Tôi đang nằm suy nghĩ một lúc
hằng trăm chuyện thì có một chú lính từ xa đi tới đập võng tôi và gọi tên tôi.
Tôi ngóc đậy. Cậu lính vỗ vỗ
ngực:
- Cháu là Thiên đây, con của
nhà thơ X. Nhà ở phố Hàng V… Hồi Tết năm ngoái chú có đến uống rượu với ba cháu
đấy.
Tôi còn đang ngơ ngác thì cậu
ta nhắc:
- Chú uống rượu còn ba cháu
ngâm thơ. Ba cháu đem cái cốc đặc biệt ra uống Mao Đài tửu đấy.
Tôi đập vào đùi cậu thanh niên
thật mạnh:
- À…phải! – rồi ngồi bật dậy.
- Đấy, chú nhớ rõ chưa?
- Rõ rồi! Cháu vào đây bao giờ?
- Có lẽ trước chú một năm.
- Sao bây giờ còn nằm đây?
Phút vui gặp gỡ hình như bị
giới hạn bằng câu hỏi đó. Thiên yểu xìu cái mặt xuống ngay:
- Bộ đội khiêng pháo mà chú. Ối
giời, xe ba gác cải tiến của hợp tác xã mà mang vô đây định tải pháo. Chớ chú
không để ý thấy những cái xe đó nằm chỏng gọng ở trạm làng Ho đó sao?
- Có thấy nhưng không biết là
xe gì!
Thiên cười mũi:
- Đối thủ của mình đã nhảy lên
mặt trăng ngồi chong ngóc trên đó rồi mà mình ở đây còn dùng xe ba gác cải tiến
của mấy lão già hợp tác xã mà tải pháo.
Tôi giật mình. Nghe Thiên nói
vụ cái xe ba gác cải tiến tôi mới sực nhớ những chiếc đèn xe mô-lô-tô-va trên
quốc lộ 1.
Vào thời gian máy bay Mỹ oanh
tạc miền Bắc ác liệt thì ban ngày quốc lộ 1 không có một bóng xe bóng người.
Xe và người chỉ đi đêm. Để bảo
đảm an toàn, mỗi chiếc xe đều không dùng bất cứ cái đèn nào trong xe mà lại
treo một bóng đèn nhỏ trên ngọn cần câu rà sát mặt đất và chĩa hẳn về phía
trước.. Đó là con mắt của tài xế. Tôi tò mò tìm hỏi thì anh lái xe nói rằng làm
như thế máy bay không phát hiện được xe mà nó chỉ thấy bóng đèn con di động.
Nếu nó nghi ngờ nó ném bom thì ném ngay bóng đèn chớ không thấy xe mà ném. Đó
là sáng kiến không biết của nhà chiến thuật nào, nhưng tôi tôi thấy nó được
thực hiện trên khắp quốc lộ 1 lúc tôi đi công tác giới tuyến.
Tôi kể câu chuyện đó cho Thiên
nghe để làm một sự cân xứng với cái xe ba gác cải tiến của Thiên.
Nghe xong Thiên cười:
- Nhà quân sự nào nghĩ ra cái
sáng kiến đó có lẽ cho rằng máy bay Mỹ bắn xe chạy trên đường bằng súng
mút-cơ-tông hoặc súng cao su. Còn nếu bỏ bom thì mỗi lần bỏ một trái to bằng
hạt nhãn và bề kính sát thương của nó là 5 tấc!
Thiên bắt qua chuyện khác ngay:
- Nghe nói Liên Xô hay Hungari
gì đó có cho mình kính hồng nội tuyến gì đó mà!
- Nội ngoại đâu không biết
nhưng hồi tôi đi chỉ thấy toàn cái cần câu theo kiểu tôi vừa nói đó.
Thiên lại chuyển mục:
- Này, cái đoàn văn nghệ của
chú may lắm đấy.
- Sao? – Tôi nôn nóng – Cậu có
gặp à?
- Thì chính cháu đưa đi mà!
- Ủa, cháu là giao liên à?
- Trước là bộ đội, nhưng đến
đây ỳ ra không vô nữa vì sốt. Lá lách thòng. Cháu vô trạm dạy văn hóa. Vừa rồi
ông Phó Chánh Ủy đường dây bảo xoi đường đưa khách vô, cháu ở trạm trong ra đây
đón khách.
- Rồi sao? Đoàn của chú, có ai
làm sao không?
- Lọt hết cả! Chỉ lọt qua có 5
phút là biệt kích Úc nó cắt ra ngay chóc, chịp! Nó xơi hết nửa đội trinh sát
tiền tiêu của bộ đội gồm có cả một ông Trung Đoàn Phó. Ông ta mang cả tiền ăn
của trung đoàn. Mất tích luôn tới nay, không tìm thấy xác,cũng không nghe đài
Saigon nói.
Thiên tiếp:
- Các chả chủ quan lắm. Đi
ngang bãi pháo, cháu bảo chạy nhanh qua. Nhưng các chả cứ dềnh dang ngồi ăn
cơm, đến chừng pháo bắn, không chạy được. Pháo vừa dứt thi một toán biệt kích
trong rừng cắt ra ngay giữa đội hình. Các chả đâu có chuẩn bị mà bắn. Súng thì
bó lại gánh lòng thòng lễnh thễnh hoặc quấn ruột tượng gạo chung quanh vác như
vác củi khúc. Súng máy thì bỏ băng đạn trong ba-lô, còn súng cối thì đế một
nơi, nòng một ngã, đến chừng ráp được vào thì anh vác đạn ở đâu đâu. Hành quân
chiến đấu như thế đó, gặp giặc đánh ngữa cổ cho chằng nuốt. – Thiên tiếp – Từ
đây trở vô thì cứ đụng hoài hoài. Gặp biệt kích người Thượng còn ớn nữa! Nó bắn
một phát lượm một con. Mỗi thằng bắn nhiều nhất là một băng rồi rút ngay. Nó
leo núi như khỉ, đố ai đuổi kịp!
Nghe có chuyện mới lạ, tốp của
Lê Ngọc cũng chạy sang nghe.
Thiên tiếp:
- Bắt đầu từ trạm này trở đi là
máu lửa nhé. Không có ăn no ngủ kỹ được nữa đâu! Sốt rét có cơn, bom pháo còn
có hồi chớ biệt kích thì không cơn không hồi gì hết!
Thiên quèo Lê Ngọc:
- Anh có thuốc gì cho em xin
một điếu với. Có phải anh đã dạy Tổng Hợp không? Em là sinh viên Tổng Hợp cơ sở
2 đây! Em vào làm giao liên một năm rồi, quên mẹ nó hết toán lý hoá.
Lê Ngọc móc thuốc ra cho Thiên.
Thiên đưa tay nhận điếu thuốc
và xuýt xoa mãi. Thiên châm thuốc rít một hơi đài vô tận, nuốt ém cả khói rồi
phì ra đằng mũi, hai tia khói chĩa thẳng xuống đất. Thiên tiếp:
- Biệt kích Úc ghê gớm lắm. Nó
đi không đầy chục thằng và chuyên môn cắt rừng bằng địa bàn, chúng nó phục kích
thì không thể phát hiện được.
Thiên lại rít một hơi đài, khẽ
gạt cái tàn thuốc vào mũi dép và gật gà gật gù, nhướng nhướng đôi mắt say thuốc
và tiếp:
- Em kể một chuyện như thế này
cho các anh nghe xem có khiếp không? Bởi thế các anh đừng có khinh thường. Kỳ
đó chúng nó phát hiện được đường đi của mình. Chúng nó phục kích cách đường vài
chục thước. Chúng nằm luôn ba ngày liền, chờ đến ngày thứ tư chúng bắn một loạt
chết ba người. Ba hôm sau đơn vị mới cho người ra tìm xác thì thấy cả ba cái
xác nằm nguyên đó, ba-lô, súng ngắn, súng dài còn đủ hết. Anh em ta cho rằng
chúng đã rút đi rồi bèn ì ạch khiêng xác, thu súng về, chẳng dè lại bị nổ một
loạt nữa. Hai người chết. Cơ quan bỏ luôn, hai ba ngày sau mới dám cho người ra
điều nghiên, vẫn không thấy dấu vết gì hết. Lần này thì chắc chắn là chúng đã
đi rồi. Chẳng có lẽ chúng gan trời mà nằm nín lại nữa. Anh em ta cũng lại lom
khom khiêng xác, lại bị chúng đế luôn một loạt nữa. Lần này chúng bò lên, lấy
tất cả đồ đạc, súng ống của ba trận rồi rút mất.
Mấy hôm sau cơ quan lại cho
người ra phục kích và nghiên cứu. Chỉ thấy có mấy cái hầm ngụy trang rất kỹ.
Còn từ ngoài đường vào tới hầm không có một cái lá nát, không một nhánh cây
gãy, và mặc dù trời mưa vẫn không thấy một dấu chân. Mãi mới tìm được mấy cây
sào. Và sau đó nghiên cứu ra là chúng nó không đi bằng chân như mình . Mà chúng
nó dùng sào chống và nhảy như nhảy sào thể thao. Chúng nhảy theo kiểu con
Kangourou của xứ Úc. Cứ vọt tới một cái rồi đứng lại xoá hết dấu vết rồi lại
phóng tới nữa, cho nên dù có để ý cũng không tìm thấy một dấu chân nào.
Thiên vênh mặt lên:
- Các anh thấy khiếp chưa? Cho
nên đừng có nói nó là lính đánh thuê không có tinh thần chiến đấu là bỏ mẹ. Nó
dám nằm hầm sáu ngày liền, ăn đó tiêu tiểu đó, không hút một điếu thuốc. Chúng
chỉ có mỗi một sơ sót nhỏ là khi rút đi chúng đã bỏ lại những cây sào nên mình
mới tìm ra được cái chiến thuật Kangourou của nó!
Thiên hút hai ba hơi thuốc
liền. Điếu thuốc cháy đã gần hết nhưng Thiên không chịu quăng đi. Thiên lấy một
cái nhánh con cặp lấy và đưa lên mồm rít lia lịa cho đến khi lửa cháy tận môi,
Thiên mới thôi.
Thiên nói tiếp:
- Đấy các anh thấy không? Các
ông nhà lính của mình bê bết lắm. Súng ống mang vác như thế đó. Mệt đói quá họ
vứt bừa. Riêng trạm của em hiện lượm được cả tiểu đội AK – Thiên vỗ vỗ vào bá
khẩu cạc-bin trên vai – Đây cũng là quà của các bố ấy đấy. Mà chưa hết đâu! Đi
dài dài vô rồi các anh xem, súng đạn bộ đội treo đầy đường thấy mà nóng ruột!
Lắm lúc dắt các ổng đi mệt, các ổng chửi bọn tôi như chó, lại còn hăm tát tai,
hăm cho xơi kẹo đồng. Cái nghề giao liên là cái nghề bạc bẽo các anh ơi! Cực
chẳng đã phải làm, thống nhất rồi, bọn giao liên làm gì? Chẳng lẽ lại trại, lại
ám hiệu, lại đưa khách à? Trong Đại Học Tổng Hợp của mình có khoa văn, khoa lý
hoá, khoa nọ, khoa kia chớ có khoa “giao liên” không? Giao liên là một cái nghề rừng. Anh có hiểu tiếng
“rừng” của em không?
Thiên vụt hỏi:
- Hà Nội cỡ này sơ tán chắc bỏ
phong trào lao động xã hội chủ nghĩa rồi hả các anh?
Lê Ngọc nói:
- Bây giờ ở Hà Nội cũng có
nhiều phong trào. Nào là phong trào lao động XHCN vào sáng chủ nhật, phong trào ba khoan… Ối, nhiều lắm không
nhớ hết! Nó nạo róc hết xưong tủy của mình.
Thiên cười:
- Em đi xa Hà Nội chẳng bao lâu
mà trở nên lạc hậu nhỉ!
Lê Ngọc giải thích:
- Ba khoan là khoan yêu, khoan
cưới, khoan đẻ. Nếu chưa có người yêu thì hãy khoan yêu, nếu yêu rồi thì khoan
cưới, nếu cưới rồi thì khoan đẻ.
Thiên ngạc nhiên:
- Khoan yêu, khoan cưới thì còn
có thể được, chứ khoan đẻ làm sao thấu hở anh?
- Thấu chứ, vì cái khẩu hiệu
này là nhắm vào thanh niên, trong các cuộc họp chi đoàn, nếu cậu nhận một cái khoan thì tức là cậu phải khoan cho có kết
quả. Chính phủ chúng ta sáng suốt, cho nên chủ trương bao giờ cũng đi đôi với
biện pháp. Ca-bốt bây giờ bán đầy cả mậu dịch rồi, còn các thứ thuốc xoa và
phương tiện khác nhập từ Trung quốc sang, như cái nút nhét cổ tử cung lại. Nó
có lợi cho những ai muốn “khoan“ có
kết quả nhưng nó lại gây ra những tai nạn khác. Ví dụ như trước đây con gái hoặc
đàn bà có chồng đi xa yêu đương sợ có thai bây giờ không lo nữa.
Thiên lắc đầu:
- Em không hiểu ra làm sao cả!
- Về Hà Nội em sẽ hiểu thôi –
Lê Ngọc tiếp – Chỉ có một phong trào này là người ta không đặt tên chính thức
mà thôi!
- Phong trào gì vậy anh?
- Phá thai!
Thiên bật ngữa ra chới với. Một
chốc Thiên hỏi:
- Anh nói phong trào phá thai
à?
- Không phải là người ta ào ào
đi tới bệnh viện xin phá thai như đi lao động XHCN, mà có những cái buồng bí
mật. Trước kia muốn phá thai người đàn bà phải mang giấy có chữ ký của chồng
đến bệnh viện, bây giờ thì ai cần cứ phá. Tôi biết được chuyện này vì tôi có
bạn làm ở mấy bệnh viện lớn.
- Phức tạp quá hả anh!
- Cuộc chiến tranh này ghê gớm
quá. Các bà ăn quen nhịn không quen, chồng đi Nam hôm trước hôm sau là đã léng
phéng rồi. Tôi biết cả vợ một tay đại tá vừa từ giã chồng, nước mắt chưa khô là
đã đạp xe lại nhà tình nhân rồi.
Thiên hơi buồn, có lẽ Thiên lo
cho người yêu ở Hà Nội.
- Bodéga còn bán bánh mì không anh?
- Còn chứ!
- Bánh min-phơi vẫn 6 hào hay lên giá?
- Vẫn thế, nhưng muốn mua phải
xếp hàng lâu lắm và có khi tới phiên mình mua thì hết nhẵn, mình đành phải mua
thứ bánh mà mình không thích.
Thiên thở dài, hai tay bó gối
nét mặt rầu rầu.
- Em nghe mình đã có Mig rồi mà
sao cứ để nó leo thang mãi vậy anh?
- Tôi biết thế nào được? Lê
Ngọc tiếp – Khi nó đánh Nghệ An, tôi đang dạy ở đó. Trường đại học Vinh tan
hết. Tôi đã tiếp sinh viên chở sách của trường đi bằng xe cút kít tản khai vào
làng cách đó 12 cây số… Rồi nó ra luôn Thanh Hoá, đánh hỏng cầu Hàm Rồng. Lúc
đó tôi được gọi về để đi Nam. Tôi đạp xe đạp, tay cầm ghi-đông, tay bấm đèn
pin, từ Vinh chạy suốt một đêm. 9 giờ sáng hôm sau thì tới Ninh Bình, vừa vào
nhà trọ chợp mắt thì máy bay tới. Đồng bào lao nhao như kiến vỡ tổ. Nó chỉ bắn
một phát, cầu Ninh Binh gục xuống sông.
Thiên nói để chữa ngượng cho
mọi người:
- Chắc các ông ấy chờ nó ra tới
Hà Nội mới quất cho nó qụy anh ạ! Vì ở Hà Nội có nhiều khách quốc tế cho mọi
người đều trông thấy trước mắt!
Lê Ngọc cười khẩy:
- Cần gì phải chờ nó ra tới Hà
Nội cho mất công! Ngày lúc Kossygine sang, Thần Sấm và Con Ma cũng đã đến
“chào” rồi mà!
—>Chương 29
- 29-
Chiều hôm sau thì chúng tôi đến
một cái trạm bên bờ sông. Không biết được con sông đó tên gì. Trên nguyên tắc
giao liên, thì đến đâu thì đến, đi đâu thì đi, không ai được quyền hỏi đó là
đâu.
Con sông quá rộng, nước trong,
nhưng không có lấy một mái nhà, một bóng thuyền.
Tôi mừng quá, bương bả đi tới
mé sông và sẵn bãi lài tôi đi thẳng xuống mé sông rửa mặt và ngâm chân. Tôi
nhìn phía trên, nhìn phía dưới, một quãng sông thẳng tắp, nước trong xanh, chảy
xiết, mát mắt mát lòng.
Tôi có cảm tưởng là tôi đã đến
một chặng quan trọng của cả con đường dài. Nó như mở tầm mắt ra hướng về phía
đồng bằng xanh mát.
Bọn chúng tôi lại vào trạm một
cách ngang nhiên với cái “lết-xê-pát-xê” (laisser-passer:
giấy thông hành) sống là
Thu.
Trạm này có lẽ là một tổng
trạm, vì nhân viên vừa Kinh vừa Thượng có đến 9, 10 người. Có cả nhà ngủ, nhà
ăn, chuồng lợn và lợn. Trạm lại còn có một cái nhà vừa mới cất, nền nhà nện
phẳng phiu, nóc nhà lợp bằng lá kết ngay hàng như ngói.
Nhưng trời ơi! sự phức tạp ở
đây tôi chưa từng thấy ở bất cứ trạm nào. Có lẽ ở đây thu nhận cả khách ra Bắc,
khách vào Nam và khách đi các nẻo cho nên ngày thường mà người bệnh phải nằm
lại trạm có đến số trăm. Cách xa hằng cây số đã nghe tiếng náo động như chợ
họp. Cách vài trăm thước đã nghe mùi tanh tưởi, mùi hôi thối của một cuộc sống
vô tổ chức.
Chúng tôi phải vượt qua một bãi
phóng uế rộng như sa mạc để vào trạm. Hình ảnh tôi bắt gặp trước tiên là một anh
người Thượng cầm một cây AK giương sẵn lưỡi lê hầm hầm đi dạo qua các cái tăng.
Ai nom thấy y cũng đều lấm lét.
Ở đây thì có cả: sốt rét ác
tính lên cơn hò hét suốt ngày đêm, mê sảng bò xuống sông uống nước, kiết lỵ
không đi nổi cứ nằm tiêu trên võng, hai người ở chung một lều mắc võng trên
võng dưới, ăn cắp dép, bi-đông, ăn nấm độc, trúng thực v.v… Còn sốt rét thưòng
thì không kể làm chi. Mỗi một cái tăng là một ổ vi trùng, một trời bất mãn.
Anh giao liên người Thượng đang
đi chẫm rãi bỗng rảo bước nhanh về phía một cái tăng đang có khói bốc lên.
- Bây giờ là mấy giờ mà anh nấu
hả?
- Dạ ba giờ – Anh binh sĩ đang
ngồi chẻ củi đun ngước lên đáp.
Anh người Thượng quát:
- Lệnh mấy giờ mới được nấu?
- Dạ 6 giờ.
Bỗng anh người Thượng ném cây
AK xuống đất và leo vọt lên một gốc cây như một con khỉ bị săn đuổi. Anh leo
lên gần đến ngọn cây thì dừng lại, bẻ nhánh cây quất lia quất lịa như thầy pháp
đuổi tà. Tôi không hiểu anh ta làm gì vậy? Anh ta quơ một chập rồi tuột xuống
vừa nói vừa thở hổn hển:
- Anh có thấy tai hại không?
Trời mưa ẩm ướt, khói bốc lên đóng cục trên ngọn cây anh thấy không? Máy bay nó
bay ngang nó thấy rồi làm sao?
- Nó tưởng là hơi nước bốc lên
chớ gì!
- Nước gì? hả? anh muốn giết
người ta hả? – Rồi anh giao liên Thượng chụp lấy cây AK chĩa hai ba cái liên
tiếp. Tôi quay mặt đi.
Tiếng khóc nổi lên theo tiếng
chửi rủa của anh người Thượng.
- Tao cho mày chết. Xoảng!
xoảng! Vô kỷ luật! Xoảng!
Tôi quay lại thì thấy cái
ga-men của anh binh sĩ ngã lăn xuống đất, nước đổ xuống bếp khói tro bốc lên mù
mịt. Anh giao liên chĩa một nhát xuyên qua đít ga-men rồi vít nó văng ra xa
lắc.
- Đấy, ai muốn nấu thì nấu đi
xem!
Anh binh sĩ ôm mặt khóc rưng
rức. Thuận tay anh giao liên quơ lấy luôn mấy cái ga-men, xỏ xâu xách đi và càu
nhàu:
- Tao treo mõm chúng mầy tới
tối!
Tôi về trạm. Trời sắp mưa.
Không gì đáng sợ bằng mưa. Mưa
lạnh. Mưa làm tăng cơn đói. Mưa làm cho sốt. Mưa thêm sầu não, bi lụy.
May sao anh trạm trưởng về tới.
Anh nhỉn vô nhà và quát:
- Có mấy đồng chí trung ương
tới đây chưa?
Tôi còn lưỡng lự không biết có
phải anh ta hỏi chúng tôi không thì anh trạm trưởng đã chạy tới chỗ tôi và Thu,
lắp bắp:
- À, đây rồi! đây rồi! Tôi có
được trạm ngoài báo cho biết.
Tôi thở phào nhẹ nhỏm.
Anh trạm trưởng nói:
- Các đồng chí mắc võng trong
nhà mà nghỉ. Sáng mai tôi cho nó đi săn về cho các đồng chí làm lương khô. Lúc
này mới sa mưa, cỏ tranh mọc lún phún trên bãi tro của rẫy vừa mới đốt, nai ra
ăn ngọn tranh non từ hừng sáng. Đến mặt trời lên một chút là hắn ra bờ suối
uống nước. Tám giờ mai, các đồng chí sẽ có một con nai.
Quả y như lời hứa của anh trạm
trưởng, mặt trời lên ấm đất một chút thì nghe hai tiếng AK nổ.
Độ một tiếng đồng hồ sau, hai
người giao liên Thượng khiêng về hai cái đùi nai to hơn đùi bò, máu me đỏ lòm.
Lại còn đèo thêm một cặp sừng và cái đuôi nai. Họ mắc hai cái đùi nai vào nhánh
cây vừa xong thì người ta đến vây kín cả hai khối thịt đó. Có người xông vào
xẻo ngay một cục và chạy biến đi…
Anh trạm trưởng quát:
- Đi ra rừng mà xẻ. Còn nguyên
ngoài đó.
Tức thì cả đám người như một
đoạn cua-rơ đổi hướng, tủa ra chạy đi. Chỉ còn lại độ mươi bộ mặt ỳ ra đó, vừa
rên vừa xin:
- Chúng em bệnh quá không đi
nổi! Trạm trưởng cho em xin!
Anh trạm trưỏng cắt ném cho mỗi
người một cục, may được chỗ nào nhờ chỗ ấy.
Còn chúng tôi thì đưa cho anh
trạm trưởng mỗi người 200 đồng Miền Nam rồi tha hồ lấy thịt. Anh trạm trưởng
đưa cho tôi xem cái đuôi nai và bảo:
- Món này bổ lắm! Nhưng bổ nhất
là cái lộc nhung của nó. Nếu hôm nay săn được con nai tơ, tôi cho anh hút một
cái thì sáng mai anh nứt da ra thôi! Tụi tôi có đây mà không dám cho vô miệng
vì sợ nó hành xác… Ở đây túng … chỗ lắm… chịp!
Anh trạm trưởng nháy mắt nhìn
tôi một cách ma quỷ:
- Này, anh bạn có giới thiệu
cho mình được không?
- Ừ, để rồi… tôi … – Tôi ậm ờ
với Khanh.
Đang vui chuyện thì có người
chạy về báo cáo:
- Chúng nó giành nhau chém lộn
đổ máu ngoài đó đồng chí trạm trưởng!
Anh trạm trưởng cười:
- Làm gì thì làm, ngoài quyền
hạn của tôi, tôi không biết.
Anh trạm trưởng tỏ vẻ ái mộ
chúng tôi thật sự. Anh bảo:
- Cái gì chớ thịt ở đây tôi bảo
đảm cho các đồng chí. Chỉ sợ các đồng chí không có sức mang thôi!
Rồi anh bảo các nhân viên trạm:
- Kiểm soát gắt gao. Có thịt
về, nó nấu khói lên mịt trời đấy! Cái chỗ này sẽ ăn B52, nhất định!
Anh trạm trưởng nói với chúng
tôi:
- Ở trạm này chứa toàn là dân trời
đánh thánh đâm các đồng chí ạ! Có cả “bê quay” ở tít đằng kia đó.
Thu trố mắt nhìn anh trạm
trưởng:
- Bê quay à đồng chí? Có đắt
không?
- Đắt lắm. Thôi gọi bằng anh
cho thân mật. Tôi, tôi tên Khanh. – Anh trạm trưỏng nhìn Thu với cặp mắt mê đắm
– Cô có muốn xem bê quay tôi dắt đi?
- Em không muốn coi mà muốn mua
thôi!
Anh trạm trưởng có vẻ thích cái
tiếng “em” của Thu vừa tung ra. Anh bước ngay vào cái nhịp câu Thu:
- Được, để tôi giúp . Sợ em
không mua chứ!
Thu reo lên nhí nhảnh. Thu nói
với tôi:
- Mình may quá anh nhỉ? Vừa có
nai lại có cả bê quay.
Tôi thấy Thu đang vui chuyện
với anh trạm trưởng nên lảng đi xuống sông múc nước, để cho hai bên “đá lông
nheo” với nhau.
Khi trở lên, tôi ghé lại một
cái lều. Trong lều có hai cái võng, một chiếc trên, một chiếc dưới.
Trong lều có một xâu thịt và
một cậu đang ngồi chẻ những thanh nứa ra thành mảnh thật nhỏ để chụm không có
khói.
Tôi hỏi:
- Còn cậu nữa đâu?
- Đi kiếm thịt thêm.
Tôi nhìn trong lon ghi-gô thấy
có mấy cục thịt. Có lẽ không có dao hay không đủ sức xắt ra nên anh chàng để
những cục thịt to bằng bắp tay mà nấu.
Tôi lân la nói chuyện với cậu
ta một hồi lâu rồi về trạm. Tôi cũng đem thịt ra xắt, chuẩn bị kho thật mặn để
mang theo đường. Còn Thu thì đang vui vẻ nói về cái nghề múa của Thu. Thỉnh
thoảng Thu đưa tay, quơ chân làm cho anh trạm trưởng cứ híp mắt mà cười.
- Cấp cứu! cấp cứu! – Có tiếng
la bài hãi .
Anh trạm trưởng đang say mồi,
nhìn ra, thản nhiên nói:
- Chém lộn với nhau thì tự băng
lấy chớ ai mà cứu với cấp!
- Không phải đâu! Anh này đang
ngồi bỗng ngã ra chết tươi.
Nhưng anh trạm trưởng vẫn cứ
bình tĩnh:
- Thuốc ở đâu mà cứu?
Tôi cũng đi đến chỗ cái lều có
mắc võng trên võng dưới lúc nãy. Anh chiến sĩ ngồi nấu thịt nằm ngữa ra hai mắt
trợn lên, hai tay hai chân giăng ra như một con nhái nằm phơi bụng. Người ta
chạy tới cũng đông, la lối ỏm tỏi, nhưng không ai mó đến. Mỗi người một tiếng:
- Thằng này phải gió!
- Sốt ác tính, viêm màng não
rồi!
Tôi lấy làm lạ không hiểu anh
ta bệnh gì mà kỳ cục vậy? Tôi nhìn vô cái hộp ghi-gô. Tôi thấy thịt trong hộp
vơi đi nhiều. Tôi nghĩ hay anh ta nuốt một cục to không kịp nhai mà mắc nghẹn?
Nghĩ vậy, tôi nhìn cái cổ của anh ta. Quả thật nó hơi no ra như sắp nổi bướu.
Tôi bèn đưa tay ấn xuống và vuốt thật mạnh hai ba cái liền.
Tôi nghe một tiếng “ót” – Cái
bướu đó tan liền. Cục thịt đã chạy xuống và anh bạn thở ra nhẹ nhàng.
Tôi đỡ anh ta ngồi dậy. Cả đám
người cười rộ lên. Một cậu mỉa mai:
- Không có cái ăn chết đã đành,
có cái ăn cũng chết!
Tôi trở về trạm kể chuyện lại
cho anh trạm trưởng nghe. Anh ta bảo:
- Bọn này là lũ qủy phá nhà
chay đồng chí ơi! Tụi nó ở đâu thì thối đất thối đai đến đó. Mặc kệ nó, chết
một con nhòn một mủi.
Anh trạm trưởng vừa nói đến đó
thì “Ấm” một tiếng bộc phá nổ như một cái dấu chấm câu cho anh trạm trưởng.
- Đó, các đồng chí nghe không?
Nó đánh cá đó. Thuốc nổ của trung ương gởi về Nam, tới đây Hà Bá thu hết.
Anh quay lại bảo:
- Đứa nào chạy ra tìm cái thằng
chó chết đó cho tao coi.
Một lát sau, anh giao liên
người Thượng tay xách AK, tay đùn một anh chiến sĩ vô trạm… Anh này đi từng
bước một.
Vừa trông thấy mặt, Khanh đã
quát:
- Vô kỷ luật, đứng nghiêm nửa
tiếng đồng hồ!
Rồi anh quay lại nói chuyện với
Thu, không để ý tới anh chiến sĩ mặt xanh nanh vàng kia đang đứng nghiêm với
cặp chân như những cái cọc màn.
Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng
hồ, anh giao liên người Thượng đã chạy đi bắt ba người nữa về và tự anh ra lệnh
cho họ đứng nghiêm như người trước.
Có lẽ anh trạm trưởng thấy
thương tâm hay thấy họ đứng như vậy bất tiện cho câu chuyện giữa anh và Thu cho
nên quay đi quay laị, những người bị phạt đã lẩn đi hết mà anh cũng không nói
gì. Anh bảo anh giao liên người Thượng:
- Tha nó đi! Nhưng các cậu phải
đi tìm và tịch thu hết tất cả các bánh thuốc nổ cho tôi!
Anh giao liên vừa đi, Khanh nói
với tôi:
- Thì phải làm oai vậy chớ nó
đói quá mà! Nếu mình như nó, mình cũng không làm gì khác hơn.
—>Chương 30
- 30-
Một buổi sáng, tôi thức sớm.
Tôi định tập thể dục để lấy gân cốt. Nhưng vừa thọc chân vào dép thì tôi nghe
tiếng khóc, tiếng khóc oà lên như có người chết.
Tôi nhìn ra ngoài, đảo mắt nhìn
tìm xem ai khóc. Rồi tôi đi thẳng ra bụi nứa trước cửa nhà. Tôi hỏi một cậu bộ
đội:
- Ai khóc vậy?
- Thằng Trớn nó mất đồ nó khóc
– Cậu bộ đội vừa nói vừa trỏ tay.
Thì ra, người mất đồ là cái cậu
hằng ngày vẫn đến mượn cái bật lửa của tôi. Đã bốn năm hôm rồi, tôi gặp cậu ta
ở đây và cậu chỉ nằm một mình.
Tôi thấy xót xa quá. Tôi hỏi:
- Cậu Trớn mất hết đồ đạc phải
không?
Cậu thanh niên ngước lên nhìn
tôi, mắt đẫm nước mắt, mồm cậu méo xệch, đầu cậu ngoẻo sang một bên.
- Chúng nó lấy hết đồ đạc của
em anh ạ! Đêm qua sốt, em nằm mê man ..hu ..hu… – Trớn đưa tay gạt nước mắt và
khóc ngọt ngào – Chúng nó lấy của em hết tất cả những“món đồ chiến lược”, hu … hu . Thế nầy em đây làm sao tới
nơi được? hu ..hu…! …
Trớn cứ quệt nước mắt mà khóc
trước cái ba-lô bị trút hết đồ cũng có cái miệng méo xệch như miệng chủ nó .
Tôi ngồi xuống bên Trớn. Tôi đưa ta cầm lấy cái ba-lô. Nó lép kẹp như một bao
từ trâu đã trút hết cỏ.
Trớn lại cầm lấy cái ba-lô dốc
ngược xuống, những món đồ còn lại tuôn hết ra đất.
Trớn ném cái ba-lô sang một bên
rồi nói:
- Đấy anh xem những món đồ chiến lược của em mất hết rồi, khác nào nó chặt
chân em!
Tôi nhìn dưới đất thấy một quân
phục còn mới, một cái áo cổ vuông, một cái quần đùi, một cái áo lót mồ hôi của
nhà máy dệt Đồng Xuân, một tấm vải mủ rách, mấy băng đạn AK.
Tôi thầm nghĩ: chắc có lẽ cậu
này thuộc một binh chủng đặc biệt cho nên có những món đồ chiến lược. Nếu mất
những món đồ đó thì cậu ta không thể hoàn thành nhiệm vụ được.
Tôi không định hỏi, nhưng Trớn
nói ngay:
- Chúng em mỗi đứa được hai bộ
quai dép, một bộ tra vào dép rồi, còn một bộ cất kỹ trong ba lô để phòng đường
xa, không có nó thì không đi được. – Trớn đưa bàn chân ra và tiếp – Cái quai
dép của em đứt mấy lần rồi mà em chỉ nối chứ không dám thay cái mới. Bây giờ
thì nó lấy cả dép lẫn quai của em rồi. Còn bộ quai dép xơ-cua bỏ trong ba-lô nó
cũng lấy tuốt.
Trớn xốc từng cái quần cái áo
lên và nói:
- Cái túi thuốc nó cũng lấy
luôn. Nửa kí-lô mì chính (bột ngọt) em không dám ăn còn nguyên với nửa kí-lô
muối nó cũng lấy mất. Mất những thứ đó, em chỉ còn có chết!
Tôi mới hiểu ra những “món đồ
chiến lược” là những món đồ gì?
Bỗng Trớn cuống cả lên. Trớn
cầm lấy chiếc áo mới, xộc tay vào từng túi.
Thấy anh ta bối rối, tôi hỏi:
- Mất chứng minh thư đi đường
à?
- Không, cái đó thì em lại
không thiết. Giao liên nó không cho em đi thì em càng thích .
Trớn ngồi xuống xộc tay vào các
túi của chiếc ba-lô với một cử chỉ vô cùng tuyệt vọng, anh ta hất cái ba-lô
văng ra:
- Thôi rồi, mất nữa rồi!
- Vàng à?
- Không, một món hàng chiến
lược quan trọng nhất, đó là cái bật lửa!
Tôi nói:
- Theo tôi biết, để cho các cậu
không dám trốn vì trong mình không có bật lửa, mỗi tiểu đội chỉ có một cái bật
lửa do tiểu đội trưởng giữ, sao cậu có riêng một cái?
Trớn hơi quạu, cậu ta câng câng
cái mặt lên:
- Ờ, của em chứ! Em mua cái bật
lửa 3 số 5, em nghiện thuốc lá mà!
Tôi khổ tâm vô cùng, nhưng
không biết làm gì để giúp cậu bé, tôi vỗ vai cậu ta và bảo:
- Tớ sẽ cho cậu mượn bật lửa
mãi mãi!
Rồi tôi đi vào nhà. Thu đã thức
dậy, nàng ngồi trên võng, gác một chân lên mép võng, một chân thòng xuống dép,
để trần ra đến đầu gối. Tôi bàng hoàng. Thu không ngờ tôi đang bị xúc động vì
đôi chân của nàng hay nàng muốn khoe với tôi đôi chân mà nàng biết rằng tôi mê
đắm. Nàng cứ ngồi nguyên như vậy và duỗi thẳng chân đau ra, tươi cười với tôi:
- Anh xem này, cái cổ chân của
em thường rồi!
Đôi chân Thu tuy hơi gầy, dày
sành đạp sỏi hơn một tháng nay nhưng cũng vẫn cứ ửng lên màu quí phái.
Tôi nhìn cái bắp chân trắng
muốt. Bỗng nhiên tôi ngồi khuỵu xuống đất.
Tôi đưa tay ra, bất giác tôi
bóp mạnh một cái.
- Đau không? Em thấy đau không?
- Đa….au! Thu cau mặt.
- Thế sao bảo như thường rồi?
- Anh bóp mạnh quá – Thu vui vẻ
– Vừa thôi chứ anh! Anh lại muốn khiêng em trên vai nữa à?
Mắt Thu lấp lánh niềm vui. Tôi
nghe mặt mình nóng bừng. Tôi không đứng lên nổi nữa.
Tôi đưa ngón tay gõ gõ vào bàn
chân Thu. Thu đập vào vai tôi. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi chụp lấy cổ tay Thu siết
chặt và nghiến răng ken két:
- Dữ hả? Dữ hả?
Thu nhắm mắt vung tay ra và kêu
lên:
- Ôi đau, trông anh như muốn
nuốt sống em vậy!
- Ừ, ừ nuốt sống!
Tôi đứng phắt đậy, định nói,
định làm cái gì nhưng tôi lại chạy vụt ra ngoài. Một chốc định thần xong, tôi
trở vào. Tôi nói:
- Đêm hôm đó, anh ngủ trên ngọn
cây, anh lấy làm ân hận sao mình đã đi bệnh xá làm gì để phải chịu một đêm cô
đơn bạc tóc như vậy.
Tôi kể tiếp cho Thu nghe về
tiếng gọi của cặp chim ân tình, việc cọp rình và chiếc bi-đông rời trúng lưng
“Ông” ta. Thu ngồi chăm chú nghe, hai tay thu lên ngực và rùng mình từng chập.
Tôi nói tiếp:
- Anh sẽ thấy bớt cô đơn hơn
nếu cùng lúc đó, ở nhà em cũng nghe tiếng chim ấy với anh!
Thu nhìn tôi đôi mắt hơi lơ mơ:
- Tiếng chim như thế nào?
- Nếu nhại thì khó lắm nhưng
đại khái là một con trống và một con mái. Con trống kêu:”đến đây nhé!“,
con mái đáp:“mau đến đây!“
- Anh chỉ tưởng tượng! – Thu
với tay tát vào vai tôi.
Tôi cười xoa:
- Thì nằm giữa rừng anh tưởng
tượng như vậy mà nhớ em.
Đôi má ửng lên, Thu vui vẻ nói:
- Để yên, em kể cho anh nghe sự
tích con chim ấy. Nhưng em hỏi anh nghe tiếng chim đó lúc khuya và khi nó hót
tiếng cuối cùng hoà hợp nhau là trời bắt đầu đâm mây ngang phải không?
- Phải! – Tôi nói tiếp – Đôi
chim ấy là đôi tình nhân em nhỉ?
- Vâng!
- Ước gì chúng mình là đôi chim
đó!
Mặt Thu bỗng biến sắc, rắn lên
như mặt hồ đang ấm nắng mùa xuân bỗng trở thành băng giá. Thu nhìn tôi trân
trân không chớp mắt. Còn tôi thì vẫn cứ cười đùa và trêu ghẹo Thu bằng những
cái nháy mắt của tôi.
Thu kêu lên như bị ai hốt hồn:
- Ơ ơ! Anh! Em không biết đâu
đấy! Em không thích anh đùa như thế.
- Không, anh không đùa đâu, anh
nói thật để cho em đề phòng.
Thu cúi nhìn mũi chân nàng. Tôi
nói luôn:
- Anh hôn bàn chân đau của em
một cái nhé. Cho nó khoẻ lên rồi mai đi! Nhưng không phải anh hôn chân em đâu
mà chính là anh hôn cái nghệ thuật của chân em cống hiến cho đời. – Tôi nói một
cách hết sức bình thường – vì thế anh không yêu em thì anh không chịu được.
Thu vẫn không ngước lên. Những
mớ tóc xoà ra phía trước che hầu kính gương mặt Thu. Thu đưa tay ôm sát ngực
như để ghìm lại trái tim đang đập mạnh. Thu cho cả cái chân đau xuống dép như
để lấy thăng bằng. Thu lẩm bẩm:
- Ai anh cũng yêu!
Tôi vui vẻ:
- Em trách anh làm gì chuyện
đó?
- Không, em đâu có trách anh!
Thu lặng lẽ nhìn tôi với đôi
mắt đờ dại không còn ánh sáng. Rồi Thu khẽ lắc đầu:
- Anh đừng yêu em!
- Tình yêu như trái chín. Làm
sao ngăn cản được?
- Em không chịu đựng nổi tình
cảm mãnh liệt của anh!
Tôi quì sụp xuống và ôm chặt
lấy đôi chân nàng.
Tôi nghe như có một khối nam
châm hút tôi vào một vật gì mềm mại và ngạt ngào hương.
Bên tai tôi tiếng gió rít,
tiếng suối reo. Một cánh buồm đang no gió hứa hẹn một cuộc vượt trùng dương.
—>Chương 31
- 31-
Bên ngoài đang lao nhao lên,
không biết việc gì. Mấy người giao liên mệt lử đang ngồi ngoài sân.
Khanh hỏi:
- Xem chung quanh chuồng, không
có dấu chân của Ổng à?
- Không có đâu. Đêm qua đâu có
tiếng chim “tránh khỏi” quanh vùng này- một người dộng dộng chiếc gậy xuống đất
và nói tiếp:
- Chuồng không có lỗ trống,
chung quanh không có dấu chân “Ông lớn” thì chỉ còn các “Ông nhỏ” nhà mình thôi
chứ ai vô đây?
Khanh bảo:
- Anh em toả rộng ra tìm xem,
kẻo nghi oan cho người ta.
Ngoài mặt thì Khanh nói vậy để
anh em trong trạm không chĩa mũi nhọn vào khách, nhưng sự thực thì Khanh nghi
quyết cho khách. Cái vụ con heo bị xén mất cái đùi sau mới xảy ra hôm trước đâu
có lâu gì. Nhưng khách mà Khanh nghi nhất là “khách trời ơi”.
Khanh bảo:
- Các cậu ra nói với anh chỉ
huy tốp “bê quay” cho tập trung tất cả vô đây! Nói trạm trưởng mời!
Khanh không dám dùng tiếng bảo,
mà nhũn nhặn nói là “mời”. Lạ quá, một con lợn ở giữa chuồng lại mất tích trong
đêm qua. Chỉ có Phật trên toà sen mới im lặng được. Cái vụ trước Khanh đã bỏ
qua rồi. Chiều hôm qua khi đám “bê quay” đến, Khanh đã ái ngại, nhưng làm sao
bây giờ. Dù sao thì mình cũng phải coi họ là….đồng chí.
Họ bắt bằng cách nào mà con heo
không kêu?
Tôi hỏi:
- “Bê quay” là đơn vị nào mà kỳ
cục vậy đồng chí?
- Nó không phải là một đơn vị,
nó là một đám vô tổ chức gồm tất cả lính của các đơn vị đi Nam mà quay trở lại.
Đi Nam gọi là đi B, cho nên đi B mà quay trở lại, người ta gọi là “bê quay”!
Khanh lắc đầu nguầy nguậy:
- Cái tốp này thì ghê lắm đồng
chí ạ! Nó không sợ cái gì hết muốn làm gì thì làm, kỷ luật quân đội chúng nó
đem ra nó nấu giả cầy hết rồi.
Một người từ bên ngoài đi vào.
Anh ta gầy gò, hai má hóp hẳn vào, hàm răng trên xỉa ra như cười. Anh ta nói
giọng lạnh lùng, dường như anh cảm thấy trước có việc gì không hay:
- Tôi là Chừng, chỉ huy trung
đội Bê quay đây. Đồng chí cho tập trung họ lại làm gì?
Khanh thấy hơi ngại vì phải
tiếp xúc với mấy người này. Khanh nhã nhặn:
- Cũng có chút việc đồng chí ạ!
Những người mặc quần áo bộ đội,
nhưng mỗi người một kiểu cách riêng, đã kéo vào. Chừng bảo:
- Ngồi cả đấy!
Khanh nói:
- Cách đây mấy hôm chúng tôi bị
mất một cái đùi heo. Đáng lẽ thì phải nói mất cả con heo, nhưng vì người ta chỉ
xén có một đùi. Con heo tôi vừa xổng ra khỏi chuồng gặp mấy trự, mấy trự đè con
heo xuống xén phăng đi một đùi. Các anh coi trên trời dưới thế có ai chơi ác
vậy không? – Khanh cố thỏo đều đặn để không phải bốc lên – Đêm qua lại bị mất
một con nữa. Lần này thì chúng tôi mất nguyên con.
Chừng không đủ kiên nhẫn nghe
tiếp. Anh cắt ngang:
- Chuyện đó có ăn thua gì chúng
tôi. – Nói xong Chừng ngồi chồm hỗm xuống và móc thuốc ra cuộn hút một cách
bình thản.
Khanh hơi nóng mắt.
- Có chứ! không thì sao tôi “dời”
các anh vô đây làm gì? Các anh xem đó, trạm chúng tôi có mấy anh em, ở giữa
rừng sâu này kí cóp nuôi được mấy con heo tự túc. Các anh đáng lý phải thương
chúng tôi lắm mới phải. Các anh lại làm như thế!
Một anh mặc áo cổ vuông quần
đùi, để lột tay đầy nốt thâm đen, nghênh mặt lên, cái mặt tròn như cái bánh ếch
trần. Anh ta nói rất nhanh:
- Chúng tôi hiểu ý của đồng chí chạm chưởng rồi tức nà đồng chí nghi anh em chúng tôi đã nàm thịt con nợn của đồng chí chứ gì! Chúng tôi không
thể nàm những chuyện như vậy, mặc dù chúng tôi đang bị “thích” cho một cái chữ
không tốt nên trán nà thằng “Bê quay”, nhưng quay thì
quay chứ, đi B chúng tôi không đi thì chúng tôi quay lại. Trở về Bắc chúng tôi
sẽ ra khỏi quân đội. Nhưng hễ nà Bê quay rồi thì chúng tối không còn ra
cái thớ gì nữa hay sao?
Một anh gầy nhom, răng khểnh,
tóc xụ xuống che cái trán như một cái lưỡi trai, anh ta dựng một tay lên đầu
gối và nói theo nhịp giơ lên bổ xuống của cánh tay này và không nhìn vào trạm
trưởng:
- Chúng tôi vào quân đội không
phải để ăn cắp! Vì thế người ta không thể muốn trét bùn vào mặt chúng tôi lúc
nào thì trét, và nhất định là chúng tôi không thể để người ta trét bừa. Chúng
tôi quay trở lại vì chúng tôi không thích đi Nam. Như thế không phải là chúng
tôi hoàn toàn mất hết phẩm chất. Chúng tối bị lột mũ, lột sao trên đầu nhưng
chúng tôi không cần.
Một người gầy nhom đứng phắt
lên lêu đêu khẳng khiu như một cái cọc mắc võng.
Anh ta nói giọng từ tốn, chấm
phết rất rõ ràng như một giáo viên đang giảng bài:
- Trạm mất đồ, trạm có quyền
nghi ngờ. Đó là quyền của trạm. Chúng tôi là khách chỉ nghỉ chân một đêm ở đây
rồi đi. Và chúng tôi bị trạm nghi ngờ. Phải nói trắng ra như vậy. – Anh ta nuốt
nước bọt một cách trầm tĩnh – Thế nhưng nếu muốn buộc tội kẻ khác, chỉ nghi ngờ
thôi chưa đủ, cần phải có bằng chứng. Chúng tôi, những kẻ bị nghi ngờ, không
biết dúng hay sai, mong chờ trạm trưởng bằng chứng đích xác!
Chừng, nãy giờ ngồi hút thuốc,
xem như chuyện của ai không phải chuyện của mình, bây giờ mới lên tiếng:
- Tôi nói thật với anh nhé anh
trạm trưởng – Chừng cười mũi – trong đời tôi chưa bị ai làm nhục nhưng trên
đường Trường Sơn này thì tôi bị rất nhiều lần, mà đây là một. Tôi đã từng mang
nhiều thương tích trong người đây, đây, và đây – Anh xăn quần vạch bụng và đập
vào tay – Nhưng ngày hôm nay tôi coi công lao của tôi như dã tràng xe cát chỉ
vì tôi không chịu đi Nam, chứ đến bây giờ nếu tôi tình nguyện đi thì tôi sẽ
được phục hồi chức vụ cũ. Nhưng đối với tôi cái gì tôi đã quyết định rồi là tôi
không thay đổi. Tôi nói như thế để cho các anh biết rõ về tôi là một thằng như
thế nào!
Chừng ngưng một chút rồi tiếp:
- Người ở đây năm cha ba mẹ, cá
mè một lứa không ai khiển được ai. Cho nên các anh mất lợn thì các anh cứ tìm
bằng chứng, nếu các anh bắt được ai , người đó chịu, còn tôi thì tôi chẳng chịu
trách nhiệm về ai cả.
Khanh nói:
- Ở đây không phải chúng tôi
đòi các anh thường bồi gì cả.
Một anh “Bê quay” la to:
- Chúng tôi chỉ yêu cầu các
đồng chí đừng có đem ách giữa đường mà mang vào cổ chúng tôi.
- Vậy cái gì đây? – một anh
giao liên ném một cái ga-men vào giữa sân rồi đứng nghênh mặt nhìn đám “Bê
quay”: – Còn chối nữa thôi?
- Nhưng đâu phải của chúng tôi?
Anh giao liên nóng tiết, nhảy
cỡn lên như đạp phải gai:
- Các anh cương quyết không
nhận phải không?
- Có đâu mà nhận?
Anh giao liên quay ra ngoài nói
tiếng thiểu số. Một chốc hai anh thiểu số mang vào ba chiếc ba-lô no phình.
Đám Bê quay bắt đầu nhớn nhác.
Chừng nhìn xuống đất. Chẳng ngờ những bằng chứng laị rõ rệt một cách tàn nhẫn
như thế. Khanh rất tức tối không họ cự laị Khanh, nhưng bây giờ Khanh lại thấy
khổ. Khanh muốn ngăn anh giao liên lại, nhưng hai anh thiểu số đã mở mấy chiếc
ba-lô và lôi ra những gói thịt luộc chảy nước ròng ròng. Họ ném tất cả xuống
đất. Nào thịt nạc, nào gan, nào phèo… Cái đầu lợn còn nguyên. Cặp mắt con lợn
trợn lên và cái miệng bạnh ra như cười đời.
- Ba-lô này có phải là ba-lô
của các anh không?
Hai anh thiểu số khoa tay múa
chân. Họ nói sùi cả bọt mép. Một người sấn tới trước đám “Bê quay” nom sát vào
mặt họ và vung cả nắm tay lên.
Khanh nói bằng tiếng thiểu số
một thôi dài. Hai người thanh niên mới chịu nín hẳn.
Khanh nói với Chừng:
- Thôi cho anh em về đi. Ba-lô
của anh nào thì cứ mang về.
Chừng đứng đậy, phủi đít chửi
đổng một câu:
– … mẹ! ngày mai có ra đường
lấy cái thúng mà úp cái đầu lại!
Tôi và Thu đứng trong nhà xem
rõ từ đầu đến cuối. Nhìn những miếng thịt nằm lăn lóc trên sân tôi không còn
hiểu ra làm sao nữa.
Anh chàng cao lêu đêu và cái
anh có mái tóc như cái lưỡi trai vẫn còn ở đó đợi cho mọi người đi hết rồi, hai
chàng hiệp sĩ mới bước ra hay tay xách mấy cái ba-lô kéo lết dưới đất vừa đi
vừa lầm bầm:
- Mẹ nó, nó sợ xấu mặt không
xách, cứ để cho mình!
Anh cómái tóc như lưỡi trải ngó
quanh quất rồi bước ra xách ba-lô và quay lại chợt trông thấy Thu, anh ta cố ý
làm ra vẻ tự nhiên. Anh ta cất giọng hát:
- Súng một nòng, đạn hai viên, bắn
ai chẳng bắn , tôi chỉ bắn cái thuyền quyên của nàng… i i i i.... rồi ngất
ngưỡng đi thẳng.
Khanh ngồi trong nhà cố ý tránh
mặt để họ lấy ba-lô của họ cho đỡ ngượng. Khanh quay sang tôi và Thu:
- Anh chị xem họ coi trời bằng
vung chưa?
Khanh lắc đầu và thở dài. Khanh
lấy thuốc ngồi hút, chẩm rãi phà từng ngụm khói và lại lắc đầu:
- Tôi làm trạm trưởng ở xứ này
đã hai năm. Tôi đã đụng với các bố nhiều trận lắm, có trận các bố suýt bắn tôi,
nhưng chưa có trận nào tôi bị như trận này.Tôi thắng mà tôi khổ tâm . Thắng mà
khổ hơn bại, còn hơn đại bại.
Tôi kiếm cách lảng đi, không
muốn nghe thêm.
Qua con sông này rồi thì tôi
mới chắc ăn. Dù bệnh nặng người ta cũng không đưa ra Bắc nữa.
Cho nên đã có những người như tôi
khi qua được con sông này rồi, lột nón xá dài.
Còn ai lơ mơ không quyết tâm đi
Nam thì nằm lại đây “suy nghĩ”, hoặc tìm, hoặc tạo lý do để mà “quay”.
Tôi và Thu là tiêu biểu cho hai
hạng người trên đây: Tôi thì sợ bệnh nặng, bị cáng trở ra Bắc. Còn Thu thì suy
nghĩ với chiều hướng làm “bê quay”!
Riêng ông Chín thì đã đuổi kịp
một trong những người mang đồ ăn giúp ông nhưng các vị này đã xơi hết nhẵn rồi.
Chúng tôi thấy ở trong trạm
chật chội và riêng Thu đã bị anh trạm trưởng trổ mòi lôi thôi, cho nên chúng
tôi dời ra rừng mong tìm lấy sự yên tĩnh.
—>Chương 32
- 32-
Một buổi sáng, tôi thức giấc,
trăn trở mãi không ngủ tiếp được. Tôi định ngồi dậy nấu nước uống thì nghe
tiếng bàn tán bên cạnh vọng sang:
- Mổ đi! không mổ cũng chết!
- Không có lấy một cái
bistourie lấy gì mà mổ?
- Trong đoàn có ai mang theo
nô-vô-ca-in không?
- Có tôi đây!
- Nó lăn lộn từ tối đến giờ.
- Ruột thừa bạo phát rồi!
- Mổ ngay thì có thể sống!
- Nhưng chả lẽ mổ bằng lưỡi dao
găm của hợp tác xã phố Hàng Hòm?
- Bậy nào, sao lại dính cái
Hàng Hòm vào đấy?
Một tiếng reo lên phấn khởi:
- Tớ có cách rồi!
- Cách gì?
- Lưỡi cạo râu. Tuyệt!
- Không được đâu, phạm chết!
Im lặng hồi lâu, rồi lại:
- Không mổ cũng chết!
- Ờ, không mổ cũng chết!
- Mổ may ra còn sống. Có một
ông bác sĩ đi công tác miền núi bị bệnh dọc đường. Ông ta soi kiếng và tự mổ,
ấy vậy mà sống!
- Chớ sao!
- Thôi đừng cãi nữa, quyết định
đi. Cậu nào giúp tớ này. Đem nô-vô-ca-in ra đây! Căng tăng lên che bụi. Nấu
nước luộc kim. Cậu nào có Gillette cho xin một lưỡi.
- Nhưng hãy hỏi nó đã.
- Hỏi gì? Ai lại hỏi bệnh nhân!
- Tớ ớn lắm, lưỡi lam mỏng dễ
phạm lắm!
- Thì đây là cầu may thôi mà.
Tôi rởn ốc khắp người. Mổ ruột
thừa mà bằng lưỡi cạo râu. Có lẽ đây là một sáng kiến phải được xếp cao hơn cái
xe ba-gác ở làng Ho và cái cần câu trên quốc lộ 1.
Sáng hôm đó chúng tôi bị một
trận bom tơi bời. Vừa chết vừa bị thương 20 mạng.
Cuộc sống ở bờ sông này vốn đã
phức tạp càng trở nên bi đát và phức tạp hơn sau trận bom. Có người cháy rụi
tài sản, có người mất đầu, có cánh tay văng mắc trên cành cây. Nhốn nháo, khóc
lóc, chửi bới, văng tục, tro than, máu me, quát tháo, xác chết …
Những cặp mắt dáo dác, nhớn
nhác, những gương mặt lầm lì choắt lại, những gò má sị ra, những bàn tay khô
gầy, những cái dạ dày ọc ạch nước suối…
Có lẽ Khanh đã quen chịu cái
cảnh này cho nên Khanh cứ bình tĩnh như thường.
Khanh ra lệnh cho tất cả chiều
này sẽ vượt sông ở một quãng cạn có thể lội qua được. Như vậy không cần đến bè,
mãng và thuyền. Trạm của Khanh chỉ có một cái thuyền độc mộc bể nát.
Tôi gặp cái anh chàng y tá Nam
bộ bị phân công về Khu 5 ở đây trong lúc sắp sửa lội qua sông. Anh ta tự giới
thiệu tên là Năm, và anh em tặng cho biệt hiệu là Cà Dom (một loại ghe làm bằng
thân cây cổ thụ) vì hồi ở tiểu đoàn 307 có lần Năm một tay cầm ba khẩu súng trường
giơ lên và lội xốc đứng qua sông.
Năm Cà Dom ngồi tâm sự với tôi.
Mở đầu Năm Cà Dom đã chửi đổng ngay:
- Tổ chức cái … cái … chớ tổ
chức. Người ta quê ở Hóc Môn nó lại phân công về Khu 5. Lặng im mà đi thì thôi,
cãi lại nó cho đi Lào. Tôi nói thiệt với anh, thằng nào đi vô đây cũng bất mãn
một bụng.
Rồi Năm Cà Dom dịu giọng ngay:
- Thế là thoát anh ạ! Tôi nói
thiệt tôi về tới quê phen này tôi nuôi ngựa đua.
Năm Cà Dom lắc đầu lia lịa:
- Chào ồi! Tôi vô tới đây tôi
mừng hết lớn. Qua con sông ôn dịch này nữa là alê quất ngựa chuối một “tăng” là
tới nơi. Tôi hỏi thật người anh em nhé! Sống mười mấy năm trên đất Bắc, người
anh em có cảm tưởng gì khi qua khỏi cây cầu treo ở ngọn Bến Hải?
Tôi cười. Năm Cà Dom nói tiếp:
- Tôi nói thật, tôi lột nón xá dài. Thiệt tình, tôi vái cả mũ.
Năm Cà Dom cười khắc khắc và vỗ
đùi tôi, có vẻ đắc chí vì đã qua mặt được các trạm mà lọt, vô tới đây.
Tôi chợt nhớ câu chuyện lúc
sáng. Tôi hỏi:
- Cậu có biết cái đoàn nào đó
định mổ ruột thừa cho thằng nào bằng lưỡi lam không?
- Biết chớ! Nhưng mà biết làm
thế nào? Ở đây không có cái gì bình thường nữa hết! Để vậy thì chết, mổ bừa may
ra khỏi chết. Cũng như tôi, như anh vậy.
- Tôi có đau ruột thừa đâu…!
- Chúng mình đau “ruột thiếu”
…khè ..khè… Tôi nói như vậy là nếu mình ở ngoài Bắc thì chắc chắn chết, còn về
Nam thì có thể chết nhưng may ra còn sống! Thế đó! Chúng mình đi trên con đường
này thì cũng ví dụ như thằng kia mà bị giải phẩu bằng lưỡi lam vậy thôi! May ra
thì sống.
Bỗng nghe tiếng la quát loạn xạ
ở phía bộ đội tập họp:
- Bắn bỏ! bắt được bắn bỏ!
- Thằng nào “quay” đó?
- Năm sáu thằng!
- Cho truy lùng ngay. Lôi về
đây cho tôi!
Năm Cà Dom cười mũi:
- Lùng con mẹ gì! Không khéo
mất cả chì lẫn chài nữa bây giờ!
Năm Cà Dom tiếp:
- Ta đã bảo ở chỗ này thế nào
tụi nó cũng “quay” dữ lắm! Con sông này chẳng khác nào cái Bến Hải thứ hai. Nó
không chịu đi mà bắt ép mãi nó phải kiếm cách chuồn. Ở ngoải, nghe bài ca và
ngâm thơ trên đài, thằng nào cũng tưởng bở, cắt tay lấy máu viết
“hú…úy..ết..ết…” tâm thư xin đi Nam, bốc tếu tới trời. Ai dè vô mới có ba trạm
đã bắt đầu thấy “bê quay” lai rai rồi. Càng vô càng “quay” tợn. Chúng nó biết
hễ vượt qua con sông này là khó bề “quay”.
Tôi biết Thu đang khó ở, nhưng
biết làm sao, đã đi là phải đi bất kể trời đất, bất kể bệnh tật. Người ta đi
tới như gió bão. Mình không thể ngồi lại nhất là ngồi lại bên bờ sông, làm mục
tiêu cho máy bay. Đến giờ phút chót tôi mới hỏi Thu:
- Em biết lội không?
- Biết!
- Thế thì hay quá! Tôi reo lên
– Trông người ta lội qua thì thấy có chỗ ngập đầu đấy em ạ!
- Ấy chết! Ngập đầu thì làm sao
mà lội. Phải
bơi chớ ! Em chẳng
biết bơi đâu!
Trời mới vừa nhá nhem. Cát trên
bãi sông trắng lên mãi màu sai mạc hoang dại. Mặc dầu những đoàn người đang
chạy làm cho bụi bốc lên mù mịt, tôi vẫn cảm thấy một sự man rợ của những nơi không
có dấu chân người. Tôi chẳng biết con sông này bắt nguồn từ đâu và nó tưới
những thành phố làng mạc nào. Phía trên nguồn đổ xuống đến đây nó eo thắt như
một cái cổ chai. Nước trào lên, sủi bọt trắng tràn qua những tảng đá và lao tới
như những đàn ngựa bất kham.
Rè..rè… rè… có tiếng máy bay ở
phía dưới dòng. Pập…pập.. pập.. Không gian loè lên ánh chớp. Những đốm sáng
tròn nhóang lên tủa ra như những cụm pháo bông nhỏ, rồi vụt sáng lên, xé rách
cả một vùng trời. Ánh sáng lan đến chỗ tôi và Thu đứng.
Chiếc máy bay cứ bay, vẽ thành
vòng tròn quanh những trái pháo sáng. Cứ chốc chốc lại pập pập pập, pháo sáng
lại phụt ra, chẳng mấy chốc mà những chấm đỏ đầy cả một vùng trời như những
chùm ớt chín cây. Quát tháo ầm ĩ:
- Qua nhanh đi.
- Nhanh thế nào được…
- Cứ đi, nó không thấy đâu!
- Nhanh lên, nó tới đấy!
Nước tung lên trắng xóa từng
nơi. Bước chân lội ầm ầm hỗn độn. Người ngã. Súng rơi trên đá. Lại trườn dậy,
lại chạy, lại sụp xuống hố, lại ngã. Nước vẫn chảy ào ào. Tôi dìu Thu đi trong
cái đám người đang đạp bừa lên nhau qua mặt nhau ấy. Tôi tự bảo: “Không thể
cuống lên được. Sự bình tĩnh trong lúc này rất cần thiết”.
- Cứ đi chậm chậm,em! Có anh
đây đừng sợ!
Có lẽ Thu chưa trông thấy cải
cảnh qua sông như thế bao giờ. Trông như một cuộc chạy loạn. Mặc cho người ta
vượt lên, Thu vẫn cứ dò từng bước, bước thật chắc. Đó là kinh nghiệm đã học
được trong những lần qua suối.
Một người xỏ chân vào kẹt đá
kêu cứu. Một người đổ ầm xuống, nước bắn vào người Thu. Một người đang lom khom
mò chiếc dép sút bị một người khác cỡi bừa lên lưng, hai người cùng ngã, chửi
nhau ầm ĩ.
Càng đi ra xa, sông càng sâu.
Nước đã ngấn tới đùi. Tôi xót xa nhìn Thu qua ánh pháo sáng. Nét mặt Thu tái
nhợt. Tay Thu như không nhấc gậy lên nổi nữa.
- Cố gắng lên em! – Tôi càng
bám chặt cánh tay Thu.
Nước sắp đến lưng. Hai người
khiêng cây súng gì có vẻ nặng nề. Họ bước rất chậm. Họ thở hổn hển. Bỗng “ầm”
người đi sau sụp ngã, người đi trước ngã theo.
Hai người đi phía sau, có vẻ
cùng một tổ, nhảy tới. Một người rên:
- Nắm chắc kẻo rớt súng!
Một tiếng hét:
- Đi về phía này cạn!
Tôi nhìn về phía có tiếng kêu.
Ở đó nước chỉ quá đầu gối. Tôi bảo Thu:
- Đi về phía đó em!
Đến bờ, Thu ngồi phệt xuống.
Tôi xốc lấy chiếc ba-lô trên lưng Thu và nắm lấy tay Thu đứng dậy.
Những tốp người qua khỏi sông,
bắt đầu chạy như gió. Bãi sông bên này rộng mênh mông. Cát bốc lên như sa mù ác
mộng. Người ta phải chạy vượt lên, qua cho khỏi chỗ này. Bước dẫm lên hố bom và
mảnh đạn. Thu không thể nhấc chân chạy nhanh được. Thu ngã đầu vào vai tôi. Tôi
ôm quàng sau lưng Thu. Thu kêu:
- Em đau bụng quá!
Một binh sĩ chạy vượt lên. Chân
anh ta bước hụt xuống một lỗ bom. Toàn thân anh ta cùng với khẩu súng và bao
đạn ngã xuống đánh “rậc” một cái. Cây súng văng ra xa lắc. Tôi và Thu đi qua.
Anh ta vẫn nằm sải tay
ở đấy. Nhiều người nhảy qua lưng anh. Hai người khiêng cây súng gì lúp xúp chạy
qua. Họ xoay trần và mặc quần đùi, lưng họ lấp loáng nước hay mồ hôi.
Cây hai bên đường cháy trụi hết
lá. Từng cành in trên nền trời như những bộ xương trong cõi hư vô. Người ta vẫn
chạy hồng hộc. Bụi bốc lên xốn cả mắt, nồng cả mũi.
Ở phía sau tôi, chiếc máy bay
vẫn rè rè lượn vòng và pập pập pập. Thu lả ra. Tôi định ngồi laị nhưng có tiếng
quát:
- Chạy mau lên. Xa 4 cây số mới
dừng lại!
Tôi lôi Thu đứng dậy. Thu như
cái xác không hồn.
Tôi bảo:
- Ngồi đây máy bay bắn chết!
Thu cố đứng dậy tựa hẳn vào tôi
và thều thào:
- Em có … kinh!
Tôi rùng mình.
Thu oà lên khóc: – “Để em ở lại
đây thôi anh ạ!”
Những tốp người cứ rào rào lướt
qua. Súng ống khua lách cách, tiếng kêu với tiếng chân chạy ùynh uỵch, tiếng
máy bay ù ù, tiếng thét rống lên.
Tôi bảo:
- Mặc kệ. Thu cứ đi chầm chậm!
Và tôi lôi Thu đi trong sự bát
nháo hỗn độn đó.
Thu lê chân theo tôi. Mỗi một
bước đi Thu lại kêu lại khóc. Thu dùng dằng không chịu đi. Rồi Thu ngồi phệch
xuống nhu một cái bao cát rơi đánh phịch.
Tôi ngó quanh quất để tìm một
người quen. Nhưng ai mà nhận là quen với chúng tôi trong lúc này?
Thôi cũng mặc. Cứ phó cho Trời.
Tôi lục ba-lô lấy võng mắc lên
và bế Thu lên nằm.
Cái võng mắc vào hai cái cây đã
bị thuốc độc làm rụng hết lá đúng trơ xương ra. Ở đây là khu tử địa. Máy bay
rải chất độc làm thành vòng đai trắng để kiểm soát người vượt sông.
Ở đây là vùng ranh giới của
bóng tối và ánh sáng. Những trái hoả châu soi sáng mặt người lan tới đây. Đi
quá về phía Nam là sụp vào trong vũng tôi.
Tôi ngồi bên võng Thu mà nhìn
những đám người ướt lóp ngóp ì ạch nặng nề đi qua, mình mẩy ướt đầm, hình thù
quái dị chẳng khác một lũ âm binh từ cõi dưới hiện về.
Bỗng tôi nghe tiếng quát:
- Trở lại! Trở lại mau!
Một tiếng trả lời yếu ớt:
- Tôi đi múc nước!
- Múc nước cái con mẹ mi! Mi
định “quay” hả? Trở lên không tao bắn!
Tôi nghe tiếng cơ bẩm khua lách
cách.
Mấy cái bóng quay trở lên, dáng
đi thất thểu.
—>Chương 33
- 33-
Tôi liều mình ở lại nơi ranh
giới của ánh sáng và bóng tối , làm mục tiêu xạ kích của máy bay cho đến sáng
hôm sau.
Tôi thấy Thu trở thành một
người khác. Bụi bám trên tóc làm cho tóc nàng màu xám tro, quần áo dày cộp, mộc
thếch. Da mặt nàng khô như sấy. Qua một đêm vượt sông – con sông trên mặt đất
và con sông trong tâm tư – nàng già đi mười tuổi!
Tôi hỏi:
- Em vẫn .. còn…
- Còn hai ngày nữa mới dứt anh
ạ!
Tôi nhìn hai bắp chân nàng. Máu
còn dính đầy (xin lỗi độc giả)
- Để em băng lại rồi sẽ đi anh
ạ! Qua cho khỏi khu tử địa nà rồi hãy hay.- Thu gắng gượng nói.
Chập sau chúng tôi lại lên
đường. Nhiều người bị rớt lại sau đoàn bây giờ cũng lếch thếch bò theo.
Một bộ phận pháo nặng đang đi
trước chúng tôi. Họ xoay trần ra khiêng một cái nòng pháo giắt lá um tùm. Cái
đòn dài oằn xuống và dây nghiến kĩu kịt như sắp đứt ra. Hai người một đầu.
Những tấm lưng gầy nhom cong quắp xuống và ngọn đòn khuyết sâu xuống vai họ,
tưởng chừng đến một giây phút nào đó nó có thể chẻ rời cái vai ra khỏi thân
người.
Những bắp thịt nuộc lưng gồng
lên như cố giữ cho chiếc xương sống uốn éo khỏi gãy cụp xuống trong khi những
chiếc xương sườn cứ uốn cong như lúc nào cũng có thể bung ra.
Càng đi tôi thấy rừng càng ngày
càng sâu càng dày, núi càng ngày càng hiểm trở, những cái nòng súng thì như
càng ngày càng to ra, còn những con người càng ngày bé lại.
Mà thật, con người càng ngày càng bé lại, tọp lại, choắt lại, khô lại, không
phải một cách nói tượng trưng mà là trông thấy.
Tôi trỏ cho Thu những bắp chân
đang loăng quăng bước trước mặt chúng tôi. Tôi nói:
- Những cây cọc màn biết đi chớ
còn gì nữa!
Thu nhếch môi cười miễn cưỡng:
- Coi chừng mất lập trường!
Đường ác quá. Không có quãng
nào thẳng được năm chục thước. Không có chỗ nào bằng phẳng. Cái nòng pháo cứ
phải chạm vào vách đá ở những khúc quanh gắt. Những người khiêng, chân vừa
bước, tay vừa bám vào vách đá, đi những bước khúc mắc, tréo chân nghịch tay, ẹo
xương sống, thành thử một bước trên đường này bằng một nghìn bước ở đường
thường. Vì thế, bệnh như tôi và Thu mà vẫn đuổi kịp họ và vượt họ.
Dọc theo đường nhiều người ốm
quá, họ ngồi trên những hòn đá. Thật tình tôi chẳng dám nhìn. Bởi vì càng nhìn
họ tôi càng trông thấy tôi rõ hơn. Thế mới khổ!
Thu kêu mệt. Chúng tôi dừng laị
bên cạnh một anh lính đang ngồi. Trời ơi, cái mặt anh ta sần sùi như một quả na
sắp nứt ra.
Anh lính tố khổ với tôi ngay:
- Em đói quá. Bị bom cháy hết
rồi! Em xin anh tí muối?
- Em ở pháo binh khiêng pháo
ngã bị pháo đè gãy một cái ba sườn. Bây giờ yếu quá, em xin qua bộ binh nhưng
cấp chỉ huy bảo em mất tinh thần nên không cho!
Tôi không còn cách nào từ chối.
Lần trước tôi không cho anh binh sĩ khúc mì bây giờ tôi còn ân hận. Cho nên lần
này tôi cho cậu ta một tí muối trắng – có thể đếm được bao nhiêu hạt.
Không biết anh lính đã bắt được
con rắn mối và đã xơi hồi nào, chỉ còn lại cái đuôi. Anh ta ngữa bàn tay ra
nhận mấy hạt muối của tôi, móc túi lấy ra cái đuôi con rắn mối và chấm ăn. Anh
ta nhai rau ráu.
Anh ta nói:
- Không có muối tanh quá ăn vô
cứ buồn nôn. Nhờ có muối của anh, em thấy khoẻ lại ngay. – Anh xoè bàn tay ra
đưa lên miệng liếm nốt những hạt cuối cùng rồi anh ta nói tiếp: – gớm, đơn vị
của em bị biệt kích một cú tơi bời. Mất nòng pháo 120. Em suýt chết. Đồ đạc mất
hết! Đơn vị tan tác mà lại không lãnh được gạo. Em toàn bắt cua bắt nhái, nấu
với rau giềnh chấm với tro thay muối. Ăn tro mãi, da cứ đen sịt ra, yếu như
bún, ngã xuống không đứng dậy nổi. Nhiều đứa ăn da bò nướng với rau giềnh sống
chấm tro bị kiết lỵ cứ chảy re re không mặc quần được. – Anh binh sĩ ăn xong
cái đuôi con rắn mối chép chép miệng như còn thòm thèm – Muối tan trong máu em
rồi đấy.! Này anh, em nghe nói ai bệnh được đưa về Bắc trở lại có không?
- Ai biết đâu việc đó.
Tôi và Thu không ai bảo ai
nhưng đều muốn đứng dậy đi như lủi trốn cái hình hài này. Nhưng anh ta đã kể
tiếp:
- Đơn vị em có một cậu tự vận
anh ạ! Cậu ta tên Ngạc, quê ở Hà Đông. Cậu ta yếu không đi nổi, nhưng ông đại
đội trưởng bắt phải đi, nhất thiết phải đi. Cậu ta năn nỉ anh em:”Các cậu
khiêng tớ đi, tớ gọi các cậu bằng bố!” Nhưng đi còn không nỗi, ai còn sức mà
khiêng?? Một buổi trưa ông đại đội trưởng kiểm tra đơn vị, tay cầm một củ mây.
Gặp cái gì không như ý là ông ta quật lia lịa. Đến chỗ võng của Ngạc, ông ta
hỏi:
- Cậu nào nằm đây?
- Dạ em! – Ngạc đáp.
- À, Ngạc hả? Cậu đã bắn vào
ngón tay trỏ hôm ở trạm 3 phải không?
Ngạc không dám đáp lại. Ông ta
hỏi tiếp:
- Tại sao lại nằm, không chuẩn
bị hành quân?
- Dạ, em sốt quá!
- Tại sao sốt? muốn “quay” hả?
Thế là ông ta quật lia, rồi ông
ta giật luôn dây võng, Ngạc rơi xuống đất, ông ta phớt tỉnh bỏ đi.
Anh em chuẩn bị hành quân. Ngạc
soạn ba-lô lấy bộ đồ mới nhất ra mặc, bộ đồ Đông Xuân, Ngạc chưa xỏ chân vào
lần nào. Anh em tưởng Ngạc phục thiện, và tự nguyện tiếp tục hành quân, nào ngờ
trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì “đoàng”, Ngạc nằm thẳng trên
võng, người mặc quân phục. Cây AK kề trên ngực và chỉ một viên, từ cằm trổ lên
giữa sọ.
Tôi và Thu đứng dậy tạm biệt
anh lính, như tạm biệt một sự đau thương đã hóa thành người. Trời ơi! Trời đất
ơi! Sao lắm chuyện thế, mà chuyện nào cũng ghê rợn, oái oăm tàn tận, nghe như
bịa chớ không có thật. Vậy mà vẫn là sự thật.
Chúng tôi đến một chỗ người đùn
lại, chật ních như nêm.
Anh giao liên nói:
- Sắp đến đoạn đường gay go.
Lấy đường thủy làm đường bộ. Các đồng chí chuẩn bị gói ghém đồ đạc. Phụ nữ thi
phải cẩn thận, vắt nhiều dữ lắm. Đường đi 6 tiếng đồng hồ liền.
Thế là đi.
Tôi mới hiểu thế nào là đường
thủy làm đường bộ. Nghĩa là tất cả người ngợm trai gái già trẻ Bắc Nam Trung,
dân quân chánh, súng đạn đều trầm mình dưới nước mà lội, mà bơi, mà trườn, mà
lặn. Con đường Trường Sơn vốn là con đường kỳ cục và chặng đường này chính là
cái đỉnh của sự kỳ cục. Hai bên suối vách đá dựng đứng như tường xây, không có
một chỗ nào có thể leo trèo đi trên đó được.
Cho nên người ta phải đi dưới
lòng suối. Mấy hôm trước trời nắng, nước cạn, đi dưới lòng suối không việc gì.
Nhưng chỉ sau cơn mưa vừa qua, suối to nhanh đến thế.
Hai ven suối người nằm như rạ.
Không biết họ nằm từ bao giờ mà thấy có nhiều chiếc tăng đã rách và dây tăng
thay bằng những sợi dây rừng. Có người nằm trong một hốc đá, có người mắc võng
vào những cái rễ cây, có người mắc võng ngang qua một cái hố, nếu đứt võng thì
gãy xương sống ngay. Ở một gốc cây có đến ba cái võng treo chụm vào nhau.
Không biết họ đến đây hồi nào
và thuộc đơn vị nào. Có người nằm xếp ve như tàu lá, có người không còn cử
động, chỉ chờ mối càng tới tha đi nữa thôi. Cố nhiên là họ không lãnh gạo được
và khách đi ngang qua đây chỉ nhìn họ chắt lưỡi thương hại rồi cũng đi qua. Tôi
thấy có người đã để lại cho một anh nằm trên phiến đá một hộp sữa đã khui rồi,
như tế sống anh ta vì anh không còn làm gì được với hộp sữa đó ngoài việc lấy
mắt nhìn nó cho đến lúc không còn nhìn được nữa thì thôi.
Họ không thể nào đi nổi chặng
đường này vì họ không thể ngâm mình dưới nước. Mà từ nay sắp tới thì con suối
luôn luôn phình lên tràn trề vì những cơn mưa không dứt.
Thu như con mắm sống dầm dưới
nước, càng ngày càng tái ra.
Tôi bảo Thu:
- Cố gắng lên em! Mình càng đi
chậm thì suối càng to, càng gặp nguy hiểm
Thu không nói không rằng cứ lê
từng bước theo tôi.
Nước ngập lên thường xuyên đến
ngực, có khi đến cổ, có khi đến mũi, phải ngữa mặt lên mà đi.
Đang lội, tôi bỗng thấy một vật
gì lù lù từ trên trôi xuống thật nhanh. Nó lao thẳng vào tôi và Thu. Tôi nhận
ra một cây súc to. Nó bị trốc gốc và nước cuốn phăng phăng theo dòng. Tôi quát:
- Tránh, Thu, tránh! Cây đổ!
Thu nhận ra ngay cái tai hoạ
đang giáng xuống chúng tôi. Thu bươn người tới giơ thẳng hai tay ra cầu cứu với
tôi. Tôi nắm chặt hai bàn tay và kéo nàng sát vào tôi rồi tôi lôi tuột nàng vào
bờ, cả hai cùng đứng sát vào nhau trên một hòn đá và tựa lưng vào vách đá nhìn
ra.
Cái cây súc như một con trâu
điên thẳng trớn đâm đầu vào một gộp đá ở giữa dòng suối, bứng tung cái gộp đá
này đi, gây nên một tiếng động khủng khiếp. Do cái chướng ngại đó, cái thân cây
bỗng quay ngang, gốc cây đụng vào một bên, ngọn cây gác lên một bên bờ suối.
Thu đưa hai tay lên bịt mắt,
còn tôi thì ôm chặt lấy nàng và ép sát nàng vào vách đá. Cả hai cùng chờ đợi
một tai biến gì do cái thân cây quay ngang ấy gây ra.
Nhưng cái thân cây run run một
chốc rồi nằm im như một chiếc cầu bắc ngang qua suối.
Tôi bảo Thu:
- Em xem kìa!
Thu vẫn bưng mặt và không ngớt
kêu “eo ôi!” mãi.
Tôi hôn trên má nàng như hôn sự
giá lạnh tê buốt. Có lẽ nàng cũng không cảm thấy cái hôn đó của tôi.
Bất thần tôi luồn tay ra sau
lưng Thu và kéo riết nàng ghì chặt nàng vào thân tôi và môi tôi nhen lửa khắp
trên mặt nàng lạnh lẽo như bãi tha ma.
Có lẽ không chịu nổi những cử
chỉ bạo của tôi nàng xoay mình qua và cứ đứng nguyên như thể để cho tôi sưởi
lấy nàng bằng ngọn lửa trong người tôi mà chính nàng đã nhóm lên cho tôi nhưng
nàng không hề hay biết.
Mấy cậu lính lội ngang, nhìn
chúng tôi:
- Cha cha! Của bạc nghìn mà đem
ngâm dưới nước hé!
- Ối giào ồi! như thế kia thì
có lên giời xuống đất em cũng xin đi!
Tôi và Thu lại tiếp tục cuộc đi
khổ sai. Nước từ trên ngọn chảy xuống càng lúc càng mạnh, đập thẳng vào ngực
tôi. Cứ sẩy chân một bước là bị nước cuốn đi ngay.
Một toán người khiêng một vật
gì nặng quá! Có lẽ bốn anh chàng khiêng cái nòng pháo mà chúng tôi gặp chiều
qua lúc vượt sông.
Họ đi thật vất vả, thật tội
nghiệp. Nòng súng bị chìm khuất dưới nước chỉ còn thấy mấy sợi dây căng thẳng
với chiếc đòn oằn. Họ nương nhau mà đi từng bước một. Có khi người này bước tới
mà người này chưa tìm chỗ bám chân được thì người kia vẫn phải dừng lại chờ. Có
khi cả mấy phút đồng hồ, bốn người vẫn đứng nguyên một chỗ.
Bỗng một người kêu lên:
- Chết, bỏ mẹ, kẹt chân ái
..á…ái!
- Xỏ chân vô kẹt đá hả? Rút ra
mau…!
Nhưng dòng nước đã đạp anh ta
ngã xuống và tất cả những người kia cũng ngã theo . Ùm..ùm!…
Nhưng chỉ ba người đứng dậy được
còn một anh thì bị nước cuốn trôi đi. Một người lao theo níu lại và lôi anh ta
vào bờ.
Anh ta kêu trời như bọng:
- Gãy mẹ ống chân rồi!
- Chết cha, gãy chân à?
- Tớ không đứng dậy được nữa.
- Xeo chân vô kẹt đá mà, khổ
quá!
Một người bảo:
- Chuyền tới báo cáo ban chỉ
huy. Toán khiêng pháo bị nạn, cho người thay!
Lôi anh bạn gãy chân vào bờ
xong, cả ba lao trở ra mò cái nòng pháo. Họ lặn dưới nước để kéo cái khối thép
đó vô bờ. Cứ mỗi hơi lặn chỉ lôi nó vô được một quãng rồi lại ngóc lên thở phì
phì như trâu bị cắt cổ, rồi lại lặn xuống. Cứ mỗi lần ngóc lên, họ vừa vuốt mặt
vừa chửi đổng om trời.
- Ông ..đếch lặn nữa. Hộc máu
ra đằng đít rôi.
- Bác Hồ ơi là Bác Hồ ơi!
- Đếch có thằng nào tiếp.
Lôi xong cái nòng pháo vô đển
mé bờ, họ không còn sức để kéo nó lên bờ nữa. Cả ba ngồi thở dốc. Còn anh bạn
gãy chân ngồi ôm cái chân gãy mà rên:”ối giời cao đất dày ơi! ối cha mẹ ơi!
Chắc con chết quá cha mẹ ơi!” vang dội cả lòng suối.
Một chốc thấy có một tốp người
từ trên kia thả theo nước trôi xuống. Một người có vẻ chỉ huy. Anh ta quát:
- Cái gì la om vậy hả? Thằng
nào lại bắn vào chân phải không?
- Báo cáo đồng chí khẩu đội
trưởng: lòng suối trơn quá. Toàn đá đầu ông sư và rong rêu cho nên chân bị xeo
vào kẹt đá.
Anh khẩu đội trưởng nhìn người
lính bị gãy chân đang ngồi lê dưới đất. Anh ta hỏi:
- Gãy có nặng không? Cố gắng đi
được không?
- Báo cáo khẩu đội trưởng, chắc
em chết. Xin khẩu đội trưởng cho em một viên đạn cho mát thân.
Anh khẩu đội trưởng quay mặt ra
lòng suối quát:
- Tất cả dừng lại, trở lại đây
nghe lệnh tôi!
Những người có kỷ luật quay trở
lại. Tất cả độ năm sáu người. Người nào người ấy xanh như mắm trở và gầy như
cái que.
Anh khẩu đội trưởng quát:
- Chặt đòn khiêng đồng chí này,
còn bao nhiêu thay phiên khiêng nòng pháo. Mau lên! không cãi! không được bàn
tán. Lệnh!
Tôi thấy tất cả đứng im như đá.
- Nhanh lên! – Anh khẩu đội
trưởng chống nạnh lên và quát.
Chập sau, người ta đã đốn được
một cây đòn và soạn ba-lô của người bị thương lấy cái võng ra buộc vào đòn rồi
bế anh ta đặt lên võng, hai người một đầu, người ta khiêng anh thương binh đi.
Còn lại cái nợ kia. Những người
được phân công khiêng nòng pháo vẫn cứ đứng như trời trồng.
Anh khẩu đội trưởng quát:
- Lôi nòng pháo lên. Tiếp tục
hành quân!
Mọi người vẫn đứng như chết.
Anh khẩu đội trưởng phải chỉ định từng người một. Người nào cũng “vâng” mà mặt
nhăn như bị.
Đến người thứ tư, anh khẩu đội
trưởng hỏi:
- Đồng chí là Tửng, bí danh
Quyết Thắng phải không?
- Vâng ạ!
- Thế thì đây là dịp may để
biểu hiện cái tên của đồng chí.
- Dạ, em không khiêng ạ!
- Ơ… ơ… cái gì? – Anh khẩu đội
trưởng giật nẩy người lên như bị ai thoi vào mạng mỡ.
- Dạ, em không khiêng được ạ!
- À thế hả? Tại sao?
- Em ốm ạ!
- Ốm cũng phải khiêng!
- Em không khiêng nổi ạ!
Anh khẩu đội trưởng tròn xoe
đôi mắt và anh gằn từng tiếng một:
- Tôi-lệnh-cho-đồng-chí!
-
Tôi-lệnh-lại-cho-khẩu-đội-trưởng!
Pạch! Pạch!.. Tát đá túi bụi.
Anh khẩu đội trưởng lại tát thêm một cái và nói rất dõng dạc:
- Tôi nhân danh bí thư chi đoàn
khai trừ đồng chí Quyết Thắng ra khỏi chi đoàn.
Rồi anh ta hỏi:
- Đồng chí Quyết Thắng có nghe
rõ không?
- Dạ, rõ ạ!
- Được rồi! – Anh khẩu đội
trưởng móc súng ngắn giờ lên mổ mổ vào trán của Quyết Thắng. – Bây giờ tôi nhân
danh khẩu đội trưởng kiêm bí thư chi bộ ra lệnh cho đồng chí khiêng nóng pháo
tiếp tục hành quân.
- Tôi ra lệnh lại cho đồng chí…
- Nghiêm! Câm mồm!
- Dạ, vâng ạ!
- Đồng chí bị khai trừ có chống
chế gì không?
- Dạ, em nghĩ khẩu đội trưởng
làm như thế là khẩu đội trưởng thương em rất nhiều. Từ lâu em chỉ mong được có
thế.
Anh khẩu đội trưởng nhảy cỡn
lên như đạp phải lửa:
- Đồ láo! láo! – Anh ta nắm tóc
Quyết Thắng giật mạnh làm cho Quyết Thắng lảo đảo rồi anh ta chĩa súng vào mang
tai Quyết Thắng mà rít lên:
- Mày có chịu đi không, mày
thằng chó!
- Em không đi nổi ạ!
- Tao bắn mày để làm gương.
- Vâng, em chỉ mong được có thế
cho mát thân em.
Đoàng!
Tôi cố định thần để nhìn cho
rõ, còn Thu kêu lên một tiếng thất thanh rồi gục mặt vào vai tôi. Nang vừa run
vừa nói:
- Eo ôi! em hãi quá!
Làn khói bao trùm lấy cái đầu
của nạn nhân và nòng súng ngắn, tan dần. Tôi thấy Quyết Thắng và anh khẩu đội
trưởng vẫn còn đứng nguyên tại đấy.
Để chữa thẹn anh khẩu đội
trưởng bảo:
- Tao tha cho mày lần thứ nhất
– rồi anh ta hăng hái (!) bảo những người kia – Nào ta đi!
Anh ta kê vai vào đòn, nhưng
lần này tới phiên những người kia noi gương Quyết Thắng.
- Chúng em không đi nổi ạ!
- Ơ kìa! Tôi đùa với các anh
đấy phỏng?
- Dạ chúng em đói quá, không có
muối, thịt cứ bợ ra, pháo nặng quá mà lại dầm mình trong nước…
- Ơ kia… giở cái giọng gì thế
hả?
- Dạ chúng em không dám ạ.
- Tôi bắn chết các anh, tôi
không ở tù.
- Vâng, thủ trưởng không ở tù.
- Đồ láo! Chát! chát! chát!
Đ.m. chúng mày chống lệnh ông thì giết, ông thì giết!
- Giết cái đầu b…
Ba anh đội viên áp vào đánh
viên chỉ huy của họ. Anh khẩu đội trưởng bị ngã xuống dòng suối nhưng tay còn
giơ khẩu súng lục lên như đầu một con rắn độc. Chát! chát!
Ùm! ùm! Những người đứng trên
bờ vác đá ném theo. Một anh quơ cây đòn khiêng pháo đập lia lịa. Nước tung
trắng xoá chẳng còn trông thấy gì nữa.
—>Chương 34
- 34-
Thu bảo tôi:
- Đi anh!
Rồi Thu lôi tôi lội xuống suối
trườn tới mà đi một cách hết sức hăng hái. Vừa lội Thu vừa ngoái cổ lại xem và
kêu lên từng chập. Thu nói:
- Không có ông Chín ở đây cho
ổng huấn từ!
Chúng tôi lội một chốc thì gặp
bác sĩ Năm Cà Dom. Anh ta chỉ có cái quần đùi dính da. Ba-lô của anh treo lủng
lẳng trên cành cây. Anh đứng chống nạnh nhìn dòng suối chảy xiết. Thấy tôi và
Thu bè bè đi đến, Năm reo lên:
- A hay quá! lên đây nghỉ các
bồ. Ngâm nước mãi dọp bẻ chết tươi đấy!
Tôi và Thu lại leo lên đứng
trên một tảng đá. Tôi thấy hơi bối rối vì tôi đang đứng trước một tượng thần nữ
bằng xác thịt qua ư gần gũi với tôi. Đằng sau những manh vải ướt đẫm dán sát
vào thân nàng hiện lên những đường cong hài hoà mà con đường tai ác này đã ra
sức tàn phá, nhưng nó vẫn giữa được vẻ đẹp nguyên thủy của một hình khối mà
đứng bên cạnh nó tất cả đều trở nên thô kệch vụng về.
- Cô đang sốt đấy – rồi Năm
nhìn từ đầu đến chân Thu. Bỗng Năm trông thấy máu chảy dọc theo bắp chân của
Thu. Năm kêu lên:
- Lại làm sao nữa kìa?
Thu xấu hổ nhìn xuống.
- Cô ấy đang có kinh! – Tôi đáp
thay cho Thu.
- Cha cha cha! Dã man thật.
Thôi ngồi lại đây nghỉ. Lội thế này nhiễm trùng, hỏng cả cuộc đời đấy. Lấy võng
ra cho cô ta nằm, căng tăng lên. Chết, chết! Sao ẩu thế. Phải tôi biết tôi đâu
có cho đi. Ai đời phụ nữ có kinh lại bè dưới suối mà đi như vậy chớ. Thiệt là
ngược ngạo y như trong vè nói ngược… Ngựa
đua dưới nước , tàu chạy trên bờ…
Năm Cà Dom nói không hở miệng.
Tôi mắc võng đỡ Thu lên nằm.
Mặt nàng tái nhợt. Nàng thiếp đi.
Năm Cà Dom bảo:
- Cậu lấy ga-men nấu nước để
tôi tiêm cho cô ta một mũi thuốc khoẻ!
Trời lại vần vũ sắp mưa. Mây
đen cuồn cuộn trên đầu. Con suối chảy càng lúc càng xiết. Mưa trên đường này là
một đại hoạ. Suối đang dâng lại gặp mưa thì càng nguy hiểm.
Tôi bám rễ cây chuyền trên
những gộp đá đi tìm củi. Nhưng tôi không tìm ra một nhánh củi, mà tôi lại tìm
thấy những mảnh đời bị vùi lấp trong sương gió Trường Sơn.
Trên một mảng đá, ba khẩu AK
dụm lại theo kiểu giá súng của tổ tam tam chế ở thao truờng. Và bên cạnh đó là
ba cái võng mắc cạnh nhau. Trên mỗi chiếc võng đều có người nằm. Tôi nhặt lấy
đá ném nhưng không thấy ai cử động. Thế là thêm ba oan hồn trên đường này. Tôi
lật đật quay trở lại và thuật chuyện đó với Năm.
Năm ngồi lặng giây lâu rồi mới
nói:
- Những chuyện như vậy thiếu
gì. Thôi đừng có nói, nghe mất mẹ nó hết tinh thần. Mình cứ ngậm tăm mà đi cho
tới nơi.
Trời mưa. Chúng tôi ngồi co ro
trong lều của Thu mà chờ đợi cơn mưa tạnh để Năm tiêm cho Thu rồi tiếp tục đi.
Rải rác vài người hì hục lội
ngang qua chúng tôi, có người ném những câu bất ngờ:
- Sướng he! Một bà hai ông he!
- Có muốn thì lên! – Năm Cà Dom
vui vẻ ngoắc – Lên đây!
Anh lính lắc đầu:
- Thôi, teo tóp mẹ nó hết rồi!
Tiên có vẫy em cũng xin thôi!
Trời mưa, và mưa to ngay. Đường
đi càng vắng. Có lẽ người ta không lội được nữa, đã leo lên hai bên vách đá mà
bám ở đó như những con thằn lằn.
Nước càng dâng lên, trông thấy
từng phút một. Những lối đi ven bờ suối cũng ngập luôn.
Thế mà anh lính gãy chân cứ nằm
tòng teng trên võng, nước ngập cả người, anh ta phải ngóc cổ lên. Và bốn người
khiêng anh ta cứ lần từng bước một, tay bám vách mà đi. Gần đến chỗ chúng tôi
thì một người trượt chân ngã. Cái võng bị ném xuống nước và anh thương binh bị
nước cuốn phăng đi như một cái lá. Nhanh như chớp một anh lao theo, chụp lấy
nhưng chỉ vớ được cái ống quần của anh bệnh, cho nên chỉ giữ được chiếc quần
trong tay còn anh ta thì tuột trôi theo dòng nước.
Năm Cà Dom thét lên:
- Mau.. mau….au! Kẻo trôi mất.
Hai anh kia lao theo như
Tạc-Dăng. Và sau một chặp đuổi bắt, hai anh bè ngược người bệnh về như bè một
khúc chuối cây xơ xác. Có lẽ cái tai nạn làm cho bản năng tự vệ của anh ta sống
dậy cho nên anh ta tỉnh hẳn lên. Anh ta bám chặt một cái rễ cây và gục đầu vào
đấy . Và lại kêu:”Ối cha mẹ ơi, ối làng nước ơi!”
Năm Cà Dom chép miệng:
- Gay go nhất là cái chân gãy.
Làm sao đi? Đời anh ta kể như “lúa” rồi!
Tôi không muốn nhìn cái cảnh
tượng đó nữa. Tôi đi tìm củi. Bỗng Năm xem đồng hồ và nói:
- Bây giờ thì không thể đi kịp
rồi. Nước lên to quá! Cứ hạ trại ở đây. Chuyến mai giao liên đi ngang mình sẽ
tháp tùng.
Thế là tôi và Năm cũng mắc võng
căng tăng. Và tìm cách nấu cơm, nấu cháo. Gạo thì còn chút đỉnh, nhưng làm sao
nấu? Không có củi. Cũng không có chỗ bắc bếp. Năm nói:
- Anh có vẻ thư sinh quá. Gặp
cái gì bất ngờ tôi thấy anh cũng lúng túng. Không sao đâu, tôi sẽ có cách!
Rồi Năm nói giọng cà rởn:
- Anh lấy con dao rừng của tôi
đây. Anh leo lên cái gốc cây đó ngồi mà gọt cho tôi…
- Gọt cái gì?
- Gọt cái cây đứng đó. Gọt từng
lát một như lát cam thảo của thầy thuốc Bắc vậy.
- Trời đấy! – Tôi kêu lên.
- Ừ, anh thấy công việc ghê gớm
lắm, nhưng anh gọt trong một tiếng đồng hồ sẽ có đủ củi đun sôi một gà-mèn
nước. Gọt một giờ rưỡi thì sẽ có củi nấu được một gà-mèn cháo búp búp. Mình sẽ
nấu một gà-mèn cháo, mỗi đứa một chén, húp, chịu tới ngày mai….
Nói xong, Năm nhảy ùm xuống
suối lội qua chỗ anh lính gãy chân. Anh ta còn giữ được cái lương tâm của người
thầy thuốc.
Tôi làm y lời Năm. Tôi ngồi tôi
gọt cái gốc cây rừng với sự kiên nhẫn của người xưa đục núi mở đường. Xong tôi
lại gọt dép cao su lấy ra một ít lát để nhóm lửa. Cuối cùng tôi nấu được một
gà-mèn cháo. Tôi gọi Thu dậy. Tôi múc cho nàng đầy nắp ga-men và bỏ vào đó một
ít đường cát của tôi.
Thu húp xong, oà lên khóc.
Tôi ngồi lặng im. Không nói một
tiếng nào, làm như tôi không quen Thu và không hề biết Thu đang khóc…
Trời tối mờ mờ. Hạt mưa bay vun
vút qua mặt tôi. Gió rít ù ù như giận dữ. Những ngọn cây xoay tít, những nhánh
cây vặn vẹo như những con trăn uốn mình, chực tách ra rời xuống đầu chúng tôi.
Dòng nước đục lừ dầy dẫy những thân cây, những gỗ mục, những rác rêu xoáy tít.
Những xoáy nước sùi bọt lên như mồm những con thủy quái đói mồi. Thỉnh thoảng
lại có một thân cây to lao như một đoàn tàu hoả không phanh xuống dốc, sẵn sàng
húc vào bất cứ ai.
Tôi không suy tính gì cả. Tôi
cũng không muốn cử động, tôi sợ tôi biết rằng tôi là tôi và đang lâm vào cảnh
tượng này.
- Uống thuốc phòng đi anh! –
Thu đã dứt khóc từ bao giờ và nhắc tôi bằng một giọng còn đẫm nước mắt.
Tôi không quay lại và đáp:
- Chắc không sốt đâu. Vi trùng
sốt rét phải trốn khỏi cái cảnh tượng này. Em có đỡ không?
- Còn bao xa nữa anh?
- Đi tới rồi mới biết bao xa.
- Mình phải biết là mình sẽ đi
bao xa nữa chớ!
- Cố nhiên là khi đi người ta
phải biết trước con đường mình đi, nhưng ở đây thì mình không thể biết thì làm
sao đây?
Thu lặng im. Thu nghếch đâu lên
mép võng và nhìn dòng nước cuốn. Mặt nước cuộn lên như cái lưng của con thuồng
luồng nổi giận từ thời tiền sử. Đột nhiên, Thu nói:
- Em đã quyết định rồi.
- Quyết định gì?
- Em đã có lần nói với anh..
- Hừm! Em cứ thế mãi…!
- Em biết có đi cũng không đến!
Tôi lặng thinh. Thu xuýt xoa:
- Em rét quá anh ạ!
Đâu có cái gì khô? Kể cả cái
ruột bật lửa. Thi làm sao mà hơ hám cho Thu. Ngồi trong tăng mà như ngồi ngoài
mưa.
Tôi lục ba-lô lấy lọ cù-là quốc
doanh, một thứ cù-là mà nếu người ta bôi vào mũi và trán sẽ lột da ngay. Vậy mà
nó rất tốt trong lúc này. Tôi bảo:
- Để anh đánh gió cho.
Rồi không để Thu trả lời tôi
bước lại võng. Thu nằm sấp lại và vén áo cho tôi. Tôi quệt ngay một mớ cù-là
thật nhiều trên hai sóng lưng nàng và đưa tay chà-xát thật mạnh để tránh cho
nàng cơn lạnh.
- Em thấy nóng không em?
- Lạnh lắm, anh xát mạnh vào!
thế ! thế!
Trong ánh sáng hoàng hôn, trong
màn mưa dày đặc, tôi đang sống trong một cơn say. Tôi ngây ngất vì mùi dầu hoà
mùi da thịt nàng. Tôi muốn lập lại mỗi cử động, chà xát bàn tay tôi vào làn da
trắng nuốt của nàng mà cả trong bóng tối, trong lâm nguy tôi vẫn trông thấy ánh
lên, vang lên một tiếng kêu của da thịt, của dục tình.
Tôi run run hỏi:
- Em đã thấy đỡ nhiều chưa?
- Đôi chân em còn lạnh quá!
Tôi lại xoa dầu và bóp chân
nàng. Tôi nắn và bôi tẩm cù là vào từng thớ thịt của nàng. Đôi chân nàng dài
nằm song song trên võng như hai thỏi ngọc chẳng gợn chút bụi trần, dần dần ấm
lại và nóng ran, bốc hương nồng lên.
Không biết thời gian có trôi
nhanh như dòng suối?
Không biết tôi đã làm cho nàng
ấm lại, hay chính nàng đã nhen ngọn lửa trong tôi?
Nàng nằm im, duỗi thẳng đôi
chân mà nghe những cảm giác chạy lan khắp người. Còn tôi như một tên nô lệ tận
tụy miệt mài và mong chờ ở nữ chúa một phản ứng tốt lành. Nhưng tôi lại là một
bạo chúa đứng ngắm cả một đất nước đầy núi đèo tuyệt mỹ với sự thèm khát rực
cháy tâm can.
Tôi đưa tay run run xoa dầu
trên cổ nàng. Nhưng nàng xoay mình và từ từ đưa tay lên bấm cúc áo và hơi ưỡn
ngực lên để cho cả một vầng tuyết trắng hiển hiện trước mắt tôi và đôi môi nàng
khẽ mấp máy:
- Em còn lạnh quá, anh!
- Em! Tôi khẽ kêu lên và tôi
cảm thấy tôi khỏe hơn bất cứ lúc nào.
Tiếng giây võng nghiến dưới một
sức nặng gấp đôi. Nàng tỉnh hẳn ra. Nàng trăn trở trong tay tôi. Nàng nức nở.
Nước mắt của nàng nhiều hơn nước suối đang dâng.
Ngoài trời vẫn mưa. Dòng suối
phình to lên rồi tràn trề…
—>Chương 35
- 35-
Năm Cà Dom bơi trở về, vừa ho
vừa khạc. Năm vuốt mặt và kêu lên:
- Nguy quá! Gãy hết một cái
xương bắp chân. Chịp! Nằm lại đây thôi. Đi đâu nữa mà đi?
Tiếng anh binh sĩ gãy chân rên
rẫm lúc to lúc nhỏ, như một tiếng kêu của một oan hồn. Anh ta kêu bố kêu mẹ,
rồi kêu làng nước, anh ta kể lể chuyện khiêng nòng pháo nặng như thế nào, nó đè
anh ta suýt gãy xương sườn mà cấp chỉ huy không cho nghĩ và lần này thì gãy
chân.
Năm Cà Dom gọi tôi:
- Ông bạn văn sĩ này!
- Có tôi đây.
- Ông bạn đi trên còn đường này
thấy rất nhiều điều phải không?
- Tất nhiên!
- Ông bạn kể tôi nghe một điều
xem.
- Chính bản thân ông bác sĩ Năm
Cà Dom là một điều rất hay ho.
Năm Cà Dom phá lên cười và đập
vào võng nghe phành phạch:
- Đúng! Đúng chính là cái việc
tôi về tới đây được là cả một sự đời. Này ông bạn à! nhiều khi mình chửi bới
tục tằn mình thấy cũng ngượng, nhưng mình không thể dùng văn hoá mà phải xài
“giấy năm trăm” mới thoả mãn!
Tôi hỏi lại:
- Còn anh, anh phải kể cho tôi
nghe một điều chớ?
Năm Cà Dom cười hắc hắc và nói
ngay:
- Chánh phủ sẽ có nguồn lợi to
sau khi hết xài con đường này. Anh biết không? Mỗi bộ xương bán cho Viện Giải
Phẩu 650 đồng chẵn chòi. Mà trên đường này thì riêng tôi, tôi cũng đã thấy đến
ba bộ… và chung quanh đây, như anh nói, cũng có ít nhất ba bộ…
- Tôi cũng có gặp một bộ. Và
đặc biệt có một bộ xương Mỹ. Xương Mỹ chắc bán giá khá hơn.
- Sao anh biết là xương Mỹ?
- Vì nó còn sống nhưng chắc
chắn nó sẽ rủ xương trong cái củi giam nó.
Năm Cả Dom nói:
- Tôi không cần thấy như anh
tôi cũng biết. Đặc điểm của xương Mỹ là to và dài như xương trâu xương bò.
- Anh so sánh tàn nhẫn thế!
Năm Cà Dom cười:
- Tựu trung con người cũng chỉ
là một con vật đi hai chân thôi, nhất là trên con đường này!
Đêm sâu hun hút. Tiếng nước đổ
từ trên nguồn ầm ì nghe xa lơ xa lắc như một kỷ niệm vùi lấp trong sương mù.
Tiếng nước đổ như dội vào tâm tư tôi, như gội sạch cho tôi những bụi bặm ưu
phiền của một chặng đường, của suốt một con đường qua.
Cái tấm mộ bia của anh chàng
“bệnh tư tưởng”, hai bàn chân lòi ra dưới mô đất, cái bộ xương trong hốc đá, và
đây nữa cái giá súng tổ tam tam với ba khẩu AK, mỗi một cái hình tượng đó là một
cây số dựng lên trên đường tôi đang đi, và đứng sừng sững trong đầu tôi.
Bên cạnh tôi, Thu nằm im. Anh
bác sĩ vui tính thì cứ trở mình, võng cứ khua sột soạt. Còn tôi như một tín đồ
bất đắc chí đang mượn cái cảnh mưa gào thác đổ mà sám hối lại bản thân mình.
Tôi tự thú nhận với tôi rằng
tôi đã nản chí, tôi không còn muốn phấn đấu nữa. Tôi muốn làm một chiếc lá trên
dòng suối cuồng dâng này. Tôi nhớ lại lời của Lâm một chiều mưa. Câu nói ấy
thỉnh thoảng lại vang lên trong tâm trí tôi. Bây giờ, cùng với cái tình huống
nguy ngập này, nó lại trở lại với tôi như một người bạn, như một kẻ thù, như
một sự ve vuốt, như một lời hăm doạ.- “Lần đầu tiên tao cảm thấy tao đi không
đến nơi”.
Đối với tôi hôm nay, đây không
phải là lần đầu tiên tôi cảm thấy điều đó. Mà điều đó là cái điều tôi cảm thấy
thường xuyên mỗi khi tôi ăn cơm, mỗi khi tôi lên cơn sốt. Nhưng tôi cũng tự bảo
tôi: có chết hãy chết ở nơi gần Sàigòn nhất. Với cái phương hướng đó, tôi cố lê
thân xác tôi nhích tới từng trạm một.
Nhưng đến đây, bên bờ con suối
đầy dẫy những đau thương vô lý, tôi lại cảm thấy tôi góp vào đó một sự đau
thương và vô lý bằng cả cái con người tôi.
Các bạn người Nam ơi, ai đã
từng sống trên đất Bắc những năm dằng dặc mưa phùn gió bấc ngồi trong nhà nhìn
ra ngoài trời thấy bóng núi mịt mù trong mưa mà không nhớ quê hương ruột đứt ra
từng đoạn. Ai sống trên đất Bắc mà chẳng mong ngày về Nam dù biết mình không về
đến nhưng cũng cứ đi về. Như ông Chín, như ông già Noël kia, như biết bao nhiêu
người nữa. Cứ đi, dù có chết, cũng chết trên đường về.
Bây giờ thì tôi biết rằng tôi
khó lòng mà về được quê nhà trên mặt đất, vậy thì tôi hãy cho phép tôi gửi tâm
hồn tôi vượt qua cảnh tượng hãi hùng này mà về thăm quê hương trong tơ tưởng,
trong ký ức của tôi.
Bất giác tôi đưa tay vuốt nước
trên trán như muốn lau sạch bụi bặm trên tấm gương kỷ niệm để cho tôi nhìn lại
những hình ảnh xa xưa và thân yêu nhất, như những hình ảnh sau cùng.
Mái nhà, bờ ruộng với những
hàng trâm bầu râm mát trưa hè. Và đây rồi,cái kỷ niệm sâu sắc nhất của cậu học
sinh trường làng. Trên con đường đá xanh đầy ổ gà từ làng lên quận, một chú
ngựa còm kéo chiếc xe ọc ạch với lão già đầu bạc cầm con roi nẹt đen đét trong
không khí.
Không hiểu sao mỗi lần tôi nhớ
tới quê tôi thì tôi lại bắt gặp cái hình ảnh ấy. Chiếc xe ngựa quá thân thuộc
với tuổi thơ của tôi. Từ lúc chú ngựa hãy còn tơ sung sức, đã từng oanh liệt
đuổi theo xe hơi cho đến ngày chú ngựa gầy yếu đi, cam chịu cho chúng bạn lướt
qua mặt mình, tôi vẫn đi chiếc xe ấy.
Rồi cho đến khi chú ngựa kiệt
sức, lão già đem treo một mớ cỏ non trên đầu cần câu buộc dọc theo gọng xe để
khuyến khích chú ngựa chạy nhanh lên, tôi cũng không đi chiếc xe nào khác.
Một hôm tôi nói với lão già:
- Sao bác chơi chi ác vậy?
Lão già chỉ cười, cái cười thoả
mãn của một người thi hành một quỷ chước thành công.
Vì là khách quen cho nên một
hôm tôi được chứng kiến một cảnh não nùng. Hôm đó chiếc xe sắp về tới chợ. Cái
dốc cầu quá cao. Lần nào về đến đây lão già cũng hò hét nẹt roi vang trong
không khí. Lần này cũng thế. Chú ngựa bỏ vó rầm rập xuống mặt đường đá xanh,
toé lửa, cố lôi chiếc xe lên đến nửa dốc. Bỗng nó bỏ vó lơi hẳn đi. Mớ cỏ non
đang nhảy múa tung tăng trước mặt nó bỗng lắc lư như quả lắc đồng hồ.
Lão già vừa nẹt roi, vừa quát,
nhưng chiếc xe sựng lại rồi tuột dốc.
Lão già vội nhảy xuống đất, cắn
chiếc roi vào mồm và hai tay bắt bánh xe lăn tiếp với con vật.
Nhưng chiếc xe quá nặng và đằng
sau chiếc xe còn có cả hằng chục năm lao lực, cho nên lão già dù có tài cán mưu
kế đến đâu cũng không đẩy nổi chiếc xe và con ngựa già kiệt sức của lão lên
dốc.
Chiếc xe tụt dần và bỗng đánh
rầm một cái, chiếc xe lật ngang qua. Lão già chạy vụt tới nắm lấy cái hàm thiếc
của chú ngựa lôi nó đứng dậy, nhưng chú ngựa đã ngã xuống, bốn vó bơi lia, cùng
với hai bánh xe quay tít trong không khí.
Lão già vội vã rứt lấy mớ có
non đã héo ở ngọn cần câu nhét vào mồm con vật đã sùi bọt lên trắng xoá, và
thân mật bảo:
- Ăn đi,ăn đi con, là khoẻ
ngay!
Con vật như nghe thấy lời nói
ân nghĩa đó của lão chủ, nó cố há mồm mà nhận lấy cái phần thưởng độc nhất của
đời nó trước khi nó trợn đôi mắt lên mà nhìn lão chủ… lần cuối cùng.
Con ngựa khổ đã chết lâu rồi.
Và lão già cũng đã qua đời vì bệnh hoạn và không còn phương tiện để sinh sống.
Nhưng cái mớ cỏ non vẫn còn
nhảy múa trước mặt tôi mỗi khi tôi nhớ lại chiếc xe ngựa chạy trên đường làng.
Cái mớ cỏ non treo trước mắt đó, mà tội nghiệp, chú ngựa chạy hoài không đến.
Ngày nay trên con đường đầy ổ gà đó chẳng biết còn có chú ngựa con nào chạy
theo mớ cỏ non như vậy nữa không?
Chao ôi! Sao giữa cảnh hãi hùng
này mà tôi nhớ lại một chuyện buồn làm chi vậy?
Tiếng rên rỉ của anh lính gãy
chân làm cho tôi chợt nhớ ra rằng mình đang nằm bên bờ một con suối lũ.
Trời vẫn mưa. Nước đã dâng lên
sát đít võng tôi.
Gió hú trên những ngọn cây cao
như bước đi của những đám cô hồn tìm chỗ nghỉ chân.
Một nhánh cây thò vào trước đầu
võng của tôi chập chờn như một mớ cỏ non nhún nhay. Nếu quả thật đó là mớ cỏ
non thì đây chính là chiếc xe đã gãy đổ dọc đường.
Lạ thật những chuyện mới xảy ra
hôm qua thì tôi cứ thấy nó mờ mịt xa xưa như hàng chục năm qua. Còn những việc
cách đây mấy mươi năm thì tôi lại cứ tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Tôi cũng không muốn phân biệt
cái đã qua và cái hiện tại. Mà tôi cũng không dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai
của tôi ư ? Trên đường Trường Sơn này hay ở đâu mà con đường này dẫn đển, dù
trái đất có xoay, dù trời mưa hay trời nắng thì cái ngày mai đó cũng là sự lập
lại của ngày nay và của ngày hôm qua.
Tôi nghếch đâu lên mép võng,
giương mắt cố nhìn ra ngoài. Trời mưa đen đặc thấy gì đâu!
Ôi chao, con đường với những
chặng đường…Ở phía sau lưng tôi, cái mộ bia của anh binh sĩ bên cạnh hai bàn
chân thòi ra mô đất và cái bộ xươong trong hốc đá lẫn lộn tới chiếc xe chỏng
gọng với hai bánh quay tít và bốn vó con ngựa chòi đạp trong không khí. Còn
phía trước mặt tôi thỉ chỉ là… Và….
Sàigòn, hè 1973
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét