Bác sĩ Hồ Văn Châm
Tôi nghĩ rằng khi đọc xong tập
hồi ký vượt Trường Sơn này của nhà văn Xuân Vũ, mỗi độc giả tùy theo thân thế
và tâm sự riêng biệt của mình, có thể có những cảm nghĩ rất khác nhau. Người
thích phiêu lưu mạo hiểm, say mê những chân trời xa lạ, những câu chuyện sôi
nổi được tác giả ghi chú rất linh động trong tập sách. Kẻ ưa mơ mộng, thương
cảm nỗi vất vả nhọc nhằn của người nữ vũ công có đôi bàn chân sáp đúc trầy trụa
vì đá tai mèo trên những đỉnh núi cụng trời. Chính khách thời thượng gật gù
khen nội dung tốt. Độc giả khó tính tặc lưỡi cho là sách tuyên truyền.
Tôi lại nghĩ rằng mỗi độc giả
chúng ta, dù khen, dù chê văn tài của tác giả, dù chăm chú, dù hời hợt theo dõi
diễn biến câu chuyện, đều không thể chối cãi một sự kiện hiển nhiên là nội dung
cuốn sách đượm tính chất xác thực, không dài dòng lê thê, không hoa hoè hoa
sói, không bịa đặt, không xuyên tạc, không phỉ báng ai mà cũng không ca tụng
ai. Người viết chỉ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe cùng những cảm nghĩ của
mình trên đường vượt Trường Sơn trở về Nam thi hành nhiệm vụ giao phó. Tính
chất xác thực nầy, những ai đã từng leo đèo vượt núi, những ai có liên hệ ít
nhiều với dãy Trường Sơn trùng điệp đều làm chứng cho tác giả. Nói một cách
khác, tập hồi ký này ghi lại trung thực một đoạn đời của nhà văn Xuân Vũ trong
sự nghiệp phục vụ quê hương.
Tôi gặp nhà văn Xuân Vũ giữa
năm 1971, sau khi anh đã thành công vượt mọi gian khổ, vượt dãy Trường Sơn,
nhưng không vượt được nỗi khủng hoảng ngày đêm dằn vặt tâm tư. Đưởng Đi Không
Đến . Trên đường vô Nam, anh đã đến nơi đến chốn, nhưng trên đường tiến tới sự
nghiệp phục vụ quê hương đường đi đã bế tắc. Đau đớn cho anh, anh đã tiêu phí
20 năm trời đã đi trên con đường ngày nay bí lối đó. Cơn khủng hoảng thật là
trầm trọng, khủng hoảng tâm thần, khủng hoảng lý tưởng.
Tôi nghĩ rằng trường hợp của
nhà văn Xuân Vũ không phải là một trường hợp cá biệt. Một số độc giả chúng ta
cũng như rất đông anh chị em ruột thịt chúng ta còn ở bên kia chiến tuyến ngày
đêm cũng khắc khoải suy tư về một lối thoát vẹn toàn cho cơn khủng hoảng thời
đại đó. Khắc khoải suy tư, khủng hoảng tâm thần, khủng hoảng lý tưởng… bởi lẽ
chúng ta còn là người Việt Nam và dòng máu sôi sục trong huyết quản chúng ta,
đầy ắp truyền thống Việt Nam hào hùng của biết bao nhiêu thế hệ tiền bối Việt
Nam.
Tôi nhớ là đã nói chuyện nhiều
với nhà văn Xuân Vũ về Đưòng Đi Không Đến của anh, của số đông chúng ta, và
khuyến khích anh cố gắng vượt qua cơn khủng hoảng tâm thần để tìm đi đúng con
đường vì dân vì nước . Để dẫn chứng, tôi đã tâm sự với nhà văn Xuân Vũ về việc
gia tiên ngày xưa đương chức tri huyện Lê Thủy, Quảng Bình, lúc Vua Hàm Nghi
xuất cung truyền hịch đã khẳng khái treo ấn từ quan, hưởng ứng việc Cần Vương,
để rồi ngậm ngùi, thống hận tử trần, tuổi chưa được 40. Sau này, gia nghiêm
khăng khăng không chịu ném bút lông cầm bút sắt, tuy giữ được khí phách sĩ phu,
nhưng cơn khủng hoảng lý tưởng càng trầm trọng hơn, đường đi hoàn toàn nghẽn
lối.
Tôi đã nói cho nhà văn Xuân Vũ
biết là kinh nghiệm dòng họ khiến cho tôi ngày nay nghĩ rằng chúng ta không thể
quá khích mà cũng không thể tiêu cực. Đường đi của chúng ta phải là con đường
thích nghi với hoàn cảnh năm châu họp chợ, thích nghi với trình độ kỹ thuật
không gian và thế quân bình lực lượng của các đại cường.
Đành rằng chúng ta yêu nước
nồng nhiệt, đành rằng chúng ta lập chí lớn lao, nhưng chúng ta phải biết lượng
sức dân, sức nước. Yêu nước thì phải thương dân, trước hết phải lo cho dân có
cơm áo. Yêu nước nhất quyết không phải là mưu đồ sự nghiệp cá nhân, mặc cho dân
chúng lầm than, quê hương tan nát. Yêu nước càng không phải là điên cuồng nhắm
mắt đưa toàn dân vào con đường đấu tranh ngu xuẩn và vô vọng có thể mang tới
hậu quả diệt quốc, diệt chủng. Yêu nước lại càng không phải là cưỡng bức nhân
dân thắt lưng buộc bụng, nhịn đói, nhịn khát để tập trung tài nguyên nhân lực
vào việc dùng vũ lực mưu toan áp đặt một nền nếp suy tư và những phương thức
hành động đã được đúc khuôn mà dân chúng không mong muốn. Các nhà cầm quyền
Miền Bắc nên ra khỏi tháp ngà để ngẫm nghĩ về điều đó.
Tôi lại cũng nghĩ rằng yêu nước
không phải là tiêu cực chống đối. Những lời phê bình vô trách nhiệm, thái độ
bất hợp tác hoặc lề lối buông xuôi, chỉ biết thở ngắn than dài, ưu thời mẫn thế,
không phải là phương châm hành động của con cháu những người đã xông xáo ra Bắc
vào Nam, bình Chiêm phạt Tống, gây dựng nên cơ đồ ngày nay để lại cho chúng ta.
Yêu nước thì không thể thản nhiên nhắm mắt ngồi bất động để mặc bọn ma đầu phá
hoại cơ nghiệp của cha ông. Yêu nước thì phải tích cực hoạt động, xây dựng đổ
vỡ, vun quén tình hình, loại bỏ bọn sâu dân một nước, dạy dân, nuôi dân, cho
dân sinh dân trí mỗi ngày một thêm phát triển. Các bậc có trí thức tại Miền Nam
tự do này nên nghĩ tới trường hợp Vua Chiêu Hoà nước Nhật Bản sau ngày bại
trận, khôi phục lại địa vị đại cường. Ai bảo hành động của Vua Chiêu Hoà từ năm
1945 đến nay lại không sáng suốt và ích lợi cho quốc dân Nhật Bản như công cuộc
duy tân của Minh Trị Thiên Hoàng 100 năm về trước.
Trên con đường sự nghiệp phục
vụ quê hương, đi như Xuân Vũ đi trong tập hồi ký này thì đường đi nhất định
không đến, đi như Xuân Vũ đang đi ngày nay thì đường đi nhất định phải đến.
Saigon, ngày 2 tháng 7 năm 1973
Bác sĩ HỒ VĂN CHÂM
- 1-
….Bộ đội ở phía sau đi tới. Họ
khiêng, họ vác, họ gánh. Lặng lẽ, nặng nề, từng nhóm, từng người, có khi năm
bảy chục thước mới có một tốp, một người. Cự ly hành quân chẳng rõ được qui
định là bao nhiêu.. Đó là vì Trường Sơn hiểm trở, nhưng trước nhất là vì đôi
chân…
Thấy bộ đội đi, tôi và Lâm
nhường bước, nép vào đường. Quần áo họ mốc cời, có cái vai áo rách toạc xuống
nửa cánh tay, nhiều mái đầu như rú rậm, họ đi ngang đã nghe thấy một mùi chua
khét lạ lùng. Nòng súng họ nhét giẽ rách, hoặc để trống hốc, sét rơi ra vàng
oách. Nhiều ngườl gánh hẳn hoi bằng một thanh tre tươi. Ba lô một đầu súng và
cạt-túc-se một đầu, như gánh những xâu thịt lợn. Người đi sau chót vừa đi vừa
rên khừ khừ.
Tưởng đơn vị đã đứt đuôi, tôi
sửa soạn cho đoàn của tôi tiếp tục đi nhưng nhìn lại thì thấy đơn vị còn lục
tục ở phía sau.
Đột nhiên Lâm hỏi tôi :
- Này về tới Nam Bộ, anh sẽ ăn
món gì trước nhất?
- Chè đậu! – Tôi đáp không cần
suy nghĩ.
Vì sao tôi không suy nghĩ? Bây
giờ, khi nhớ lại, tôi mới hiểu ra rằng đi đường mất calori nhiều quá, lúc nào
cũng thèm đường. Đâu chỉ có một kí lô đường cát trắng được phát cho từ Hà-Nội
mà đi hơn 1 tháng, trèo đèo lội dốc suốt ngày mà không dám đem đường ra ăn.
Đường được xem như một thứ tiên được. Lúc sắp quỵ xuống kìa mới dám nghĩ tới
thứ thuốc tiên đó! Cái cách ăn đường cát của những gã chân chỉ lội Trường Sơn
đã làm cho nó trở thành tiên dược. Đâu có phải bỏ nó vô nước khuấy cho tan ra
rồi uổng, mà phải chờ đến lúc khuya canh vắng, bên cạnh mình không còn ai thức
mới sẻ lén mở ba lô ra lấy cái túi đường còn kha khá đó ra rồi mở sợi dây buộc
túi đường một cách vô cùng cẩn thận, kẻo người bên cạnh nghe thì chết. Xong,
mới bằng một cử chỉ vừa cẩn thận, vừa trang trọng, dốc ngược cái túi lên, tay
giữ miệng túi sát vào mồm, tay bóp đít cái túi khe khẽ cho đường chảy vào mồm.
Những hạt đường của Cu-Ba anh em (!) lăn trên thành túi ni lông nghe như những
hạt sõi lăn trên sườn núi. Đợi đến khi số hạt đường nhất định đã rơi vào mồm
thì chủ nhân mới bèn bóp cái miệng túi lại và khãy nhè nhẹ cho những hạt còn vô
tình hay cố ý dính lại đấy rơi hẳn vào mồm chủ nhân, rồi mới buộc thắt nó lại.
Những hạt đường đã nằm trọng miệng của chủ nhân rất yên trí rằng chúng không bao
giờ bị thương, bởi lẽ rất giản đơn là chủ nhân không bao giờ dám nhai, bởi lẽ
rất giản đơn nữa là nếu nhai thi đường sẽ chạm vào răng và gây nên những tiếng
động và một khi cái tiếng động ấy bị lọt vào tai của một anh chàng ‘Vô Ngại
Tưởng Quân’ nằm bên cạnh thì không chóng thì chầy chủ nhân của túi đường sẽ đau
khổ vì bị vị tướng quân này không ngần ngại xỉn… đường. Mà trên đường Trường
Sơn này thì những vị vô ngại tướng quân đó ở chỗ nào cũng có.
Vl thế cho nên ăn đường cũng
phải cần thận tối đa, nghĩa là để cho những hạt đường tự tan chảy ra trong mồm
một cách tự nguyện. Điểm nầy cũng còn thêm một ý nghĩa là như vậy chủ nhân sẽ
có đủ bình tỉnh và thời gian mà thưởng thức cái vị ngọt ngào của đường Cu-Ba và
nghe tình đồng chí xã hội chủ nghĩa anh em đi vào máu huyết của mình (!)
Nhưng đó chỉ đó là một lối tiêu
thụ bình thường – để đề phòng các Vô Ngại tướng quân thôi. Còn nhiều cách khác
nữa.
Vì đường nó quý quá làm vậy cho
nên khi được Lâm hỏi ăn gì thì tôi đáp ngay rằng “chè”. Không phải tiếng nói
của lá phổi, cổ họng mà là tiếng nói của tâm tư, của nguyện vọng.
Vì sao? Vì lâu nay, mỗi lần cảm
thấy sức khoẻ mình xuống dốc trông thấy một cách thảm hại, tôi chỉ nghĩ có một
điều: “Ăn”! Ăn là khoẻ ngay, là đi nhanh, là vượt dốc trèo đèo như gió, là
chống được sốt, là lạc quan yêu đời, là tin tưởng Đảng Bác thêm ngay, nhưng ăn
thì có cả trăm món, làm sao tạo ra ngay cho được giữa rừng thẳm núi cao này?
Chỉ có đường là đơn giản nhất. Nhiều khi tôi chỉ cần nếm một muỗng nhỏ đường mà
cảm thấy khoẻ lên rất chóng, như vừa uống thuốc tiên.
Cái tiếng ‘chè đậu’ của tôi
tung ra như một quả khói mù, nhưng đồng thời cũng như một giọt nước mát xối vào
mặt mọi người giữa trưa nắng cháy. Những người đứng gần tôi tựa hẳn ba lô vào
vách đá cho đỡ nặng đôi vai lắng nghe tôi nói tiếp.
Tôi cảm thẩy tôi thông minh hơn
chính tôi ngày thường gấp bội, thông minh hơn cả Tào Tháo khi ông ta thấy binh
sĩ khát cháy cổ thì gạt chúng bảo rằng phía trước một có một vườn mơ – nhưng
tôi không giống Tào Tháo vì chính tôi cũng thèm chè như mọi người trong đoàn,
chứ không như họ Tào hoặc họ này họ khác ngồi mát ăn bát vàng mà xua lũ con
cháu vào con đường đi không đến mà bảo rằng sắp đến nơi rồi và sẽ có mâm cao cổ
đầy ở cái đích sắp trông thấy đó.
Tôi nói tiếp để phát triển thêm
cái mòn chè của tôi :
- Chè đậu trắng, các bạn ạ! Hạt
to hơn đầu đũa ăn, hạt lép đã nhặt hết rồi, chỉ còn hạt trộng – tôi nói tiếp –
đem nấu với đường móng trâu, chớ không nấu với đường thốt nốt, vì đường thốt
nốt hơi chua, để ăn sống thì tuyệt vời còn đem nấu chè thì không bằng đường tán
đâu. Nấu phải cho thật ngọt, ngọt gắt cổ họng, nếm vô một miếng là tằng hắng
ngay. Đấy.. nấu xong nhắt xuống múc ra từng chén, chén trứng sáo to nhé, rồi
mới rưới nước cốt dừa lên – nói đến đây tôi dừng lại nhìn từng người một. Gương
mặt người nào người ấy sáng rỡ lên.
Tôi cũng thấy hăng hái hơn lên.
Tôi đưa hai tay ra phía trước, hai bàn ấy úp vào nhau làm như đang vắt dừa. Tôi
nghiến răng và bóp vặn hai bàn tay vào nhau tỏ vẻ quyết vắt cho thật khô với
một sự vui sướng thèm thuồng ác liệt, với sự tưởng tượng trông thấy món chè đặc
biệt đang dọn ra trước mắt mình.
Nhưng than ôi! qua cái cử chỉ
ấy tôi hiểu rõ sức lực của tôl. Nó đâu còn đủ cho tôi làm cái việc đó. Nói
trắng ra là nếu có một trái dừa phải vắt ở giữa lưng Trường Sơn này thì tôi
không thể vắt lấy nổi nước cốt. Tôi cảm thấy hai cánh tay tôi rã rời, một sự rã
rời làm tôi phải ngạc nhiên.
Giờ đây tôi vẫn còn nhớ hình
đáng của hai cánh tay và hai bàn tay tôi lúc ấy. Màu da vàng vì sốt, sạm vì
nắng, thâm vì sương gió và chướng khí núi rừng. Tôi không có chữ để gọi chính
xác cái màu hổn hợp của ba màu kể trên. Tôi ngậm ngùi, nhưng vì là người có
trách nhiệm nên tôi cố giấu sự bi quan, mà vẫn vui vẻ lao theo cái món chè.
Tôi đã “vắt dừa” xong và hăm hở
nói tiếp:
- Nước cốt đặc quẹo giống như
sữa. Nếm thử một miếng xem, ôi chao béo ngậy. Đây tùy thích của từng người, ai
muốn béo thì “thím xực” luôn hai muỗng. Đấy, chè đã dọn ra rồi mời các bạn cùng
múc nước cốt dừa rưới lên ai muốn xơi mấy chén cứ xơi… Xơi ngay trong lúc chè
hãy còn nóng để cho nước cốt dừa quến vào thành một khối vừa béo vừa ngọt nuốt
đến đâu nghe bổ đến đấy!
Lâm nói:
- Riêng tôi thì tôi muốn ăn một
chén, còn xin một chén.
- Úy, lố tiêu chuẩn sao?
- Không! Một chén xin sau là để
phơi sương, sáng mai dậy tập thể dục nhảy xuống sông tắm rồi lên ăn liền.
- Có súc miệng không? – Một
người hỏi.
- Khà.. khà khà.
- Cái thằng nói làm nhớ nhà Má
Chín ở Cai Lậy quá!
Chúng tôi ăn chè gió xong, bộ
đội cũng vừa dứt đuôi. Tôi bảo:
- Tôi, anh em mình chuẩn bị đi!
Người nào người ấy mặt nhăn như
bị, cất ba-lô lên vai, đành để lại bát chè đậu nước cốt dừa ấm hổi phía sau
lưng.
Nhưng kìa có một người lê tới
cùng đi về một phía với chúng tôi – nghĩa là Miền Nam.
Bất giác tôi ngó xuống đất. Tôi
sợ hãi quá. Tôi sợ nhìn thấy tôi trong cái con người ấy. Đó là một người, vâng,
đúng là một con ngưòi vì anh chàng có đủ tất cả những gì mà một con người bình
thường nhất cũng có, và có cái mà con vật không có, nhưng anh ta không còn
giống bất cứ một người bình thường nào trên trái đất, mà chỉ có thể đồng hoá
vói chúng tôi trên dãy Trường Sơn này thôi.
Đó là một người gầy đét, gầy
nhom, gầy như chiếc que, nói theo tiếng Nam Bộ, ốm tong ốm teo. Nói tóm một câu
là gầy đến mức độ không thể gầy được nữa.
Má anh ta không còn thịt, để
lòi ra những góc cạnh trên mặt, mắt anh mở thau láu, không phải vì tỉnh táo mà
có lẽ vì đôi mi cứng đờ không khép lại được nữa. Bộ răng trên còn nguyên, nhô
hẳn ra ngoài càng gây cho mọi người một sự gớm ghiếc của người chết với chiếc
môi trên nhếch lên. Trong người anh cái bộ phận không gầy, vì không gầy đi được
là bộ răng nầy.
Mái đầu anh che kín dưới làn mũ
tai bèo. Vành mũ cong chụp xuống che kín đôi tai, đồng thời như cũng muốn che
lấp lấy đôi tai, không cho nó thu nhận bất cứ sự việc gì bên ngoài, vì tất cả
sự việc gì bên ngoài cũng không hay ho cả. Nên làm một kẻ mắt mù tai điếc mà
lên bước trên con đường tối đại vinh quang nầy.
Còn chiếc mũ nữa, tôi không thể
chỉ nói về nó có bấy nhiêu thôi, vì đó là chiếc mũ tai bèo của giải phóng quân
“bách chiến bách thắng”. Nó có điểm hay là muốn dùng nó làm gì cũng được: khăn
lau mồ hôi, giẻ nhắc nồi, thấm chí (mà lại rất thông dụng) chỗ ngồi không đẹp
người ta cũng không ngần ngại dùng đến nó. Chiếc nón của bạn này được giữ dính
vào đầu anh ta bởi một cái quai nhỏ bằng chiếc đũa choàng qua hầu. Điều đó rất
bình thường nhưng ở đây anh bạn lại treo một chiếc khăn lông nhỏ ướt lòng thòng
xuống trước ngực như bộ râu vĩ đại của lão già Noël.
Chân anh lê đi, khỏi phải nói,
với sự tiếp sức của hai chiếc gậy bằng mây mà hai tay anh cố chống tới đều đều
– một thứ chân giả mà trông ra có vẻ có nhiều sức lực hơn đôi chân thiệt của
anh ta. Anh ta đi qua trước mặc chúng tôi, không nhìn ai.
Không hiểu anh ta thuộc đơn vị
nào, đau ốm từ bao giờ và nhất là anh ta suy nghĩ những gì, khi lê bước chân
trên con đường vào Nam theo lệnh của Đảng-Bác giải phóng Miền Nam.
Tôi đã gặp anh ta trên nhiều
chặng đường cho nên tôi quen mặt anh ta, nhưng tôi muốn xem đó là một điều gì
không có thực mà đó chỉ là một cái bóng, một cái vong hồn vất vưởng hiện lên
như một thứ ma quái giữa chốn hoang vu mà thôi.
Bởi vì làm sao lại có thể có
một cán bộ, một đội viên hay một dân công với hình hài tư thế và bước đi như
vậy được trên con đường tối hậu vinh quang này? Vâng, anh ta đang đi giải phóng
Miền Nam trong một cuộc hành quân thần tốc.
Nhưng cuộc đời vẫn công bằng
chính trực. Nó không để cho ai phải chịu riêng đau khổ một mình. Cho nên không
những trên đường này có ông già Noël mà còn có cả bà Noël nữa.
Bà Noël đó là cô Thu trong đoàn
tôi. Cô vừa trật chân bốn hôm nay nhưng cô không dám nằm lại vì sợ cái nỗi đêm
khuya thân gái dậm trường, ở giữa núi rừng ma thiêng nước độc và đầy những cọp
hùm rắn rết này, một thân gái bồ liễu như cô thì làm sao mà dám nằm lại?
Hơn thế nữa khi ra đi, ông chủ
nhiệm ủy ban thống nhất – Trung Tướng Nguyễn Văn Vịnh có đến gặp chúng tôi và
bảo rằng đoàn chúng tôi về đến nơi sẽ có Chính Phủ Liên Hiệp, tình hình sáng
sủa hơn bây giờ nhiều. Như vậy ai mà nằm lại cho được. Còn một giò cũng phải
nhắc cò cò đi tới chớ.
Lâm nhìn tôi và Thu, nói:
- Bà Noël đi trước đi! Đụng đầu
mãi mà chẳng có tí quà nào cả!
Thu không cười. Cũng không ai
cười. Vì cười cũng là một hình thức vận động làm cho mất nhiệt lượng đi. Đã
không cười, Thu lại còn hơi cáu. Thu chống gậy lê cái chân sưng phù đi tới và
càu nhàu:
- Buốt tận tủy đây còn quà với
cáp!
Tôi thấy thương tâm quá. Với
lại cũng có một phần trách nhiệm, nên tôi không nở bỏ Thu rơi lại phía sau.
Cứ bước một bước Thu lại nhăn
mặt. Thu phải cân nhắc từng bước một, phải tìm một chỗ phẳng rồi mới từ từ đặt
chân lên. Thu sợ tất cả mọi hòn đá trên mặt đường. Mà cái mặt đường vinh quang,
đường giải phóng Miền Nam này có chỗ nào là không lởm chởm đá và gai?
Thu quen đi guốc cao gót nhảy
múa trên sạp phẳng như mặt hồ Gươm và uốn mình theo những điệu nhạc làm rung
động lòng người. Thu quen trình diễn dưới ánh điện rực rỡ và quen nghe những
tràng vỗ tay tán thưởng tài nghệ của nàng. Đôi chân của nàng làm bằng sáp chứ
đâu phải đúc bằng đồng bằng sắt như chân pháo binh bộ binh.
Ấy vậy mà chưa học xong chương
trình múa ba-lê nàng đã xung phong đăng ký vào Nam biểu diễn cho đồng bào
Sàigòn xem (!).
Tôi nhìn bàn chân và cổ chân
của Thu. Thật đáng ngại. Nó bầm xanh. Thịt da có lẽ đã thối ở bên trong. Nó
đang mưng mủ. Tôi nghĩ dại, đời cô văn công ca múa này, thế là hết. Nó mà xì mủ
ra, gì chưa biết chớ phải lấy Trường Sơn làm nhà ít nhất là nửa năm.
Anh em khặc khừ qua mặt chúng
tôi hết. Tôi cũng không nhớ rõ lúc bấy giờ là bao giờ. Chúng tôi không thích
mặt trời, mặt trăng và ngay cả mặt người, người thân đi bên cạnh cũng không
thích nhìn nốt. Có gì hay ho đâu?
Chỉ còn tôi và Thu sót lại sau
rốt. Tôi thấy Thu không thể đi nổi nữa. Tôi bèn bảo Thu cởi ba-lô đưa tôi mang
hộ. Thu không ngần ngại tí nào. Có lẽ nếu tôi không bảo, Thu cũng sẽ nhờ tôi.
Ba-lô tôi đã nặng, lại còn đeo thêm dùm người ta. “Ốc không lo phận ốc lại còn làm
cọc cho rêu” là thế. Tôi và
Thu bỗng trở nên đôi bạn đồng hành khắn khít không phải vì tình cảm mà vì hoàn
cảnh.
Vậy là tôi không lo bị cô đơn
dọc đường. Nhưng mỗi đứa đau một bệnh. Tôi thì sốt, còn Thu thì què. Đứa nào
cũng sợ bệnh mình cứ nặng thêm lên và lo bạn mình chóng lành hơn mình và bỏ
mình lại với rùng núi và người ngợm không quen.
Hai đứa chỉ đi một quảng ngắn
thì Thu ngôi phệt xuống và kêu nhức. Thu rưng rưng nước mắt và ôm cái bàn chân
như ôm một cục than lửa, muốn bốc nó lên mà trái lại không dám sờ đụng nó.
Tôi hỏi trỏng:
- Không ráng lên nổi chút nữa
à?
Thu lắc đầu mếu máo. Tôi hơi
bực mình nhưng cũng thương tâm. Tôi hỏi:
- Thu có dầu nóng không?
- Không!
- Có thuốc đỏ không?
- Không, anh ạ!
- Có cù-là không?
- Có … nhưng hết rồi!
Tôi bực mình quát to:
- Cái gì cũng không vậy ?
Thu cúi đầu. Thu nhìn hai bàn
chân của mình sưng to như một chiếc bánh bò. Đi Trường Sơn không gì đáng sợ
bằng sốt rét, không gì quý hơn đôi chân. Thế mà Thu lại đau chân.
Tôi ngồi xuống bên Thu, nhìn cô
nàng. Đây là lần đầu tiên từ một tháng nay tôi mới có dịp nhìn kỹ một người con
gái, hay đúng ra, nhìn kỹ một con người.
Thu đã biến đổi rất nhiều so
với Thu trước đây hơn một tháng. Cái cổ Thu cao lên trông thấy, và những ngón
tay thì gầy đi, để lồi lên những đốt xương, còn những ngón chân, hai bàn chân,
niềm tự hào của Thu, bây giờ trông đến thảm hại. Tôi không dám nhìn nữa.
Thu tự hào vì đôi chân Thu đẹp.
Thu biết rõ điều đó là vì chính nó nâng Thu bay lên như đôi cánh. Cho đến bây
giờ tôi mới thấy xót thương. Cứ nghĩ lại cuộc sống trước đây một tháng của Thu
thì tôi thấy thương người con gái vô ngần. Chân vũ nữ múa ba-lê mà lại mang ra
thử thách với đồi núi, với đá tai mèo Trường Sơn. Hà Nội đã đạt kỷ lục trong
lối dùng người của họ. Phải nói thêm rằng lối dùng người tàn nhẫn của họ.
Tôi hỏi Thu:
- Bây giờ em tính thế nào?
- Anh hỏi thế nào là thế nào?
- Nghĩa là … – Tôi ngập ngừng
không muốn nói rõ ý. Tôi muốn hỏi nếu đôi chân của Thu không lành thì Thu tính
thế nào? Nhưng câu hỏi đó là cây kim sẽ chích vào bọc nước mắt đầy ứa của đôi
mắt Thu cho nên tôi lặng thinh và rẽ sang ý khác.
Tôi hỏi:
- Sao em không có chuẩn bị gì
hết vậy?
- Anh cũng biết vì sao mà!
- Ờ. Phải! Cái thằng cha bí thư
toàn nói láo. Đi Trường Sơn cái gì cũng ..cha Tây. Cứ ăn no phè phè rồi đi như
đi dạo. Chặng nào cũng có căng-tin!
Thu thở dài, Thu đưa tay gãi
mấy vệt bùn trên bàn chân đau, lại thở dài và lắc đầu. Còn tôi thì cứ căm gan
thằng cha bí thư.
Thu ngước lên nhìn tôi và nói:
- Vì cả tin cho nên em đâu có
chuẩn bị làm cho cho vô ích. Em còn khuyên bạn em về Hà Nội chỉ nên lượn phố
cho bõ những ngày xa cách sắp tới; mình phải đi xa hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, tuy
nói là đi giải phóng Miền Nam ắt sẽ có ngày về, nhưng ngày đó là ngày nào ai mà
đoán trước cho được. Về Hà Nội thì em mặc áo dài, hết cái này đến cái khác, đi
luợn phố cho mệt mới về.
Thu lặng thinh giây lâu rồi mới
tiếp:
- Không biết các anh có tình
cảm đó không, chứ riêng em thì thật là trẻ con như vậy đó. Nhiều khi em ứa nước
mắt, em nghĩ chắc bây giờ mấy cái áo của em chúng nó đang nhớ em lắm. Chậc! bây
giờ rủi mà phốc được về Hà Nội thì không dám chường cái mặt ra đâu. Và mặc áo
dài đâu có được nữa, nó rộng thùng thình ai mà xem cho?
Thu bị lôi cuốn theo tình cảm
của Thu về Hà Nội. Sự thực tôi thấy thương Thu và nhớ Hà Nội. Không biết thương
Thu hơn hay nhớ Hà Nội hơn, có lẽ hai tình cảm như nhau, bởi vì trong Thu có Hà
Nội mà Hà Nội bao giờ cũng in đậm bóng hình Thu. Tôi còn thương Thu vì càng đi
Nam thì Thu càng xa quê, còn tôi thì càng gần. Cuộc đi này có phải chăng chỉ có
lợi cho tôi?
Đôi lúc tôi cũng có cái tình
cảm lạ kỳ này: tại sao lại bắt Thu phải bỏ nhà trường mà đi trên con đường khổ
ải này? Và phải chăng khi ra đi Thu tỏ ra rất tự nguyện, bây giờ đây Thu vẫn
còn tự nguyện hành quân và vẫn còn thấy những điều của các vị lãnh tụ nói với
Thu là đúng? Nếu thế thì Thu khóc làm chi khi nhìn thấy đôi chân ngọc của mình
sưng húp?
Tôi nói với Thu:
- Anh đâu có đồ gì đâu mà mặc
đi bát phố như em. Mùa hè thì sơ-mi trăng pôpơlin quần kaki, mùa đông thì cũng
thế, thêm một bộ áo bông vĩ đại khoác bên ngoài, nếu có mưa thì trùm một cái áo
đi mưa dày mo may bằng hai tấm vải bạt Trung Quốc, đầu trùm một cái kê-pi có
tai, thế thôi! Anh ra đi đâu có để lại cho bạn bè cái gì đâu, ngoài đôi giày hả
họng và cái áo “tố lãm” của anh?
Thu cười:
- Vậy em tưởng anh có ít nhất
vài ba com-lê chứ?
- Làm gì!
- Còn xe đạp anh để lại cho ai?
- Cho anh em trong xưởng Thống
Nhất.
- Sao anh lại cho những người
công nhân trong xưởng là những người dễ mua xe hơn những người khác?
Tôi phì cười:
- Em ngây thơ quá. Là vì anh
chưa mua nổi nghe chưa?
- Anh chưa mua nổi hay là anh
chưa có phiếu?
- Chưa mua nổi mà cũng chưa có
phiếu em ạ.
- Vậy càng hay, còn em thì thật
oái oăm. Lúc mình có tiền thì bình bầu không được phiếu, còn khi có phiếu rồi
thì lại hết tiền. Cho nên mãi tới em lên đường chiếc xe đạp vẫn còn năm trong
giấc mơ.
Rồi chúng tôi lại đi, càng lúc
càng chậm chạp, còn câu chuyện thì cứ nhạt dần.
Hôm qua anh chị em bị một trận
mưa suốt dọc đường. Ở rừng núi mà lại đi với giao liên thì làm sao mà nghỉ
được, vả lại có nghỉ thì cũng không có chỗ đứng cho nên mưa thì cứ mưa, đoàn cứ
phải “can đảm” “anh dũng” xông pha mưa gió vậy. Cho nên bây giờ tôi đã bắt đầu
nghe ơn ớn trong nguời rồi. Cơn sốt đến rất nhẹ nhàng dễ biết. Dễ biết hơn nữa
vì nó đã đến với tôi nhiều lần và tôi đã cắn răng chằn mắt mà tống cố nó đi một
cách hết sức dũng cảm. Nó đi nhưng tôi biết nó sẽ trở lại bởi vì nó biết chắn
chắn sẽ có một lần nào đó, tôi sẽ đón lấy nó hoàn toàn. Lần đó là lần này đây.
Hôm qua, đến nơi, sau khi mắc
tăng căn võng tôi thay quần áo ngay, và lần đầu tiên trong đời tôi biết kí-nin
đắng như thế nào. Rồi tôi nấu cơm ăn xong ngủ cũng rất ngon, sáng dậy trước khi
lên đường tôi lại uống thêm hai viên kí-nin loại nặng nữa.
Khi rời Hà Nội tôi định không
mang cái túi thuốc của nhà trường cấp cho- cái gói nặng hơn kí-lô và gồm bằng
mấy chục thứ thuốc, có cả thuốc trị rắn cắn- vì tôi cho rằng tôi không thể ngã
bệnh được với cái quá trình mười hai năm ở Hà Nội, không hề đi bệnh viện của
tôi. Chẳng ngờ cái quá trình đó không còn uy lực trên chặng đường này nữa. Với
con sốt rét rừng voi cũng ngã.
Miệng tôi bắt đầu thấy đắng,
những đốt xương sống như rời ra, tay thấy lười cử động, chân thì cứ lê đi nhưng
càng lúc càng chậm, đầu choáng váng và mắt hơi hoa lên.
Nắng loang lổ trên đường đá lởm
chởm. Tôi tìm những chỗ nắng mà bước. Nắng chạm vào da tôi, gây nên một phản
ứng khó chịu. Tôi cảm thấy gây gây ngần ngật không ấm áp tí nào như mọi khi sau
cơn mưa gặp nắng. Lũ vi trùng trong máu tôi, tôi như trông thấy rõ từng chú một
như những chú kiến chạy hàng đàn, mỗi chú ngạm một hồng huyết cầu của tôi như
mỗi chú kiến tha một hạt gạo. Sự chuyển động của hằng triệu con vật li ti đó
làm cho tôi mất thăng bằng, cơn lạnh nổi lên từ trong máu, trong tủy, làm thể
nào ánh mặt trời xoá tan đi được?
Các bắp thịt của tôi như bị dãn
ra hết không còn sức bật nữa và tôi nghe máu tôi loãng ra như có ai pha nước lã
vào đấy. Tôi vung tay gồng mình thoi vào thinh không như bốc-xơ tập võ một
mình. Tôi vặn mình sang bên này sang bên kia. Tôi cố vận chuyển tất cả những
bắp thịt của tôi để chống lại cuộc tấn công thầm lặng của lũ vi trùng nhưng
cuối cùng, tôi đã run lên.
Và cuối cùng tôi phải bảo Thu
chờ tôi đi rẽ vào rừng đốn lấy một chiếc gậy. Tôi rút con dao trong lưng ra,
một con dao găm, cán gỗ có ngấn, đánh vẹc-ni màu nâu, lưỡi dao dầy như lưỡi
búa. Đó là con dao của hợp tác xã xứ xã hội chủ nghĩa rèn, trao cho mỗi con
người đi giải phóng Miền Nam, con dao mà chúng tôi đã nguyền rủa ngay từ khi
đốn cái cành tre đầu tiên làm đũa. Tôi chọn một cái cây nhỏ, ít nhánh và ngay
ngắn trong một bụi của nó. Đó là một thứ cây rất giống cây mật cật của rừng U
Minh nhưng thu nhỏ lại còn độ một phần mười. Tôi tưởng nó mềm lắm chỉ độ vài
dao là hạ được rồi, chẳng ngờ tôi giạng thẳng cánh tay bổ đến hơn mười lăm phút
mà chẳng ăn thua. Đối với một việc nhỏ như vậy còn tính nhầm thay huống gì
những chuyện lớn ví dụ như chuyện vượt Trường Sơn này. Tôi nhìn theo con dao,
khổ quá cái lưỡi của nó dày ù, tôi đã mài mấy lần, hễ nó càng mỏng, đem đốn cây
thì nó lại càng mẽ. Thực tình những người thợ rèn cũng rất đáng thương. Họ đâu
có đủ thép pha vào sắt kia. Nhà máy nấu thép ở Thái Nguyên chưa xây xong. Nghe
đâu người ta có nấu thử một mẻ tốt lắm đạt yêu cầu quốc tế, không thua thép
Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng khổ thay họ chỉ nấu có một mẽ để coi chơi thôi,
chớ không nấu nhiều. Thật là bực mình, cũng như tôi rất bực mình khi thấy trong
những tủ kính mậu dịch, hàng bán thì ít mà hàng mẫu “miễn hỏi giá và không bán”
thì nhiều.
Vâng, thép trong con dao găm
này không đủ làm cho con dáo bén đến độ cần thiết cho người đờì, nói đúng chữ
nghà nghề là con dao non. Cũng như những kẻ đi trên con đường này khi mới xuất
phát thì tưởng mỗi người như một lưỡi gươm linh, chém một nhát là rụng đầu đối
phương, nhưng khi đi được ít chặng thì cái lưỡi gươm đó bỗng nhiên trở thành
non nhão lạ thường, cũng như con dao găm nầy đốn mãi không ngã đến cái cây lớn
hơn ngón tay cái.
Tôi lôi được cái gậy ra đường
thì tay chân rụng rời. Thu biết tôi sốt. Tôi mà đi gậy là chuyện không thường.
Thu hỏi:
- Anh sốt phải không?
Tôi gục đầu giữa hai đầu gối và
không đáp.
Chung quanh tôi, trời đất tối
sầm lại. Đốn một cái cây, đó là cái thước đo sức mạnh khỏe của tôi. Tôi quá tự
tin cái sức khỏe của mình. Trên đường đi tôi luôn luôn nhắc nhở anh em không
nên uống nước suối sống nhưng chính tôi lại làm việc đó một cách vô cùng hồn
nhiên. Tôi ngủ ít khi nằm gọn trong màn vì màn mắc trên võng thì tù túng quá,
tôi luôn luôn thò đầu ra ngoài. Đó là hai cách rước vi trùng sốt rét vào mình
nhanh chóng và nhiều nhất. Vì thế, là người khỏe nhất đoàn, tôi lại là người
ngã ngựa sớm nhất của đoàn.
Bây giờ thì tôi không còn cần
gì hết. Tôi không muốn cử động, không muốn ai động đến tôi. Nếu tôi ví một cách
chính xác thì tôi là một cái bánh tráng nhúng nước treo trước gió. Tôi chỉ muốn
nằm quặp xuống đây gối đầu lên một hòn đá, và hoá đá luôn. Tôi muốn lịm đi rồi
chết hẳn không biết đau đớn gì càng tốt.
Nhưng tôi là đứa cháu của Bác
và Đảng, và con yêu quí của nhân dân Miền Nam, là bạn của Ốt-Trốp-Xơ-Ki nhân
vật anh hùng của Thép Đã Trui,
thì làm sao có tư tuởng lạc hậu như thế được.
- Đi anh, đi – Thu giục tôi.
Tôi cố ngóc cổ dậy và mở mắt
nhìn. Chung quanh tôi như tẩm kí-nin một màu vàng oách. Tôi chống tay lên cái
đầu gối đứng đậy với sự giúp sức của Thu. Thu đã mang lấy ba-lô của nàng, không
để cho tôi mang giúp nữa. Quả tình là bây giờ tôi yếu hơn Thu, và bây giờ tôi
mới biết thế nào là cơn sốt.
Chúng tôi lê chân đi với nhau,
chậm chạp như nhau và đau đớn rên siết như nhau.
- Anh sốt lắm phải không?
- Như có lửa trong máu – tôi
tiếp – nhưng đối với anh thì sốt dễ chịu hơn rét.
Tôi sợ Thu chần chờ bận bịu với
tôi nên tôi bảo:
- Em đi trước đi!
- Em đi với anh chứ.
- Không nên lướng vướng với kẻ
ốm. Thu cứ đi đi.
- Cả đoàn không ai ở lại đây
hết.
- Được rồi, chừng nào tôi tới
thì tôi tới.
Tôi biết Thu là cô gái rất đôn
hậu, ăn ở có tình nghĩa, Thu rất khổ tâm vì Thu không giúp được gì tôi trong
buổi này.
Hôm Thu ngã trặc chân không đi
được thì chính tôi là người đề ra ý kiến đầu tiên khiêng Thu đi. Ý kiến đó được
đề ra, trước tiên trong chi bộ bị phản đối dữ dội nhưng tôi đã cương quyết giữ
ý kiến của tôi bằng nguyên tắc tổ chức, bằng tình cảm và bằng cử chỉ thực tế.
Tôi đã xung phong đi chặt cây đòn đầu tiên và khiêng chặng đầu tiên. Sau đó thì
mọi người dù bất mãn cũng phải kê vai vào đòn khiêng.
Thu thấy tôi đứng dậy và liếc
nhìn tìm chỗ ngã lưng thì Thu sa sầm mặt lại:
- Anh ở lại một mình thì làm
sao?
Tôi cứ lặng lẽ ngồi phệt xuống
đất như một tảng đá bị đứt giây rơi xuống đất.
Thu không nở rời tôi. Nàng hỏi:
- Em còn nước đây anh có uống
không?
Nước ở trên đường Trường Sơn mà
sao không uống. Có bao giờ ai dám mời ai. Đã không mời lại còn giấu và không
bao giờ dám nhận mình còn nước dù nước khua lỏng bỏng trong bi-đông đó. Nước là
máu đối với người, là thuốc bổ đối với cơ thể, ai đi cho máu và đem thuốc bổ
của mình cho người khác bao giờ? Ấy vậy mà Thu cho tôi, cho tôi một cách thật
sự, thật tình và tôi thì không dám nhận.
Tôi nói:
- Anh không khát em ạ!
- Sao lại không khát. Anh đang
sốt, anh cần nước hơn em.
- Bao giờ khát anh sẽ xin…
Thu mở nút bi-đông và ngồi
xuống để kê miệng bi-đông vào miệng tôi. Thu không cởi cái bi-đông ra được vì
khi mang đồ đạc, Thu cũng như mọi người đều mang bi-đông vào trước rồi mới
quàng ruột tượng và các món khác chồng lên. Đó là một sự cố ý, để khỏi bị mất
bi-đông (mất vì rơi rớt, vì bỏ quên hoặc bị ăn cắp) và để mỗi khi nâng bi-đông
lên miệng của chính mình cũng khó khăn và vì thế người ta sẽ ít uống nước.
Thu ngồi xuống một cách khó
khăn vì chân đau nhưng Thu đành chấp nhận một sự hy sinh con con. Thu ngồi trên
một chân và đưa bi-đông vào mồm tôi. Tôi vẫn lắc đầu, tôi thấy cơn khát tan
biến đi mất.
- Cám ơn em!
Rồi tôi bảo:
- Thôi em cứ đi trước đi cho
kịp đoàn (mặc dù tôi biết không thể nào Thu bắt kịp) còn anh thì ngồi tại đây…-
Tôi bi quan đến nỗi muốn nói rằng: nằm lại đây và làm phân bón cho cây Trường
Sơn thêm xanh và đỉnh Trường Sơn thêm cao, cho vinh quang của Bác và Đảng cao
ngất và chói lòa khắp biển Đông. Nhưng tôi tốp lại cái ý nghĩ đó kịp thời và
tôi nói với giọng lạc quan hơn–…anh nằm lại đây đến mai anh sẽ tiếp tục đi, sốt
một cơn có nghĩa lý gì!
Thu càng bận bịu tôi càng giục
càng gắt gỏng và cuối cùng có lẽ Thu nhận ra rằng tôi nói đúng nên Thu đi.
Trên Trường Sơn này bỏ nhau là
chuyện tất nhiên. Người bỏ đi hình như cũng không ân hận gì hết. Còn người bị
bỏ lại cũng không – hoặc không nên – lấy đó làm buồn, vì cái luật chung là ai
cũng là kẻ bị bỏ rời và ai cũng sẽ bỏ rơi người khác, cho nên cuối cùng rồi
không ai ân hận, không ai trách ai.
Vì ở lại làm gì? Thuốc men thì
đứa nào cũng có, còn nấu cơm nấu cháo thì dễ dàng thôi, ai mà chẳng tự làm lấy
được? Nếu rủi có chết thì cứ nằm đấy vài hôm rồi cũng rã tan.
Tôi nhìn Thu chống gậy lê bước
trên con đường nhấp nhô những hòn đá. Tôi nghĩ đến một màn múa tuyệt đẹp trên
sân khấu nhà hát lớn thành phố Hà Nội, cũng đôi chân ấy, nhưng giờ đây nhiều
khi qua suối, tôi được nhìn rõ hơn – đôi chân đẹp nhất Hà Nội.
Rồi Thu khuất hẳn trong mắt
tôi. Tôi gục đầu xuống trên hai đầu gối, môi thấy khô khan. Tôi đã không uống ngụm
nước của Thu mời – tôi cũng không hiểu tại sao – trong lúc tôi đang khát cháy
cả ruột gan, có lẽ vì tự ái và tự trọng.
Tôi định gục đầu ngồi như thế
cho đến bao giời thì đến, nhưng tôi ngồi chưa yên thì tôi đã ngạc nhiên: cái
mặt phẳng mà tôi ngồi tự nãy giờ, ô hay không phải bằng đá núi mà là bằng sắt.
Nhưng tại sao lại có một tảng sắt to thế nằm giữa chỗ này? Câu hỏi đó làm cho
tôi tỉnh dậy và bắt đầu tìm hiểu. Sự tìm hiểu đó kéo dài không quá cái tích tắc
thì tôi đã nhận ra đó là cái đế súng cối. Nó bằng sắt thép thật. Đáng lẽ nó
phải được nâng niu lau chùi và luôn luôn ở những nơi thích đáng nhưng vì nó bị
vứt ở đây cho nên nó mới ra nông nỗi ấy. Nó mất hết chức năng, mất hết giá trị.
Ai đi qua cũng dẫm lên, ai muốn ghé đít ngồi thì cứ ghé. Mấy ai còn nhìn ra nó
như tôi. Mà dù có nhìn ra nó đi nữa thì phỏng tôi đã làm được việc gì đối với
nó? Nó đã rỉ sét. Màu sét làm cho nó tiệp với màu đất nâu. Tôi bỗng thấy tỉnh
người và tôi chua xót nghĩ đến số phận của tôi một cách duy tâm, rằng sự “gặp
gỡ” giữa tôi và cái đế cối này là một điềm gở cho tôi. Tôi vốn là một con người
hay suy nghĩ thì làm sao tôi không suy nghĩ cho được khi tôi ngồi ở đây mà sốt.
Anh binh sĩ nào đã vứt cái đế
cối xuống đây? Cái đế súng cối này đã từ trên vai một binh sĩ nào tuột xuống
đây? Nó không muốn rơi xuống đây nhưng vì người ta vứt nó xuống nên nó phải nằm
ở đây, nhưng binh sĩ đó tên gì? Ở đâu? Anh ta đã vác cái khối sắt này từ bao
lâu và anh ta đã nghĩ gì khi trút cái quả núi con này xuống đây?
Trời ơi! Tôi không hiểu được cái
sức lực nào đã chuyển nỗi cái đế cối 82 ly qua những dãy núi trùng điệp này.
Trong khi tôi chỉ mang có một cái ba-lô đựng toàn của riêng tôi, nghĩa là những
đồ ăn, đồ ngủ mà chỉ tôi xài, không ai có quyền động tới. Trong khi mà tôi tìm
từng những mẫu giấy trong cái vỏ lưỡi lam, và tất cả những đồ vật có sức nặng
bằng cái nút áo trở đi để giảm chính. Trong khi mà tôi chỉ mang giúp cho anh
bạn chí thân của tôi một cái áo mỏng nặng không đến 300 gờ-ram và chỉ trên một
quảng đường ngắn thì anh chiến sĩ này đã vác, ngoài cái ba-lô của anh ra, cả
cái đế cối này, một cái món đồ vật của anh nhưng không phải là của anh, không
phải trên một quảng đường mà là suốt cả con đường.
Đừng ai chê trách anh, đừng ai
buộc tội anh. Tôi xin làm biện hộ sư cho anh tới cùng. Anh chiến sĩ ấy là con
người, anh ta phải biết suy nghĩ, phải có lương tri, vì thế anh ta đã vứt cái
gánh nặng đó đi. Anh vứt nó đi là phải. Bất cứ anh bộ độ con cháu Cụ Hồ nào
trên đường Trường Sơn này vứt súng đi cũng đều không đáng chê trách. Người ở
ngoài cuộc không thể hiểu được con người đã lao lực như thế nào. Tôi chua xót
nghĩ đến cái vai gầy không còn thịt đã bị cái đế cối kia cạp cho tận xương, tới
cái xương sống nhu lưng đê sông Hồng uốn lượn nao núng vào mùa nước đổ, tới hai
hàng xương sườn nỗi vòng lên và suýt bật tung ra mỗi lần chiếc đế cối kia, vì
một cử động nhanh hoặc bất thường, đè nặng xuống vai anh ta hơn, tới hai cái
chân cũng bị những mảnh đá tai mèo róc hết thịt để lộ ra những chiếc xương cong
dưới sức nặng cũng của chiếc đế sắt và mỗi bước đi, những cái khớp xương cứ
khua lụp cụp như những ổ đạn của những chiếc xe lâu ngày không vô mỡ bò, tới
những ngón chân như những cây gậy toè đầu đã để lại máu trên những phiến đá.
Tôi nghĩ đến những bộ phận của con người bình thường nhất từ cái tóc, từ cái
tai cho đến cái răng, cái mũi của anh chiến sĩ, quả tình đáng thương hại. Anh
ta là một người không còn giống người nào trên trái đất kể cả tôi, là đồng bào,
đồng hành, đồng chí của anh. Tôi vụt đứng dậy vì không hiểu sao tôi lại nghĩ
rằng cái đế cối này là một nấm mộ dưới đó là một bộ xương đang rã ra và vong
hồn còn treo lơ lửng đâu đó trên những cành cây trên đầu tôi.
Anh chiến sĩ đã không trút khỏi
cái khối nặng của Bác và Đảng đặt trên lưng anh vì anh đi giải phóng Miền Nam
với cái đế cối kia mà. Anh đã vấp ngã, tôi nghĩ vậy. Mà khi cái đế cối kia sau
khi đã nằm chễm chệ trên lưng anh mấy tháng trời, nó nhân dịp đó mà trả ơn cho
anh bằng cách là đè anh bẹp dí như một chiếc rập nhẹp đề một con chuột. Và
trung thành với chủ nó cho đến giờ phút cuối cùng, cái khối sắt ấy đã lấy thân
ra làm nấm mộ che đậy sương gió cho anh.
Tôi chua chát nghĩ đến nhân vật
anh hùng của truyện dài Paven Coóc-sa-ghin trong “Thép Đã Trui”. Vâng, thép
trong xứ Việt Nam cũng đã trui như thế đấy và con người được gắn thêm cái danh
hiệu vinh quang “đi giải phóng Miền Nam” cũng đã được trui như thế ấy.
—>Chương 2
Bỗng nhiên tôi có cái mặc cảm:
mình cũng nằm lại đây, lấy tấm đế cối này làm mộ bia.
Một người đi ngang qua trước
mặt tôi, ném một câu cụt ngủn:
- Sốt à?
Tôi khẽ gật đầu, mà hình như
tôi chỉ ngồi im, không đáp lại. Tôi nghe cách phát âm thì tôi biết đó là người
Nam Bộ. Tôi thấy hơi đỡ khổ, bớt cô đơn, tôi hơi tỉnh lại. Tôi hỏi vói theo:
- Đồng chí ở tỉnh nào?
- Bến Tre – Anh bạn quay lại
đáp.
- Tôi ở Mỹ Tho
Tôi trả lời vào một câu không
phải là câu hỏi. Tưởng đó là một hòn đá ném xuống vực thẳm không nghe tiếng đáp
lại chẳng ngờ lại có âm vang:
- À, có Mỹ Tho đi tới kia kìa.-
nói xong anh chàng bước lùi lại và vẫy tay kêu to: – Ê, ê!… có đồng hương đây
mau lên – rồi lại hỏi tôi:
- Anh về Ông Cụ phải không?
Tôi gật. Anh bạn lạ mặt kia –
một cán bộ quân đội – vỗ đùi kêu to:
- Sướng quá trời đất ơi!
Anh bộ đội nói tiếp:
- Thằng bạn của tôi kia nó ở Mỹ
Tho. Mười mấy năm nay nó chưa gửi được một lá thư về gia đình cũng không nhận
được một lá thư nào của gia đình. Vợ con nó không biết ra sao. Nghe nói hình
như ả đã lấy chồng rồi. Nó buồn lắm, cố nhiên, vợ đi lấy chồng vui sao được
nhưng buồn một nỗi nữa là cái tin không biết có đúng vậy không. Nếu rõ vậy thì
nó ở ngoài nầy kiếm vợ chẳng khó khăn gì nhưng nếu không phải vậy thì tội
nghiệp cho người đàn bà. Người ta chờ đợi thủy chung té ra mình quất ngựa chuối
đi mất, khổ quá!
Anh bạn mới quen nói tía lia,
vừa nói, vừa bình luận, vừa cười và sầu não với tôi như với một người quen cũ.
Anh khoa tay:
- Anh ngồi đây để tôi chạy đi
kêu. Nó đang nướng mì ăn đằng kia kìa.
Rồi anh ta chạy phốc đi, một
chốc trở lại với một người bạn mới. Anh ta vừa thở vừa nói:
- Nó là Chính Trị Viên tên
Thành, còn tôi Đại Đội Phó cũng xin tự giới thiệu luôn. Tôi tên Cu bí danh Tư
Ớt vì lúc nào ăn cơm cũng phải có ớt. Anh em còn cho tôi cái tên nữa là Cu Ớt
Hiểm- Anh ta nói tự nhiên không có vẻ gì xấu hổ vì cái tên không văn hoa của
anh, rồi anh ta vỗ vai tôi và tiếp – Còn đây là anh bạn sốt người Mỹ Tho đang
trên đường “về nước”
Thành hỏi tôi ngay:
- Mỹ Tho mà quận nào anh?
- Cái Bè – Tôi đáp.
- Tôi ở châu thành gần bến bắc
Rạch Miễu. Anh biết bến bắc Rạch Miễu không?
- Có chớ! Tôi có qua lại vài
lần.
Tôi bỗng nhiên thấy tỉnh hẳn
lại. Những cái tên đất, tên làng của quê hương không có gì tất cả. Đó là những
cái tên bình thường, quá bình thường đi nữa là đằng khác. Nhưng đó là tất cả.
Nhưng ở đây, những bộ mặt xanh
nanh vàng, những cặp môi tím ngắt thốt ra những cái tên ấy, run run như da thịt
người chạm phải làn điện nhẹ, nó run lên, những âm thanh ấy, như những tiếng
đàn bất tuyệt ngân lên và lay động đến tận những nơi sâu xa nhất trong lòng.
Tư Ớt Hiểm cảm thấy bơ vơ khi
thấy tôi và Thành không nhắc đến y. Có lẽ vậy! Cho nên y xen vô, tự giới thiệu:
- Còn tôi ở Bến Tre, quận Giồng
Trôm, anh có biết không? Từ Mỹ Tho xuống Bến Tre đâu có mấy cây số. Qua bắc
Rạch Miểu thế là tới “Bến Tre quốc” rồi!
Tôi đáp:
- Hồi 9 năm tôi có tới đó. Tôi
sống ở Bến Tre cũng lâu lắm. Tôi biết rất nhiều. Có phải Giồng Trôm của anh có
những làng Tân Hào, Thạnh Phú Đôn, Cái Mít không?
- Phải! Phải nhưng Cái Mít
không phải là làng mà chỉ là tên chợ thôi. Chợ Cái Mít nhưng làng Thạnh Phú
Đông! Hồi đó tôi ở bên Tân Hương thường chèo xuồng qua Thạnh Phú Đông. Hai cái
vàm Tân Hương và Cái Mít gần ngang nhau. Sông Hàm Luông rộng lắm nhưng nó có
rất nhiều cồn. Tôi không nhớ hết. Mà không biết mấy chục năm nay cù lão cũ có
bồi ra thêm không . Còn cù lao mới chắc mọc lên bít cả con sông Hàm Luông nối
liền chợ Tân Hương và chợ Cái Mít nữa là khác.
Đôi mắt Tư Ớt mơ màng ngó mông
lên đầu núi, dường như ở sau rặng núi hiểm trở này là quê hương anh, dòng sông
đó, cồn đất đó. Tư Ớt nói liên miên, không để ý đến sự chú ý của những người
chung quanh nữa.
- Bây giờ mà cho tôi đi về thì
tôi đi một mạch tới ngay. Đây đó có bao xa mà về không được, gần hai chục năm
rồi. Ở nhà, cha mẹ chết hết mình cũng không hay!
Tôi nhìn cái khuôn mặt buồn bã
và vàng sậm của Tư Ớt mà đau xót. Tôi biết y hoạt động rừng núi đã lâu ngày
rồi. Nước da của anh xấu quá. Tôi thương Tư Ớt vô cùng, một tình thương bất
ngờ, đột biến, sôi lên.
Tôi hỏi:
- Anh không về à?
- Không được về chớ không phải
không về đồng chí ạ!
- Tại sao không được?
- Vì người ta không cho.
- Nhưng tại sao không cho mới
được chứ ?
- Tại vì người ta nói Đảng Bác
chưa cần, tôi ở đây đã 4 năm rồi.
Tôi ngã ngữa ra. Vậy ra có
những người như Tư Ớt, cứ ở đây mãi không được về xứ.
- Mình phải đấu tranh chứ!- tôi
gắt.
- Đấu thế chó nào được, không
đấu thì còn “lon” còn “gáo” mà mang. Đấu thì đi Hỏa Lò và lon gáo rụng hết.
Quân đội mà, anh có hiểu không? Anh không nghe nói vụ Thiếu Tá Phan Thanh Nhàn,
người Bến Tre, ở Hà Nội à? Cũng vì hăng hái đấu tranh cho quyền lợi anh em đó
mà đi tù. Gần chục năm nay rồi. Vợ ở ngoài đi lấy chồng. Anh em có thương tình
cũng chẳng dám đi thăm, sợ liên lụy. Đó, kết quả của sự đấu tranh là thế đó .
Tư Ớt thở dài thườn thượt làm
cho tôi có cảm giác là y chán chường mọi sự đời đến mức cùng cực, kể cả cái
nhiệm vụ thiêng liêng mà anh được giao cho trên đường dây này.
Thành chờ đợi cái chấm câu của
Tư Ớt tự nãy giờ. Thành nói:
- Thôi được rồi cha nội! Để cái
cồn lá cồn lạp của anh qua một bên đi, để cho tôi nói chuyện với anh bạn một
chút.
Thành ngồi xuống bên tôi xòe
bàn tay vàng ngoách như vừa nhúng trong nước kí-nin ra và nói:
- Tôi sẽ viết cấp tốc một bức
thư với 10 chữ thôi, không nặng đâu đồng chí ạ. Tôi biết các đồng chí đi đến
đây là kiệt sứt rồi, một sợi tóc cũng làm nặng thêm một kí-lô. Đồng chí ạ, đồng
chí có về tới Mỹ Tho và có dịp đi ngang qua xã Đạo Thạnh thì hỏi dùm tên ông
già tôi.. Ờ..ờ… tôi sẽ ghi trong thư kỹ lưỡng, rồi đưa dùm cái thơ nhé. May ra
gia đình tôi nhận được thư mà biết tin tôi còn sống. Còn nếu không tìm được thì
thôi chẳng quan trọng gì. Đời tôi coi như bài cào bù trất rồi, may ra còn kiếm
được hai ba nút, vậy thôi!
Rồi Thành lấy chiếc võng quấn
tròn như đòn bánh tét đeo trên lưng và tháo ra buộc vào hai cái cây bên đường
rồi dìu tôi lên nằm:
- Nghỉ khỏe đi, bây giờ mới 12
giờ 5 phút thôi, còn sớm chán! Mà đoàn của đồng chí đâu?
- Đi trước rồi!
Thành hơi ngần ngại:
- Vậy làm sao đồng chí theo
kịp?
Tôi nói dối để cho Thành yên
tâm mà không nói tía lia nữa. Tôi không muốn nói cũng không muốn nghe. Tôi nằm,
cơ thể hoàn toàn ngơi nghỉ. Tay chân buông thỏng. Tôi có cảm giác là tất cả
những bộ phận trong người tôi không còn ăn khớp với nhau nữa.
Tư Ớt đưa tay sờ trán tôi:
- Cỡ 39, 40 độ!
Tôi bắt đầu run lên. Sốt xong
đến rét. Người ta gọi sốt rét mà lại! Cái rét có hình tượng. Nó như con vật có
hằng vạn bàn chân li ti chạy từ trong máu, trong tủy tôi toả ra khắp châu thân.
Tôi biết rằng đó là cuộc tấn công của những toán vi trùng vào những khối hồng
huyết cầu theo như lời bác sĩ giảng, nhưng tôi không tin như vậy. Tôi cứ tưởng
như tôi bị nhúng nước lạnh, mà cũng không phải nữa, bởi vì giữa trưa nắng mà
đắp chăn vẫn cứ run. Hai tay ôm ngực, hai chân co lên sát bụng, hai hàm răng
nghiến chặt, càng co càng rút thì càng run, răng càng đánh bò cạp.
Hai mắt lại nóng bừng như hai
hòn lửa và không trông thấy rõ nét một vật gì. Tôi chúi đầu vào mép võng như
chỗ tựa để chống lại cơn sốt đang hoành hành.
Tôi nghe loáng thoáng bên tai:
- Tôi nghiệp! Chắc đồng chí mới
sốt lần đầu phải không? Ở đây là như vậy đó. Tụi tôi coi sốt như cơm bữa, “phi
sốt rét bất thành giải phóng” mà! Kí-nin uống như trẻ cơm nguội có ăn
thua gì. Nhiều khi mình sốt mà giống như là giả bộ vậy, đang ngồi chơi bỗng run
lên, đang đi bỗng rã rời tay chân mắc võng không kịp mà nằm. Hì, hì.. trong
người tụi tôi bây giờ vi trùng sốt rét hàng tá bắt nấu canh chua không hết.
Tôi còn nghe ngòi bút của Thành
chạy sột soạt trên mặt giấy, một chốc lại nghe Thành kêu lên gay gắt:
- Nghẹt ngòi rồi! Bực quá! Có
bút đó không Ớt?
- Không! Lâu rồi đâu có viết
cái gì mà bút với mực.
- Mẹ!…Hồng Hà làm giống in
Parker 91 mà dở ẹc. Ngòi viết có hơn tháng đã toè mẹ nó ra rồi.
- Ai bảo mua rồi la?
- Thấy có đứa bảo tốt lắm, nó
mua đem về cho bạn bè Miền Nam.
- Ờ, vậy cũng tốt, nó được cái
tinh thần.
- Tinh thần gì?
- Tinh thần tự túc tự cường. Ta
làm ra ta xài chẳng hơn mua cây bút “Anh Hùng” của Trung Quốc à?
- Chà, chà! Nổi lập trường lên
rồi đó hả?
- Khì..khì! Thôi viết đi, hết
cơn sốt ông bạn đồng hương lại chỗi dậy đi mất bây giờ!
Thành đập đập mép võng hỏi tôi:
- Đỡ chưa đồng chí? Tôi viết
thư rồi đấy! – Thành vừa nói vừa xếp lá thư nhỏ lại bằng một ngón tay và nói –
Chỉ có bây lớn đây thôi, không có nặng gì đâu! Coi như nó là miếng giẻ rách vá
cái áo cho đồng chí vậy thôi. Tôi cũng biết các đồng chí nặng lắm rồi, nhưng
đây là vấn đề tình cảm của mình, tôi không bao giờ quên ơn đồng chí.
Rồi thao thao bất tuyệt, Thành
nói:
- Tôi đi bộ đội hồi năm 1947
lận đấy đồng chí ạ! Đánh trận nào ở Mỹ Tho mà không có tôi, cả cái trận đánh
với tụi Lê Dương mặt gạch ở Gò Công cũng có tôi. Trận đó hai bên đều hết đạn,
đập nhau bằng súng và ôm vật nhau! Cái bọn Lê Dương mặt gạch cái mặt đen thui
mà gạch ngang gạch dọc như mặt thớt vậy, cái đầu thì tóc quăn xoắn lại và cặp
môi đen sì như cặp đỉa trâu bằng bắp tay nằm ngang. Gớm, trông thấy mà rợn người.
Tụi nó đánh gan lắm! Chết bao nhiêu cũng không sợ, cứ nhào vô ào ào ngay họng
đại liên, trung liên. Đồng chí có biết Phan Thanh Nhàn không? Nhàn Râu đó! Ông
ta đấu tranh với bộ Tổng bị tù đó, ai cũng biết. Ban đầu tôi ở tiểu đoàn của
Nhàn Râu, rồi sau này tôi sang Trung Đoàn Đồng Tháp đi lung tung càng ngày xa
không về xứ được. Cuộc cách mạng của mình kỳ cục quá. Mới ban đầu mình tưởng
chừng vài tháng thì xong, vài tháng không xong, rồi lại đến vài năm. Mới đầu
tưởng ra khỏi làng thôi, ai dè đi lên tỉnh rồi đi lên miền, rồi ra Bắc cho tới
bây giờ nghĩ tới ngày về mà vô cùng ngao ngán. – Thành nói chậm hẳn lại – Bây
giờ thì bọn tôi không còn có ngày về. Vì thế cho nên tôi mới nóng lòng mà gửi
bức thư này vậy. Nếu đồng chí có về ngay xã tôi, đến bến đò An Thạnh thì xin
hỏi tên ông Hai Trí, đó là Ông già tôi và đưa thư này dùm tôi, tôi cám ơn lắm.
Cái thằng Nam Bộ ít hay nói
tiếng cám ơn lắm. Nó cám ơn tự trong lòng, nó nhớ ơn và đợi lúc trả ơn. Ở đây
Thành nói cám ơn là chuyện không thường rồi.
Tôi cầm lấy bức thư, đúng ra là
mẩu giấy con không có vẻ trang trọng gì hết, nhưng trong đó gói trọn cả một
trái tim, một nỗi niềm.
Anh ta khóc chăng? Tôi trông
thấy anh ta quay mặt đi, người chính trịnh viên, thằng Thành con Bác Hai Trí ở
Mỹ Tho! Có lẽ anh ta đau lắm khi nói những câu trên với giọng run ngập ngừng.
Bỗng nhiên Thành quay lại, cố gắng nói giọng bình thường:
- Thôi, chúc đồng chí đi cho
tới nơi. Độ hai tháng nữa là cùng, sẽ gặp lại ông già bà già cho ổng bả mừng.
Còn tụi tôi thì… – Thành nghẹn ngào nhưng cố nói cho trọn câu – còn tụi tôi thì
kể như bỏ xác nơi rừng Lào này đi!
Gương mặt tròn trịa của Thành
trông thương hại quá. Đôi má phính không phải vì béo mà vì sỉn, run run theo
những tiếng nghẹn ngào của Thành, hai hàng nước mắt của người chính trị viên quê
ở Mỹ Tho chảy xuống chầm chậm và càng lúc càng nhiều. Thành vụt đưa mu bàn tay
quệt ngang và tiếp:
- Thôi, tạm biệt nhé!
Tôi ấm ức thay cho Thành, cho
Tư Ớt và cho tất cả những người miền Nam không được về quê. Tôi hỏi:
- Nhưng các đồng chí sao không được
về chứ?
Tư Ớt rất uất và sự uất ức đó
dường đã được khơi dậy. Tư Ớt nói:
- Họ bắt chúng tôi cứ ở lẩn
quẩn trên con đường chết tiệt nầy xích ra xích vô, lết tới lết lui, thấy các
anh em “về nước” mà tủi thân vô cùng. Trước đây tụi mình đâu có muốn đi mà vẫn
phải đi, bây giờ mình muốn về thì lại cũng không được về. Không biết cách mạng
Lào trở thành căn đày kiếp đọa gì cho lũ Miền Nam tập kết này, và không biết
tới bao giờ mới dứt?
Tôi cố đứng dậy khỏi chiếc võng
vì tôi đã biết câu chuyện sắp kết thúc.
Đứng dậy xong tôi phải vịn cái
cây ở đầu võng, rồi một cách may rủi, tôi chụp lấy cây gậy của tôi lúc nãy
không biết ai đã dựng sẵn đó cho tôi và tôi chống gậy lảo đảo đi lại ngồi phệt
lên cái đế cối lúc nãy. Bây giờ thì tới phiên Tư Ớt tâm sự, trong lúc Thành
bước lại cuốn cái võng. Tư Ớt nói với cái giọng khàn khàn có lẽ vì khát?
- Tôi nhớ từng gốc cây anh ạ! Ở
gần nhà tôi có cái gốc cây gọi là cây Quéo, từ ngã ba đi vô độ hơn hai chục cây
số. Đi xa ngó về vẫn trông thấy ngọn của nó vượt hẳn lên những rặng vườn. Tôi
đi bộ đội được vài năm thì nghe nói bà con ở nhà đã hạ nó xuống để không còn
chuẩn cho máy bay bỏ bom nữa. Nghe nói đốn nó phiền phức lắm vì nó là loại cây
to bóng mát mà, có Bà ngự, hạ nó xuống đâu phải là chuyện chơi! Thầy pháp phải
cúng, phải cầu, bà con phải đốt nhang khấn vái dữ lắm… Dù tôi đã biết người ta
hạ cái cây Quéo xuống hơn hai mươi năm nay nhưng mỗi khi nhớ nhà, nhìn những
chân vườn xa trước mắt thì tôi lại cứ thấy nó đứng sừng sững trước mặt tôi,
trong tâm tư tôi.
Ở đàng kia có một tốp binh sĩ
vừa lố dạng. Thành ngoắc ngoắc:
- Đem lại đây, tôi tặng cho ông
bạn đồng hương một củ.
Tôi nhìn đoàn người đang khuân
vác lôi thôi lếch thếch đi về phía tôi. Miệng tôi đắng như lúc nãy tôi nuốt còn
sót một viên kí-nin trong cổ họng tôi, tôi cứ khạc nhổ mãi mà không hết đắng.
Bây giờ tôi nghe cái củ của ông bạn đồng hương sắp cho, tôi không biết là củ
gì. Củ khoai, củ mì, củ chụp …củ gì cũng ăn được. Vậy là được lắm rồi. Ở giữa
chốn này dễ gì ai nhận mang cho ai cái gì, dễ gì ai cho ai món gì ăn được, vậy
mà tôi nhận mang cho Thành cả một lá thư. Có lẽ vì vậy mà Thành cho tôi cả một
củ…
Một anh bộ đội mặc áo cổ vuông
ướt đẫm mồ hôi ở phía trước ngực lẫn sau lưng, gánh một sọt khoai mì, củ nào củ
ấy to bằng bắp đùi người lớn (chưa vượt Trường Sơn!). Tôi hết sức ngạc nhiên.
Không hiểu sao ở xứ này lại có thứ mì to của đến thế, một người chỉ vác nổi một
củ mà thôi.
Hồi ở Hà Nội, tôi nghe các vị
trong ban Thống Nhất Trung Ương kể chuyện về rừng mì giải phóng mà mê như một
bài thơ xã hội chủ nghĩa trữ tình. Các vị kể rằng ở dọc Trường Sơn có những rẫy
mì đã trở thành rừng không thể nào ăn hết nổi. Vì theo tinh thần xã hội chủ
nghĩa thì những kẻ ra Bắc vào Nam ngang qua những rẫy xã hội chủ nghĩa đó cứ
tha hồ lấy củ mà ăn, nhưng lấy bao nhiêu phải dọn đất trồng lại bấy nhiêu, lâu
ngày chầy tháng ăn không hết, vả lại vì tinh thần xã hội chủ nghĩa quá cao cho
nên có những đoàn ăn một trồng lại mười, vì thế rẫy mì thay vì eo hẹp lại giờ
mở rộng ra mà … thành rừng.
Nghe thì hay quá, nhưng thực tế
đâu phải như vậy.
Thành trỏ vào sọt mì ngao ngán
nói:
- Tụi tôi sống bằng toàn cái
ngữ này! Thỉnh thoảng mới được cơm trắng. Coi vậy mà ăn nhiều hại lắm! – rồi
Thành bảo tôi – Anh ăn bao nhiêu cứ lấy mà ăn.
Nhưng tôi thấy lòng vẫn chua
xót khi thấy mình vừa ngồi trên cái đế cối. Càng chua xót khi tôi ngồi trên cái
đế cối mà lại trước mặt những nhà chỉ huy quân sự.
- Tại sao anh em mình lại vứt
cái đế cối như thế này anh?
- Nó vác không nổi nữa thì nó
vứt chứ sao !
- Rồi cái nòng làm sao?
- Kê vô đầu gối mà bắn… khì khì…
nói đùa vậy chớ cái nòng nó cũng vứt luôn chớ giữ làm gì?
Thành tiếp:
- Đường dốc đường đèo như thế,
sức đâu mà vác? Cái này là đế 82 nặng không dưới 50 kí-lô. Rồi còn ba-lô gạo
muối nữa lấy sức đâu mà vác? Anh vào một vài chặng nữa rồi mà xem súng đạn nó
vứt đầy hai bên đường. Đi không nổi mà vác sắt khối như thế vác làm sao? Có
trượt chân ngã, nòng súng đè gã xương sườn, trật khớp xương sống. Lính Trường
Sơn! Chậc! Chết còn sướng hơn!
Tôi đánh Pháp 10 năm chưa lúc
nào khổ thế này. Cái khổ nhất là cái mất liên lạc cá nước với đồng bào. Ở ngoài
kia quan điểm nhân dân này nọ nói nghe mát bụng lắm …”dễ mười phân không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong.” nhưng vào đây, lâu nay đồng chí có
gặp người dân nào không? Thế cho nên tụi tôi sửa lại: “dễ 10 phân kêu dần không
lại, nặng trăm lần khiêng bại cả lưng!” Ở rừng riết rồi xem thấy khỉ cũng đẹp,
và tưởng chừng mình cũng hoá thành khỉ nay mai.
Thành bắt tay tôi mãi không
muốn rời. Có lẽ Thành muốn truyền đạt những tình cảm của mình về gia đình qua lời
nói và hơi thở của tôi. Thành muốn tôi kể lại cho cha của Thành về Thành với
những chi tiết đầy đủ nhất trong buổi gặp gỡ hôm nay.
Rồi chúng tôi chia tay.
(Cho đến hôm nay – 7 năm sau
cuộc gặp gỡ đó – tôi mới có dịp viết lại cái ký ức về một chặng đường của
Trường Sơn mà nét mặt vàng vọt cùng với giọng nói của Thành không hề phai nhoà
trong tôi. Tôi viết những dòng này không phải với mực thường mà với thứ mực
khác thường. Tôi mong nếu Thành còn sống và đọc được những dòng này. Tôi đã làm
tất cả những gì tôi đã hứa với Thành năm đó, chỉ có một điều tôi không làm được
là tôi không tìm thấy Ông Hai Trí và cái bến đò Anh Thạnh của Thành. Hơn mười
lăm năm tang thương biến đổi mà lại là một thứ tang thương trong chiến tranh,
nó bất ngờ và tàn nhẫn vô cùng, tôi làm sao tìm thấy được một cụ già trong cái
biển lửa ngút trời của Miền Nam, tôi làm sao tìm thấy cái bến đò nhỏ bé của
Thành với những cái rể cây đã mòn vì những bàn chân bước xuống đò – trong lúc
mà đến cả rừng già còn hoá thành bãi trắng.
Có lẽ giờ đây, nếu sau 7 năm
chịu đựng ở rừng Lào, Thành còn sống sốt thì Thành cứ nghĩ rằng người bạn đồng
hương của Thành đã đi về tới nơi và trao thư của Thành cho gia đình Thành ngày
đêm mong đợi Thành về. Riêng tôi thì vô cùng chua xót khi nghĩ về những người
lính gốc Miền Nam cứ hằng ngày nhìn thấy người ta nối đuôi nhau đi trên đường
về Nam, còn mình thì cứ trấn thủ rừng Lào để “Ủm hộ” cách mạng thế giới đang
triển khai trên xứ Vạn Tượng. Hằng vạn thanh niên Miền Nam rũ xương trên đất
Lào một cách phí uổng, trong lúc gia đình họ không được một mảnh giấy báo tin.
Thành ơi! không biết giờ nầy
anh còn sống hay đã nằm yên trong một cuộc chạm súng vô nghĩa lý nào rồi?
Lá thư của anh tôi vẫn còn giữ
đây, tôi đã học thuộc từng chữ, nhớ cả tuồng chữ và chữ ký của anh. Lâu nay gặp
ai tôi cũng gợi chuyện để may ra tìm thấy cha anh nhưng tôi không hề thấy có
ai, không thấy ai nhắc đến cha anh cả. Gia đình của anh ở đâu làm sao tôi tìm
được? Củ khoai mì to tướng của anh đã bồi cho tôi bao nhiêu sinh tố, nhưng còn
lá thư của anh thì tôi không biết làm sao gởi đi. Tôi mang nó trong người tôi
như một món nợ mà tôi phải trả, như một đau khổ của riêng tôi và của hàng chục
vạn người cũng như anh sống trong rừng Lào không phải “đêm Nam ngày Bắc” mà
“đêm Nam ngày cũng Nam”.)
—>Chương 3
- 3-
Không hiểu bằng cách nào mà tôi
đã theo kịp đoàn tôi trong chiều hôm đó, cố nhiên là tôi đến sau tất cả mọi
người. Tôi nghĩ, nếu người ta mà biết được tôi đã cố gắng đến mức độ nào để tới
đây thì họ sẽ thưởng cho tôi cái mề-đay bự nhất. Bây giờ viết lại cái ý nghĩ có
vẻ mỉa mai này của tôi trên giấy tờ, tôi hãy còn lợm giọng khi nghĩ đến cái
vinh quang mà người ta đã dành cho tôi trước khi tôi cất bước lên đường.
Cơn sốt rét đã lắng xuống nhưng
sự mệt nhọc thì vọt lên cao độ.
Ai cũng lo công việc của mình,
không còn thời giờ để mừng đón tôi, mà cũng lạ thật, tôi đã vất bỏ đi cái thói
xấu công thần một cách dễ dàng. Đến nơi, tôi chỉ mong mắc võng và nằm, yên chí
rằng trong đêm nay mình không cô độc giữa rừng.
Phần lớn anh chị em đang bận
rộn bào chế các món ăn bằng khoai mì, những mẩu khoai mì vụng mà họ đã phải đi
trên một tiếng đồng hồ để mót lấy, trên ruộng rẫy mà bộ đội đã nhổ trụi những
khẩu phần của họ rồi.
Bây giờ thì thiên hạ bận rộn
như ngày có giỗ. Kẻ thì tìm một phiến đá để đập và nghiến mì ra thành bột rồi
nặn thành từng bánh đem nướng trên lửa than. Kẻ thì dồn vào trong ống nứa non
đem đốt như kiểu người thiểu số nấu cơm nếp giữ nguyên hương nguyên chất. Hoặc
kẻ thì vì không đủ sức làm hay vì tính giản dị, cứ đem luộc và ăn ngay.
Lâm đến mắc võng gần bên tôi và
hỏi:
- Muốn ăn cái gì tớ làm cho?
Tôi trỏ tay dưới đít võng. Lâm
nhìn theo và ngạc nhiên kêu lên khi thấy một củ mì quá ngon lành nằm trườn
trườn trên mặt đất.
Tôi nói:
- Cậu muốn làm gì thì làm tùy
thích!
Tính Lâm tỉ mỉ và hay vẽ vời. Lâm
say sưa nhìn củ mì, cầm nó lên và vuốt ve mà nói:
- Ta nấu chè, chén một bữa đi
bạn!
Tôi gắt:
- Làm sao đủ đường mà nấu?
- Mình còn!
- Úy trời đất!
- Ừa, thiệt mà! – Lâm tiếp –
Hồi trước khi đi mình có mua thêm 250 gờ-ram. Đó là nhờ thằng bạn cho phiếu
mình mua cả tháng của nó. Chớ không thì phải chạy đi mua cái phiếu đó giá cũng
em em giá của 250 gờ-ram đường.
Tôi nghe đến chè thì nước miếng
nước mồm tuôn ra không kịp nuốt. Thời buổi này giữa Trường Sơn còn 250 gờ-ram
đường, không khéo bị “ăn cướp” đánh nhà chớ phải chơi đâu. Nhưng tôi lại lắc
đầu:
- Đừng có phí như vậy cậu ạ!
Nhỡ có ốm thì lấy gì!
- Thì cậu ốm rồi đấy, còn chờ
chừng nào nữa? Hay là mình đâm nhuyễn ra vò viên nấu canh nêm mì chính (tức bột
ngọt) rồi ăn cơm cùng với mắm ruốc!
Nói xong Lâm xem như đó là
quyết định cuối cùng và sáng suốt nhất. Lâm hăm hở soạn bếp núc của Lâm, vừa hí
hoáy vừa hỏi thăm tôi hoặc vừa pha trò để dò xem phản ứng của tôi mà đoán sức
khoẻ của tôi.
Còn tôi thì cố gắng ghếch đầu
lên mép võng mà trả lời câu được câu chăng với Lâm. Lâm là thằng bạn rất tốt
đối với tôi. Chúng tôi quen nhau từ thuở bé, và Ông Trời cứ bắt hai đứa phải
gần nhau luôn, không mấy khi xa nhau. Vì thế, gây gỗ, đụng chạm, cự nự nhiều
hơn bất cứ đối với ai. Có lần giận nhau hằng năm, nhưng đó là sự hờn giận của
những người yêu – tan rồi hợp, hợp rồi tan, và cuối cùng lần này hai đứa lại đi
chung trên con đường mà sự vinh quang chúng tôi phải chia nhau gánh đội đến oằn
cả vai, còng cả lưng, tối cả mặt mày.
Lâm vừa thổi lửa vừa nói:
- Mình nghĩ thương cô Oanh quá
cậu ạ!
Tôi lặng thinh nhưng Lâm không
cần sự đáp lại của tôi ở đây. Tôi đã biết thừa cái chuyện của cô Oanh cũng như
chuyện của bao nhiêu cô khác. Nhưng Lâm yêu nhất cái tình nghĩa cô Oanh nên
vướng bận mãi cho đến ngày ra đi.
- Tao mà còn ở lại năm nay
ngoài đó thì nhất định tao lấy con Oanh, không có cách gì khác. Con gái Bắc
ngoan, dễ yêu; con gái Nam hồn nhiên, chân thật. Đằng nào cũng hay cả! Ấy chết,
con Thu nó có ngồi gần đây thì nó nghe.. nó yêu mình mất.
- À, được rồi. Mai họp đoàn em
báo cáo anh phá hoại đoàn kết Nam Bắc nhé! – Thu đang ngồi o bế cái chân đau,
vọt miệng đáp ngay.
- Ừ, cứ báo mạnh vào! Cái chân
sưng mủ kia kìa không lo mà đắp, mà vặt, mà xoa bóp đi… à mà em có cần anh bóp
không nào?
- Cậu bóp thì có mà sưng to
thêm! – Một người nhạy miệng đáp, làm tiếng cười nổi lên họa theo.
Một người khác lại nói xen vào
to hơn:
- Nào, nhà nữ múa sĩ Ngọc Thu
có đồng ý cho võ sĩ Lâm bóp…không?
Anh bạn kéo dài tiếng “bóp” làm
cho tiếng cười lúc nãy lại phát lên, chỗ thì rúc rích, chỗ thì sằng sặc. Có
người đang ăn phun cả cơm ra ngoài.
- Không bóp thì cũng sưng rồi
mà. – Một giọng lè nhè của một ông cụ – Bây giờ coi chừng nó chảy.. nước …
trắng nước vàng ra đó!
- Nó sưng lâu quá rồi mà, để
nguyên nó cũng chảy!
Câu chuyện pha trò cứ kéo dài
mãi, nhưng không làm cho tôi hứng thú chút nào. Tôi loáng thoáng nghe tiếng
cười, nhưng đầu óc tôi mơ đến những chuyện khác thiết thực hơn.
Tôi mơ ước có trước mặt tôi có
một cái quán bán các thứ dưa chuối, chè đậu, bánh dày, bánh giò rất mất vệ sinh
với những đàn ruồi xanh như những đàn phi cơ làm xao động cả buổi trưa.
Làm gì nhiều thế? Tôi chỉ cần
một bà lão bán chè xanh dưới một gốc cây bã đậu rợp mát với những cái chén sứt
mẽ vằn vện những cốt trà cũ, với những cái tủ kính nhỏ đầy ghét cáu và vỡ nát,
bên trong có đựng những chiếc bánh chè lam có rắc một ít đậu phộng và mè rất
cứng, mà bình thường ở ngoài đó không bao giờ tôi nghĩ tới việc phải để mắt
tới.
Hay tôi lại thèm một ít nước
béo cho vào tô phở , chỉ một ít thôi cũng đủ. Tôi như ngửi thấy mùi hương của
những bát phở gà với những miếng mỡ mà tôi ưa thích nhất. Những con gà vàng
ngậy kinh người treo trong những lồng kính. Tôi thèm tất cả, mơ tất cả những gì
có thể cho vào mồm để mà nhai. Đời giản dị chỉ có thế thôi.
Biết bao ý nghĩ trước kia tôi
không hề có nhưng một cơn sốt đổ xuống tôi, mang đến cùng với sức nóng và sức
rét của nó, bao nhiêu là siêu vi trùng trong tư tưởng. Những ước mơ tôi mang
nặng hôm qua bây giờ hoàn toàn phủi sạch.
Nằm ở đây giữa Trường Sơn này
với một cơn sốt dài lê thê hàng chục cây sô đường rừng, tôi chỉ còn nghĩ tới
một điều cụ thể nhất là cái gì để cho vào mồm và nuốt được.
Tôi chỉ cần một khẩu phần cơm
cơ quan ba hào chẳng hạn với cục bột mì sừn sựt với bát ngô sền sệt một thỏi cá
tanh rình bằng ngón tay và vài cọng rau muống dai nhách tua tủa những gốc rễ.
Thiên đường ở đâu? Thiên đường
của người chiến sĩ vượt Trường Sơn là cái khẩu phần đó đó.
Ba lon gạo tối hậu dành để
chống càn buộc thắt ngang trong ruột tượng cũng đã cạn rồi. Có người lượm gạo
mục ở dọc đường của ai nứt ruột tượng đổ ra và giũ ruột tượng của mình lấy nốt
những hạt gạo còn sót, cho tất cả vào canh cho có mùi gạo tí ti, húp cho cứng
gối.
Phiền lòng quá, tủi thân quá!
Đây là chặn đường Kontum có lẽ.
Tôi có cái bản đồ con con có hình nước ta nhưng nó bé nhỏ quá, nó chỉ chiếm hết
lòng bàn tay tôi thôi, cho nên những địa danh của nó cũng không được ghi đầy
đủ. Và không có địa bàn, không có làng, có xứ thổ dân nào, tôi làm sao biết
được tôi đang ở cách xa những người tôi vừa chia tay là bao xa và những người
tôi sắp được bắt tay là bao xa. Chỉ biết rằng tôi đang đón nhận cái phần thưởng
đầu tiên cấp trên gửi tặng tôi là cơn sốt vừa qua cùng với một nồi cháo mì của
một thằng bạn khổ – không có cái gì hơn là tấm lòng để giúp tôi.
Bừng mắt ra, tôi thấy rừng vây
quanh tôi. Hoàn toàn xa lạ. Cái cảm giác đầu tiên của tôi là tôi đang lọt tõm
giữa mênh mông. Và tôi sắp tan ra trong cái mênh mông đó.
Tôi phải mất ít nhất là vài
giây để hiểu những sự việc vừa qua kể từ khi Thu chống cái gậy lê chân đi từng
bước biến dần trước mắt tôi. Cái hình ảnh đầu tiên tôi nhớ ngay về buổi trưa
hôm qua là cái hình ảnh của Thu.
Vì chung quanh tôi không có ai
hết cả ngoài Thu.
Nhưng, thế thôi cũng đủ. Hình
như Trời còn ngó lại cho tôi. Trời không muốn tôi quá cô đơn giữa cái rừng sâu
nầy. Nhưng tôi chỉ hưởng được cái giây phút êm đềm đó trong một thoáng thôi rồi
lại rơi vào cái khổ triền miên, cái khổ đeo đẳng, dằng dặc chặt không đứt, bứt
không rời của Trường Sơn: đó là cái đi, cái đứng, cái ăn, cái ngủ, cái bệnh,
cái tức, cái giận, cái thương, cái ghét … thực là một trăm thứ cái, mà cái nào
cũng kỳ cục, khác thường, nó xoi, nó mói, nó cạo, nó gọt tâm tủy con người.
Giữa chúng tôi, hai đứa còn sót
lại sau đoàn đây, một đứa Nam, một đứa Bắc, đứa đàn ông, đứa đàn bà, một đứa
bệnh, một đứa tật, khác nhau cả, nhưng có điều giống nhau quá là đứa này sầu,
đứa nọ cũng rầu.
Thu ngồi quay lưng ra tôi cho
nên tôi thức mà Thu không biết. Những đốm nắng vàng vọt rời trên những phiến đá
ẩm ướt rêu mốc mà hơi người không làm ấm lại nổi. Tóc Thu hồi còn ở Hà Nội tôi
nhớ là đẹp lắm mà. Tóc con gái là đẹp lắm rồi, dù màu vàng hoe hay màu đen
huyền, dù kẹp ngang vai hay uốn xoăn cũng đẹp, nhưng hôm nay thì tóc Thu không
đẹp nữa rồi. Mắt tôi đâu còn tinh anh để nhìn tóc nàng?
Thu có đôi chân tuyệt đẹp của
một diễn viên múa mà tôi chưa từng trông thấy ở bất cứ ai. Tôi thấy Thu là tôi
đã nhìn đôi gót chân để mong có thể nhìn lên cao hơn ống chân, cao hơn tí nữa,
như có lần tôi đã thấy gần trọn vẹn bộ đùi của Thu khi Thu xăn quần lội qua con
suối.
Bây giờ đây đâu phải là tôi
quên rằng tôi đã có một dịp hay ho như vậy, đâu phải tôi quên rằng người con
gái ngồi trước mặt tôi đó đã có một cặp chân tuyệt mỹ! Nhưng tôi không buồn
nghĩ đến cặp chân ấy nữa.
Người ta không còn thì giờ,
đúng ra là không còn tâm hồn nào để nhìn cái đẹp nữa. Tôi còn phải dành trí
khôn để ước lượng xem phải uống bao nhiêu kí-nin nữa để cắt cơn sốt, xem nếu
tôi đi thì có đi nổi không, xem cây gậy của tôi có nặng so với sức lực của tôi
bây giờ không, nhất là làm thế nào để cùng với cái cô diễn viên múa kia đuổi
kịp theo đoàn v.v.. và v.v…
Và nếu tâm trí tôi có bắt buộc
phải nghĩ tới đôi chân đẹp đó chăng đi nữa thì đôi mắt tôi, chúng cũng từ chối.
Chỉ sau vài hôm đi trên đường
Trường Sơn thì mắt tôi bắt đầu không thấy núi đẹp như trong thơ nữa. Núi ôm ấp mây, núi quàng khăn
tuyết … tất cả những
nét đó hình như vô lý. Mắt tôi cứ hau háu như mắt cú vọ để tìm kiếm một cái đọt
bứa, một cái mục chuối rừng còn sót lại hay một cái quai dép, một mẩu ni-lông
của ai làm rớt dọc đường. Mắt tôi hễ mở ra thì bắt đầu nhìn những hòn đá chơm
chởm gập ghềnh chỗ thấp chỗ cao, nhìn những bộ mặt vàng nẫu, những cặp chân cà
tong cà teo run run khiêng pháo lên dốc.
Tất cả những gì đẹp đẽ cũng
không cần thiết, đúng ra cũng không cần có ở đây.
Và dù là cái đẹp đó là cái
riêng của tôi đi nữa, tôi cũng không cần. Tôi không cần nó, tôi không khát nó,
tôi không thèm nó. Tôi cần, tôi khát, tôi thèm cái khác: ăn! Ăn cái gì thì ăn,
nhưng núi đẹp và cặp chân vũ nữ tuyệt vời kia thì không thay cho món ăn được.
Hình như ánh mặt tôi gọi Thu
cho nên Thu quay lại. Tôi không tỏ vẻ ngạc nhiên về sự ở lại của hai đứa và
cũng không có vẻ vui mừng vì chỉ có hai đứa ở lại mà thôi.
Thu cố nhấc cái chân què đi tới
ngồi phệt xuống bên võng của tôi và thở dài:
- Đoàn đi cả rồi anh!
Tôi nhìn Thu không đáp.
- Khổ quá đi mất!
Tôi cũng không đáp.
- Không biết rồi phải làm sao?
Sự lặng im vẫn kéo dài.
Tôi ngạc nhiên về sự sắt đá của
tôi trước những câu than thở đồng cảnh ngộ của một cô gái. Tôi biết tôi phải
nén lòng vì nếu tôi nói ra thì tôi sẽ nói những lời không đúng đắn về lập
trường, về tình nghĩa, về sự có lý hay vô lý. Nếu tôi nói ra một câu thì những
tiếng đầu tiên phải là những tiếng không có văn hoa, văn hoá.
Nhưng chửi ai, văng tục với ai?
- Anh hết sốt chưa? Thu hỏi.
- Qua cơn rồi em ạ!
- Không biết rồi ngày mai em ra
sao, anh nhỉ?
- Thu chưa bao giờ bị sốt nên
đâu hiểu sốt là thế nào!
Thu ngồi lặng thinh. Bây giờ
thì chỉ còn có hai đứa, hai đứa bé mồ côi, khát sữa bú tay.
Một chốc Thu mới nói lại nguyên
văn câu nói lúc nãy:
- Đoàn đã đi hết rồi anh ạ!
- Anh biết rồi.
Rồi hai đứa lặng thinh.
Tôi cố mở hai mí mắt nặng nề
dày cộm của thằng sốt rét ra mà liếc nhìn chung quanh. Cảnh tượng thật là áo
não, buồn thảm, bi đát, đau thương. Tất cả những chữ na ná như thế trong ngôn
ngữ Việt Nam gom lại cũng không đủ tả cái cảnh chung quanh tôi lúc bấy giờ.
Những cái cọc hôm qua kín những
võng và những tăng, những màn, những cái giàn nhỏ đầy những ba-lô, khăn túi,
những cái bếp thì khói lửa tuy phải che đậy từng tí nhưng vẫn ấm áp tươi vui
với ánh lửa và hương củi lửa. Tôi nghĩ rằng chỉ có những người đi rừng biền
biệt xóm làng như chúng tôi mới hiểu nổi giá trị của lửa.
Hôm qua là cả một không khí
hoạt động bánh trái vui nhộn, nhưng hôm nay đây, họ đã đi, mang theo họ cả
khung trời. Chưa một lần nào tôi thấy vừa cô đơn vừa buồn tủi như hôm nay.
Thu đưa cho tôi hai mẩu giấy.
Tôi không đọc ngay nhưng tôi biết đó là của anh đoàn phó và của Lâm – của Lâm,
mảnh giấy tó hơn…
Chung quanh tôi mấy cái võng
mắc tòng teng mà dưới mắt giao liên là những cái của nợ, vì những người này
thường hay mò vào trạm của họ để căn nhắn, xin xỏ hoặc ỳ ra không chịu đi, tệ
hơn nữa có những người nằm ngủ luôn không dậy, họ phải khiêng đi chôn cho khỏi
thối trạm, có lẽ đó cũng là những người bị rơi rớt trên đường mà đoàn họ gửi
lại núi rừng thiêng này – cũng như lũ chúng tôi đây.
Tôi nhìn xuống cái ga-men của
tôi ngay đầu võng. Tôi không buồn nhặt nó lên. Vì cái kỷ niệm chiều hôm qua còn
hơi ấm giữa tôi và Lâm sẽ làm cho tôi khổ hơn. Cái bánh làm bằng khoai mì, canh
mì nêm bột ngọt… tất cả mâm cổ mà Lâm làm hôm qua, tôi không có thụ hưởng một
tí gì. Cái củ mì to tướng của tôi vẫn còn nguyên đó. Vậy là Lâm chỉ dùng mì
lượm mót của mình mà thôi. Đó là một nghĩa cử mà tôi phải ghi nhớ. Trên con
đường này người ta chơi xấu với nhau từng chút một, nhất là miếng ăn. Miếng ăn
là miếng tồi tàn! Lâm đã để lại cho tôi một tí đường trong số 250 gờ-ram của
anh ta đang mang theo từ Hà Nội. Tôi không giỡ nắp ga-men ra, nhưng tôi vẫn
trông thấy những hạt đường lấp lánh tình bạn. Lâm tốt đến thế đối với tôi vậy
mà Lâm vẫn bỏ tôi mà đi với đoàn.
Bất giác tôi đưa mảnh giấy của
Lâm lên mắt.
“Mình đi nhé! Thế nào cũng
“nằm” lại ở vài trạm trước. Cậu sẽ bắt kịp. Đừng buồn nhé!”
Tôi buông mảnh giấy trên ngực
tôi. Tôi nghe nước mắt ứa ra và từ từ trào ra tràn xuống má! Tôi biết Lâm cũng
buồn, nhưng tôi hiểu nó lắm. Nó cũng không muốn bỏ tôi mà đi nhưng nó phải đi,
và cơn sốt của nó (mà tôi đã thấy trước) bắt nó phải chờ tôi. Rồi lại tới phiên
tôi phải bỏ nó mà đi và phải viết những lời như nó viết cho tôi hôm nay.
Thật tình tôi không thấy đói,
không thấy buồn, không thấy cái gì cả. Tôi đã hoàn toàn biến thành một khối
xương thịt vô tri. Tôi muốn nằm yên rồi chết… nếu không có tiếng the thé của
Thu gọi tôi:
- Anh có ăn cháo không em nấu?
Trời ơi! Cái gương mặt của Thu
bây giờ sao xấu đau xấu đớn thế? Bây giờ tôi trông thấy mà giật mình, không
hiểu tại sao Thu đã xấu ra, hay tròng mắt tôi bị méo mó vì cơn sốt? Đằng nào
thì cũng đáng buồn cả.
Tôi giụi mắt nhìn lại. Thực
tình Thu xấu đi nhiều quá. Đôi mắt sâu và đôi môi tái nhợt cũng đủ làm cho vẻ
đẹp của Thu mất hết sự lộng lẫy ngày xưa rồi. Mà có xưa gì cho lắm? Mới hơn một
tháng đây thôi. Hồi ở nhà trường ai cũng ve vãn tán tỉnh nàng. Còn bây giờ
người ta xa lánh vì đàn bà ở đây không dùng được vào việc gì cả, ngay như sắc
đẹp là cái món ngon lành nhưng ở đâu chứ ở đây thì cũng vô dụng nốt. Mà cũng
may, cái đó không còn có ở đây.
Tôi đáp:
- Anh cũng đang đói, từ trưa
hôm qua tới giờ đâu có cái gì vô bụng.
Thu soạn cái ga-men của tôi ra.
Quả thật Lâm đã để lại cho tôi một nhúm đường cát. Đây là lần thứ hai tôi nhận
của Lâm thức ăn. Lần thứ nhất, lúc đó đi được hơn mươi ngày. Anh chị em còn
sức. Một hôm trạm mời đoàn vào múa hát phục vụ cho giao liên, không rõ anh chị
em được tặng món gì mà khi tan cuộc, Lâm rỉ tai tôi: “Chốc nữa tớ cho cậu món
ăn đặc biệt”… Chiều hôm đó khi tôi sắp ăn cơm, Lâm đến gần bên tôi và thừa lúc
không ai chú ý, Lâm xộc tay vào túi quần nắm ra một nắm rồi chúm lại rót xuống
bàn tay tôi đang xoè ra để nhận lấy.
Tôi chú ý xem là cái gì. Đó chỉ
là những hạt đậu phộng rang với muối. Chỉ có dăm hạt thôi vậy mà Lâm phải rót
đến hai lần. Lần thứ nhất ba hạt, rồi chắc Lâm cảm thấy còn ít quá, Lâm lại hở
mấy ngón tay ra vừa vặn cho hai hạt nữa rơì xuống. Thế cũng đã nhiều, trên
đường này.
Mấy hôm sau đổi được mấy trái
chuối rừng (giống như chuối hột trong Nam, nhưng trái chuối đầy hột chát ngầm
không nuốt được) tôi cũng tuyên bố với Lâm: “Tớ sẽ cho cậu một món đặc biệt”.
Đợi cho ai nấy đều ngủ hết tôi mới mò sang võng Lâm và dúi vào ngực Lâm một trái
chuối rừng.
Bây giờ Lâm cho tôi mấy muỗng
đường cát. Chỉ vậy thôi mà nước mắt tôi ứa ra, tôi không chùi kịp.
Thu nhúm lửa với mấy mụn củi
nứa đêm qua Lâm còn bỏ lại và hơ mớ cháo khoai mì đủ âm ấm rồi sớt ra cái nắp
ga-men trao cho tôi.
Thu nói:
- Bỏ vào một ít đường cho ngọt
để ăn anh nhé, chắc anh đắng miệng lắm.
Tôi nâng chiếc nắp ga-men lên,
ngửi mùi khói bốc từ mớ cháo, tôi biết rằng trong đó đã có đường rồi. Tôi kê
miệng húp một miếng. Quả thật, cháo ngọt. Tôi muốn nuốt vào nhưng không hiểu vì
sao, như bên trong như có một cái gì đang tràn ra, đẩy ngụm cháo phọt ra ngoài,
tủa ra đầy đất.
Thu vội vã đỡ lấy nắp ga-men và
kêu lên:
- Sao vậy anh? Ơ kìa?
Tôi khoác tay ý bảo không có
chuyện gì đâu đừng cuống lên. Tôi biết sức khoẻ của tôi mất đi gần hết sau cơn
sốt dồn dập khởi đầu từ ban trưa, ngưng một chập rồi lại sốt suốt đêm. Cho nên
lúc sáng, đoàn cuốn tăng võng ra đi tôi hãy còn mê man, anh em từ giã tôi không
hay biết gì hết.
Tôi định ngồi hẳn dậy, nhưng
cái xương sống của tôi cứng đơ cứng ngắt như một khúc xương liền không có khớp.
Nhưng tôi quyết không chịu thua, tôi nghếch đầu lên mép võng và lần này đến
phiên cái cổ của tôi không giữ được cái đầu tôi nữa. Tôi gục hẳn xuống, mắt tôi
nhìn mặt đất xoay vần. Tôi nôn, nhưng trong bụng tôi không có gì để mà nôn!
Thu vội vã ôm đầu tôi đặt vào
võng. Bất giác tôi gào lên:
- Đ.m. chúng nó!
Quả tình tôi không thể im lặng
lâu hơn được nữa. Đó là kết quả sự đè nén lâu ngày, kết quả của lòng tin bắt buộc.
Tôi thấy ân hận vì đã bôn ba
hơn ba mươi ngày để đến đây, trên quãng đường không có cột số, cũng không có
tất cả những gì cần thiết tối thiểu cho người đi đường. Nằm giữa chốn đây không
có một tấc sắt trong tay, lấy gì bảo vệ thân sống chống lại cọp hùm rắn rít,
chống lại những tên “bê quay” đã trở thành thổ phỉ còn hung ác tàn nhẫn hơn cả
bọn phỉ mà người ta thường nguyền rủa. (Chữ
“bê quay” này chốc nữa thì tôi sẽ giải thích, dẫn chứng với hằng trăm sự việc
ly kỳ.)
Cha mẹ tôi sinh tôi ra cho tôi
theo cách mạng chín năm chống Pháp rồi cho tôi đi ra Bắc để xây dựng lực lượng
đặng trở về Nam thống nhất đất nước với lòng tin tưởng vô biên, có ngờ đâu tôi
được đối xử như thế này? Tôi không còn nghĩ đến cái điều vinh quang mà người ta
gắn cho tôi lúc tôi sắp ra đi – cái vinh quang chói lọi tưởng chừng bằng tất cả
sự vinh quang của dân tộc ta trong thế kỷ đau thương này góp lại – nhưng lạy
Chúa, con lạy Đức Mẹ nhân lành, nếu có thể, con xin quỳ gối mà trả lại tất cả
cho người đã ban phát cho con, hoặc con xin lấy nó ra làm hiện vật để đánh đổi
một sự nhỏ hơn nó gấp vạn lần, đó là tránh cho con cơn sốt sắp tới đây mà con
cảm thấy nó đang lù lù đi tới.
Bây giờ tôi mới biết sốt rét
rừng, mới hiểu tại sao người Pháp có đồn điền cao su trên rừng luôn luôn bao
lưới tất cả các cửa ra vào, tôi hiểu rồi, hiểu rồi, hiểu bằng chính sự chịu
đựng của thân xác tôi.
Trời ơi! sốt gì mà sốt vậy! Chỉ
một cơn sốt thôi mà tôi cảm thấy tôi không còn cái gì nguyên vẹn trong người
cả, từ lá phổi buồng tim, bộ óc cho đến những khớp xương, làn da và đến từng lỗ
chân lông một. Tất cả đều hở ra, ọc ạch, xiêu vẹo.
Trời đất ơi! sốt gì mà sốt thế!
Chỉ một cơn sốt thôi tôi đã nhìn trời ra màu xám ngoẹt. Từ vui đến buồn, từ
buồn đến bi lụy. Tôi bây giờ đang gục xuống dưới cái lưỡi búa bi lụy của chính
mình. Tôi chỉ còn nghĩ một điều: hận.
Tại sao người ta ném một cán bộ
hai mươi năm chiến đấu, mười lăm tuổi đảng vào khu rừng này mà không cho một
bước rút lui phòng thủ, không cho một thứ vũ khí trong tay? Con người là vốn
quí nhất, Lê Nin hay Mác đã nói vậy, và Đảng Lao Động cũng lập lại câu đó bất
cứ ở đâu.
Thì vỡ lẽ ra ở trên con đường
Trường Sơn này cái vốn đó được đem ra xài với sự trân trọng nhất. Như hiện giờ
nầy đây, như cái thằng tôi hiện giờ đang nằm đây này!
Mờ mờ trước mắt tôi, Thu vẫn
ngồi ủ rủ, không rõ Thu nghĩ gì. Tội nghiệp! Cô nàng chắc hẳn là nhớ Hà Nội
lắm. Gái Hà Nội mà! Xa Hà Hội một ngày đã thấy mất đi một tí gì trong người
rồi, một tí duyên dáng, một tí lẳng lơ, một cái ý thơ mộng trữ tình do phong
cảnh, do sinh khí, do cái đất ngàn năm văn vật gây nên, hiến dâng và thấm vào
mà không người con gái Hà Nội nào không có, và không một người con gái nào có.
Thu như con cá nước ngọt bị ném
ra biển.
Tôi không nhìn cũng biết cái
chân Thu như thế nào rồi. Cái chân ngọc ngà, xoay bật như lò xo trên sân khấu
phẳng như mặt hồ Gươm và mịn như nhung. Thu hãnh diện vì cái đẹp của đôi chân,
cái tài ba của chúng nhưng bây giờ đây Thu lại nhìn nó như một tai vạ vô cùng.
Đây! Thu cũng chính là cái “vốn quí” được sử dụng vô cùng trân trọng đấy!
—>Chương 4
- 4 -
Những người nằm rải rác chung
quanh tôi im lìm. Vài tiếng khua ga-men, vài tiếng ho húng hắng, không ai nói
chuyện vói ai, tôi cũng không muốn tìm hiểu họ. Rồi tôi lại thiếp đi trong cơn
mê sảng khác.
Khi tôi bừng mắt ra lần thứ hai
thì tôi không còn trông thấy ai chung quanh tôi nữa. Đột nhiên tôi nhớ tới Thu,
nhớ một cách ghê gớm mà tôi không ngờ tới. Khi có Thu ở bên cạnh tôi không chú
ý gì cả, đôi khi còn cau có và bực mình vì sự rên siết bất mãn của Thu, tưởng
chừng như không có Thu bên cạnh tôi thì sung sướng lắm. Chẳng dè vắng Thu thì
tôi thấy thiếu thốn quá đổi. Nhưng vì không thể đi đâu để tìm Thu và cũng không
còn sức há mồm ra mà gọi một tiếng to.
Bỗng nghe có tiếng xì xào ở
ngay đầu võng của tôi. Tôi cố lấy hết sự sáng suốt để xem ai đang nói chuyện.
Một người nói:
- Trạm mình đâu có thuốc gì
ngoài kí-nin. Đây là cái ải địa đầu do đại tướng Đòn Xóc và Thương Hàn chống
giữ mà lại! Ai qua ải mà không khỏi nộp thuế chứ?
Một người khác chép miệng:
- Chịp! Bỏ thì thương mà vương
thì tội .. cho mình. Mình lo cho mình còn không nỗi mà định cõng khiêng ai?
- Cái trạm mình là cái trạm “ó
đâm”. Cứ lâu lâu lại phải chôn một cái xác vô thừa nhận.
Hình như có một người hút thuốc
cho nên tôi nghe vài câu lại ngưng một chốc. Câu chuyện lại tiếp:
- Mới cách vài hôm đây mình
khiêng thằng y sĩ ăn vỏ khoai mì chết thì hôm nay lại có thằng này.
- Thằng này là thằng nào? –
người kia hỏi.
- Thằng nằm trên võng đây chớ
còn thằng nào nữa? Thằng này chắc chết quá! Tôi sờ trán nó lúc nãy thấy nó sốt
ít nhất là 40 độ, mê man nói sảng cái gì lung tung.
- Ở đàng kia cũng có một thằng
nằm liệt, không ai cơm cháo hết. Đoàn điếc gì mà bỏ đồng đội vậy!
- Thằng này có một con nhỏ ở
lại nuôi.
- Nuôi cái con khỉ! Con nhỏ văn
công trặc chân ở lại đó. Mầy có nuôi rước về mà nuôi! Mẹ kiếp, ở giữa chốn này
mà được một con như vậy mày hỉ? Chịp! Chịp!
Hai đứa nó cười hô hố với nhau
một chập rồi lại tiếp tục:
- Thằng này chắc ác tính quá!
- Không hiểu tại sao ở đây hễ
sốt là hết phân nửa bị ác tính.
- Chịp! Không biết gia đình nó
ở đâu.
Rồi thôi, im bặt. Chúng nó biến
mất, bỏ tôi nằm lại một mình với câu chuyện của chúng còn vang lên trong tâm
trí tôi.
Tôi bình tĩnh vô cùng, bình
tĩnh tới mức độ tôi không còn hiểu tại sao tôi lại bình tĩnh đến thế nữa. Bình
tĩnh để mà đối chiếu cái bản thân của mình với sự nhận xét của hai thằng kia.
Tôi biết tôi chưa chết, khó chết nhưng tình trạng rất nguy kịch. Tôi cũng không
muốn nói điều đó cho Thu biết. Để chứng minh một cách hùng hồn là tôi không thể
nào chết được và để cho Thu không cảm thấy tôi đã trở thành gánh nặng cho Thu,
tôi đưa tay nắm mép võng và cố cất mình lên. Tôi đã ngồi dậy được.
Một cách nặng nhọc, tôi giăng
hai tay ra nắm hai đầu võng, cái võng lắc lư làm cho tôi thấy vùng đất trước
mặt tôi cũng nghiêng ngữa. Tôi nhắm mắt lại để định thần và cố giữ thăng bằng
trên chiếc võng.
Đấy, tôi có làm sao đâu. Tôi
vẫn ngồi võng chơi đây, mắt tôi vẫn nhìn chung quanh mọi người và cảnh vật. Đầu
óc tôi còn phản ảnh mọi hoạt động bên ngoài. A ha! như vậy là tôi không có việc
gì cả. Đồ láo! Tôi đâm ra ghét cay ghét đắng hai thằng vô loại vừa rồi. Chúng
chỉ ném ra mấy câu vô trách nhiệm chơi rồi bỏ đi không hề quan tâm đến một kẻ
mà chúng cho rằng chắc chết.
Trên rừng này người ta sống
chung với những giống vật bốn chân, có lẽ vì thế người ta cũng mất đi quá nhiều
nhân tính.
Tôi muốn chứng minh một mức cao
hơn nữa rằng tôi không thể chết. Tôi từ từ thò một cái chân xuống đất đặt bàn
chân vào chiếc dép đã bị nhiều lá vàng và bùn đất phủ lên. Tôi nhìn theo bàn
chân tôi theo cái cử động đó. Tôi nhìn rõ bàn chân, nó nối liền với ống chân
tôi bởi cái cổ chân, trên cái cổ chân là ống chân rồi đầu gối, rồi bắp đùi. Tất
cả những bộ phận đó được gắn liền vào người tôi bằng cả một hệ thống máu thịt,
đúng là cái chân tôi. Vậy bàn chân vừa đặt trên chiếc dép đây cũng là bàn chân
của chính tôi chứ đâu phải là bàn chân nào khác. Vậy mà trời ơi, tôi cứ nghĩ là
bàn chân của ai chứ không phải là bàn chân của tôi.
ó không giống bàn chân của tôi
hôm qua tí nào. Nó gầy khô, nó vừa xanh vừa vàng. Nó đúng là bàn chân của người
chết. Nhất là khi tôi đặt bàn chân xuống chiếc dép thì nó không truyền lấy một
tí cảm giác nào lên óc tôi.
Tôi vụt nghĩ: tôi đang chết,
bắt đầu từ bàn chân?
Và để chứng minh rằng sự thật
không phải như vậy tôi lại thọt nốt bàn chân kia vào dép. Quả thật, tôi không
có sự hiểu biết gì qua sự đụng chạm của bàn chân vào dép.
Bực mình, tôi đứng phắt dậy để
đi, để đi thật nhanh, để đi lại lều của Thu và để làm mọi việc khác với hai bàn
chân, hai bàn tay của tôi. Hai cái bàn chân tôi đâu có nghe theo ý muốn của
tôi. Chúng cứ cứng đờ ra như cặp chân gỗ, tôi đã ngã quỵ xuống ngay bên võng
nhu một cái áo rũ.
Mồm tôi lẩm nhẩm như lời trối
trăn sau cùng:
- Đ.m. chúng nó!
Tất cả mọi hệ thống thần kinh
tôi đều tê liệt hoàn toàn, nhưng trí óc của tôi hãy còn một đốm ánh sáng bằng
đầu cây kim để tôi ý thức rõ rệt rằng tôi nói câu đó – không một tí gì vì mê
sảng và bây giờ đây dù cảnh rừng núi đối với tôi đã lùi về dĩ vãng quá xa vời,
nhưng tôi vẫn còn nghe lại câu đó với nét mặt của một kẻ hấp hối của tôi lúc
bấy giờ.
Tôi biết rằng tôi đang tha
thiết muốn sống, mong ước được sống. Tôi sợ tất cả những gì gợi cho tôi cái
chết, nhất là cái gì làm cho tôi nhớ tới những cái chết mà tôi trông thấy trên
đường này. Ấy vậy mà có những người lại muốn chết, lại tự hủy hoại thân thể họ
một cách hết sức tàn nhẫn và ý thức hẳn hoi.
Tôi đã chứng kiến một việc như
vậy ở trạm vừa qua.
Số là hôm đó đường dây bị kẹt,
khách không đi được cho nên anh giao liên đưa cả đoàn vào một cái khe suối để
cho chúng tôi tạm trú.
hiều người thuộc địa dư bảo
rằng đây là vùng Ba Na, Ba Ná gì đó, mà cũng không biết đúng hay không đúng.
Chỉ biết rằng hằng trăm con người bị nhét vào trong một cái khe suối mà hai bờ
suối dốc đứng lên, cây cối rậm rì, không thể nào cư trú được. Cho nên người ta
chỉ treo võng ven bờ suối. Nội cái chuyện đại tiện không thôi cũng gây thành
hằng trăm vụ cãi nhau hàng ngày. Rồi thì chuyện tát suối bắt cá, chuyện lấy
súng bắn cá, chuyện đàn bà con gái tắm rửa, giặt quần áo trên dòng… Sự phức tạp
xà ngầu không kể xiết.
Trong cái bối cảnh như vậy thì
tôi lại gặp một anh thanh niên chán đời đến mức độ kinh khủng. Ban đầu tôi cũng
không rõ chàng ta đang sống trong tâm trạng đó.
Anh ta nằm trên một phiến đá to
bằng mặt bàn, chung quanh cắm những cành cây đã héo. Bên cạnh anh ta là một
khẩu AK mà nòng súng đã rỉ sét vàng oách. Người và của trông có vẻ xa lạ như
không hề có một sự liên quan mật thiết nào với nhau. Tôi vừa đi qua khỏi anh
ta, thì có người gọi tôi tới và nói ngay:
- Đồng chí có tài gì, giác ngộ
dùm anh ấy với!
- Giác ngộ gì? – Tôi hỏi.
Anh bạn nói với tôi:
- Đồng chí vừa trông thấy cái
anh chàng nằm trên phiến đá đó phải không? Anh ta đang tự tử đấy!
Tôi hỏi:
- Tự tử gì? Nằm ngủ ngon lành
như thế mà?
Anh bạn lại giải thích tiếp:
- Không rõ anh ta ở đơn vị nào,
mà khi tôi vô đây đã trông thấy anh ta nằm ở đấy rồi. Anh ta đã đổi hết tất cả
mùng, chăn, vải bạt, dép.. tất cả cái gì đổi được anh ta đều đem ra đổi lấy
thức ăn. Không tin đồng chí lại xem cái ba-lô của anh ta xem. Không còn món gì
trong đó. Vừa rồi có người kể lại cho tôi nghe rằng anh ta vô xóm người thiểu
số ở chung với họ cả tháng trời. Chỉ có cây súng không đổi được nên mới còn đó
thôi. Anh ta tự vận bằng cách cứ ngủ trần như vậy cho muỗi đòn xóc cắn cho sốt
rét.
Tôi rùng mình. Trời đất! Tự tử
thiếu chi cách mà chơi cái trò đó. Thiệt là anh chàng này quá bất công với cái
thể xác của chàng ta.
Cho muỗi đòn xóc cắn thì sẽ sốt
rét. Đó là điều không thể khác đi được. Ở trong cái khe suối này, không khí dày
đặc thán khí như trong một cái hang hoang chưa ai đến. Đá xám xịt, cũng có vẻ
mục ra như gỗ mục. Đây là cái ổ sốt rét và thương hàn. Có người vừa sốt vừa bị
thương hàn một lúc. Chỉ cần vài chú đòn xóc chui vào màn là mình đủ rước lấy
cơn sốt rồi. Bây giờ nhắc lại chuyện muỗi đòn xóc chích, tôi hãy còn rùng mình.
Anh bạn không quen bảo tôi:
- Đồng chí, tôi coi đồng chí có
vẻ chính trị lắm. Đồng chí hãy đến tìm lời khuyên dứt cho anh kia bỏ bớt cái tư
tưởng bi quan đi. Đến đây đã được một phần đường rồi, hãy ráng chút nữa. Nếu
không chịu đi thì xin dừng lại nghỉ, tội gì lại đày đọa tấm thân cha sanh mẹ đẻ
của mình?
Tôi đã từng thấy những bộ xương
rủ trong hốc núi, những cái xác nằm nguyên trên võng có mắc màn, kiến bu đen
hai con mắt nhưng chưa thấy anh chàng nào tìm cái chết kỳ lạ như vậy. Nghe anh
bạn nói xong tôi bèn quay trở lại, đến ngay bên phiến đá, tôi ngồi ngay bên con
người kỳ cục kia.
Tôi mở đầu bằng câu nói xã
giao:
- Này! Anh bạn người Hà Nội
phải không? Xa Hà Nội từ tháng nào? Tôi cũng người Hà Nội đây! Dậy nói chuyện
chơi.
ghe có người đến quấy rầy, anh
thanh niên mở mắt ra một cách nặng nhọc và nhìn tôi, nhưng chỉ nhìn tôi một
thoáng rồi nhắm lại ngay dường như sự có mặt của tôi bên cạnh anh ta là thừa,
là vô lý.
Tôi nắm chân anh ta và lắc
mạnh:
- Dậy chơi mà! Đi, dậy chơi!
Ban ngày mà ngủ, sốt chết!
Anh thanh niên buộc lòng phải
ngồi dậy. Đầu tóc ủ rủ, mặt mũi hốc hác. Anh ta khẽ lắc đầu, tỏ vẻ chán nản đến
cực độ.
Tôi vào đề ngay:
- Tôi đã nghe anh em chung
quanh đây kể về anh rõ ràng. Tôi cũng vô Nam chiến đấu như anh, cho nên tôi xin
khuyên anh không nên làm như thế, thiệt thân mà còn ảnh hưởng xấu cho đơn vị.
Anh thanh niên vẫn không nhìn
tôi và lại lắc đầu. Tôi lại cố thuyết phục anh ta với niềm tin rằng lời lẽ hay
ho của mình sẽ dựng anh thanh niên trở đậy, sống như mọi người. Tôi triết lý
cuộc sống, lấy kinh nghiệm bản thân, lấy thực tế trên đường dây và lấy cả lý
tưởng cao đẹp của thanh niên ra mà tương vào tai anh thanh niên. Tôi nói rất
dài, rất là dài. Có thể mất cả tiếng đồng hồ.
Thấy anh ta ngồi lặng thinh,
tôi cho rằng anh thanh niên đã thấm bài. Mà thật, đang ngồi lặng lẽ như tượng
đá, bỗng anh ta đứng phắt dậy xốc ba-lô lên vai và cầm lấy súng.
Tôi nói tiếp một cách hăng hái:
- Tôi có quen trong trạm, nếu
anh có mất hết đồ đạc thì tôi đưa anh vô đó, người ta sẽ cấp lớp mới cho anh.
Rồi thì anh trở về đơn vị với anh em.
ói xong, tôi lôi tay anh thanh
niên cùng đi.
Tự nãy giờ anh thanh niên không
nói một tiếng nào. Dọc đường tôi vẫn thuyết phục anh ta bằng đủ thứ lý luận.
Nom anh cũng có vẻ xiêu lòng.
Khi hai đứa tôi đi qua mặt
những người nằm bên bờ suối thì ai nấy đều nhìn tôi với những cặp mắt thán phục.
Tôi vô cùng sung sướng vì đã làm được một việc không ai làm nổi. Tôi thấy đau
đớn thật sự. Vì sao anh thanh niên này đi tìm cái chết vô lý?
Đến chỗ rẽ, tôi bảo:
- Anh đi theo con đường này độ
30 phút sẽ đến trạm. Anh trình bày hoàn cảnh của anh rồi sẽ được cấp phát. Nhé!
Anh nên nghe lời tôi.
Anh thanh niên cũng không nói
rằng mà cứ lầm lủi đi theo ngã tôi chỉ. Tôi đứng nhìn theo. Thật là thối cả
ruột gan. Cái ba-lô lép kẹp dán sát vào lưng anh ta, cái hộp lon treo ở phía
sau bằng một sợi dây kẽm, có lẽ anh dùng để nấu cơm, cứ mỗi bước đi của anh, nó
lại đập vào ba-lô đánh cạch một tiếng làm như một thứ nhạc điệu mỉa mai.
Độ nửa giờ sau, khi xong việc
tôi trở lại, đi ngang qua đường cũ thì mọi người cười rần lên. Tôi dừng lại và
nói một cách tự hào:
- Đó! Các đồng chí có thấy
không? Tôi dựng anh ta dậy rồi đó!
- Ừ! Đồng chí công tác chính
trị tài thật!
- Từ Hà Nội vô Vĩnh Linh anh ta
nhảy tàu 3 lần, đều bị bắt lại hết đó.
Mỗi người nói một câu, nhưng nụ
cười của họ có vẻ bí hiểm trêu chọc chứ không tán thưởng việc làm của tôi vừa
qua.
Quả thật, khi tôi trở lại phiến
đá, thì hỡi ôi, giữa những cành cây khô héo một thân hình héo khô không kém nằm
dài đểnh ra đấy với tất cả sự chán chường, bất chấp những cặp mắt của người qua
kẻ lại.
Tôi hơi giận, tôi ngồi xuống và
nói:
- Tôi đã bảo, sao anh không
nghe lời tôi vậy hả anh bạn?
Anh thanh niên lập tức ngồi dậy
và nói năng sốt sắn chứ không đến nỗi tệ như lúc nãy. Anh ta nói với tôi những
lời tâm sự của một người bạn:
- Tôi thú thật với anh là tôi
rất cám ơn anh. Tôi biết anh rất thương tôi. Nhưng tôi đã quyết định rồi, tôi
quyết định hy sinh tôi. Tôi biết làm như vậy là bậy bạ, nhưng tôi không muốn
cái gì hết, ngoài cái chết. Tôi muốn xem cái chết từ từ đến với tôi, vuốt ve
tôi hoặc nhai tôi ngấu nghiến. Tôi bây giờ là một tế bào chết của cuộc cách
mạng này. Anh có xem phim “Tiểu Thư Mary” của Liên Xô không? Pê-sô-rin xem cái
chết như một sự tất nhiên “như một cổ xe song mã đến rước mình sau buổi dạ
hội chán ngán…” Ở đây tôi
cũng muốn một sự gì giống giống như vậy…
Anh thanh niên nói tiếp:
- Tôi xin lỗi anh vì lúc nãy
tôi đã lừa anh. Tôi nói thật, tất cả những lời anh nói với tôi, lúc đầu tôi đã
đều nghĩ tới cả, nhưng tôi ngấy lắm rồi cho nên, để màng tai tôi khỏi bị những
lời nói như hòn sỏi rơi vào làm nhức nhối, tôi vờ nghe nghe lời anh, một là cho
anh vui lòng, hai là tôi khỏi phải nghe theo.
Tôi không còn nói thêm câu gì
nữa. Tôi đành chịu thua trước sự quyết định quá vững chắc của anh thanh niên.
Đúng là hết chỗ nói.
Từ đó về sau tôi không gặp lại
anh thanh niên đó nữa.
—>Chương 5
-5-
Bây giờ là tháng năm, con én ở
vùng rừng núi nầy không thấy đưa thoi dệt mộng cho ai cả bởi vì màu trời thâm
thấp chì chì như cái bát xám ngắt úp lên trên đầu chúng tôi, lúc nào cũng cho
chúng tôi cái cảm giác là trời sắp tuôn xuống những trận mưa tràn trề ngập lụt.
Cơn sốt vẫn kéo dài. Lỗ chân
lông của tôi hở ra hút nước vào làm cho thân thể tôi giống như một cục cơm mắc
mưa vậy. Tôi cũng không còn biết so sánh thân thể tôi với cái gì cho đúng. Tôi
chỉ cảm thấy nó sắp rả ra từng mảng một.
Như vậy là tôi ngã sốt vào
những ngày cuối xuân 1966, một cái năm còn đầy những dư âm của các trận Bình
Giả, Đồng Xoài, Pleime… , cái năm đầy sự kiện lịch sử của nước ta, vào những
ngày tôi hy vọng sẽ được nhìn thấy lại quê hương và gia đình tôi trên mặt đất.
Cơn sốt đang hoành hoành tôi vô
kể. Trong tôi mùa xuân đang chống lại cơn sốt, còn cơn sốt thì muốn vươn tới
tràn ngập mùa xuân. Cuộc vật lộn của những “kẻ ngoại lai” đó làm cho tôi rã rời
tứ chi.
Đêm qua tôi nằm giữa mưa. Các
bạn ơi, ai đã đi rừng đi núi, hãy cùng tôi nhớ lại những đêm mưa rừng. Chao ơi!
Mưa gì mưa thế, mưa nặng hạt, mưa mau, mưa dai dẳng, mưa mịt mùng. Giữa một cái
trời mưa như vậy mà con người nằm im chịu dưới một cái tăng bốn bề gió táp. Mưa
tạt hết hướng nầy đến hướng khác. Có bao giờ giọt mưa rơi thẳng góc xuống nóc
tăng cho mình nhờ. Bao giờ nó cũng rơi xiên, rơi xéo lọt vào màn, vào võng
mình. Cho nên tấm tăng căng trên đầu mình cũng chỉ là một mái nhà tượng trưng,
một thứ vinh quang cụ thể của cấp trên ban cho mình mà dù muốn dù không mình
cũng phải hưởng (!).
May sao tôi còn một người bạn,
ngoài Thu. Người nầy cũng nằm một võng với tôi, không nói những lời tâm sự mà
những câu lập trường, những câu hứa hẹn chiến thắng ngày mai.
Thật khó mà tưởng tượng được
rằng tôi đã trải qua những cơn mưa như vậy. Mưa vây kín cả người tôi rớt vào
ngực và mặt tôi những giọt băng giá và vào tâm tư tôi những đau buồn vô hạn.
Cây trên rừng bắt đầu gãy đổ rắc rắc ầm ầm quanh tôi không ngớt. Tôi lại bị cái
tai nạn trời giáng đó đe dọa. Tôi phải dựng cả cái thính giác tôi dậy để lắng
nghe để đối phó hoặc để trốn thoát nếu tôi cảm thấy trời giáng xuống cái con
người bất hạnh của tôi.
Tôi nhìn ra trời. Thấy gì đâu,
một màu đen dày đặc như một bức tường sơn hắc ín dựng ngay trước mũi tôi. Suối
bắt đầu tràn nước đổ ầm ầm dưới chân tôi. Tôi không trông thấy nhưng tôi biết ở
trên tảng đá mà anh em thường tới đó múc nước hoặc giặt giũ, nước đang cuộn lên
trắng xoá.
Tôi thấy tôi bé lại như một hạt
mưa rơi xuống từ vô tận, vỡ ra và trôi theo cái dòng nước sôi ấy. Và đời tôi
đâu còn biết bám tựa vào đâu nữa.
Người bạn của tôi như muốn uốn
nắn lập trường tư tưởng của tôi đã không ngớt nói với tôi: “Các đồng chí là
những người yêu quí của Miền Nam, đi giải phóng Miền Nam khỏi sự áp bức bốc lột
của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng là chính quyền Saigon. Các đồng chí
mang trên vai sứ mạng vĩ đại của dân tộc. Chiến thắng đã ló dạng kia rồi!”
Từ lâu tôi không còn thích nghe
những lời na ná như vậy nữa. Tôi cũng không còn suy nghĩ theo cái Kim Chỉ Nam
đó nữa. Tôi đã nghĩ theo cái sự thông minh mà cha mẹ tôi đã cho tôi, chớ không
phải là kẻ nào khác, dù kẻ đó nó là ai đi nữa.
Người bạn này, tôi mang theo
cũng là một sự bất đắc dĩ, bởi vì không ai muốn đeo trên lưng, vác y trên vai,
hoặc đèo y bên hông mình nữa. Tất cả đều chán chê y cho nên y mới còn ở lại đây
mà làm bạn với thằng bất đắc chí này.
Nói vậy nhưng cũng có nhiều lúc
y cho tôi những lời an ủi, những tiếng tơ lòng khá êm dịu. Chính vì thế, chính
vì có những khi y nói khác hẳn tiếng nói của Đảng mà tôi còn giữ y lại bên
người tôi cho đến ngày hôm nay.
Hay tôi cứ nói quách ra rằng đó
là cái ra-đi-ô “ết-tăng-đa” mà nhà trường đã phát cho chúng tôi trước khi lên
đường. Một cái ra-đi-ô trăng-si-to như vậy ở Hà Nội đâu có phải dễ kiếm. Ít ra
anh phải đi ngoại quốc và với mọi sự khéo léo luồn lọt thì anh mới mang nó nhập
nội miền Bắc được.
Ấy vậy mà nằm trong tay tôi giờ
đây, chưa chắc tôi sẽ giữ nó đến ngày mai. Cái bộ pin Văn Điển trong ruột nó
hầu như đã hết điện, cũng như những con người đi tới đây thì hết sinh lực vậy.
Hai tiếng Văn Điển đến với tôi
trong lúc này thật là điều không hay ho chút nào. Bởi nó gợi lên cho tôi cái
tên của một bãi tha ma: nghĩa trang Văn Điển.
Cái khí lạnh của Trường Sơn
cùng với cái khí âm của nghĩa trang Văn Điển đè nặng, vây riết lấy tôi.
Hiện lên trước mặt tôi hàng
ngàn ngôi mộ với những tấm mộ bia cái thấp cái cao, cái mới cái cũ, cái xanh
cái vàng. Đó là nơi gửi xương thịt của một số cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc.
Ngoài đó những người bệnh tật
hoặc có tuổi hết mong ngày về xứ thường than thở với bạn bè :-“Chắc tao phải ở
lại Văn Điển rồi!”
Tôi thì tôi không phải ở lại
Văn Điển nhưng tránh khỏi cái Văn Điển của Hà Nội, tôi lại phải nhìn thấy cái
Văn Điển của Trường Sơn, cái thứ Văn Điển không có mộ bia và không có khói hương
trống kèn . Hay nói đúng ra Trường Sơn giờ đây đã trở thành một Văn Điển kéo lê
thê hằng ngàn cây số.
Chao ôi! Trong một cơn mưa mả
nảy lên trong tôi bao nhiêu tâm sự, bao nhiêu dằn vặt. Bất giác tôi nghĩ đến
chiếc xe tang với những nét sầu tủi của Huy Cận : “… thì ngựa ơi đi nhịp đầm chó
nhảy, kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời. Ai đi đưa xin đưa đến tận nơi…” Chập chờn trước mắt tôi một cái
đám ma …
Nghĩa là người chết được nhiều
người đưa đi tới phần mộ, cũng có những người đi nửa chừng rồi trở lại.
Còn tôi, nếu tôi nhắm mắt lịm
luôn giữa cơn mưa này thì ai hay? Ai đưa? Ai quay lại và đưa tôi về đâu ? Cái
nơi tôi muốn đến thì ngoài tôi ra không ai đưa tôi đến được, còn cái nơi tôi
đến được lại là cái nơi tôi không muốn đến. Chết đi giữa lúc trong lòng còn
mang nặng bao nhiêu hoài bảo về quê hương, về sự nghiệp thì xót xa quá.
- Chắc thằng này chết !
Câu đó lại văng vẳng bên tai
tôi như một sự đánh giá xác thực vô cùng về bệnh trạng của tôi. Trời mưa ghê
quá, đang khi tôi thèm nắng ấm, thèm nhìn thấy mấy con gà mổ lúa trên sân,
những chú gà con liu chiu lít chit bên mẹ, thì tôi lại phải chịu đựng một cơn
mưa dai dẳng nhất vào một đêm dài nhất của đời tôi.
Không biết tôi vặn đài hồi nào
mà tiếng nói từ trong loa cứ rì rì, tiếng của người con gái cố hò hét, nhưng đã
mõn hơi, giống như một tiếng nói thoát ra từ một nấm mộ hoang đâu đây. Tiếng
nói là dấu hiệu của sự sống nhưng ở đây nó lại làm cho tôi nghe cái chết đến
càng gần hơn.
Tôi nằm trên chiếc võng kaki
dày cộp như da trâu này ngày đêm không lúc nào khô ráo vì trời cứ mưa lê thê,
mưa rất to. Sốt mà nằm trên chiếc võng như vậy có lẽ không nên thuốc gì, nhưng
nếu tôi không nằm ở đó thì tôi nằm ở đâu? Không thể có nơi nào khác cho tôi nằm
cả. Cho nên tôi phải nằm trên cái võng ướt đó mà thôi.
Thu đã dời võng nàng lại gần
tôi, hai cái võng song song nhau. Khi tôi tỉnh ra nàng kể lại rằng có lần tôi
mê sảng bò xuống bờ suối mà uống nước rồi nằm gục trên bờ suối đó. Nếu nàng
không trông thấy thì không hiểu tôi sẽ ra sao? Chính ra cũng không phải nàng
trông thấy mà một gã nào đó trông thấy và gọi nàng ra. Không biết làm sao mà
Thu dìu tôi lên được với cặp chân bất đồng của nàng? Gã nào đó trông thấy tôi
nằm đó cũng không buồn ngó tới. Cuộc đời ở đây đã đi đến sự vô lý cùng tột.
Tại sao sốt mãi mà không cắt được
cữ sốt ?
Tại sao phải ăn lạt hằng tháng
trời, không có tí muối ? Anh phấn đấu muốn đi, anh không thể đi nổi. Đó là chưa
nói tới chứng bệnh phù thũng mù loà đến với anh. Nhiều người đã trở thành quáng
manh, chỉ cần có vài viên dầu cá thì mắt sáng lại, nhiều người thũng chỉ cần
vài chục viên sinh tố là khỏi ngay. Thế mà không có. Không có thật tình.
Sự hy sinh là một điều cao quý.
Đến một mức độ mà con người còn chấp nhận thì nó còn là một sự cao quý nhưng
một khi bắt buộc người ta phải chịu đựng quá sức thì nó trở thành một sự dã
man.
Nằm giữa mưa, giữa đêm dày đặc
như vậy mà nghe một bài xã luận của đài Bắc Kinh như tôi vừa nói trên kia thì
cả một sự đại bất hạnh cho một anh cán bộ giải phóng. Tôi đâu có muốn nghe,
nhưng từng tiếng nói của cô xướng ngôn viên cứ rơi vào màng tai tôi như những
hạt sỏi rơi trên mặt trống căng thẳng. Những tiếng dội của nó bốc lên tận não
cân của tôi vốn đã vàng úa vì kí-nin làm cho nó phải suy nghĩ- những sự suy
nghĩ bắt nguồn từ bài chửi trên đây, những sự suy nghĩ vơ vẩn lẩn quẩn, cùng
quẫn, miên man không dứt mạch , không có câu giải đáp.
Mưa vẫn rơi. Những hạt mưa nặng
tâm tư rơi trên nóc tăng lộp độp rào rào không át nổi tiếng nói ri rỉ từ đài
phát thanh Bắc Kinh do cái ra-đi-ô này truyền lại cho tôi.
Con suối từ chân tôi cứ tràn
trề. Nước đổ ầm ầm. Những thân cây từ trên nguồn cuốn phăng phăng theo nước
chảy xuống tìm lối thoát va vào những gộp đá làm nên những tiếng động kinh hồn.
Nước như bị chặn lại ở quảng hẹp nên nó gào lên như sôi, như giận.
Giận ai hỡi suối ngàn? Từ
nguồn, mi lao xuống như một thằng điên, thằng dại. Lao đầu vào tất cả nhưng
không vỡ sọ nát đầu, mi vẫn còn sống nhăn ra với những nụ cười trắng xoá, kiêu
ngạo khinh đời. Mi giận nỗi gì, mi ức nỗi gì? Chẳng những người ta xua mi đi
trên con đường thiên lý này mà chính mi cũng tự nguyện tự hào vì đi theo tiếng
gọi thiêng liêng. Sinh lực của mi bồi đắp da thịt cho cỏ cây, cho cả người và
vật, làm vinh thân phì gia hàng nghìn kẻ cao sang quyền quý.
Khi mình còn tràn trề sinh lực
hữu ích cho đời thì thiên hạ đến với mi, quỳ gối bên mi mà uống lấy, mà múc lấy
nguồn sống của mi ban phát cho họ với lòng quảng đại vô biên. Và chính họ cũng
không cần biết ơn kẻ đã làm lợi cho họ vì họ luôn luôn nghĩ rằng Trời sinh mi
ra để làm lợi cho họ mà thôi. Nhưng đến khi sức mi đã cùng, lực mi đã kiệt thì
chẳng ai còn nói tới mi nữa. Họ dẫm trên người mi, không hề biết đây chính là
kẻ làm giàu cho họ, vun bồi cho cái ghế của họ lên cao chót vót. Mà đúng vậy,
họ đến với mi làm gì khi mà họ không còn hút của mi một chút sinh lực nào nữa?
Vì vậy suối ơi! Khi mi còn thanh xuân, còn tràn trề sinh lực thì đừng phung phí
nó, đừng có bốc tếu, đừng có dễ nghe lời. Người đời lợi dụng vô cùng. Maxime
Gorki đã từng nói: “Vinh quang
thay con người!
Hai tiếng nghe vang vang kiêu hãnh….” Nhưng cũng chính ông ta đã viết rách
toạc cả mặt giấy trắng: “…
Chó đểu là con người!” Người
ta biết tính vui bộc lộ sôi nổi của mi. Người ta chỉ dí một phát điện vào cái
lòng “tự hào” của mi thì mi ào ào tuôn ra tất cả lưu lượng của mi không chừa
lấy một giọt để nuôi thân. Rồi một ngày kia khi đã dốc cạn cả sức trai ra rồi
thì mi chỉ còn là bộ xương rắn chết khô ngoằn ngoèo ở giữa sườn dốc chân núi
trước những con mắt lạnh nhạt ngó nhìn.
Tôi nghĩ miên man vô bổ và phản
động quá nữa là đằng khác nhưng tôi không thể bắt tôi dừng – nhất là trong một
đêm mưa cô đơn mà hai lỗ tai phải hứng đầy những tiếng chửi. Chửi nhau, điều đó
đâu có gì hấp dẫn, nhưng những lời qua tiếng lại động đến trái tim tôi, một
trái tim đã tím bầm vì bị nhồi nặn, dằn vặt, ê chề chỉ còn lại một tí mảnh tươi
hồng để nuôi sống cái cơ thể tàn rụi của tôi.
Nhưng giờ đây cái mảnh hồng
huyết cầu ấy cũng đã bị đám siêu vi trùng nuốt phăng đi vào cái dạ dày trăm túi
của chúng. Những hạt mưa to rơi lộp độp trên nóc tăng làm cho tôi có cảm giác
đó là những tràng bom B52, mà tới đây may phước cho tôi chưa được nếm lần nào.
Nhưng Lạy Chúa tôi, không có
tràng bom nào ác liệt hơn những lời chửi rủa hằn học của cô xướng ngôn viên đài
Bắc Kinh. Cô ta đang thay mặt cho hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng Sản Trung
Hoa nói tiếng nói Mao Chủ Tịch, kết tội Chủ Tịch Lưu Thế Kỳ – một người có 50
tuổi đảng giờ đây trở thành tên phản đảng. Thật khó hiểu hơn cả những chuyện
Tào Mạnh Đức thích khách Đổng Trác, chuyện Bàng Quyên chặt chân Tôn Tẩn và
chuyện Ravaillac ám sát Heri IV.
Ở thế giới Tư Bản, và ở thế
giới Cộng Sản cũng vậy thôi: chuyện gì mà không có thể xảy ra?
Và rồi dần dần người ta cũng
hiểu. Cũng như 10 năm trước đây Mao Trạch Đông và Krouchev choảng nhau, tốn hao
đến hằng tấn nước bọt, rồi tốn hằng suối lệ và máu. Chuyện đó làm kinh ngạc năm
châu một thời nhưng bây giờ thì nó có còn làm ai chú ý nữa đâu. Sự đời hễ
thiêng liêng hoá quá rồi ra sẽ trở thành hèn kém quá. Nên giữ con người ở vị
trí của loài vật hai chân mà thôi. Thật là một điều mong muốn Voltaire nói,
được đi bằng bốn chân.
—>Chương 6
- 6-
Trời sáng lúc nào tôi cũng
không rõ nữa. Tảng nặng bóng đêm đã được bàn tay kỳ diệu của hoá công nhấc đi
mà đặt vào chỗ khác không phải trên ngực tôi, để cho trái tim tôi đập thong thả
hơn.
Thì tôi biết rằng tôi chưa
chết. Cái chết vừa là kẻ thù vừa là bạn thân của tôi, đã đeo đuổi ve vãn rình
mò tôi suốt đêm qua. Cuộc sống đối với tôi bây giờ có nghĩa là chịu đựng cái
chết dần mòn. Tôi vừa sung sướng lại vừa đau khổ nhận thấy mình còn sống.
Một vật vàng vàng như màu
ký-nin pha loãng kia có lẽ là ánh nắng. Tôi còn nhận thấy cả màu xanh của lá
cây và những bọt nước dưới chân suối.
Đột nhiên tôi thèm một cái giò
gà, không phải là cái giò gà của lão Tào Tháo ban cho Âu Dương Tu mà là cái giò
gà thật sự, đã luộc rất mềm trong cháo nấu bằng gạo mới thơm phức.
Chao ôi! Cầm lấy nó mà cạp vừa
gặm vừa nhai da nó – vừa dai vừa dòn – nếu có kèm thêm một ít lá rau răm nữa
thì ngon tuyệt.
Tôi mới hiểu vì sao anh chàng
hồng quân trong truyện “Số Phận Một Con Người” của Cholokhov bị quân Đức bắt
làm tù binh đã đưa hai tay nhận lấy một mẩu xương do một tên sĩ quan Đức từ bàn
tiệc ném ra và ngoạm lấy, cạp lấy từng mẩu thịt còn sót lại một cách ngấu
nghiến.
Tiếng nói chua lòm của cô xướng
ngôn viên như một thứ độc dược đã tiếp sức với những ổ vi trùng tàn phá cơ thể
và cân não tôi và làm cho chúng cứ mỗi giây nhão ra gấp triệu triệu lần.
Tôi ăn Tết ở Hà Nội cách đây
hơn bốn tháng. Tôi ra đi giữa mùa xuân và cho đến bây giờ mùa xuân hãy còn kéo
dài. Những ngày qua còn để sót lại trong trí óc tôi một mớ ký ức hỗn độn về
những núi đồi rừng rậm, trảng trống, suối sâu, dốc cao, sông rộng, về những
chặn đường ghê gớm nhất, kỳ cục nhất, tàn nhẫn nhất, bất ngờ nhất, khó hiểu
nhất, đói khát nhất của cả loài người từ tạo thiên lập địa cho tới nay.
Tôi cố ngồi dậy. Cơ thể tôi
ruỗng nát như cái bọng của cây bần trong có một con chim cú làm tổ, và thỉnh
thoảng báo hung tin cho xóm làng.
Không hiểu bằng cách nào, tôi
đã ngồi dậy được. Hai tay tôi nắm hai mép võng run run như con chim đại bàng rả
cánh trong bão táp vừa đáp xuống một ngọn cây quá yếu mềm. Nước mưa từ người
tôi chảy xuống ròng ròng. Tôi có hay đâu suốt trận mưa đêm qua cái võng kaki
của tôi trở thành cái bồn nước ngâm cả người tôi giống như cái bồn chứa nước đá
của bác sĩ Tôn Thất Tùng ngâm bệnh nhân cho xuống nhiệt độ trước khi đưa họ lên
bàn để giải phẫu tim.
Vâng, trái tim của tôi không
cần phải giải phẫu mà cần thay đổi cả trái tim khác.
Chiếc radio không còn kêu nữa.
Cô xướng ngôn viên chắc mặc áo hồng vệ binh đi đến nhà Chủ Tịch Lưu Thiếu Kỳ mà
tiếp tục tấn công vào nhà ông ta bằng cách mắc hàng trăm chiếc loa phóng thanh
chung quanh. (mãi về sau tôi
mới đọc thấy chi tiết này trên tờ báo ngoại quốc).
Ở đây là Văn Điển của tôi. Một
cái Văn Điển không mộ chí và kéo dài hằng ngàn cây số mà mỗi tấc đất là một
lóng xương.
Không hiểu sao tôi không muốn
gọi Thu. Có lẽ vì lòng tự ái của một thằng đàn ông, hay vì tôi muốn so gươm với
Thần Chết lần cuối cùng. Tôi đã xuống tận bờ suối và ngồi trên một phiến đá.
Mặt nước tương đối phẳng lặng. Tôi nhìn xuống thấy đáy nước trong veo, thấy
những đàn cá nhỏ lội thảnh thơi, nhưng bất giác tôi đưa tay khuấy nước lia lịa
làm nước toé cả vào người tôi.
Tôi ôm mặt kêu lên, kinh hãi.
Tôi lặng người ra, hoá đá. Tôi đã nhìn thấy một con ngợm ở dưới đáy nước đang
nhìn lại tôi chòng chọc. Con ngợm đó giống hệt như tôi, nó là em tôi hay là anh
tôi cũng nên.
Không, nó không là ai khác cả.
Nó chính là tôi, chính tôi đã dội chiếu bóng hình xuống đấy.
Chập sau tôi lặng lẽ trở về lều
trút nước trong võng ra và không đủ sức để vắt khô võng. Tôi đành nằm vật ra
trên chiếc võng ướt với bộ đồ ướt vừa nước mưa vừa nước suối.
Ánh nắng hiện lên một cách hà
tiện và dè dặt qua những kẹt cây. Đầu óc tôi tỉnh ra dần.
Tôi căm giận những tên nói dối.
Chúng nói dối đã thành nghề. Chúng nói dối đến mức độ không còn phân biệt đâu
là thực đâu là giả nữa. Chúng lừa mọi người và sau cùng chúng phỉnh gạt chính
bản thân chúng nó.
Nắng lên, làn da tôi âm ấm. Tôi
có cảm giác nhẹ nhàng nhưng ghê ghê rờn rợn. Quả thật cơn sốt dài liên miên
trong mấy ngày qua đã làm tôi thay đổi cả sinh lý lẫn tâm lý.
Tôi khẽ đưa tay thọc vào chiếc
ba-lô trên đầu võng để lấy ra chiếc gương soi, để xác định lại một lần nữa
những gì đã làm tôi kinh hãi lúc tôi nhìn xuống lòng suối lúc nãy.
Tôi khẽ lau chiếc gương tròn
vào ngực và nâng nó lên mặt.
Tự nhiên tay tôi rụng rời, tôi
đánh rơi chiếc gương con xuống đất. Mắt tôi tối sầm lại. Tai tôi nghe ù ù như
có hằng trăm chiếc phi cơ vút qua. Trời đất xoay vần, đất dưới chân tôi như sắp
sụp xuống. Gương mặt của tôi mà tôi tưởng không phải là của tôi. Không bao giờ
một cái khuôn mặt trước kia như vậy, giờ đây lại hoá ra như thế được. Nhưng đau
đớn thay, đó chính là của tôi, cái gương mặt ấy, vì chả lẽ nó là của ai cho
được khi mà tôi đưa chiếc gương ngay lên mặt tôi. Nhưng, nếu đó thật là gương
mặt của tôi thì làm sao tôi hiểu được?
Điều tôi nghĩ đến trước tiên là
sự mong nhớ của cha mẹ tôi. Nếu cha mẹ tôi biết rằng tôi nằm giữa rừng và lâm
trọng bệnh như thế này thì cha mẹ tôi sẽ làm gì?
Tôi có thể chết âm thầm, vô
danh, vô nghĩa lý, nhưng còn những người sống sẽ nghĩ gì khi biết con cháu
mình, chồng cha mình đi giải phóng Miền Nam – sự giải phóng không ai mong đợi –
mà lại ra thần hồn đó?
Tôi không có ý định nhặt chiếc
gương lên nữa vì nó làm tôi sợ hãi. Nó làm tôi trông thấy rõ gương mặt kỳ dị
của tôi, cho tôi thấy rằng chỉ qua một đêm mưa và một cơn sốt, tôi đã bạc hết nửa
mái đầu.
Nhưng đây không phải chỉ là một
cơn sốt tầm thường, một cơn sốt hơn mọi cơn sốt. Cơn sốt vàng kí-nin; cơn sốt
đỏ của những nốt muỗi đốt; cơn sốt của thế kỷ 20; cơn sốt của lòng tin và sự đổ
nát; cơn sốt của chủ nghĩa và sự suy đồi trông thấy; cơn sốt của những tượng đá
có hồn và cái hồn đó đã vụt bay mấy; cơn sốt của những canh bạc mù quáng; cơn
sốt của chủ nghĩa cá nhân và những bài giáo điều; cơn sốt của những con vẹt ăn
phải quả dại giờ bỗng nhiên câm mồm; cơn sốt của những bạo chúa khoác áo thánh
thần; cơn sốt của những kẻ khố rách áo ôm đang loá mắt vì một cái thiên đường
tự vẽ ra trước mắt; cơn sốt của những đứa trẻ con ngây thơ bị lường gạt quá dễ
dàng; cơn sốt làm nóng bức cả loài người; cái cơn sốt đã làm nhơ uế không gian
bằng một thứ bụi phóng xạ đặc biệt. Một cơn sốt như thế đó đã giáng vào tấm
thân còm cõi kiệt sức của tôi.
Tôi bỗng nghe tiếng hớt hãi của
Thu:
- Anh ơi! Ghê quá! Eo ơi!
Tôi trông thấy Thu vừa đi vừa
bưng kín lấy mặt và lảo đảo bước vào lêu rồi rơi phịch xuống võng.
Tôi hỏi:
- Cái gì mà ghê gớm thế?
- Có một người chết!
Tôi nghe như có một làn gió vút
qua gáy tôi. Tôi nghĩ có lẽ một người nào đó chết vì sốt, vì cơn mưa dầm đêm
qua, cho nên tôi không hỏi tới nữa vì chết như thế là thường. Thu nằm im một
chập rồi lại kêu lên:
- Eo ơi! Em sợ quá!
- Cái gì vậy chớ ?
- Đã bảo là chết mà. Anh thật!
- Chết là hết khổ, thế thôi.
- Nhưng ở đây kỳ cục lắm
Thu lại im một chốc rồi hỏi
tôi:
- Đêm qua anh có nghe cây đổ
không?
- Anh mê man không nghe gì ráo!
– Sự thực thì tôi có nghe nhưng tôi đã quên.
- Em không nghe cây đổ mà sáng
ra lại có người chết vì cây đổ. Eo ôi, khiếp quá đi mất!
Tôi nghĩ đến cảnh tượng cái cây
đè lên người một anh bạn nào đó. Chết như thế thật là oan, thật là khủng khiếp.
Nhưng không phải như vậy.
Thu nói:
- Cái nhánh cây tách ra như một
lưỡi kiếm và cắm thẳng đứng xuống… eo ơi! Khiếp!…
Tôi kêu trời và lặng thinh. Còn
Thu có lẽ đã vượt qua cơn sợ hãi, cho nên nàng ngồi dậy và kể tiếp một cách tỉ
mỉ:
- Cái cây cắm ngay bụng anh ấy
như người ta xiên cây lụi qua mình một con nhái và cắm luôn xuống đất. Bây giờ
anh ấy bị dính cứng đó không biết làm sao gỡ ra. Kẻ thì bàn phải đào đất rất
sâu mới lấy xác anh ta lên mà chôn được, kẻ thì bảo nên đốn ngang nhánh cây đi
mà kéo anh ta lên. Cái nào cũng có lý nhưng ở đây không ai có cuốc có dao để có
thể làm những việc đó cả.
- Nhánh cây to không? – Tôi
hỏi.
- Bằng cây cột!
- Úy trời! Nát làm đôi còn gì?
Thu tiếp:
- Còn một nhánh khác rớt xuống
làm đổ tăng của một anh nằm bên cạnh nhưng nó cong như vòng cầu cho nên anh kia
không sao cả. Cái phần giữa của nhánh cây vừa chạm anh ta thì hai đầu đã đụng
đất, cho nên nó không xuống được nữa. Không chết nhưng hồn vía mất hết.
Khiếp thật!
Sống thì thê thảm mà chết thì
khủng khiếp. Sống thì lây lất thiếu thốn, đói khát còn chết thì kỳ cục vậy đó!
Thu bảo:
- Anh đi lại xem một chút đi!
- Làm gì? – Tôi nói – Vấn đề là
mình nên rút kinh nghiệm nên mắc võng xa những cây lớn.
Thu nói:
- Em tưởng tượng cái nhánh cây
từ trên cao rơi xuống như trời giáng, thế mà rơi trúng mình thì còn gì thân
thể. Đi giữa rừng em thấy mình nhỏ bé, bất lực và nhụt hết ý chí nhất là không
tự chủ được.
Tôi lặng thinh.
Thu nói đúng và đầy đủ quá về
cuộc sống ở rừng.
Nhưng bây giờ tôi phải lo liệu
mà đi vì cái thiên chức của tất cả mọi người trên đường này là đi. Với ý thức
“chân cứng đá mềm” hẳn hoi chớ đâu có phải chuyện thường.
Cuối cùng tôi nhặt chiếc gương
lên rồi cuối cùng tôi cũng bỏ nốt cái ý định không xem mặt tôi nữa – nghĩa là
dù sao tôi cũng phải xem lại cho kỹ cái mặt của tôi để biết rõ mình hiện nay ra
làm sao. Thật là một điều ghê gớm.
Tôi nghiêng đầu ra mép võng,
tóc tôi rũ theo cái cử động ấy, chiếc gương đang nằm dưới đất tròn trịa in hình
một lõm trời tròn. Nhưng cái lõm trời ấy bị tôi áng mất ngay.
Khổ cho tôi, tôi phải trông
thấy mặt tôi, mình trông thấy mặt mình mà phải khổ. Trên đời nầy có ai từng
biết cái nỗi khổ đó như tôi không?
Loáng thoáng tôi trông thấy
gương mặt tôi hay gương mặt nào hao hao giống tôi chẳng hạn. Tôi phải thu hết
những mẩu can đảm rơi rớt còn lại của tôi để nhặt chiếc gương lên.
Tôi nghi ngờ sự phản ảnh trung
thực của chiếc gương. Tôi lau nó vào ngực rồi đưa lên mắt. Tôi lại lau khô nó
lại lần nữa, lần này thì lâu hơn, tôi lại đưa chiếc gương lên mắt. Dù tôi đã
biết trước mặt mũi của tôi mà tôi vẫn cứ ngạc nhiên như thường.
Than ôi! Tiếng kêu than thầm
lặng đau đớn thống thiết từ trong thâm tâm tôi nhưng chẳng ai nghe thấy cho ở
giữa chốn rừng sâu hoang dại này. Tôi không muốn kêu to lên, tôi chỉ muốn dìm
nó xuống để mà lắng nghe mọi nỗi đắng cay chua chát.
Hồi bắt đầu ra đi, tôi cân đúng
73 kí lô, nay không còn bao nhiêu. Khi xưa, tôi đi nặng phục phịch, anh em bảo
“như vịt xiêm”, bây giờ thì cũng nặng nề nhưng không phục phịch nữa, mà nhẹ
nhỏm như một cái que tre. Tôi không đánh rơi chiếc gương nữa mà tôi muốn nhìn
mãi vào gương mặt tôi. Buồn thật!
Giá như cha mẹ tôi ở Miền Nam
biết tôi ra thân thể này thì với giá nào ông bà cũng đem tôi về, về nhà hay về
đâu cũng được, miễn là rời khỏi con đường danh tiếng này.
Tôi không hiểu vì sao tôi gầy
nhanh đến thế. Mặt mũi hốc hác hơn cả mặt người ốm liệt giường. Tóc bù xù, rối
nùi như tổ quạ dài xuống phủ kín cả mép tai. Ở đây không có cái gì cả, chỉ có
một cái thừa thải: đó là sự vô lý. Tôi thấy có sự vô lý đã đi đến mức cùng cực
của nó, không còn ai có thể giải thích được nữa, không có cái gì vô lý hơn nữa.
Tôi thấy thương thân, tủi phận
và oán ghét đủ thứ trên đời, nhất là oán ghét những thằng hiện đang phè phỡn
ô-tô, nhà lầu, luôn luôn chủ trương đánh nhau (bằng tay người khác) nhưng đến
tiếng súng cũng không nghe thấy, đừng nói chi cầm súng. Con cháu họ thì đứa đi
Nga, đứa đi Tàu – đi học để sau này về làm cha thiên hạ. Còn lũ con cái bần cố
nông thì cứ lùa vào con đường vinh quang này, như người ta ném những que củi
vào lò lửa không thương tiếc.
Tôi cũng từng biết hoàn cảnh
vui vui của một bà già được mệnh danh là đồng chí cách mạng 30-40 chi đó. Mụ
này thấy không có chồng mà lại có 2 con: một con gái hư hỏng nát bét cả Hà Nội
ai cũng rõ, dắt trai vào nhà ăn bồ câu hầm với Cao Ly sâm như người ta hầm với
củ cải. Còn một thằng con trai thì chán ghét cái cảnh giàu sang bất chính của
gia đình, nên đang đi học lại đùng đùng xin về Nam chiến đấu.
Bà mẹ anh ta nghe tin con xung
phong cảm tử như vậy, thay vì mừng rỡ hoan hô vì chính bà ta là một cán bộ rất
cao cấp và lại là người Miền Nam nữa, nhưng bà ta lại rất đau khổ. Bà không
biết nói với ai. Bà ta muốn ngăn đứa co mình lại, nhưng làm sao ngăn nó trong
khi bà ta đang hô hào cho ai nấy cùng thi hành chủ trương “giải phóng Miền Nam”
của Đảng? Mẹ bảo con chuyện gì cũng có thể được cả nhưng còn việc này thì bảo
làm sao? Con nó sẽ phản đối. Mà nó có đầy đủ lý do để phản đối thì mới trả lời
với nó làm sao?
Bà ta cũng thông minh. Bà ta
chạy lên nhờ một ông lãnh tụ có uy tín hơn bà, gọi con bà tới và đem cái sự du
học Đức-Tàu-Nga mà nhử nó. Bà ta lại đem thêm những gian nan chết chóc của
chiến trường Miền Nam ra nói cho nó nghe để làm sự tương phản với cuộc sống
nhung lụa của một du học sinh. Nhưng tội thay, con bà là một đứa trung thành
với chánh sách của Đảng, nhưng đối với bà nó lại là một đứa con ngỗ nghịch. Nó
đã bỏ bà, quảy ba lô mà gia nhập Trường Sơn để đi giải phóng Miền Nam. Nhưng
than ôi, mặc dù trong ba-lô của cậu con cưng đó có hằng kí lô sâm Cao Ly củ nào
của ấy to bằng củ cải, cậu ta vẫn chết bằng cơn sốt ác tính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét