Chiều hôm đó, chúng tôi đến với
tư cách đại biểu chính thức của tổ văn là tổ đứng ra tổ chức buổi tiễn đưa này.
Theo qui định của anh Hai Lý thì mỗi đại biểu đều mang khẩu phần thường lệ của
mình đến bữa tiệc. Giữa nền đất trơ khấc là hai cái nồi, nồi cháo loãng như
Biển Hồ, trên mặt lềnh bềnh mấy vệt mỡ vàng nhạt lấp lánh mặt trời chiều không
có tí hành nào bập bềnh biểu hiện tư tưởng bấp bênh của cán bộ trong lúc này.
Còn chú gà luộc thì có lẽ tự
biết bản thân mình quá bé bỏng trước miệng những con hổ đói nên lẩn tránh đâu
đó. Đây là con gà tự túc còn sót lại của tiểu ban: Ba con trước, một con bị
chồn tha, một con phải hy sinh cho bữa người ốm cần bồi dưỡng, một con thì lại
sầu tình cứ đứng cú rũ nên tiểu ban quyết định xử trảm sớm để ăn thịt tươi
trước khi nó chết. Còn con có khả năng sản xuất trứng mà tôi là một trong những
người được hưởng hôm mới về đây, thì được vinh dự hi sinh cho buổi tiễn đưa
quan trọng này. . .
Mỗi người đưa bát lại cho anh
nuôi múc cháo và bỏ vào đó một tí thịt có thể để dành ngửi như dầu Nhị Thiên
Đường chứ không phải để ăn.
Đối tượng được đãi tiệc hôm nay
là nhà báo Thép Mới cũng nhận lãnh số cháo và thịt y như mọi thực khách, không
hơn không kém.
Phải nghĩ rằng có những người
trong tiểu ban không được hân hạnh đến dự buổi tiệc này thì mới hiểu được giá
trị của bát cháo thịt. Có người húp cháo “nguyên chất” để tìm lại hương vị của
nó ngày xưa ở vỉa hè SàiGòn hoa lệ hay thời đi học ăn sáng: bát cháo gà có rau
ghém bắp chuối. Nhưng có những người cho rằng ăn như thế là phí. Nên trộn cơm
nhà bếp vào mà lua. Như vậy cũng vẫn biết mùi cháo đồng thời no bụng hơn là húp
cháo rồi ăn cơm hai phần rời ra.
Hình như không ai nghĩ đến việc
phát biểu cảm tưởng đối với cuộc từ giã của đồng chí mình. Nó không có ý nghĩa
như cuộc sang Tần mạo hiểm của Kinh Kha, nhưng kể ra nó cũng nguy hiểm lắm.
Đồng chí Thép Mới nhà mình vào
đây chưa quá ba tháng nhưng vì là Bêka nên Bộ Chỉ huy (toàn là dân Ba kê) ưu
đãi đặc biệt. Lệ thường nhà văn nhà báo của R đi công tác thì cứ đi như dân
thường, không có cần vụ bảo vệ gì cả, nhưng Thép Mới đi thì có “gạc-đờ-co” và
bây giờ trở về Hà Nội thì ba-lô của đồng chí đầy những vải vóc đồng hồ, bút máy
và các thứ xa xỉ phẩm khác của Bộ tặng hoặc các đồng chí ấy nhờ mang về cho gia
đình ở ngoài xứ mạt rệp Bắc Kỳ.
Không phải một ba lô mà cả
chục. Một tiểu độ giải phóng quân, mỗi người đeo một ba lô đầy ém. Đó cũng là
công tác cách mạng chớ sao. Những thứ này được nhân viên công tác thành mua
ngoài Sài Gòn chuyển vô đây qua đường dây cách mạng đấy ạ. Nhìn đồng chí Thép
Mới đi, tay chống gậy, lưng còng xuống vì chiếc ba lô quá nặng, anh em xì xầm
với nhau: “nhà báo bị gậy thật vinh quang.”
(Có lẽ vì chuyên công tác chí
công vô tư này mà sau này trung ương không tín nhiệm Thép Mới nên đã xách chóp
hai tên Hồng Hà và Hà Đăng qua đầu y vứt vào Ban Chấp Hành Trung ương đó
chăng?)
Tư Mô không đến dự buổi tiệc bi
đát này. Thấy tôi cầm chén không trở về, anh hỏi:
- Xong rồi hả?
- Xong rồi!
- Lo ba cái lương khô để sửa
soạn hạ san! – Tư Mô bảo – Vô đây coi bản đồ để thấy đường đi.
- Ở đâu mà anh có ?
- Ở đâu có thì thôi, không nên
hỏi.
Đi trên đường Trường Sơn, giao
liên bảo đi đâu đi đó, bảo đứng thì đứng, bảo nằm thì nằm, không hề biết thắc
mắc cũng không hề hỏi đi đâu, bữa nay là lần đầu tiên tôi được xem tấm bản đồ
lớn có rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt. Anh trải dưới đất. Mới nhìn vào tôi tối tăm
mày mặt, phải nhờ anh chỉ mới dần cảm nhận ra.
- Đây là vùng Tam Biên. Đây là
những buôn của dân tộc ít người. Chú phải đi qua các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng,
băng qua sông Đồng Nai Thượng hai lần mới tới Đồng Nai Hạ, vượt qua một dãy núi
tới suối Mã Đà. Mã Đà Sơn Cước anh hùng tận là ở đây ! Nó nằm ở giữa tỉnh Long
Khánh và Phước Long. Dân Nam Kỳ mình bò tới đây là kiệt sức, chỉ còn lết chớ đi
hết nổi. Nhiều người nằm luôn tại đây. Nghỉ dưỡng sức ở đây rồi lại phải băng
qua sông Bé thuộc tỉnh Bình Long lội qua sông Sài Gòn đi hết bề ngang của tỉnh
Tây Ninh. Đây là Kà Tum. Đây là Cầu Cần Đăng. Lúc chú về ngang chiếc cầu còn đó
không?
- Sập rồi.
- Hiện mình đang ở đây, trên xứ
con Mên. Hễ có động tịnh là vọt vô sâu nữa.
Tôi nhìn lại con đường mà ớn
cho cặp giò. Vậy mà vẫn lội suốt.
- Bây giờ mình phải đi dọc sông
Vàm Cỏ Đông. Có lẽ phải qua cả Vàm Cỏ Tây nữa. Lội băng hai tỉnh Kiến Phong
Kiến Tường tức là Đồng Tháp Mười, qua Mỹ Tho rồi mới đến tỉnh mình. Còn cả chục
con sông phải qua, vài ba khúc lộ Đông Dương phải vượt.
- Tôi tưởng về đến R coi như là
tới nhà chớ!
- Chưa đâu chú em. Còn lội tóe
phở ra đấy. Coi trên bản đồ thì chẳng mấy gang tay nhưng ngoài thực địa thì vạn
lý trường chinh. Mấy cậu đi miền Trung miền Tây về nói lại, găng lắm, không có
dễ như hồi kháng chiến trước đâu. Đi rồi sẽ biết. Bây giờ thì phải chuẩn bị cặp
giò. Ở Trường Sơn thì núi đá tai mèo, mang dép cao su leo được, nhưng ở đây dép
cao su thọc xuống là dính luôn. Ở Đồng Chó Ngáp, biết không? Củi tràm lục dưới
bùn đâm thủng gan bàn chân.
Tôi ngán ngẩm vô cùng. Đường về
quả là khó khăn.. Đến đây chỉ mới nửa đường. Nhưng chẳng lẽ lại không về. Không
về thì vượt Trường Sơn làm cái gì ? Bao nhiêu người bỏ mạng trên đỉnh Trường
Sơn, bên bờ suối Mã Đà, giữa dòng sông Bé cũng là vì một chữ “nhà” – Về Nhà –
chứ nào có phải vì lý tưởng giải phóng giải phiếc gì. Ngoài ra còn có một lý do
khác, chán ngán ê ẩm cái xã hội chủ nghĩa quái gở. Có phải vậy không? Ba trăm ngàn
hồi chánh viên trong đó có trên một trăm ngàn người Bắc, còn lại là dân Nam Kỳ
tập kết hoặc dân giải phóng Nam Kỳ tại gốc – ngày nay sống rải rác khắp trong
nước và ở nước ngoài, hãy xác nhận điều tôi nói. Riêng tôi tôi đã chán đến cùng
cực cái xã hội mọi rợ do một lũ ngố dựng lên. Ai về được sẵn sàng về, như thoát
địa ngục, ai không về được thì ráng ở lại chờ. Chẳng có quyến luyến chút nào
với cái gọi là xã hội chủ nghĩa.
Một hôm tôi nằm buồn bèn đi
theo một cậu thanh niên lao động đến địa điểm của tiểu ban Văn Nghệ để tìm sách
đọc. Sách đây là sách “phản động Sài Gòn.” Người có “trách nhiệm” mới được
quyền mó tới nhưng vì trong lúc loạn lạc, cái kho sách chẳng còn ai trông nom
nên mạnh ai nấy tìm đọc. Trước khi tôi về, tiểu ban Văn Nghệ R đã bị một trận
B52. Khi tôi về đến R thì được biết ông Trần Hữu Trang, thường được gọi là bác
Tư Trang, chủ tịch hội Văn Nghệ Giải Phóng, ủy viên trung ương Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ đã chết trong trận bom B52 đầu tiên. Ngoài ra
còn có bảy người khác gồm diễn viên hạng bét ở Sài Gòn chui ra rừng và một soạn
giả cải lương ở miền Bắc về: Ngọc Cung. Tôi quen anh ta hồi kháng chiến chống
Pháp, ở Bắc không viết được vở nào khả dĩ diễn được trên sân khấu lớn, nhưng
không hiểu sao Hà Nội cho anh về để chết vô lối như vậy. Về đến R, lội luôn một
mạch đến nhà ở tận Bạc Liêu gặp vợ con cha mẹ. Gia đình buôn vàng ở thị xã Bạc
Liêu, giàu lắm. Anh được tiếp tế cả chục lượng vàng, giắt lưng lội trở về R để
nghỉ ngơi, sáng tác gởi ra Hà Nội nhưng chưa kịp xài tí vàng cũng chưa viết
được vở nào thì bị B52. Thanh Loan, Thanh Hùng và Ngọc Lan là những người sống
sót trong trận B52 kể trên nên tôi được gặp mặt, còn Bảy Thinh và những người
khác thì chết đã lâu nhưng tên tuổi được giấu rất kín. Ngay cả vợ con ngoài thành
hỏi tin tức thì R chỉ trả lời rằng các anh ấy đi công tác ở tỉnh, nhưng tỉnh
nào thì không chịu nói ra. Ai mà khống biết cái kiểu ấm ớ của tụi đầu bò.
Bây giờ ngồi viết lại những
chuyện xưa (hai mươi tám năm qua, ít ỏi gì) tôi thấy những người chết hồi đó
quả thật khỏe hơn là đồng đội của họ bây giờ. Chết đi, khỏi phải trông thấy
những cảnh hỗn man mọi rợ của Sài Gòn đỏ, cái Sài Gòn tươi vui phồn thịnh đã
nuôi họ lớn đã tạo cho họ tiếng hát để cuối cùng bị họ phản bội. Họ chết đi để
khỏi phải nhìn thấy đào kép bây giờ xơ xác trơ trụi khốn nạn bần cùng đi hát
với cái bụng lép với cái đầu đội mão nhà Hồ nặng cụp cổ. Họ chết đi để khỏi
phải ân hận thấy rằng mình đã ngu dại đi tìm cái mà mình đã có thừa trong tay
nhưng đã quăng đi để tìm cái không. Họ chết đi để khỏi phải trông thấy những
đồng nghiệp tài ba của họ rụi dần và không có mầm non nào mọc lên dưới sự cai
quản của lũ xạo ke gọi là đảng ủy và công đoàn. Họ chết đi để khỏi bị dân Sài
Gòn chửi vào mặt, như đã chửi vào mặt một tên nào đó ăn cơm quốc gia thờ ma
Việt Cộng bằng mấy câu thơ tuyệt vời:
“Thằng nhạc sĩ vàng
Ôm cây đàn đỏ
Âm nhạc từ đó
Trở thành màu cam. ”
Màu cam là sự pha trộn đỏ với
vàng. Màu cam là màu chết người. Thằng nhạc sĩ vàng là thằng nào? Bảy Thinh, Tư
Trang, Ngọc Lan, Thanh Hùng hay thằng nào khác mà bài thơ không chỉ trán ra? Họ
chết đi là họ đã tránh được cái địa ngục chính họ góp công sức và tiếng hát xây
đựng và ca ngợi. Đời cô Lựu xưa hãy còn đẹp gấp vạn lần đời các cô Lựu ở Sài
Gòn ngày nay.
Ngày nay nếu lão Tư Trang còn
sống ắt là sẽ được đám đầu bò Hà Nội quăng cho cục xương giò bò để đền ơn đã ra
công vận động nhiều nghệ sĩ hạng bét Sài Gòn tham gia Mặt Trận Giải Phóng của
một tên lưu manh mang tiền án nhơ nhớp chưa rửa sạch.
Tôi theo chân cậu thanh niên
đến vùng bom B52 cũ bên đất Tây Ninh để tìm sách đọc giải sầu.
Cậu thanh niên miền Bắc giải
thích:
- Chỗ mình ở hiện nay là đất
Miên anh ạ.
- Đất Miên ?
- Vâng. Sau khi bị B52 cơ quan
mình vượt biên giới.
- Làm bừa như vậy tụi Miên nó
không nói gì sao?
- Họ thấy mình có súng họ chạy
bỏ bố chớ nói gì !
Tôi gặn hỏi:
- Nhưng làm sao cậu biết rằng
mình đã vượt biên giới?
- Em nghe ở trên nói vậy thì
hay vậy, chớ có biết biên giới là cái gì.
Tôi không thấy dấu vết gì có
thể gọi là ranh mức cả: một lạch nước hoặc một làn cỏ khô nằm giữa một vạc đất
trống cũng không.
Nhưng tôi hiểu sự đào tẩu sang
đất Miên dù chỉ cách đất Việt non cây số là sinh lộ. B52 của Mỹ nó biết tôn
trọng luật quốc tế còn “chúng ta” dùng cái sai để đáp lại cái đúng. Cộng sản
luôn luôn như thế. Chúng sống để làm bậy và bịp người. Và không bao giờ dám
công nhận lỗi lầm.
Vùng đất bị B52 nay đã hồi
sinh. Cành cây đã nảy tược, những lỗ bom đang cạn dần. Tôi hỏi cậu thanh niên:
- Các đồng chí mình nằm ở đâu?
- Dạ, rải rác mỗi người một
nơi.
- Em vô đây hồi nào? Đột nhiên tôi
hỏi ngoặc lại để tìm hiểu thêm.
Cậu thanh niên đáp:
- Em vừa đút đầu vô vài bữa thì
bị.
- Bom tới vào buổi sáng hay
buổi chiều?
Cậu bé đứng hẳn bên một gốc cây
bị vết đạn gãy cúp như một cánh tay xụi và nói:
- Thường thường nó đến buổi
sáng. Mỗi buổi sáng đều có vài vụ ở chung quanh mình. Lúc đó anh em trong cơ
quan bàn rằng nó đánh các cơ quan khác quan trọng hơn như Bộ Chỉ Huy, Cục Tham
Mưu và Mặt Trận, còn mình là văn hóa chẳng quan trọng gì nên nó không cần đánh.
Thế nhưng đùng một cái nó đánh, cho nên không trở tay kịp. Em đang nấu cơm
sáng. Lúc đó chừng chín giờ Bỗng nghe rầm rầm rầm. Em đâu có biết
là tiếng gì. Nếu bom thì phải có máy bay tới, nhưng em không nghe tiếng động
cơ. Chỉ nghe tiếng bom nổ, mà nổ hằng loạt như liên thinh. Em lăn xuống đất.
Rồi bò bạt mạng.
- Không có hầm à?
- Có chứ, nhưng đâu còn nhớ đầu
đít gì. Nếu có ai hỏi mình tên gì cũng không nhớ nữa là ! Em co mình phóng vào
gốc cây. Cây run như bão, đất lắc như sàng gạo còn miểng đạn thì rít như sáo
thổi anh ạ. Dứt loạt đầu em lóp ngóp bò dậy không thấy gì hết. Khói đen nghịt
và lửa cháy từng cụm, em không còn nhớ lều của ai ở đâu nữa vì tất cả cây cối
đều gãy cụp xuống hết.
- Nó bỏ trúng ngay trân à?
- Chứ còn gì nữa anh ! Trúng
ngay cơ quan ! Chẳng những thế lại trúng ngay đầu não. Bác Tư chết ở loạt đầu
và ngay trong hầm. Cậu bé nuốt ực và kể tiếp – Lúc đó em nghe văng vẳng tiếng
chú Sáu Lăng kêu: Bác Tư bị thương các đồng chí ơi ! Bác Tư bị thương.
- Chỉ một mình bác Tư thôi à?
- Cả chục người chứ đâu một
mình được anh. Em định chạy tới coi sự thể ra làm sao. Nhưng em vừa đứng dậy
thì lại té ngửa ra rồi rầm rầm rầm.
- Nó tới nữa à ?
- Vâng, nó tới nữa. Nó tới đợt
thứ hai.
- Ác thế!
- Chỉ cách nhau chưa tới năm
phút. Anh Cung chết ở đợt này. Còn chú Tư Siêng thì bị đất lấp. Cũng may nó chỉ
bỏ có hai đợt. Nếu nó thêm đọt nữa chắc tiểu ban không còn người nào.
Tôi viết đến đây thì chiến
tranh mặt đất bắt đầu diễn ra ở Kuwait. Tôi có dịp xem sự tàn phá của B52. Đứng
ngoài vòng nguy hiểm để xem sự nguy hiểm thì còn thích thú nào bằng. Lửa cháy
như biển. Một chiếc B52 qua, một loạt bom rắc như trấu vẫy. Sinh mạng con người
dưới cánh B52 quả là mong manh hơn mạng con kiến.
Không gì chịu nổi với B52.
Nhưng quân Iraq thì có thì giờ đào hầm hố và đúc bê tông công sự để cố thủ hoặc
có pháo phòng không để chống trả. Hơn nữa khi cần di động thì chúng có xe thiết
giáp. Còn cái gọi là tiểu ban Văn Nghệ và các cơ quan R không có gì hết. Ban
đêm thì nằm phình bụng hứng còn ban ngày thì dùng đầu để đội như cầu thủ đội
banh da. Trên thế giới này không có ai tàn nhẫn bằng bọn lãnh đạo Hà Nội. Chúng
ở trong dinh thự hưởng lạc, xua đám thanh niên miền Bắc ngây thơ đi giải phóng
miền Nam và đốt đít bọn Nam Kỳ nhẹ dạ cả tin Trung ương thừa thắng xông lên
chơi với Mỹ để sau này lãnh thêm một cái huy hiệu Thành Đồng Tổ Quốc.
(Khi kết thúc cuộc chiến tranh
ăn cướp, dân Nam Kỳ lãnh khúc xương không có tí thịt để cạp chơi đỡ buồn).
Cậu bé thanh niên lao động này
vượt Trường Sơn bốn tháng vào đến tiểu ban Văn Nghệ lãnh chức hỏa đầu quân và
chết hụt B52. Cậu ta nói tiếp:
- Chúng em phải moi đất kéo chú
Tư Siêng lên. Chú vừa thở dốc vừa nhìn cái cây bên miệng hầm bị xén đứt ngọt
vừa hổn hển nói: “Trời cứu tôi.”
Cậu thanh niên trỏ cho tôi cái
mả của Bác Tư Trang, cái mả của Ngọc Cung, của Bảy Thinh và mấy cái nữa. Mấy mô
đất nằm không có hàng lối gì, cũng không gần nhau… Bởi vì khi chôn còn tùy địa
hình địa vật. Chỗ nào đất mềm mới đào huyệt được, theo cậu bé nói. Đâu có ai
ngó ngàng gì. Vì chúng nằm bên Tây Ninh. Về bên đây lơ mơ lại ăn phát nữa.
Đột nhiên tôi hỏi:
- Chỗ mình đang đứng đây là
đâu, tên gì ?
Cậu bé đáp vừa đủ cho tôi nghe:
- Tà Nốt ! Cậu ta ngập ngừng
một lúc rồi nói – Đây là sát biên giới Miên. Nếu mình nhảy một cái qua là đất
Miên rồi. Đây là Tà Nốt. Còn chỗ mình đang ở là “phum” gì đó cháu quên rồi. “Phum,
sóc” là làng người Miên. Tà Nốt đâu phải là tiếng Việt Nam. Có lẽ đất Tây Ninh
ở vùng này trước đây thuộc về Cam Bốt.
Những địa danh khác cũng nghe
như tiếng Miên: Kà Tum, Lò Gò, Trảng Bàng, Củ Chi, Nàng Rà, Chà Ruột…
Cậu bé bảo tôi:
- Chú có lấy sách vở gì thì lấy
mau đi rồi về ! Vừa nói nó vừa trỏ tôi cái hầm.
Tôi chui xuống và moi tất cả
vứt lên mặt đất. Một số ướt ẩm, một số bị mối ăn.
Mặc kệ, tôi liếc những tên sách
báo rồi tìm một tấm ni-lông rách túm lại tất cả quảy lên vai.
Thằng bé nói:
- Chờ cháu một chút.
- Để làm gì ?
- Cháu cắm mấy cái bia.
Lúc ra đi tôi thấy nó xách hai
ba tấm gỗ bó vào nhau. Tôi không hiểu nó dùng để làm gì. Té ra đó là những tấm
bia. Nó đi sang đây công tác đặc biệt chứ không phải chỉ xung phong dắt tôi đi
lấy báo.
- Chú Sáu Lăng bảo đem cắm mấy
cái bia cho bác Tư, ông Bảy Thinh và ông Ngọc Cung.
- Ừ thì cắm nhanh nhanh đi rồi
về.
- Nhưng cháu không biết bác Tư
nằm đâu còn hai ông kia nằm đâu.
Tôi hơi cáu:
- Sao hồi nãy nói rõ vậy ?
- Chú Sáu Lăng có dặn cái mả
cao nhất là mả bác Tư nhưng bây giờ cả ba cái đều tụt thấp bằng nhau cả, cháu
không biết cái nào là của bác Tư.
- Thôi vác bia về để kỳ sau hỏi
cho kỹ rồi hãy đem cắm. Chẳng lẽ bia ông này lại cắm mả ông kia.
Thằng bé bảo:
- Cháu ớn đi qua bên này lắm.
Cháu không dám đi nữa đâu. Chú coi đó toàn là mồ mả, hố bom giữa hoang tàn,
không có một bóng người.
Tôi thông cảm với thằng bé:
- Vậy thì làm sao?
- Thôi cháu cứ cắm đại, bia nào
mộ nào cũng được chớ sao !
- Làm như vậy tủi vong linh
người chết quá cháu ạ !
Thằng bé đáp ngay, không suy
nghĩ:
- Nếu tủi vong linh thì những
đồng đội của cháu chết dọc Trường Sơn tủi hơn nhiều. Họ chết có được chôn cất
gì đâu ! Toàn dập, lòi cả tay chân nói chi đến mộ bia. Thằng bé nói vậy rồi
dựng mấy thanh gỗ vào một gốc cây – Thôi để kỳ sau…
Chúng tôi trở về trên vết mòn
cũ. Thiệt là hãn hữu. Bất ngờ tôi có một tủ sách con con để giải sầu.
Tư Mô thấy tôi về thì mừng rỡ:
- Chú đọc hết mớ sách báo đó
thì mình đi là vừa.
- Anh có viết cho những tờ báo
này lúc ở Sài Gòn không?
Tư Mô soạn qua và đáp:
- Tôi có viết cho mấy tờ thôi.
- Anh thấy những tờ văn nghệ
Sài Gòn so với tờ Văn Nghệ Hà Nội thì sao?
- Ai có trí thức nấy chú ơi.
- Vậy cũng tốt chứ sao ? Mình
có lý luận phủ nhận công trình của người ta thì người ta cũng có lý luận phủ
nhận công trình của mình. Anh viết truyện ngắn hay gì ?
- Truyện ngắn. Ý mà thôi bỏ đi
chú ơi ! Tôi khổ vì ba cái truyện ngắn đó.
- Viết là khổ chứ sao !
- Không phải thế đâu. Khổ công
sáng tạo nói làm chi ! – Tư Mô ngó quanh, không thấy có ai nên tiếp – Khổ này là
khổ ngồi còng lưng kiểm thảo. Người ta kiểm thảo tôi ba ngày ba đêm về tư tưởng
sáng tác đó chú ạ !
- Con mẹ gì lắm thế?
- Ác lắm. Tôi chỉ nhận sai lầm
thôi; còn sửa chữa thì không cần thiết.
- Tại sao vậy?
- Vì tôi không định viết cái gì
nữa hết.
- Thì đó cũng lại là sai lầm.
Hì hì. Tiểu ban có mấy ngoe, anh không viết thì ai viết.
- Có thiếu gì !
Tôi trải sách báo ra một vệt
nắng tròn tròn méo méo mà phơi. Tôi gỡ ra từng trang rời cho mau khô. Tôi tự
chế diễu mình: Một thứ Cống Quỳnh phơi sách nhưng không có bà công chúa nào đi
ngang qua để xin “đá bèo” một phát.
Trong tiểu ban có một anh ban
rất dễ thương. Đó là nhà văn Thủy Thủ, thân hình gầy nhom, tay chân lòng khòng.
Đã vậy lúc nào cũng mặc quần cụt và áo bà ba ngắn tay không cài cúc để hở cái
cổ cao nhòng và bộ ngực lép như tấm các-tông. Anh có giọng nói khàn khàn. Thủy
Thủ thân với Tư Mô nên đến chơi luôn. Do đó gặp tôi ở trong lều với Tư Mô. Thủy
Thủ hay nói chuyện trời mây mưa nắng chứ không nói chuyện Sài Gòn (sợ các đồng
chí nghi là còn dính đáng với chế độ cũ!) cũng không nói chuyện rừng rú hoặc xã
nghĩa, vì không biết nhiều. Anh là một thủy thủ – từng sống trên đại dương… hơn
trên đất liền. Tôi có nghe anh em nói anh làm chủ bút tập san Hải Quân Sài Gòn.
Ngoài ra tôi còn biết anh qua truyện ngắn “Chiếc Guốc Xinh Xinh” đăng trên báo
văn học Hà Nội, là cơ quan cuối cùng của tôi trước khi tôi đi B.
Thủy Thủ lận lưng một gói “chè”
Chính Xuân. Anh đưa cho Tư Mô và nói:
- Của anh Sáu Lăng cho tôi.
Sáu Lăng, cũng như anh em, trên
răng dưới dế, có cái gì khác đâu Anh đặc biệt chú ý đến Thủy Thủ như một người
bạn lầm đường biết ăn năn hối ngộ, và với Tư Mô là đồng chí bị kỷ luật đảng
(một cách oan uổng hay không oan uổng) và đang buồn rầu. Có lần đi hội nghị ở
đâu “trên,” anh giấu đem về được một tí rượu Mao Đài Tửu trán đít chai để tặng
Tư Mô, cái thứ rượu thừa của các ông bà thủ trưởng vô sản, nhưng rất quí với
đám cắc ké này.
Tư Mô luôn luôn nhắc lại tấm ân
tình nồng mặn đó. (Ngay cả lúc xuống Bến Tre với tôi, hai đứa chạy vắt
giò lên cổ, anh cũng vẫn nhắc cái hớp rượu Mao Đài).
Tư Mô nhóm lửa nấu nước và bộ
ba ông táo uống trà khan. Tư Mô khen:
- Ngoài Bắc chỉ có trà Chính
Xuân là uống được thôi. Nó đậm đà, pha nhiều nước vẫn còn cốt. Còn các thứ khác
như Hoa Nhài, Ba Đình thì không bằng.
Tôi nói:
- Tôi không phải là chuyên gia
uống trà, nhưng xin cho anh biết Chính Xuân là trà hạng bét miền Bắc ta đấy !
- Còn trà nào hạng nhất?
- Anh đoán thử coi ! Thiết Quan
Âm Kỳ Chưởng của Chợ Lớn, Vũ Di Sơn, Trảm Mã Trà của Tàu không sánh nổi đâu.
Tư Mô ngẩn ngơ:
- Có thể là tôi chưa biết.
Tôi nói:
- Đó là trà “cau khô”.
- “Trà cao” à? Trà nấu thành
“cao?”
- Không!”Cau,” trái cau của mấy
bà cụ ăn trầu.
- Rồi làm sao thành trà?
Tôi điềm nhiên nói :
- Trà khó mua lắm. Cán bộ và
dân ghiền phải treo mõm chờ đầu tháng để mua một gói. Lúc lên cơn ghiền thì đi
quán uống trà cau khô. Nói tắt một cái là chủ quán phơi xác trà rồi tẩm với
nước cau khô đem sấy. Châm nước vào rót ra cũng nước nâu nâu, uống thì chát
chát nhưng không có bao nhiêu vị trà. Tụi quán này tìm được sáng kiến đó nên
làm được khối tiền.
Tư Mô hỏi:
- Khách vẫn uống à?
- Không có chất chát nào khác
thì đành chịu uống nước cau khô thôi.
Tư Mô nghe tôi nói thế lắc đầu
ngồi im.
Tôi rót cho anh và Thủy Thủ mỗi
người một cốc và nói:
- Đây không phải là nước cau khô
đâu. Uống đi cho bổ khỏe.
Tư Mô bỗng bật qua rượu:
- Tại sao quốc doanh ta lại cho
rượu Đồng Tháp cái màu bao nhang như vậy chú?
- Tôi đâu có hiểu được anh !
- Nó giống như xi-rô
gờ-rờ-nát-din trong này chớ không phải rượu. Hơn nữa nó ngọt quá đi. Uống gắt
cổ tưởng như ăn chè.
- Anh uống hồi nào mà anh biết
rõ vậy?
- Hôm nọ thằng gì ở bên Tuyên
Huấn gởi cho tiểu ban nửa chai. Sáu Lăng đưa tôi nếm thử để phê phán !
- Rồi anh phê phán làm sao? .
-Trước mặt vài ba người khác,
tôi đành phải né. Tôi nói nó ngon như Anis của Pháp nhưng phải cái màu đỏ bao
nhang, nhà quê quá ! Giống như Marie Sến trong văn học vậy.
Không muốn để cho đồng nghiệp
Thủy Thủ nghe nhiều chuyện miền Bắc nên tôi quay sang “Chiếc guốc xinh xinh”.
Tôi hỏi một câu đáng lý ra là một nhà văn không nên, nhưng tôi muốn biết câu
chuyện chứa đựng bao nhiêu sự thực hay chỉ là một sự tưởng tượng hoàn toàn.
- Anh viết “Chiếc guốc
xinh xinh” trong trường hợp nào?
- Tôi viết ngay ở đây, trong
cái lều của tôi kia kìa.
Tư Mô nhắp hớp trà rồi nói:
- Chú nó muốn hỏi anh là chuyện
đó có “baser sur une vérité” (căn cứ trên sự thực) hay chỉ sáng tạo
?
Thủy Thủ cười:
- Chắc anh cũng tưởng tượng ra
được câu trả lời. Nhân vật chính trong truyện là tôi. Tức là một sĩ quan trong
cuộc hành quân ở An Hóa ấy mà. Tôi đã dùng một chiếc guốc có cái gót nhọn đập
đầu tên chỉ huy trưởng cuộc hành quân và chạy sang hàng ngũ cách mạng. Ở tại
mặt trận đang nổ súng, có viên chỉ huy trưởng nào để cho sĩ quan thuộc cấp đánh
mình trước mặt ba quân như vậy không? Càng lạ lùng hơn nữa là viên sĩ quan vẫn
chạy thoát và…
- Và bây giờ ngồi chong ngóc ở
đây uống trà Chính Xuân. – Tôi nói tiếp – Và nghe cán bộ miền Bắc kể chuyện
uống trà cau khô !
Cả ba cùng cười, Tư MÔ nói:
- Chú ấy hỏi cho vui vậy thôi,
chớ ai không biết đó chỉ là sự tưởng tượng quá phong phú của tác giả.
Thủy Thủ cười khoe hàm răng
trên vàng ệnh khói thuốc.
Cuộc uống trà chỉ xoay quanh
năm mẩu chuyện vặt. Rồi trà nhạt, chuyện cũng nhạt theo. Sắp sửa tan hàng, bỗng
tôi sực nhớ câu chuyện cắm mộ bia cho bác Tư Trang. Biết rằng cả hai người Thủy
Thủ lẫn Tư Mô đều là những kẻ sống sót Sau vụ B52, nên tôi hỏi thẳng Tư Mô
- Bác Tư bị thương ở đâu anh
Tư?
- Ở đầu và cổ.
- Nặng không?
- Nặng chớ. Anh Sáu Lăng kêu y
tá. Nhưng tiểu ban đâu có y tá y tướng gì. Chỉ có chị Hai Lý (tức vợ anh Lý Văn
Sâm) giữ một mớ kí-nin và thuốc đỏ thôi. Ngoài ra khi ốm đau thì mỗi người là y
tá của chính mình. Kêu khản cổ chẳng có ma nào chạy tới. Nhưng nếu có thì cũng
không kịp.
- Tại sao vậy ?
- Chú ơi ! Bị một trận rồi mới
biết B52 là ma quỷ. Nó rải thảm một loạt rồi chú thấy trời đất đều thay đổi,
không biết đường nào mà đi. Chân tay như xụi lơ, đầu óc trống rỗng không còn
hoạt động và suy nghĩ gì nữa. Nhưng chỉ trong vòng ba, bốn phút là đợt hai lại
tới. Tất cả lại thụt xuống hầm chớ làm sao mà băng bó. Nhưng băng bó cũng vô
ích vì bác đã chết rồi .
- Không có trối trăn gì à?
- Bác chết trên tay Sáu Lăng.
Sáu Lăng bảo bác không có nói gì hết. Ngáp ngáp rồi đi xuôi.
- Còn Ngọc Cung?
- Ngọc Cung chết ở đợt hai.
- Nghĩa là…
- Hồi sau đợt một Ngọc Cung chỉ
bị sụp hầm nên bò sang hầm Bảy Thinh. Do đó mà chết cả hầm sáu, bảy người –
Chậc! Tư Mô ngồi thừ ra một hồi rồi tiếp – Con người có cái số hay sao đẩy chú
ạ! Nếu nó không bò sang hầm Bảy Thinh thì nó đã không chết.
- Tại sao ảnh lại bò sang đó?
- Đã bảo là hầm của nó bị sụp
mà ! – Tư Mô lại ngồi thừ ra, không giấu được sự xúc động. – Mấy người chui
trong hầm chữ L là cái hầm lớn nhất của tiểu ban đều văng mất hết. Sau đợt hai,
anh em đi nhặt nhạnh. Bảy Thinh còn sót có cái đầu, nhờ mớ tóc xám tro mà anh
em nhận ra. Còn Ngọc Cưng thì anh em chỉ nhặt được có cánh tay đeo đồng hồ. Lạ
thay người chết mà cái đồng hồ vẫn chạy. Cái đồng hồ vàng của vợ mới mua cho.
Chỉ có bác Tư là còn nguyên xác thôi.
- Rồi chôn cất làm sao?
- Chịp ! Điêu đứng, hoang tàn
và khốn nạn lắm chú ơi. Ở trong nhà chỉ có một người chết là tang gia đã bối
rối lắm rồi. Đằng này sáu, bảy người. ủa… đâu phải sáu, bảy mà…
Thủy Thủ tiếp:
- Mười một người anh ạ !
- Mười một người chết một lúc,
chôn một lúc. Và “tang gia” không có món gì hết ngoài chiếc cuốc cùn. May sao
còn được món binh khí đó. Nếu không thì phải đào huyệt bằng răng. Ba lô ba liếc
bay mất hết, võng màn lều trại không còn chút nào. Anh em đi quơ được miếng
ni-lông, mảnh võng nào đem đắp điếm chứ không đủ gói ghém đâu. Cứ để nguyên xác
vậy cho xuống huyệt rồi lấp đất. Chôn xong mười một cái xác là đến nửa đêm.
Chưa kịp đắp nấm đã phải dời cơ quan. Vì sợ sáng mai nó chơi phát nữa là rụng
hết tiểu ban. Thằng yếu hóa ra ốm, thằng mạnh thì dật dờ như sắp chết. Cả một
lũ khật khừ kéo nhau đi giữa đêm tối. Đâu có biết đường hướng gì. Cứ nhắm chừng
mà vượt biên giới, qua đất Miên để lánh nạn. Cũng may nó không vượt biên ẩu cho
nên mình mới tìm ra chỗ bắc cái bếp nấu lon nước uống. Nếu nó đuổi theo thì
chẳng biết chạy đi đâu. Chịp! Chú biết không, tôi nằm ở giữa hai hố bom chú ạ.
Nếu thằng phi công “bấm nút” sớm hoặc muộn một cái nháy mắt thì tôi văng xương
rồi. Chú có nghĩ rằng có trên một trăm trái bom rơi xuống khu vực tiểu ban mình
không?
- Một trăm ? . .
- Sợ còn hơn. Số chết tôi vừa
kể là người của tiểu ban Văn Nghệ thôi, còn các bộ phận khác thì không tính. Có
một cặp vợ chồng ôm nhau mà chết. Đó là một cặp đào kép trẻ mới tập sự. Hai đứa
yêu nhau nhưng tổ chức lại ngăn cản. Sợ rằng cô đào mang bầu thì không lên sân
khấu được ngoại trừ một nhân vật trong kịch có bầu. Chúng nó vẫn kiên trì yêu
nhau… Hôm đó có lẽ chúng chui chung một hầm để có dịp tâm sự hoặc hôn nhau.
Đúng vậy, khi bom dứt anh em đào lên, thấy cô trong tay cậu. Không vết tích gì
hết nhưng chết tươi. Sức ép của không khí làm đôi tim ngưng đập. Hai đứa nó sẽ
yêu nhau trên thiên đàng.
- Mặc dù hết sức bối rối, anh
em vẫn làm hô hấp nhân tạo cả mấy tiếng đồng hồ, nhưng tim vẫn không đập trở
lại. Có lẽ mạch máu nào đó bị đứt. Trái bom nổ cách có ba thước tây.
- Có ai làm thơ về cái chết đó
không?
- Ở đó mà thơ. Thơ văn ở đâu
chớ ngay trong tiểu ban Văn Nghệ thì lại không.
—>Chương 8
- 8 -
Thủy Thủ đi về lều. Còn nửa gói
giao lại cho Tư Mô để ngày mai lại hội nghị bàn trà. Trời ngả hẳn sang chiều.
Nắng làm khô những cuốn sách và những tờ báo. Tôi khao khát được đọc báo Sài
Gòn xem sinh hoạt văn học trong này ra sao.
Tôi hỏi Tư Mô:
- Tờ nào anh thích nhất?
- Chú cứ đọc đi rồi tôi sẽ trả
lời sau.
Tôi mắc màn chui vô nằm kỹ vì
sợ lúc mê đọc muỗi đòn xóc chích không hay mà mang khốn. Tôi để một chồng báo
và một mớ sách dưới đất ngay đầu võng còn một xấp thì ôm trên mình, như vậy khi
đọc hết thì sẵn đó với tay lấy khỏi phải đi đâu mất hứng. Khởi đầu bằng các tờ
tạp chí. Tôi dở từng tờ thì thấy mấy truyện ngắn của các nhà văn Liên Xô chống
đối Stalin. Như truyện Bàn Tay của nhà văn Kuzenetsov. Anh ta
mô tả Stalin với bàn tay đẫm máu, loại truyện ẩn dụ không phải tả chân. Đọc
xong tôi dở tìm những bài khác. Bất ngờ tôi gặp bài nói chuyện của Trường Chinh
(lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên bài và tờ báo nào đã đăng nó). Nhưng sau
này khi về Sài Gòn thì tôi biết đó là do Vũ Hạnh từ khu mang về. Tôi đọc lại cả
bài thì thấy gần nguyên văn bài nói chuyện của Trường Chinh mà tôi nghe và sau
này đăng trên báo Hà Nội. Lần đó, sau đại hội văn nghệ toàn quốc đè bẹp Nhân
Văn Giai Phẩm, ông ta lên lớp toàn thể văn nghệ sĩ Hà Nội. Tất cả là chín điểm.
Dài lắm. Cho nên nói không kịp giờ, phải dời văn nghệ sĩ đến Câu Lạc Bộ Quân
Nhân ở trong sân Cột Cờ. Câu- lạc bộ nhỏ quá không đủ chỗ chứa cho nên một nửa
ngồi bên trong, một nửa đứng ngoài sân cỏ. Tôi là cái thằng không bao giờ chịu
đọc hết một bài báo Nhân Dân, bất cứ bài gì và của ai viết trừ bài của ông vua
xét lại Khơ Rút Sốp (có bài dài cả ba trang báo nhưng đọc vẫn khoái). Từ 1958
trở đi tôi có ý nghĩ tờ Nhân Dân là tờ báo Ngu Dân nhất thế giới, nói bậy nói
bạ, nói ẩu nói tả, nói láo nói toét, không có một bài nào đàng hoàng, ngay cả
một mẩu tin sản xuất của Hợp Tác Xã. Các báo Cộng Sản phụ họa cái đường lối đó.
Nhân dịp câu lạc bộ không có chỗ ngồi, nên tôi ra ngoài sân cùng với cả trăm
người khác một cách hợp pháp. Nghe ông diễn giả nói đâu tới điểm thứ năm gì đó
thì tôi ngủ khò. Nằm trên cỏ xanh êm như nệm lại có gió thổi lai rai, tội gì
không ngủ. Khi giật mình thức dậy thì tôi nghe lan man được một câu – đến bây
giờ vẫn còn nhớ – Câu đó như thế này:
- Ở nước ta thì có nhà văn Tô
Hoài chú ý tới lời ăn tiếng nói của quần chúng.
Thế là tôi ghi trong trí câu
nói ấy. Tất cả chín điểm của ông nói mất tám tiếng đồng hồ, còn sót lại trong
tôi có mấy chữ đó. Bây giờ có cả bài in trên báo Sài Gòn, tôi có thừa thì giờ
đọc nhưng tôi cũng không đọc. Tôi tìm các báo khác. Tôi có đọc một truyện ngắn
của Thế Uyên, không nhớ là truyện gì trong đó có câu: “Những tên cộng
sản cuồng tín”. Câu này không làm tôi phản ứng gì cả. Tuy vậy vẫn còn nhớ
tới bây giờ: “cộng sản cuồng tín!” Đúng quá !
Sau đó tôi đọc “Loan
mắt nhung” một cách say sưa. Vì lâu nay không đọc loại truyện có nhiều
“chất mặn” như vậy. Đúng ra là thời kỳ còn đi học thì có đọc lén các sách của
Pháp như Paris Magazine, Sous Les Tilleuls, v.v.. Rồi đi kháng chiến thì đọc
báo sách toàn là căm thù giết Tây. Có thể nói chồng báo sách Sài Gòn đã cho tôi
thấy hai con đường văn học khác nhau giữa Hà Nội và Sài Gòn. Hà Nội thì quá
nhiều thứ cấm kỵ còn Sài Gòn thì chẳng cấm kỵ gì cả. Tôi cũng không nghĩ là một
ngày nào đó tôi sẽ viết như nhà văn Sài Gòn, nhưng có một thời tôi mơ ước được
làm nhà văn viết như Tam Lang , Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân – mô tả những cảnh
khốn cùng, những cảnh chơi bời, những cảnh éo le của cuộc đời. Đó là khoảng
1956, khi tôi từ trong Nam mới ra Hà Nội. Tôi thấy sao người viết văn ở đây bị
gò bó quá xá. Hở ra một cái là lập trường. Nhất là trong Cải Cách Ruộng Đất thì
lập trường càng phải được giương cao lên như một thứ quốc hồn. Nhưng nhìn quanh
tôi những nhà văn tên tuổi, có ai viết được một quyển nào về Cải Cách Ruộng Đất
đâu !
Tôi chỉ đọc có một quyển “Mười
năm” của Tô Hoài. Anh nghe tôi than thở:“Không viết được” thì
cầm quyển sách tới tận cái ga-ra bần hèn của tôi – (ở chung với Nguyễn Quang
Sáng) ngay bên cạnh một cái cầu tiêu thùng – mà cho tận tay rồi lại còn rủ tôi
đi đến chợ Hàng Da ăn bít-tếch và uống rượu vang nữa. Nhưng tôi chỉ uống rượu
chớ không ăn, nại cớ là đã ăn cơm rồi, kỳ thực thì bụng nghĩ giá miếng bít tếch
năm đồng (tôi lãnh lương có đâu ba chục đồng) thì nhiều quá, ăn rồi biết bao
giờ mới mời lại anh được?
Anh khuyên tôi cố gắng nhớ lại
chuyện kháng chiến và quan sát chuyện bây giờ… Tôi nhận lời cả, nhưng cứ nao
nao tâm trí thế nào ấy, vẫn cứ không viết được. Và ý nghĩ về Sài Gòn ngủ dưới
gầm cầu để viết những chuyện trong đó có gã Gavroche, có cô Colette như Victor
Hugo hay những chuyện đi hát lang thang trong Sans Famille của Hector Malot,
chứ ở đây thì suốt đời chắc chắn không viết được, nên đã có ý định giang hồ
lang bạt chứ không thích cuộc sống bình thường. Do đó tôi lên Ủy Ban Quốc Tế
xin về Nam để viết… Nhưng chuyện bất thành, như đã kể trên.
Bây giờ tôi lại được thấy “đồng
nghiệp” ở Sài Gòn viết những gì mà mình từng mong ước nhưng quả tình là chưa có
ý định về Sài Gòn. Vì ít ra mình cũng đã ra khỏi miền Bắc bó buộc, về Nam thì
có không khí mới mẻ của chiến tranh chống Mỹ, nào Ấp Bắc, nào Đồng Xoài, nào
Địa Đạo Củ Chi, nào anh hùng diệt Mỹ. Do đó ý định xưa của tôi bị loãng đi, hầu
như bị vùi lấp. Tuy vậy không chết hẳn !
Tối hôm đó, nhân có một cuộc
diễn tập một vở kịch nói của Nguyễn Vũ, tức là ca sĩ Ngô Y Linh trước kia từng
tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Tôi muốn đi xem cho biết.
Đây là vở kịch thứ tư của nhà soạn kịch này. Ở Hà Nội, Nguyễn Vũ có vài vở diễn
ở Nhà Hát Tây được ở trên khen mạnh. Đó là những vở mô tả phong trào học sinh
chống đối chánh quyền ở Sài Gòn. Tôi có đi xem nhưng không đến màn cuối. Tôi
thấy nó không đúng. Tác giả bịa ẩu quá! Cũng kiểu như vở Giáo Sư Hoàng của
Bửu Tiên. Tôi được vé mời mấy lần mới đi xem, nhưng cũng chỉ xem nửa chừng.
(Cái lối của Hà Nội là ở Sài Gòn cái gì cũng tệ hết cả, kể cả lương tâm). Tôi
đi học, có nhiều thầy và giáo sư có bằng cấp cao, tôi tin chắc giới trí thức
không ngông cuồng như thế, nếu có thì không phải là bản chất mà là hiện tượng,
không phải phổ thông mà chỉ là đặc thù gì đó (theo như lý luận của các ông giáo
sư Chính trị Hà Nội).
Buổi diễn tập này tôi lại cũng
không xem được, vì ông ta cũng phịa ẩu như ở Hà Nội, bất chấp thực tế. Tôi lại
gặp Thuần, thằng bạn Hà Nội. Hắn làm Phó giám đốc Đại Học Nhân Dân ở Thái Hà
ấp. Trường này tọa lạc trong khuôn viên của Phó vương Hoàng Cao Khải do ông
Nguyễn Văn Trấn làm giám đốc, một cái trường đại học gần Khâm Thiên, như một
cái ổ cô đầu, dùng để làm mọi việc ngoại trừ đào tạo sinh viên thành tài.
Thuần chán cái chức Phó Giám
Đốc trường Đại Học Nhân Dân này vì thực chất không có ai học cả. Nó như một cái
nhà chứa. Cơ quan nào cần họp đại hội thì đến mượn hội trường. Chính cuộc đấu
tố Nhân Văn Giai Phẩm đã xảy ra ở cái trường Đại Học Nhân Dân này.
May mắn không hiểu ở trên nghĩ
thế nào mà ông Phó Giám Đốc được cho đi học Triết học ở Liên Xô. Hắn đi hồi nào
quả tình tôi không hay, nếu có thì sẽ nhờ hắn mua giùm cái quạt máy tai voi để
dùng dỗ giấc ngủ vào mùa hè. Bù lại tôi sẽ gởi cho hắn vài chai nước mắm. Khi
tôi sắp về Nam thì lại gặp hắn ở Hà Nội. Hắn cho tôi biết cũng sẽ đi Nam cùng
với Bùi Thanh Khiết sau này về làm trưởng phòng Chính Trị mà tôi sẽ có dịp nói
đến trong hồi ký “Củ Chi Đất Thép Thành Bùn” của tôi.
Khi vào Trường Sơn, đến trạm
năm, hay sáu gì đó thì lại gặp Thuần. Bấy giờ hắn làm bí thư riêng cho ông đại
tướng Mặt Sắt. Ông đại tướng giấu mặt nhưng nhờ hắn mà tôi biết được. Lần đó
hắn cho tôi cả một hộp sữa Con Chim Nestlé thứ thiệt. Ối giào ! Phải là một
thằng như thế nào và thân với tôi đến mức nào mới có thể làm cái nghĩa cử vĩ
đại đó. Rồi hai đứa chia tay. Không rõ hắn đi đường nào nhưng bây giờ gặp lại
thì thấy hắn tốt tươi như hoa xuân trong vườn xuân vậy.
- Mày lò mò tới định làm rể cho
bà Thanh Loan hả?
- Bậy hoài ! Thằng nào muốn làm
suôi với tao thì làm chớ tao chịu làm rể cho ai mậy!
- Mày có con trai hay con gái ?
- Con trai con gái có đủ, nhưng
con trai lớn hơn.
Hắn lớn hơn tôi vài tuổi. Thế
mà con đã lớn ngần ấy, còn tôi “vợ còn chưa có, có chi con!” Rõ
buồn. Bây giờ tôi mới thấy thích thú thay là cái sự có con. Cứ xách xe chạy
rong hết yêu lại yêu, yêu từ Hà Nội yêu vô tận trường đi B, yêu vô tận Trường
Sơn rồi bây giờ chả con ma nào bên cạnh cả.
- Tao đem thằng con gởi cho chị
Ba Thanh Loan đây chớ.
- Mày móc nó vô hả?
- Chớ sao ! Cha Việt Cộng, con
Quốc Gia sao được !
Hai thằng kiếm chỗ mắc võng,
nhưng nằm một chập, hắn gợi ý:
- Mày có chỗ nào nhậu không?
- Có!
- Vậy thì đi ! – Để tôi yên tâm
hắn nói ngay – Tao có rượu, thịt, cà phê, thuốc lá đủ hết. Kiếm chỗ nào yếm yếm
hai đứa làm một bữa. Tao biết qua đây là gặp mày nên chuẩn bị sẵn hết.
Nói xong hắn đi một chốc rồi
trở lại với chiếc xe đạp.
Tôi kêu lên:
- Mày làm chúa tể rồi !
- Vợ tao nó gởi vô đấy !
Tôi nhìn chiếc xe Peugeot mà
trầm trồ:
- Phải còn ở Hà Nội tha hồ mà
“nhỡn” với các em.
Thuần cười :
- Thứ này trong Nam là đồ bỏ.
Tao nói cho vợ tao nghe về tình trạng xe đạp ở Hà Nội. Tao kể cho nàng nghe
luôn chuyện một ông giám đốc gởi thơ về nhà ở Sài Gòn qua đường Pháp, chỉ xin
gia đình cái khung xe đạp thôi. Vợ tao hỡi ơi. Nàng không dám hỏi “xã hội chủ
nghĩa gì nghèo vậy anh?” Nhưng tao đọc trong đầu nàng một trăm câu. -Nào, nhảy
lên cho anh đội “lái” về nhà! – Thuần pha trò – Rồi về nhà mời anh đội uống tí
“nước”… ! Bộ sợ hư xe hả. Peugeot chắc lắm, đừng lo !
Thuần gò lưng đạp đi.
Tôi cũng pha trò trở lại:
- Độ này anh đội còn khỏe không
ạ? Vừa gặp “chị đội” có công tác tốt không?
- Tốt chứ! Hí hí! Cả chục năm
tích trữ lực lượng chẳng lẽ lại thua à?
- Ba ván liền không bỏ ván nào
hả?
- Ôi giào, anh đội khỏe như vâm
ấy. Ban đêm không đủ, tranh thủ cả ban ngày.
- Rồi chị đội về à?
- Ở trong này muỗi mòng chịu
sao thấu. Ẻn gốc “đ. chĩa” mà.
- Chị ấy có rù rì câu gì mất
lập trường không?
- Ẻn thì rầu lắm. Còn thằng con
tao thì nó gặp tao nó không mừng chút nào. Nó nói với má nó rằng tao không
giống ba nó mới thấy mẹ chớ! Đã vậy, một hôm nó hỏi tao: “Ba ơi ba! Việt Cộng
là thằng nào hả ba? Sao hổm rày con không thấy ? ” Tao vừa tức cười vừa tức
giận, quát: “Là thằng cha mày đây nè!” Nó nói: “Ở trường, tụi con nghe
nói: Việt Cộng, ba thằng đeo một tàu đu đủ không rụng.”
Hai đứa cười vang rừng. Chiếc
xe bất ngờ sụp xuống một cái ổ gà nhưng Thuần đạp rướn lên. Tôi nói:
- Trường hợp của mày còn có chỗ
chế, vì trẻ con chẳng biết gì. Mày đi hồi nó mới bốn, năm tuổi. Ở nhà nó lớn
lên không có cha bên cạnh lại bi Ngô Đình Diệm nhồi nhét hai tiếng Việt Cộng
vào đầu cho nên nó không thể tưởng tượng một thằng lèm nhèm lùi xùi như mày lại
có thể là bố nó. Để tao kể cho mày nghe trường hợp thằng cháu vợ của Lê Đức
Thọ. Mày biết Nguyễn Văn Cung trưởng ty Công An Bạc Liêu thời chống Pháp không?
Thuần nói:
- Hắn đeo đít ông em vợ ủy viên
Bộ Chính Trị nên được lãnh chức trưởng Sở Du Lịch Hà Nội rồi về Nam được đi
bằng máy bay không phải lội Trường Sơn như mày.
- Như mày nữa chớ ?
- Ý tao thì khác mày đa nghe !
- Nói vậy mày đi trên mây hả?
- Không biết chừng! Rồi sao
nữa?
- Thằng chả có thằng con trai
tên là Chu Dung Chu Vương gì đó. Ở tại Sài Gòn nó ăn chơi khét tiếng và mần ký
giả nữa. Ông già nó về, kêu nó vô khu nó không vô. Ổng phải nhờ chú ruột nó gọi
tiếp nó mới vô.
- Tại sao bố không có quyền
bằng chú?
- Tại vì chú nó có công dạy nó
nuôi nó từ bé ! Ngoài ra chú nó còn là giáo sư triết học đi Liên Xô như mày. Nó
vô bị chú nó chỉnh một keo nặng lắm. Nó ngồi im không nói gì. Chú nó tưởng
thằng cháu thấm bài bèn lấy bài thơ“Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi” của Tố Hữu
ra đọc cho nó nghe và giải thích cho nó theo kiểu triết học. Đại khái là: “Phút
thiêng liêng anh gọi Bác ba lần” và “lũ giết thuê và lũ viết
thuê. “ Y nói là lính Sài Gòn và các ông nhà báo Sài Gòn là một lũ
“viết thuê.” Đến đây thì không còn nhịn ông chú được nữa, ông cháu bèn hỏi:
- Chú nói ai là “lũ viết thuê ?
“
- Là tụi báo biếc Sài Gòn.
Ông cháu cười nhạt:
- Chú đã lần nào gặp “tụi” đó
chưa mà biết họ “viết thuê” ?
- Chưa gặp nhưng chú biết chúng
nó chỉ viết theo lệnh đồng tiền và bọn chánh quyền.
- Cháu xin lỗi chú, cháu cũng
là nhà báo đây, nhưng chưa bao giờ cháu viết theo lệnh đồng tiền và lệnh chánh
quyền cả. Cháu hoàn toàn làm chủ ngòi hút của cháu. Ngược lại cháu thấy các nhà
báo Hà Nội toàn viết theo lệnh chánh quyền.
- Sao cháu biết?
- Cháu có đọc báo Hà Nội khá
nhiều. Toàn là một khuôn. Chỉ có Nhân Văn Giai Phẩm là khác thôi.
Ông chú bí lý, ngồi im. Ông
cháu tấn công tới tấp:
- Cháu nghe ba cháu nói là nước
mình độc lập dân chủ nên má cháu ở nhà nuôi cháu và em cháu để ba cháu đi kháng
chiến. Khi hòa bình lập lại, cháu cũng muốn tập kết với ba cháu nhưng má cháu
không cho đi vì cháu là con trai duy nhất. Cháu tưởng là miền Bắc có dân chủ
thật sự, nhưng khi hành nghề ký giả, cháu tìm hiểu nền báo chí và văn học miền
Bắc để so sánh với báo chí và văn học miền Nam đặc biệt là Sài Gòn. Càng tìm
hiểu, cháu càng thất vọng. Qua các báo Nhân Dân, Độc Lập, Lao Động, Văn Học, Tạp
Chí Nghiên Cứu Văn Học và một số truyện, bút ký của Hà Nội, cháu có thể thấy
ngay miền Bắc không có tự do, bất cứ tự do gì. Còn như ông Tố Hữu viết cái câu
thơ “viết thuê” là viết ẩu.
Ông chú trợn ngược và nhảy dựng
lên:
- Mày nói thật đấy chứ?
- Vâng, đây là cháu nói với một
sự chính xác và nghiêm túc tối đa. Cháu có thể đặt giả thuyết: Nếu tất cả các
báo đều xóa tên của mình chỉ đề tên báo Nhân Dân thì cũng được, bởi vì báo nào
cũng nói giống y báo Nhân Dân, gần như “báo cóp.” Còn truyện và ký, nếu xóa hết
tên tác giả chỉ để một ông X hoặc Y nào đó đứng tên giùm tất cả cũng cứ được,
vì ngòi bút không có sắc thái, không có cá tính riêng mà chỉ có một lập trường.
Ông chú ngồi ngẩn tò te. Cuộc
“tranh luận” giữa chú, cháu chấm dứt. Đường ai nấy đi. Sáng hôm sau ông cháu
cắp nón ra về. Mày biết ông chú đó là ai không?
- Ai?
- Ổng ở bên tổ huấn học của Ban
Tuyên Huấn Miền Nam.
Thuần đạp một mạch tới nơi “tư
thất” của tôi và Tư Mô, thì hạ trại. Tư Mô thấy chiếc xe Peugeot còn mới mà
trầy trụa, bùn đất dính đầy thì lắc đầu. Tôi liền giới thiệu thằng bạn:
- Đây là ông Phó Giám Đốc
trường Đại Học lớn nhất Hà Nội nhưng không có ông bà học trò nào cả, đồng thời
là một nhà triết học suýt đỗ bằng Phó Tiến Sĩ… Còn đây là ông Tư Mô dân ghiền
có “bài nhì” của tiểu ban Văn Nghệ nhưng vì không có nước cay nên không vươn
lên “bài nhứt” được. Bữa nay ông Phó Tiến Sĩ hụt sẽ đãi ông ghiền bằng một hộp
thịt Mỹ, một chai rượu Tây, một gói cà phê Lèo, một chai mắm bò hóc Miên và một
hộp sữa Sài Gòn v.v…
- Cơm chiều với mấy cục thịt dọc
dai nhách, nuốt không vô, xót ruột chưa biết phải cải thiện sinh hoạt bằng cách
nào đây, chẳng ngờ ông bạn mang bằng ấy chiến lợi phẩm tới thết chúng tôi quả
thật là nhờ hồng phúc của Sáu Lăng đại đế.
- Đại rượu đế!
Bếp núc nổi lửa rào rào. Rượu
khui một cách êm ái. Tránh mọi tiếng động có thể quến những ông khách không mời
mà đến, những ông vô ngại tướng quân, và những ông hay đi rảo qua các lều vào
những buổi chiều ăn cơm “hẽo” như thế này.
Tư Mô vừa khui hộp thịt vừa nói
với tôi:
- Chú Hai sẽ thấy một cục thịt
nạc heo bằng chiếc gối đệm trong cái hộp này.
- Sao anh biết ?
- Ở Sài Gòn tôi ăn hoài mà.
Nhưng nhậu thì đây không phải là món hấp dẫn.
- Kệ nó, dù sao cũng hơn rắn
mối và cua đá.
Anh nói:
- Chỉ nên ăn một phần ba, còn
hai phần ba để đành ngày mai chớ! Ông bạn ở lại chơi mình lấy gì đãi?
Chai rượu tây hiệu gì tôi không
còn nhớ nhưng ngon lắm, lạ lắm. Tư Mô đem nó pha với rượu đế để khỏi xa xỉ.
Nhậu xong thì uống cà phê. Cà phê xong đến trà. Vì có khách đặc biệt nên tôi
lẫn anh Tư đều đồng ý không mời Thủy Thủ. Tuy nhiên, theo điệu nghệ “bài nhì”
chúng tôi long trọng quyết định sẽ để dành cho ông bạn vàng một cục thịt khả dĩ
chi dụng trong một bữa cơm, ngoài ra sẽ đãi ông một chén cà phê sữa pha theo
kiểu nhà nghề và một điếu thuốc Pall Mall.
Thuần nói với tôi:
- Tao tìm mày để nhậu bữa nay
vì tao sắp đi với “ổng” xuống Củ Chi đất thép không biết chừng nào về và không
biết có về được không. Ngoài ra tao muốn gởi thằng nhỏ cho mày trông coi giùm.
Má nó không cho nó đi nhưng tao sợ để nó ở ngoài rồi nhiễm ba cái văn hóa Sài
Gòn. Sau này khó uốn nắn theo cách mạng dữ lắm.
Tôi hỏi:
- Sao mày không để nó ở “bển”
có phải tốt không? Ở đó toàn là tướng tá gương mẫu cho thằng bé noi theo, còn
trong cái tiểu ban Văn Nghệ này chú bác của nó bê bối lắm, làm sao mà dạy dỗ nó
cho được?
Thuần nói:
- Nó bảo nếu để nó ở bển nó sẽ
đi về với má nó. Tao nghe nói văn công của chị Ba có lắm chất tươi cho nên muốn
gởi nó ở đó. Chị Ba đang cần người mặt mày sáng sủa để làm diễn viên, chắc nó
nhảy cóc nhảy nhái giúp cho chỉ cũng được.
Tôi cười :
- Nhưng mà chuột sa hũ nếp, ở
đó có mấy cô đào non Việt kiều, coi chừng nó bị hớp hồn đó nghe mày.
Thuận lắc:
- Dòm ngó cho vui thì được
nhưng đi sâu hơn nữa ắt không xong. Má nó ở nhà đã lựa chỗ làm suôi rồi. Con
nhỏ kia có cho nó hình. Coi cũng khá lắm. Tao nghĩ cũng kỳ, bỗng nhiên mình có
dâu. Giống in như trời cho.
- Tao thấy mầy khỏe rồi đó. Dầu
sao cũng lấy vốn.
- Vụ con “ba lê” của mày tới
đâu rồi ?
Tư Mô cười:
- Phải nói là “ba lết” mới
đúng.
Tôi cũng cười và phụ họa:
- Chắc là phải “lết” thôi.
Nhưng bà bầu Thanh Loan canh kỹ quá. Tao không muốn ra đó.
- Cô “ba lê” tôi gặp ở dọc
đường đó anh Tư.
- Anh đội leo núi mệt ứ hơi mà
lại còn đèo em út. Vô tới đây chắc em không ngó tới anh nữa phải không? Công
anh xúc cá nuôi cò, nuôi cho cò lớn cò dò lên cây.
Tư Mô lắc đầu:
- Không phải vậy đâu ông bạn.
Vấn đề lại quay ngược.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là cô ta đeo mà cậu
chàng muốn gỡ. Vì nghe đâu có một cô ở ngoài Hà Nội sắp vô.
Thuần cười :
- Tôi biết vụ đó anh Tư à. Tôi
có bằng chứng đây này! Thuần vỗ vô túi áo. Tôi đem tin cô nàng qua cho chú Hai
nó đây. Cái thư gởi đi từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 330. Biết đâu nàng đang trên đường
vào. Chú mày biết không? Tôi vào đến đây. – Thuần đưa tay che miệng – mất có
sáu ngày kể từ khi gặp chú ở trạm năm. Đó là trạm đặc biệt cho loại cóc nhái
như tao. Còn anh Sáu thì chỉ mất có hai ngày.
- Tin gì ?
- Để nhậu xong sẽ biết !
- Đi mất sáu ngày mà là cóc
nhái, còn tao mất trên ba tháng thì là cái gì ? Là ruồi muỗi chắc.
Tư Mô cắt ngang:
- Rượu này khá quá đó ông bạn.
Chắc uống xong gân cốt sẽ chuyển răng rắc như dây giăng võng vậy. Ở bên Liên Xô
có bán thứ này không?
Thuần lắc:
- Không có đâu. Toàn là Volka.
Muốn có rượu Pháp, ý, thì phải vô tiệm rượu đặc biệt.
- Lại cũng quốc tế mậu dịch như
ở Hà Nội à?
- Không phải có phiếu nhưng
phải có xu cho nhiều. Một chai Cognac, Champague của Pháp giá gấp ba Cognac
Champagne của Liên Xô.
- Tại sao vậy?
- Tại uống Champagne Pháp đã
hơn. Uống vô một ly là nhớ người yêu phương xa ngay.
- Người yêu phương xa thì nhớ
còn người yêu phương gần thì sao ?
- Cái vụ đó thì khỏi phải nói
rồi. Con gái ở bên xứ bạn “đại chúng và khoa học ” lắm. Tụi nó không có phong
kiến như con gái xứ mình. Mày rủ nó đi chơi là nó đi ngay.
- Đi đâu?
- Vô rừng thông, đi bãi biển,
đi hái nho.
- Đi hái nho chớ không phải hái
lá nho nghe chú Hai ? – Tư Mô chen vô.
- Mấy vụ này thì ông Hoàng Cò
nhà mình tương đối rành.
Thuần hỏi:
- Ổng có gần đây không? Hú ông
lại chơi ! Cái giò què của ổng khỏe lại chưa?
- Ổng đi đón con ổng vô. Thằng
nhỏ cũng mười lăm, mười sáu tuổi gì đó.
Thuần uống một hớp buông chén
và nói:
- Mong rằng nó không hỏi bố nó:
Việt Cộng là thằng nào như con tôi hỏi tôi. Thuần quay sang Tư Mô – Anh Tư được
mấy cháu?
- Nhờ trời tôi được bốn đứa. Ba
trai một gái.
- Chỉ ở ngoải làm nghề gì để sống?
- Bán bánh bò ở nhà lồng chợ
Bến Tre.
- Trời đất !
- Đứa con gái và thằng con trai
lớn của tôi ở với cô đặng đi học vì vợ tôi không nuôi nổi.
- Nó học trường Sài Gòn thì đố
khỏi nó nói “Việt Cộng ba thằng đeo tàu đu đủ cho coi.”
- Thì cũng đành thôi chớ biết
làm sao bây giờ ông bạn. Đến vợ tôi còn không hiểu nổi “tại sao anh cứ đi hoài”
và “anh đi làm gì ?” nữa mà, huống hồ con nít.
- Hồi kháng chiến trước anh ở
đâu?
- Mấy năm đầu thì ở tại xứ, sau
ngày Một On chiếm, chạy xuống miền Tây. Hòa bình về thành bị tù. Tù ra có người
móc, nhảy vô khu. Tóm lại từ ngày có vợ có con tôi chỉ ở trong gia đình chừng
vài tháng. Còn bao nhiêu thì đi mần cách mạng.
- Thì tôi cũng như anh vậy. Từ
năm 1946 tới giờ có đụng vợ được mấy lần đâu.
Tôi xen vào:
- Sao bả vô mày không bắt ở lại
lâu lâu mà thả bả về mau vậy?
- Bắt sao được mà bắt. Ở trong
này bom đạn bất ngờ. Rủi chết chùm cả đám làm sao? Bả còn muốn lôi tao về thành
nữa đó mày ơi ! Đây là tao chỉ nói riêng với mày và anh Tư. Đừng để ông Tổ Chức
hay được là tao mất chức “bí” đấy.
- Mấy vẫn còn làm “bí” cho
“ổng” à?
- Còn chớ. Ngoài vụ đó ra tao
có mần được cái gì.
- Bí nhứt hay bí nhì ?
- Chỉ một mình tao thôi.
- Vậy là bí nhứt. Nhút bí !… Ba
cái triết học ở Lomonossov, mày đã kho tương hết chưa?
- Chưa. Còn chờ nấu canh Xiêm
Lo với mắm bò hóc !
- Sao không ráng học chút nữa
lấy cái bằng Phó Tiến sĩ Triết học mà về đút đầu vô rừng mần chi ?
- Thì tao cũng tính vậy nhưng
mấy chả kêu về đi giải phóng Miền Nam. Đúng ra tao cũng chán ngấy học hành rồi.
Học cái gì kỳ vậy mà học năm sáu năm trời. Tao thấy nó chẳng ăn nhập gì với
nước mình cả: Duy vật biện chứng pháp xài vô cái ngả nào trong khi dân ăn toàn
mắm cáy? – Thuần rút thuốc hút và tiếp – Tao chuẩn bị làm luận án Phó Tiến sĩ.
- Viết về vấn đề gì đó ông bạn
? Tư Mô hỏi.
- Chủ nghĩa Mác và vấn
đề tôn giáo Việt Nam.
Tôi kêu lên:
- Mày muốn làm Phó Tổng bí thư
theo sát đồng chí Trường Chinh chắc ! Ổng thì làm một phát “Chủ nghĩa
Mác và vân đề văn hóa” còn mày thì “Chủ nghĩa Mác với vấn đề
tôn giáo Việt Nam. “
Tư Mô nói:
- Vấn đề của ông bạn đây hóc
búa hơn vấn đề của đồng chí Trường Chinh nhiều. Tôn giáo Việt Nam rất phong phú
nhưng cũng rất phức tạp.
- Tôi cũng biết vậy nhưng loay
hoay mãi chẳng tìm ra đề tài nào. Lại nữa, mình phải chọn đề tài mà mấy ông
thầy đọc phải điếc con ráy, mấy ổng không mò ra thì mấy ổng phải chịu thua mình
và cho mình năm điểm cộng. Còn nếu mình chọn đề tài dễ xơi như “Chủ
nghĩa Mác và kinh tế Việt Nam”thì mấy ổng thừa biết kinh tế của mình là cái
cày chìa vôi và xếp hàng rồng rắn mua đồ thì làm sao mình hù mấy ổng được. Tôi
chọn đề tài đó là cao tay đó chớ anh ! Hì hì. Nhưng khi tôi gởi cái dự thảo về
cho anh Bảy Trấn xem thì ảnh trả lời: “Vứt sọt rác cho mau! Đừng có mà bêu riếu
chủ nghĩa Mác kiểu đó.”
Thuần bật cười khoái trá:
- Cũng may là tôi được ra
trường về nước đi giải phóng Miền Nam.
Thấy tôi ngồi đăm chiêu có vẻ
nghĩ ngợi, Tư Mô nói:
- Tôn giáo của mình vô số kể
ngoài những tôn giáo lớn như Công giáo, Phật giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa
Hảo, Tin Lành v.v.. Còn có các ông đạo Nổi, đạo Liếm, đạo Nằm, đạo Ngồi, đạo
Đũa Bếp… ở vùng Thất Sơn Châu Đốc ở trên núi Cấm, núi Tượng, ngoài ra lại còn
nhiều đạo khác nữa, mà ông giáo chủ nào cũng được tôn thờ cả.
Tôi nói:
- Điều đó cũng khó luận, nhưng
không khó bằng đề cập tới các tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo.
- Tại sao? Thuần hỏi.
- Mày không nhớ hồi đầu kháng
chiến à? Tại đất Tây Ninh này, bộ đội của các ông Tô Ký, Hai Bứa đã làm cỏ tín
đồ Cao Đài quăng chật giếng các đồn điền cao su, còn bộ đội Miền Tây thì giết
vô số tín đồ Hòa Hảo ở các vùng Thất Sơn, Bảy Núi, Ba Dầu, Định Mỹ, Láng Linh
v.v…. Đặc biệt ở Láng Linh, Vệ quốc đoàn đã giết hằng trăm tín đồ, đốt phá
triệt hạ mấy làng. Cảnh tượng ghê rợn đến đỗi có bài hát đồng dao phỏng theo
bài “Nhớ Chiến Khu”của Đỗ Nhuận:
Còn đâu trên Láng Linh khi trời
chiều
Bên ngàn chất đống cao ngàn thây chết…
- Chú có đi Láng Linh à? Tư Mô
hỏi.
- Có chớ. Hồi 47 tôi đi theo bộ
đội tảo thanh vùng đó. Rồi năm 50-51 tôi đi chiến dịch Long Châu Hà I – Long
Châu Hà II. Bộ đội mình đã bị tín đồ Hòa Hảo bao vây chạy suýt chết.
Cả Tư Mô lẫn Thuần ngồi im. Tôi
nói:
- Tệ nhất là mình đã giết ông
Huỳnh Phú Sổ lúc ổng đang làm ủy viên đặc biệt của ủy Ban Kháng Chiến/HC Nam
Bộ.
- Chuyện đó cũng chưa ghê gớm.
- Vậy chuyện gì mới ghê gớm ?
- Mầy không biết cụ Hồ giết
Dương Bạch Mai bằng thuốc độc của Trần Quốc Hoàn ở tại Quốc hội à?
Tôi làm bộ không biết:
- Không, tao chỉ nghe ổng đau
tim.
- Đau gì mà đau. Thôi bỏ qua đi
! Tao mong sao giải phóng cho dân Nam Kỳ về xứ.
- Về con mẹ họ chớ về ! Bỏ xác
khắp nước Lèo và Trường Sơn! Còn về được mấy ngoe ?
Buổi nhậu đạt chỉ tiêu năm trăm
phần trăm. Nói chuyện khào một lúc, ai leo lên võng nấy. Tư Mô kéo chăn lên tới
cổ buông màn và bảo:
- Các chú xổ bầu tâm sự đi nhé.
Tôi du tiên đây.
Đêm đã khuya, nhưng tôi không
chợp mắt được. Lá thư của Nguyệt làm cho tôi bồi hồi. Tôi nhớ đêm “tái ngộ”
trên đỉnh Trường Sơn. Chúng tôi đã xóa hết giận hờn của ngót mười năm và sống
những phút vợ chồng trong căn lều của thằng bạn dược sĩ đồng hương tốt bụng.
Nguyệt hứa với tôi khi trở về đơn vị sẽ lập tức xin đi B.
Y như lời, bức thư vào trước
như một cánh én mùa Xuân.
—>Chương 9
- 9 -
Tôi biết Thuần ở gần mặt trời
có nhiều tin hấp dẫn, nên cạch hỏi nó liên miên về tình hình sắp tới. Trước khi
“cung khai” nó dặn tôi hãy kín miệng “là cứu nước” năm bảy lần. Tôi cũng hứa
với nó năm bảy chục lần rằng tôi sẽ “kín miệng” để cứu nước, nó mới chịu nói
như nói chuyện cấm đàn bà và trẻ con dưới hai mươi lăm tuổi.
Trước tiên tôi hỏi nó:
- Mày thấy tình hình giải phóng
đã “meo” chưa?
- Meo là sao?
- Là sắp “bưng mâm”
- Chưa đâu ông nội! Đừng có
tếu!
- Vậy hồi tao ở trong trường đi
B ông Vịnh rồi ông Giáp có đến nói chuyện với tụi tao rằng thì là tình hình
miền Nam sắp chín muồi rồi. Rằng thì là các đồng chí về tới trong đó thì tất cả
đều khác xa. Vậy là cái nghĩa gì?
- Tao không biết nhưng thấy còn
vất vả trăm ngàn mày ơi! Chưa có loé lên một tia sáng tia tối gì đâu. Mấy ổng
còn đang lo ba cái vụ Mỹ đổ vô Đà Nẵng, Huế, Sàigòn gì đó.
- Lo là lo thế nào?
- Lo chỉnh huấn bộ đội.
- Chỉnh sao cho lại ba cái B52?
Thuần làm thinh. Tôi biết tôi
vừa buông ra một mũi tên độc ác trúng tim đen của thằng bạn nên không hỏi thêm
nữa. Gió rừng lao xao. Những chiếc lá rơi rào rào khua động trên rừng. Vài
chiếc rơi trên nóc tăng nghe rõ mồn một. Thấy Thuần không nói tì thêm, tôi bèn
rẽ sang chuyện khác:
- Mày sang đây để gởi con mày
cho Văn Công à?
- Mày thấy còn chỗ nào cho nó
trú ngụ không?
- Tao đâu có biết. Mày đến hỏi
thử xem. Tao chẳng có quyền hạn gì với ai cả. Mày biết tính của tao không có
muốn chỉ huy ai và không muốn ai chỉ huy mình. Nhưng mà mày gởi nó ở đó để học
cái gì?
Thuần thở dài:
- Tao đâu có định cho nó học
cái gì. Ở ngoài Sàigòn nó gần thi Tú Tài rồi, nhưng tao sợ nó thi rớt bị bắt đi
học sĩ quan thì nguy lắm. Thằng con giết thằng tía mà không biết! Cho nên tao
đưa nó vô đây để hai cha con gần gũi nhau, vậy thôi chớ ở trong này có cái gì
mà học?
- Ừ đúng đó, mày có biết là con
gái vô đây là hỏng bét hết không?
- Làm gì tao không biết. Ở bên
Bộ Chỉ Huy toàn là con gái mấy ông lớn nhưng hư thì cũng cứ hư. Đám con gái đánh
máy cho Lê Đức Anh và Hai Bứa, Ba Sinh, Ba Thắng, Chín Hô quá trời quá đất,
không ai can nổi.
- Chúng làm gì?
- Còn làm cái gì nữa! Kể ra
cũng bị mấy cha lớn bày chuyện cho chúng nó cả. Chính mấy chả không nên thân
nên con nít bắt chước. Kể cả ông tướng Mặt Sắt nữa. Tao ớn lắm! Một là ớn B52,
hai là ớn mấy chả.
Tôi hỏi:
- Chúng mày ở đâu cớ chứ?
- Mày không biết thật à?
- Tao từ ngày chui vô đây không
có đi đâu ra khỏi cái “Bầu Lùng Tung” này. Biết cái gì mà biết?
- Chỗ tụi tao ở là Tà Bon. Nói
phức ra cho rồi. Ở đó có động tịnh gì thì các chả có đường sinh lộ: vọt ngay
sang Minốt bên xứ Thổ uống rượu thuốc không đau lưng.
- Minốt là cái giống gì?
- Là đồn điền cao su có sân
bay. Các cha ở ngoải vô toàn là đi máy bay. Tao đeo vè xe hơi ông tướng Mặt Sắt
được một đoạn. Ờ, trong chuyến đó có con nhỏ ba-lê của mày. Coi được lắm! Nhưng
tao đâu có dám bỏ ngón vì nó là của mày mà.
- Đếch gì! Ở đời muôn sự của
chung. Nó vô đây hết là của tao rồi. Chỉ đá lông nheo xa xa thôi không có rờ
rẫm được nữa.
- Chuyến đó… ờ phải rồi. Gặp
mày ở tại trạm 5, có Văn.Công sư đoàn 330 diễn kịch, rồi ổng hỏi ý kiến của mày
chớ gì. Sau đó đoàn tụi tao tách ra. Đi ít hôm nữa là ổng trở về Hà Nội rồi đi
máy bay luôn vô Nam Vang. Con Thu cũng đi xe hơi với tụi tao về Hà Nội, nhưng không
được trở lại cơ quan và cũng không được liên lạc với gia đình. Kể như nó đã đi
rồi. Sau đó lại đi…
- Không biết ổng có giấu con
nhỏ trong văn phòng ổng hay không. Chuyện đó có trời biết !
- Ối ! Tao đâu có tính mấy
chuyện đó. Nó vô đây là đụng thằng nởm của nó rồi.
- Mày không… gì nữa à?
- Tao có cấy rau muống thì cấy
từ ngoài Hà Nội chớ về tới xứ rồi, rau muống đâu có giá nữa.
Tôi quay lại chuyện bên Bộ Chỉ
huy:
- Ê! Bêka vô ngập hết rồi hả
mậy?
- Thì vậy thôi. Để rồi mày coi,
đấm đá thì dân Nam Cờ mình đi đầu, mâm cỗ dọn lên thì Bêka quơ sạch. Tụi mình
bơ mỏ chó chứ được cái đếch gì. Mày không thấy hồi tập kết ra Bắc đó sao? Dân
Thành Đồng Tổ Quốc hóa ra dân Thành Bùn Xó Hóc, lon gáo người ta mang hết sạch,
lơ lơ láo láo đứng dựa gốc cột ngó một hồi rồi về nhà uống trà dảo nuốt hận.
Lần này cũng vậy nữa. Bộ Chỉ huy toàn là dân cọc cạch và rau muống không thôi.
Trần Văn Chè là dân khu “Nôm” đó nghe cha nội. Đừng có tưởng chả là Nam Cờ mà
lầm đau đớn.
- Tao thực sự không hiểu thằng
cha đó có ăn chịu gì với Trung ương mà nó lên chức vù vù vậy.
- Mày không biết thật à?
- Không!
- Nó canh gác cho Ba Duẩn đéo
đứng mụ Nga ở U Minh. Nó kiếm gái cho Lê Đức Thọ chơi. Nó nịnh Văn Tiến Dũng.
Có thế thôi. Bây giờ nó đội Nguyễn Chí Thanh. Chỉ còn thiếu dâng vợ nó…
- Mẹ kiếp! Nó ở khu 8, tao biết
rành quá chời ! Nó có đánh đá gì đâu. Chiến công Giồng Dinh Giồng Dứa, Mộc Hóa,
La Bang, Pắc Xa Ma, Vàm Nước Trong, Phú Lễ, Bàu Vơi v.v… và những trận khác
toàn là của các tay tiểu đoàn trưởng và lính chớ nó có xía vô được phát súng
nào. Vậy mà ra Bắc lên trung tướng, hiệu trưởng Lục quân Trần Quốc Tuấn, thứ
trưởng Quốc phòng…
- Thói đời thằng nào đội giỏi
thằng đó lên lon mau mày ơi ! Ông Bảy Trấn của tao đáng lẽ cũng là Trung tướng
mà chẳng được cái mẻ gì hết. Tụi nó tống ổng ra dân, làm “giám cái
mòng đóc” đại học.
- Nhưng tụi nó còn cho làm giám
đốc đại học Nhân Dân cũng là đỡ lắm. Còn hơn Tư lệnh khu 7 Huỳnh Văn Nghệ chỉ
được cho làm trọng tài thổi còi các trận đá bóng Sân Cột Cờ. Còn mày nữa, sao
mày lọt sổ đi Liên Xô được vậy hả?
- Mày không biết là tao làm Phó
giám đốc trường đại học “không có ai học” đó à? Bởi vậy nên ông Bảy ổng muốn
tống tao đi nghỉ mát ở Liên Xô vài năm chơi cho biết mùi bơ sữa nước anh em.
- Qua đó thì bơ sữa đã đành,
nhưng có biết mùi các em không?
- Chuyện đó khỏi nói rồi. Dễ cu
thôi. Có xu, rủ em đi pic-nic vô rừng là ăn thua ngay, nhưng tụi nó khoa học
lắm. Nó bắt thằng nhỏ phải mặc áo giáp như auto blindé, thì nó mới cho vào hang
“bắt cọp.”
- Sao kỳ vậy ?
- Nó sợ mang “bị tương lai” chớ
sao.
- Mày có để lại cái nào cho các
em không?
- Hì hì…
- Tao hỏi chuyện này mày phải
nói thật nghe.
- Tao sợ gì mày mà tao phải nói
láo mậy?
- Tao nghe nói có một tay to
lắm sang đó mò một con nhỏ hầu phòng vốn là đoàn viên Komsomol bị nó la nên Sứ
quán mình mất mặt phải xin lỗi. Có không?
- Không có đâu ! Thằng nào ngu
mà đi mò tụi đó. Có cần thì cho nó năm, sáu rúp là … nó suốt đêm, Komsômôn sô
miếc cái đếch gì ? Có tụi thanh niên mình tin ở lý tưởng nọ kia chớ tụi Liên Xô
chẳng tôn thờ cái món đó lắm đâu. Mày ra bãi biển với một em, mày có thể làm
vịt Xiêm đạp mái dưới nước được mà.
- Không! Tao nghe nói lão bộ
trưởng Phủ Thủ tướng bị em Komsomol la.
- Có thể là thằng chả xui xẻo
mò nhằm một cái lập trường cứng rắn.
- Nghe nói con gái anh Ba Duẩn
mê thằng cha thầy có không?
- Tao chỉ biết là các ông lớn,
ông nào cũng có con học Liên Xô với tiêu chuẩn cao hết cả, chớ không biết vụ
đó. Nhưng có biết vụ con ông lớn làm tiền ở bãi biển Krimée.
- Mày “trả thù xứ sở” được mấy
lần?
- Nhiều.
- Mày khiển có xuể không?
- Khi ăn khi thua. Nói chung là
mấy “ẻn” không chê dân ta lắm.
- En nào cũng trường túc hết cả
hả?
- Có em mập có em ốm chớ. Nhưng
nói chung là em nào cũng hảo ngọt cả. Ăn và chơi là hai môn các em thích nhất.
Mười lăm, mười sáu ít khi nào còn nguyên. Tụi nó thực hành đâu hồi mười bốn
tuổi hay sao ấy. Nó có mùi hôi hôi mày ạ. Không phải hôi hám đâu. Cũng không
phải là nó ở dơ. Nhưng cái mùi của các em bên đó không có hợp với “khứu vị” của
bọn mình.
- Nè ! Mày có biết thằng Lê An
không?
- Không. Nhưng có nghe nói. Khi
tao qua thì Sứ quán kêu một lũ “ma mới” đến dằn mặt ngay. Ông Kinh đại sứ bảo
là chớ có lang bang. Lơ mơ là đóng thùng gởi về nước. Thằng Lê An nhạc sĩ
violon chớ gì. Không biết nó làm cách nào lủi vô được Sứ quán Hòa Lan rồi dông
về Sài Gòn. Cái thằng! Báo hại tụi sinh viên phải học tập cả tháng.
- Học tập cái gì ?
- Học tập lại lập trường vô sản
chớ học tập cái gì.
- Vậy còn các cha Võ Văn Doãn
và Lê Vinh Quốc qua học đại học Mác Lê rồi ăn phải bã của ông Trọc Khơ, học
xong ở lại thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam bên đó, có học không?
- Tao qua thì cờ tàn rồi, nhưng
cũng còn nghe dư âm. Khô rơi đài. Kốt-xi-ghin lên nắm, hai tên xét lại bị bỏ
củi heo gởi về Việt Nam. Bây giờ mất tích luôn không thấy tụi đó đâu nữa.
- Vậy chắc đám sinh viên học
tập đã đời về vụ đó hả ?
- Cũng vừa phải thôi ! Vì tư
tưởng của già Khơ ăn ruồng ác lắm. Ai mà nghe lão nói chuyện cũng mê hết.
- Kể ra xừ lũy cũng có tài chớ
hả. Lôi cả cái xác Stalin ra khỏi hồng trường thiêu hủy và đá văng cả bảy ông
trong Bộ Chính trị ra khỏi ghế mà y không hề hấn gì cả. Đây rồi tới Mao chủ
tịch.
- Ớn nhất là ông nội Bánh Bao
này ! Vì lão bụng phệ này ở gần mình và mình ăn chịu với lão quá đậm. Lão ho
một phát là mình rởn tóc gáy và quì xuống mà vâng dạ ỏm tỏi. Mày không thấy ông
Mai nhà mình chỉ nói lão ta là “Mác xít mít xoài” là bị thưởng một chai nước
ngọt, uống chưa hết là dẫy tê như cá lóc bị đập đầu hay sao?
- Không biết bên đó đang diễn
cái trò gì mà lúc tao nằm giữa Trường Sơn tao nghe Đài Bắc Kinh nói oang oang
Lưu Thiếu Kỳ là tên phản đảng và bị gọt gáy bôi vôi, hả mậy?
- Mình không có thể hiểu được
mấy ông to đầu đâu mày ạ. Tao đã ở gần ông Mặt Sắt này khá lâu. Tao thấy ổng có
vẻ bí hiểm lắm. Ổng lầm lầm lì lì như thánh con vậy. Ổng vô đây là toàn quyền
đó nghe mậy, ổng muốn thay đổi tổ chức như thế nào thì cứ thay, không cần phải
thỉnh thị Trung ương – Thuần tiếp – Sắp tới đây có hội nghị to lắm ở bên Bộ Chỉ
huy. .
- Ổng ở bên đó hả?
- Thì ở bển chớ ở đâu. Ổng như
vua trong cung điện vậy không có ai gặp mặt được, chỉ trừ con vợ thằng Trỗi
thôi !
- Thằng Trỗi nào?
- Trời đất! Mày lú lẫn rồi hay
sao? Mày quên cả anh hùng của mình à?
Thực tình là tôi đã quên. Hoặc
nói theo duy vật biện chứng bá láp là trong tiềm thức của tôi không có ghi cái
tên Trôi tên Trỗi này. Bây giờ nghe nhắc, nó mới bật ra. Và nhớ lại. Nguyễn Văn
Trỗi mà Đài Phát Thanh Hà Nội đọc là Nguyễn Văn “Trôi” và các nhạc sĩ Hà Nội
theo lệnh Tố Hữu đã làm hằng trăm bài hát ca ngợi chớ gì ? Nhà thơ cng thế, làm
thơ đăng khắp các báo. Thứ thi sĩ con cóc nhảy ra chưa bao giờ được “hôn tòa
soạn” để tòa soạn đăng cho một bài, thì nay có dịp trổ tài thi phú. Vần “ôi”
trong chữ “TRÔI” thì dễ gieo dễ đáp quá, nên thơ rất nhiều, báo Văn Nghệ (mà
tôi ở trong Bộ Biên tập) đăng không hết. Riêng Tố Hữu thì làm một bài xếp xầm
đăng ở báo Nhân Dân có tựa là “Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi ?” trong đó có câu ‘”Phút
thiêng liêng anh gọi Bác ba lần. ” (Có những cái mồm ăn mắm ăn muối cười toét
với nhau hỏi: Sao không “bốn lần ? “, nói lái theo kiểu Nam Kỳ thì mất hết
thiêng liêng). Chế Lan Viên và Xuân Diệu thì tha hồ biểu diễn lập trường thơ
của mình.
Thuở đó tôi rất mệt vì phải
chạy lăng xăng làm phóng sự nghĩa là đi tìm tài liệu trong “các tầng lớp nhân
dân” để viết, nhưng rồi tôi không viết nổi vì xưởng Phim Tài Liệu Hà Nội đã
thầu hết cả rồi. Họ làm phóng sự bằng hình ảnh, để chiếu ra liền. Riêng các họa
sĩ thì thức đêm để vẽ áp phích… Nguyễn Văn Trôi đứng ngồi nằm đủ ba mươi sáu
kiểu khắp Hà Nội, kiểu nào trông thấy cũng tê người hết cả. Đi đâu cũng nghe
bàn tán, ở ngã tư, ngã ba, ba ngõ… hẻm nào cũng có hình Nguyễn Văn Trôi. Đùng
một cái trên Thông Tấn Xã cải chính “Nguyễn Văn Trỗi.” Trỗi, chớ
không phải Trôi. Thế là bỏ mẹ rồi ! Khổ nhất là các nhạc sĩ. Dấu
nhạc đồ (gì) không đổi ra (xỏ) lá được. Vả
lại muốn hát trên đài cho nhân dân nghe, phải có mủ-dích đi kèm, chứ chẳng lẽ
cứ la như mãi võ sơn đông? Cho nên cuối cùng không sửa được cứ để “Anh Nguyễn
Văn Trôi” nguyên con. Do đó dân Hà Nội vốn chúa dí dỏm và sáng tạo ngôn ngữ,
bảo nhau: “Mình ca ngợi ông Trôi anh hùng, trong khi ông Trỗi lại chết bắn! ”
Thành ra trớt he .
Nhưng còn một cái tai nạn khác
khiến cho tôi không quên ông TRÔI được. Đó là quyển “Sống Như Anh,” một
quyển sách độ trăm ngoài trang do Hà Nội in. Hai chữ SỐNG NHƯ màu đen, chữ ANH
màu đỏ. Sách này là của một anh chàng làm ở báo Cứu Quốc rất vô danh chuyên
nghề viết tin hợp tác xã. Để tống bớt nhân viên đi cho nhẹ tòa soạn, báo này
cho anh ta hưởng cái vinh quang đi Nam. Và chó ngáp phải ruồi. Anh ta vớ được
“vụ Nguyễn Văn Trỗi” trong cục R. rồi tương lên thành sách, kỳ là Trần Đình Vân.
Bản thảo gởi ra Hà Nội, Tố Hữu sướng lắm, xách đi khoe ở Hội Nhà Văn và cho
lệnh in hai mươi ngàn bản. (Thơ của Xuân Diệu, Chế Lan Viên chỉ đến sáu ngàn là
thượng đỉnh. Chỉ có thơ họ Tố mới in hai mươi ngàn). In xong, họ Tố bảo Hội Nhà
Văn họp để hoan nghênh và xé to ra cho có tiếng vang quốc tế! Trước nhất là các
ông to bà lớn trong Hội phải viết bài để ca ngợi nghệ thuật và lập trường của
ông anh hùng. (Tôi không có ý chế diễu một người đã chết dù chết cách nào đi
nữa. Nhưng đây là sự thực. Chính Hà Nội đã làm cho người anh hùng của họ trở
nên hài hước. Càng hài hước hơn nữa là đồng bào Sài Gòn ở vùng cầu Trương Minh
Giảng đã biết rõ ông anh hùng này. Sau khi về Sài Gòn tôi có tìm hiểu để xem sự
thực nằm ở cái lỗ mô: Một là “Ngô Đình Diệm bỏ thuốc độc giết cả ngàn tù ở Phú
Lợi.” Tôi đã đến tận nơi hỏi, thì đồng bào ở đây ngơ ngác bảo chẳng biết vụ đó
là gì ? Vụ thứ hai là Nguyễn Văn Trỗi đặt bom ở cầu Công Lý để giết Mac
Namarra. Vài người bảo không rõ đầu đuôi nhưng bà con trông thấy một kẻ chui vô
chuồng gà tưởng là tên ăn trộm gà nên kêu cảnh sát bắt… Rồi ở Hà Nội, tên “ăn
trộm gà” lại hóa ra vĩ nhân!)
Tôi xách xe đạp chạy long cả
đầu gối đi lạy từng ông từng bà một để mong ông bà viết cho một bài khen dùm
quyển “Sống như anh ” của Trần Đình Vân.
Nguyễn Tuân bảo: Đó không phải
là nghệ thuật văn chương gì cả mà chỉ là những bài bán, có thể ông Quang Đạm
ông Như Phong (hai cây bút trụ cột của báo Nhân Dân) hoặc ông Hoàng Tùng (Việt
Nam Thông Tấn Xã) khen thì cứ khen, còn tôi thì… hà hà bận quá!
Còn Tô Hoài chỉ cười nhếch mép:
“Tôi chưa có đọc!”
Còn một ông, nhưng ông lại ở xa
quá, ông Nguyên Hồng ở mãi nơi miền sơn cước Bắc Giang, nên tôi đành chịu…
phoọc-phe. Tôi bèn xoay ra kế khác. Đi đến Thành Đoàn Thanh Niên Lao Động Hà
Nội. ông Bí thư (tên gì tôi quên mất, hình như là Vũ Quang) buồn rầu bảo: Trong
thanh niên Hà Nội có một luồng chế diễu quyển sách này, chúng tôi đang có chỉ
thị dập tắt đây. Tôi hỏi : tại sao chế diễu? Ông Bí thư bảo: Thanh niên kháo
với nhau rằng “Sống như anh” thì “chết sướng hơn.” Nghĩa là chết ở pháp trường
bỏ vợ trẻ đẹp lại cho ai? Thế nên họ bảo: “Đừng sống như anh ! “
Tôi mất hứng quá, không còn
biết cạy gỡ cách nào. Bèn chạy về tòa soạn tìm quyển sách. Đến lúc này tôi vẫn
chưa đọc. Tôi chỉ đọc vài trang thì… quả như lời ông Tuân nói.
Tố Hữu cáu lắm, nhưng không làm
gì được, đành tự tay viết một bài đăng báo Nhân Dân hay báo Văn Nghệ gì đó tôi
không nhớ, hình như báo Nhân Dân thì phải. Rồi báo Văn Nghệ chụp in lại. Thế
nhưng sau đó, khi tôi vào tới trong R thì nghe tin tác giả quyển Sống Như Anh
được gởi đi Trung Quốc cùng với nhà thơ Thanh Hải và được “ăn cơm với Chủ tịch
Mao Trạch Đông.”
Do đó bây giờ nằm ở R tôi làm
sao quên được “Nguyễn Văn Trôi.” Tôi kể một mạch những sự việc trên cho Thuần
nghe, và hỏi lại:
- Mày gặp bà anh hùng ở bên hả?
- Ừ!
- Bả có giống trong hình không?
- Hình nào ?
- Hình trong quyển sách Sống
Như Anh !
- Tao đâu có thấy mặt mũi quyển
đó, nhưng cô nàng xinh lắm. Còn trẻ ghê. Tên là Quyên.
- Tội nghiệp !
- Ông Sáu Vi cưng cô ta lắm…
lắ…ắm hắc… hắc !
- Cưng thế nào? Như con hay như
chá… áu?
- Cái thằng! Mày muốn đứt đầu
hả?… Thằng Thép Mới muốn qua gặp cô ấy nhưng ông Sáu không cho gặp. Bảo cô còn
buồn, không ai được phỏng… cô ta. Nếu ổng vô sớm thì thằng kia không được gặp
đâu. Cô ta đi đâu ổng cũng cho vệ binh theo tò tò canh giữ cái của quí của ổng.
- Thì của quí…í chớ là gì nữa!
- Mày đừng có nghĩ bậy bạ nghe
mày!
- Ơ kìa, mày nói cô ta là của
quí thì tao nói là của quí chớ phải tao nói là của không quí sao mà mày bảo tao
nghĩ bậy b…ạ? Tao có nghĩ bậy bạ gì đâu.
- Cô ta tắm thì vệ binh xách
nước cho cổ tắm chớ ổng không cho cổ xuống suối…
- ..Sợ người ta nom thấy cái
của quí… hí hí…. !
Thuần bật cười. Tôi hỏi:
- Mày đã được tiếp cận, ủa tiếp
xúc với cái của quí đó chưa?
- Cái của quí nào?
- Thì cô Quyên ấy mà.
- Tao gặp hằng ngày !
- Bộ mày ở gần đó à??
- Trước đây thì tao ở chung một
nhà để làm việc với ổng. Tao là “bí nhứt” của ổng mà. Hổng biết ổng kêu hay Mặt
Trận tự động đưa cô ta qua cho ổng. Rồi ông Ba Chè cho vệ binh cất cho tao một
cái chòi riêng cách chừng vài chục thước, ủa chừng trăm thước. Nghĩa là khi nói
chuyện, người bên này không nghe người bên kia, mà phải gọi to mới nghe. Mày rõ
chưa nào?
- Dạ em rõ ạ, rõ lắm ạ! Như vậy
là mày bị tống ra xa chức bí nhứ để trở thành bí nhì.
- Cô Quyên về ngủ chung với ông
một… chòi !
- Bậy mày !
- Gì mà bậy! Bác cháu ngủ chung
một chòi. Có gì đâu? Cháu được bác cưng dữ dội.
- Hồi nãy mày bảo tao đừng có
nghĩ bậy bạ, vậy còn mày thì sao ?
- Tao có nghĩ gì bậy bạ đâu. Cô
Quyên là vợ một anh hùng liệt sĩ, còn ổng là một nhà cách mạng thứ dữ, chỉ có
thua Hồ chủ tịch thôi. Ai mà dám nghĩ bậy về hai con người như vậy.
- Vậy sao tao nghe nói…
- Nói gì ? Mày nghe cái gì ?
- Hì hì… tao hổng có nghe cái
gì hết ! Nhưng cái gì tao cũng nghe hết, không sót một cái gì !
Thuần im lặng một lúc lâu rồi
ngóc đầu lên:
- Mày có nghe thiệt à?
- Mày nghe hổng nghe thì thôi
chớ tao có hổng có nghe cái gì ráo trọi !
- Mày nghe gì thì nói cho tao
biết, tao ngăn chận đứng dư luận. Để lan tràn ra kỳ lắm.
Thấy thằng bạn hơi hốt hoảng tôi
càng nói hàng hai để thấu cáy hắn chơi.
- Nói thiệt với mày tao nghe
nhiều lắm, nhưng không biết cái nào đúng cái nào sai.
- Không có cái nào đúng đâu!
- Ừ không đúng thì bỏ qua đi,
hỏi tao làm đéo gì !
- Thì đâu mày nói tao nghe thử.
- Không phải ổng đâu mà thằng
khác.
- Hả? Thằng nào?
- Mấy thằng bên Mặt Trận hay ở
đâu đó, ai mà biết được? Có thằng nào lại chịu cha ăn cướp. Hổng chừng có mày
trong cái danh sách dài dằng đặc đó.
Thằng Thuần bỗng ré lên cười
khanh khách. Tôi biết là tôi đã thấu cáy hắn rất thành công nên bảo luôn:
- Nhưng mày chưa đi đến đâu đâu
!
- Sao mày biết?
- Mày chỉ xạ giàn ngoài thôi!
- Giỡn hoài mậy!
Tôi biết tính thằng bạn. Nó
“nhạy bén” lắm ! Hơn nữa có vó tài tử xi-nê. Dễ gì mà nó tha con nai tơ ngơ
ngác nhoáng qua nhoáng lại trước mắt hằng ngày. Hơn nữa con nai đã bị treo mõm
mấy năm vừa đói lại vừa khát. Nghe suối lòng reo rả rích róc ra róc rách làm
sao chịu nổi. Tôi bảo:
- Mày dở thật. Của ngon treo
trước mõm lại để sói già nuốt mất.
- Đếch họ ! Sói già chỉ ngửi
vành ngoài thôi. Còn gân đâu mà đánh vô trung tâm ?
Tôi biết là hắn tự ái nên nói
khích:
- Tao lết trên Trường Sơn ói ra
máu cục vậy mà vẫn “trả thù dân tộc được mấy tháng liền,” còn mầy ăn no ngủ kỹ
vậy mà người ta dâng dưa tới họng thì lại tu.
Thuần cười. Hồi lâu mới tiếp:
- Để tao kể cho mày nghe nhé.
- Đừng có nói láo ông nội ơi !
- Tao láo cho B52 ăn tao đi.
- Ừ thì kể nghe !
- Nhưng mày phải hứa là không
có nói đi nói lại cho ai nghe nhé ?
- Chẳng có “nhé, nhỉ” gì hết.
Nói thì tao nghe chơi. Sau này viết truyện tao đưa khéo vào.
- Ông nội ơi ! Cái “khéo” của
ông là cũng đủ bỏ mẹ tôi rồi. Nhưng được, dám ăn dám chịu. Sợ đếch gì. Mánh
khóe ở đời không phải là “anh có ăn vụng không” mà là “anh ăn vụng anh có chùi
mõm sạch không?” Phải không mày ?-Thuần nói to lên trong lúc tôi vẫn nằm im
không đáp – Tao biết nhiều vụ còn động đất hơn. Vụ này ăn thua chi ?
- Ừ nói nghe chơi. Chớ để chết
đem theo à?
- Chẳng có lãnh tụ nào anh minh
cả. Trước cái l…, thằng chó nào cũng hít hít và gằm mặt vào đó và mê mẩn cả
thôi Tao biết hết ráo trọi.
- Cả bác Hồ?
-Ông già thì tao không có ở gần
mà tao chỉ nghe vài giai thoại thôi, còn từ anh Ba Duẩn, anh Hai Hùng, anh Sáu
Thọ, anh Ba Khiêm, anh Mười Kỉnh, anh đéo nào tao cũng có hồ sơ cả.
- Kỉnh nào ?
- Kỉnh đại sứ ở Liên Xô !
- Ổng cũng có thành tích dữ vậy
à?
- Ông Trần Văn Chè, ông Sáu
Nam.
- Nam nào ?
- Lê Đức Anh tham mưu trưởng
khu 7 hồi kháng chiến chống Pháp. Vô đây đổi tên là Sáu Nam. Rồi ông đại tướng
họ Võ, ông Văn Tiến Rũng, ông râu rìa mặt mốc nào cũng đội cái húm lên đầu chứ chẳng
có đạo đứt họng gì cả. Nếu tao là nhà dăng thì tao sẽ ghi ra hết.
- Còn ông Phó Giám đốc trường
Đại Học Nhân Dân?
- Là ai ?
- Là mày đó chớ còn ai? Mày
quên mày à?
Thuần phá lên cười rồi nói:
- Ông Chánh của tao cũng vậy
nên tao phải noi gương chớ sao. Ổng là một cây đó mày ơi! Sở dĩ ổng không vô
trung ương được là cũng do cái sự ấy một phần. Tụi Bêka nó nại cớ đó ra mà đá
ổng. Mày biết không, ổng làm tái đến bà “ích xì” nữa đó. (Bà phu nhân này là vợ
của một nhà cách mạng rất danh tiếng đã qua đời từ lâu, nên tôi xin phép không
nêu tên.) Hồi ổng còn làm Tư lệnh kiêm Chánh ủy miền Tây, vợ ổng ghen cạo trọc
đầu và nhảy xuống sông tự tử cơ mà! Các cha Trịnh Khánh Vàng, Võ Quang Anh cũng
là những con heo nọc trứ danh mày không biết à?
- Có biết chớ sao không.
- Chuyện anh Ba Duẩn mày không
biết bằng tao đâu. Nhưng khui ra nó thối lắm. Tao không muốn xấu lá xấu nem.
Bây giờ với mày và ở giữa rừng tao mới nói ra lần thứ nhất. Hồi ở khu 9 ấy mà.
Anh Ba nhà mình không có chỗ chơi nên quơ con Nga là mèo của ông Chánh ủy quỉ
nhà mình. Con nhỏ này ở thành mới ra, cái hổ phệ còn mới, ra khu để kháng chén
chống Pháp. Nào ngờ ra khu lại gặp Tư lệnh khu yêu mông em liền. Tư lệnh khu bỏ
em dưới ghe mui ống có hai máy gân chạy khắp sông nước miền Tây lang thang trữ
tình còn hơn là Phạm Lãi Tây Thi nữa. Bà Tư lệnh nghe được bèn tới nơi đánh
ghen một trận còn hơn cả trận Tầm Vu, Sóc Xoài. Ông Tư lệnh chỉ huy ba quân
nhưng lại sợ Sư Tử Hà Đông bèn tìm cách dứt đường tơ với cô nữ sinh Sài Gòn hơ
hớ cái xuân tình. Cũng may, thời đó anh Ba mình từ ngoài cụ Hồ vô Nam để lãnh
đạo kháng chiến. Các tai to mặt bự trong mình tới tâng công bằng cách gợi ý cáp
cô bé cho ông già sồn sồn mặt nám đen như trời đánh hụt.
Anh Ba mình thấy cô nàng da
trắng như tuyết, tóc đen như mây thì mê tít thò lò rồi nhưng làm bộ chín hấu
mại dưa leo, ra cái điều đạo đức cao “Tôi đã có gia đình rồi, làm vậy hơi khó
coi ! ” Khó thì khó nhưng mấy ông Hai Hùng, Ba Khiêm, Chín Kỉnh ép tí nữa: “Anh
xa nhà thiếu thốn tình cảm. Anh nên có chị để phục vụ cách mạng ! ” Thế là anh
Ba nhắm mắt phục vụ cách mạng với em Nga ở dưới ghe ngay buổi tối đó ! Đạo đức
con người dễ đánh rơi quá mày ạ !
- Mày có ở gần đó không?
- Tao ở trong cơ quan chớ đâu.
- Sao mày thấy cái đạo đức của
anh Ba rơi mà mày không chịu khó lượm lên gắn lại dùm cho ảnh?
Thuần cười .
- Phải nó rơi một lần thì tao
còn lượm được. Còn đàng này nó cứ rơi liền liền mà. Rơi nghe lủm bủm dưới nước.
Cá chốt bu lại rỉa hết ráo, còn đâu mà lượm?
Ngưng một chút Thuần lại nói
tiếp. Hắn nói mê man như xổ bầu tâm sự ứ đọng lâu nay.
- Tao nói thật với mày. Nhà thơ
tao chỉ phục có mình Xuân Diệu thôi.
- Sao vậy ? Phục bài nào ?
- Một câu thôi.
- Mặt trời đi ngủ sớm hả ?
- Không! Câu này: “Khuyên
ai chớ khá lại gần ta! Nhân loại trông gần cũng xấu xa ! “
- Là cái nghĩa gì ?
- Mày không hiểu nghĩa gì à? Sợ
mày còn hiểu hơn tao chớ. Xưa kia tao đi theo “cách mệnh” tao coi trời hồng
tươi, đẹp đẽ, rực rỡ, cao quí, cao thượng, vĩ đại, linh thiêng… vô cùng. Cho
nên tao bỏ trường đi theo không học tiếp, bằng Tú tài chỉ còn sáu tháng nữa là
nẫng cái một, vợ đẹp con xinh như chơi, nhưng tao không màng. Cách mạng đẹp
quá! Đi theo cách mạng vinh quang hơn. Ở xa xa, nhìn cách mạng thì nó là mỹ
nhân, khi tới với nó rồi, nó thành thường nhân, đi với nó lâu ngày, thì nó là
thằng cùi, và bây giờ thì không biết nó là cái gì trong tao, tao ớn lắm. Nghe
ai nói tới hai tiếng cách mạng là tao mắc cỡ thầm. Tất cả những thằng già thằng
trẻ, con gái bà già đi theo cách mạng là để kiếm chác chớ chẳng phải có lý
tưởng lý tung gì cả đâu. Cho nên khi họ nhìn rõ mặt cách mạng rồi họ “ô-rơ-voa”
ngay.
- Giỡn hoài mậy!
- Để yên tao nói hết. Mày thấy
sau khi tụi mình tập kết ra Bắc, cách mạng có còn đẹp và hấp dẫn như thời mình
mới bỏ trường đi kháng chiến chống Pháp nữa không?
- Đẹp chứ, nhưng đẹp cách khác
! – Tôi gượng gạo đáp.
- Đẹp sao mày lên Ủy Ban Quốc
Tế xin về Nam hả?
—>Chương 10
- 10 -
Bị thằng bạn chơi một phát bất
ngờ, tôi chới với không đáp được. Thuần tiếp:
- Cách mạng hết đẹp kể từ khi
cách mạng thành công. Và lũ lãnh tụ trở thành một lũ súc vật mang mũ cao áo
rộng cũng kể từ đó. Tao biết cả. Thằng nào cũng mong được chức cao để lãnh
villa và volga mày ạ. Có những thằng kèn cựa xe và nhà. Rất buồn cười. Bây giờ
cũng y hệt như vậy. Cách mạng có cấp bậc hết cả. Cách mạng đầu trâu, đầu bò,
đầu cọp và đầu c…. Cách mạng nhép, cách mạng cóc nhái, ểnh ương, cách mạng chầu
rìa, cách mạng cà nhõng… Nhưng tất cả các tầng lớp cách mạng đều đồng qui nhất
điểm: cái bánh bẻng.
- Mày phản động quá mày ! – Tôi
vừa cười vừa nạt.
- Ừ! Kệ tao để tao nói hết ? Sợ
mày còn phản động hơn tao nhưng mày không nói ra thôi. Me xừ Duẩn đéo được mụ
Nga đã đời còn đi đéo vặt vô số chỗ tao biết. Ở Hải Phòng tên Hoàng Hữu Nhân,
chủ tịch thành phố dắt tới, vô Thanh Hóa tên Ngô Tuyền bí thư tỉnh ủy dâng dưa,
vô Quảng Bình có tỉnh ủy cống hồ. Hắn làm luộc sạp hết cả nhưng vẫn đóng vai
trò lãnh tụ vô sản kính yêu như thường. Còn ông đại tướng của mình chộp được mụ
Đặng Thị Thu Hề phải không? Mụ này dạy bài “Ba Lê công xã” dở ẹc, tao phải dạy
lại mụ để mụ đi giảng cho học trò đại học công nông của mụ chớ ai. Sở dĩ mụ dạy
Sử học là nhờ ông đại tướng gà cho, chứ mụ ấy biết Ba Lê công xã là cái đéo gì.
Tây nó dạy tao rõ hơn chớ.
- Mày biết mụ nữa à?
- Mụ ta có những ngón tay rất
dài, có cặp môi rất thâm. Học trò nó ngạo là môi thâm thì cái ấy cũng thâm, làm
mụ mắc cỡ bỏ giảng một tuần mà. Ông đại tướng nhà mình ăn uống sâm Triều Tiên
nổi gân chiến thắng Điện Biên tấn công tới tấp, bà ta vác cái đồi Him Lam chạy
tới nhà tao trốn cho qua tai nạn rồi mới về. Ông đại tướng đi tìm mãi không
được về nhà đánh piano, sôlô một mình. Rồi có chuyện lẹo tẹo với bà thầy đờn.
- Mày biết vụ đánh đá đó nữa à?
- Mày cứ tin là tao biết hết
mọi chuyện bí ẩn của các ông anh mình. Lúc ông ấy bị ông đại tướng bần cố nông
cho ngồi chơi xơi nước ở Hồ Tây, ổng mới nảy ra ý làm nghệ thuật, bèn mời một
nữ nhạc sĩ dương cầm tới dạy, dương cầm thì ông ta học dở nhưng trò dương…vật
thì ông ta mạnh lắm. Đến đỗi chồng của nữ nhạc sĩ ghen không cho vợ đi dạy nữa
! – Thuần thở dài ngao ngán – Mày thấy có thằng cha nào đạo đức không? ? Tao
còn quên kể cho mày cái chuyện bà Mười Thẹp nữa. Ối giời, nó có dây có nhợ, có
tịch có tàng mày ơi !
- Mười Thẹp nào tao không biết?
- Bà Mười nữ chiến sĩ Nam Kỳ 40
ở Cai Lậy tỉnh mày mà mày quên à?
- Quên đâu mà quên. Bà Mười
Thập ! Má thằng Quang và con Thu !
- Bả ra Bắc được cho ngồi ghế
trung ương đảng. Bả phát biểu ý kiến ở đại hội Phụ Nữ Cứu Quốc có câu phản đối
đế quốc, bả nói BOM HỘT NHƯN (thay vì bom hạt nhân) bị phóng viên nó ngạo chớ
đâu. Thằng Quang được cho đi học Liên Xô, không thèm. Bả bắt nó cưới vợ nó cũng
không nghe. Nó bảo nó ghét cảnh ô trọc của đám lãnh tụ, nên xin về Nam chiến
đấu cho quê hương.
- Trời đất, cái thằng lạ vậy ?
(Tôi làm bộ ngạc nhiên, chứ thực ra tôi biết thằng con Bà Mười chết ở Trường
Sơn.
- Để tao nói hết cho nghe. Bà
Mười chạy lên ông Hai Hùng nhờ can nó dùm và bắt nó ở lại cưới vợ nhưng nó nhất
định không nghe. Nó đi vô Trường Sơn sốt rét ác tính chết dọc đường, trong ba
lô còn cả bó sâm Triều Tiên. Vậy đó! Còn con Thu chưa chồng nhưng lại mê thằng
họa sĩ vẽ phông cải lương cho đoàn Văn Công Nam Bộ, thứ bảy chủ nhật nó đều
xách cái phèng la của nó tới cho thằng họa sĩ dùng dùi cồn gõ beng beng chơi.
- Mày dùng chữ chưa chính xác.
Phải nói: nó xách cái đĩa màu palette của nó tới cho thằng nọ quệt cọ lông vô
chớ! Vậy mới gọi là chơi chữ.
- Ừ! Phải ! Nhưng có đúng là bà
Thập đó không?
- Mày còn sư tao nữa rồi. Nhưng
vụ này chắc mày không biết đâu !
- Vụ gì?
- Vụ người ta cáp đôi bả với
anh Ba nhà mình ở Nam Bộ không?
- Có vụ đó nữa sao ?
- Có chớ. Ổng thì răng cỏ cái
rụng cái lung lay còn bả thì đi đâu cũng xách túi nhái đựng trầu. Hơn nữa cả
hai đều là chiến sĩ cách mệnh triệt để. Xứng lứa vừa đôi biết bao nhiêu, tại
sao ổng không chịu mà lại quơ con bé Nga?
- Thì tại vì cái mặt nạ của bả
nhăn da ổi hết rồi chớ sao ! Chẳng có thằng đàn ông nào khoái lấy bà già cả.
Chỉ có con gái là mê ông già thôi. Vì ông già thì già mặt già mày tay chân già
hết…
- Mày thấy chưa ? Tao bảo nhân
loại trông gần cũng xấu xa mà. Mới đầu tao nhìn Ba Duẩn, Hai Hùng, Ba Khiêm như
là thần thánh cả. Nhưng khi ở gần mấy chả, tao thấy mấy chả đều phàm tục dơ dáy
thấy bà. Tụi mình không đến đỗi như vậy. Như tao vầy, tao có đéot vặt mấy em
Liên Xô chút chút nhưng tao đâu có bỏ vợ bỏ con như các chả. Mày biết vụ bà Ba
Khiêm ở Hà Nội ghen một phát vỡ cả Phủ Chủ tịch mà ! Còn vợ lớn Lê Duẩn nữa. Mụ
ta đánh bà Nga tuột quần ở Bệnh viện Việt Xô. Anh Ba phải bỏ chị nhỏ vô thùng
gởi sang Tàu tá túc với cụ Mao. Còn ông ủy viên trung ương Trung tướng Nguyễn
Văn Vịnh nữa. Ổng vô Nam cuỗm một bà hơ hớ. Ra Hà Nội lãnh villa và volga như
ai. Vợ lớn ở Nam Định nghe được tin vác cái chảo bể lên hô giáng. Ông trung
tướng chạy tét không dám hô thâu tiếng nào.
- Còn gì nữa hết ?
- Còn nhiều mày ơi ! Kể sao cho
xiết. Mày có viết tiểu thuyết cũng không hết.
- Tuy vậy mía sâu có đốt nhà
dột có nơi mày ạ! – Tôi làm bộ chống đỡ dùm cho các anh nhớn.
- Không có đốt nào không sâu,
không có chỗ nào không dột hết ! Sâu tất, dột tất !
Tôi cười:
Tao nghĩ là ông Sáu Vi là con
người tuyệt vời, không có một nhược điểm nào ngoài cái mặt sắt vuông như cái
khay trầu của ổng.
Thuần làm thinh. Hồi lâu lại
cười hắc hắc.
Tư Mô trở mình lên tiếng
- Anh Hai Hùng nữa chớ!
- Ông Hùng không lem nhem nhưng
ổng phạm tội còn nặng hơn lem nhem.
- Tội gì ?
- Ổng quơ bà vợ địa chủ. Mai
Khanh chị nuôi thằng nhạc sĩ Hoàng Lưu, con Hội đồng gì ở Phú Hữu.
- Vậy à? Tôi tưởng ông toàn
bích.
Thuần tiếp:
- Tao nói theo kiểu vòng vo Tam
Quốc để kết luận bằng câu thơ của Xuân Diệu: Nhân loại trông gần cũng xấu xa.
Xấu xa thật! Hồi tao ở Hà Nội, nghe văn nghệ sĩ xầm xì oán ghét ổng, tao tự nhủ
thầm: ông chỉ có tật hăng xờ máu chút thôi. Mà chính thực đảng cần những người
như ổng, nếu không ai bảo vệ lập trường. Nhưng tao cũng lầm nốt ! – Thuần ngưng
lại rồi cười ha hả một tràng dài như liên thanh.
- Gì như mắc đàng bố vậy mậy?
- Mày nhớ chuyện tiếu lâm ba
ông thầy tu không?
- Thầy tu đạo gì?
- Không nên hỏi đạo gì phạm
chánh sách. Có ba thằng thầy chùa Lỗ Mũi Trâu định sơn mặt đỏ ngoài Sài Gòn vô
nằm bên Mặt Trận đang xin yết kiến ổng. Chuyện đó như thế này. Chẳng là có ba
tên trần tục lên núi tầm sư học đạo tu tâm dưỡng tánh được vài năm thì xin hạ
san. Ông thầy bảo: Muốn biết các con đã dứt lòng trần tục chưa thì thày cho các
con một cái phép. Ông thầy lấy ba cái trống nhỏ đem đeo vào cho mỗi người.
- Đeo ở đâu?
- Để chút rồi biết! Đeo xong,
ông thầy bèn dắt một cô tiên nữ cởi trần truồng ra cho đi qua đi lại trước ba
trò. Hễ cái trống trò nào không khua tùng tùng thì trò đó được hạ san.
Tôi phản đối.
- Tiên nữ ở đâu mà lộn lạo với
tiên nam như vậy bố non ?
Tư Mô cười khè khè:
- Tiếu lâm cải biên theo đời
bây giờ mà chú !
Thuần tiếp:
- Ông thầy cho cô tiên dượt qua
dượt lại vài ba lần rồi đứng ưỡn ẹo một chập. Ông không nghe cái trống nào khua
cả, như vậy nghĩa là dùi trống nằm im không nhúc nhích, các đệ tử thấy mỹ nhân
lõa lồ mà không có bị tà dâm kích động ! Ông thầy khấp khởi mừng thầm cho các
đệ tử thành công đắc quả to. Rạng rỡ danh thầy biết bao !
Ông thầy bèn đến tháo trống ra
để sửa soạn phát bằng cấp “Liêm Chánh” cho họ.
- Chớ không phải bằng cấp Phó
Tiến sĩ của mày à?
- Bằng này to hơn bằng của tao
nhiều. Ông thầy tá hỏa tam tinh khi nhận thấy cái dùi của tên học trò thứ nhất
thọc thủng mặt trống và kẹt trong đó luôn.
- Hớ hớ. . . hớ. Tư Mô cười .
Tôi cũng cười theo.
Thuận tiếp:
- Đến tên học trò thứ hai thì
mặt trống còn nguyên mà cái dùi trống cũng không có chĩa ra chút nào.
Tôi hưởng ứng:
- Vậy là trò đó lãnh bằng Đại
Học Nhân Dân rồi !
- Nhưng mà ông thầy coi kỹ lại
thì thấy mặt trống ướt nhẹp.
- Vậy là Bùi Kiệm rồi !
Thuần tiếp:
- Đến trò cuối cùng. Trò này
xuất sắc nhất. Cái dùi xuyên toạc cả hai mặt trống, ló qua cả bên kia.
- Quỉ thần ơi ! Dùi gì mà ghê
hồn vậy?
- Thế là ba ông con phải ở lại
tu tiếp.
- Còn cô tiên nữ đó thì sao?
- Cô ta bị đoạ luôn với ông
thầy và đám học trò. Ông thầy chính là ông Mặt Sắt đó mày ạ. Còn đám học trò
kia là mấy lão Chín Vinh, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Chè.Trước đây tao cũng cho là
ông Mặt Sắt thì cái gì ổng cũng “sắt” cả. Ở Hà Nội có lần ổng đến dự tiệc của
Bộ Quốc phòng, gặp vợ Thiếu tướng Phạm Kiệt. Bà thiếu tướng trang điểm thường
thôi, vì có khách Liên Xô, Đông Âu mà, chẳng lẽ lại mang bộ mặt mụ già trầu tới
đó? Ông ta điểm mặt bà ta mà mắng ông thiếu tướng; “Anh coi kìa, vợ anh son
phấn như một con đ .”
- Có chuyện đó nữa à?
- Có chớ, mày ở ru rú trong cái
bếp Hội Nhà Văn của mày nên chẳng biết gì hết.
- Rồi ông Kiệt phản ứng ra làm
sao?
- Đếch dám phản ứng gì cả. Còn
bà ấy thì ôm mặt chạy ra ngoài. Khách Liên Xô ngơ ngác; có người hỏi thì phiên
dịch bảo là bà ấy có bịnh nhức đầu cấp tính! Đọ,bây giờ tới phiên ổng hạ san và
được xét nghiệm bằng cái trống đạo đức… thủng toạc cả hai mặt.
- Thủng mẹ hết rồi hả?
- Cái trống này ổng không phải
đeo. Nó là của người ta mà ổng xách dùi tới gõ.
- Mày nói trống nào vậy?
- Tao hổng biết ?
- Ê mày nói chuyện đó có pa-tăng
không mậy?
- Tao nói láo có căn chứ không
bỏ sách bỏ vở đâu !
- Nếu vậy thì nói tiếp nghe
chơi. Ở đây chỉ có ông bạn già mình thôi ! Đâu có ai khác mà lo tai vách mạch
rừng.
- Chuyện đéo vặt các cháu bây
giờ ở bên Bộ Chỉ huy là thường xuyên và công khai, đâu có ai nói gì. Mày có qua
bên đó sẽ thấy. Các ông Tư lệnh, Phó Tư lệnh, Cục trưởng, Cục phó đều có riêng
nữ thư ký đánh máy thành phần học sinh Sài Gòn mới ra lò cả. Phá thai càng có
lợi. Ngâm rượu tẩm bổ rồi lại sản xuất hài nhi tiếp. Ông Mặt Sắt là thứ dữ
trong Bộ Chính trị nhưng chỉ là cắc ké so với chín Hô và Ba Chè, Sáu Bù Lạch
trong chuyện tu ở chùa “Một Cây Cột.”
- Chín Hô nào?
- Chín Hô là Chín Vinh tức Trần
Độ, Ba Chè là Trần Văn Trà, Sáu Bù Lạch là Sáu Nam tức Lê Đức Anh cục trưởng
Cục Tham Mưu Quân Giải Phóng. Các cha này đớp hết cả bầy tiên cô Sài Gòn mày
hiểu không? Bây giờ còn hỏi tiên cô đâu nữa thôi ? Nhưng đặc biệt chỉ có nàng
tiên của ông Mặt Sắt là gái có chồng thôi, còn đám kia chắc là nguyên xi. Mày
nghĩ coi ở trong rừng năm này qua tháng khác mà tiên cô mang trống núc ních qua
lại như vậy, dùi trống không cựa quậy hay sao?
- Tao tưởng là ông Sáu nhà mình
đạo đức cỡ cụ Hồ.
- Trước kia tao cũng tưởng như
vậy, nhưng sau khi ổng thử trống thì tao té ngửa ra.
- Cái thằng nói cà rỡn hoài
mậy. Tao cần nghe cụ thể như sự việc đã xảy ra chứ không cần mày thêm mắm dậm
muối gì cả.
- Ờ được ! Muốn nghe tao kể cho
nghe. Một hôm có điện ngoài Bộ Tổng đánh vào. Ổng đã xem và nói nội dung cho
tao thảo bức điện báo cáo. Tao thảo xong thì mang qua chòi ổng.
- Lúc đó nhằm buổi chiều hay
buổi sáng, mấy giờ mấy phút mấy giây ?
- Buổi sáng trong rừng có chim
ca vượn hú và dê kêu be he nữa. Tao qua đến nơi thì nghe tiếng giảng bài oang
oang trong chòi: “Giai cấp vô sản là giai cấp tiền phong lãnh đạo cách mạng
nhưng nó phải kết hợp chặt chẽ công nông binh ! ” Tao đi trờ tới ít bước gần
hông nhà. Nhà bên đó có hai loại. Loại cho trung cấp thì ngăn phòng nhưng vách
trống chân trống đầu. Còn cao cấp thì bít bùng bốn bên. Nhưng tất cả đều bằng
thân nứa đập dập cho nên có kẽ hở, ở ngoài dòm vô, ở trong dòm ra đều không
thấy, nhưng kê mắt sát vào thì thấy tuốt.
Nghe ổng giảng bài oang oang
tao dừng lại, không vô ngay mà đừng lại ghé mắt vào kẽ hở. Tao thấy ông Sáu nằm
võng còn cô tiên thì ngồi trên vạt nứa khít bên võng. Đám vệ binh cũng có ý
thức. Chúng làm vậy để khi nào ông Sáu nằm võng chán thì bò lên giường hoặc nằm
giường chán thì leo xuống võng dễ dàng.
Ổng giảng rất hùng hồn. Giọng
ông sang sảng chứng tỏ sức khỏe ông còn…
-… còn có thể cất dùi lên nện
vô mặt trống.
- Đến câu vô sản liên hiệp lại
hay câu xã hội không giai cấp gì đó thì ông thò tay nắm tay cô tiên lôi xuống
đặt cô ngồi trên bụng ổng.
- Không đứt võng à?
- Võng đôi dây ni-lông dù của
Mỹ có thể treo năm tạ mà ! Cô ta ngúng nguẩy định đứng dậy nhưng hai bàn tay to
sù của ông kềm lại, ông run run bảo: “Ngồi đây nghe bác giảng tiếp.” Nhưng ông
không giảng nữa mà ông rủ rỉ: “Cháu ở đây có buồn không?” – Dạ buồn – Cô tiên
đáp – Cháu muốn về Sài Gòn. – Ở đây học làm cách mạng chứ về trong đó toàn là
dân phản động đâu có ai giúp cho cháu. – Có gia đình cháu chớ! – Ở đây bác cho
đi Liên Xô. – Cháu hổng đi bên đó đâu. – Sao vậy? Người ta muốn đi mà không
được đấy. Cháu chóng ngoan đi ! Bác khen giỏi, vừa “giỏi” bác vừa đưa tay ngoặc
đầu cháu xuống sát mặt bác. Cô tiên vùng đứng dậy chạy tuốt vô phòng trong.
- Chỉ có bấy nhiêu thôi à?
- Đó là lớp một màn một. Sau đó
còn nhiều màn khác. Kịch cọt đâu có ngưng ngang như vậy được. Tao hoảng quá,
tao vội vã trở về chòi tao ngay. Tao thú thực là tao sợ run lên. Như có cái gì
đổ vỡ trong lòng tao, tan nát, tan nát hết. Lạy Chúa! Đến bây giờ tao hãy còn
run khi nhớ lại cái hình ảnh đó. Thuần tiếp – Tao không dám đem cái công điện
qua nữa. Tao sợ phải nhìn mặt cái người mà mình kính phục lâu nay. Đúng vậy,
lâu nay tao chỉ còn kính phục có mình ổng thôi.
- Còn cụ Hồ!
- Xịt! Thằng cha già sát nhân.
- Giỡn mậy !
- Lão giết Dương Bạch Mai bộ
mày không biết à?
- Ờ ờ… (Tôi biết việc đó nhưng
tôi làm bộ quên đi.)
- Sau vụ đó tao nhìn lại các
ông Duẩn, ông Giáp, ông Thọ, tao ớn quá trời.
- Còn ông Đồng thì sao ?
Thuần cười :
- Mày thấy ổng ra sao ?
- Ổng đạo đức khá chớ. Ổng có
bà vợ điên chữa hoài không hết. Ổng tức giận ổng đi hỏi người yêu của tao.
- Hả?
- Mày đếch biết chuyện đó đâu.
Cũng không có nhiều người biết. Chỉ có thằng cha Nguyễn Kim Cương thứ trưởng
Phủ Thủ tướng biết thôi. Vì thằng chả là xếp cơ quan của con nhỏ bạn tao.
- Rồi sao có vụ đó?
- Lão Cương đang làm Phó Giám
đốc Đài Phát Thanh. Con nhỏ của tao làm việc ở đó. Thằng chả tưởng hai đứa tao
“huề cờ” nên làm mai kiếm điểm. Con nhỏ thuật lại cho tao nghe. Tao bảo: Sao
không nhận quách làm bà thủ tướng có phải sướng hơn không? Nó vả miệng tao,
bảo: “Ổng lớn tuổi hơn tía tui mà!”
- Các ông lớn đều… thế cả. Đến
ông Sáu Mặt Sắt này là hết phép Người ta thuyết giảng đạo đức thì . dễ ợt thôi.
Nhưng giữ đạo đức lại khó. Chỉ khi nào đeo trống mà trống không khua thì mới
chắc thôi. – Thuần nói một dọc rồi chửi thề văng tê lên – Cái Bộ Chỉ huy đã trở
thành một ổ điểm đực già, tối ngày mấy thằng đầu bạc chỉ lo cạo râu, sửa chân
mày và đánh quần đánh áo để gù mấy cháu chớ đâu có việc gì làm.
- Rồi lớp hai màn một như thế
nào ? – Tôi hỏi .
- Để tao kể qua lớp một cái đã.
Tao về nằm trong chòi. Buồn thấu trời. Thì có vệ binh tới gọi. Tao phải sang
chầu. Tao cố xem cho ra sau cái bộ mặt sắt của ổng còn bộ mặt nào khác không
hoặc trên cái mặt sắt đó ông có đeo mặt nạ không?
Ổng hỏi tao:
- Nãy giờ cậu đã sang đây lần
nào chưa?
- Dạ chưa. Anh Sáu có việc gì
cần gọi tôi?
- Không, ấy là… tôi hỏi thế mà.
Vì nãy giờ tôi ngủ quên. Tôi sợ cậu sang thấy tôi ngủ rồi trở về mình đánh điện
trễ mất.
- Dạ công điện dài nên tôi viết
hơi lâu. Viết mới vừa xong tôi sang ngay.
Tôi hỏi tiếp:
- Còn màn hai thế nào ?- Cô
tiên qua chòi tao than thở xin “trả lại đôi cánh” để về Sài Gòn. Bữa đó ổng đi
họp với mấy cha xếp các Cục ở quanh đấy không xa lắm nên tao được ở nhà, không
phải xách cặp đi theo. Do đó mới biết tâm sự cô tiên. Chao ôi ! Nếu tao kể ra
đây chắc thằng anh hùng Cầu Ông Lãnh, ủa, cầu Trương Minh Giảng phải đội mồ
sống dậy.
Cô ta kể rằng hồi đó thằng Trỗi
mang về nhà mấy đồng chí để bàn công tác bí mật. Cơm nước xong, thằng Trỗi đèo
một thằng đi đâu đó, chẳng ngờ là đi xem chỗ đặt bom.
Con nhỏ khóc với tao nức nở:
“Nếu em biết ảnh làm việc đó thì em cản rồi. Em thấy cảnh sát canh chừng rất
kỹ, làm sao mình đặt được bom. Bom chớ phải quả cà cái bánh gì mà dễ giấu vậy.
Thôi việc đó qua rồi, em cũng không nên nhắc làm gì. Một anh ở nhà với em. Có
bà già chồng em nữa. Nhưng nửa đêm anh ta quèo em. Em không dám la vì sợ bà già
hay thì mất mặt đồng chí của ảnh. À quên, ảnh làm thợ điện nên ảnh có cái thùng
dụng cụ để dưới gầm giường. Em giận lắm. Em muốn rút cái búa nện vô đầu thằng
này, nhưng em cố dằn lòng. Làm đổ bể ra ảnh cũng không vui gì. Có thể mất đồng
chí lẫn vợ. Thằng này lại giở ngón khác. Anh ta dụ dỗ đi với anh ta. Em bảo em
có chồng rồi. Anh ta bảo: “Thằng Trỗi sẽ chết chớ không có thoát qua vụ này đâu
? Em nên móc với anh mà sống !”
Cô tiên ngừng lại quẹt nước
mắt, nghẹn ngào hồi lâu mới tiếp. Em hỏi sao ông biết ảnh sẽ chết mà không can.
Anh ta nói: Tại nó muốn hi sinh cho Tổ Quốc. Em ngờ có một âm mưu của anh ta
trong vụ công tác này. Bây giờ ảnh đã thế rồi. Em không muốn khơi lại nữa. Mà
dù có âm mưu, thì ai dám nhận? Tao hỏi: – Sao em biết có âm mưu? Cô tiên nói:
Sau khi anh Trỗi bị bắt thì anh ta lại xuất hiện. Không tỏ vẻ đau buồn gì hết,
mà lại còn hớn hở. Anh ta xoa tay: Đã bảo mà. Lính, cảnh sát và mật thám như
rươi mà làm sao qua mắt tụi nó được? Em nói: ảnh bị bắt thì mấy anh phải tìm
cách giải thoát chớ? Anh ta cười, không nói gì, rồi bỏ đi. Hôm sau anh ta trở
lại, kêu em chuẩn bị vô khu. Em bảo em không đi. Anh ta dọa ở đây không có an
ninh. Thế là em phải đi. Anh ta chở em vô khách sạn… Em chống kịch liệt. Anh ta
bảo: Nếu ưng anh ta thì hai đứa cùng ở lại Sài Gòn. Anh ta “lặn” luôn (nghĩa là
không công tác nữa). Anh ta cũng là thợ điện và tổ trưởng tổ công tác của anh
Trỗi. Anh xem đó, loại người như vậy mà công tác gì ? Ở trong khách sạn anh ta
ép nài đủ thứ… Em không nghe. Anh ta lại dọa: Không nghe thì anh ta kêu cảnh
sát bảo đây là liên lạc của tên đặt mìn cầu Công Lý. Em bảo: Chồng làm chồng
chịu, em không dính vô đó. Anh ta còn bảo: Tại vì cô mà thằng Trỗi chết. Em hỏi
tại sao? Anh ta nói huỵch toẹt ra: Tôi cho nó xung phong ra trước để tôi ở lại
sau chớ sao!
Cô nàng uất nghẹn. Việc gì đã
xảy ra cho người đàn bà cô thế lại bị kẹt giữa hai gọng kềm, tao không cần nói
ra mày cũng biết rồi. Cô tiên bảo khi vào khu cô có mét mấy ông Nguyễn Hữu Thọ,
ông Sáu Vi, nhưng mấy ổng chỉ hứa thi hành kỷ luật tổ công tác đó thôi, ngoài
ra không gì nữa hết. Thi hành gì được mà thi hành, vì bây giờ chính ông ta lại
đi vào dấu mòn đó. Em chán nản lắm ! Em chỉ muốn về thành thôi. Ở đây không
được anh ạ. Kỳ cục quá hà ! ” Tao không dám hỏi tới nữa. Tao sợ nghe những
chuyện đánh rơi cái đạo đức như của anh Ba mình ở miền Tây thời chín năm thì
buồn lắm, tuy biết rằng chuyện đó đã xảy ra rồi, dù cô nàng không tố cáo. Ai
dám đi tố cáo một ông vua? Cô ta muốn xin đi ra Bệnh viện hoặc một cơ quan nào
có đông người Nam để công tác cho khuây khỏa, nhưng ổng chỉ hứa nay hẹn mai, cứ
giữ riệc cô tiên để thử dùi trống.
Tôi cười:
- Còn mày đã thử cái trống cho
mày chưa?
Thuần cười há há và nói:
- Tới phiên tao thì cái mặt
trống phải bằng sắt chứ không chỉ bằng da trâu.
Tôi ngáp dài. Nghe câu chuyện
của thằng bạn tôi tưởng bạc hết cả tóc. Nhưng nó bảo:
- Vừa rồi bả mới vô mang cái
trống bể cho ổng đánh.
- Bà nào ?
- Bà răng đen tóc quấn rế chớ
bà nào.
- Bà Sáu Vi vô đây? Bộ bả lội
Trường Sơn tìm phu tướng hả ?
- Giỡn hoài mậy. Bả đáp phản
lực “không người lái” đấy. Phản lực hạ xuống ngọn cây bằng lăng, bả nhảy dù
xuống, ổng hứng xong là phản lực trở về Hà Nội. (xem Củ Chi Đất Sét Chưa Thành
Bùn, đầy đủ chi tiết rùng rợn hơn.)
Tư Mô gầm lên:
- Lại tiếu lâm cải tiến !
Thuần cười:
- Nói đùa chớ các bà tướng đi
mé-bay vô Cao Mên đáp xuống sân bay Xiêm Rệp rồi trực thăng đưa xuống sân bay
Mimot. Ba Chè, Chín Hô cho lực sĩ đem võng sang khiêng về.
- Khiêng về!
- Chớ sao. Nuôi quân ngàn năm
nhờ một thuở mà . Khiêng chừng tám tiếng đồng hồ thì tới đây.
- Tao không thể tưởng tượng nổi
chuyện mấy bà đó mang cái cối vô đây cho mấy lão thọt mà lại bắt giải phóng
quân khiêng như vậy.
- Vậy mới có danh từ “phải
giống” của dân Bêka chớ.
- Tàn nhẫn thiệt !
- Nhân đạo bỏ mẹ chớ tàn nhẫn
gì đâu. Để mấy ổng ở trong này bị dồn nén rồi ôm các cháu gái, các cháu la mất
uy tín hết, hoặc các cháu không la rồi mang bầu, nạo thai, vậy còn tàn nhẫn gấp
ngàn lần. Trời ơi ! Bà Sáu Vi vô ngồi với con Quyên, tao thấy tao tưởng là hai
bà cháu chớ không phải hai mẹ con mày ạ! Chắc bả tin tưởng ổng lắm nên không
thấy bát đũa khua trong sóng. Mấy bữa đó con nhỏ qua ở tạm bên chòi tao.
- Đọ tao biết mà, thế nào mày
cũng thử trống. Có không?
- Tao cũng không biết tao có
thử hay không? Nhưng nhớ chắc là trong những đêm dài dằng dặc đó, con nhỏ mới
có hoàn cảnh kể với tao những chuyện vừa rồi .
—->Chương 11-17
- 11 -
Tôi không thấy buồn ngủ. Cặp
mắt cứ trong veo không cay, mi mắt không nặng chút nào. Tụi Bắc Kỳ hi sinh dân
Nam Kỳ cho địa vị của chúng nó không thương tiếc. Bốn mươi năm rồi chứ không
phải mới vài mươi năm nay thôi. Nhưng dân Nam Kỳ bị cùm chặt quá không gỡ ra
được thành thử cứ phải vái lạy mãi, chứ nếu sút cùm ra dân Nam Kỳ sẽ vùng lên
giết lũ Cộng Sản còn hơn giết Tây nữa.
Khi tôi ra Bắc tôi mới sáng mắt
ra dần. Dân Nam Kỳ không có nhà cửa đi lang thang ngoài bờ hồ và gặp nhau ôm
khóc như mưa. Một số lớn bị đưa lên rừng khai hoang ở những nơi không có đàn bà
con gái. Nhất là ở Lam Sơn. Lính như tù. Mười ngàn lính giải ngũ cuốc đất trồng
khoai, chủ nhật lấy rượu làm vui. Nông trường Lam Sơn với quân số kể trên, uống
một số rượu bằng hai triệu dân Thanh Hóa.
Khi tôi đi lao động ở đó, có
mấy vụ “dâm ô” làm tôi hết biết nghĩ sao. Tôi thù Hà Nội tận xương tủy vì những
chuyện như vậy. Đây là những sự dã man do chính thằng Hồ gây ra.
Một hôm anh lính B, người Bắc,
có vợ con đến thăm. Vì không có chỗ, anh B phải khiêng tấm gỗ ván ra ngoài rừng
để hưởng tuần trăng mật. Còn đứa con gái năm tuổi thì anh gởi ngủ với chú A.
Sáng hôm sau, trong bữa cơm, con bé nói oang oang trước mặt cả trăm người: “Chú
thơm con!” Vợ anh B lườm con: “Chú thương nên chú thơm!” Con bé nói tiếp: “Rồi
chú kê miệng chú vô môi con chú nút làm con tê cả người!” Không ai bụm miệng
con nít được !
Nhưng cũng chưa tệ lắm! Bên
cạnh trại lính chúng tôi có một cái nhà. Không biết tại sao người này lại lên ở
đây có một mình như vậy. Để cho việc của tôi sắp kể ra đây có chứng cớ, tôi nêu
rõ tên đơn vị: Đại đội 2, Đại đội trưởng là Nguyễn Văn Quý. Trung đội trưởng
quyền đại đội phó là một người bị thương nặng ở tay nhưng không có sổ thương
binh. Chủ nhà có một đứa con gái mười hai, mười ba tuổi. Đêm nào tôi cũng nghe
tiếng chân đi rậm rật về phía nhà cô bé. Được một thời gian, bỗng một hôm nghe
ông già tri hô lên rằng con gái ông chết. Nhiều người chạy tới. Tôi cũng sang.
Thì thấy dưới giếng sâu có hai bàn chân thòi lên và một mảnh tóc bập bềnh. Vì
vùng đồi nên giếng không có nhiều nước. Ông già nghèo không có tiền mua quan
quách nên nhờ bộ đội ném đất đá chôn luôn. Rồi bỏ nhà đi. Trong đơn vị xầm xì.
An ninh của nông trường (Lam Sơn) xuống điều tra, nhưng không kết luận được. Dù
vậy người ta vẫn biết cô bé bị hiếp hằng đêm. Những tên hiếp dâm là lũ quỉ nông
trường. Có lẽ sợ lộ bí mật, mất “danh dự” ( !) nên lũ quỉ giết và ném con bé
xuống giếng.
Vụ thứ ba: Chú đưa cháu ngủ
trên võng. Cháu gái mới có một tuổi. Chú vừa hát vừa trật quần đút dương vật
vào âm hộ cháu. Cháu khóc thét lên. Người ta chạy tới bắt quả tang giữa ban
ngày. Chú bị bắt giam…
Ông Đại tá Trần Thắng Minh còn
sống không, xin xác nhận ba chuyện này?
Bạn đọc tới đây có lẽ sẽ vứt
sách tôi xuống đất mà chửi: Thằng nhà văn viết tởm quá! Nhưng sự thực còn tởm
hơn nhiêu, tởm đến mức độ tôi chỉ dám viết một phần. Không có nhà văn nào bịa
nổi những chuyện như vậy, cũng không có con người nào làm những chuyện như vậy.
Chính là bọn súc vật Hà Nội dồn những con người vào hang cùng, và biến con
người thành những con vật. Bạn thử nghĩ lứa tuổi mười tám hai mươi đi kháng
chiến chống Pháp, ra Bắc chín mười năm liền không biết đàn bà con gái là gì.
Trong khi đó các lãnh tụ ở Hà Nội vợ bé vợ mọn tha hồ, bơ sữa no phè, lại còn
có tên ủy viên trung ương là Nguyễn (Văn) Quyết dùng vi trùng giết vợ lớn để
lấy con gái nuôi (hãy giở báo Nhân Dân lại mà xem, tôi không có bịa đâu !)
Và trong khi lính chết như gà
toi trên Trường Sơn thì các ông tướng họp nhau trong triều đình ở Cục R, uống
bia hút thuốc lá thơm, phân chia chế độ cơm bưng nước rót, cần vụ giặt quần áo,
vệ binh khiêng các mệnh phụ phu nhân như hoàng hậu lại còn dâm dật loạn xà bì.
Cách mạng đó! Thắng lợi một trăm phần trăm rồi đó và những con người ở rừng
ngày nay đã cởi bỏ . hết bộ mặt dã man chưa ? Xin thưa rằng họ còn dã man hơn
lúc ở rừng. Họ bậy bạ hơn chính họ trước đây. Đất nước mà họ dẫn dắt sẽ đi đến
một nơi thôi: đó là một cơn đại nguy đại loạn.
Khuya quá rồi, tôi hỏi Thuần ráng
một câu để ngủ:
- Mày qua đây để gởi con, còn
có việc quốc gia gì đại sự nữa không?
- Tao qua bảo Văn Công chuẩn bị
sang biểu diễn cho đại hội mừng công.
- Công gì mà mừng?
- Pháo binh R vừa bắn tan mười
ba chiếc B57 ở sân bay Biên Hòa.
- Có thật mười ba chiếc hay
kiểu như hai ngàn chiếc phản lực bị bắn rơi ở miền Bắc?
- Mừng công to lắm, có đám trí
“ngủ” Sè-goòng. Nào giáo sư, văn sĩ, kỹ sư, nào bác sĩ nào các thứ đạo dụ mắm
tôm, mắm cáy, đầu cua mắt ếch không thiếu thứ nào. Có cả thằng thầy chùa Lỗ Mũi
Trâu nữa.
- Thầy chùa nào mà Lỗ Mũi Trâu?
- Tao không biết mặt nhưng nghe
xầm xì thì ông Sáu Vi hứa cho nó làm thủ tướng nếu lật được Nguyễn Văn Thiệu.
- Bộ thầy chùa đeo súng lục à?
- Nghe nói thằng này đang làm
loạn ở ngoài SàiGòn, tên là Thích gì đó.
- Mẹ kiếp, nó làm thủ tướng thì
mình ăn tương chao bỏ mạng.
- Đừng lo. Đám thầy chùa này là
con cháu Lỗ Trí Thâm ăn lòng chó gặm đùi dê, khoác áo cà sa nhưng bụng một bồ
dao găm chớ không phải loại thầy chính thống của Thích Ca đâu. Không nói mày
cũng phải hiểu rằng thầy chùa mà chạy vô tới đây để gặp ông Sáu Vi là loại thầy
chùa gì chớ? Bọn Sài Gòn vô đây ông Sáu Vi ổng coi như rác nhưng ngoài mặt thì
ổng làm bộ kính trọng mày hiểu không. Có mấy thằng đồng nghiệp của mày nữa.
- Đồng nghiệp nào?
- Ba thằng văn sĩ chết nhát có
lẽ ăn bơ sữa của Mỹ hết nỗi nên vô đây tìm thịt cà khu chớ gì. Lại có một con
đĩ lũng răng bàn nạo. Tao thấy mấy cái mặt dày vô kiếm ăn ké tao đếch có thèm
ngó.
- Vô đây làm gì đông dữ vậy?
- Bảo là vô dự đại hội mừng
công mà. Sẵn dịp chia chác ghế Bộ trưởng thứ trưởng. Tư Siêng nhà mình nẫng cái
ghế Bộ Trưởng Văn Hóa là chắc rồi. À quên, có mấy ông thầy cũ của tao nữa.
- Ai đó?
- Nguyễn Văn Chì và Nguyễn Văn
Chí. Nghe nói thầy Chì được xếp cho ngồi ghế Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, thầy Chí
thì làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân SàiGòn Chợ Lớn. Còn hai đồng nghiệp của mày
thì ôm cẳng Lưu Hữu Phước tức là Thứ Trưởng Văn Hóa.
Tôi cười:
- Còn mày giữ bộ nào?
- Tao à? Chắc là bộ DTR, tức là
Bộ-dùi-trống, hoặc bộ ĐKZ.
- Là bộ gì?
- Là bộ Đ… không giật.
- Đ… không chạy mới
đúng chớ. Ê, tao hỏi thiệt nghe. Mà mày hứa là mày nói thiệt thì tao mới hỏi.
- Hỏi đi.
- Cô anh hùng sang tố khổ với
mày, mày có cảm động không?
- Cảm chớ.
- Cảm rồi ngồi y nguyên hay là
kéo tay em ngồi giằn lên bụng?
- Thôi mày ơi ! Còn nhiều
chuyện bí ẩn ở màn hai, màn ba lắm nhưng để hồi sau sẽ phân giải.
- Có mày một chân trong đó hả?
Ê, mày ở như mày có ăn chung mâm với ổng không?
- Chung sao được mà chung. Ổng
ăn đặc tiểu táo, còn tao là trung táo cách nhau ba bậc mày không biết chế độ
trong quân đội à ?
- Mày đi Liên Xô học lấy bằng
Phó Tiến sĩ triết học rồi mà !
- Cái bằng đó chẳng hơn gì cái
tấm tả con nít.
- Vậy sao thằng cha Khiết đi
Liên Xô một lượt mày nó về nước rồi vô đảng làm Trưởng Phòng Huấn Học của Ba
Trà.
- Ba cái thứ đó tao ỉa cũng ra.
Thằng Khiết học ngu như bò. Nó đếch có dám phát biểu ý kiến gì mới. Giáo sư bảo
nó nên nghỉ đi đừng có học môn triết học vì biết nó không có óc sáng tạo. Những
thằng có óc sáng tạo, về nước đều văng dênh hết cả. Hễ trong học bạ, bên Liên
Xô phê cho mấy câu “sáng tạo” hoặc “có tìm tòi nghiên cứu, có ý kiến mới” thì
về Hà Nội bỏ mạng sa tràng ngay. Sáu Thọ chẳng đề bạt lại còn đày đi đất trích.
- Sao vậy ?
- Vì Trung ương sợ nuôi ong tay
áo cái kiểu Lê Vinh Quốc và Võ Văn Doãn tao nói hồi nãy chớ sao. Lãnh tụ đảng
mình gồm những bộ óc bò, vô học nên rất sợ văn hóa văn minh. Nói ra câu gì đảng
muốn một trăm năm sau nhân dân nhắc lại y như vậy không được thêm bớt chữ nào.
- Vậy sao ông đại tướng bắt mày
làm bí thư cho ổng?
- Ổng thích nghe triết học. Tao
thường giảng cho ổng nghe. Ổng có óc cầu tiến hơn xừ Giáp. Xừ Giáp ỷ ba cái chữ
Tây nhưng về việc tổ chức thì Sáu Vi giỏi hơn vì ông ta có óc thực tế lại muốn
tìm hiểu triết học. Lắm khi ổng thú thật với tao rằng ổng dốt và chẳng biết Mác
Xít là cái gì. Ổng không học Mác Xít ngày nào cả, nhưng vì ghét Tây, yêu nước
nên ổng chiến đấu vậy thôi.
- Thế à?
- Thì ổng xưng tội thế, ai biết
đâu !
- Vậy sao mấy lần ổng đến nói
chuyện với văn nghệ sĩ ổng khạc ra Mác vậy.
- Ừ thì lập trường ai nói chả
được, nhưng vận dụng triết học Mác là chuyện khó chớ mậy.
- Mày có khá không?
- Tao chẳng hiểu giống máu gì
cả. Đại khái như cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam này thì ai làm cũng thế
thôi nghĩa là cứ nhắm mắt đánh bừa may ăn rủi thua chớ có ai thấy Các Mác Xít
là ở chỗ nào. Tao học thì thuộc bài lắm, nhưng nhiều khi tao tự hỏi: Tốn cơm đi
nhai ba cái này để làm gì? Đi cày một vạc đất trồng mấy cây lúa còn có ích hơn.
- Luận án của mày có gì khác
không?
- Là Chủ Nghĩ Mác và
Vấn Đề Tôn Giáo thôi, không có gì khác hết.
- Mày định luận thế nào để nẫng
cái bằng Phó Cối?
- Tao nêu lên một luận điểm
chính là tôn giáo là kết quả của cả triệu năm lạc hậu của nhân loại. Khi được
ánh sáng Mác Xít rọi vào tôn giáo sẽ tan ngay không cần phải dùng những phương
pháp giết chóc tù tội tàn bạo như đảng làm đối với Công giáo, Phật giáo, Cao
Đài, Hòa Hảo ở nước mình. Tao lấy ví dụ về những chiến dịch mình tàn sát dã man
các vùng Hòa Hảo ở Láng Linh năm 1947, ở Ba Dầu Định Mỹ năm 50-57 và nêu những
trò hề dùng Mười Trí làm một loại keo để hàn gắn sự đổ vỡ đó. Tất cả đều chỉ
mang lại một kết quả: TẤT CẢ ĐẠO GIÁO Ở VIỆT NAM ĐỀU THÙ CHÚNG TA MỘT MỐI THÙ
BẤT CỘNG ĐÁI THIÊN.
Đọc bản thảo luận án của tao
xong chắc ông thầy cho tao điểm cao nhất. Ngoài ra còn điện riêng về Ban Tuyên
Huấn nhà hãy nhận tao vào làm công tác tuyên huấn đảng, ổng còn nói rằng ở Liên
Xô đảng có giết phản động nhưng không có trường hợp nào Hồng Quân bắn vào dân
chúng giết một lúc cả trăm người hoặc thiêu hủy các làng mạc tôn giáo như thế.
Khi tao về nước, Tố Hữu không
ngó ngàng gì tới tao mà lại đưa tao làm bí thư cho ông Vịnh. Ông này thì chả
biết gì cả ngoài cặp mông bà vợ nhỏ. Tao than với ổng rằng tao xa nhà lâu quá,
muốn về Nam chiến đấu, ổng bèn đưa tao vô Bộ Quốc Phòng nằm chờ. May sao Cục Tổ
Chức chộp được, đưa tao cho ông Sáu Vi.
- Bây giờ mày định làm
long-tong suốt đời à?
- Ở thế, sau đây tao xin về
tỉnh nhà.
- Ở đâu?
- Gò Công. Thôi nhé ! Đừng có
hỏi thêm nữa ! Tao đã vui miệng mà khai hết nỗi lòng của tao cho mày rồi. Đó là
sự thực tao đã sống qua. Chắc mày cũng có những điểm giống tao! Nhưng bây giờ
làm gì ? Chúng mình đã đi từ đầu, thì phải đi đến cuối, mặc dù hết muốn, cũng
phải đi.
Tôi buồn vô kể. Đêm rừng là một
thứ day dứt tàn nhẫn cả thể chất lẫn tâm hồn. Nghe thằng bạn tâm sự mà chán chê
tê tái. Tôi nói:
- Mai mốt tao đi đồng bằng.
- Đi đâu?
- Về xứ! Thăm cha mẹ ông bà, mồ
mả tổ tiên. Đi hai mươi năm chẳng ra cái tích sự gì .
- Đi cho cẩn thận nhé. Mày là
con một trong gia đình. Nếu hồi ở Hà Nội mày nghe lời tao lấy vợ thì đã có con
rồi. Dù bề gì gia đình mày cũng có người nối dõi. Nói không phải trù, nhưng cây
một trái, rủi mưa gió sái mùa, nó rụng rồi làm sao. Do đó khi tao về tới nơi
tao kêu vợ vô. Thấy thằng con trai lớn xộn, tao mừng quá cỡ. Tao bắt nó vô luôn
với tao.. Vợ tao bảo để cho nó học xong Tú Tài đã. Tao nhất định đem nó vô đây.
Cha con nghĩa nặng mà mậy. Dù sao cũng có nhau. Cha con hai bên chàng hảng, ra
trận giết nhau đau lắm. Mày về đồng bằng phải cưới vợ ngay đi. Muộn mẹ nó rồi.
Nhưng muộn còn hơn không.
Nghe bạn khuyên tôi luống ngậm
ngùi. Mải mê đi theo cách mạng mà “cách cái mạng” mình luôn. Người ta đi theo
cách mạng cưới cả vợ bé vợ mọn thứ hai thứ ba cơ đấy. Mình thì tuổi cứng cạy
rồi vẫn không ngờ. Chả biết vợ con là gì.
Ngu thật, ai biểu tôi mê cụ Hồ,
mê xã hội chủ nghĩa, mê những thứ gì đâu đâu. Nữa thôi ?
- Mai biết ‘còn gặp nhau không!
Tao khuyên mày nhớ lời tao nhé.
- Như Nguyễn Văn Trôi
trối “Hãy nhớ lấy lời tôi” vậy hả?
- Bậy nào! Tao đã sắp chết đâu
mà trối. Thôi ngủ đi, gần sáng rồi. Mai tao gặp bà Thanh Loan bảo bả sửa soạn
đem mấy chục cái “trống” qua cho người ta “thử.”
Tư Mô vốn là tay mất ngủ thường
xuyên. Đêm nào cũng nuốt vài viên Tranquinol để vỗ an giấc điệp, nghe Thuần bảo
“ngủ đi” thì cười xòa:
- Làm sao ngủ được mà ngủ !
Nghe chú kể chuyện có lẽ tôi phải uống cả ống Tranquinol họa may mới ngủ được.
Tôi bảo Thuần:
- Ổng cũng xa vợ hằng chục năm
rồi đó. Bởi do cái tánh ham vui. Phen này hai anh em tao lội Đồng Chó Ngáp về
Bến Tre một keo, coi nhà cửa ra sao !
- Ủa ổng cũng dân bà Ba Định à?
- Ừ, làm thi sĩ sớm lắm.
- Còn chuyện cái bà Tư Lệnh Phó
của mày nữa. Có lẽ phải mất một đêm mới kể hết.
- Chuyện gì ? Bả được ông Sáu
Vi đề bạt ngồi chồm hỗm trên đầu tụi “trí ngủ” ngoài thành là vinh quang tột
đỉnh rồi còn chuyện gì nữa.
- Cái gì lên tột đỉnh rồi cũng
rơi xuống đáy cả. Thôi ngủ đi. Để sáng mai có “dưa hấu” rụng còn sức mà đội.
- Bậy bạ hoài mậy!
Sáng hôm sau Thuần cuốn võng
uống trà rồi đi về.
Tôi rất buồn. Những thằng bạn
cũ dám nói với nhau những chuyện bất mãn của mình và chuyện lăng nhăng của
thượng cấp không phải là nhiều. Ở gần những thằng đạo đức giả như thằng Hồ Chí
Meo, Lê Xuẩn và thằng cha X,Y,Z… thiệt không thoải mái chút nào. Tôi vốn là tên
thích nói nhảm, nói tục, nói tào lao, không ưa lễ mễ dạ thưa thì ở rừng là phải
lắm nhưng lại không có bạn. Nếu có thì sắp xa nhau rồi: thằng Sáng.
Sáng hôm đó vừa ăn cơm xong thì
cơ quan lại họp để quyết định phân tán tránh CZ Johnson City. Những ai ở lại
tiểu ban thì lo chuẩn bị dời sâu vô đất Con Mên. Bên bộ phận nhạc nhọt gì của
Lưu Hữu Phước gồm năm, sáu ngoe trong đó có anh chàng chơi vĩ cầm có hạng ở Hà
Nội. Anh ta treo cây violon trong lều ni-lông thấy mà tội nghiệp. Sợ nó ướt khi
trời mưa, anh ta trùm ba bốn lớp ni-lông. Lâu lâu mới mở ra kéo một vài bản.
Chẳng ai buồn để ý. Vì nó lạc lõng, chối tai thế nào ấy. Ai lại đói thấy mẹ còn
ngồi nghe Schubert hay Mozart? Anh ta mê một cô vũ ba-lê cùng vượt Trường Sơn
vào cùng chuyến với tôi tên là Hồng. Hồng đẹp lắm, tay chân vóc mình gì cũng
tuyệt cả. Đi học Liên Xô mới về xung phong đi Nam để “biểu diễn cho đồng bào
Sài Gòn xem.” Vô tới đây cặp đùi ngọc trở thành hai con lươn bông, mặt mũi bủn
xì, tóc rụng có nùi, đầu gần trọc hết. Và không có nhảy một bản nào cả.
Mặc dù vậy cô nàng cũng được
coi là một mỹ nhân. Và ông vĩ cầm vẫn cứ mê như thường. Nhưng cô Hồng thì tối
ngày cứ ngồi thở hắt ra hoặc gỡ mài ghẻ ở chân. Ai hỏi gì, ai bảo gì cũng lắc!
Bạn của Hồng là Điệp. Điệp kém
hơn nhưng đã có “chồng” rồi. Chúng nó “lễ gai cho nhau” từ trên đường Trường
Sơn, vào đến đây thì xin làm đám cưới, nhưng tổ chức không cho. Bảo rằng vào
đây là để phục vụ không phải để yêu đương. Nhưng chúng cứ đánh du kích hoài
hoài, cơ quan can không lại nên đành chịu thua.
Anh chàng cũng là nhạc sĩ,
nhưng thổi kèn đồng, học bên Hungari mới về, có sứ mệnh đi vào đây để xây dựng
đội quân nhạc cho giải phóng quân đi “ô pà” trong ngày diễu binh mừng chiến
thắng. Anh ta hít vô hay thở ra đều rặc bất mãn. Nghe kẻng đánh gọi lãnh cơm,
anh em bảo hắn đi.. Hắn bảo: “Cơm cần nhưng không cần bằng nói thật!” Được mời
họp, hắn bảo: “Họp để nói láo thêm chuyện gì ? ” Kiểm thảo hắn léng phéng với
cô bạn, hắn nói toạc ra: “Các đồng chí cứ thiến tôi đi, chớ để tôi nguyên thế
này thì chỉ mất công kiểm thảo.” Hắn chỉ phục có mỗi một mình Hoàng Việt nhưng
Hoàng Việt bảo hắn có lý nên không khuyên can gì cả. Thế là ông Cai kèn cứ bất
mãn lồng lộng chẳng nể nang ai. Ông Cai gặp ông họa sĩ Đức thì kể như hết chỗ
chê. Một ông thì châm biếm, một ông bất mãn, nói toàn những danh từ trời ơi !
Khỉ nghe cũng chạy tét.
Rồi một hôm tôi nhận được thư
chính thức của Nguyệt ở bên Bộ Chỉ Huy Quân Giải Phóng. Thiệt là vui mà cũng
thiệt là buồn. Vui là vì phen này tôi có vợ. Buồn là từ nay, không có làm thơ
tình, cũng không có viết thơ loại trời trăng mây nước nữa. Tôi phải nghe lời
ông Mô và thằng Thuần: lấy vợ!
Thư của Nguyệt gởi từ Bộ Chỉ
Huy qua đến đây mất một tháng. Nàng đã đến nơi. Khi vô đây tôi có nghe danh từ
“bên Bộ” nhưng đâu có biết “bên” Bộ là bên nào. Rừng thì ở đâu cũng như ở đó.
Cây cao bạt ngàn, lá che bít mặt, khỉ già khỉ con lao xao, đâu đâu cũng chỉ là người
sống chung với khỉ, hoặc người trở thành khỉ sống chung với người.Tôi bàn tới
bàn lui với Tư Mô rồi tôi quyết định đi sang gặp Nguyệt. Đi bằng cái gì? Ở đâu
thì cũng chỉ xe đạp muôn năm. Cả tiểu ban có ba cái, một cái cho tiếp phẩm, một
cái cho ông trưởng tiểu ban và một cái cho toàn thể thần dân Văn Nghệ.
Như nguyên lý của cuộc sống,
cái gì chung thì tồi tệ, cái gì riêng mới đẹp đẽ. Cái của tiếp phẩm thì không
thể mượn được, cái của thần dân thì nát bét ra rồi, hai lốp chưa xì nhưng một
cái pê-đan đã lọi, nghĩa là không thể đạp được. Đó là điều quan trọng nhất. Đã
kêu là xe đạp mà pê-đan hư thì làm sao đạp. Mà đã không đạp được thì bánh xe
không thể lăn. Tôi muốn làm gan mượn chiếc xe riêng của đồng chí trưởng tiểu
ban nhưng Tư Mô can:
- Ổng để làm chân làm cẳng lên
họp trên Ban (Tuyên Huấn), chú mày đi ít nhất cũng vài ba tuần, ở nhà rủi có
chuyện gì hỏa tốc ổng làm sao ?
Thế là còn cái xe của tiếp
phẩm, nhưng tiếp phẩm không xe, thì anh em nhịn đói ! Khả năng giao thông cuối
cùng là chiếc xe công cộng. Tôi xem tới xem lui bèn sực nhớ cái xe đạp của ông
bưu điện trong Quê Người của Tô Hoài. Một hôm chiếc xe bị hỏng
ghi-đông, ông ta đẽo nhánh dúi thay vào. Thế mà lại có một cô nàng mê ông ta ốm
lăn ốm lóc ra cơ đấy. Vậy cái xe này chỉ gãy pê-đan thì hãy còn khá hơn xe của
ông ta nhiều. Tôi bèn vác dao đi đốn một nhánh cây tra vào trong cái cần
pê-đan. Thế là ổn. Tôi từ giã Tư Mô với sự cảm động còn hơn buổi Kinh Kha sang
Tần. Tư Mô cũng rưng rưng nước mắt như tôi:
- Chú đi cho cẩn thận nhé. Mau
mau rồi về đi Bến Tre !
- Đi thì đi chớ biết cẩn thận
là thế nào anh !
- Bom đạn phía bên đó nhiều hơn
bên này. Tôi ở nhà lo sắm sửa đủ hết chờ chú về rồi đi !
- Tôi sang gặp cô ấy bàn định
công việc rồi trở về ngay.
- Chú nói vậy sao được ! Ít gì
cũng ở chơi một tuần lễ chớ!
Tối hôm đó anh em họp lại đông
đủ ở lều Tư Mô. Ai cũng tỏ vẻ mừng cho tôi cả. Con quỉ phen này chịu phép rồi,
không còn “phá tán” ai nữa. Thế là tôi đi. Bạn có tin rằng câu chuyện sau đây
là sự thực không? Xin hãy đọc tiếp.
Tôi đạp xe đi một lúc thì cái
khúc cây thay cho pê-đan gãy lọi. Tôi phải chặt một khúc khác tra vào. Đạp một
lúc lại gãy. Bởi vì đường rừng, phải đạp mạnh xe mới trườn tới được. Một khúc
gỗ chỉ to bằng ngón tay cái thay cho thỏi thép tra vào cần pê-đan thì làm sao
bền được ?
Nhưng tôi cũng không bỏ chiếc
xe đạp. Có ai dùng xe đạp một pê-đan trên thế giới này không? Nếu có thì đó là
nhà văn Xuân Vũ của tiểu ban Văn Nghệ R năm 1963. Thiệt là một kỳ quan kỳ cục.
Vứt nó đi thì không thể, còn dùng nó với chức năng bình thường thì cũng không
được. Tôi đành phải nhảy xuống dắt nó đi. Cho đến chiều tối đến một cái xóm
không biết tên 1à gì. Tôi vào đại một ngôi nhà bên đường xin nước uống. ..
Tôi bèn trỏ cái xe cho chủ nhà
là một người Miên xem. Thời may ông ta có cái sườn xe đạp hư treo lủng lẳng
trên vách. Ông ta lấy xuống, tháo chiếc pê-đan tra vào cho xe tôi. Tôi trả cho
ông một, hai trăm rịa (gì đó không nhớ). Ông ta tỏ vẻ thương người nên tối hôm
đó tôi ngủ nhờ trong chuồng trâu của ông. Hai con trâu nằm trong vũng sình để
khỏi bị muỗi chích, hôi hám lạ lùng: Giống như RẶC TRÂU ở vùng Nghệ Tỉnh ta
vậy.
Ông cho tôi ăn cơm nếp hấp
trong giỏ mây với mắm bò hóc. Ối chao ơi ! Ngậm miếng mắm mãi và phải vận dụng
tất cả lập trường mới nuốt nổi. Chỉ một miếng thôi, rồi chỉ ăn cơm nếp không.
Đêm ngủ tôi sợ quá ! Đi như thế
này liều mạng thật. Nếu lão già Miên giết tôi chết để lấy chiếc xe đạp và cái
ba lô thì chắc không có ai hay. Nhưng cũng may, sáng hôm sau tôi vẫn còn sống.
Lão già lại cho tôi ăn cơm. Tôi trả thêm rịa và lên đường một cách hùng dũng.
Trưa hôm đó mới tới con đường đá. Cứ theo bản đồ của anh em ở nhà vẽ cho mà đạp
miết. Gần đến chiều thì lại vỡ lốp.
Mẹ kiếp tai nạn gì mà liên tục
thế này ! Thấy một cái xe bò đi tới, tôi bèn hỏi đi nhờ. Thì ra là xe bò chở
gạo tiếp tế của phe ta. Người đánh xe bò là dân Mùa Thu và là cán bộ chăn bò ở
nông trường Lam Sơn nơi tôi từng vào lao động thực tế sáu tháng. (Do đó có mấy
chuyện tôi kể ở trên kia). Anh ta tên là Tư Thêu (sau này gặp lại ở Củ Chi,
cũng vẫn “lái” xe bò). Tư Thêu cho cả tôi và xe đạp lên xe bò. Tôi ngồi ngất
nghểu trên những bao gạo và nói chuyện ba đồng bảy đổi với Tư Thêu:
- Về hồi nào ?
- Mới mấy tháng đây thôi, còn
anh ?
- Vừa vô tới ! Có bỏ cọng rau
muống nào ngoài đó không ?
- Tôi chưa bị quấn, chớ tụi đại
đội 2, đại đội 4 bị thiếu gì. Có đứa cưới vợ Mường nữa anh ạ. Vui lắm. Bây giờ
về hết rồi.
- Rồi làm sao?
- “Dang mi ra” cho ta về nước
chớ làm sao ! Chuyến tôi đi liên hoan to lắm. Hùn tiền mua gà vịt mấy bội, nhậu
sáng đêm. Mấy bà bầu tới khóc lóc, nhưng đi thì vẫn cứ đi.
- Về trong này cưới vợ chưa?
- Tôi quê ở Thanh An, mấy ổng
cho về công tác Củ Chi. Về một tháng là gia đình cưới vợ cho xong.
- Rồi sao lên đây?
- Lên đây cũng gần. Lâu lâu
xách xe đạp chạy về rồi trở lên. Tôi tính đưa vợ lên cất chòi ở trên này luôn.
Nhưng coi mòi găng quá nên tôi chưa quyết định. Còn anh đi đâu lang bang đây?
- Cũng đi cưới vợ!
- Giỡn hoài anh !
- Bên Bộ Chỉ Huy ! Thiệt mà !
- Ờ phải. Nhưng anh ở đâu tới?
- Bên dân chánh.
- Rồi cưới ai bên này?
- Người này chắc chú biết.
- Ai vậy ?
- Văn Công Sư Đoàn 330.
- Ai?
- Cô Nguyệt, trưởng đoàn.
- À tôi biết rồi. Tôi quen
nhiều người trong đoàn đó lắm. Tôi coi họ hát hoài mà.
- Ai?
- Tám Thơm, Huyền Tung, chị
Cuộc, chị Hiên v.v… Sao ở ngoài anh không cưới, để về trong này mới cưới.
- Chịp ! Thì khổ vậy đó chú ơi
!
- Chị ấy vô hồi nào?
- Vừa vô tới, cô ta gởi thơ cho
tôi, tôi phóng qua ngay đây !
- Làm gấp gấp, kẻo không kịp.
- Không kịp gì ?
- Coi bộ Mỹ nó làm tới nơi rồi.
Nó chơi cái kiểu xây cù bắt chuột. Nó gom mình vô rọ rồi hốt một phát là sạch.
- Đây vô đó còn xa không?
- Không xa lắm, nhưng anh có
giấy giới thiệu đặc biệt không?
- Đặc biệt gì ?
- Vô tới trong cái “nồi gọ” đó
không có dễ đâu nghen anh. Toàn là thứ dữ không thôi. Anh phải qua mấy trạm gác
mới tới được.
- Chiều nay tới không?
- Tới nhưng mà tối rồi, nó
không có cho anh vô đâu.
- Xe bò ở đâu vầy nè?
- Của đảng chớ ở đâu anh !
- Sao chú lại làm cái việc này?
- Đảng bảo thì phải làm. Hồi ở
ngoải tôi có hứa miễn về được trong này, làm gì tôi cũng làm, bất kể là chuyện
gì. Đánh xe bò cũng vinh quang lắm chớ. Nhưng chỉ một mình tôi mới liều mạng
đánh xe đi giữa đường ban ngày như thế này. Anh coi giờ này có bóng dáng chiếc
xe nào không. Độc một mình tôi thôi.
- Sao vậy?
- Vì máy bay nó thấy là nó xơi
tái ngay thôi. Tôi ớn lắm, nhưng đi đêm rất cực. Bây giờ tôi sợ chết hơn hồi đi
trên Trường Sơn. Anh biết tại sao không?
- Không.
- Vì sắp có con rồi !
- Ủa, mau vậy hả?
- Thì nàng tắt kinh ngay tháng
đầu mà. Còn tám tháng nữa thì có con nít oe oe. Ít nhất con tôi phải nhìn thấy
mặt bố rồi bố nó hãy chết chớ.
- Sao chú bi quan vậy ?
- Không phải tôi bi quan đâu
anh ơi. Cái chiến tranh này ác lắm. Mình không có sống được để ăn mừng thống
nhất đâu !
- Chú nói thiệt chớ !
- Chết lạ lắm anh ạ. Mới thấy
đó lại chết liền. Ngay trên đường này. Đêm hôm kia. Một đoàn xe bò nhé. Bỗng
một trái pháo bắn rầm. Hai con bò tan xác. Hai người chủ cũng văng theo bò. Bốn
chiếc hỏng, ba bị thương. Xe tôi đi chót nên không việc gì. Con người có mạng
anh ạ. Tôi lụt tụt đi đằng sau nên chẳng việc gì ! – Tư Thêu móc túi lấy thuốc
hút và tiếp. – Tháng trước xe tôi đi đầu thì pháo bắn vét trúng khúc đuôi. Tôi
chết hụt hai lần rồi. Chắc lần thứ ba thì dính. Không lẽ tôi hên hoài.
- Sao không về quê công tác?
- Tôi cũng định xin về Thanh An
làm cán bộ xã để ở gần nhà, nhưng ở trên bảo thiếu người nên cứ xét tới xét lui
hoài.
- Đánh xe thế này chừng nào thì
lên đại tướng được?
- Lên đâu mà lên anh. Tôi đi bộ
đội mười năm, ra Bắc đào đất tám năm, anh biết tôi lãnh quân hàm gì không?
- Quân hàm gì?
- Thượng tá. Há há… há. Thiệt
mà, nhưng Bộ Quốc Phòng phát lộn cho ông Cống đeo dùm, nên được thượng sĩ. Tôi
đeo được vài hôm thì ở trên lại bảo phát lộn nữa nên tôi chỉ còn trung sĩ. Vô
đây thì không còn gì hết. Nhưng tôi thấy không cần nữa. Tôi đâu có công gì.
Chính con bò mới có công chứ. Nếu ở trên gắn quân hàm thì xin gắn cho nó. Ờ ờ…
gắn ở chỗ Nguyễn Công Trứ lấy cái quạt che.
- Chú về trong này rồi rượu ở
Thanh Hóa ai uống cho hết ?
- Tại tụi tôi uống bạt mạng cho
nên họ mới kháp nhiều chớ nếu không có tụi tôi thì họ kháp bán cho ai ?
Chiều hôm đó tôi tá túc với Tư
Thêu. Y chở gạo tới giao cho quản kho rồi trở ra:
- Bây giờ hết giờ làm việc rồi.
Anh ra chòi tụi tôi nghỉ đỡ. Ở đây toàn là dân thuộc F330 hồi trước. Ở ngoài đó
chăn bò, móc gốc lim, về trong này lại đánh xe bò vác gạo. Kể ra lính Nam Kỳ
mình cũng hân hạnh lắm đấy!
Tôi nôn nóng muốn vào gặp
Nguyệt ngay, nhưng Tư Thêu bảo:
- Nói là tới, nhưng anh cũng
phải mất nửa ngày nữa ! Thủ tục phiền phức lắm.
- Thủ tục gì ?
- Thủ tục vô khu vực của Bộ Chỉ
Huy chớ thủ tục gì. Xin lỗi anh cấp bực gì ?
- Tôi đâu có cấp bực gì.
- Muốn vô đó phải là đại úy trở
lên. Cỡ tụi tôi còn khước mới vô được.
- Vậy muốn vô đó phải làm sao?
- Anh cứ ở đây nhậu chơi đã, để
tôi lo cho. Anh chân ướt chân ráo lại không có cấp tước, vô đó bị tụi nó xài
nguyên tắc, có khi bảy ngày anh chưa gặp được chị Nguyệt. Tụi tôi tuy là đám
chăn bò nhưng có đường dây riêng. Chăn bò móc với chăn trâu, đi cửa sau mau hơn
cửa trước.
Tôi đành nghe theo Tư Thêu, mắc
võng lắc lư nằm chờ. Tổ đánh xe bò toàn là dân Nam Kỳ, anh nào anh nấy đều quá
lứa cả. Họ rất vui mừng coi tôi như một thằng đồng bệnh Nam Kỳ ế vợ ở miền Bắc.
Họ có thừa gạo còn thức ăn cũng không thiếu. Họ có một tốp đi săn thịt rừng.
Cho nên ăn uống rất phè phỡn.
Tôi uống rượu cũng khá lắm. Hồi
ở Hội Nhà Văn tôi uống rượu nổi tiếng hơn viết văn mà ! Tôi đóng góp thêm rịa
và tiền Sài Gòn. Một người vác xe đạp chạy đi, một tiếng rưỡi đồng hồ trở về
với bốn bình toong rượu óc ách máng trên ghi đông xe đạp. Thịt mển nướng nguyên
con như bê thui. Không chặt ra. Cứ để trên bếp xẻo từng miếng ăn và tu rượu như
dân thiểu số dọc Trường Sơn.
Một anh tên là Biều cụt hai
ngón ở bàn tay phải rót rượu mời tôi rồi hỏi:
- Anh còn nhớ tôi không?
- Đồng chí cũng ở Lam Sơn à?
- Đại đội trồng cao su. Anh đến
coi rồi về Hà Nội viết bài “Lam Sơn Quê Hương Mới” gởi vô tụi này đọc khóc muốn
chết.
- Tôi viết cái gì trong đó.
- Lúc anh vô thì báo nói là
trong Nam Ngô Đình Diệm bỏ thuốc độc giết cả ngàn tù ở Phú Lợi. Anh em trong
đại đội biến căm thù thành sức mạnh thức suốt đêm, đốt đuốc đỏ rừng để trồng
hột cao su.
- Ờ, ờ, tôi nhớ rồi.
- Lúc đó trời lạnh nên tụi này
phải quạt khói cho ấm để cao su không chết.
- Rồi sau đó có mọc lên được
không?
- Có.
- Chắc bây giờ gần có mủ rồi.
- Nó chỉ lên được hơn gang tay
rồi héo đọt chết ráo anh ạ.
- Sao vậy?
- Đâu có biết. Chắc là vì trồng
không đúng đất chớ gì. Cũng như cây so đũa vậy, ở Ba Vì và Viện Nông Học Hà Nội
trồng lên rất tốt nhưng không có trái.
Tôi buột miệng nói:
- Đúng là trồng sai đất, như
cây vú sữa vậy thôi.
- Cây vú sữa nào ?
- Cây vú sữa của Hồ chủ tịch
đấy mà.
- Vẫn không có trái à anh ?
- Trái gì được mà trái !
Con người cũng thế. Sống ở miền
Bắc dân Nam Kỳ vất vơ vất vưởng như một lũ ốc mượn hồn. Bây giờ được vứt về Nam
cũng chẳng làm được gì ngoài sự cúi đầu phục tùng sự đô hộ của bọn Bắc Kỳ xâm
lược.
Tôi hớp một ngụm to rồi bảo:
- Bây giờ sắp tập kết một phát
nữa đó các bạn ạ.
- Sao?
- Sắp tập kết lần nữa .
Hì..hì..!
- Giỡn hoài anh Hai ơi ! Chuẩn
bị bỏ vợ bỏ con phát nữa hả?
Vừa đến đó thì Tư Thêu từ bên
ngoài đẩy một người vào:
- Ê thằng Bắc Kỳ này chơi được
lắm. Cho nó đi vài chầu đôi rồi chốc nữa sẽ bàn công việc giúp ông “nhà dăng”
của mình. Nè, Tám Nghĩa mày muốn chơi với tụi này thì phải lấy bằng cấp mới
được.
Tám Nghĩa nói giọng rặc su hào:
- Dưa hấu chơi tới đâu rau
muống chơi tới đó, sợ gì !
Tư Thêu cầm bi đông rượu mở nút
kê vào miệng Tám Nghĩa:
- Hết bình này là cao cấp, nửa
bình là trung cấp, một phần ba là sơ cấp. Làm đi. Không có nói nhiều.
Tám Nghĩa ngửa cổ ra nốc hai ba
cái bị sặc, lấy bi đông ra, chùi mồm và nói:
- Có gì đưa cay không chứ?
- Ờ quên !
Tư Thêu bẻ cái giò mển khét
cháy đưa cho Tám Nghĩa. Tám Nghĩa nhai rau ráu rồi nốc tiếp một hơi dài, đưa bi
đông cho Tư Thêu. Tư Thêu lắc lắc bi đông và nói:
- Mày chỉ đậu sơ cấp thôi. Cho
ăn đại táo!
- Thế cũng được ! – Tôi bảo –
Tửu bất khả ép.
Tám Nghĩa lắc đầu:
- Em chịu thua các đại ca thôi.
Một anh to lớn, mắt đỏ lừ, râu
ria như chổi xể, tay chân như hộ pháp nãy giờ không nói gì cả, bây giờ mới rót
rượu cho tôi và hỏi:
- Bộ quên tôi à ?
- Ơ …ơ…
- Vương Tư Đồ đội trưởng đội
đánh cá của nông trường Lam Sơn nè cha!
- Ờ ờ…Tôi có gặp ông ở kho gạo
trên Trường Sơn mà.
- Về đây vẫn làm thủ kho.
- Còn đờn “vặn cổ bà con”
không?
- Mới gởi mua được cây Xi-ta ở
ngoài chợ Long Hoa.
Đó là Bảy Nguyên, một tay chơi
nhạc cổ rất khá nhưng không chịu vô Văn Công. Ngón tay y thật to, bấm bít cả
phím đờn. Tôi hỏi:
- Mấy thằng Mỹ giam trong hầm ở
kho gạo ông trên Trường Sơn ông giao lại cho ai ?
- Chết mẹ nó hết ráo còn giao
cho ai gì?
- Sao vậy ?
- Nó không muốn sống thì nó chết
chớ sao! Thôi bỏ đi, uống!
- Uống thì uống!
Một chập Vương Tư Đồ nói với
tôi:
- Chú muốn vô trong Bộ thì tôi
bảo thằng Bắc Kỳ này dắt đường cho ! Nó là cai ngục ở đây đấy. Nè Nghĩa, đây là
nhà dăng Nam Kỳ của tao, mày có cách nào đưa ổng vào trỏng được không?
- Để làm gì ?
- Cưới vợ !- Vương Tư Đồ kể
luôn câu chuyện của tôi và hỏi: – Có cô Nguyệt ngoài Bộ Tổng vừa vô phải không?
Vợ chưa cưới của ông này đấy !
- Thế à ?
- Có không?
- Có một đoàn vừa nam vừa nữ,
nhưng không thấy ai tên Nguyệt . . . .
Tư Đồ cười :
- Đây là lũ ăn trộm như tụi
mình vậy, đâu có ai dám giữ nguyên tên họ mà mày biết. Nè nhớ nghe, mai mày vô
trong đó hỏi có ai tên là Nguyệt Văn Công F330, thì xin phép ra đây có chồng cô
ta tới thăm.
- Dạ được rồi. Tưởng chuyện gì
chớ chuyện đó thì dễ mà. Em là trưởng phòng thường trực, ai ra vào em đều nhật
ký cả. Nhưng muốn vô bên trong phải là đại úy trở lên.
- Tao biết rồi, nhưng văn sĩ
làm gì có cấp bậc.
- Được rồi, để em lo.
- Nội đêm nay mày phải tìm cho
ra cô Nguyệt và cho cô ấy hay như tao nói.
- Dạ được.
- Được thì thưởng cho nửa bình
toong đấy !
Tư Thêu vừa nói vừa ấn cái
miệng bình rượu khóa mồm Tám Nghĩa.
—>Chương 12
- 12 -
Nhờ Tám Nghĩa trưa hôm sau tôi
gặp Nguyệt ở phòng thường trực. Kể từ ngày tái hợp Nguyệt trên Trường Sơn với
hai ông bạn nhạc sĩ của tôi đến nay có trên ba tháng. Nguyệt cho tôi biết sau
chuyên công tác phục vụ bộ đội trên đường dây, nàng về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 330
xin đi Nam ngay. Nàng được đi con đường đặc biệt có nhiều quãng đi bằng xe hơi
nên vào đến đây một cách bất ngờ. Bất ngờ nhất là nàng không có màu da xanh
vàng bủn beo như dân Trường Sơn.
Bây giờ nảy ra trước mắt tôi
rất nhiều chuyện phải giải quyết: Cưới hỏi? Chia tay? Chừng nào gặp? Nếu cưới
thì chừng nào đi đồng bằng? Nếu ở lại rừng thì đóng đô ở đâu, bên này hay đem
nàng về tiểu ban Văn Nghệ ? Rồi ăn ở với nhau cách nào ? Vợ chồng là điều mơ
ước của tôi từ lâu, nhưng khi đụng vào thực tế thì cả một trời khó khăn. Đây
tôi kể ra một vấn đề thôi: Cái mùng? Làm sao có được cái mùng và cái giường để
vợ chồng ngủ với nhau. Chả lẽ lại treo võng nằm gần nhau thôi ư? Chẳng có ai
yêu vợ trên võng cả. Tôi đã từng mục kích một anh Huyện ủy làm tét võng chết
một cô bé ở Trường Sơn. Đá nhọn đâm gãy đốt xương sống ở lưng quần. Anh chàng
dông mất bỏ cô gái nằm quằn quại rồi chết.
Ngoài cái mùng còn cái giường,
ngoài cái giường còn cái nhà, ngoài cái nhà còn túi tiền. Cả hai đứa đều là vô
sản hoàn toàn. Và nếu nàng có thai thì đẻ con ra ai nuôi . Tôi đã từng thấy hai
cặp vợ chồng ở tiểu han Văn Nghệ. Nó không ra làm sao cả. Nhếch nhác, lãng xẹt
!
Nhưng mà đã đến đây rồi, tôi
không thể trở lui nữa.
Sau một ngày chờ đợi sự duyệt y
của bên trên, tôi mới được Tám Nghĩa cho vào khu ngoài của Bộ Chỉ Huy và được
phép mắc võng gần Nguyệt.
Ở khu này có khá đông người:
Những cán bộ từ sơ cấp đến trung cấp từ Bắc vào đây nằm chờ đợi sự phân công
của Bộ để đi các tỉnh hoặc các cơ quan.
Đúng như lời Tư Mô nói: “Ít
nhất cũng phải ở chơi một tuần.” Nhưng vừa mắc võng gần bên Nguyệt là tôi đã
thấy một tuần lễ không dài hơn một cái chớp mắt. Câu đầu tiên tôi nói với
Nguyệt là:
- Chúng ta nên thành hôn em ạ!
Nguyệt làm thinh. Tôi không
biết Nguyệt không đồng ý hay đồng ý, bền rấn tới :
- Có lẽ anh phải xin phép hoãn
lại chuyến đi đồng bằng.
Nguyệt vẫn làm thinh. Tôi không
biết phải nói gì nữa. Đang nhúm bếp nấu hai chiếc cà mèn cơm, Nguyệt quay lại
nói :
- Rồi làm sao anh . Làm sao
sống?
Làm sao sống ?
Bây giờ tới lượt tôi làm thinh.
Tôi nằm trên võng thò đầu ra nhìn những ngọn lửa nhảy múa dưới đít cà mèn. Quả
thật nàng có những suy nghĩ giống tôi. Cuộc sống ở rừng, ngoài bom pháo ra còn
một ngàn vấn đề khác phải giải quyết trước khi lấy nhau. Hoặc cứ lấy nhau rồi
tới đâu hay tới đó. Vợ có bầu sắp đẻ, làm sao? Nhà bảo sanh đâu? Đi bằng cách
gì để tới đó nếu có một nơi gọi là nhà bảo sanh như những cái chòt vịt trong
kháng chiến chống Pháp chẳng hạn. Cuộc sống ở đây dã man không thể tả hết.
Tôi ngồi dậy để lấy một mớ khô
nai mà Tư Đồ cho tôi bữa trước.
- Chúng mình ăn bữa cơm đầu
tiên với nhau.
Nguyệt thút thít khóc. Tôi
không biết sợ gì hết, chỉ sợ đàn bà khóc .thôi. Nàng khóc là vì sung sướng được
gặp lại tôi hay vì sắp phải chia tay?
May quá vừa lúc “tắc nghẽn”
tình cảm đó thì Lập và Sử tới.
Lập là nhạc sĩ nổi tiếng Hà Nội
với chiếc clarinette. Anh ta chỉ thổi một tiếng “đô” là rúng động lòng người.
Không có nhạc sĩ nào thổi tiếng “đô” bằng Lập. Nó nhỏ thó lại gầy, hai con mắt
như hai trái dầu u. Cổ cao như cổ con cò ngảng . Không rõ người ở đâu. Còn Sử
là bạn tôi từ lúc ở Cần Thơ, tôi làm trưởng tiểu ban Văn Nghệ và đã làm lời cho
nhiều bản nhạc rất phổ biến của nó. Anh của Sử là Thanh Cao không về vì vợ đã
lấy chồng trong Nam. Sử và Lập đều ở chung đoàn Văn Công với Nguyệt.
Thấy hai người tới, Nguyệt đon
đả:
- Hôm nay tôi đãi anh Sử và chú
Lập một món.
- Món gì ?
- Thịt nai khô.
- Ở đâu mà chị có? – Lập hỏi.
- Anh Vũ mới kiếm ở đâu đó
không biết.
- Vậy để tôi đi lãnh cơm đem
lại hùn vô !- Nói vậy rồi Lập chạy đi.
Sử bảo tôi:
- Thôi, mày lo xong cho rồi.
Đây là màn chót đó. Ông Cao ổng bảo tao vô nói với mày đừng có xụt xịt nữa. Già
ngắt cả đám rồi ! Nó vô đây là vì mày.
- Tao biết rồi. Nhưng mày tính,
làm sao sống?
- Kệ mẹ ! Trong chiến tranh ai
mà tính trước được những gì sẽ xảy ra. Sống ngày nào hay ngày ấy. Bây giờ ở Hà
Nội còn loạn xà ngầu lên kia, trong này thế mà khỏe hơn đó.
- Giỡn hoài mày !
- Tao về đây đâu có từ giã được
vợ con. Mẹ con chúng nó di tản đâu lên Bắc Ninh Bắc Giang gì đó. Tao chỉ gởi ít
chữ rồi đi.
- Thế cơ à !
- Ngay Bộ Tổng Tư Lệnh cũng đã
rời khỏi Hà Nội.
- Mày bảo tao làm gì bây giờ?
- Làm cái gì thì tùy mày nhưng
chuyến này nếu lôi thôi nữa là tại mày.
Sử nói thẳng với tôi trước mặt
Nguyệt. Sử biết Nguyệt từ lâu và rất thương tôi. Hồi 1952 đã có lần Thanh Cao
có ý định bắt em vợ ở Nữ Học Đường Sài Gòn về gả cho tôi, nhưng hồi đó tôi lại
không muốn vợ con gì hết để nhẹ gót “lãng dư” theo kiểu Dũng trong Đoạn Tuyệt.
Lãng bây giờ trở thành lãng nhách, du bây giờ thành du hí.
- Sao, Nguyệt tính thế nào? –
Sử quay sang Nguyệt.
- Em đâu có tính sao. Mọi việc
đều do ảnh hết cả.
- Đó thấy chưa. Tao sẽ vô báo
cáo với tổ chức dùm mày. Rồi thì tiến hành.
Tôi bảo:
- Mày muốn làm gì đó mày làm.
Chúng tôi ăn bữa cơm khá thịnh
soạn. Vì là đi đường đặc biệt, nên nhạc sĩ Lập còn mấy cặp lạp xưởng mang đi từ
Hà Nội. Nguyệt còn nhiều ruốc thịt. Sử góp vào mâm cơm một mớ bột ngọt. Vừa ăn
vừa nghe tin đánh máy bay Mỹ ở Hà Nội từ chiếc radio Lập mượn của bạn trong Bộ
Chỉ Huy.
- Mai mày vẽ dùm tao cái khẩu
hiệu nghe Lập !
Sử bảo.
- Khẩu hiệu gì anh ?
- “Vui duyên mới không quên
nhiệm vụ.”
- Chà! Oai vậy hả?
Cơm xong Sử và Lập nằm võng của
tôi và Nguyệt nói chuyện khào trong lúc tôi và Nguyệt đi xuống suối rửa gà -mèn
và lấy nước lên nấu trà.
Tôi hỏi Nguyệt:
- Em còn giận anh hết?
- Em đâu có giận gì anh.
- Vụ cải cách ruộng đất, thành
phần không cơ bản v.v… mà không giận à?
- Ôi thôi, ba cái vụ đó, bỏ đi
anh ạ.
- Em hứa là không giận anh chớ
.
- Cũng tại em một phần. Tự ái
to quá, nên mới như thế đó.
Tôi thấy Nguyệt rất chân thành.
Nếu không có ba cái vụ chỉnh huấn Cải cách Ruộng Đất, thì đã không có sự xích
mích nhau vì thành phần… Cải Cách Ruộng Đất đã phá nát không biết bao nhiêu
tình duyên cán bộ tiểu tư sản và địa chủ.
- Nay mai anh phải đi đồng
bằng. Anh muốn có một tấm ảnh của em để đem về gia đình.
- Em đâu có máy ảnh.
- Anh có nhưng không còn. Khi
anh đi qua khu 6, đói quá, anh đổi lấy nửa con chó ăn mất. Bây giờ cần thì lại
không có.
- Máy ảnh mà đổi cho ai ở khu
6?
- Một ông nhà mình đổi được con
chó. Anh ném cho ổng cái máy ảnh đi được ổng chia cho một nửa. Chịp! Lúc đó đổi
tán đường hay lạng thịt anh cũng đổi. Nhờ thịt chó ăn liên tiếp mấy bữa và mớ
thịt nạc làm ruốc mà anh băng qua nổi vùng Mã Đà. Để anh bảo thằng Lập vô trong
đó tìm họa may có.
- Thôi anh ạ! Để em đưa cho anh
cái ảnh của em.
- Anh muốn ảnh hai đứa kia chớ!
- Phải rồi nhưng không có thì
làm sao bây giờ.
Chúng tôi trở lên với bốn chiếc
gà-mèn đầy. Tôi thổi lửa đun nước. Lập chạy về lều lấy gói trà Ba Đình và gói
mứt dừa mứt hột sen đem tới.
Sử nói:
- Bữa nay coi như đám tuyên bố
của tụi bay luôn. Không cần phải có sự chứng kiến của tổ chức gì cả. Kể từ bây
giờ tụi bây thành vợ chồng. Không có cặp tình nhân nào tiến tới vợ chồng gian
nan và hằng chục năm như tụi bây vậy.
Nguyệt không nói gì. Nâng ngồi
trông chừng lửa, không quay mặt lại. Lập rót một nắp gà mèn trà đưa cho nàng và
nói:
- Em chúc mừng anh chị.
Sử lấy một nhúm mứt đưa cho
Nguyệt:
- Ăn đi cô nữ sinh. Kẹo này là
kẹo ngọt không còn đắng cay nữa.
Sử và Lập cũng làm vậy đối với
tôi. Uống vài tuần trà, hai đứa từ giã ra về. Bây giờ tôi nghĩ tới chuyện làm
một chiếc giường dã chiến, nhưng không có dao rựa bén. Với con dao găm Hàng Mã
tôi không thể đốn nạng và số cây đủ để làm một chiếc giường. Cho nên tôi đi gom
lá rải dưới đất rồi trải hai chiếc võng lên. Chiếc lều không có vách. Chúng tôi
dùng hai cái mùng giăng khít nhau làm vách nhà. Tuy giăng hai chiếc nhưng chỉ
một chiếc có người nằm còn chiếc kia bỏ trống. Tôi nhớ lần gặp Nguyệt trên
Trường Sơn. Nhờ có bàn tay của thằng bạn dược sĩ mà chúng tôi có chỗ kín đáo để
yêu nhau. Lần đó đã trở thành bước quyết định cho cuộc đời chúng tôi. Cái đêm
vừa hạnh phúc vừa hãi hùng. Chúng tôi bị bom trộm suýt chết. Đại úy Mật đã hi
sinh vì trận bom đó, không xa chúng tôi mấy.
- Em nhớ lần vừa rồi không?
- Em không nhớ gì khác ngoài
anh. Kỳ đó trở ra đến Bộ Tư Lệnh, em xin đi vô với anh liền. Ban tổ chức cho
ngay. Mấy ổng cũng biết vụ anh với em, nên trước khi em đi ông Xuân Ôn có gởi
lời thăm anh. Ông Xuân Ôn ở phòng Chính Trị ấy mà.
- Ừ, ông ta học trước anh hai
lớp, dân cùng quê.
- Với ông Dương Thông nữa.
- Dương Thông nào?
- Ông Phó ban Tuyên Huấn sư
đoàn, người Bắc.
- Anh không ngờ em vô nhanh
vậy. Nếu em vô trễ chừng hai tuần chắc chúng mình hết gặp nhau. Sẽ có chừng vài
ba năm hôn nhau trên giấy nữa.
- Em ngại quá. Chúng ta sẽ sống
cách nào?
- Thôi đừng tính lui, chỉ nên
tính tới.
- Chừng nào anh đi đồng bằng?
- Đang chuẩn bị đi thì được thư
em. Từ đây qua đó mà thư đi mất cả tháng.
- Em vô sau anh chỉ một tháng
thôi.
Tôi hôn Nguyệt trên má và trên
môi rồi chúng tôi ôm nhau. Chúng tôi sẽ thành vợ chồng đêm nay không có dè dặt
không có nhín nhúc gì nữa. Câu nói của Sử và Lập đã xe duyên chúng tôi. Tôi cảm
thấy không cần có mặt của tổ chức. Chính tổ chức đã phá suýt hỏng tình duyên
của chúng tôi. Ôi cái thứ lập trường rởm!
Nguyệt không phản đối bất cứ cử
chỉ nào của tôi. Tôi ngồi dậy cúi hôn hai bàn chân nàng và thầm thì:
- Hai bàn chân em đã đạp lùi
những dãy núi đá tai mèo để đến với anh. Tôi hôn lên tóc nàng và nói: – Tóc em
dù có trổ bạc như hoa rừng cũng sẽ mãi mãi đẹp như một bài thơ bất tận của anh.
. .
Tôi không muốn nhìn quần áo hay
bất cứ thứ gì che khuất thân thể chúng tôi .nữa. Da thịt của người con gái trên
ba mươi tuổi thơm như hương rừng đọng đặc. Tôi ôm choàng lấy nàng. Nàng kêu lên
khe khẽ:
- Anh ! Anh ! Em yêu anh !
- Anh yêu em, Nguyệt !
- Anh đừng giận em nữa nghe. Em
xin lỗi anh.
- Không phải lỗi của em.
- Em không bao giờ yêu ai khác.
Tôi hôn môi nàng như uống những
tiếng nàng vừa thốt vào trong hồn. Chúng tôi quấn riết lấy nhau. Những đầu núi
nhọn, những con dốc trút người, những ngọn suối chảy như điên, những đói rét,
những cơn sốt mưa, những chiều nắng cháy những ngọn gió Lào khét man rợ,… tất
cả, tất cả đều tan biến trong đôi cặp môi của cô gái và chàng trai Trường Sơn.
Chứng tôi sống ngoài trái đất không biết bao lâu.
Độ lúc nửa đêm, tôi bỗng nghe
gió ù ù thổi đến. Nàng quay đầu ra lắng tai nghe rồi thầm thì:
- Gió to quá anh ạ !
- Bên em, anh không nghe gì
hết! – Tôi càng ôm riết lấy Nguyệt và hôn lên hai đóa hoa lan liên tục.
Nàng vặn vẹo người và đưa tay
sờ lên mặt lên cổ rồi đưa dài xuống ngực tôi.
- Anh với em ghi thêm một kỷ
niệm nơi đây nhé? – Tôi thầm thì .
Nguyệt trả lời bằng một cái hôn
môi rất dài rồi làm một cử chỉ hiến dâng hoàn toàn.
Tôi không ngờ tôi còn nhiều sức
lực đến thế. Khi tôi vừa dứt khúc cuối cùng của bản nhạc tình ái thì Nguyệt lại
thầm thì :
- Mưa anh ạ.
- Kệ nó. Mưa thì mưa.
- Lều của mình dột hết.
- Anh yêu em giữa mưa, giữa
bão, giữa trời long đất lở .
Mặc cho nàng tỏ vẻ lo lắng, tôi
vẫn cứ tiếp tục cấn thêm lên con đường hạnh phúc.
Bỗng mưa đổ rào rào trên lưng
tôi. Nước trút như ai xối từ ngọn cây. Cả hai đều phải ngồi dậy. Nền đất ướt,
rồi nước xâm xấp lớp lá khô. Mưa càng lúc càng to không phải một trận mưa
thường. Chúng tôi ngồi đợi nhưng mưa đã không tạnh lại càng lúc càng to thêm.
Những cơn mưa như vầy tôi có lạ
gì trên Trường Sơn, nên tôi vẫn phớt lờ, tỉnh khô. Tôi mò lấy trong ba lô ra
những tấm ni-lông mà chúng tôi dùng làm áo che mưa dọc Trường Sơn, quấn quanh
mình chúng tôi. Nguyệt như chú gà con rút vào cánh gà mẹ. Nàng rủ rỉ:
- Em ước được trốn mưa mãi như
thế này.
Tôi hôn lên tóc lên má ướt đẫm
của nàng. Chúng tôi ngồi, tay quàng tay nhau lâu lâu lại ngửa mặt nhau ra mà
hôn, không thấy sợ sệt gì hết.
Hóa công bất chấp hạnh phúc của
đôi trai gái rừng, cứ trút nước xuống mặt đất.
Bỗng Nguyệt kêu lên:
- Nước ngập hết rồi anh ạ !
Tôi lấy đèn pin bấm lên thì thấy
những chiếc lá trôi lềnh bềnh trên mặt đất và mép mùng thì phập phều và nhòe ra
những phẩm nhuộm xanh cả vùng nước.
- Để anh qua bên lều thằng Sử
chút.
- Chi vậy?
- Coi nó có ni-lông dư không
anh lấy đem về che thêm lều mình và mắc võng nằm.
- Ảnh làm gì có ni-lông dư?
- Nếu không anh bảo nó sang lều
thằng Lập ở .
- Anh có đi thì mau lên. Ngồi
một mình, em sợ lắm.
Tôi cầm đèn rọi trên mặt đất và
lội lõm bõm. Đến nơi thấy Sử đang ngồi chong ngóc trên võng trong lều.
- Vũ hả? – Nó hỏi. Đi đâu vậy
ông nội ?
- Đi qua mày mượn một ít
ni-lông về che lều.
- Nóc lều bay hết trơn rồi đâu
còn tấm nào. Còn một tấm tao đang choàng đây, có lấy thì lấy. – Nói xong nó
quăng tấm ni-lông cho tôi. – Tao đi qua ké lều thằng Lập.
Tôi chụp lấy rồi đi qua lều của
thằng Lập. Tôi không ngờ là tôi đi lạc vì nước ngập không còn đường mòn. Tôi đi
loanh quanh mãi mới tới lều của Lập để lấy thêm ni-lông.
Lập ở khá xa Sử, nên lúc trở về
tôi lại đi lạc. Mưa vẫn trút ào ào. Tôi cố tìm lối về nhưng vẫn cứ đi lang
thang. Chiếc đèn pin hết điện lu dần trong màn mưa dày đặc. Tôi cất tiếng gọi
to nhưng không có tiếng đáp lại.
Sấm sét nổi lên trên đầu. Lưng
trời rách ra bởi những tia chớp. Gió xoáy. Những ngọn cây quay ù ù như những
cái đầu tóc của người điên.
Tiếng cây đổ ầm ầm. Một gốc cây
to nằm ngổn ngang trước mặt. Tôi hoàn toàn mất hướng về. Tôi sốt ruột muốn về
với Nguyệt ngay tức khắc. Tôi ân hận đã bỏ Nguyệt mà đi trong lúc giông gió. Dù
có một ít kinh nghiệm ở rừng, nhưng tôi cũng chưa từng lâm vào cái cánh hãi
hùng như đêm nay: lạc lối hoàn toàn.
Mãi đến lúc tạnh mưa tôi cũng
vẫn không về được lều. Tôi bắt đầu thấy ánh đèn xa xa lấp loáng trong màn đêm.
Đó là những toán an ninh đi cứu cấp. Họ biết trận mưa đã làm bật gốc cây rừng.
Đã có nhiều người chết vì bị cây ngã đè. Tôi đã từng trông thấy một anh lính bị
một nhánh cây gãy phóng ngay bụng như một lưỡi kiếm khổng lồ, trên Trường Sơn.
Toán an ninh đến gần. Tôi kêu
cứu. Họ đi tới và chập sau chúng tôi về lều. Nhưng tôi đã không tìm ra chiếc
lều hạnh phúc của tôi nữa. Loay hoay mãi lúc lâu tôi mới tìm ra gốc cây và dưới
những nhánh cây khổng lồ, chiếc lều mong manh của chúng tôi nằm bẹp dí. Tôi
thét lên:
- Nguyệt ! Nguyệt !
Không có tiếng đáp. Một nhân
viên an ninh trèo lên thân cây bò theo những nhánh cây mà đu người xuống đất.
Từ trong những nhánh cây ngổn ngang, anh ta gọi :
- Chết rồi !
- Ai chết ?
- Không biết ai trong này.
Tôi đứng lặng ngắt, không còn
biết nói gì làm gì nữa. Phải đợi tới sáng người ta mới đem cưa đến cắt những
nhánh cây để lôi xác Nguyệt ra. Nó bẹp dí như nghiền. Tôi không còn nhận ra
Nguyệt nữa.
Năm tấm linh hồn đã qui tiên
trong đêm mưa bão hãi hùng đó. Gã nhạc sĩ clarinette cũng chung số phận của
Nguyệt !
Áo quan làm bằng thân nứa đập
dập đan lại với nhau và huyệt mộ là cái hố dưới gốc cây bật rễ.
Tôi chôn người yêu ở nơi rừng
đất nước người mà không còn một giọt nước mắt nào để khóc.
Nàng quyết chí về. Nàng đã đến.
Hạnh phúc đã chụp bắt được. Nhưng chính nàng lại biến đi. Thành ra đến rồi cũng
như không. Do đó tôi đặt tên cho tập hồi ký này cái tên “Đến Mà Không Đến” để
kính viếng hương hồn Trương Thị Nguyệt, quê ở Cần Thơ. Cũng như tôi, nàng đã
đến mà không đến.
Ba mươi năm tấm thảm kịch xảy
ra, bây giờ ngồi viết thấy rõ lại như in.
Thế là trên đường Trường Sơn về
tới R, tôi mất hai người yêu, người nào cũng suýt làm vợ tôi cả. Phương chết ở
khu 5 tôi chỉ nghe Thiệp kể lại mà không thấy trước mặt, còn ở đây tôi nhìn tận
mắt thi thể của Nguyệt bị đè bẹp dưới thân cây. Sọ đầu bẹp nát quến với bùn và
tóc lầy nhầy. Phải mất năm sáu tiếng đồng hồ một tiểu đội công binh của Bộ Chỉ
Huy mới cưa thân cây từng khúc và lôi xác nàng ra. Mới vừa là một người con gái
xinh xắn mà bây giờ đã trở thành một vật kỳ cục nhìn mà phát kinh hãi. Ruột gan
lòi cả ra hai bên hông, lưỡi thè ra một bên mồm và đôi chân nhừ nát, be bét máu
me.
Thân cây đã ngã đè nguyên trên
người nàng nên không bộ phận nào còn nguyên. Nhưng trong cái rủi có cái may: ở
đây có một đội công binh xây cất nhà cửa và đào hầm hố, cho nên có sẵn dụng cụ
cắt cây. Nếu ở tiểu ban Văn Nghệ thì phải mất một ngày mà chưa chắc đã đem xác
nàng ra được.
Bạn thử tưởng tượng, trước đây
một giờ, nơi đấy là giường cưới của chúng tôi. Bây giờ là mộ nàng. Còn nỗi đau
đớn nào bằng?
Khi đem được xác nàng ra thì
trời cũng hừng đông. Ở chỗ lều kia, một toán công binh khác cũng đã đem được
chàng nhạc sĩ clarinette ra. Cây ngã đè lên mình nó như một ngọn roi to vắt
ngang. Cái cây nhỏ hơn cây của Nguyệt. Lập không còn ngáp ngáp, mi mắt hết run
run, còn tay chân đã tím xanh.
Kẻ mất hồn là Sử. Nó sắp chui
vô lều thằng Lập thì cây ngã. Nó chỉ bị nhánh cây quất tét trán. Nếu hai đứa
nằm chung võng thì nó sẽ lãnh nguyên thân cây với thằng Lập.
Nó với tôi đi đốn nứa vác về,
chẻ ra rồi với sự chỉ dẫn của đội công binh chúng tôi đan thành những tấm liếp
rồi ghép lại thành chiếc hộp nứa thay cho hòm. Xác của Nguyệt nát ngớu mềm
nhũn. Tôi phải lấy tay hốt những mảnh phổi văng ngoài đất cho vào tấm ni-lông
rồi gói lại..
Xong, bốn đứa nắm bốn góc nhấc
lên để lọt vào lòng chiếc hòm rồi đậy nắp, ràng bằng dây mây.
Tử đâu táng đó: nơi nàng vừa
hưởng hạnh phúc cũng là nơi nàng thọ nạn. Tôi và Sử đắp mộ cho hai kẻ bạc mạng.
Xong lại đẽo cây làm mộ bia. Tôi dùng cái lưỡi dao công binh mà khắc có một chữ
“N” trên gỗ tươi.
Không có nhang để đốt trên mộ
cho ấm lòng người chết. Cũng không có một đóa hoa. Sau cơn bão, tất cả đều điêu
tàn. Tôi còn ở đây làm gì nữa. Đi cho khuất mắt.
Tôi thầm nhủ:
- Thôi, nằm đây em nhé. Anh đi
! – Miệng run run nói mà chân đi không đành.
Gia đình nàng có hai chị em.
Chị tên là Loan, có chồng là y sĩ trong kháng chiến. Chị Loan thương tôi lắm.
Chính chị đã xe sợi tơ duyên cho chúng tôi. Khi ra miền Bắc, chị thấy chúng tôi
tự ái rồi chia tay, chị buồn nhưng không biết làm gì để hàn gắn. Tự ái giai cấp
thì khó mà dẹp được. Thành phần bóc lột.
Khi tôi vác chiếc xe đạp trở ra
đường lớn thì gặp Tư Thêu. Hắn cũng đang đánh xe bò không về hướng cơ quan tôi
để ăn gạo. Hắn hay mọi chuyện bên trong Bộ Chỉ Huy. Hắn chỉ thở dài rồi ném
chiếc xe đạp lên xe bò.
Tôi ngồi nghe bánh xe lăn
nghiến mà đứt từng đoạn ruột. Có ngờ đâu một chuyện lạ lùng như vậy lại có thể
xảy ra. Mà lại xảy ra cho tôi. Rốt cuộc cưới vợ rồi vẫn không có vợ ngay sau
đó. Tôi không còn ham muốn gì nữa. Nhưng vẫn phải về cơ quan để đi đồng bằng.
Cứ chốc chốc tôi quay lại ngó cái ngàn cây um tùm mỗi lúc một xa dần.
- Thôi, em nằm đấy nhé. Anh
phải đi. Anh sẽ trở lại xây mộ cho em !
Tôi biết chắc chắn là tôi không
đời nào còn có dịp trở lại đây nữa mà miệng thì nói thế để tự an ủi mình và vỗ
về linh hồn người xấu số.
Trên đường Trường Sơn tôi cũng
đã chôn một thằng bạn đồng hành với tôi và cũng hứa như thế. Tôi cũng đã gặp
những cái xác chôn vội bên đường không biết thuộc đơn vị nào. Giải phóng Miền
Nam là một sự hi sinh quá đáng, vô ích nữa. Những cái chết thấy mà thương tâm.
Dù có chết, người cán bộ hoặc chiến sĩ không phải chết như vậy. Con cái gì của
họ mà họ thương xót ?
Đến chỗ rẽ, Tư Thêu dừng xe,
nhấc chiếc xe đạp bỏ xuống đất cho tôi rồi bệu bạo nói:
- Thôi, anh đi nhé.
- Ừ, tao đi. Mạnh giỏi nhé.
Hai thằng đàn ông ôm nhau khóc.
Nó khóc thay cho tôi.
Và đến bây giờ tôi mới khóc được.
Khóc cho nàng và khóc cho tôi.
Khóc trong hờn đau. Hai khoé mắt như hai hốc suối cạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét