Hết vượt núi, ở rừng bây giờ
tới lội sình. Toàn những cực đoan của sự đi đứng. Leo núi thì có đoạn đường hai
ngày không có nước, ở rừng thì không thấy ánh nắng mặt trời, da bủn xì như da
người chết còn lội sình thì ngâm nước suối suốt ngày đêm, thân mình như con mắm
sống. Đường đi thật là dài và vô cùng ngao ngán với sức khỏe xuống dần từng
ngày.
Những người đã đi đồng bằng như
Mỹ Tho, Long An, Bến Tre, Rạch Giá, Cà Mau vẽ lại cho tôi con đường đó bằng mồm
một cách chi tiết. Nghe xong, muốn nghĩ chơi luôn, nằm tại R tiếp tục lãnh
thưởng của muỗi đòn xóc. Nhưng… sứ mệnh thiêng liêng của tôi là về tận Bến Tre
viết cho được quyển tiểu thuyết về Đồng Khởi kia mà ! Đâu có “sọc dưa” nửa
chừng như vậy được ! Hơn nữa, tôi còn có một thúc giục khác có lẽ còn to hơn.
Đó là trở lại quê nhà thăm lại ông bà cha mẹ và hàng xóm mà khi ra đi từ 45 tôi
mới mười lăm tuổi bây giờ đã ba mươi ba.
Mười tám năm xa cách. Đứa bé
mới sinh thời đó có thể đã có con bây giờ! Biết bao nhiêu biến đổi. Thế là tôi
tự động viên lấy quyết tâm đi !
Ông Hai Tân phó Ban Tuyên Huấn
R đến bảo tôi: “Anh đi cho cẩn thận nhé ! ” Biết thế quái nào là cẩn thận. Với
bom đạn ai có đám đùa chơi mà không cẩn thận. Tôi trả lời bằng một tiếng “Vâng”
cũng vô nghĩa như lời khuyên của ông ta.
Đêm. Chúng tôi được đưa xuống
ghe tiếp vận ở một bến sông mà chúng tôi không biết đó là sông nào.
Khi ngồi dưới ghe người lái ghe
(chạy bằng đuôi tôm) bảo chúng tôi nằm xuống không được ló đầu lên. Vì có bọn
“Thầy Bùa” Cao Miên hay rình bắn bậy để giật đồ. Chúng nó vừa làm mấy phát. Ghe
tiếp vận bị cướp sạch, người bị giết chết. Tôi nằm ngửa. Bầu trời đen kịt như
mặt táo tầu bị gà mổ tóe ra với những mụn rỗ xanh, giống như một truyện cổ tích
hãi hùng nào. Đường đi từ làng Ho vô đến đây không biết là bao nhiêu trạm đã
qua rồi. Một điều tôi nhận thấy là cuộc trường chinh này rất phiêu lưu. Mạng
sống của cán bộ không có được một sự bảo đảm tối thiểu. Ơ vùng Cao Nguyên thì
bị thổ phỉ, Fulro, vô tới đây thì lại bị “Thầy Bùa.”
Bất cứ lúc nào cũng có thể chết
được cả. Anh tài công ghe có cây cạc-bin nạp đạn sẵn để ở sau lái còn tôi thì
vừa được “nhà văn” Bùi Kinh Lăng “ủy viên” Hội Văn Nghệ Giải Phóng cấp cho một
cây P38 còn tốt. Thủy Thủ cho tôi một sợi dây dù để buộc vào thắt lưng cho đúng
mốt con nhà binh. Như ở trên đã nói, chỉ những cán bộ trung cấp mới được phát
đồ ni-lông K54 Trung Quốc. Tôi không được nhận lãnh súng ở trường đi B. Cũng
may, nếu tôi được cái ân huệ đó thì một là tôi vứt bỏ vì không mang nổi, hai là
đổi đồ ăn.
Bây giờ tôi mới thấy cần súng
vô cùng. Trên đường Trường Sơn tuy là tay trơn nhưng lúc nào cũng có AK của bộ
đội đi chung “bảo vệ” cho. Bây giờ ra đi chỉ có hai đứa, ông bạn già thì không
có gì cả ngoài cái mái tóc hoa râm và những khớp xương lỏng lẻo khô chất nhờn.
Máy chạy êm ru. Độ một lúc thấy
không có gì xảy ra, tôi ngủ quên hồi nào không hay. Khi được đánh thức dậy thì
đã đến nơi. Anh tài công ghe máy giao chúng tôi cho giao liên xuồng bơi.
Tôi bấm đèn pin để thấy đường
bước qua xuồng. Trời đất một chiếc thuyền bể còn tang thương hơn cả tôi. Nếu
tôi không nạo vét hết cả nghị lực cách mạng còn sót lại trong người thì tôi
không thể bước sang chiếc xuồng này nổi.
Chỉ một mảng lấp lánh ở ven bờ
hiện ra dưới ánh đèn nhưng tôi vẫn thấy nước xoáy. Tôi buột miệng hỏi:
- Sông gì đây đồng chí ?
- Vàm Cỏ Đông !
- Waico oriental ! Chú nhớ hồi
mình học Địa Dư không?
Tư Mô pha trò “Oàm” Cỏ Đông ơi
“Oàm” Cỏ Đông. .
Chúng tôi bước qua xuồng, nghe
cái chết nhẹ bông như chiếc lá. Anh giao liên vừa xô xuồng ra vừa bảo:
- Có pháo bắn các đồng chí cứ
ngồi yên nghe.
- Vâng!
- Có pháo nữa sao đồng chí ?
- Có pháo bầy chứ
không phải pháo độc chiếc đâu.
- Pháo bầy là
pháo gì đồng chí ?
Anh giao liên không trả lời,
nói một cách quạu quọ:
- Tình hình dưới này động lắm!
Mai dám có chụp!
- Chụp là gì
đồng chí?
- Nhảy giò ít
nhất là một trung đoàn.
- Nhảy giò là
gì đồng chí?
- Tụi này thường là Sư 7 hoặc
Sư 9. Sư 9 mới trên Cao Miên về đóng ở Mỹ Tho. Vùng này là mục tiêu của nó.
Anh giao liên bơi nhanh ôm doi
lách vịnh theo nước xuôi như thuộc lòng. Anh không chú ý những câu hỏi của tôi.
Không rõ anh ta đang bận tâm lái xuồng hay không thèm trả lời những câu ngớ
ngẩn. Vốn là kẻ đã từng sống trên sông nước miền Tây nên đi được một lúc, tôi
nghe xuồng lướt chậm, tôi bèn quơ tìm đồ tát nước. Tôi đụng nhằm miếng bập lá
dẹp tả tơi. Điều này chứng tỏ chủ nhân dùng nó liền tay. Tôi tát lia lịa.
Tôi hơi yên tâm vì thấy không
đến nỗi chìm xuồng.
Hồi ở nửa đường Trường Sơn tôi
đã nghe những đoàn cán bộ từ Nam ra Bắc kể về tình hình miền Nam. Họ đã dùng
những danh từ chụp, pháo, nhảy giò, nhưng
tôi chưa nghe họ nói tới pháo bầy.
Tôi lại hỏi :
- Pháo bầy là
pháo gì đồng chí?
- Nó bắn “la-phan” nổ
như súng máy chứ không có bắn cắc bùm đâu !
- Nghĩa là sao? Tôi vẫn chưa
hiểu nên hỏi tiếp.
- Nghĩa là nó bắn lia lịa chứ
không có bắn từng phát từng phát, mỗi phát cách nhau hai, ba phút và đạn nó nổ
rồi mới nghe tiếng đạn đi veo véo. Cho nên đâu có nhảy hầm kịp.
Tôi vẫn không hiểu gì hết. Tư
Mô đáp thay cho anh giao liên:
- Cái thứ đạn pháo này độ nhanh
trước tiếng động như phản lực vậy chú ạ. Khi máy bay qua khỏi đầu mình rồi thì
mới nghe tiếng động cơ ầm ầm. Loại pháo này bắn đạn nổ xong mình mới nghe tiếng
đạn đi và tiếng tống đạn ở lòng pháo. Siêu âm là nó đó.
Anh giao liên tiếp:
- Tụi nó có một giàn ở Đồng Tâm
Mỹ Tho hay Long An gì đó.
- Ở Mỹ Tho Long An mà bắn vô
tới đây?
- Tới chớ ! Ở đâu thì tôi không
biết chớ ở tỉnh này chỗ nào nó bắn cũng tới hết cả. Không một ngõ hẻm hang cùng
nào nó không với tới.
Nghe tiếng nói của anh giao
liên tôi đoán anh ta chưa tới ba mươi tuổi. Đêm tĩnh mịch gần như chết. Cái thứ
im lặng rợn người.
Tôi sợ cả tiếng nói vang to nên
chỉ thầm thì:
- Đồng chí có tham gia kháng
chiến chống Pháp không?
- Hồi đó tôi còn nhỏ. Ba tôi đi
tập kết thì tôi mới mười lăm tuổi.
- Ủa, đồng chí có bố đi tập
kết?
- Bố là cái gì ?
- Bố là tía. Tư Mô trả lời thay
tôi – Đó là tiếng Bắc.
Bỗng có tiếng “hụp hụp hụp” ở
xa xa. Rồi tiếng nổ oàng oàng oàng.
Anh giao liên vẫn điềm nhiên
bơi.
- Nó thụt đấy
! Nhưng pháo nhỏ, không phải pháo Đồng Tâm hoặc Long An.
- Nó bắn xa không?
- Xa lắm.
- Bao xa ?
- Không rõ, hai ba chục ba bốn
chục cây số, tôi không rõ – Anh giao liên tiếp – Bữa nay nó thụt ven bên kia
Đồng Tháp Mười.
- Thụt là sao
?
- Là bắn đó ! – Tư Mô giải
thích – Hai bên cùng là Nam Kỳ mà xa lạ trong ngôn ngữ. Chú em không hiểu bố nghĩa
là gì, còn chú thì không rõ thụt là sao! Người mình quan niệm
cà-nông bắn như ống thụt nước, nghĩa là dồn vô ống trúc rồi thụt bắn ra cũng
vậy!
Tôi cười ngất:
- Như trẻ con chơi nhà chòi à?
- Nó bắn mình đỡ không kịp mấy
chú ơi ! – Anh giao liên nói với giọng buồn nghiến – Nó nổ mình chết rồi mình
mới biết là mình chết mấy chú ơi ! – Anh giao liên gọi chúng tôi bằng chú.
Giao liên ở đây cũng giống như
giao liên Trường Sơn ở cái điểm là bi quan và bất mãn cực độ, nhưng mới nghe
qua vài câu tôi cũng đã thấy rõ anh giao liên ở đồng bằng kề cận tử thần gấp
mười lần anh giao liên Trường Sơn.
Tôi hỏi:
- Ban nãy nó thụt ở vùng nào
vậy đồng chí ?
- Nó cắt đường dây của mình đó.
Nó biết hết đường đi của mình hai chú ạ !
- Mình không mở đường khác được
sao?
- Mở đường mới luôn nhưng đi
vài tháng là nó biết, nó lại cắt.
- Ban nãy đồng chí có nói là
ông già đi tập kết?
- Dạ! Mấy chú ở ngoải về phải
không?
- Phải ! Sao biết ?
- Chú nói giọng Bắc.
- Ủa vậy sao? Tôi giật mình
hỏi.
- Còn “ủa” gì nữa. Ăn rau muống
tám, chín năm líu lưỡi nghe rõ lắm. – Tư Mô nói.
- Anh có nhận thấy điều đó ở
tôi không?
- Có chứ. Vâng, nhỉ,
nhé, thế à ! Những chữ đó đầy trong tiếng của chú. Hổng chừng trong
máu của chú cũng có “chất Bắc.”
Tôi quay lại anh giao liên:
- Bố cháu ở đơn vị nào ?
- Cháu đâu có biết. Cháu không
có gặp ổng. Cháu chỉ nghe má cháu nói lại thôi. Ổng thoát ly đâu hồi cháu bảy,
tám tuổi gì đó lận !
Tôi định lấy cảm tình với anh
giao liên bằng cách nói vòng quanh sự tiến bộ của dân Nam Kỳ tập kết, những đơn
vị và cá nhân Nam Bộ được khen thưởng, được huân chương và được tuyên dương anh
hùng quân đội, anh hùng lao động. Trước nhất tôi nịnh đám dân Long An một phát.
Tôi nói:
- Ở ngoài Trung ương khen ngợi
dân Long An dữ lắm. Sau Bến Tre là Long An. Hai tỉnh này được Trung ương Đảng
tuyên dương là “Lá cờ đầu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ! ” Bí thư Trung
ương Cục Miền Nam bây giờ là đồng chí Sáu Lầu gốc Long An.
Thấy anh ta im lặng tôi chắc
anh ta “thấm bài” nên tương thêm một loạt để chiếm thêm cảm tình.
- Thống nhất đất nước rồi đồng
chí dắt gia đình ra thăm Hồ Gươm, Tháp Rùa, Chùa Một Cột… cho biết.
- Đẹp lắm hả chú?
- Sau đó đi thăm lăng Bác !
- Ủa, Bác Hồ chết rồi sao?
- Chưa, chưa, nhưng chừng đó
thì chắc Bác không còn sống! – Tôi tiếp – Miền Bắc ta tươi đẹp vô cùng. Dân
chúng đang hăng hái xây dựng xã hội chủ nghĩa. Lúa tốt gấp mấy lần lúa trong ta
nhờ lai giống lúa Liên Xô và Trung Quốc, Triều Tiên. Có những hợp tác xã được
mùa, lúa chín bông lúa dầy đặc đến nỗi mình leo lên đứng trên ngọn mà lúa không
sập.
- Trúng quá hả chú ?
Tôi tuôn ra thao thao bất
tuyệt, tuyên truyền anh giao liên mút mùa, còn Tư Mô thì ngồi im hút thuốc. Anh
ghiền nặng. Trước khi đi anh đã nhờ mấy cậu tiếp phẩm mua giùm thuốc rê dồn
cứng một bịt ni-lông to bằng nửa chiếc gối đệm, anh dự định cục nhựa này có thể
đủ xài trong cơn thắt ngặt chạy không ra chất đốt trên đường. Nghe tôi tuyên
truyền hơi mạnh cho anh giao liên, anh nhắc khéo:
- Chú không phải lo! Mai mốt bố
về sẽ nói cho con nghe !
Xuồng lách vào trong rạch nhỏ
quanh co tối om.
Độ hai ba giờ sáng về đến trạm.
Không biết trời đâu đất đâu cứ việc lao vào mò mẫm tìm chỗ mắc võng. Anh giao
liên đến bảo:
- Chú nào có muốn mua gì cháu
mua dùm cho !
- Ủa, ở đây có quán sao cháu?
Tôi kêu lên.
- Dạ có ! Mắm, khô, xà bông
thơm, thuốc lá thơm, kẹo đậu phộng, trà con Tôm, con Khỉ, đường cát, đường tán
có đủ hết.
- Tôi muốn mua cây bút máy có
không?
- Trấu gì ba cái đó ?
Tư Mô nói:
- Bút Bic có thiếu gì. Ở trong
này không xài Stylo Kaolo hay Pilot hút mực ngòi vặn ló ra thụt vô như thời
kháng chiến nữa!
- Vậy à? Tôi không biết.
- Vậy ở ngoài Bắc xài bút gì ?
- Toàn ngòi bút lá tre chấm mực
trong lọ.
- Cơ quan xài gì ?
- Cũng thế.
- Trong này một cây bút giá mấy
xu thôi.
Tôi bảo:
- Mua cho tôi một “lố.” – Tôi
móc tiền đưa cho anh. – Mua luôn các thứ ăn uống và một cục xà bông thơm.
Tôi giăng võng nằm chụm đầu với
Tư Mô. Anh giao liên xuống mé rạch tát nước xành xạch rồi bơi đi. Tôi thấy
trong người khỏe khoắn vô cùng vì cái quán mà anh giao liên vừa nói. Bằng ấy
mặt hàng ở trong một cái quán cóc trong vùng giải phóng ư? Khác nào Tổng Hợp
Bách Hóa Hà Nội ? Mà ở đây lại không cần phiếu.
Tư Mô hút thuốc và chậm rãi cất
giọng:
- Tôi nói với chú chuyện này,
chú đừng có giận tôi nghe.
- Chuyện gì ? Anh cứ nói đi !
Gì mà giận !
- Mấy việc tốt đẹp chú nói hồi
nãy ở trong này người ta biết hết rồi.
- Vậy hả? Sao biết ?
- Thì cũng mấy ông ở ngoài đó
về trong này nói tùm lum ra. Họ còn biết nhiều chuyện đẹp ác nữa. Tiểu ban mình
cũng đã ngập tràn những chuyện như vậy rồi. Ấy là mấy cha ngoài Bắc về còn giữ
kỷ luật cơ quan đấy. Còn mấy tướng bung ra ngoài, bất mãn đâu hồi đời nào, đi
tới đâu họ ria tới đó. Bây giờ không có ai tin mấy ông tập kết nữa đâu.
- Có vụ đó nữa sao anh Tư?
- Có chớ !
- Sao anh chưa đi đồng bằng mà
anh biết ?
- Thì mấy cậu ở tiểu ban mình
đi về, uống trà nói. Dân mình trong này bây giờ không có muốn thống nhứt đâu.
Đây tôi nói nhỏ với chú thôi. Chú của chú cũng từng đi kháng chiến như tôi,
nhưng tại sao bỏ ngang? Đó là một vấn đề. Các ông bà tập kết ra Bắc rồi về đây
toàn nói chuyện bất mãn. Đó là hai vấn đề.
Tôi thở dài. Mệt còn hơn lội
một keo Trường Sơn.
Tư Mô tiếp:
- Dân Nam Kỳ ra ngoài đó bị
chết xe chết tàu dữ hả chú?
- Đâu có ai bị chết tàu đâu !
Chỉ có ông Mười Kỉnh Tổng Thư Ký ủy Ban Hành Chánh Tỉnh mình ra đó làm gì ở Bộ
Nội Vụ, thay mặt cho Bộ đi Hải Phòng đón tiếp Việt kiều ở Tân Đảo về, khi
chuyền qua tàu, ông bước hụt chân té và chết chìm thôi chớ đâu có ai chết tàu
chết xe gì .
Tư Mô thở khói một hơi dài rồi
bảo:
- Thôi, ngủ đi. Mai tình hình
dám “động” lắm! Xuống đồng bằng thì phải chuẩn bị cặp giò và cái lỗ mũi. Tụi đi
trước về cơ quan khuyên như vậy.
- Chuẩn bị cặp giò thì phải,
còn cái lỗ mũi, tại sao?
- Chém vè dưới lục bình lú lỗ
mũi lên thở. Hiểu chưa ?
Buổi sáng chúng tôi dậy thì mặt
trời đã ló lên ba sào. Tình hình yên tĩnh. Trong trạm đã có trên ba bốn chục
khách vì đường nghẽn nên bị ứ lại. Có những người đã nằm cả tuần lễ, cứ nhao
nháo đi ra đi vào, chặc lưỡi gãi đầu gãi tai: “Kiểu này thì bỏ mạng sa tràng
rồi !” “Kiểu này thì… thì…” v.v…
Tôi và Tư Mô chẳng “bỏ” gì cả.
Cuộc sống rừng khan hiếm đủ thứ, kể cả không khí và trời xanh, nên ló đầu ra
được khỏi tàng cây rậm bịt đến đây hít thở không gian mênh mông thì sốt ruột
cái gì ?
Anh giao liên đem về các thứ
mua ở quán. Tôi muốn kêu lên như một đứa trẻ con. Sau năm tháng không biết, cái
mái nhà, không biết mua một món hàng… bây giờ có tất cả.
Buổi sáng hôm nay là buổi sáng
lịch sử. Tôi thấy một mái nhà. Cái nhà của anh giao liên, một cái nhà nhỏ hai
mái như chòi trâu nhưng có vách phên và lợp bằng lá dừa nước… Tuy vẫn phải
giăng võng ngoài bờ ngoài bụi nhưng mắt được nhìn thấy một cái nhà.
Một điều lạ lùng nữa là ở đây
nấu nướng tha hồ, nước nôi ở ngay bờ mương, củi, không phải đẽo gốc cây đứng
như ở Trường Sơn và có cả quán bán đồ.
Ơn Bác ơn Đảng con suýt làm
phân bón rừng Cao Nguyên, nhờ hồng phúc của Bác mà con được trông thấy miếng
kẹo đậu phộng và cục xà bông thơm. Nhưng không phải của Hợp Tác Xã Thống Nhứt
hoặc nhà máy Cao Xà Lá sản xuất mà là của nguy Sài Gòn.
Có cá mắm sặc, khô mực, khô cá
đuối, cá hố, đường, đậu v.v…. những thứ ở Hà Nội rất khó mua hoặc không có để
mua. Tôi nói với Tư Mô:
- Mình nhậu một ván tẩy trần đi
anh Tư!
- Tẩy Rờ đó chớ!
- Sao mình gọi là R anh Tư?
- Hừ, chú hỏi cắc cớ vậy !
Chính tôi cũng không hiểu R là cái gì. Rờ gì, rờ rún hay rờ m… Nhưng tôi cứ
hiểu R là Rừng. Không có tự vị để tra nghĩa.
- Bây giờ trước nhất là làm ba
con khô mực đi !
- Nhờ chú giao liên đi mua giùm
một xị “sum sum” mới được.
Tôi gọi anh giao liên tên là
Tôn đến và nhờ thi hành lệnh của anh Tư. Tôn sẵn sàng đi ngay. Tôi hỏi:
- Ngày mai có chuyến đi xuống
chưa đồng chí ?
- Chưa đâu chú à! Đường còn
kẹt. Nó đang đổ dù ở miệt dưới.
- Nghĩa là phía nào ? Tôi chẳng
biết đâu là trên đâu là dưới cả.
- Dưới là dưới chứ còn chỗ nào
nữa – Tư Mô pha trò – Chú nốc một xị rồi sẽ thấy cái chỗ dưới nó đổ dù ngay.
Tôn cười và hỏi:
- Có thịt trâu hai chú có làm
vài kí không?
- Bộ trong này dư trâu làm
ruộng hả chú?
- Trâu bị cà-nông hồi hôm !
- Bắn sơ sơ vậy mà có thiệt hại
rồi à?
- Có chứ. Chuyện đó xảy ra hằng
ngày. May mà không có người chết. Đạn pháo là đạn mù mà chú. Nó đâu có ngắm mục
tiêu. Nó chỉ nhắm mắt thảy đùa trúng ai trúng? Chú gặp dịp may, mua vài kí đi.
Lớp ăn tươi lớp làm lương khô. Đường đây còn dài, và còn nhiều việc chông chênh
lắm chú ạ. Có ba cái lương khô giắt lưng là vững bụng nhất.
Tôi gật và đưa tiền, rồi nói
với Tư Mô:
- Lương khô heo, gà, chó, nai,
khỉ, voi, rồi bây giờ tới lương khô trâu ! Còn thứ gì làm lương khô được nữa không?
- Cá chú ạ!
- Cá đã đành rồi!
- Chuột chúng cháu cũng làm
lương khô luôn!
- Vậy nữa ?
- Chuột tháng mưa mập lắm. Chú
mua vài con làm thử coi. Ăn cũng chết giấc chứ chẳng chơi đâu! Bữa nào tình
hình yên tĩnh, vài ba chúng cháu đi dậm cù bắt chuột lớp ăn lớp bán tự túc.
- Dậm cù là sao ?
Tư Mô nói:
- Chú đi ra Bắc lâu quá rồi
quên mấy cái vụ quen thuộc của xứ mình. Dậm cù là một trận chiến gồm năm sáu
người bao vây một đám lác ruộng, dùng chân dậm lác ngã xuống và càng ngày cụm
lác càng thu nhỏ lại. Chuột rút vào. Cuối cùng bị đuổi nột, chúng liều chết vọt
ra. Mình chụp đầu. Dậm cù có càng nhiều người càng tốt vì chuột khó chạy thoát.
- A, tôi nhớ ra rồi. Hồi tôi ở
nhà mỗi lần bãi trường về quê cũng chơi cái trò dậm cù này. Tụi ở vườn có đứa
bắt chuột giỏi, chúng chụp ngay đầu và bóp cổ con chuột nhăn răng, nhưng cũng
có đứa chụp cái đuôi chuột quay lại cắn la trời.
Tôn đứng đó, chưa chịu đi làm
sứ mạng. Tôi giục thì nó nói mua có một xị không đủ đổ lỗ mũi mua làm gì. Nghe
nói thế Tư Mô móc túi đưa thêm tiền và dặn:
- Đong một lít chẵn đi, còn bao
nhiêu thì mua đậu phộng. Nếu dọc đường có gặp lá cách quơ dùm một mớ. Có mỡ heo
không? Chậc, quên mất cái vụ mỡ dầu. Xào thịt trâu không có mỡ thì xào làm sao?
- Ôi ồi ! Mỡ đằng quán thiếu
chi. Tôi đãi mấy chú mỡ Mỹ.
- Mỡ Mỹ là mỡ gì ? Tôi ngạc
nhiên hỏi.
- Mỡ từ bên Mỹ đem qua bán cho
mình.
- Sao Mỹ lại bán mỡ cho mình ?
Tư Mô trả lời giùm thằng Tôn:
- Đây là mỡ của dân Mỹ tặng cho
dân Việt Nam tức là ba thằng Nguy đó ! Tặng phẩm của Mỹ nhưng vợ quan chộp lấy
đem bán đầy các chợ. Mình mua đem về ăn. Vậy chớ chú không thấy mấy cái thùng
mỡ tổ nải ở nhà bếp tiểu ban mình đấy à?
- Tôi tưởng là thùng không chớ?
- Còn ba cái thịt hộp nữa. Hộp
sơn màu cứt ngựa là của nhà binh. Nó đem sang cho lính Mỹ nhưng cũng chạy tọt
vô trong này tiếp tế cho mình. Chú chưa thấy hộp thịt heo nạc năm kí lô trút ra
cục nào cục nấy bằng đầu gối mình vậy.
Tôn xen vô:
- Ở dưới này cũng có thiếu gì
ba cái ngữ đó chú. Bà chủ quán này cứ mỗi chuyến đi chợ là mua về cả xuồng. Tha
hồ bán cho cán bộ, bộ đội.
Tư Mô vụt hỏi :
- Ở gần đây có bán dừa khô
không chú? Thịt trâu xào lá cách thì phải xài nước cốt dừa mới đúng điệu.
- Trời đất ! Nước cốt dừa ! Tôi
kêu lên.
- Sao? Xào lá cách thì phải
nước cốt dừa chớ la cái
- Thì đúng rồi ! Nhưng tôi sực
nhớ ra rằng gần mười năm tôi không có ăn dừa.
- Sao vậy? Ngoài đó không có
dừa à?
- Có nhưng ít thôi.Ở Quảng
Xương Thanh Hóa! Nhưng chánh quyền cấm bán. Chính phủ mình mua hết cả để gây
vườn dừa.
- Thế à?
- Tôi quên mất xứ mình là xứ
dừa.
Thấy thằng Tôn cứ đứng lần chần
mãi không chịu đi, tôi giục, hắn bảo:
- Chờ cho tan phèn mới
đi được.
- Tan phèn là
sao? – Tôi lại hỏi.
- Là chờ cho trưa trưa thì đi
mới bảo đảm ! Điểm bán thịt trâu hơi xa. Đi bỏ trạm rủi nó chụp dù bơi về không
kịp. Nó tới nhanh lắm chú ơi. Trước khi tới nó chào mừng bằng nửa giờ pháo
bầy. Không có thứ gì ngóc đầu lên được. Xong pháo bầy thì trực thăng tới.
Vài cặp cá lẹp ria như mưa bấc. Nếu không có cá lẹp thì phản
lực bỏ bom. Xong đâu đấy mới cho đầu láng tới.
- Cá lẹp, đầu
láng là cái gì?
Tôn nói :
- Đầu láng là
một trong các loại trực thăng tụi nó dùng để chụp mình đó chú ạ. Nó cũng là
trực thăng bành bạch thôi nhưng mình nó như còn cá chẻm có vảy sáng trưng và
cái đầu nó láng dùng để chở cấp chỉ huy, còn đen thui và có càng trông rất dị
hợm thì dùng chở lính.
Còn cá lẹp, chời ơi
! Cái thứ cá lẹp, nhắc tới đâu teo tới đó. Cũng là trực thăng thôi nhưng mình
nó dẹp và mỏ nó dài. Trước khi đổ dù nó thả hai con cá lẹp tới phóng rốc-kết
tàn nhẫn. Mỗi phát bốn quả. Ai lọt vô giữa thì lượm không được miếng da ! Rồi
còn bắn nữa. Nó bắn không có nghe rồn rột như trung liên đâu. Súng của nó nổ
như bò đái… e e e… éc. Mỗi loạt dài chừng hai phút. Nó phóng rốc-kết rồi bắn
thì hầm nào cũng không chịu nổi.
Tôi chú ý nghe còn Tư Mô thì
phớt lờ.
Lúc lội Trường Sơn, tôi có nghe
một cán bộ từ trong Nam ra Bắc nói cho nghe cái vụ nhảy giò của trực thăng… Hồi
đó tôi chỉ hiểu mơ màng, bây giờ đến thực địa mới hình dung rõ hơn.
Vụ nhậu thịt trâu quy mô thực
hiện một cách dễ dàng nhờ nhiệt tình của thằng Tôn. Liệu chừng tan phèn nó đi
mua rồi bơi xuồng theo mé sông tìm hái được cả lá cách và mua được một trái dừa
khô trong xóm. Tư Mô là người ăn uống kỹ lưỡng, tỉ mỉ, chứ không phải như tôi
món gì cũng ăn, chín sống gì cũng xực không kén thứ gì. Anh đòi cho được lá cách
và dừa khô để xào thịt trâu “ăn cho nhớ nhà chơi” chứ không chịu xào bằng mỡ
Mỹ. Nhưng được dừa khô rồi thì không có bàn nạo. Đó là món đồ nghề thiết thân
với dừa khô. Không có bàn nạo thì chỉ ăn dừa kho thôi ! Cho nên đành chịu vì
không tìm đâu ra cái bàn nạo ở giữa cái chốn ma quỉ này.
Thằng Tôn đem thức ăn của nó
chung ty với chúng tôi. Nó có vẻ thân mật hơn với những người khách khác. Nó
cũng uống rượu. Uống được vài hớp nó hỏi một cách bất ngờ:
- Ai tập kết cũng đều về hết hả
hai chú?
Tôi nói:
- Có người về có người không.
- Tại sao vậy chú ?
- Chọn lựa dữ lắm chứ đâu phải
hốt ngang hốt ngửa như mua tép ngoài chợ!
- Không biết chừng nào ba cháu
mới về ?
Ba cái vụ tập kết tập kiếc Hà
Nội Hà Niếc Miền Bắc Miền Biếc xã nghĩa xã nghiếc, có lẽ nghe đã đầy tai chán
ngấy rồi nên Tư Mô để cho tôi đối đáp, còn anh cứ chăm chú tiêu diệt những
miếng thịt trâu thơm nức. Tôi nói lấy lòng thằng Tôn.
- Sớm muộn gì cũng về thôi !
Cháu đón ở đường dây này thì chắc gặp.
Thằng Tôn không tỏ vẻ vui mừng
gì hết. Nó hơi ngó xuống và uống rượu liên tục. Tôi đoán là nó nhớ bố nên lựa
lời mà an ủi:
- Dân Nam Bộ mình ra ngoài đó
được đề cao dữ lắm. Ba cháu ở bộ đội, biết đâu đã được gởi đi học Liên Xô,
Trung Quốc rồi !
Thằng Tôn vẫn im lặng. Tư Mô
liếc ngang tôi, ý bảo: Coi chừng tới hố! Tôi hiểu ý nhưng tôi vẫn cứ tuyên
truyền miền Bắc xã nghĩa để bù đắp lại “công ơn” miền Bắc đã thắt lưng buộc
bụng nuôi những thằng Nam Kỳ ăn hại, trong đó có tôi. Hơn nữa, tôi đoán là ở
nơi đìu hiu hút gió, những ông bạn giao liên trẻ này ngày ngày dầm mưa dãi nắng
đội pháo bom đều một lòng tin tưởng ở ngày mai sáng lạn của miền Nam và họ
không thể biết những chuyện tang thương ngẫu lục của dân tập kết ở ngoài đó,
cho nên tôi không ngại “phóng đại tô màu” mặc cho ông bạn già háy liếc:
- Nếu hồi đi tập kết ba cháu là
đại đội trưởng thì khi về phải ít nhất là tiểu đoàn trưởng.
Thằng Tôn lắc lia:
- Chắc không có đâu chú ơi !
- Sao vậy? Thiếu gì chiến sĩ ta
ra ngoài đó được đề bạt vượt cấp.
- Ai chớ còn ba cháu thì chắc
không được đâu. Cháu biết mà.
- Tại sao ?
- Vì ba cháu không có chữ nghĩa
gì ! Cháu nghe má cháu nói mà. Riêng cháu cũng biết là hồi cháu lớn thì ba cháu
còn đi ở cho người ta.
Tôi vỗ đùi như đóng kịch:
- Nếu vậy thì càng hay nữa.
Cháu không biết chớ thành phần bần cố nông là thành phần được Bác Hồ chiếu cố
nhất vì đó là nòng cốt của cách mạng.
Tư Mô xen vô một cách móc họng:
- Bần cố cỡ Nguyễn Văn Sơ không
chú ? – Anh gắp miếng bầy nhầy vứt xuống mé ao và tiếp – Đó mới thiệt là bần cố
bảy mươi lăm phần dầu của xà bông Trương Văn Bền hả?
Tôi háy lại ông bạn già. Tôi
không ngờ ông bạn lại biết những chuyện hóc búa này.
(Xin mở một cái ngoặc khá dài
để bạn đọc hiểu đầu đuôi câu chuyện:
Thật ra thì đó cũng chẳng phải
là chuyện đại chúng nhưng cũng chẳng phải là chuyện phòng the nên người ta có
biết thì cũng chỉ xầm xì với nhau vì đây là một trong những cái sự hố to của
đảng và quân đội: Chuyện này để đời, tôi có muốn giấu giùm cho đảng cũng không
giấu được. Bây giờ ngó lại thấy nó quá ư kỳ cục: Không hiểu tại sao người ta có
thể phạm sai lầm như vậy.
Số là hồi cải cách ruộng đất,
lính ông Viết Thắng Hồ (tên viết theo kiểu Mỹ) đuổi lính ông Giáp Võ Nguyên
chạy tét nước. Cũng vì cái thành phần mà thôi. Ai có gốc bần cố nông thì kể như
ngủ khỏe ru, còn anh nào tiểu tư sản trở lên phú địa mệt cầm canh, không khác
nào cái án treo trên cổ. Trong quân đội có một anh cần vụ tên là Nguyễn Văn Sơ.
Sơ chuyên môn xách dép và nấu cơm cho Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sơn tức là
Nguyễn Văn Tây dân đại địa chủ ở Vĩnh Long vô đảng hồi 1930. Kháng chiến nổ ra
ở Nam Bộ, tôi không biết ổng làm gì, ở đâu; nhưng khoảng 1948 tôi được thằng em
trai của ổng rủ đi Cao Miên: “Anh tao làm Tư Lệnh Tình Nguyện Quân của mình
trên đó.” Nhưng tôi không đi. Khi tập kết, tôi có gặp ổng ở bến Chắc Băng trong
đoàn Tình Nguyện Quân hồi hương. Ra Bắc nghe đâu ông ấy được phong (miệng – chớ
không thấy đăng báo) Thiếu tướng. Tôi chỉ gặp thằng em trai của ổng thôi. Một
hôm nó cho tôi hay rằng ông Thiếu tướng văng mất hết lon gáo. Tôi hỏi nó tại
sao? Nó bảo là tại vì thằng ở đợ (tức là tên cần vụ Nguyễn Văn Sơ) tố khổ ông.
ông gốc là địa chủ gộc, Vĩnh Long ai còn không biết, nhưng ổng giác ngộ vô sản
từ khuya làm tới chức Tướng, cần gì phải tố ra đảng mới rõ.
Thế nhưng ông vẫn mất chức như
thường. Còn tên Sơ thì được đề bạt lên làm hiệu trưởng trường Cải Cách Ruộng
Đất cao cấp của quân đội. Trường này là cái “ải thứ ba” đẫm nước mắt của cán bộ
từ Thiếu tá trở lên. Có lắm anh chỉnh huấn tại trường này xong, lon gáo rớt hết
vì thành phần không cơ bản ! Còn đại tướng Tổng Tư Lệnh và Hồ Chủ Tịch, Hoàng
Văn Hoan, Phạm Văn Đồng thành phần gì ? Sao vẫn là lãnh tụ ? ?
Lúc đó tôi còn ở trong quân
đội, không đeo lon mang gáo gì cả, coi cái tuồng Cải Cách Ruộng Đất cũng vui
vui vì mình là tiểu tư sản, tội không nặng mấy.
Nhiều anh bạn Nam Kỳ đi học ở
cái trường này, khi về khóc khóc mếu mếu trông rất thảm thương. Báo Quân Đội
Nhân Dân đăng ảnh và tiểu sử Nguyễn Văn Sơ như anh hùng Cải Cách Ruộng Đất với
thành tích tố cáo làm ngã ngựa một ông Tướng từng là chủ cũ và là thủ trưởng
của mình. Sau đó, tôi có gặp lại thằng em ông Tướng. Nó cười khẩy: Thằng ăn
trộm tố điêu! Nó giải thích thêm: Hắn ăn trộm dừa nhà tao có lần bị người nhà
bắt được. Bây giờ nó oán, nó dựng chuyện và bịa ra cái thảm cảnh của gia đình
nó chứ chẳng có cái đếch gì ? – Sao ở trên dễ tin thằng cần vụ hơn một ông
Tướng vô đảng từ 1930? Ba mươi năm qua, tôi vẫn không tìm ra câu trả lời ! Đi
theo cách mạng vô sản chẳng phải dễ đâu bà con làng xóm ơi !)
—>Chương 14
- 14 -
Tôi hỏi Tư Mô:
- Ông cũng biết chuyện ấy nữa
sao ông nội ?
- Thì cũng do mấy cha ở ngoải
về xì ra.
Tôi bèn bóp méo câu chuyện kể
cho thắng Tôn nghe rồi bảo:
- Nguyễn Văn Sơ là người ở cho
địa chủ cũng như ba cháu vậy, nhưng khi ra ngoài Bắc được Bác Hồ cho làm tới
hiệu trưởng trường cao cấp quân đội đó.
- Ở đợ mà làm hiệu trưởng như
vậy rồi làm sao chỉ huy mấy ông có học chú ?
- Ờ ờ. Tôi như bi mắc nghẹn
miếng thịt trâu nên ngập ngừng – ở ngoài đó ít cần chữ lắm cháu ạ. Lập trường
mới là cái cần nhất. Người có lập trường làm cái gì cũng được, còn người có chữ
không làm được cái gì!
Nhưng thằng Tôn không tin, nó
nói:
- Chú bảo vậy sao được. Chẳng
lẽ dốt như cháu mà lên làm chỉ huy cả trăm cả ngàn người. Chỉ làm giao liên là
tốt thôi !
Tôi đành lặng thinh và nâng
chén rượu uống cho đỡ ngượng. Tư Mô cũng đánh trống lãng giùm tỏi:
- Con trâu này chắc còn tơ nên
thịt không dai hả chú em ?
- Dạ, nó mới nổi cổ.
- Trâu chết vậy là bỏ mùa
ruộng.
- Ối ! Ruộng mà kể gì chú ơi !
Làm xong mùa có được gì .
- Trực thăng bố hả ?
- Thuế!
Thằng Tôn như giật mình, nói
lấp:
- Có khi một trái cà nông thảy
vô giữa bầy trâu, chết ba bốn con, què hai ba con !
Cơm nước xong, tôi lên võng
nằm. Trời chiều lại có chất men trong người, nên tôi muốn thả hồn theo Lý Bạch
lên Hoàng Hạc Lâu, nhưng thằng Tôn lại lê tới tâm sự. Nó có vẻ dè dặt hơi lâu,
nói chuyện bao đồng một chốc rồi mới hỏi:
- Mình có gửi thư ra Bắc được
không chú ?
- A, cái đó thì chú không rõ.
Tư Mô đáp xẳng :
- Muốn gửi thì gửi. Có khi ra
tới, có khi không.
- Vậy nữa à?
- Trên R có bưu điện ra trung
ương nhưng có lẽ là chỉ dành cho cơ quan thôi.
Thằng Tôn nói:
- Cháu muốn gửi thư cho ba cháu
đừng có về.
- Hả! Tôi ngóc cổ dậy, gắt –
Tại sao?
Thằng Tôn lặng im. Tay nó đưa
lên nắm đầu võng của tôi run run .
Trong bóng chiều vàng ối tôi
thấy cặp mắt thằng nhỏ rưng rưng. Nó suýt khóc.
Tôi không biết chuyện gì, nhưng
đoán chắc là có bi kịch trong gia đình. Tôi nằm xuống im lặng. Hồi lâu nó mới
nói:
- Má cháu đã lấy chồng.
Trời đất. Tôi kêu thầm. Đó là
bi kịch to lớn nhất của một gia đình.
Chồng đi (tập kết) thì có chồng nhà
Hơi nào mà đợi chồng xa đi về.
Ca dao trào lộng trở thành đời
sống hiện thực của thời đại Hồ Chí Minh.
Câu đó được đổi ra như sau:
Chồng đi (giải phóng) thì có chồng nhà
Hơi nào mà đợi chồng xa đi về.
Còn trong đám Nam Kỳ tập kết
thì có câu chế diễu những anh miền Nam cưới vợ Bắc:
Ngang lưng thì giắt su hào
Đầu quấn rau muống chân quào bánh đa.
Và tự chế diễu mình:
Đất Bắc anh gìn cho tí ngẳng.
Trời Nam em giữ cái bề hê.
Trung ương không nghe làm gì.
Trung ương ở nhà lầu ba góc có hàng rào làm bằng xương dân Nam Kỳ bịt kín, ông
nào cũng gối đầu trên miếng đất xéo tanh tanh dí mũi vào chòm cỏ rối, đâu có
ông nào bị chia loan rẽ thúy ! Cho nên không thông cảm nổi với các đức lang
quân bị gối chiếc phòng không, mưa phùn gió bấc, kêu không thấu Thiên Tào Bắc
Đẩu.
Vừa trồi ra khỏi rừng mới bước
chân xuống vùng có dân cư, tôi đã đụng ngay cái bi kịch không màn này.
Tôi không nói gì thêm, sợ làm
thằng Tôn khóc rẻ lên. Nhưng nó không khóc. Nó hỏi tôi:
- Mà chú biết thằng chồng bây
giờ của má cháu là ai không?
(Tôi suýt kêu trời. Cái câu hỏi
đầy hài hước và bi thương. Thằng chồng của má cháu! Ở Hà Nội,
có chiếu một phim có cái tên cũng ngược đời như thế“Người chồng của vợ anh
ta. ” Nhưng không chói lỗ tai bằng “Thằng chồng của má cháu ! )
Tôi không thể đoán thằng đó là
thằng nào. Thằng nào mà má cháu gọi bằng chồng, còn cháu gọi bằng thằng? Nó
không phải là ba cháu ư?
Thằng Tôn nói tiếp:
- Thằng cha Xã đội trưởng chú ạ
!
- Rồi sao ?
- Nó rà rê riết rồi má cháu
ưng.
- Chịp !
- Nó bảo là đám tập kết hết về
rồi. Mỹ vô, miền Bắc không dám đánh. Mỹ đánh ra Bắc, Bắc thua. Nó nói đủ thứ,
ngày một ngày hai. Nó gạ gẫm, tới lui, ban đầu thì ngày, lần lần thì đêm. Có
khi cà nông thụt, nó chui đại vô hầm với bả!
Tôi nằm im không dám cục cựa
như sợ mỗi cử động của mình làm vết thương của nó vỡ to thêm. Nó tiếp:
- Bây giờ cháu ít về lắm chú ạ.
Về càng thêm chán. Cháu lấy trạm làm nhà.
- Lâu chưa?
- Có con rồi .
- Trời đất !
- Hai ba bốn năm trước chớ
không phải mới đây. Cháu định bữa nào đụng đầu cháu lia cho nó một băng AK.
- Bậy nào ! Làm vậy loạn hết.
- Thì tại nó loạn trước mà.
- Rồi xã ủy chi ủy không có kỷ
luật gì à?
- Nó là xã ủy chớ còn ai nữa?
- Vậy thì hết chỗ nói rồi !
Đây là phần nâng cao chất lượng
của bi kịch. Chồng đi làm cách mạng, vợ ở nhà bị người ta cuỗm mất. Đó đã là bi
kịch, nhưng cái kẻ cuỗm vợ nhà cách mạng kia lại chính là đồng chí của nhà cách
mạng. Thế mới dzui.
Tôn tiếp:
- Xã này có hai ba trường hợp
như vậy chú ạ!
- Vậy à?
- Mà toàn là xã ủy, chi ủy chủ
động không hè !
- Chủ động là sao?
- Thì là vậy đó. Mấy bà kia
cũng có chồng đi tập kết như ba cháu. Rầu lắm chú ơi ! Bà nào bà nấy cũng mang
bụng chửa thè lè như chuột tháng mưa. Có bà giấu giếm nhưng ai cũng biết. Có bà
đẻ con rồi quăng xuống sông để phi tang nhưng làm sao mà tan được. Có bà bỏ nhà
đi chỗ khác vì sợ bà vợ lớn chửi bới.
Tôi đã từng biết vụ ghen của bà
lớn Duẩn ở Hà Nội. Hà Nội có nhiều lính và nhà bê tông cốt sắt thế mà đồng chí
Tổng bí thư không có chỗ để cho bà nhỏ ở tránh khỏi nanh vuốt của bà lớn. Đồng
chí phải cho bà nhỏ chạy sang bên Tàu tị nạn. Thì ở cái vùng giải phóng hỗn
loạn vô pháp luật này làm sao có chỗ dung thân cho những nạn nhân của sự ghen
tuông?
Thằng Tôn thở dài sườn sượt. Nó
không nói gì nữa. Trời tối hẳn. Tối như ở Trường Sơn, nhưng sự tối tăm hôm nay
ở đây là sự tối ám của tâm tư. Cách mạng càng kéo dài càng thêm nhiều bi kịch.
Chẳng có gì vui cho mỗi cá nhân. Như tôi vậy. Cái vui duy nhất của tôi là đã
thoát khơi nơi mình không thích, nhưng cái bi kịch của tôi thì vô tả.
Tôi đã rời khỏi rừng nhưng trái
tim của tôi còn ở lại đó chôn sâu nơi một hố đất giữa rừng già. Còn biết được
ngày nào tôi trở lại. Mưa gió sẽ san bằng tất cả, nhưng tim anh thì mang mãi
hình dáng của em.
Tôi bỗng sực nhớ ra rằng lúc
bối rối tôi đã bỏ luôn cả chiếc ba lô của Nguyệt vào hòm. Trong đó có biết bao
nhiêu là món có thể giữ để làm kỷ niệm.
Thằng Tôn đi về chòi của nó bỏ
tôi và Tư Mô ở lại với nhau trên hai chiếc võng giăng cụng đầu. Bất ngờ Tư Mô
hỏi:
- Chín Nheo ra ngoải làm cái gì
?
- Chín Nheo nào?
- Thì… nhà họ Lưu, không nhớ à?
Chú ở trong chi hội Văn Nghệ Nam Bộ với chả chứ ai !
- À! Nhớ ! Chùm Vải Đỏ ! Chùm
vải đỏ ! Tôi bật ra mấy câu thơ:
Một bước đầu qua ranh Nam Bộ
Nhận món quà ủng hộ của Đồng Nai
Lòng run run theo một chuỗi cười dài
Vải ngọt quá, ngọt như tình đất nước…
phải chả không?
- Chớ còn gì nữa.
- Mà anh hỏi chả làm gì ? Chả
ra ngoài chẳng còn văn thơ gì nữa. Làm gì trên Phủ Thủ Tướng, được ở trên cấp
cho chiếc xe hơi Peugeot 401 hồi mình còn ở truồng tắm vũng.
Tư Mô nói:
- Tôi nhớ bài Chùm vải đỏ của
chả. Mới mé ranh Nam Bộ đã nhận được chùm vải ngọt của Bà Rịa. Còn tụi mình mới
lú ra khỏi rừng thì được vị bần chưa của đồng bằng.
- Bần gì ở đâu?
- Bần mọc đầy hai ven sông đó !
- Nhưng mình đã ăn trái nào đâu
mà chua với chát?
- Chuyện thằng bé kể đó không
chua thì ngọt à?
- Anh thật! Tôi trở mình úp mặt
vào mép võng.
Tư Mô hút thuốc liên miên. Một
chốc anh nói:
- Không kết tội thì không được
! Nhưng kết tội thì cả quan tòa cũng đau lòng.
- Tội gì ? Tòa nào ?
Tư Mô lặng thinh. Anh ném tàn
thuốc xuống mương. Tôi nghe một tiếng “xèo” to. Chắc điếu thuốc còn dài nhưng
anh không hút nữa. Anh nói:
- Đàn bà mà không có đàn ông ở
nhà cả chục năm trời thì còn gì là đàn bà? Chú chưa có vợ, chú chưa biết chuyện
đó đâu. Cá bỏ trong giỏ không có hom, nếu nó không vọt ra thì cũng bị mèo thò
móng vào chụp, chú hiểu không ?Đàn ông đi như thế nếu có chuyện gì xảy ra và
bất cứ như thế nào cũng là lỗi ở đàn ông chứ không phải của đàn bà! – Tư Mô thở
dài. Anh nói như một tín đồ của Freud – Xác thịt là tội lỗi nhưng đó lại là
hạnh phúc của người đời. Đàn bà mười năm không biết đàn ông thì còn là cái gì
được chớ? Chú xem con cá, con chim, con chó, con trâu có phải chịu đựng gian
nan thế không? Đàn bà Việt Nam đâu có phải là đàn bà âu Châu mà nuôi chó
berger, mà xài dụng cụ cao su được. Hoặc họ nói thẳng với anh hàng xóm là tôi
muốn ngủ với anh một đêm thôi vì mai mốt chồng tôi về, tôi không cần anh nữa.
Tập kết hai năm đã là quá lắm rồi. Bây giờ gần mười năm. Một người con gái đã
phải già, một người đàn bà trung niên đã là mẹ chiến sĩ. Chú thấy không? Đàn bà
Nam Kỳ đã xa chồng chín năm kháng chiến rồi bây giờ đã xa thêm chín, mười năm
nữa…
Xin Trời hãy tha thứ cho họ.
Tôi không muốn nói gì. Vì tôi
không phải chịu đựng loại thảm kịch đó. Tôi ra Hà Nội một thân một mình. Tôi có
bạn gái. Nếu tôi muốn lấy vợ cũng không phạm gì cả. Nhưng tôi thấy nó không ổn
thế nào ấy. Vì Hà Nội không phải là nơi cư trú vĩnh viễn của tôi. Hơn nữa tôi
luôn luôn tìm đường trốn.
Những ngày tôi đi công tác ở
các tỉnh, ở các đơn vị quân đội người Nam Bộ hoặc những nơi có đông người Nam
Bộ, tôi thấy nhiều chuyện đau lòng.
- Anh Tư ơi ! Tôi kêu lên –
Người Nam Bộ mình là những con vật hi sinh anh ạ!
Tư Mô không nói gì . Hai bàn
tay anh mò mò bị thuốc nghe sột soạt. Anh lại hút. Tôi tiếp:
- Chẳng những đàn bà bị hi sinh
mà đàn ông con trai cũng thế! Cả anh nữa?
- Còn phải nói ! – Tư Mô đồng ý
một cách xuôi chèo với tôi – Tài Lé chửi ghê lắm !
- Anh có gặp giả à?
- Có chứ !
- Vẫn lé ?
- Muôn năm.
- Vẫn càu nhàu ?
- Muôn năm !
- Vẫn ở đó ?
- Muôn năm ! Và vẫn nói chuyện
hấp dẫn. Có một bà tư sản ở Sài Gòn mê chả dữ lắm !
- Mê gì ở cái bộ xương đó?
- Mê nghe chuyện của chả thôi !
Bà ta nói là nếu xừ Tài đồng ý, bà sẽ mướn lũy cứ mỗi tuần tới nói chuyện cho
bả nghe một ngày, chuyện gì cũng được ! Thằng chả có duyên tệ. Nói cái gì nghe
cũng hay, nhất là chuyện Miệt Thứ. Ba cái chuyện lẩm cẩm Trèm Trẹm U Minh !
- Chả chửi cái gì ?
- Lủy bảo là cách mạng gì kỳ
cục vậy. Khi đánh giặc thì cùng đánh. Khi thắng giặc xong thì một thằng chạy đi
hưởng lạc, còn một thằng thì bi trói quăng vô chuồng cọp.
- Chuồng cọp nào? Thằng nào bị
quăng?
- Tụi tui đây chứ còn thằng nào
! Chuồng cọp là Chí Hòa, Côn Đảo, Bà Rá, Kontum ! Chú không biết chứ tụi này ở
lại chỉ trong vòng vài tháng là bị xúc hết ráo. Trần Chính, trưởng ban tuyên
truyền Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ, nhớ không?
- Thày cũ của tôi.
- Bị thịt ngay sau khi các vùng
hoàn thành các chuyến tập kết. Đó là người trong tỉnh mình. Còn cỡ như tôi, cậu
của chú thì vô khám ngay. Không chuồng cọp là gì ? – Tư Mô ngồi bật dậy – Đành
rằng đấu tranh thì phải có hi sinh, nhưng mình tránh sự hi sinh oan uổng và tức
tối đó được không? Người ta tưởng đem được mấy chục tàu người ra Bắc là đủ rồi,
còn những kẻ ở lại lộ mặt hoặc lem nhem thì cứ việc ở lại tha hồ mà chui trốn
và tin tưởng trung ương.
Tôi biết Tư Mô có một tâm sự
uất ức dài như Cửu Long Giang, nhưng tôi không dám khuyên can gì. Ngược lại tôi
còn tán thành. Đúng là trói đồng chí mình quăng vô chuồng cọp. Ngoài ra tôi còn
thấy mình chỉ là một tên vô tích sự. Ra Bắc có làm được cái gì để hai năm thống
nhất đất nước đâu!
Về tới R, ở Chiêu Đãi Sở, tôi
gặp rất nhiều người quen cũ từng là cấp trên của tôi ở quận, ở tỉnh trong kháng
chiến chống Pháp nằm la liệt sốt triền miên, để làm gì ? – Chờ Ban Tổ Chức R
giải quyết sinh mạng chính trị cho mình, tức là tuyên bố khai trừ, cảnh cáo,
hoặc trấn an và được chấp nhận cho công tác trở lại. Họ bi tù vừa ra hoặc “bí
mật liên lạc” với đảng trong nhiều năm. Trong số người này, có một người từng
là thư ký Thanh Niên Cứu Quốc quận Mỏ Cày của tôi tên là D. Anh ta nhờ tôi nói
dùm với Ban Tổ Chức giải quyết sớm sớm, hoặc “chém,” hoặc “tha,” lẽ nào cũng
được. Để nằm dài như vậy khổ sở quá. Nhưng tôi có quyền hạn gì ! Hơn nữa tôi
cũng không biết Ban Tổ Chức ở đâu và ai là chủ của cái ban đó. Anh ta tưởng là
dân tập kết về thì oai hùng lắm. Tôi đành hứa cho qua truông trước khi chia tay
nhau. Từ đó tôi không gặp lại anh ta nữa.
Tư Mô có lẽ đã nhờ anh Năm
Quang, tức Trần Bạch Đằng, bảo lãnh (cũng như bảo lãnh tôi vậy) nên được về
ngay tiểu ban Văn Nghệ R. Tuy được làm việc, sáng tác nọ kia, nhưng phải mang
cái án gỡ không ra. Ôi, cách mạng! Giá đừng có cách mạng thì dân Việt Nam đỡ
chết chóc và bầm dập hơn. Cách mạng không làm nên hạnh phúc cho ai cả, mà ngược
lại. Tính đến năm 63 là đã đổ máu gần hai mươi năm, nhưng chẳng thấy người cán
bộ Nam Bộ nào được hưởng cái gì cả. Chỉ toàn hi sinh.
Tư Mô nói tiếp:
- Nếu tôi bị rơi vào trường hợp
của bố thằng Tôn thì tôi hoàn toàn không bắt tội người đàn bà.
- Khổ lắm anh Tư ơi ! Tôi van
anh. Thôi ngủ đi để còn giỏi giò sáng mai nó“chụp” thì mình chạy.
Tư Mô im. Nhưng tôi nào ngủ
được. Tôi về đây là thoát rồi, dù có gì xảy ra đi nữa thì cũng hài lòng. Tôi
chợt nhớ lại tất cả bạn bè, lũ còn ở ngoài ‘Bắc lẫn đám bị trói quăng vào
chuồng cọp: Phạm Anh Tài, Huy Hà, chú, cậu tôi và v.v… không nhớ hết.
Tư Mô làm tôi nhớ nhất Phạm Anh
Tài, bởi có nhiều kỷ niệm trong thời kỳ chống Pháp
Không rõ anh làm ở tòa soạn tờ
Tiếng Súng Kháng Địch Miền Tây Nam Bộ hồi nào nhưng khi tôi đến (1950) thì thấy
anh đã ở đó rồi. Anh in thơ, in truyện nhiều nhất trong những nhà thơ, nhà văn
trong vùng. Tài rất thích thơ Huy Cận. Tôi được anh ngâm cho nghe hầu hết tập
Lửa thiêng. Giọng của anh là một giọng ngâm đặc biệt không thấy ở ai khác.
Đẹp xưa, Ngậm ngùi v.v… bài nào anh ngâm
nghe cũng muốn đứt ruột đứt gan. Anh ngâm xong lại bình về kỹ thuật và chính
anh đã khuyên tôi: “Ê, Xuân Vũ, sao mày không cưới vợ cho rồi ? ” – Thôi ông
nội ơi ? Một cái ba-lô trên lưng đã thấy nặng rồi, đeo thêm cô vợ làm sao đi
nổi ? – Ấy, mày cưới vợ xong rồi mày sẽ thấy cái ba lô nhẹ hơn! Hì hì… Kháng
chiến này còn dài mày ạ. Mày có chắc mày khỏi ốm đau không? Mày lủng phổi thì
đi dưỡng đường nó chích cho mũi calcium rồi về chớ nó đâu có chứa mày lâu. Mày
có vợ nó ở nhà nuôi gà, nuôi vịt, mày về trụ hình ở nhà có trứng gà tẩm bổ, nó
nấu cơm sốt cho mày ăn ! Như tao nè, vợ tao có khi nào cằn nhằn khi tao về nhà
đâu. Nó còn mong cho tao bệnh để ở nhà nữa là khác !
Câu khuyên thật chí lý chí tình
và khoa học, nhưng tôi đã không thích vợ con lại coi chuyện đó hơi kỳ cục. Đến
khi hòa bình lập lại, tôi làm ở tòa soạn thì anh ở nhà. Tuy còn dính chân ở cơ
quan, nhưng anh có giấy của bác sĩ cho nghỉ dài hạn. Dài là bao dai, không ai
biết, nhưng lâu lâu thấy anh đến nói chuyện với cấp chỉ huy rồi “biến” ngay
trước khi họ thay đổi ý kiến !
Khi tôi sắp xuống tàu tập kết ở
bến Chắc Băng thì gặp anh. Lúc bấy giờ các cơ quan dân chánh đều hối hả rộn rịp
tập trung ở vùng này để lo móc ngoéo gia đình xin đồng hồ, bút máy, áo ấm, để
đem ra Bắc bán ăn. Anh đưa tôi coi cái điện văn và nói:
- Xừ Tiểng (tức Huỳnh Văn
Tiểng, Giám Đốc Sở Thông Tin Nam Bộ kiêm Giám Đốc Đài Phát Thanh Tiếng Nói Nam
Bộ) mới đưa tao !
Tôi đang đọc thì anh nói:
- Ở ngoải kêu tao ra.
- Ngoải là ai ?
- Tố Hữu.
Tôi mừng rỡ bảo:
- Vậy sửa soạn nhanh đi cha !
Mình cùng đi một chuyến !
Anh lắc lia:
- Thôi th…thôi !
- Sao vậy?
- Tao không có đi đâu!
- Sợ bỏ vợ hả ?
- Cũng có một phần, nhưng cái
chính là tao không muốn đi!
- Không đi ra đó thì đi đâu?
- Về Sài Gòn.
- Làm gì ở trển ?
- Chưa biết ! Nhưng mày ra
ngoài đó rồi mày làm gì có biết không?
- Gặp cụ Hồ cho bõ cái công
kháng chiến.
Anh xua xua tay không nói. Chả
là tôi mới làm một bài thơ là “Thay áo mới “ vừa đăng báo, với
hai câu kết mà tôi rung đùi khoái lắm:
Mười năm dồn lại một ngày
Là ngày tay cháu cầm tay Bác Hồ !
Anh nói :
- Tao có đọc thơ của mày. Hay
lắm !
- Tại sao anh không đi chứ?
- Nhưng đó chỉ là thơ. Còn đi
ra ngoải lại khác.
- Khác thế nào được !
- Rồi mày xem. Ở trong này thì
mày thấy gần ổng, nhưng khi ra đó thì thấy lại xa hơn lúc ở trong này !
Rồi anh ăn mấy quả cam nhà của
tôi, vừa đi vừa nói chuyện trên bờ kinh xáng.
Quả thật “ra ngoài đó thì xa”
đúng y như rằng. Chẳng những xa mà tôi hết ham gặp Bác Hồ nói chi bắt tay. Tôi
không được bắt tay bác và thú thực tôi cũng không mơ ước được cái hân hạnh đó.
Chẳng phải riêng tôi mà nhiều không biết bao nhiêu.
Anh Tài ở lại Sài Gòn viết văn,
viết hay hơn trong kháng chiến. Nếu anh ra Bắc có lẽ (tôi đoán vậy thôi) anh sẽ
ít nhiều dính vào Nhân Văn Giai Phẩm.
Dòng tâm sự của tôi chảy lan
man như nước sông Vàm Cỏ. Nếu tôi có ngọn đèn dầu trong tay, tôi chỉ cần
nghiêng qua mép võng thì:
Khêu đèn ta thấy trong dòng nước
Có máu Miền Tây, máu Hậu Giang.
Huy Hà! Đó là nhà thơ kháng
chiến, người thứ hai tôi quen thân sau Anh Tài. Tôi đi chiến dịch Long Châu Hà
chung với Quốc Hương bài “Cười vui mà đi Long Châu“, rất hay. Làm xong
Quốc Hương hát và dạy bộ đội hát rền trời.
Cười vui ta đi Long Châu
Tình thương reo trong nòng súng
Ta về mang theo vui mừng
Cầm súng ta đi diệt Tây!
Huy Hà làm ca dao. Được câu nào
anh đưa cho tôi:
- Ê! Xuân Vũ coi đã không?
Huy Hà có cái sắc-cốt cũ rách
đi đâu cũng mang xề xệ và miệng cứ lải nhải những câu thơ viết ra:
Làng tôi mấy cội trâm bầu
Làng tôi có mấy nhịp cầu sang sông
Có bao du kích xung phong…
….Sặc rằn chia đứa nửa con
Mặn mà mà nhớ mà thương nhau hoài!
Đôi lần Huy Hà cũng bảo tôi:
- Ê, Xuân Vũ mày muốn vợ chưa ?
Tao gả em vợ cho! Mày thấy nó là mày thích ngay!
Ôi ! Bao kỷ niệm êm đẹp của
thời kháng chiến phơi gan trải mật tuổi thanh niên, như dòng nước nhỏ róc rách
chảy về những kẽ hở của tâm hồn, len vào tận những nơi cùn cạn.
—>Chương 15
- 15 -
Sáng hôm sau trời lặng gió êm.
Trời thương tụi sứt mẻ đui cùi này nên không có chụp dù. Hai thằng
được ăn cơm trắng, nhai đậu phộng và uống trà quạu đã đời. Rồi ngủ một giấc
ngon lành, yên chí rằng sau khi thức dậy không có ma rét theo níu lưng.
Nước sông đỏ lừ và ngọt ngào.
Từ lâu chuyên môn uống nước lá cây mục, nước voi đầm, nước suối vô vị. Bây giờ
được uống nước Cửu Long Giang.
Tư Mô là một người châm biếm tế
nhị, một người rành đời và hiểu cảnh thổ quê hương rất sâu sắc. Đại khái ăn món
gì thì phải có thứ gì đi kèm. Anh nhắc những chuyện mà tôi quên hoặc nói những
chuyện mà tôi không biết. Đang uống trà bỗng anh hỏi:
- Hồi trước chú có đi tới Cù
Lao Bảo chưa ?
- Có. Đó là xã Thanh Triệu chớ
gì.
- Chú có kỷ niệm gì ở đó không?
- Tôi nhớ là tôi có đọc một bài
báo Tổ Quốc ký tên là Sắt Máu ở trong một quán nơi tôi mua cái ca uống nước
bằng nhôm năm đồng để đeo trên nắp ba lô.
- Đó là mục gây căm thù của báo
Tổ Quốc do ông Bùi Kính Lăng nhà mình, hồi đó tên là Lê Nguyên Phổ, phụ trách.
- Đúng. Bài đó tả một tên lính
Pháp hiếp một em bé gái ở Đồng Tháp Mười. Em bé mới có bảy tuổi nên hắn lấy dao
găm rạch âm hộ của em…
Tư Mô thêm:
- Câu cuối cùng là: “..:Rồi
hắn trườn lên một cái xác không hồn!”
Tôi kêu lên:
- Tôi phục anh nhớ dai hơn tôi.
Tư Mô hỏi:
- Chú biết Thành Triệu có gì
đặc biệt không?
- Lôm chôm, sầu riêng, măng
cục. Và nước ngọt bốn mùa ! Chú nhớ không?
- Vậy à?
- Nước dưới biển tràn lên đến
cỡ Vàm Tân Hương thì còn mặn, nhưng lên tới An Thới Thạnh Thới thì đã pha chè.
Nước mặn không lên tới đầu Cù Lao Bảo và Cù Lao Minh.
- Hồi vô khu 9 tôi lên đây băng
qua Vĩnh Long.
- Đúng, nhưng hồi kháng chiến
tàu bè không kiểm soát nổi sông Cửu Long. Còn bây giờ ghê gớm lắm chú ơi. Tụi
đi đồng bằng về kể lại nghe rất ớn. Nay mai mình phải qua sông Cửu Long và lộ
Đông Dương. Hơn cầu Bình Thân (tục gọi là cầu Trần Thân) ở khu 9 xa.
- Ở đoạn nào ?
- Không biết, nhưng nghe nói
đoạn Ấp Bắc thì bể rồi.
- Nguyễn Ngọc Tấn đi viết về Ấp
Bắc gởi ra ngoài đó. Sao không có gì đặc sắc cả ?
- Ở xa nghe thì “đặc,” khi đến
nơi lại “lỏng.” Tài Lé nói đúng hả?
Chiều đến, thằng Tôn lại dắt
chúng tôi đi. Lần này thì đi bộ. Toàn càn rừng. Nửa đêm mới tới điểm mới. Sáng
hôm sau thấy sông mênh mông, nước lé đé mép bờ.
Vàm Cỏ Đông ! Vàm Cỏ Đông !
Vàm Cỏ Đông là con sông từng chứng
kiến cảnh nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt tàu Esperanto của Pháp cách đây cả
thế kỷ. Thuở nhỏ học lịch sử không thấy chuyện đó, nhờ đọc sách mà biết. Và nay
tôi mới thực sự đến bên bờ sông lịch sử này. Nước xoáy như vụ, đỏ như máu.
Hai tên Nam Kỳ kháng chiến hai
mùa mắc võng nằm trên bờ phóng mắt nhìn dòng nước mà tưởng là máu của những bậc
tiền nhân đã hi sinh oanh liệt hãy còn hồng cho đến ngày nay.
Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên
địa
Kiếm bạc Kiên Giang khiếp quỉ thần
Đất nước mình rộng lớn và nhiều
chiến công quá – tôi buồn rầu nghĩ – nhưng con cháu thì chẳng may mắn chút nào.
Độc lập ! Giành cả trăm năm chưa được mà sự hi sinh thì không xiết kể. Hôm nay
nằm trên bờ sông lòng lơ mơ hoài niệm một chiến công hiển hách mà thương tủi
cho dân mình.
Nước lớn dâng lên ngập nửa thân
cây bần. Những cánh nhụy trắng rơi lả tả trên mặt nước. Những con chim dòng dọc
nghệ làm ổ trên ngọn kêu vang và cắn đá nhau chí chóe. Cảnh trí gần gũi với quê
nhà làm nhớ nhung đứt ruột. Cách mạng khởi đầu có vẻ kết thúc nhanh. Ai dè cậu
bé đã trở thành gã trung niên mà chiến tranh không có mòi chấm dứt.
Rải rác cạnh bờ sông khách nằm
chờ chuyến đi, đi và đi. Suốt đời cứ đi và chưa có bao giờ ai nói với mình rằng
chừng nào sẽ đến. Nhiều người công tác ở vùng nay có kinh nghiệm nên họ có sắm
sẵn lưỡi câu và mồi. Vừa hạ trại là họ quăng câu chờ bắt cá. Tư Mô cứ nhắc nha
nhắc nhỏm.
- Nếu biết thế này thì tôi đã
mua lưỡi câu lận lưng đem theo.
- Thôi anh ơi, nghỉ đi cho khỏe
để đi, ở đó mà câu.
Tôi đi rảo tìm người quen. Quen
loại nào cũng được. Từ dưới quê nhà lên R hay từ Bắc vô Nam cũng được. Tôi đã
từng có những cuộc gặp gỡ ly kỳ ở lưng Trường Sơn.
Quả thật, đi rảo một hồi thì
một anh chàng thi sĩ quen từ hồi 1949-50. Hắn tên là Lê Xí. Lê Xí người Phan
Thiết không biết lọt vô Nam Kỳ lục tỉnh hồi thời nào mà đi kháng chiến ở Bến
Tre. Lê Xí làm thơ đăng trong tập san của Đoàn Văn Hóa Kháng Chiến Tỉnh từ năm
1946 cùng với Tư Mô. Lúc đó tôi là thiếu nhi cứu quốc mê thơ nhạc họa vô cùng
và coi Lê Xí như một trong những thần tượng thơ. Lê Xí có một người bạn họa sĩ
tên là Chi Lăng, cận thị nặng, vẽ cho các báo tỉnh, được các nữ cán bộ trong đó
có cả chị Ba Định mê lắm. Một buổi trưa trên đường đá phá hoại hình nanh sấu từ
Giồng Lưông lên Cầu Mống, Chi Lăng một bên, Lê Xí đi một bên. Giữa hai người,
giăng một sợi đây nhợ, một đầu buộc vào ba lô Lê Xí một đầu buộc vào ba lô Chi
Lăng, trên dây nằm những quần tiều và áo thung. Đó là cách phơi đồ trong kháng
chiến ngông ngông mà chỉ có hai nghệ sĩ này phát minh và tôi chưa thấy ai dùng.
Nhưng tôi rất thích cái sáng kiến đó.
- Về hồi nào vậy cha? – Tôi hỏi
Lê Xí.
- Lâu rồi. Thấy Hà Nội không có
tớ thì biết là “lặn” rồi chớ gì .
- Lâu nhưng bao lâu?
Lê Xí xòe hai ngón tay.
- Còn “Xa Lờ” hết ?
- Vẫn cứ “xa”, càng xa ! Lê Xí
ngoẹo cổ thất vọng.
Nguyên là Lê Xí có vợ đẹp lắm,
người Cái Mơn là xứ giàu đẹp nhất Bến Tre. Người đẹp yêu nhà thơ nhờ thơ. Khi
tập kết, Lê Xí không kịp từ giã vợ, lúc bấy giờ đang có thai. Ra Bắc gặp tôi,
Lê Xí than thở một cách hài hước và tự chế diễu mình: Le poète “xa-lờ” (sale).
Một năm nọ ăn Tết xã nghĩa, tôi
ở trong cái ga-ra đẹp như Phủ Toàn Quyền của Bác, Lê Xí tới chơi, trời rét như
cắt da, Lê Xí chỉ mặc áo sơ mi và đề tặng tôi mấy dòng thơ, ký tên Le Poète
“Xa-lờ.” Một lần khác Lê Xí khoe tôi tấm ảnh hai vợ chồng chụp chung. Tôi lấy
làm ngạc nhiên sao anh chị lại trùng phùng được? Nhưng Lê Xí bảo nhỏ: “ảnh
ghép.”
Vì thế bây giờ tôi mới hỏi:
“Còn Xa-lờ hết?”
Khi nghe Lê Xí đáp “càng xa”
thì tôi rất kinh ngạc. Đó là trường hợp của hàng ngàn cặp vợ chồng, trong thời
đại Hồ – nào phải riêng nhà thơ “Xí” này. Tôi không hỏi tới nơi mà rẽ ngang:
- Có ông bạn thơ của “vu’ đằng
kia ! – Rồi tôi kéo tay Lê Xí.
Hai người bạn già háp nhìn
nhau. Một gã trung niên nhìn hai tên già háp. Cả ba cùng quái gỡ như nhau như
trong một cuộc tái ngộ ở ngoài càn khôn.
Kháng chiến đã đi qua hai mươi
năm để lại những đốm bạc trên đầu họ.
Thời đó, Lê Xí rất trẻ, rất tài
và rất trí thức nên vô đảng Dân Chủ của Đặng Ngọc Tốt ở Bến Tre. Thấy đảng Cộng
Sản lấn lướt, Lê Xí bèn bỏ Dân Chủ để nhảy vô Cộng Sản, nhưng bỏ xong, không vô
được, thành ra buông hình bắt bóng chơi vơi ở giữa hai mé bờ, mặc cho sóng vỗ
ngã nghiêng.
Ra Hà Nội, Lê Xí có được đảng
ngó tới, nhưng vẫn cứ để Xí ở bệ cửa nhòm vô chứ không cho vô vì cái tịch Dân
Chủ xanh lét kia.
Hai con người gặp nhau, mỗi
người một mối hận riêng. Họ không muốn chạm tới mối hận lòng đó. Còn tôi thì
lại càng muốn cho họ nghĩ tới việc khác.
Tôi hỏi Lê Xí:
- Ở đây người ta câu cá gì cha?
- Cá chạch lấu.
- Là chạch gì ?
- Nó như cá chạch ở xứ mình
nhưng to như con rắn hù ri và có bông có hoa coi ghê lắm.
- Có ai bắt được chưa?
- Có chớ. Mấy tay nghề địa
phương câu một ngày được cả chục.
- Ăn gì hết.
- Nó bán chứ. Mỗi con bán năm
sáu chục đồng.
- Bạc gì?
- Bạc thành.
- Ủa mình xài . . .
- Bạc thành chớ đâu có Tín Dụng
Phiếu như hồi kháng chiến ? – Lê Xí vừa nói vừa móc túi đưa ra tờ bạc. – Bạc
Sài Gòn đấy ! Hồi kháng chiến cũng gọi bạc thành là bạc xanh. Bây giờ cũng thế!
- Năm sáu chục một con cá
chạch? Vậy lương bác sĩ ở Hà Nội chỉ mua được một con cá chạch thôi sao?
Tư Mô xen vào:
- Thì cũng như năm chục rịa chỉ
mua được gói trà con khỉ đỏ đít.
- Khỉ có tháng chớ. Nói cho
đúng chữ nhé, nhà thơ không xa-lờ!
- Cũng xa-lờ như toa vậy chớ
sao không xa.
- Mấy năm ?
- Sáu bảy, tám năm rồi ! Tư Mô
chỉ tôi – chú em này là không phải xa-lờ.
- Vì tôi không có lờ để mà… xa.
- Le poète “xăng-lờ!”
Cả ba thằng cùng cười. Tôi chỉ
cười gượng.
- Vậy phải về kiếm lờ mau mau,
kẻo hết!
- Năm nay băm mấy rồi?
- Băm ba.
- Meo dữ rồi đa ! Dừa sắp lắc
nước rồi. Không khéo khô chỉ còn thắng lấy dầu đốt đèn.
Ba người “xa lờ” và “xăng lờ”
bù khú với nhau một lúc rồi Lê Xí dẫn bọn tôi đi tìm mua cá chạch lấu.
Đó là một cái tăng lụp xụp
không có vẻ gì đặc biệt cả nếu không có cái hũ đường để bên đầu võng. Lê Xí vốn
quen với chủ tăng nên hỏi ngay:
- Có trự nào không Năm Hứa?
- Còn ba trự. Nhưng có người
dặn rồi.
- Ai ?
- Tốp đi Cà Mau Rạch Giá gì đó.
- Ăn một lúc ba con à ?
- Cả chục người mà ! Toàn dân
Nam Kỳ, đều mang “giò heo” cả nên họ xài tợn lắm. Họ dặn được bao nhiêu, bắt
hết bấy nhiêu.
- Nhín một con cho tụi này được
không?
Năm Hứa, một anh chàng tóc tai
vén khéo, râu ria cạo sát lẻm, áo thung ba lỗ. Theo Lê Xí cho biết anh ta là
kiểm soát viên của đường dây. Anh ta nằm ì tại đây rồi lấy tình hình từ các
trạm mà báo cáo về R. Nhân việc nhàn rỗi, y câu cá chạch lấu bán cho cán bộ với
giá tương đối thông cảm tình đồng chí. Cán bộ từ R đi xuống thì khoái chất tươi
nên bi nhiêu bi cũng mua nhậu tẩm bổ. Năm Hứa không dám bán vì đã chịu miệng
rồi. Bọn tôi cứ loay hoay chưa biết cách nào nẫng một nàng chạch về làm tiệc.
Ba đứa mà xơi tái một nàng thì vừa phải, không nhiều mà cũng không ít. Miếng ăn
thấy đó mà không xực được. Bạn đã từng đói, thèm đủ thứ như tôi thì bạn mới có
thể hiểu được nỗi bực dọc trong lúc này.
Tư Mô nhỏ nhẹ với chủ cá:
- Đồng chí thông cảm cho ! Anh
em cũng gian khổ như nhau mà. Nếu các đồng chí ấy nói gì, tôi chịu trách nhiệm
cho.
- Không được đâu. Mấy chả dặn
kỹ lắm. Tôi đã cho các chả coi cá và ngã giá chắc rồi.
Lê Xí vọt miệng:
- Nói nó lóc ra mất một con !
- Hà hà… Năm Hứa lưỡng lự một
chốc rồi nhìn mặt nước nói: – Nước đang những ròng, cá ăn mạnh, tôi bỏ một lúc
ba lưỡi đằng kia, để tôi đi thăm. Chừng nào không dính sẽ cho cá bò…
Ba đứa tôi ngồi chồm hổm trong
lều. Tư Mô quấn thuốc hút. Lê Xí cào cào mớ tóc ngắn như tìm kế.
Tư Mô gợi ý:
- Mình cà ri một nửa nhậu, kho
lạt một nửa để ăn cơm !
- Lấy gì mà cà ri?
- Tôi có thủ một mớ gia vị. Hồi
ở trên R, mỗi lần mua ngũ vị và nghệ để ướp thịt nai, còn dư lại tôi đều thủ
kỹ.
Tôi nói:
- Cá chạch nấu chua là tuyệt
sắc. Sẵn ở đây có bần chín rụng thiếu gì .
Đang còn bàn tính mơ-nuy thì
một phái đoàn quân sự toàn mang giò heo đi tới. Tôi kêu lên ngay:
- Ê Trung !
- Ai đó ?
- Tui nè.
- À, à nhà báo văn nghệ hả?
Hắn là Đại đội trưởng Công Binh
ở bến phà Lược ở Thọ Xuân Thanh Hóa trong tiểu đoàn Công Binh của Đại úy Mật.
Tôi đến đấy công tác hồi 1957-58 chi đó sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Hắn tên là Đặng Chí Trung nhưng
vì nhỏ thó, lúc nào cũng ho khạc nên chiến sĩ tặng cho biệt hiệu Đặng Vi Trùng.
.
Đặng Vi Trùng mừng rỡ khi nhận
ra tôi:
- Cũng vô ?
- Không vô thì ra à ?
- Đi cu ki vậy sao ?
- Có bồ chớ. Nè, ông Mật chết
rồi ta !
- Sao vậy, hồi nào ?
- Ngoài Trường Sơn, bị bom trộm
– Tôi kể vắn tắt và nói – Lãng nhách. Phải ổng nán lại đi chung với tôi thì
khỏi rồi.
- Chậc! Cha nội đó khiến chết
hay sao á. Cho đi Liên Xô không chịu, cho đi Trung Quốc cũng không. Chỉ đòi về
. Về rồi vậy đó, không tới.
- Nằm lại luôn ở đó rồi.
Tôi thở đài:
- Ổng chưa vợ hả ta ?
- Hình như chưa! Ngoài bốn mươi
rồi. Có lấy thì lấy ai?
Trung vui vẻ rẽ ngang chuyện
khác:
- Ối mà rồi cũng tới phiên
mình. Vô đây còn dễ chết hơn ở Trường Sơn nhiều.
- Tôi tưởng xuống được đồng
bằng là lột vỏ sống đời chớ!
- Lầm to ! Lầm to ! Ai từ Bắc
về cùng đều nghĩ như vậy cả. Nhưng khi xuống đồng bằng rồi mới thấy là đồng
bằng gai góc, không có phải là đồng bằng ăn hút như thời chống Tây đâu !
Tôi quay sang Le poète xa-lờ:
- Không còn cái vụ phơi quần áo
theo kiểu đó nữa nghe cha non !
- Kiểu đó là kiểu nào ?
- Giăng dây qua hai chiếc ba
lô… !
- Hồi đó mình chơi ngông nhiều
thứ lắm.
Năm Hứa thăm câu trở về, xách
một đùm cá, đuôi cá kéo lết trên mặt đất.
- Ăn to rồi !
Tôi vốn xấu chứng đói, nên thấy
cá thì la lên:
- Tôi bắt hết cả chỗ đó nghe!
- Ba con lận đồng chí ạ !
- Ba con chớ ba chục con tôi
cũng mua hết.
Đặng Vi Trùng không giành giựt:
- Để các chả hết đi. Tôi chỉ
bắt số dặn sẵn thôi. Để tính việc đắp đầu gối cái đã rồi tối nay ‘ta “nói
tâm tình không giấu nhau” (*) nghe nhà… răng!
(*) Một câu trong bài hát Niềm
Thương Mến của Phan Vân và Xuân Vũ được giải nhất Giải Thưởng Cửu Long 1950 ở
Nam Bộ.
Tuy nói vậy, Đặng Vi Trùng chưa
vội đi. Hắn kéo tôi ra xa, rỉ tai: “Xuống đó phải cẩn thận cho lắm nghe. Đừng
có mà ăn no ngũ kỹ đó. Ông Sản chết rồi !”
Ông Sản nào? À tôi nhớ ra rồi.
Đặng Quốc Sản, Trung đoàn trưởng trung đoàn Cửu Long hồi kháng chiến chống
Pháp. Nghe đâu ông ta mới được Trung ương đưa về làm Tư lệnh khu 8 (Hồi chống
Pháp Trần Văn Trà làm Tư lệnh). Về mống nào rụng mống nấy. Tôi thầm nghĩ.
Nguyễn Văn Bảo, Chính ủy F330 về làm Chính ủy khu Sài Gòn Chợ Lớn vừa về tới
nơi là bị biệt kích bắn chết. Nguyễn Hoài Pho, trước là Tỉnh đội phó tỉnh đội
Cần Thơ (nơi tôi làm trưởng tiểu ban Văn Nghệ) về làm Tư lệnh khu 9 cũng chết.
Trần Đình Xu tức Ba Đình về làm Tư lệnh khu Tam Giác Sắt cũng đã hi sinh. Bốn
ông tư lệnh. Nghe mà rùng mình. Mấy ông Tướng đi đâu tiền hô hậu ủng, giáp sắt
bó người đấy. Còn bọn văn sĩ này có gì bảo vệ ? Nghe Đặng Vi Trùng nói, tôi
lặng thinh. Hắn còn dặn: “Bí mật.”
Kéo lết ba con chạch lấu về
lều, tôi bảo Lê Xí:
- Dời võng lại đây cho có bạn.
Thế là nổi lửa. Ba con cá, làm
xong, khứa ra dồn cứng ba gà-men. Thiệt là hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn.
Tư Mô làm bếp chính. Tôi và Lê
Xí chỉ hụ hợ. Tư Mô phân công:
- Le poète Xa-lờ đi móc bần
chín. Còn pồ-ệt xăng-lờ thì đi đốn mái dầm cắt lấy khúc non đem về tước vỏ, để
cà-ri thay cho măng le, măng tre.
Xong nhiệm vụ hai đứa tôi leo
lên võng đu đưa chờ thời. Bỗng tôi nghe tiếng thét ở mé sông. Tôi vừa ngồi bật
dậy thì thấy một người ở dưới nước vọt lên, trần trụi, tay bụm…, tay bơi, mặt
mày trắng nhách. Tư Mô hỏi:
- Cái gì vậy ?
- Chắc có bo bo chạy ngoài
sông. Lê Xí đáp.
Nhưng không phải . Anh ta chạy
vụt qua võng tụi tôi để về lều. Chập sau, mới biết là anh ta bị tai nạn cá nốc.
Về đồng bằng có hai cái “nốc” đáng sợ nhất. Dưới nước: cá
nốc. Trên trời: bù nốc.
Cá nốc là loại cá chỉ to bằng
ngón chân cái, mình vàng, có đốm đen. Khi bị nắm đuôi lắc lắc thì nó phình ra
như một chiếc bong bóng con. Mồm nó rất nhỏ nhưng răng rất sắc. Nó thường khoét
đùi mông người tắm truồng.
Bù nốc là loại trực thăng không
rõ ký hiệu là gì nhưng mình nó tròn như con cá nốc nên dân đồng bằng gán cho nó
cái tên là (trực thăng) bù nốc. Hễ đi đường trống mà gặp bù nốc là hết phương
chạy. Nó bay sà trên đầu, đáp ngay trước mặt. Hễ chui xuống hầm thì nó rà ở
miệng hầm. Tên Mỹ thò đầu ra kêu: “Vi Xi ! Vi Xi ! ” Nếu không ra nó tung trái
khói hoặc lựu đạn.
Anh chàng kia bị cá nốc khoét
ngay cái bửu bối. Anh ta tự băng bó lấy và lên võng nằm. Thấy bạn “bị thương”
mà không hỏi thăm thì cũng khó coi, nhưng hỏi thăm thì cũng hơi khó… mở miệng.
Cho nên chúng tôi đành lấy mắt ngó và đoán mò với nhau thôi !
- Có lẽ không nặng’ lắm đâu !
- Nó “húc”nhằm cái “chốt” thì
trở thành “cán bộ…xa lờ” luôn đó.
- Không có y tá y tướng gì ở
đây hết ráo thì nặng hay nhẹ gì cũng không chữa được.
- Mẹ, cá gì mà cá ác vậy chứ.
Nhè cái chỗ ăn thua của người ta mà tấn công!
- Không biết đó là dân Mùa Thu
hay Mùa Đông?
- Coi bộ vó không đoán ra nổi
là mùa gì. Nếu Mùa Thu thì đau khổ lắm.
Chiến tranh Việt Nam lần chống
Mỹ này có lắm hài kịch. Chết và bị thương đủ cách ở Trường Sơn. . Bây giờ về
ven đồng bằng lại gặp cái tai nạn kỳ cục này.. Không biết cá nốc ở sông Vàm Cỏ
đã đánh giải phóng quân được mấy trận như vậy? Bắn tỉa kiểu này chẳng thua gì
Nguyễn Văn Cội bắn tỉa Mỹ ở Củ Chi.
Tư Mô ngồi lặng thinh làm nhiệm
vụ đầu bếp, bây giờ mới cất tiếng:
- Cái kiểu này thì ông ta trở
thành người không có cổ?
- Bị chỗ đó thì sao lại không
có cổ?
- L’homme xăng “cu” (*)
(*) Tiếng Pháp “cou” (đọc là
cu) nghĩa là cái cổ.
Ông “thương binh” nằm im cho
tới lúc anh giao liên bất ngờ xuất hiện. Không biết anh ta có được báo cáo cái
tai nạn cá nốc vừa rồi hay không mà lại ghé ngay tăng của nạn nhân và nói oang
oang:
- Tôi quên phổ biến cho các
đồng chí một kinh nghiệm là nếu tắm dưới sông thì phải mặc quần đừng có chủ
quan mà bị cướp mất cái cò súng. Vừa rồi có một đồng chí mùa Thu bị nạn đó. May
mà nó chỉ mẻ có một góc tư thôi .
Chúng tôi không nói gì. Anh
“thương binh” càng nằm im thin thít.
Trời chiều bớt nắng. Liền với
bờ sông là một khu rừng chồi tràm xơ xác. Nếu khách chui vào đó thì chắc lòi
lưng bị trực thăng xót dễ dàng. Bây giờ tôi mới thấy cái hay của Trường Sơn. Dù
sao trên đầu mình cũng luôn luôn có một tấm giáp bằng lá che mắt kẻ địch. Đạn
bắn thì thủng tuốt nhưng sự rậm rạp làm cho những kẻ sắp chết an tâm hơn là
đứng giữa trời nhìn thấy kẻ địch lù lù đi tới giết mình mà không phương chạy
thoát.
Anh giao liên cũng võ trang một
loại súng như giao liên Trường Sơn: cạc-bin.
Anh ta nói như chơi:
- Nếu có động, các đồng chí rút
vào rừng tràm đó.
Tư Mô hỏi:
- Nếu trực thăng nhảy giò thì chạy
đi đâu đồng chí?
Anh giao liên gạt ngang:
- Ở đây chỉ sợ bù nốc thôi. Còn
nhảy giò thì chắc không xảy ra ! Nó mới nhảy tuần rồi !
Tôi hỏi :
- Tại sao đồng chí lại chắc
vậy? Nếu nó chầu đôi thì sao?
- Vì nó nhảy xuống kỳ rồi,
chẳng bắt được cái mẹ gì ngoài ba cái c. bần.
Tôi cười ngất:
- Tôi có thấy cái nào đâu !
- Nước ròng lòi mé bãi cơ. Cả
một rừng c… lởm chởm như chông vậy. Hố hố. Cái tiếng tự nhiên làm tôi nhớ nạn
nhân. Tôi ngoắc anh giao liên lại gần và rỉ tai. Anh ta kêu lên:
- Thế thì bỏ mạng rồi. Mất cái
chìa vôi đó thì chết sướng hơn ! Rồi anh ta đi lại võng nạn nhân lắc lắc – Có
sao không đồng chí ?
Tôi làm bộ không chú ý nhưng
tai thì lắng nghe xem sự thế ra sao.
- Chịp! Sao không cẩn thận gì
hết trọi vậy cha?
- Tôi đâu có ngờ !
- Tôi không thể nhắc mỗi người
được. Phải tự bảo vệ lấy chớ. Mà có ngaychỗ nghiệt không?
Anh chàng không đáp. Hồi lâu
mới hỏi:
- Trạm có y tá không đồng chí ?
- Tất cả khách đều phải tự túc
mọi cái. Chúng tôi không có bất cứ thứ gì ngoài sự dắt đường cho các đồng chí.
Anh giao liên trở lại lều tôi:
- Đồng chí có thuốc đỏ không?
- Thuốc đỏ là thuốc gì ? – Bị
hỏi bất ngờ tôi đâm ra ngớ ngẩn.
Tư Mô bảo:
- Mẹc-cuya thì tôi có đây,
nhưng nó chỉ sát trùng thôi ăn thua gì !
- Thì đỡ vậy thôi, chớ có cái
thuốc gì là thuốc trị cá nốc cắn đâu !
Tư Mô lấy chai thuốc đỏ thấm
miếng bông gòn đưa cho anh giao liên và nói nhỏ với tôi:
- Thằng này chắc tên là Lầm
hoặc là Liền.
- Sao anh biết ? Nó đâu có tự
giới thiệu với mình.
- Trạm trước có thằng “Tôn” thì
trạm này gặp thằng “Liền” hoặc thằng “Lầm” là đúng công thức với vụ cá nốc đớp
cái “chông ba lá ‘ của ông khách kia rồi chớ gì!
Tôi cười và nói nhỏ:
- Báo hại, nếu anh bạn mình
đang móc vợ vô thì không biết tính sao !
Tối hôm đó Đặng Vi Trùng đến
mắc võng nằm gần tôi. Vi Trùng hỏi ngay:
- Quyển sách thế nào?
Tôi ậm ờ:
- Mình đi nên giao lại cho nhà
xuất bản Quân Đội.
- Lâu thế mà chưa in à?
- Chưa!
(Đó là truyện dài “Những
tiếng nổ ngầm” của tôi viết mất hai năm, xong hồi 1960 đưa cho nhà
xuất bản Quân Đội. Rằng hay thì thật là hay, nhưng nó lại bị ở trên chê là lộ
bí mật quân sự nên ngâm dấm luôn. Nhân vật chính là Đặng Vi Trùng. Câu chuyện
một toán công binh do Đặng Vi Trùng chỉ huy phá sập cầu Bến Lức năm 1952 bằng
mìn.)
Tôi đánh trống lãng:
- Kỳ này cậu về làm một cú Bến
Lức nữa hả?
- Trước thì dễ hơn. Bây giờ thì
vô phương. Bộ Tư Lệnh Khu định làm một cú để ăn mừng gì đó nhưng tớ không mò
lại gần được chiếc cầu.
Tôi nói:
- Hồi đó cậu đội lục bình thả
rề theo nước rồi đáp vô chân cầu đặt mìn coi bộ dễ mà.
- Ba tháng trời mới làm được.
Bây giờ khó lắm. Nghe nói nó đốt đèn điện tử và thả cá leo cá lung gì quanh
chân cầu, khó bề đội lục bình như hồi trước lắm.
Tôi cười:
- Cậu sợ cá leo mà có sợ cá nốc
không?
- Cá nốc là cá gì?
Tôi trỏ anh bạn đằng kia và kể
vắn tắt câu chuyện.
Đặng Vi Trùng cười hắc hắc vang
trong đêm tối.
- Cá nốc cũng nguy hiểm nhưng
không đáng ngại bằng bù nốc. Cá nốc chỉ gặm một tí thôi nhưng bù nốc thì nó
thỉnh nguyên con !
Chuyện cũ nhắc lại thì như
chuyện mới. Nhất là chuyện được nhắc lại trên cái nền cũ là Vàm Cỏ Đông. Cầu
Bến Lức. Quả thật con đường này là con đường tâm tư dằn vặt. Tôi từng say mê
cái anh công binh Đặng Vi Trùng với chiến công oanh liệt này. Một đội công binh
Nam Bộ vô cùng anh dũng đã nghĩ ra cách đột nhập vào chân cầu và đánh sập cầu
làm cả đến bên Tây phải chú ý và gọi là một cuộc tấn công xuất quỷ nhập thần.
Cầu Bến Lức thuộc tỉnh Tân An
nối liền Sài Gòn với các tỉnh Tiến Giang và Hậu Giang. Do đó nó trở thành cây
cầu chiến lược gần như cây cầu Long Biên Hà Nội.
Đặng Vi Trùng là đội trưởng.
Các đội viên gồm có: Niệm và Tân. Niệm là người Nam, Tân là người Bắc. Hai
người này phụ trách đánh chân cầu phía Bắc tức là phía Sài Gòn.
Họ đã mò mẫm nghiên cứu và chế
tạo mìn, tự kết cấu dây điện, cả kế hoạch kéo dài ba tháng. Họ được địa phương
giúp sức. Xã đội trưởng là một nông dân người to lớn, bị Tây bắt một lần và
trốn thoát. Tây lùng mãi nhưng không kết quả. Tây gọi Monsieur Le Gros (cái anh
to lớn) do đó có tên là xã đội “Gô.”
Hằng đêm họ lên ngọn sông đội
lục bình trên đầu và thả trôi theo dòng nước để thử đột nhập vào chân cầu.
Nhưng quanh chân cầu, ngay trên mặt nước có một sàn gỗ để lính đứng gác. Cứ
mười lăm phút chúng lại rọi đèn quanh chân cầu và khắp mặt sông đồng thời ở hai
đầu cầu đèn pha quét ánh sáng đi xa hơn. Hễ có giề lục bình nào trôi gần chân
cầu là chúng xả tiểu liên bắn nát.
Thế .mà họ vẫn đánh sập được
một chân, hỏng mất nhịp giữa. Xe cộ ngưng chạy mấy ngày liền chờ cầu nổi bắc
xong mới lưu thông.
Tôi tưởng khi ra Bắc thì đội
công binh này phải được tuyên dương như một tập thể anh hùng. Nhưng không chẳng
ai được gì cả. Trung thì được huy chương chiến công hạng ba. Nhận nhưng không
đeo. Niệm đi nông trường cuốc gốc lim, còn Tân thì về xã cày ruộng hợp tác ở
Thái Bình. Tôi đi tìm gặp lại họ để hỏi tài liệu viết lên một chiến công to lớn
của Nam Bộ đồng thời cũng để nhắc cấp trên một việc không nên quên. Nhưng ở
trên cho là lộ bí mật quân sự! (Lộ bí mật quân sự nhưng phải thưởng kẻ có công
chứ!)
Bây giờ gặp lại Trung, sách
chưa in, tôi hơi xấu hổ, nên không dám nói thật. Nhà văn gì viết sách không
được xuất bản (bất kể lý do gì) nên tôi đánh trống lãng:
- Ông đi được Tháp Mười về,
thấy tình hình như thế nào?
- Tình hình gì ?
- Địch ta. Tình hình dân vận,
đại khái như thế.
- Tôi ở đây luôn chớ về đâu
nữa. Đây thuộc đất của tôi. Đây là ven Tháp Mười rồi, tức là I Hai.
- Sao bây giờ gọi là I?
- Tôi cũng không biết. Thấy ở
trên bảo thế thì hay thế. Lê Quốc Sản làm Tư lệnh. Mang hia leo lên bàn thờ một
cách bất ngờ!
- Trận nào ?
- Không trận nào cả. Bị ruồng
chết.
- Chạy không thoát à?
- Bây giờ không phải như thời
chống Pháp đâu. Hồi đó nghe Tây vô Tháp Mười, mình còn nấu trà uống đúng ba
bình rồi đi bắt gà làm thịt, nhậu xong xuống xuồng đi, vừa chống xuồng vừa ca
vọng cổ. Bây giờ không được ! Nghe nó tới là nó đã tới lù lù trước mặt kia rồi.
Chạy thì ăn đại liên từ trực thăng, không chạy thì bị bù nốc xớt. Bù nốc là thứ
ngặt nghèo nhất ông bạn nhà văn ơi. Nó bay như bông vụ quay, chớp mắt nó tới
rồi. Nó dạn hít như gà vậy. Với tay đụng mà! K54 bắn cũng rớt.
- Sao không lia?
- Úy trời ! Nó mà rớt một cái
là tụi kia bu đen như chuồn chuồn, mình không chạy thoát đâu. Rồi bom tới, cà
nông thụt, rồi đổ dù, thằng nào dại lắm mới dám bắn trực thăng.
- Ông bị lần nào chưa ?
- Bị rồi.
- Sao vậy ?
- Thì cũng mấy cha mùa Thu nhà
mình mới về chưa biết qui luật, thấy con bù nốc chúc đầu xuống ngoáy ngoáy cái
đuôi như con mèo hụi chuột thì tưởng dễ ăn, vác AK ra làm một loạt lập công
chào mừng quê hương anh dũng cái chơi. Chiếc trực thăng bị thương nhưng bọn nó
trả hỏa gấp một ngàn lần.
Thằng phi công nhảy xuống đất
nhưng mình đâu có ló đầu ra khỏi miệng hầm mà bắt. Rồi trực thăng tới thòng
thang dây, nó leo lên. Kỳ đó ở trên cảnh cáo đơn vị bắn ẩu và cấm tuyệt không
được bắn trực thăng ngoại trừ lâm trận.
Trung tiếp:
- Tôi có thể nói hồi kháng
chiến chống Pháp lực lượng mình có một, lực lượng địch đến mười. Bây giờ lực
lượng mình vẫn một, lực lượng Sài Gòn đến một trăm.
- Nó kèo trên dữ vậy cha nội?
- Để vài hôm ông bạn bước xuống
tới Long An Mỹ Tho rồi thấy.
- Còn Bến Tre nhà tôi thì sao?
- Cũng cỡ Mỹ Tho vậy.
- Ở ngoài Bắc mình nghe trận Ấp
Bắc oai hùng lắm mà !
Trung lặng im. Trời đen như
mực. Đèn trực thăng chớp thay sao, bay qua lượn lại ở những vùng xa. Tôi không
biết hướng nào là hướng nào nên hỏi:
- Ấp Bắc ở chỗ trực thăng bay
đó phải không?
- Xa nữa cơ. Ở đây không đoán
được đâu. Chịp ! Hồi kháng chiến ở Tháp Mười tụi này bị một trận tổng ruồng
kinh hồn. Cơ quan Bộ Tư lệnh dông sạch. Thiệt hại tám mươi phần trăm. Nhưng so
với bây giờ, trận đó chỉ là trò chơi trẻ con. Ông xuống dưới đó thế nào cũng đi
ngang qua Ấp Bắc. Rồi sẽ thấy. Không có một cái cây một mô đất nào không bị
thương, lỗ bom không đếm hết nổi. Bom đìa nay nông dân đã làm
ao thả chà nuôi cá rô phi rồi, gọi là rô phi Ấp Bắc.
- Bom đìa là
bom gì ?
- Là bom tấn đấy, mỗi quả nổ
phá một lỗ to bằng một miệng đìa nên mấy bác nông dân mình gọi là “bom đìa”.
Pháp ăn thua mẹ gì. Tôi không muốn làm ông bi quan đâu để ông đến thực địa rồi
thấy.
- Nhà quân sự nói thì chắc như
bắp rồi ! Còn trận Ấp Bắc ?
- Đó là trận thử sức giữa ta và
địch.
- Kết quả thế nào ?
- Nó gãy hết dăm ba ngoe còn
mình rụng cả ngoe lẫn càng. Đừng có nói ra ngoài. Bí mật đấy. Đó là tiểu đoàn
chủ lực mới thành lập. Sau trận đó còn non đại đội.
- Trời đất!
- Bây giờ đồng bào vùng Ấp Bắc
bỏ đi sạch rồi. Ông đi qua đó sẽ thấy nhà không vườn trống.
- Tại sao ?
- Ngày nào nó cũng dội bom.
Trực thăng đi qua bắn, đi lại bắn. Xe tăng ngoài lộ cái bắn vô. Phi thuyền ở
Đồng Tháp bắn ra. Pháo Đồng Tâm nện bồi. Mình thắng thì cũng có thể gọi là
thắng, nhưng thắng rồi không còn gì. Ban chỉ huy tiểu đoàn hi sinh hết. Chiến
sĩ của mình mới nhập ngũ nhưng rất gan dạ, bắn tới viên đạn cuối cùng chứ không
chạy nhưng về đến căn cứ thì trốn hết. Có phái đoàn Bộ Tổng Tư lệnh vô tận nơi
nghiên cứu . Đồng chí trưởng phái đoàn thay mặt Bộ Tổng Tư lệnh khen ngợi chiến
sĩ tiểu đoàn và đặt tên cho tiểu đoàn là đơn vị gương mẫu và được mang tên là
“Tiểu đoàn Ấp Bắc” để đánh dấu chiến công này.
Tôi nghe mà lạnh xương sống
nhưng cố gượng:
- Chắc tiểu đoàn này cũng cỡ
với 307 hồi trước.
- Làm gì có ! Nói cho oai vậy
thôi, chứ đây chỉ là những anh du kích đôn lên, chưa quen trận lớn nên sau trận
tránh những anh còn lại mất tinh thần. Họ không ngờ tụi Sài Gòn lại đánh ác
vậy. Nó thả quân tiếp vận bằng trực thăng và tung hàng mấy chục xe lội nước lận
mà. Nhiều chú du kích dông luôn không trở lại xã nhà nữa. Tiểu đoàn Ấp Bắc làm
sao so được với 307 hồi trước !
- Bây giờ cha nghĩ sao?
- Nghĩ sao cái gì? . .
- Đánh chừng nào mới thắng?
- Chừng nào chừng, mình cũng
phải đánh chớ làm sao mà nói trước được.
- Tôi thấy ngoài Trung ương
“Khơi” lắm cha nội à! Nguyên một cái đường Trường Sơn thấy cũng đã bê bối lắm
rồi. Ông biết đó.
Trung hỏi tôi:
- Ông Mật chết cách nào?
- Bom trộm ! – Tôi kể lại vụ
gặp cái giò heo treo lủng lẳng trên cành cây, cái ví có hình và đoàn cán bộ Nam
Cờ bị bắt xuống Bác Kế đã bất tuân thượng lệnh đi thẳng vô Ông Cụ cho Trung
nghe. Trung kêu trời inh ỏi rồi nói:
- Ở ngoài đó mình bi lép quá
cỡ! Chậc! Bây giờ còn làm sao được. Phải chi ông ấy về tới trong này thì tụi
tôi bảnh biết mấy. Hai ổng là thứ rái lội nước ở vùng Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ,
Bến Cát…
- Chết lãng nhách !
- Biết bao cái chết lãng nhách.
Ông Tư lệnh I Hai nhà mình cũng chết lãng nhách chứ có đáng gì cho cam. Chết
như Đỗ Huy Rừa, Trung đoàn phó chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 307 hồi trước kia mới
hiển hách, còn ông Sản chạy bịi trực thăng bắn chết ở gò đìa.
- Chậc! Không biết bà Minh hay
chưa?
- Bà Minh nào ?
- Vợ ổng ở Hà Nội.
- Chưa đâu. Ở đây còn không mấy
ai biết nữa là ở Hà Nội .
Chiều hôm sau giao liên tới đả
thông một cách hùng hồn: “Đây là chặng đường sanh tử, dài dằng dặc tuy không
nguy hiểm bằng vượt lộ Đông Dương và băng sông Cửu Long, nhưng phải đi một mạch
từ sáu giờ tối đến sáu giờ sáng, nghỉ thì chỉ đứng dưới nước mà lấy lại sức chứ
không có bờ. Ai lạc thì ráng chịu chớ giao liên không có trở lại rước. Các đồng
chí nên cố gắng đi theo đừng để đứt đuôi.
Nghe qua lời đả thông của ông
trời con mà khách ớn cả xương sống. Tôi nhìn Tư Mô, Tư Mô nhìn tôi. Hai đứa
không biết nói gì. Cái nguy hiểm là đi đêm. Mà lại không có đường. Toàn là đồng
nước. Tôi đoán đây là Đồng Tháp Mười. Sự thực thì tôi mù tịt, giao liên dắt đi
thì đi, bảo chạy thì chạy, bảo bò thì bò, không được hỏi đây là đâu và chừng
nào tới.
Tẩm bổ được mấy ngày với bộn
bàng cá chạch lấu, cũng khá hơn ở Trường Sơn, còn đòi voi đòi tiên gì nữa.
Hơn thế, ở đây thấy bắt đầu lố
dạng quê nhà, phấn khởi vô cùng. Dù chết cũng ráng lết. Có một câu chuyện thần
thoại hồi ở ngoài Hà Nội tôi được nghe, kể cũng hay hay. Chuyện rằng có một cán
bộ có tuổi khi về gần đến Bà Rịa thì kiệt sức không ráng nổi nữa. Anh em trong
đoàn bèn thay phiên nhau khiêng ông về đến ranh tỉnh Bà Rịa là ranh Nam Bộ và
cho hay đã về đến quê nhà. Nghe thế, ông ta mỉm cười và tắt thở.
Tôi đến chia tay Đặng Vi Trùng.
Hắn dặn tôi theo kiểu ông Hai Tân:
- Đi cho cẩn thận nghe “nhà
răng.”
Tôi cười:
- Đi thì đi chớ biết cẩn thận
là sao?
- Về tới Bến Tre, hú cho mình
một tiếng.
- Còn ông, nếu đánh được cầu
Bến Lức cũng hú cho mình một tiếng.
Rồi đi. Trời bắt đầu nhọ mặt
thì đoàn khách – độ chừng hai mươi người – bắt đầu cuộc vạn lý trường “sình”.
Tôi và Tư Mô muốn chắc ăn nên đi ở khúc giữa. Vị trí này thì có vẻ an toàn,
nhưng khổ cái là không được “đứt đuôi”, nghĩa là phải bám sát khúc trước. Ở
Trường Sơn tôi đã làm đứt đuôi một lần. Đám khách sau tôi không biết đường đi
tới, họ sân si đòi đánh tôi. Đánh thì tôi chịu chứ không đi nổi mới đứt đuôi
chớ ai muốn chi vậy. Tôi cố gắng lội dính theo đoàn. Từ chiều đến khuya, tôi
vẫn giữ được cự ly tốt. Nhưng về khuya thì đuối sức. Cứ phải nghe tiếng lội bì
bõm mà định hướng đi. Càng ngày cái khoảng cách giữa tôi và người đi trước càng
rộng ra. Giao liên làm đúng lời tuyên bố của anh ta trước khi xuất phát nghĩa
là đứt đuôi ráng chịu, anh ta không trở lại rước. Sợ sẽ xảy ra một vụ suýt bị
đánh như ở Trường Sơn, tôi bảo Tư Mô:
- Mình nên đi chót anh Tư ạ !
- Đi chót họ bỏ mình làm sao ?
Chú không nhớ giao liên bảo là nó không trở lại rước à?
- Thì đành vậy ! Chứ đi ở giữa
mà đứt đuôi thì những người đi phía sau mình cự chết !
Tuy không đồng tụt lại chót
nhưng dần dần hai đứa cũng cầm đèn đỏ. Ở phía sau khách thấy chúng tôi đi chậm
họ càn bừa lên trước. Bây giờ chúng tôi đâm ra lo. Nếu lạc đường thì biết hướng
nào mà đi ? Không khéo lại đâm đầu vô bót. Người ta không còn nhớ đồng chí đồng
choé gì nữa. Cứ dẫm bừa lên nhau. Cứ nghe tiếng hì bõm càng xa ra là tôi giục
Tư Mô hoặc Tư Mô giục tôi lội mau lên. Lội Đồng Chó Ngáp này có mấy cái bất
lợi. Một là nước sâu ngang bụng, ít khi ngang đầu gối. Hai là năn và cỏ dày
quấn chân. Ba là gốc tràm lục nằm dưới bùn. Đạp có cái đau té sụm, nhưng phải
bò dậy bươn theo.
Rồi lại mưa. Mưa giữa đồng
hoang, gió rít nghe vô cùng man rợ, trời chớp nhì nhằng như có hàng nghìn con
quái vật lồng lộn trên nền trời. Thân phận con người trở thành nhỏ bé, vô
nghĩa. (Bây giờ ngồi viết những dòng này, nhìn lại cái đoạn đường Chó Ngáp, tôi
chợt nghĩ: Đảng Việt Cộng đã dắt nhân dân ta đi qua quá nhiều đồng chó ngáp mà
rồi không đến đâu cả.)
Lúc ở trên tiểu ban, Tư Mô có
bảo tôi nên võ trang bộ giò bằng đôi giày bắt heo để chống gốc tràm lục ở chặng
đường này. Tôi cũng chọn lựa và quảy theo một đôi, nhưng vẫn không bỏ đôi dép
Trường Sơn thân mến. Đem tới ây, tôi thử xỏ vô và lội thử thì thấy không thể đi
được. Nước múc vô đầy nhóc, bùn bám bốn bên, nặng như hia sắt, rút lên được thì
vướng cỏ năn, nên cuối cùng tôi vứt bỏ để lội chân không. Tôi hỏi Tư Mô:
- Anh có đau chân không?
- Thủng ít ra vài ba vít.
- Giày anh đâu ?
- Mắc kẹt dưới bùn, tôi bỏ luôn
rồi.
- Sao vậy ?
- Ngồi đó mà moi họ đi mất.
- Thành ra anh đi chân không à?
- Chớ sao nữa. Còn chú?
Trời bắt đầu mưa to. Mưa như
trời sắp sập xuống đầu, vuốt nước không kịp. Nhìn bốn phía, phía nào cũng tối
đen, không có một ánh đèn biểu hiện sự sống. Không ai nói chuyện. Chỉ thỉnh
thoảng vang lên tiếng kêu hú của giao liên gọi khách, hoặc khách lạc kêu giao
liên. Tư Mô coi vậy mà khá hơn tôi. Anh kéo ngọn còn tôi là kẻ cầm đèn đỏ sau
cùng. Sức lực đã rơi rắc từ Trường Sơn vô tới R, còn đâu ! Chiếc ba lô thấm
nước nặng như dồn ba tảng đá xanh. Lạy Chúa, xin cho con gục rồi chết ở đây
luôn, chỉ mong Chúa nâng hồn con về quê nhà.
Tôi nghe rã rời đến mức đả phải
tự nhủ như vậy. Anh giao liên nhân đạo đừng lại trên một gân bờ lầy lội để chờ
những người sau tới. Được đứng trong bùn ngập nửa ống quyển và không phải lội
đi đâu là một hạnh phúc quá lớn đối với tôi. Mưa vẫn rơi như roi quất vào mặt.
Ni-lông che trùm nhưng không ăn thua. Cả người lẫn ba lô không thứ gì còn khô.
Có lúc lội qua đìa bào nước lên tới mũi, phải lột ba lô ra làm bè như bụp lá.
Mỗi lần qua đìa đầm như vậy thì giao liên cho dừng lại để chấn chỉnh đội ngũ.
Đứng trên bờ nghỉ chân, Tư Mô
móc thuốc ra hút cho ấm. Cả một vấn đề. Anh nhờ hai ba người đứng áng gió mới
bật được hộp quẹt Zippo ra lửa mà đốt. Loại hộp quẹt này có cái chắn gió. Nếu
là hộp quẹt thường thì bật không ra lửa. Nhưng anh chưa đốt xong điếu thuốc giao
liên đã quát:
- Ai vô kỷ luật thế hả ? Trực
thăng nó thấy nó tới là chết cả đám.
Tư Mô đành vứt điếu thuốc mà
không dám ho he gì. Nghỉ một chốc, anh ta quát thinh không:
- Tiếp tục đi !
- Còn bao xa nữa đồng chí? –
Tiếng the thé của một người đàn bà xuyên qua mưa.
- Không xa mà cũng không gần.
Kỳ này phải giữ cự ly cho chắc.
Tiếng một người đàn ông:
- Báo cáo đồng chí giao liên có
một nữ đồng chí yếu quá, không đi nổi .
- Yếu sao không ở lại ? – Anh
giao liên quát ngay.
- Dạ, công tác khẩn cấp mà đồng
chí !
- Khẩn gì mà khẩn dữ vậy? Rồi
bây giờ đồng chí ấy ra sao?
- Dạ bò hết nổi rồi. Nằm đằng
kia.
Ông cán bộ nào đó nói năng hết
sức lễ phép. Tôi biết là ông ta nén giận để được sự giúp đỡ, nếu bình thường
chắc anh giao liên ăn bốp tai.
Anh giao liên hùng dũng đi về
phía ông cán bộ chỉ. Một ánh đèn pin nhoáng lên. Chỗ đó cách tôi không xa, nên
mặc dù qua màn mưa, tôi vẫn nhìn thấy một người nằm, tóc xõa ra trên tấm ni
lông xanh. Cố nhiên là tấm ni lông trải trên bùn. Ánh đèn pin tắt.
- Tôi không có trách nhiệm gì
hết ! Anh giao liên tuyên bố.
Ông cán bộ vẫn lễ phép nằn nì:
- Xin đồng chí giúp đỡ chị ấy.
- Giúp đỡ bằng cách nào bây
giờ?
- Chỉ đồng chí là có thể giúp
thôi, chúng tôi là khách, biết gì mà giúp.
- Bây giờ nằm ở đây, chốc nữa
giao khách xong, tôi trở lại, nếu chị ấy khỏe thì theo tôi trở về trạm.
- Nằm ở giữa đồng mưa gió thế
này thì làm sao đồng chí?
- Làm sao thì làm. Nhiệm vụ của
tôi là dắt khách không phải cõng khách.
Cuối cùng đoàn khách vẫn đi.
Chị cán bộ nằm lại. Ai cũng đau lòng nhưng không ai ở lại được. Vì ai cũng phải
đi Đó là nguyên tắc của đường dây từ Hà Nội vào đây, chứ không phải riêng ở
đây. Ai đau cứ tha hồ nằm lại và tự do chết. Tôi đã từng nằm lại vài ba lần như
thế này ở Trường Sơn .
Giao liên nói là trời nói. Đâu
phải đùa. Tôi không hiểu rồi chị cán bộ kia nằm lại cách nào trên đầu là mưa
tuôn, dưới lưng !à bùn sình và đỉa vắt, nhưng tôi không lo âu nhiều lắm vì đã
có bác Hồ ở ngoài kia lo rồi. Đêm nay bác lại không ngủ cho mà coi.
—>Chương 16
- 16 -
Cuộc vạn lý trường…sình đạt mục
đích cuối cùng. Đoàn khách đến một cái nền chòi khá rộng, có thể dùng làm chỗ
nghỉ chân cho trăm người , đất cứng chớ không đến nổi sình lầy như nơi chị cán
bộ nằm nghỉ. Ở đây khách được ngồi bóp, băng bó chân hoặc trải ni-lông ra đất
mà nằm. Trời đã tạnh mưa nhưng còn gầm. Bạn phải vượt qua sáu, bảy tiếng đồng
hồ lội bươn liên tục dưới sình lầy thì bạn mới có thể hiểu hết cái hạnh phúc
đứng trên một gò đất cao và nghỉ ngơi nó to lớn vĩ đại như thế nào. Anh giao
liên không nói gì cả. Cũng không ai hỏi gì. Sợ anh ta phát cáu.
Tư Mô làm quen với hai ba ông
bạn và cho họ thuốc hút. Cái ống quẹt Zippo tỏ ra có hiệu lực vô cùng. Một ngọn
lửa bật lên giữa đêm đen có tác dùng như một lò sưởi. Một làn thuốc lá thoảng
qua trong màn sương lạnh làm ta tưởng đến mùi trầm hương của Tiên Phật.
Anh giao liên đến xin thuốc Tư
Mô. Tư Mô rất hân hạnh tặng cho anh ta. Vừa bập bập điếu thuốc, anh ta nói:
- Bữa nay dám ở dưới đó không
lên lắm đa!
- Ở dưới nào, đồng chí!
- Ở trạm dưới. – Anh ta cắt
nghĩa tiếp – Cái gò này là nửa đường đi. Tôi ở trên đưa khách xuống, tụi nó ở
dưới dắt khách lên đây. Hai bên giao khách cho nhau rồi mạnh ai quay về trạm
nấy.
- À ra thế!
- Chớ chú nghĩ coi, giò cẳng
nào mà lội cho nổi cánh đồng này. Cứ vài ngày lội một chuyến. Quần áo rã hết.
Móng chân tưa ra. Ở trên đâu có bồi dưỡng cái gì ngoài ba cây súng.
Tôi bắt đầu lo lắng, nên hỏi
phăng:
- Nếu ở dưới không lên rồi làm
sao đồng chí?
- Thì tôi dắt khách trở về để
vài hôm lại dắt đi.
- Trời đất! – Tôi kêu lên.
Anh giao liên hơi cáu:
- Các chú đi có một lần, qua
rồi thôi, còn tôi ở đây đi hoài mà!
- Đã có xảy ra lần nào chưa?
- Có chớ sao không? Hễ ở dưới
bị chụp thì nghẽn đường đâu có dẫn khách lên được. Coi đường dễ đi vậy chớ
không dễ đâu. Ban đêm mù mờ là dắt khách vô tuốt trong bót đấy.
- Bộ có xảy ra rồi à?
- Có chớ !
- Rồi làm sao ?
- Thì nạp thịt cho chằng chớ
làm sao?
(Hồi chín năm cũng có một vụ
long trời lở đất như thế ở Sài Gòn. Đâu khoảng 48-49 gì đó ban Công Tác Thành
Sài Gòn Chợ Lớn của Việt Minh hoạt động rất mạnh. Ban này chuyên môn ám sát và
bắt cóc. Tên đầu sỏ của nó là Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Thi. Một hôm Thi
ngồi xe Jeep cho tài xế lái đi công tác trong nội thành Sài Gòn. Thình lình tên
lái xe chạy thẳng vào bốt Ca-ti-na nộp cho mật thám Pháp. Thi bị tù Côn Đảo tới
1954 mới được thả ra miền Bắc. Xin đọc hồi ký Củ Chi).
Nhưng đó là một sự cố ý. Không
biết ở đây giao liên có thực sự lạc đường không? Tôi cạch hỏi, thì anh ta bảo:
- Ai mà biết được. Nhưng chuyến
đó ba chục khách bị bắt, một số chạy bị bắn chết.
- Rồi thằng dắt đường đi đâu?
- Đi đâu ai biết đi đâu ! – Anh
giao liên đáp cộc lốc nên tôi không dám hỏi phăng tới nữa.
Chờ mãi không thấy bóng dáng
trạm dưới đưa khách lên, anh ta càu nhàu:
- Kiểu này thì bỏ mạng rồi !
- Ở dưới bị chụp hả đồng chí?
- Chắc là vậy rồi !
- Mỗi khi gặp sự bất thường ở
dưới không cho trên này ám hiệu gì hết sao đồng chí?
- Ám gì được mà ám. Phải như ở
bờ sông bên này với bờ sông bên kia thì còn quơ khăn được còn đây cách nhau cả
“triệu” cây số mà làm sao quơ?
Vài loạt cà nông nổ xa xa, làm
mọi người giật mình. Anh giao liên bảo:
- Đó là cà-nông Đồng Tâm. Mỹ
Tho ở hướng đó đó.
Nghe hai tiếng Mỹ Tho tôi thấy
mình gần lại quê nhà vô cùng. Hồi còn đi học hễ về tới Mỹ Tho qua Bắc Rạch Miễu
là tới đất Bên Tre rồi. Bây giờ nghe nói đó mà không biết chừng nào mới lết
tới. Chờ thêm một tiếng đồng hồ nữa vẫn không thấy tăm hơi của trạm dưới, anh
giao liên bảo:
- Bà con mình chuẩn bị đi trở
về.
- Đi trở về hả đồng chí ?
- Chắc là nó không lên được
rồi.
- Chờ chút nữa xem sao đồng
chí.
- Chờ thì được, nhưng sợ sáng
mình bị lòi lưng trực thăng nó xớt, thủy phi thuyền nó gắp như cò gắp cá cạn.
- Rồi mai phải trở lại à, đồng
chí !
- Chớ còn cách nào nữa! Ai muốn
đi về thì về. Ai muốn ở thì cứ ở! – Anh ta nói xẳng giọng rồi lội đi.
Khách lao nhao một lúc rồi cũng
lội theo. Ai mà dám ở lại thi gan cùng bù nốc và phi thuyền. Đi ngang chỗ gân
bờ lúc nãy thì thấy chị cán bộ còn ở đấy. Chị đã ngồi dậy. Anh giao liên ra
lệnh:
- Đồng chí nào khỏe thì kè chị
ấy. Còn một đồng chí vác ba lô giùm.
Nói vậy thôi, anh ta không cần
biết có ai thi hành lệnh hay không. Thi hành hay không cũng đều không phải
trách nhiệm của anh ta. Tôi cũng không quan- tâm đến việc đó nữa. Vì tôi cũng
là kẻ không có trách nhiệm trong việc chị đi, chị nằm hay chị chết ở đó. Cũng
như Nguyệt vậy. Nàng bị cây ngã đè, nhưng các ông Bộ Chỉ Huy ở ngay cạnh đó có
trách nhiệm gì đâu. Ngay cả một lời chia buồn cũng không mà !
Tôi và Tư Mô lại nằm ăn hút bên
bờ sông Vàm Cỏ được vài ngày thì có lệnh đi. Lần này thì mọi việc suông sẻ
nghĩa là hai trạm trên dưới gặp nhau tại cái nền nhà hoang giữa đồng. Chúng tôi
đi theo anh giao liên để về Mỹ Tho. Thay vì lội một lần Đồng Chó Ngáp thì chúng
tôi lội hai lần. Tinh thần cách mạng càng cao, chớ sao !
Quê hương gần hơn trên đường
đất. Tôi bắt đầu thấy xóm dừa và ruộng lúa. Nhưng sức đã kiệt. Lội suốt một đêm
dầm mình dưới nước phèn và nước mưa. Da móp như vỏ sò, chân bước lên ngọn năn
nhọn không còn biết đau. Ở Trường Sơn có một chặng lấy đường thủy làm đường bộ
suốt một ngày. Con đường đó so với cái Đồng Chó Ngáp này, không biết cái nào ác
hơn. Tư Mô còn dẻo giò cứ khuyến khích tôi: “Ráng lên chú. Chút nữa mình nghỉ!”
Mắt tôi đã thấy lá dừa xanh ngăn ngắt kia rồi. – Ráng lên chú. Ở ngoài đồng lòi
lưng trực thăng đến nguy lắm.
Tôi vẫn biết vậy, nhưng cặp giò
đâu còn nghe theo ý chí của mình. Còn chừng vài bước nữa thì tới mé vườn, nhưng
tôi không tài nào lết được. Tư Mô coi lơ mơ vậy mà khoẻ hơn tôi. Anh bảo:
- Chú cứ đi tà tà, để tôi vô
trước lo cơm nước.
Tôi ngã khuỵu xuống ngọn năn
không cần biết gì nữa. Bình nước đã cạn, sức cũng kiệt theo. Những người giỏi
giò đã vô tới chân vườn từ lâu. Có lẽ họ đã cơm nước xong treo võng nghỉ ngơi.
Mặc kệ họ, tôi không cần. Nhưng ngọn năn đã mẹp xuống, lưng tôi chạm nước, thứ
nước phèn bị nắng nung sắc lại chạm vào da rát như muối. Có một kinh nghiệm tôi
được Đăng Vi Trùng phổ biến là khi cần nghỉ ở giữa đồng thì lấy ní-lông trải ra
rồi nằm trên đó. Người mình sẽ lún xuống như nằm trong cái chảo, không bị ướt.
Nhưng tôi không còn nhớ cái kinh nghiệm đó nữa. Đã ngâm nước suốt đêm rồi, bây
giờ thêm chút nữa cũng chả sao. Nhưng ngọn năn yếu không đủ sức giữ tôi, cả
người tôi bị ngập dần trong nước. Bạn có từng thấy ai ngủ dưới nước chưa? Nếu
có thì đó là nhà văn hồi kết Xuân Vũ.
Tôi giật mình thức dậy thì thấy
nước đã ngập tới cổ. Tôi đã ngủ một giấc thần kỳ. Trời nắng chang chang. Mặt
trời lên cao mú. Da thịt xốn xang lạ lùng. Tôi cố nắm gốc năn ngồi bật dậy. Tôi
sực nhớ cái kinh nghiệm và rút tấm ni lông trải trên đầu ngọn năn rồi gieo mình
lên đó. Như vậy, cứ yên chí lớn nằm phểnh ra ở giữa đồng, lòi lưng nguy hiểm vô
cùng. Chắc không ai có gan nằm như tôi vậy. Trực thăng qua lại, nếu trông thấy
thì sà xuống xớt như diều xớt gà. Tôi lấy tay lôi quặc những mớ năn ngụy trang
lấy lệ. Mặc kệ, năm ăn năm thua.
Vừa nằm tịnh dưỡng bắp thịt được
một chút thì lại nghe nước ngập lưng. Tôi ngồi quàng dậy. Một trũng nước đục và
tanh rình. Tôi quyết định một cách anh dũng không thèm nghỉ nữa, cuộn ni-lông
và nhắm chân vườn trực chỉ .
Đúng là cái Đồng Chó Ngáp. Chó
ngáp mà cả người cũng hả họng. Tôi cố gắng tối đa. Tôi dùng tay nhổ chân lên và
nhắc tới từng bước. Nghĩa là nếu không có tay, chân lún sình không rút lên nổi.
Và cứ thế mà trở thành Đường Thế Dân sa lầy. Bằng cách đó, tôi lết tới chân
vườn thì thấy Tư Mô ngồi trên võng. Anh lột ba lô tôi xuống lấy võng mắc ngay
cho tôi ngả lưng. Trà đã châm sẵn trong bi đông. Anh bao giờ cũng thủ một chút
phòng thân chớ không như tôi khát là nốc hết. Anh nhường võng, rót nước cho
tôi. Tôi nốc một hơi rồi bật ra võng mặc kệ tất cả, kể cả chụp dù. Nhưng Tư Mô
bảo:
- Nghỉ chút rồi đi !
- Hả? Tôi la lên.
Viết tới đây tôi nhớ Hoàng
Việt, người bạn đường của tôi từ Hà Nội đến R. Giữa Trường Sơn lắm lúc đi không
kịp đoàn, phát cáu, anh đứng lại, gục xuống gậy quát:
- Ê mày Xuân Vũ ! Mày bảo tụi
nó đứng lại chờ tao ! Tao không phải là súc vật mà đi không cho nghỉ, nghe
chưa?
Nếu anh lội Đồng Chó Ngáp chắc
anh còn la to hơn. Vì ở Trường Sơn tuy vất vả nhưng có chỗ ngồi và chỉ có một
con đường mòn. Muốn nghỉ thì cứ ngồi phệt xuống mà nghỉ rồi lọ mọ cũng tới nơi,
không mấy khi lạc đường. Còn ở đồng này, ngồi không được, đứng im thì đỉa vắt
còn nếu lọt lại sau thì không biết đường đi, lạc loài giữa đêm tối, thật hãi
hùng.
Tư Mô nói tiếp:
- Chú coi quanh đây, dấu chụp
dù còn ràng ràng!
- Hả? – Tôi lại la lên.
- Nó chụp hôm qua !
Tôi tỉnh người ngay. Tư Mô nói:
- Tụi mình vậy mà may. Nều cồn
cả đi chuyến trước thì xuống tới đây đụng tụi nó rồi.
Tôi đâm ra sợ sệt: Về chưa tới
nơi, bỏ xác dọc đường! Dám lắm ! Thiếu gì người.
Tôi hỏi:
- Giao liên đâu?
- Nó đi trước rồi.
- Sao kỳ vậy ?
- Nó đã bảo mà ! Chặng đường
này nó không dừng lại chờ ai hết. Vừa đến đây nó thấy dấu “chụp” nó dắt khách
đi tới điểm mới.
- Rồi mình làm sao?
- Cứ mò đi.
- Tôi hết đi nổi rồi.
- Tôi cũng vậy. Nhưng phải rời
khỏi chỗ này ngay.
- Đây là đâu?
- Chắc là Kiến Tường hay Mỹ Tho
gì đó. Giao liên bảo là sau khi chụp, nó thường chơi pháo. Đôi khi nó chụp phát
nữa. Tôi có hỏi đường tới điểm mới.
- Xa không?
- Giao liên bảo là cứ thẳng vô
xóm nhưng xóm không có người. Quẹo trái hai phát rồi quẹo mặt. Thấy cây cầu gãy
thì lội qua sông. Trạm ở bên kia sông.
- Sông gì ?
- Ai biết sông gì.
Tuy muốn nằm vạ ở đây nhưng
nghe nói, tôi cũng nổi da gà, nên không dám liều nữa. Uống thêm miếng trà rồi
lom khom đi tiếp. Đường đi dọc theo một bờ cau. Những cây cau tơ bị thương nát
mình. Vết thương còn mới. Một miếng giấy dán trên thân cau bên đường. Tôi đưa
tay gỡ lấy đưa lên mắt đọc: “Đù má Việt Cộng,” một quãng
nữa, “Đả đảo Minh Râu” và “Hoan hô thằng chủ tịch hãm
con nít. “ Tư Mô hỏi:
- Giấy gì đó?
- Tụi nó chửi mình !
- Chửi gì ?
Tôi làm thinh, đưa mẩu giấy cho
Tư Mô. Tư Mô không cầm vì anh đang cúi xuống nhặt một bao thuốc Ruby Queen và
bảo:
- Thuốc chú ạ ! Tụi nó hủy của
quá ! Hút mới nửa bao mà ném đi !- Vừa dứt lời lại kêu lên: – Cái hộp quẹt
Zippo!
- Đâu nào?
- Ở bờ mương kìa. Chú giỏi giò
nhảy qua lấy!
Tôi tụt ba lô nhảy phốc cái qua
liền, nhưng tôi khựng lại. Bên mương kế một xác người nằm dưới nước. Sợi thắt
lưng bị đạn đứt đôi máu đỏ một vùng nước. Tôi nhảy trở qua, nói cho Tư Mô nghe.
- Tử sanh hữu mạng chú ạ ! Tôi
cứ giật mình mạng mình lớn lắm. Nếu ông bà không cầm chân mình ở lại trạm trên
thì bây giờ mình nằm ở mương cau này hoặc vô khám lớn rồi.
Như hai thằng què cô độc, tôi
và Tư Mô không biết sợ gì nữa, cứ đi ẩu, tới đâu tới. Xóm thôn vắng ngắt.
- Đây có phải là Ấp Bắc không
anh ?
- Không biết.
- Hồi ở ngoài đó tôi có nghe
Nguyễn Ngọc Tấn về tận Ấp Bắc để lấy tài liệu viết, tôi nôn quá! Kế đó lại nghe
Nguyễn Văn Bổng đi tận Bến Tre mình.
- Đừng có nôn ! Xuống đó rồi lo
mà nhảy nai chứ nôn gì !
Hai bàn chân bị củi tràm lục
đâm nát như xâm mứt, giày dép tuột mất hết, chỉ còn hai bàn chân trơn, bước
trên đất khô lởm chởm, đau thốn tới óc, nhưng phải bặm môi mà đi, ngồi ở đây
một phút chết một phút.
- Không biết ai nằm ở đó?
- Ở đâu ?
- Dưới mương cau !
- Chắc không ai thấy.
- Có thấy cũng không làm gì
được!
- Không biết mùa Thu hay mùa
Đông?
- Tôi gặp thiếu gì “ca” như vậy
ở Trường Sơn ! Còn ác hơn nữa cơ! Nó leo lên cây treo võng nằm rồi đi luôn,
không có ai biết.
- Người mình sống thảm mà chết
cũng thảm.
Đến chiều chúng tôi tới trạm.
Đúng lúc khách sửa soạn vượt qua lộ Đông Dương. Chừng mười người. Quân dân
chánh đủ hạng. Anh giao liên với một giọng không vui vẻ chút nào đứng trên một
thềm nhà hoang nói:
- Nó mới phục kích đoàn trước.
Chúng tôi định cắt đường mới, nhưng tìm không ra khúc nào vắng, thành thử cứ đi
đường cũ.
Mấy ông dân chánh nhát gan ở
lại muốn chờ có đường mới bớt nguy hiểm hơn sẽ đi, nhưng các cha quân sự thì
hầm hầm bảo: “Bi nhiêu bi cũng phải qua cho khỏi lộ trong đêm nay.” Thế là đi.
Tôi ngỏ ý với Tư Mô nên nằm lại
nghỉ một chuyến vì tôi biết cái phong cách qua lộ Đông Dương từ hồi kháng chiến
chống Pháp rồi. Không phải chỉ vọt qua lộ là xong đâu. Vọt qua được rồi phải
đâm đầu phóng bạt mạng không còn nhớ tên tuổi gì hết, đến chân vườn mới được
ngừng. Với cặp giò đầy thương tích làm sao chạy? Giao liên nghe bèn quát:
- Các đồng chí phải đi. Chúng
tôi không nhận ai ở lại trạm hết. Chúng tôi sẽ dời trạm nội đêm nay.
Đêm tối ngửa bàn tay không
thấy. Cứ mò mẩm mà đi như những thằng mù. Giao liên đã dặn gắt gao: không được
đứt đuôi. Không kêu la hoặc làm tiếng động, không hút thuốc. Như chiến sĩ ra
trận, người ngậm thẻ, ngựa không đeo lạc. Cứ đi một chốc lại được lệnh ngừng.
Hoặc ngồi xuống. Đây có lẽ là ấp chiến lược. Nên nhà nào cũng treo đèn trước
cửa đề phòng “ăn trộm.” Thỉnh thoảng lại nghe tiếng mõ cốc cốc, không biết là
mõ của ai ? Đánh để làm gì .
Đi cà lắc cà lắc như vậy cho
tới khuya thì được lệnh:
- Chuẩn bị !
Chỉ một tiếng đó thôi cũng làm
cho tôi nổi da gà. Qua lộ bạc đầu. Qua cầu giảm kỷ là đây ! Nhìn ra phía trước
thấy một làn gân đen vắt ngang nền trời xám xịt thì biết đó là cái tử điểm mình
phải vượt qua: Lộ Đông Dương.
Chỉ qua một lần thôi mà đã run
en phát rét còn giao liên thì đi ra đi và gần như hằng ngày. Đụng phục kích đưa
ngực hứng đạn là cái chắc. Kháng chiến thành công, giao liên lùi vào bóng tối.
Chỉ một vài nhạc sĩ nhớ tới họ thôi. Thời kháng Pháp, nhạc sĩ Hoàng Lưu có làm
một bài “Anh Chín Giao Liên” rất hay:
Ai có đến Trường Thành (Bà Đầm) có qua Cái Tắc (Thát Lác) đường về
Đông Sơn (Long Nia).
Thấy anh Chín liên lạc người ôm ốm đen đen, độ hai mươi ngoài đầu hớt chải cao.
Mấy năm trời kháng chiến, gian khổ lòng không nao.
Mấy năm trời kháng chiến, anh đốc lòng thi đua.
Đêm tối gió mưa, trên chiếc xuồng ba lá
Đầy công văn, anh chống, anh chèo, anh hát, anh hò
Ngập tình yêu nước non
Bàn tay anh chai ngắt, anh giết hết quân thù
Mặt mày anh sạm nắng, cả đồng bào yêu anh
Kia bốt, kia đồn, trầm chiếc thân cô đơn
Vượt lộ băng ngàn, . . .
Ngày xưa con lộ này không đến
nỗi nguy hiểm như bây giờ. Thời đó, còn trẻ tuổi, tôi coi mỗi lần vượt lộ là
một lần lập chiến công. Tôi đã từng qua lộ Cầu Trắng, từng đẩy xuồng chui qua
cầu Bình Thân (cũng là tuyến lộ Đông Dương) tuy có nguy hiểm, nhưng vui vui.
Bây giờ thì không. Vì tủy trong xương sống đã cạn, đầu gối đã khô chất nhờn,
nhất là vừa qua Đồng Chó Ngáp. Xe trên lộ chạy không ngớt. Xe ở đâu mà dữ vậy?
Cứ chiếc này qua, chiếc kia tới, đèn pha cứ vượt tới sáng lòa trước mặt. Ngồi
quan sát mà đái trong quần hồi nào không hay.
Bỗng được lệnh tiến lên. Đám
người nhổm dậy đi khòm khòm. Đúng là một lũ ăn trộm. Trên Trường Sơn thì thay
tên đổi họ, xuống đồng bằng thì đi rình mò ban đêm. Giao liên không còn ra lệnh
nữa. Cứ sờ vào lưng người trước, hễ thấy họ đi thì đi, họ dừng thì dừng. Gốc rạ
khua rào rào dưới chân.
Dế gáy ren ren trong những mô
đất. Bờ cỏ đã ướt sương. Mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ. Thấy người trước vọt
chạy, tôi cũng phóng theo. Tôi trườn lên bờ và phóng chừng bốn, năm bước. Gan
bàn chân chưa kịp có cảm giác ấm lạnh dường nào thì đã tới bên kia, rồi nhào
xuống ruộng. Chẳng ngờ chạy được ít bước thì súng nổ.
Cái lô cốt ở gần đó bắn vét dọc
ven lộ. Đạn đi như tàn đuốc. Tôi đang rối loạn thần kinh thì có tiếng kêu ở ven
bờ: “Chú Hai.” Tôi quay lại. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy Tư Mô đang ở dưới
mương. Không biết anh khôn vong nhảy xuống đó để tránh đạn và kêu tôi nhảy
xuống đó cho chắc ăn, hay anh trật chân té xuống mương, nhưng dù thế nào tôi
cũng như cái máy đang chạy không “phanh” lại được. Tôi chạy thẳng một mạch vô
vườn. Cũng may, lính ở lô cốt chỉ bắn chứ không đuổi theo. Nếu nó đuổi theo thì
nguy to.
Độ gần sáng tôi mới gặp lại Tư
Mô.
Tôi hỏi:
- Anh xuống mương làm gì ?
- Tôi bị lọt xuống đó. Tôi đưa
tay cho chú kéo lên mà chú chạy tuốt. Bộ không thấy tôi sao ?
- Có thấy chớ. Nhưng tôi tưởng
anh kêu tôi xuống để tránh đạn.
- Tôi không thấy đường nên nhảy
xuống đó. Bị bông súng quấn lên không được.
- Tôi hoảng quá. Đâu còn hồn
phách gì mà nghĩ tới việc cứu anh.
Hai anh em mò mẫm đi bậy trong
xóm. Té ra giao liên phía bên kia mép lộ không có sang qua bên này. Anh ta dắt
khách ra gần đến đường, chỉ hướng rồi xua khách chạy qua. Mạnh ai nấy chạy đến
chân vườn phía bên này thì có người rước. Bây giờ lại không có ai rước cả. Có
lẽ nghe súng, anh ta lẩn trốn ở đâu đây ?
- Đạn nó bắn rớt trước mặt nghe
ớn quá, chú.
- Tôi đâu có để ý gì. Cứ chạy
thả ga thôi.
- Coi có mất giống gì không ?
- Kệ nó, mất gì mất, miễn mình
còn thì thôi.
Cũng may, chập sau anh giao
liên tới gom chúng tôi lại rồi dắt đi. Vừa đi, Tư Mô nói:
- Tử sanh hữu mạng thiệt chú ạ!
- Sao vậy?
- Nếu mình chậm chân thì bị nó
bắn vét rồi – anh dừng lại rỉ tai tôi – chắc có vài cậu “nằm đường.”
Chiều hôm đó đến bờ sông Cửu
Long. Xuồng đã đến đây đậu sẵn hồi nào không rõ. Máy đuôi tôm hẳn hoi. Nước lớn
ngập mé bờ. Nước đỏ au, cuồn cuộn chảy. Những giề lục bình trôi phăng phăng như
những bầy thủy quái sút xiềng trồi lên mặt nước đi phá phách dân gian. Tôi bỗng
nhận ra một anh bạn quen. Phát ! Phát ở xưởng phim Hà Nội. Tội nghiệp nó không
phải người quay phim, không phải đạo diễn cũng không phải diễn viên xi-nê. Nó
chỉ là thằng quản lý lo cơm áo gạo tiền cho đoàn quay phim mỗi khi đi quay bên
ngoài. Vậy đưa nó về làm gì, tôi cũng không hiểu nổi.
Mọi người đã ngồi dưới xuồng
chờ nổ máy, nhưng hắn cứ đứng chết trân trên bờ. Anh giao liên thúc giục cách
mấy hắn cũng không nhúc nhích. Trông nét mặt thì biết hắn sợ. Hắn chưa lấy lại
tinh thần vì chết hụt đêm qua.
Cái sợ của nó lây sang tôi. Anh
giao liên hơi cáu trước thái độ của Phát:
- Nếu đồng chí không đi thì
đồng chí cứ ở lại một mình, tôi không chịu trách nhiệm.
Phát đáp không chút suy nghĩ:
- Đồng chí cứ đi !
Thấy tình thế gay go, tôi bước
lên bờ.
- Thôi đi xuống ông nội ơi !
Làm gì mà sọc dưa vậy?
- Ai đi cứ đi tôi ở lại chuyến
sau.
Hắn đi tới miền Tây. Tôi biết
vậy. Từ đây về đó nếu không may thì bỏ xác dọc đường như chơi. Càng về đồng
bằng càng lội vào gai góc. Lúc nào cũng thấy cái chết chờn vờn trước mặt. Khách
dưới xuồng mỗi người một tiếng, kẻ thì thúc giục, người lại chê bai nhưng Phát
không lay chuyển. Đang dang ca bỗng có tiếng máy xình xịch trên sông càng lúc
càng gần. Anh giao liên quát:
- Ho bo, hô bo !
Mọi người ngơ ngác. Các ông cán
mùa Thu có lẽ không biết hô bo là cái gì, nhưng thấy mấy người kia nhảy lên bờ
thì cũng nhảy theo và chạy tản vô vườn. Chập sau, tiếng máy xa dần. Anh giao
liên mặt mày cắt không được hột máu, lắp bắp:
- Nó đi tuần sông đó !
Tư Mô hỏi:
- Nó đi thường xuyên hay lâu
lâu mới đi, đồng chí?
- Không chừng, không đổi gì !
Nó muốn đi thì nó đi.
Một ông cán đeo K54 hỏi:
- Không qui luật gì hết à?
- Qui rùa gì đâu !
- Không nắm được qui luật mà
hành quân thì ớn quá !
- Nắm gì được mà nắm ?
- Vậy cứ đi liều à?
- Liều không liều, nhưng chắc
thì không chắc.
- Trời đất! – ông cán quân sự
kêu lên – Đi vậy khác gì chỉ mành treo chuông. Nếu ông kia không dùng dằng,
mình qua sông thì đụng rồi.
Anh giao liên nói tỉnh bơ:
- Thì vậy thôi !
- Vậy sao được đồng chí !
- Hô bo nó chạy lướt trên mặt
nước nhanh như máy bay. Nó tới mình không có né kịp.
Tư Mô nói:
- Nó vừa qua, mình tém đuôi nó
được không đồng chí ?
- Tém thì tém. Cái gì cũng may
rủi hết.
- Không có ai làm hiệu ở ngoài
sông à?
- Hiệu gì mà hiệu. Nó núp trong
những lùm bần rậm, dùng ống dòm canh chừng mà. Mình lú ra là nó chơi. Có lần nó
quào luôn một xuồng lớp bắt sống lớp chết. Ý mà thôi, nói tới nói lui tôi cũng
nhợn quá ! Có đi thì xuống xuồng. Ăn thua chỉ mười lăm phút thôi !
Vâng! Mười lăm phút đó có phép
làm cho đám ăn trộm này hãy còn là một đám ma bùn trên dương thế hay thành một
lũ quỉ dưới đáy sông. Cuộc sống như treo dưới lưỡi gươm máy.
Hồi kháng chiến, con sông này
cũng đã bao phen nhuộm máu những người cán bộ lưu động: Bác sĩ Nguyễn Thiện
Thành đã từng bị tàu Pháp bắn chìm ghe trên sông này. Ông ta đeo be ghe. Tàu
tới. Một tên Pháp giơ súng định bắn. Ông la lên: “Tôi là bác sĩ.” Tên Pháp ngừng
tay và vớt ông lên đem về thành. Sau đó ông lại lén trở ra khu chống Pháp.
Cuối cùng rồi chiếc đuôi tôm
của giao liên vẫn chở khách tách bến. Không ai nói một lời nào. Tôi ngồi sau
lưng Tư Mô nhưng nhìn thấy nét lo âu khủng khiếp trên nét mặt anh. Tấm lưng còm
cõi của anh phập phồng. Chiếc cần cổ teo tóp của anh rụt xuống. Hai tay giăng
ra nắm cong ghe. Không ai nói gì. Mắt trố ra nhìn, dáo dác.
Có lẽ không ai trông thấy gì
ngoài những cây bần ngâm mình dưới nước. Máy chạy êm ru. Xuồng từ trong khém
đâm ra sông rộng. Anh giao liên bảo:
- Mấy đồng chí ngồi trước ngó
sang phải, mấy đồng chí ngồi sau ngó sang trái. Hễ thấy nước tỏa trắng đó là hô
bo thì cho tôi hay ngay. Không ai được lao chao. Chờ lệnh tôi.
Anh ta chỉ lo việc lái xuồng.
Dòng sông hiện ra trước mặt, đỏ như pha máu.
Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang
Cửu Long Giang sông trào nước xoáy
Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn
Tiếng tiểu đoàn ba trăm lẻ bảy
Mọi người mặc quần tiều cởi
trần trong tư thế nhảy xuống sông lặn. Bao nhiêu dũng khí của thời kháng Pháp
bị rơi rớt trên Đồng Chó Ngáp cả rồi. Tôi nhìn mút mắt. Chỉ thấy những chiếc
ghe buôn trên sông. Ước gì mình được đi thảnh thơi như họ.
Tôi nói:
- Chắc nó đi thẳng rồi đồng chí
!
Anh giao liên nói:
- Nếu nó đi thẳng thì nói làm
chi. Sợ nó quay lại hoặc có chiếc sau đi tới.
Chiếc xuồng vẫn nghếch mũi
phóng sang bờ bên kia. Không xa lắm. Hàng bần ven sông hiện ra càng lúc càng rõ
nét. Trong cái màu xanh kia đang ẩn núp những họng súng, có thể lắm. Chúng thừa
biết chẳng có ghe xuồng nào đi như vậy. Chúng vừa uống bia với tôm khô vừa chờ
chúng tôi ra giữa sông mới xả súng bắn rồi chạy hô bo tới xách óc từng tên lên.
- Tôi là bác sĩ – Tiếng la của
bác sĩ Thành vang lên trong tâm khảm tôi. Bỗng anh giao liên chửi thề. Tôi
không biết chuyện gì. Thì ra máy hỏng. Cái đuôi tôm đang quay như gió bỗng chậm
lại rồi ngừng hẳn như con cá bị chặt đuôi. Một luồng gió lạnh buốt tâm tư chạy
khắp đoàn khách. Anh giao liên quát:
- Lấy dầm bơi ! – rồi bật đuôi
tôm lên quay ngược gác ra phía trước.
Anh đóng cột chèo và tra chèo
vào trong lúc đám khách quơ những cây bụp lá lót dưới ghe làm dầm bơi lia lịa.
Chiếc xuồng loay hoay một lúc rồi tiếp tục trườn tới với tốc độ rùa bò. Sóng
bắt đầu vỗ mạnh vào mạn xuồng vì đã ra giữa dòng nước xoáy. Thằng Phát ngồi
chết trân. Hai tay nó ôm gối, đầu nó gục xuống không muốn nhìn gì hết. Nó lâm
râm khấn vái. Không nghe rõ nó kêu ai phù hộ: Chúa, Phật, hay đức Huỳnh Giáo
Chủ. Có lẽ đây là Vương quốc của Hòa Hảo. Hồi 1948 tôi theo bộ đội vượt sông
này ở khúc Cần Thơ để xuống miền Tây và bị bộ đội Hòa Hảo chận đánh ở Bù Hút.
Vị đại đội trưởng bị dân làng chém chết bằng dao trong trận đó.
Thấy ghe đi chậm mọi người tự
động dùng tay bơi tiếp. Tốc độ không tăng mà chiếc ghe lại chòng chành. Sóng
tạt ướt mặt. Nước vào từng chập. Một người ngồi gần lái cầm miếng bẹ chuối tát
xành xạch như một thứ nhịp trường canh hướng về cuộc sống.
Bỗng… Rắc ùm!
Cây chèo trái của anh giao liên
gãy ngang. Anh chúi lủi thay vì nhảy trên lưng khách anh lại nhào xuống sông.
Loay hoay một lúc anh mới leo lên được. Và tiếp tục chèo một chèo. Anh chửi
thề:
- Đ.m. chèo mục, xui quá ? –
rồi quát – bơi riết lên !
Những chiếc dầm tay lại thọc
xuống nước. Bỗng anh giao liên kêu lên:
- Quên rồi !
- Quên gì đồng chí ? – Đám
khách lao nhao hỏi .
Anh ta không đáp, buông chèo ngồi
xuống giở sạp lái rút lên một chiếc thùng móp méo. Anh mở nút rồi đổ vào máy.
Thì ra cái thùng xăng. Anh quay máy ra sau rồi giật. Máy nổ. Xuồng phóng nhanh.
Đám khách cười ré lên. Một người nói:
- Trời ngó lại !
- Nhờ tôi van vái nãy giờ! –
Phát bảo.
Tính lại thử xem, đến nay, trên
đường qui cố hương, tôi đã qua bao nhiêu con sông, lạch suối ? Suối sông vô
danh thì không nhớ hết. Bên cạnh đó, những con sông hữu danh thì bây giờ nhìn
lại bản đồ mới thấy: Sông Bé, Sông Đồng Nai Thượng, Đồng Nai Hạ, Vàm Cỏ Đông,
Sông Cửu Long. Thời kháng chiến có câu: Qua sông bạc đầu, qua cầu giảm kỷ. Tôi
đã qua bằng ấy con sông với phương tiện vô cùng “hiện đại” như vừa thấy ở trên,
nhưng hãy còn khá hơn những chặng đường Trường Sơn lắm khi chết hụt. Và tôi đã
từng trông thấy một anh lính miền Bắc chết đuối , đồng đội không vớt được vì
không ai biết bơi.
—>Chương 17
- 17 -
Cuối cùng rồi tôi cũng về tới
Bến Tre. Mảnh đất đầu tiên tôi đặt chân lên là Thành Triệu hay Phú Túc gì đó.
Lại phải vượt thêm một lần nữa sông Cửa Long. Bây giờ hết sông suối rồi nhưng
gặp bom đạn tua tủa. Ngay buổi sáng, chúng tôi được chào mừng bằng một trận
bom. Hai thằng chui đại xuống một cái hầm hoang ven đường khi phản lực đã trút
loạt bom thứ nhất, tiếng miểng đạn bay veo véo bên tai. Tư Mô cũng như tôi
không có kinh nghiệm trốn bom. Kháng chiến chống Pháp có bị trận nào. Nay bất
ngờ nên lúng túng và chui ẩu. May mà có chỗ để chui. Ngồi dưới hầm nước ngập,
tôi không hiểu gì cả. Cái hình ảnh một ông già Nam Kỳ lội Trường Sơn kiệt sức
được đồng đội khiêng về đến ranh Nam Bộ thì tắt thở – hiện lên trong đầu tôi.
Khi dứt trận bom chúng tôi lóp
ngóp bò lên. Mấy trái bom vàng lườm như cam Bố Hạ nằm lăn lóc trước miệng hầm.
Nếu chúng không lười biếng, chịu khó lăn vài thước nữa ắt bõ cái công từ Mỹ
được chuyên chở sang đây. Hai đứa chạy tránh ra. Anh giao liên, một cậu thanh
niên non nhẽo cũng đã chui lên từ hang hố nào không rõ la thét trong màn khói:
- Coi chừng bom bi. Coi chừng
bom bi !
Bom gì cũng coi chừng, đâu phải
chỉ coi chừng bom bi ? Tôi đã biết loại bom này ở Trường Sơn rồi. Nó be bé xinh
xinh như một món đồ chơi. Hai anh lính thấy một quả mắc trên cành, một anh lấy
cây thọc xuống một anh đưa tay hứng như hái cam. Bom vừa rụng xuống cụp cánh
lại và nổ. Bây giờ lại thấy cái thứ đồ chơi đó ở đây, không treo lủng lẳng trên
cành cây mà lại nằm lăn lóc dưới đất. Hú vía! Trận bom bình thường. Nghĩa là
kéo dài độ nửa tiếng đồng hồ. Không biết nó thấy cái gì dưới đất mà hì hục đánh
dữ vầy.
Khi theo chân giao liên đi tới
một quãng nữa thì thấy một chiếc cầu xi măng sụp. Bên cạnh đó là một chiếc đò
máy đang cháy và chìm dần xuống nước, khói bốc đen cả một khúc đường. Cảm giác
đầu tiên của tôi khi đặt chân lên đất Bến Tre quê nhà là Hà Nội nói láo, Trung
ương nói láo, Mặt Trận nói phét. Trước khi đi, ông Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm
ủy Ban Thống Nhứt, đến nói chuyện thì nghe rất xôm, nào ta đã giải phóng ba
phần tư dân chúng, bốn phần năm đất đai. Bộ đội đi hành quân toàn bằng đò máy.
Từ R xuống đây toàn chui rút trong rừng. Chỉ có một cái xóm nho nhỏ bán dăm bảy
món hàng đón gió cho khách đi đường ở vùng Mỏ Vẹt, nhưng lại ở bên đất Miên.
Khách đến đó mua sắm đồ vật chút đỉnh – chính yếu là kẹo bánh và gạo, cá khô,
mắm để giằn bao tử- rồi mau mau trở về đất mình vì sợ tụi lính Miên bắt được
tịch thu. Rõ là một lũ ăn trộm. Từ Hà Nội vô đây, tên họ cũng dấu kín, mua đồ
cũng lén lút.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày
nay không giống thời chống Pháp, bộ đội và cán bộ đi đến đâu đồng bào đón tiếp
rình rang, đãi đằng như đám giỗ. Bây giờ bộ đội cán bộ đi đến đâu nhà không
vườn trống tới đó. Suốt hai ngày, tôi qua những trạm giao liên toàn đóng trong
nhà hoang. Dân chúng lẩn tránh Giải Phóng. Vì Giải Phóng đi tới đâu phi cơ đại
bác đến đó.
Tôi đi qua những làng mà trong
kháng chiến tôi từng đến. An Thành, Thành Thới, An Thới, An Định, Bình Khánh,
Phước Hiệp rồi Tân Trung.
Thời kháng chiến tôi đóng vai
trò cán bộ tuyên truyền, lúc đó mới mười bảy tuổi mà hăng vô cùng, nói chuyện
trước đồng bào cứ tưởng mình là đại diễn giả, vì luôn luôn được vỗ tay. Tôi học
nghệ thuật diễn thuyết từ trại huấn luyện của Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh của các
anh Mạch Văn Tư, Trần Bá Hậu, Nguyễn Duy Hưng (cậu tôi). Bước chân lên tỉnh nhà
thì tôi nhớ ngay đến các vị này, những người thầy chính trị và nghệ thuật đầu
tiên của tôi. Không biết bây giờ họ ở đâu. Từ ngày Le Roy chiếm toàn tỉnh Bến
Tre, dân tôi lưu lạc xuống miền Tây tới bây giờ tôi không còn nghe ai nhắc nhở
tới họ nữa.
Những trang sử vẻ vang của tỉnh
nhà đã được viết thêm nữa chăng? Tôi thấy niềm vui được trở lại quê hương thật
là vô tận. Tôi nhớ những đồng hương bây giờ còn kẹt ở lại ngoài Bắc, nôn nả
muốn về mà không được về hoặc không về được. Hai năm như một giấc chiêm bao dài
vô tận. Hiện lên trong tôi hình dáng xơ xác của ông chủ tịch tỉnh Bến Tre: ông
Đốc Huệ ở Giồng Trôm. Khi biết tôi sắp vô Trường Sơn, ông khóc và bảo: “Tao
chắc nằm lại ngoài.” Đi mấy ngày liền, gặp cán bộ cũng đông trên đường dây,
nhưng không có một người quen. Hình như không ai còn sống. Lớp chết đạn bom lớp
tù tội, lớp chết trên đường về.
Thôi, được về tới đây là hạnh
phúc rồi !
Khi anh giao liên dắt đoàn
khách đi ngang ngã tư Cái Quao thì tôi nhớ thời đi học Mỏ Cày vô cùng. Những
hàng me ngày xưa không còn. Thằng bạn học cũ không biết bây giờ ở đâu? Không
thấy nó đi kháng chiến. Từ đây mà lên Mỏ Cày có sáu cây số, thế mà không đi
được. Đi một quãng nữa thì tới chợ Cái Quao. Anh giao liên bảo đây là cái chợ
Giải Phóng nhưng không ai dám tới đây mua bán gì. Chỉ vài ba mái lá xiêu vẹo,
bên mấy cây me cháy nám đen và nhựa xám napalm dính đầy cành. Khách định ghé
lại mua dăm món đồ dùng nhưng giao liên muốn bảo vệ khách nên giục đi mau. Đây
là mảnh đất Giải Phóng nằm trong cái diện tích của Mặt Trận Giải Phóng kiểm
soát đây chăng? Suốt trên đường đi tôi không thấy cái nhà nào còn nguyên. Những
nhà giàu bị phá hoại thời trước không dựng lại được đã đành, nhà mới cất cũng
không có, nhất là nhà vách gạch, nền đúc. Dân mình mạt rệp luôn từ sau 45 không
ai còn có thể cất loại nhà đó nữa.
Đi ngang qua Bình Khánh, tới
nhà ông Đỗ Phát Quan, nghị sĩ Quốc Hội, nhớ nhà ông huyện Nghĩa và ông Chủ Xạ,
những ngôi nhà vĩ đại nhất trong vùng mà ngày xưa tôi có đến chơi với con cháu
của họ bạn học trường quận với tôi. Tất cả đều chỉ còn trơ lại những cái nền.
Trong kháng chiến Việt Minh phá nát, bây giờ Giải Phóng chui vào đống gạch vụn
để trốn. Ngày xưa khi anh Mạch Văn Tư lên Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ, anh Cao
Thái Tôn lên thay thì cơ quan Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh dời về đây, đóng muôn
năm trong vùng này để anh bào chế thuốc Nam bán lấy tiền nuôi cơ quan. Bây giờ
tôi không tìm thấy vùng đất đó nữa.
Đúng là một cuộc bể dâu.
Qua Bình Khánh đến Phước Hiệp.
Ở đây có thằng bạn học trường quận, nghe nói nay nó làm tới tỉnh ủy. Anh nó là
Xôi từng là cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc, đi tập kết nhưng tôi không gặp.
Qua hết Phước Hiệp đến Tân
Trung. Tân Trung là làng cuối cùng trước khi tôi đặt bước chân lên quê ngoại.
Đây là một làng nhỏ nhưng lại có nhiều người làm quan. Bước chân tới đây, người
tôi gặp đầu tiên là một nàng độ chừng hai mươi tuổi. Tôi nhận ra ngay và kêu
đúng tên.
Hồi đi học trường quận tôi ăn
trọ một nhà gần chợ, thì cô bé mới biết đi lẩm đẩm. Hai mươi mấy năm qua… bây
giờ tôi vẫn nhận ra một cách dễ dàng. Cô bé rất ngạc nhiên. Tôi bèn kể lai lịch
cho cô nghe. Cô càng ngạc nhiên hơn nữa. Tôi hỏi thăm cha mẹ cô thì mới hay ông
bà đã qua đời. Hai mươi năm dù không có chiến tranh thì cuộc đời cũng thay đổi
nhiều nữa là chiến tranh liên tục. Những con đường cái ngày xưa tôi đi không
còn nữa. Tôi đi trên bờ ranh, trên lối mòn, nhảy mương và lội ruộng.
Đến trạm Giồng Cui thì Tư Mô ở
lại. Đây là mé sông Hàm Lưông, một ngánh sông Cửu Long chảy qua tỉnh Bến Tre đổ
ra biển. Trong ngôi chòi xơ xác ở ven sông, Tư Mô trỏ đường nước cuồn cuộn chảy
mà lắc đầu:
- Tôi lại phải qua sông Cửu
Long lần nữa.
- Tôi ghé lại thăm nhà ít ngày
rồi qua sau. Tôi phải qua trình giấy giới thiệu của R cho tỉnh.
- Thôi chú đi về nhà nhé. Gặp
lại gia đình xem sao. Gởi lời tôi thăm già Hưng.
Chúng tôi bắt tay nhau sơ sịa
nhưng lòng thật ngậm ngùi. Tư Mô nhìn theo tôi bảo:
- Rồi mình sẽ gặp nhau, để bàn
kế hoạch sáng tác.
Ven sông là rừng rậm rạp không
nhà cửa. Ngày xưa bọn ăn trộm trâu ở những làng Minh Đức, Hương Mỹ, Cẩm Sơn đều
đem trâu ra đây giấu để sau đó làm thịt hoặc bán cho bọn lái ở bên Cù Lao Ốc.
Người chủ bị mất trâu thường tìm được ở đây những tấm da. Bây giờ cách mạng
dùng dãy đất này để làm căn cứ. Vô hình trungcách mạng gần với bọn trộm cướp
hoặc đi trùng dấu của chúng nó. Từ mé sông vào đến giữa làng tôi phải đi trên
một con đường vắng teo, rợn người. Mỗi bước chân đi như dẫm lên một kỷ niệm,
mỗi hơi thở hít vào như nghe những ngày xưa làm rộn rực cả lòng. Hai bên đường
không còn nhà cửa. Dân tản ra ngoài đồng ở rải rác xa xa một cái nhà. Do đó ít
khi tới lui và cũng do đó không còn tình lân xóm .nữa. Ngay cả sự đi lại bình
thường cũng không còn. Hễ ra đường là người ta dớn dác, hối hả như sợ việc
không may xảy ra cho mình.
Tôi đi một chập lâu thì đến một
gân đường phóng qua ruộng về phía Cái Quao. Tôi sực nhớ ra đây là lộ Thợ Điếc.
Ngày trước khi ở cơ quan Thanh Niên về thăm nhà tôi thường đi đường này. Nó rộng
lớn xe bò đi được, bây giờ chỉ là một bờ ranh. Cách đó không xa là ngã ba Tân
Trung. Ở đây đã từng xảy ra một trận đánh phục kích của phân đội Nguyễn Thái
Học, giết hai Pháp, ba Việt gian. Vậy mà bản tin in trên tờ thông tin tỉnh tôi
đã chép lại từng chữ một để đi tuyên truyền.
Những cây còng sum suê hai bên
đường từng mang những thông cáo cách mạng ra lệnh bất hợp tác với giặc Pháp, ký
tên chi đội trưởng chi đội 19 Đồng Văn Cống.
Tất cả đều không còn. Thời oanh
liệt của dân vùng này đã biến mất. Cỏ cây như ngậm ngùi trong vắng lặng mênh
mông. Lâu lâu mới nghe một tiếng gà đơn độc như nhắc cho tôi rằng trong cái
chết vẫn còn sự sống.
Ngày xưa ở tại ngã ba này có
nhà xe ngựa của ông Ba Đệ. Mỗi lần tôi từ nhà ra thăm ngoại tôi thì tôi thường
được đi cùng cậu tôi lên thăm bà cụ ngoại tôi trên làng Cẩm Sơn. Tôi chỉ phải
đi bộ một khúc ngắn từ nhà lên đến đây, rồi ngồi xe ngựa chạy toong toong trên
đường đá đỏ. Chỉ chừng bốn cây số thôi nhưng quả là một cuộc du lịch kỳ thú. Bà
cụ ngoại tôi đã tám mươi tuổi nhưng còn đọc được chữ mà không mang kiếng. Bao
giờ tôi lên thăm cụ cũng cho tôi ít nhất là một đồng bạc trắng hoặc năm, sáu
đồng hai mươi xu gọi là “góc tư.” Tôi túm vào khăn mù-soa xoắn lại và cầm tro
tro trong tay. Với số tiền to lớn đó tôi và cậu tôi thừa sức thuê một cỗ xe
ngựa khác về nhà.
Gần ngã ba, ở phía trong vườn
là nhà dượng tôi. Hồi đó ông làm thôn trưởng. Tôi khéo léo hỏi dò anh giao liên
thì được biết hiện giờ ông đang làm cai tổng, gọi là Tổng Cường. Nhưng tôi
không nao vì tôi có hai mươi năm thâm niên cách mạng. Nó đủ bảo đảm cho lập
trường của tôi. Tuy vậy tôi cũng tự nhủ thầm: Sao người thân của mình mà mình
thấy xa cách ?
Càng đi vào mảnh đất quê hương
yêu dấu tôi càng ngẩn ngơ. Không còn gì cả. Cả ngôi nhà thờ đồ sộ ngày xưa tôi
vẫn thường đến đọc kinh cũng đã biến mất. Cách đó không xa là hai cái lò rèn ở
ngay đầu cầu gọi là Cầu Vĩ bắc ngang qua rạch Tân Huề. Hồi cách mạng mới nổi
lên, hai cái lò rèn này đã sản xuất vô số dao găm, phi tiêu, đoản kiếm cho dân
quân cách mạng. Bây giờ cũng không còn thấy nữa. Tôi phải khó khăn lắm mới tìm
được lối đi . Ở đầu cầu này năm 1946 anh Hoàng Trọng Liễn, một cán bộ xuất sắc
của Thanh Niên Cứu Quốc quận Mỏ Cày, em ruột của giáo sư Hoàng Ngọc Bích đã bị
Pháp đuổi bắn chết. Cách đó không xa là nhà của ông Lâm Thiên Tứ, một đại địa
chủ trong vùng cũng đã bị tên đội Định ở bốt Cầu Mống bắt cùng với người con
trai là Lâm Thiên Trường đem về chợ Cầu Mống trói vào gốc cây bắn chết và không
cho gia đình lấy xác. . .
Những cái chết vô cùng oanh
liệt ấy đã mở đường cho cách mạng tiến lên. Tôi đã rời xa con đường đó từ thời
thiếu nhi đến bây giờ mới quay về được. Bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ lẫn kỷ niệm
kháng chiến bừng dậy trong đầu. Chân run rẩy bước nhanh, mắt phóng nhìn bốn
phía vườn hoang. Không một bóng người thấp thoáng. Ngôi chợ làng không còn một
cửa tiệm nào. Tất cả đều hoang tàn lạnh lẽo. Ngôi chợ đầy kỷ niệm ấu thơ của
tôi chính là ngôi chợ Tân Hương này.
Ở đây có ông Chệt già tên là
Thầy Thẹo. Ông là người bạn thân của tôi và cậu tôi. Ông lùn tịt, có cặp mắt
kèm nhèm ti hí như không bao giờ mở rộng ra nhưng không bao giờ để lọt một đồng
xu hay một hạt đậu. Cái đầu của ông trông như một chiếc gáo dừa gọt nhẵn, còn
cái trán mang những nếp nhăn như một mảnh ruộng bừa và ở giữa có một vết cắt to
bằng trái ớt sừng trâu dựng đứng. Ông vừa bán tạp hóa lại vừa bắt mạch hốt
thuốc Bắc. Những kệ tủ của ông đen đúa dơ bẩn và cũ xì chứng tỏ rằng ông đến
đây lập nghiệp đã lâu. Vừa mang thẹo lại vừa hốt thuốc Bắc, nên ông được người
ta gọi là Thầy Thẹo. Hồi còn bé thơ, có lẽ không ngày nào là tôi không đến chợ
này. Đi mua nước mắm dầu lửa, mua đậu phộng, đậu xanh, mua nhang, đèn cầy, đặc
biệt là giấy bạch và nhợ để thả diều. Ở chợ cũng có nhiều tiệm khác, nhưng tôi
và cậu tôi chỉ đến tiệm Thầy Thẹo.
Mỗi lần thấy tôi, ông đều xoa
đầu khen đáo để. Bất cứ tôi mua gì ông cũng bán rẻ hơn người khác, và lần nào
tôi cũng được ông thưởng cho một cục kẹo dừa, tôi lột vỏ ra ngay ngậm về đường.
Ở kế tiệm Thầy Thẹo là tiệm của một ông Chệt trẻ hiệu là Anh Ký. Không biết tại
sao có lần tiệm này phát cháy nhưng nhờ ở gần mé sông nên chữa lửa dễ dàng. Nhà
lồng chợ, nhà việc, bến sông đều rất thân mến đối với tôi. Những buổi sáng đang
ngủ bỗng nghe trống và phèng la văng vẳng, tôi và cậu tôi vùng dậy vừa dụi mắt
vừa chạy sang chợ. Biết bao nhiêu trò mị thuật kỳ thú tôi được xem ở ngôi chợ
làng này. Một lần tôi được xem gánh Tiểu Lực Sĩ. Tiểu Lực Sĩ không làm trò mà
chỉ biểu diễn bắp thịt gọi là luyện nội công. Ông hót bụng vô và đưa tay nẹn
ngang eo ếch thì những đầu ngón tay vừa đụng nhau. Ông hít thở phình ngực rồi
vận chuyển bắp thịt con chuột chạy ra phần trước của cánh tay, rồi cho nó chạy
trở lại chỗ cũ. Xong lại chuyển vận bắp thịt ngực, làm cặp vú vun lên như vú
đàn bà và nhúc nhích. Cả bọn con nít lẫn người lớn đều cười khoái trá.
Nhưng chưa hết, ông còn bẻ sắt.
Những cọng sắt dài hai tấc to bằng ngón tay út được ông cầm lên và bóp cong lại
thành hình chứ U rồi đưa cho mọi người xem có phải là sắt thiệt hay không. Ông
lại còn bịt vải một đầu que sắt rồi đút vào răng, nạy cong rồi bóp, ném xuống
đất nghe leng keng. Ông Tiểu Lực Sĩ còn cho biết ở Vĩnh Long ông đã từng nằm
trên đường cho chiếc xe hơi chở ba mươi người cán ngang ngực ông. Để chứng tỏ
phần nào về sức chịu ghê gớm của bộ ngực, Tiểu Lực Sĩ dùng một thanh sắt dẹp
đập liên tiếp năm, sáu phát vào ngực làm cho thanh sắt cong vòng.
Những hồi trống chiêng cửa
những gánh Sơn Đông Mãi Võ ngày xưa như còn vang đâu đây hay trong lòng tôi. Cứ
mỗi bước chân đi tôi lại như bắt gặp một kỷ niệm ngày xưa hiện về. Mặt đất
không còn gì nữa ngoài cỏ rậm và những hố bom, vết đạn, nhưng lòng tôi cứ tươi
non như một tàu lá chuối xanh. Tôi bắt gặp lại Tôi vài chục năm trước.
Chiếc cầu sắt gần chợ vẫn còn
đứng đó như bộ xương con khủng long ngã gục xiêu vẹo. Nhịp giữa bị cách mạng
đánh đứt ngang hồi đầu thời kỳ chống Pháp nay được thay thế bằng một thân cây
dừa cũng mang nhiều vết đạn. Ngày xưa ở dốc cầu này có một bà cụ ngồi bán những
trầu cau vôi thuốc bánh ít bánh tét trong một cái quán nghèo nàn.
Tôi không bao giờ chú ý hoặc
ghé lại đây mua bất cứ món gì, nhưng bây giờ chiếc quán và bà cụ lại hiện rõ
lên trong đầu tôi. Giá chiếc quán còn đây tôi sẽ ghé lại mua bánh ăn và xin
nước uống.
Cỏ mọc lên quá lưng quần, tôi
phải đưa tay rẽ lấy lối. Không có ai lai vãng quanh đây. Tôi như con trâu bị kẻ
trộm mang đi xa sút dây trở về chuồng cũ, nên vẫn còn nhớ đường. Tôi phải khó
khăn lắm mới đi qua nhịp cầu giữa được vì tay vịn không còn nguyên. Nó đã bị
một viên đạn hay một mảnh bom nào xén ngang gãy lìa còn nằm lung lơ, mỗi bên
một khúc.
Bên kia đầu cầu là một bụi tầm
vông to um tùm che cả cái quán cóc của ông Tám Cần. Cái quán này phong phú hơn
cái quán của bà cụ vì nó nằm ở ngã ba đi về làng Hương Mỹ quê tôi. Ở đây tôi
thường mua những miếng đu đủ chín hoặc dưa hấu vừa đi vừa ăn. Đây là mảnh đất
tưới đầy nước mắt của tôi và có lẽ bụi tầm vông kia xanh tươi là nhờ những dòng
nước mắt đó. Mỗi lần bãi trường, tôi ra nhà ngoại tôi chơi, đến lúc về, thì
ngoại tôi theo tôi đến đây, bịn rịn rãi mới để tôi đi.
Bây giờ ngôi quán kia và bụi
tầm vông không còn để lại dấu vết gì ! Con đường đất nối liền hai làng Minh Đức
và Hương Mỹ từng in dấu chân tôi nay đã trở thành rừng hoang. Tôi cứ đi thuộc
lòng. Tim tôi như hòn than bừng đỏ Sự nóng lòng thấy lại cảnh nhà ngoại tôi làm
cho tôi tuôn bờ lướt bụi bất kể gai góc.
Tôi ra đi kháng chiến từ đây và
bây giờ tôi trở lại nơi đây như một tên cường đạo hoàn lương với tội lỗi được
chính mình nhìn nhận. Tôi tưởng tôi đi trên mảnh đất nào khác không phải quê
hương mình.
Không còn nhớ đó là vào buổi
chiều hay buổi sáng nữa. Tôi đã gặp lại ngoại tôi đứng trước một căn chòi lụp
xụp thấp lè tè như một cái chuồng vịt hẫng. Tôi kêu lên:
“Ngoại!”
o O o
Cuộc ra đi theo cách mạng của
tôi khởi đầu từ đây và cũng chấm dứt ở mảnh đất này. Khi tôi nhìn thấy ngoại
tôi thì tôi rụng rời hết tay chân và trời đất dường như sụp đổ. Hồ chủ tịch,
Trung ương đảng, Hà Nội, cách mạng là gì?
Đột nhiên tôi tự hỏi. Và đây
không phải là lần đầu.
Giải phóng là cái gì ? Ai giải
phóng và ai được giải phóng? Giá tôi đừng về để nhìn thấy bộ mặt giải phóng.
Tất cả đều là một sự giả dối, lừa bịp, tàn bạo và ngu muội. Bọn Cộng Sản bất
lương chẳng những đã phá nát Quê Hương, Tổ Quốc mà còn tàn phá cả TÂM HỒN DÂN
TỘC VIỆT NAM. Tôi sẽ để tất cả thì giờ trong những năm còn lại của đời tôi để
chứng minh cho kỳ được điều này.
Sài Gòn 1974
Hoa Kỳ Tháng Năm 1989
XUÂN VŨ
XUÂN VŨ
HẾT QUYỂN IV
Một quê hương tan nát, một
cuồng vọng tiêu ma. Đồng khởi thực sự là cái gì ? Có giải phóng ba phần tư đất
đai và bốn phần năm dân chúng không? Súng ngựa trời có tác dụng như đài Hà Nội
rêu rao không? Đạo Quân Đầu Tóc có được mấy người và do ai chỉ huy ? Nữ tướng
Ba Định làm gì trong kháng chiến chống Pháp, và trong chiến tranh chống Mỹ? Tại
sao Nguyễn Chí Thanh bốc mụ ta lên đặt trên đầu bọn trí thức hùa và đám cán ngố
Bắc Kỳ? Trần Văn Trà bị rượt chạy suýt chết vì mưu toan sát nhập bộ đội Hai
Phải vào các đơn vị dưới quyền chỉ huy của y.
Ông Đốc Huệ, Bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp, học giả Ca văn Thỉnh và các vị trí thức khác được Cộng Sản xử dụng ra
sao ?
Vì quyển IV Đến Mà Không Đến hơi
dầy nên tác giả sẽ đưa các vấn đề sau đây vào quyển Đồng Bằng Gai Góc:
Cái chết của Tư Trang, Thái
Trần Trọng Nghĩa, Quách Vũ, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Chí Thanh và các vấn đề
khác chưa nêu lên trong quyển IV, như Lưu Hữu Phước làm con bài hiếu hĩ, hai
thứ Trưởng Bộ Văn Hóa của Chánh Phủ ma nuôi gà giỏi cỡ nào và bị bọn Giải Phóng
khinh miệt ra sao? Tác giả cãi lộn với cấp chỉ huy và viết thơ cho Trần Bạch
Đằng trước khi hồi chánh. Khi tác giả hồi chánh về Sài gòn được Chánh phủ, đồng
nghiệp và bạn bè cũ đón tiếp niềm nỡ ra sao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét