và mừng, mừng sống lại mối tình của tôi và Nguyệt.
- Chị Loan và anh Trọng công tác ở đâu, Nguyệt ? – Tôi đột ngột hỏi.
- Ở Hà Nam.
- Mấy cháu rồi ?
- Hai, một trai một gái.
Tôi nhớ chị Loan nhờ cái răng khểnh, nhớ Nguyệt nhờ cái lúm đồng tiền. Hai chị em nhưng là hai mẫu người trái ngược. Chị Loan mềm mỏng, uyển chuyển, Nguyệt thẳng thắn đến cứng đầu.
Chị Phụng vào lều lôi Nguyệt, Nguyệt cũng không ra ăn cơm. Chí Phụng mang vào cho nàng một nắp gà mèn cơm và thức ăn, rồi ở lại rù rì với Nguyệt.
Hoàng Việt nói:
- Bữa nay có rượu đấy nghe mày !
- Nó đâu cần rượu mới say – ông dược sĩ duyên dáng chêm vào – say lâu, say oắc hơn cồn chín mươi nữa !
Hoàng Việt vừa lắc lắc chiếc bi đông vừa hỏi tôi:
- Hội nghi Rrrơ-ne chưa kết thúc à?
- Còn chờ giải quyết ngoài hành lang – Cao nói với bộ râu mal rasé của nó!
Vân cười:
- Làm cạn nửa bi đông cồn pha nước lã này thì nó “ký” thôi.
- Hồi trước mày hay làm “hémo chó mực” (*) bây giờ còn làm không? Thứ đó bổ dữ. Phải bây giờ có tẩm gân thì đỡ biết mấy. – Tôi gợi ý.
(*) Hemoglobine Deschiens, một loại thuốc bổ máu của Pháp trong kháng chiến Nam Bộ, cán bộ rất thích dùng để tẩm bổ.
- Bây giờ tao có nhiều thứ “ác” hơn huyết “chó mực” nhiều.
- Huyết khỉ hả?
- Ấy chết cha! Nồi cao khỉ của tao… Vân chạy vô lều rồi trở ra – Chưa ăn thua. Lửa yếu quá ! Để ăn cơm xong tao đi kiếm củi già, đun một đêm thì có cao pha cồn uống lên… cân cấp kỳ.
- Phục vụ kịp thời lắm đó ông dược sĩ.
- Nhưng không bằng B12 đâu! – Vân nói – Tao có cả ngàn ống đây. Uống cũng không hết, đừng nói chích.
- Làm gì đem theo dữ vậy?
- Cho mấy ông kẹ ở trỏng chớ phải cho tao hay sao – Thấy chị Phụng vẫn còn ở trong lều, Vân nói khẽ: – Mấy cái hũ rượu sống đó cũng là đem cống hồ cho các hoàng thượng ở trỏng.
Tôi ngó quanh và hỏi:
- Hũ rượu nào đâu?
- Cái thằng! – Hoàng Việt gằn và nhìn tồi – Nói vậy, thấy sờ sờ đó mà không hiểu gì hết ! Tối dạ quá mậy!
- À ạ ! Tôi biết rồi – Thảo nào !
- Một công hai chuyện, mày thấy trung “ươn” sáng suốt chưa nào. Vừa dùng các em như lừa tải hàng vừa dùng các em như cối giã… thịt – Vân tiếp – nhưng còn một tác dựng thứ ba nữa là các em hoá thành máy sản xuất một thứ thuốc bổ phi thường, B12, sâm chẳng ăn thua mẹ gì so với thứ “thuốc” đó !
- Nhau ngâm mật ong và Fi-la-tốp ?
- Cũng gần đâu đó !
- Cái gì nữa !
Hoàng Việt lại gằn:
- Sao mày tối dạ vậy hả. Rồi mần răng mà “sáng toác” ?
Vân rỉ tai tới. Tôi kêu lên:
- Thế cơ à? Ghê thế!
- Ghê mẹ gì. Cái vụ này có hồi thời me xừ Ba Xuẩn vô Nam. Quân y ông Cả Hát làm thí nghiệm trước rồi truyền xuống cho các Y xá các tỉnh. – Vân nhăn mặt gãi đầu
- Sáng kiến này ở đây bên nước anh em mình học tập !
- Tao nghe mắc ói quá!
- Mấy ổng đâu có xé phay như gà giò hay sao. Tụi tao phải chế biến chứ lỵ. Nghiền ra cho nhỏ rồi làm cao đơn hoàn tán như chệt bán ở các tiệm thuốc Bắc ở chợ làng mình ngày xưa vậy.
- Dã man quá!
- Cách mạng mà mậy. Cái gì lại không dám làm. Miễn thắng lợi thời thôi. Giết non cũng được mà giết già cũng tốt.
- Hồi đó tới giờ mày đã nghiền bao nhiêu thai nhi rồi?
- Tao không nghiền, mà tao chỉ huy nhân viên của tao nghiền. – Vân tiếp – Khổ cái là ở Hà Nội thì có máy móc đỡ ghê tay, còn vô đây thì phải dùng tay ớn quá. Họ cho tao bắt các em, muốn bắt đứa nào đứa đó phải đi. Tội nghiệp con gái người ta mới lớn lên, muốn vinh thân nên đi vào ngành này. Chúng có biết đâu chúng sẽ thân tàn ma dại ! – Vân ngon trớn kể luôn – Khi tao chọn là tao vâng lệnh cấp trên. Tao bảo đi vào phục vụ ngành “Dược trẻ trung” của mặt trận. Các em phấn khởi lắm. Tuổi trẻ không biết cạm bẫy của “các bác các chú.” Nghe kêu gọi vì Miền Nam là lao đầu vào. Miền Nam gì, đây là một lũ nhà thổ cách mạng. Tao ra Hà Nội mười năm, có học hành được chút nào thêm về nghề nghiệp đâu, toàn pha chế loại thuốc trường sanh bất lão cho các chả không thôi. Bây giờ về Nam cũng mang tiếp cái nghiệp chướng đó chứ đâu phải phòng y dược gì ! Bí mật lắm đó ! Nhưng với tụi mày và anh Bảy là những người hiểu kháng chiến và quen lâu với tao nên tao nói cho nghe chơi. Trên đường này đâu có cái đoàn nào kỳ cục vậy.
Hoàng Việt hỏi:
- Rồi ông có pha chút nào loại cao đơn hoàn tán đó vô cồn này không?
- Không! Tao chỉ bỏ sâm bột thôi.
Hoàng Việt rút nút bi đông kê lên mũi ngửi và nói:
- Đúng rồi, có mùi sâm!
Vân tiếp:
- Mỗi em mang mười ký thuốc gồm có sâm, B12, Vitamine C,B,D, quinine, quinova, đường cát… Còn lại bao nhiêu là đồ lề cá nhân. Mười hai em tải được trên một trăm kilô thuốc quí! Thấy không? Ngoài ra còn loại “thuốc” mà các em sẽ phải sản xuất” sau khi vào tới trong kia. Đau đớn nhất là không có tình cảm với những kẻ ngủ với mình mà lại có con với chúng. Và đau đớn hơn nữa, chính tay các em lại nghiền xương thịt của mình để vò lọn thành thuốc tầm bổ cho những kẻ phá nát đời mình.
- Quái gỡ thật ! Tôi kêu lên.
- Đi theo cách mạng hai mươi năm, hôm nay tao mới hiểu cách mạng – Cao lắc đầu nói.
- Tao ớn lắm mày ơi và anh Bảy ơi ! – Vân lại tiếp- Khi được kêu về Nam, tao đã tưởng sẽ thoát khỏi những gì mình không vừa ý. Mình sẽ trở lại cuộc đời lang bạt kỳ hồ như hồi kháng chiến chống Pháp. Làm thằng cán bộ quèn mà thấy vinh quang và thấy con người mình vĩ đại biết bao. Nhưng khi tao vào đến nơi rồi, tao thấy cũng y như ở Hà Nội. Cũng Bắc kỳ đô hộ, cũng tranh giành địa vị, mạt sát hạ nhục nhau để lấy một cái chỗ chẳng cao sang gì. Và rồi cuối cùng tao được giao cho nhiệm vụ bào chế “cao đơn huờn tán” cho các chả. Thôi, tàn đời rồi ! Cuộc kháng chiến chống Mỹ kỳ này có lẽ còn dài hơn cuộc kháng chiến chống Pháp. Tao đáng lẽ đi Liên Xô học dược sĩ cao cấp, nhưng người ta cho tao về Nam. Tao đã thấy trước vấn đề nên xin trở ra Bắc để lấy thêm “nhu cầu” cho cái phòng oái oăm của tao. Và tao đã đem vợ tao vô luôn.
Chị Phụng ló đầu ra nói:
- Thôi mà, kể chuyện đời xưa cái gì hổng biết nữa. Được về xứ là mừng rồi !
- Về “nước” chớ không phải về xứ, chị Phụng ạ! – Tôi tiếp – mười năm qua mình như ở nước nào khác không phải nước mình. Bây giờ về, là về nước, không phải về xứ.
Bữa cơm tuy ở giữa rừng, nhưng có bàn tay đàn bà lại khác. Nhiều món ăn quá. Ruốc thịt. Canh ruốc thịt, cá chà bông. Rau rừng luộc. (Không biết rau gì nhưng đang thèm chất xanh, nên cứ ăn bừa. Có chuyện gì sẵn được sĩ bên cạnh). Muối tiêu, muối ớt. Và cồn pha sâm bột. Vân sắp rót rượu, bỗng kêu lên:
- Em ơi, ra giúp anh tí ?
Tôi và Hoàng Việt cười ré lên. Tôi nói:
- Đáng lẽ bả phải kêu mày: “Anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chớ!
- À… à…. Chị đội Miền Nam ơi ! Ra giúp anh tí ! Chị lấy đùm cái cốc pha thuốc ra đây uống rượu cho phải điệu chút coi, uống bằng cái chén sắt Hungari này ố điệu quá em à !
- Vậy vẫn còn ngon hơn uống “rượu ngó” ở Hà Nội.
Ăn xong, ai nấy đều lên võng nằm ru giấc thần tiên. Chị Phụng đem nắp gà men cơm còn nguyên trở ra. Chị cằn nhằn Vân:
- Sao không ăn để cơm nguội lạnh hết!
Vân nói nhỏ với chị. Chi có vẻ đồng ý. Vân bước lại dặn Cao:
- Mày ngủ đi ! Nó có kêu cũng đừng dậy. Bây giờ tối rồi. Nó không dám đi về một mình. Hiểu chưa?
Tôi nghĩ thầm: Thằng này kinh nghiệm thật !
Vân quay lại tôi, rỉ tai:
- Bây giờ tới phần mày nghe ! Nên nhớ tiến một bước lùi hai ba bước để tiến thẳng tới mục tiêu nghé! Phen này mà hỏng nữa thì hết cơ hội đó.
Tôi hơi nản. Không phải vì sợ nàng từ chối tình yêu của tôi. Nàng đã tìm đến đây trong hoàn cảnh này là vô hình trung nàng đã chấp nhận nó rồi. Nhưng tôi nản là vì chia ly rồi lại chia ly. Lần chia ly này có thể là vĩnh viễn. Tàn nhẫn vô cùng. Nàng đã bị bầm dập đớn đau mười năm, bây giờ vết thương có thể được băng bó, nhưng để rồi nàng lại tiếp tục mang nó cho đến bao giờ. Hằng triệu người vợ trung thành với chồng ở Miền Nam để dược tiếng khen của trung ương bâng quơ của đảng “Miền Nam đi trước về sau ! Hằng triệu người chồng chạy quanh trên đất Bắc thèm khát một mái ấm gia đình vào chiều thứ Bảy, thấy cảnh hạnh phúc của gia đình Miền Bắc để mà hối hận vì mình đã nhẹ dạ cả tin, bỏ vợ con đi tập kết hai năm về – ông nhạc sĩ bạn tôi kia là một điển hình – để được các đồng chí chuyên gia Liên Xô khen: “Các đồng chí là thần thánh, xa vợ mười năm mà vẫn không léng phéng ái tình ? Chúng tôi thì đi sang Việt Nam một tuần cũng phải mang vợ theo rồi.”
Tôi không muốn Nguyệt chờ tôi trên đất Bắc. Tôi cũng không thể chờ Nguyệt ở Miền Nam. Tôi đã ba mươi ba tuổi rồi . Vào tuổi này bố tôi đã có tôi mười ba tuổi học xong lớp nhất trường quận. Ông nội tôi có tôi vào lúc ông bốn mươi tuổi. Tôi thấy tôi cần một đứa con cho gia đình tôi. Hơn nữa vì tôi là con một. Tôi coi cách mạng là tai nạn cho tôi kể từ khi tôi leo cái dốc đá thứ nhất trên dãy Trường Sơn. Sở dĩ tôi không cưới vợ – mặc dù tôi có thể cưới đàng hoàng – trên Miền Bắc vì tôi biết chắc trước sau gì tôi cũng về Nam bằng đường Trường Sơn. Tôi không thể để vợ con tôi ở lại Hà Nội và chờ tôi. Có khi lại tuyệt vọng. Con đường này là một thứ route sans joies như tôi đoán. Và, thật, đúng như vậy – Vợ góa, con côi, chồng lên đài tử sĩ !
Tôi ngập ngừng không muốn vô lều mà tôi biết trong đó Nguyệt đang bị gài mắc lại.
Đó cũng lại là một lý do khác, tôi không hăng hái bước vào. Tôi muốn cái gì đến với tôi thì cái đó không phải do sự cướp giật hoặc thủ đoạn. Nhưng tôi cũng quá ngây thơ, không chịu hiểu rằng không có cái gì đến mà tự nguyện hoàn toàn. Trong tình yêu lại càng thủ đoạn, dù ít dù nhiều. Người con gái có biết nhưng vẫn vui lòng đi vào cái bẫy hạnh phúc mà chàng giăng ra cho mình.
- Sao em không ăn cơm? – Tôi bước vào và hỏi.
- Em không đói. Nguyệt nằm trên võng và khẽ đáp.
Bóng chiều đã trùm phủ khắp núi rừng. Trong lều hơi tối. Tôi ngồi bên đầu võng. Nàng nói:
- Em đến đây để từ giã anh và chúc anh về tới quê hương.
- Chỉ có thế thôi à?
- Vâng. Ý định của em chỉ có thế.
- Nếu chỉ có thế thì em không phải nhọc công lặn lội tới đây.
- Nhưng em muốn thế. Bởi vì có lẽ không còn dịp gặp nhau nữa. Anh đi một hướng còn em đi một hướng,
Đây là câu nói “nguy hiểm” mà tôi không hiểu. Qua mấy tiếng ấy, nàng muốn nói gì ?
- Anh với em chỉ một đường thôi.
- Em trở ra còn anh đi vào !
- Nhưng chỉ một mục đích giải phóng quê hương.
- Anh về Nam trước nhất là để gặp gia đình và cưới vợ, không phải để giải phóng gì cả.
- Sao em biết ? – Tôi suýt bật cười nhưng ghìm lại được
- Tất cả những người đàn ông tập kết đều có ý định đó.
- Thôi cũng được đi. Ai lại không muốn cưới một người vợ cùng quê cùng giọng nói.
- Trừ anh!
Tôi như bị chặn họng. Chưa kịp ú ớ để ngụy biện thì nàng tiếp:
- Một người Bắc, rồi một người Trung, rồi…
- Ai bảo em thế?
- Máy bay địch!
- Hồi nào ?
- Mấy hôm trước đây.
- Sao có chuyện lạ vậy.
- Nhờ nó em mới biết chớ không em làm sao biết nổi. – Nguyệt tiếp – Anh không tin em à? Người vợ chưa cưới của anh tên là Phương người Quảng Nam phải không?
Tôi hết cãi được. Nguyệt lại tiếp:
- Chị Phương hi sinh trên đường về quê. Địch bắt được nhiều tài liệu trong đó có những bức thư của anh gởi cho chị ấy. Có cả hình ảnh của anh và của hai người chụp chung. Em nói thật mà. Máy bay rải tràn lan xuống đây vài hôm trước. Nhờ địch mà em có được tấm hình của anh.
Tôi không ngờ một câu chuyện lạ lùng như thế đến với tôi
- Dù sao thì chuyện cũng đã kết thúc rồi em ạ.
- Còn một người nữa chứ, đâu đã hết, anh !
- Người nào nữa? – Tôi định chối phăng.
Nhưng Nguyệt nói ngay:
- Hôm bữa biểu diễn kịch ở trạm ngoài, anh nhớ không.. Em nhờ anh Cao đến tìm anh, bảo rằng em muốn gặp anh. Anh Cao đến vừa nói, anh gạt ngang. Anh Cao về, em hỏi, anh Cao gắt: Thôi “phăng teo” cho rồi đi, nó có con nhỏ ba-lê đeo dính nó đằng kia, nó không có muốn bạn rộn với cô đâu ! ”
Thế là đã rõ. Cái thằng mắc dịch hại tôi rồi. Nhưng cũng chẳng trách gì nó được. Lúc đó trái tim tôi đang đầy ngập hình ảnh của Phương lẫn Thu. Khi no ai còn thèm ăn. Bây giờ thay đổi bất ngờ. Thằng no hóa ra kẻ chết đói.
- Em muốn xử tội anh cách nào thì cứ xử cho mát bụng em !
- Em đâu có quyền gì. – Nguyệt ngồi bật dậy – Em phải về đoàn. Có lẽ chúng em phải trở lại Miền Bắc anh ạ. Đoàn chỉ có lệnh phục vụ mấy trạm đầu thôi nhưng anh Sáu cho đi vô thêm tới đây là quá xa rồi.
- Tối rồi, em không đi được.
- Anh Cao đi với em mà.
- Nó say rượu rồi .
- Rượu ở đâu?
Bỗng có tiếng gọi từ bên ngoài. Giọng của Hoàng Việt:
- Ê thằng qui, mày có cần đậu phộng rang Hà Tỉnh không ? Há há…
- Thôi cha nội ơi !
- Đậu phộng ở đâu vậy anh ?
- Thôi mà, mấy anh đâm hơi hoài, để cho người ta ký hiệp đinh ! – Tiếng chị Phụng phản đối.
- Có cần thì mai tao cho hai thìa vung. Há há… !
Tôi nói với Nguyệt:
- Em không về được đâu ! Bom trộm bất tử, nguy hiểm lắm. Tôi tiếp luôn – Em nghe này, Nguyệt. Đây là giây phút quyết định. Nếu em đồng ý thì anh có thể là chồng của em ngay bây giờ.
- Anh chỉ là người yêu của em thôi.
- Tại sao?
- Em thấy em không yêu ai hết, ngoài anh. Anh đã hút tất cả máu trong tim em.
Tôi với tay lên quặt đầu nàng xuống như bẻ một trái chín bất chợt tìm thấy ở một cành hoang. Lá khô làm nệm, đất sỏi làm giường, đêm tối là hoa thêu gấm dệt quây phòng cho chúng tôi. Nàng nằm im. Chỉ khe khẽ kêu một câu điệp khúc.
- Chị Phụng cười chết. Chị Phụng cười chết !
Tôi như không còn nghe gì nữa. Tôi là con ngựa rừng chạy tuôn gai góc và ngã bên bờ suối thỏa thuê với dòng nước tràn ngập đồng cỏ. Bao nhiêu dậm đường đã lùi lại phía sau những vó thần với mặt đất nát nhừ và những hố hào đào bới trong tiếng ngựa hí khúc khải hoàn.
Tôi đã biến Nguyệt thành đàn bà trong một niềm hạnh phúc mong manh đặt meo bên hố chết.
- Nguyệt ! Anh hứa với em một câu không thay đổi. Em có nghe không?
- Nghe, em nghe !
- Anh là chồng của em.
- Vâng, chứng ta đã là vợ chồng – Nàng quả quyết nói và chấm câu bằng một cái hôn dài và cháy gò má tôi. Và khóc mùi mẫn.
Tôi bế nàng đặt lên võng. Chiếc võng như lá đò chở khách tình khẳm đừ êm êm không trôi mà neo tại chỗ: thằng cuội nằm ôm mặt trăng hay chìm giữa mật trăng cũng không rõ.
Nàng tỉnh tuồng móc trong túi ra dưa cho tôi chiếc khăn tôi tặng nàng khi mới yêu nhau. Không biết bây giờ là mấy giờ rồi. Sương rơi lộp độp trên nóc lều. Vắng lặng lạ lùng. Tôi nghe hạnh phúc có thực, sờ đụng và cầm được. Da, thịt, hương tóc, làn môi của Nguyệt lan tỏa, ấm đọng trong tôi.
- Anh đừng làm em khổ nữa nhé!
- Không bao giờ!
- Về trên cơ quan, em sẽ xin đi B ngay với lý do theo chồng về Nam chiến đấu.
Tôi hôn Nguyệt. Hôn mãi, hôn mãi !
Từ bên ngoài vọng vào tiếng hát lâm ly. Của chàng nhạc sĩ vừa nối lại mối tình đứt cho tôi và lại là người có trái tim tan vỡ không phương hàn gắn. Giọng anh ta khàn khàn đau đớn.

Chiều mênh mông còn vướng chân mây

Bao niềm vui bay theo nắng tắt
Bao màu tươi chết trong tháng ngày
Người chiến binh miền núi, trầm ngâm ngắm chiều rơi
Vương sầu thiên lý đầy vơi
Im nghe gió chiều nay hòa dư âm ngàn lá
… Biết khi nào tới quê hương
Anh ta sáng tác bài này hồi nào? Có lẽ mới đây, trong chuyến đi này. Nhưng lời lẽ như vậy ai dám hát ? Chắc hắn ta nhớ vợ con, miệng hát mà tay nén chặt tim đau.
Sáng hôm sau Nguyệt về đoàn. Tôi quảy ba lô đưa nàng đi cùng với Cao. Cả một quyển tiểu thuyết viết bằng nước mất. Lần thứ hai tôi có “vợ.” Lần này thì thật rồi nhưng lại phải xa nhau, ngay khi vừa sum họp.
Nhưng đoạn kết vô cùng bi thảm.
Bạn đọc thân mến,
Tôi đau khổ vô cùng khi viết đến đây. Tôi muốn nói với các bạn trẻ của tôi hiện giờ. Đi theo cách mạng vô sản TẾU hăm ba năm (1945-1968) tôi chẳng được cái gì cả. Làm cách mạng để làm gì ? Tôi không phải là nhà cách mạng nhưng trong cách mạng có tôi. Tôi có cống hiến trí óc – cả máu nữa, cho cách mạng để đổi lấy bầm dập và tan nát. Tan nát nhất là đời tư. Hai lần suýt có vợ hai lần tan vỡ tan tành. Tôi định sẽ viết tới đoạn kết của mối tình tôi và Nguyệt trong quyển “Đến Mà Không Đến” sắp tới đây, nhưng không biết tôi có viết được không .Vì lẽ này lẽ nọ! Thôi, sẵn đây viết luôn mấy nét chính.
Khi tôi về đến R được một ít lâu thì một người không quen tìm đến cho tôi hay rằng Nguyệt đã về tới bên Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng. Tôi mừng vô hạn. Hạnh phúc đã hiện ra rồi, gần đầy đủ mặt mũi tay chân. Đó là ân huệ độc nhất mà tôi được cách mạng ban bố : “Cho vợ theo chồng chiến đấu ! ” Nhưng ân huệ chưa hưởng hết thì tai nạn lại đến liền..
Tôi vừa sang gặp nàng thì… một trận bão tới. Nàng chết trong cơn bão đó. Tấm thân người con gái bị đè nát dưới một cội cây cổ thụ tróc gốc. Cả cơ quan phải cưa cả ngày mới đem nàng ra được. Nàng được liệm bằng võng màn từ Bắc mang về và chôn trong một cái quan tài đan bằng cây nứa. Cùng bị tử nạn trong trận bão đó còn có một nhạc sĩ thổi clarinette số một miền Bắc, người Nam Bộ, tên Lập, vốn là nhân viên của đoàn Văn Công mà nàng là Chỉ huy phó.
Thôi, thế là hết.
Tiếp theo đó, cơ quan Văn nghệ R phải tản khai nhanh chóng vì có tin quân đội Mỹ sắp mở chiến dịch Johnson City đánh vào các cơ quan R. Tôi phải đi ngay nên không có cả thì giờ sửa sang nấm mộ cho nàng. Thế là trên con đường này tôi mất hai người yêu.
Thế là trong vòng mấy tháng tôi mất hai người con gái sắp hoặc đã làm vợ của tôi. Một nằm ở ven Eo Máu, một an nghỉ ở rừng Miên. Phương và Nguyệt.
Tôi còn biết sống làm sao ? Tôi thấy mình không có duyên với cách mạng hoặc ngược lại, cách mạng là cái thứ gì vô duyên nhất đối với tôi.
—>Chương 20


- 20 -
Xin mời các bạn trở lại lều với các bạn tôi.
Nhờ sự chăm sóc đúng cách và có thuốc đầy đủ của ông bạn dược sĩ mà tôi và Hoàng Việt phục sức rất nhanh. Cái bánh chè của nhà nhạc sĩ chừng như đã trở lại bình thường sau mấy ngày liền được bàn tay của Vân xoa nắn với thuốc rượu.
Bây giờ máu hoài hương lại chỗi dậy trong người. Trước kia cứ một lần đến trạm thì cả Hoàng Việt lẫn tôi đều mong đường bị kẹt hoặc giao liên ốm để nằm lại dưỡng sức, nhưng bây giờ thì ngược lại, chúng tôi nóng ruột muốn đi mau.
Nhưng đường vẫn chưa thông. Bên ngoài không có khách vào vì ở đây đang bị đùn. Mẻ cao khỉ của dược sĩ Vân thất bại như mẻ thép nấu bằng nồi đất của hợp tác xã bên Trung Quốc. Xương không tan ra mặc dù Vân đã cho vào hai ba lần chất hóa học gì đó. Bỏ thì tiếc, nhưng nấu hoài vẫn không thấy kết quả cũng nản lòng, nhưng không nỡ vứt đi mà cứ để đó tính sau.
Vân cằn nhằn tôi:
- Mày dở quá! Sao không câu nó đi luôn.
- Cô ta là phó đoàn mà mậy, đâu có bỏ đi như thế được, nhưng sau khi về tới nơi nàng sẽ xin vào ngay.
- Cóc mọc râu !
Còn Hoàng Việt thì càu nhàu Vân:
- Ông dược sĩ dở quá ! Đem đủ thứ thuốc mà quên đậu phộng Hà Tĩnh để cho nó vài thìa.
Chuỗi ngày ăn dầm nằm dề ở đây, chúng tôi lấy ba đề tài để giết thì giờ: tiếu lâm, chuyện kháng chiến Nam bộ và chuyện bất mãn Miền Bắc. Tôi vốn thuộc làu truyện Tàu, nhưng các vị kia lại không hạp khẩu, còn kể tiếu lâm thì bị vướng chị Phụng, nên cả ba đứa xoay quanh đề tài cuối cùng. Còn công việc làm thì chỉ quơ củi, phơi bột gạo, sửa quai dép, vá quần áo, hoặc nằm khễnh ra nhìn trời qua kẽ lá.
Muốn đi săn khỉ nhưng đoàn của Vân thì không có AK, cho nên đôi khi ba đứa rủ nhau xuống suối bắt cua đá và tìm lá bứa về nấu canh chua đổi bữa.
Một hôm, lúc đi săn cua, tôi trở lại vấn đề bào chế cao đơn hoàn tán. Vân nói:
- Các chả như những vua chúa vậy mày ơi ! Bề ngoài làm vẻ đạo đức, nhưng tao thấy rõ cái đạo “đứt họng” của mấy chả hết ráo. Mày nhớ đâu hồi 56, 57 gì đó có một vụ án động trời không? Một ông bự thiệt bự dùng vi trùng giết vợ để lấy con gái nuôi. Bị phát giác và lãnh án tử hình.
Tôi nói:
- Tao có thấy báo Nhân Dân đăng, nhưng tao thắc mắc, làm thế nào hắn có vi trùng và tiêm được cho vợ hắn.
- Vậy mày không nhớ vụ Dương Bạch Mai uống nước ngọt mà chết tại hội trường Ba Đình sao ?
- Đó là việc của Bộ Công An . Họ có thầm quyền bỏ thuốc độc vào nước ngọt. Còn đây là việc cá nhân của hắn.
- Hắn mua vi trùng ở Phòng Vi trùng bệnh viện C.
- Ai bán?
- Thì cũng trong đám nhân viên chứ ai.
- Rồi ai chích ?
- Bác sĩ chích chứ ai !
- Bác sĩ không biết đó là vi trùng à?
- Biết mới chích chứ không biết chích làm gì ?
- Có loại bác sĩ đó nữa à?
- Có loại ông bự đó nên mới đẻ ra loại bác sĩ đó chứ sao ! Còn nhiều vụ lắm mày ơi Xe tàu nào chở cho hết. Nhưng mình đã lỡ đi rồi, trở lại thì đi đâu, nhưng càng đi thì càng thấy bộ mặt của cách mạng ghẻ lở. Nam Bộ chúng mình trung thành với cái hang “Bắt bò lạc” ể mình cả chục năm, ra Bắc thợ đấm bóp (*) không làm cho một mẻ “tẩm quất” nào cho dãn gân dãn cốt cả. Đã bịnh càng bịnh luôn.
(*) Thợ đấm bóp đến năm 1956-57 vẫn còn làm ăn ở Hà Nội, phần lớn đi rao tìm khách ban đêm.
- Bây giờ mình thoát !
- Vô trong R rồi mày sẽ thấy thoát hay không ! Tao vô tới nơi mới bật ngửa. Mẹ cha nó, đi đâu cũng không khỏi bị rau muống phủ đầu. Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Miền Nam toàn là các anh cọc cạch.
- Anh Sáu Mặt Sắt đang trên đường “quào” làm đầu nậu.
- Đủ bộ Già Rô, Già Cơ, Già Phích, Già Chuồn trong đó rồi. Dân Nam kỳ thủ hai ghế phó bảy và phó bét.
- Là ai ?
- Đồng Văn Chuột, phó nhòm, bà già trầu tỉnh mày phó cối.
- Bị tới bảy tầng lớp áp bức vừa đè vừa nén cối chịu gì thấu !
- Bả bị vít rồi, có “ké” nữa là khác !
- Chày nào bén vậy?
- Chày ba ! Đám đĩ hà nàm khoác áo hộ lý này dzô tới là cách mạng Miền Nam phất lên rào rào.
Đến chiều, khi chúng tôi về thì chị Phụng reo lên:
- Đường thông rồi ! Trạm ngoài vô rồi ! Mai mình đi. Giao liên vừa cho biết.
Tôi đang loay hoay thu xếp mọi thứ cho gọn gàng thì bỗng có tiếng kêu thét:
- Anh Bảy !
Tôi quay lại thì thấy hai ông cán gáo đi lê lết chậm rì. Ông khỏe đèo ông yếu.
- Anh không nhận ra em sao ? Ngữ đây ! Núi đây !
- Trời ơi! – Tôi vất đồ đạc chạy ào ra. Hoàng Việt cũng phóng sang.
Một hình tượng tới muôn đời tôi cũng không thể quên. Một cái xác trên tay Ngữ.
Thằng Núi rũ xuống như cái áo rách. Tôi bảo Ngữ tiếp tay nâng nó lại võng của tôi cho nó nằm. Cứ để nguyên quần áo đầy đất cát như vậy, chỉ lột đôi dép của nó ra thôi.
Đầu nó trọc lóc không còn một sợi tóc nào, mặt mũi xám như chì .
Ngữ vừa thở vừa nói:
- Giao liên họ bảo vào đây có bệnh viện lớn chứa được cả trăm người .
Hoàng Việt lắc đầu:
- Nhị tỳ lộ thiên thì có !
- Tụi này suýt chết vì bom trộm mấy đêm trước đây cậu ạ!- Tôi nói xong, gọi Vân tới xem qua.
- Bệnh gì thế này? – Vân bình thản như không có chuyện gì.
Tôi kể sơ cho Vân nghe. Ông dược sĩ lắc đầu:
- Sốt ác tính mà ngâm nước cho xuống nhiệt độ ? Chết như chơi !
- Thì bị mưa rồi để vậy, coi mòi nó bớt nóng rồi để luôn.
Vân lấy ống nghe, nghe tim, bắt mạch, chị Phụng lấy nhiệt độ. Vân bảo:
- Thay quần áo, đắp ấm, để nó nằm yên cái đã !
Trời đã sụp mặt. Khí lạnh lại phủ xuống dày đặc. Tiếng khỉ vượn kêu trên đầu. Chúng như cũng kinh ngạc cho cái hiện tượng dưới mặt đất này.
- Sao cậu bắt nó đi gấp vậy? – Tôi nói với Ngữ.
- Phải đi thôi anh ạ. Trạm dời điểm. Hình như họ bỏ trạm của thằng Phẩm vì thiếu người.
- Nghĩa là khoảng cách giữa hai trạm dài gấp đôi?
- Vâng. Ai đi thì đi, ai không đi nằm lại đó, cứ nằm. Trạm nó không chiếu cố một thứ gì. Chúng em hỏi: Nay mai muốn tìm trạm thì đi hướng nào. Nó nói chính nó hiện giờ cũng không biết đi hướng nào. – Ngữ ngưng để lấy hơi rồi nói – Còn nhiều người tệ hơn thằng Núi nữa anh ạ. Có người phù thũng. Đành nằm lại đó chờ chết thôi. Đồng đội của họ cũng bỏ đi. Mạng người cứ coi như lá rụng thôi anh ạ!
Chị Phụng đem ra cho Ngữ chén nước trà nóng. Ngữ cám ơn lia lịa như nhận được quà tiên. Ngữ tiếp:
- Thằng Núi mới tệ xuống ba hôm nay thôi. Trước đây nó không đến nỗi. Sau khi các anh đi, nó vượng lên khá lắm. Đi chậm nhưng qua nổi một trạm.
- Có ghé lại cái làng khu Năm không?
- Tụi em nằm đó ba ngày để chỉnh đốn các thứ.
- Có bị máy bay loa không?
- Chúng nó làm khiếp lắm anh ơi ! Ngày đêm máy bay loa rầm rầm không nghỉ ngơi được. Nó rải truyền đơn ghi tên danh sách cả đoàn mình. Có rải cả hình anh và chị Phương, anh chị Thiệp nữa.
- À, cậu có gặp Thiệp hả?
- Có ! Ảnh nằm chết dí ở đó. Cái làng phải di cư để tránh nhảy dù sắp tới.
- Nhảy dù gì ?
- Chúng nó đe sẽ quét sạch cả làng. Đồng bào và cán bộ đoán là nó sẽ cho trực thăng nhảy dù xuống nay mai. Những đoàn đi Nam còn rơi rớt lại đó cũng phải lết theo giao liên vô trạm trong để rồi tiếp tục nằm lại. Em cố lôi thằng Núi đi. Giao liên bảo là cố vào trong này có bệnh viện to lắm. Em vào trạm trong nữa, hỏi, thì họ lại bảo vô trạm kế ngay đây. Tức là trạm này. Thằng Núi cố lê chân. Nếu chỉ dốc thường thì nó không đến nỗi tệ như vậy nhưng vì dốc đứng, em phải lôi, phải đủn, còn dốc xuống thì nó ngã mấy cái khiếp quá nên có lẽ bị cả nội thương.
- Sao nó rụng tóc hết vậy?
- Em cũng không biết, tại sao. Cứ mỗi sáng thức đậy, nó đưa tay cào lên đầu nó bảo: Anh Ngữ xem đây này, nó đưa cho em xem từng mảng tóc. Trời đất em kinh hãi quá. Mới hôm nào tóc xanh ngăn ngắt bây giờ cái đầu trọi như đồi trọc!
Tôi đã từng gặp một cậu sinh viên tóc bạc như tóc ông già sáu mươi ở trạm ngoài, bây giờ lại phải nhìn một chàng trai rụng hết tóc. Con đường này quả là con đường tóc tang của tuổi trẻ.
- Cậu còn gạo không? – Tôi hỏi Ngữ.
- Còn chứ anh. Mười bảy kí lô. Nặng quá! Họ phát số gạo đó cho mình là vì họ không muốn giữ lại kho. Vì tình hình ruồng bố sắp đến nơi. Chúng nó đến là đốt sạch. Thế đó, chứ không phải mình có nhiều gạo đâu.
- Ra thế!
- Em phải giản chính một số đồ đạc để mang gạo. Mang quàng cả cho thằng Núi.
- Thằng Thiệp không đi à?
- Ảnh nói ảnh phải đi tìm cán bộ địa phương móc ngoéo để xuống Bác Kế. Em không hỏi gì nữa. Mạnh ai nấy đi.
Ma quỉ gì đâu không biết nữa. Mới khỏe được mấy hôm lại mệt. Đúng ra là tôi không có trách nhiệm gì, nhưng ai lại đang tâm bỏ đồng đội như thế này mà đi. Mai phải đi. Lương tâm cắn rứt không ít. Đi cũng cắn rứt mà ở cũng cắn rứt. Lương tâm con người đâu có đơn giản như chính sách. Cứ hễ ném ra là hốt lấy thành quả.
Tôi nghiêng nhìn thằng Núi. Mặt nó xám ngoẹt. Tôi không tin rằng kỳ này nó qua ải. Tôi bỗng nhớ tới câu thơ, hay câu nói, từ miệng nó:
Núi vẫn Đôi mà anh thiếu em
bây giờ thì
Núi vẫn Đôi mà em thiếu anh.
Vân nói :
- Để tao tiêm cho nó mũi thuốc.
- Tao có quinine 0,40 đây!
- Không. Thuốc khác cơ. Tao có sérum bột nhưng lại không có nước cất.
Tôi không chú ý và cũng không hỏi là thuốc gì. Nhưng vài tiếng đồng hồ sau thì Núi ú ớ. Tôi và Ngữ rọi đèn pin. Mắt Núi lờ đờ. Tròng mắt lăn qua lăn lại khe khẽ.
- Đói bụng không Núi ? – Ngữ hỏi.
Núi khẽ lắc.
- Ăn tí cháo nghe Núi ? – Tôi hỏi.
Núi cũng lắc.
- Có ăn mai mới đi nổi. – Hoàng Việt tiếp.
Núi cũng lắc luôn.
- Đưa tay bắt tí coi. – Tôi bảo – Biết ai đây không?
Núi chỉ giơ lên nửa chừng rồi buông xuống.
- Mạch tim yếu quá! Để tao tiêm một mũi trợ tim.
Chúng tôi để bệnh nhân nằm im. Tất cả đi vào lều của vân. Vân nói:
- Từ trước tới nay tôi chưa gặp trường hợp sốt ác tính. Chỉ mới nghe nói đến khi vào con đường này thôi. Trong y học của Pháp có tiếng “sốt tẩu mã” tức là fièvre galopante. Không biết có phải là loại sốt này không. Tôi cũng không biết triệu chứng và sức tác hại của nó như thế nào.
- Đại khái là nóng phát điên. Nó chạy khắp rừng. Tụi tao phải bắt nó lại, buộc lên võng. Hôm đó nhằm trời mưa… Hôm sau nó xuống nhiệt độ. Bây giờ rụng tóc. Nghe người ta truyền miệng thì loại sốt này mười người mắc phải, chết chín, còn một người sống sót cũng tàn tật. Đây đúng là trường hợp thằng Núi.
- Bây giờ làm gì ? – Vân hỏi.
- Theo mày thì làm gì ?
- Tao có một số thuốc điều trị sốt ra rất mạnh, nhưng bây giờ nó đâu có sốt nữa. Sốt đã chuyển sang chứng khác rồi. Có thể vi trùng đã đột nhập vào não. Đó là tao chỉ đoán mò thôi. Nhưng nếu sự đoán mò của tao có đúng đi nữa thì tao cũng không biết phải trị như thế nào ngoại trừ tao cho tăng sức đề kháng và trợ tim.
- Mày làm gì được mày làm, miễn nó sống thì thôi.
Vân đưa ra một chục cách để phục sức và gia tăng sức cho bắp thịt như dùng dầu nóng xoa bóp hoặc xông hơi kiểu như bà con nông dân ta xông nóng lạnh nhức đầu ở thôn quê… nhưng chỉ có một cách là khả dĩ thi hành được: Xoa bóp bằng dầu nóng. Kết quả rất khả quan. Chúng tôi căng tăng mắc võng và lấy thêm ni-lông của Vân che hai bên hông. Vân lấy một gói thuốc bột khuấy trong nước ấm rồi bảo Núi hả miệng cho mình đổ thuốc. Núi biết nghe. Núi hả miệng, nuốt ực và nói “Cảm ơn” rất rõ.
Vân giải thích:
- Đây là thuốc toàn năng chỉ dùng cho cán bộ cao cấp và trong trường hợp tối khẩn thôi. Ví dụ trong trường hợp người yếu quá sắp chết mà chưa trối trăn thì nó có thể làm bệnh nhân khỏe lại vài tiếng đồng hồ.
Quả thật, đến khuya, tôi nghe Núi gọi Ngữ. Hai đứa nói chuyện với nhau một chập. Tôi thò đầu ra vách mùng nói sang :
- Bây giờ đỡ rồi hả Núi?
- Đỡ rồi.
- Cậu đang nói chuyện với ai đấy?
- Anh Ngữ?
- Còn ai đang nói với cậu đây?
- Anh Vũ hả?
Thấy Núi phân biệt được hai chữ “đấy và “đây” tôi yên tâm nên ngủ trở lại.
Vì mệt mỏi nên ai nấy cũng ngủ thẳng giấc. Đến lúc mặt trời xuyên qua mùng nóng cả mặt mới thức dậy. Riêng Ngữ thì còn nằm vùi vì cuốc đi pa-tanh hôm trước. Thói quen hễ tôi thức trước Hoàng Việt thì tôi kêu hỏi:
- Anh Bảy bày trẻ đêm qua có mơ thấy mấy em bên Bún-cà-ri không?
Nhưng bữa nay ê ẩm quá, cả về thể xác lẫn tâm hồn, nên tôi còn nằm im để vỗ về mình trong giây phút của buổi bình minh trinh trắng.
Da thịt hơi hám của Nguyệt còn in trong tôi. Thế mà bây giờ nàng đã xa rồi. Mai sẽ xa nữa. Mốt càng xa thêm nữa. Xa mãi. Từ xa ít tới xa nhiều. Nàng nói với tôi những gì. Không nhiều, nhưng nàng đã nói tất cả rồi: Một đêm vợ chồng ! Ừ nhỉ, thằng Vân nói đúng! Sao tôi không bắt nàng đi luôn. Đi chiến đấu, đi vào lửa khói thì dù vô kỷ luật tí cũng rất đáng hoan nghênh. Đã có biết bao nhiêu người được lệnh đi Nam mà đập bệnh để khỏi đi thì sao?
Tôi tiếc đã không gợi ý cho nàng. Nếu tôi đặt vấn đề đó ra, biết đâu nàng chẳng nghe theo. Tôi bây giờ là tư lệnh tối cao của nàng mà. Trời ơi mới hôn nhau đó rồi lại xa đó. Một cái “mười năm” nữa trôi qua thì còn gì là đời ?
Tôi uể oải bước xuống đất và đi lại lều Núi, chui vào, đưa tay giở mùng và gọi nhưng tôi kêu lên thất thanh:
- Núi ! Núi ? Núi! – Tôi lắc vai nó. Tôi chụp tay vào đầu nó. Tất cả lạnh ngắt.
Tôi buông mùng xuống và kêu Ngữ.
- Ngữ ơi 1 Thằng Núi chết rồi !
Tất cả bật dậy. Trừ Vân.
Vân đủng đỉnh đi ra khỏi lều sau cùng:
- Tôi đã biết trước là không thể cứu chữa. Cho nên tôi cho cậu ta liều thuốc hồi dương đó. Tim đã kiệt. Có lẽ não đã bị viêm nặng lắm rồi.
Ngữ mò thấy gói kí-nín trong chăn của Núi, đưa cho tôi, không nói gì. Không còn viên nào trong đó. Chiếc bi-đông bật nút nằm dưới đít võng. Tôi đút cái gói không vào túi quần, đưa tay vuốt mặt thằng bé, miệng tôi như câm.
Giao liên tới ra lệnh hành quân.
Trước sự lưỡng lự cửa tôi, Ngữ nói trước:
- Anh và anh Hoàng Việt cứ đi đi. Để em ở lại đây lo cho nó.
Biết nói gì nữa! Tôi và Hoàng Việt cắn răng đi theo giao liên. Anh ta không nhìn. Anh ta đã thấy quá nhiều lần tình cảnh này rồi. Còn bi thảm gấp trăm.
Sá gì một cái lá rơi giữa một khu rừng hoang. Như muôn đời trước và muôn đời sau, xác lá vun cho cây. Nhưng cây rừng còn hữu ích. Còn những cái cây sống mang tên Hồ, Duẫn, Đồng, Giáp mọc trên xác thây nhân dân chẳng đem lại cho ai một lợi ích gì. Thằng thanh niên tên Núi nằm xuống đây là để thêm hồng huyết cầu cho mặt chúng vốn đỏ như gấc, càng đỏ thêm lên.
Đi nhưng mà lòng nặng trĩu u buồn. Trước một cái chết, coi như không.
- Nó là học sinh năm thứ hai trường Cao đẳng Mỹ thuật mày ạ !- Tôi nói với Vân.
- Cỡ đó vô Nam làm cái gì ?
- Vẽ bích báo !
- Phì ! Mày vô đó rồi sẽ thấy, cơ quan trong cuộc kháng chiến với Mỹ này không có chỗ ngồi nữa là chỗ dán bích báo.
- Tao cũng không hiểu mấy chả bắt nó đi làm gì vậy ?
- Còn thằng kia ?
- Khá hơn chút.                                                                        
Ngữ ở lại với Núi. Khi về tới R ít lâu sau tôi nghe tin Ngữ đã tấp xuống khu 6 và ở đó luôn vì bị ngã, chân què, không đi được nữa. Hai cậu Núi và Ngữ rất dễ thương. Ngữ thì chí tình với bạn, chịu khó nấu nướng. Núi thì hiền như cục bột.. Hai cậu luôn luôn xưng “em” với tôi ngọt ngào. Bây giờ chẳng biết thằng Ngữ có còn sống mà về được với quê hương hay không. Còn Núi ? Núi Đôi. Ngọn núi nào ở Ninh Bình đó sẽ ở giá trọn một ngàn năm tới. . ..
—>Chương 21
1      2      3      4      5 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét