Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

HỒI KÝ ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 2

1      2      3 
- 7 -
Chiều hôm đó, chúng tôi đến với tư cách đại biểu chính thức của tổ văn là tổ đứng ra tổ chức buổi tiễn đưa này. Theo qui định của anh Hai Lý thì mỗi đại biểu đều mang khẩu phần thường lệ của mình đến bữa tiệc. Giữa nền đất trơ khấc là hai cái nồi, nồi cháo loãng như Biển Hồ, trên mặt lềnh bềnh mấy vệt mỡ vàng nhạt lấp lánh mặt trời chiều không có tí hành nào bập bềnh biểu hiện tư tưởng bấp bênh của cán bộ trong lúc này.
Còn chú gà luộc thì có lẽ tự biết bản thân mình quá bé bỏng trước miệng những con hổ đói nên lẩn tránh đâu đó. Đây là con gà tự túc còn sót lại của tiểu ban: Ba con trước, một con bị chồn tha, một con phải hy sinh cho bữa người ốm cần bồi dưỡng, một con thì lại sầu tình cứ đứng cú rũ nên tiểu ban quyết định xử trảm sớm để ăn thịt tươi trước khi nó chết. Còn con có khả năng sản xuất trứng mà tôi là một trong những người được hưởng hôm mới về đây, thì được vinh dự hi sinh cho buổi tiễn đưa quan trọng này. . .
Mỗi người đưa bát lại cho anh nuôi múc cháo và bỏ vào đó một tí thịt có thể để dành ngửi như dầu Nhị Thiên Đường chứ không phải để ăn.
Đối tượng được đãi tiệc hôm nay là nhà báo Thép Mới cũng nhận lãnh số cháo và thịt y như mọi thực khách, không hơn không kém.
Phải nghĩ rằng có những người trong tiểu ban không được hân hạnh đến dự buổi tiệc này thì mới hiểu được giá trị của bát cháo thịt. Có người húp cháo “nguyên chất” để tìm lại hương vị của nó ngày xưa ở vỉa hè SàiGòn hoa lệ hay thời đi học ăn sáng: bát cháo gà có rau ghém bắp chuối. Nhưng có những người cho rằng ăn như thế là phí. Nên trộn cơm nhà bếp vào mà lua. Như vậy cũng vẫn biết mùi cháo đồng thời no bụng hơn là húp cháo rồi ăn cơm hai phần rời ra.
Hình như không ai nghĩ đến việc phát biểu cảm tưởng đối với cuộc từ giã của đồng chí mình. Nó không có ý nghĩa như cuộc sang Tần mạo hiểm của Kinh Kha, nhưng kể ra nó cũng nguy hiểm lắm.
Đồng chí Thép Mới nhà mình vào đây chưa quá ba tháng nhưng vì là Bêka nên Bộ Chỉ huy (toàn là dân Ba kê) ưu đãi đặc biệt. Lệ thường nhà văn nhà báo của R đi công tác thì cứ đi như dân thường, không có cần vụ bảo vệ gì cả, nhưng Thép Mới đi thì có “gạc-đờ-co” và bây giờ trở về Hà Nội thì ba-lô của đồng chí đầy những vải vóc đồng hồ, bút máy và các thứ xa xỉ phẩm khác của Bộ tặng hoặc các đồng chí ấy nhờ mang về cho gia đình ở ngoài xứ mạt rệp Bắc Kỳ.
Không phải một ba lô mà cả chục. Một tiểu độ giải phóng quân, mỗi người đeo một ba lô đầy ém. Đó cũng là công tác cách mạng chớ sao. Những thứ này được nhân viên công tác thành mua ngoài Sài Gòn chuyển vô đây qua đường dây cách mạng đấy ạ. Nhìn đồng chí Thép Mới đi, tay chống gậy, lưng còng xuống vì chiếc ba lô quá nặng, anh em xì xầm với nhau: “nhà báo bị gậy thật vinh quang.”
(Có lẽ vì chuyên công tác chí công vô tư này mà sau này trung ương không tín nhiệm Thép Mới nên đã xách chóp hai tên Hồng Hà và Hà Đăng qua đầu y vứt vào Ban Chấp Hành Trung ương đó chăng?)
Tư Mô không đến dự buổi tiệc bi đát này. Thấy tôi cầm chén không trở về, anh hỏi:
- Xong rồi hả?
- Xong rồi!
- Lo ba cái lương khô để sửa soạn hạ san! – Tư Mô bảo – Vô đây coi bản đồ để thấy đường đi.
- Ở đâu mà anh có ?
- Ở đâu có thì thôi, không nên hỏi.
Đi trên đường Trường Sơn, giao liên bảo đi đâu đi đó, bảo đứng thì đứng, bảo nằm thì nằm, không hề biết thắc mắc cũng không hề hỏi đi đâu, bữa nay là lần đầu tiên tôi được xem tấm bản đồ lớn có rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt. Anh trải dưới đất. Mới nhìn vào tôi tối tăm mày mặt, phải nhờ anh chỉ mới dần cảm nhận ra.
- Đây là vùng Tam Biên. Đây là những buôn của dân tộc ít người. Chú phải đi qua các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, băng qua sông Đồng Nai Thượng hai lần mới tới Đồng Nai Hạ, vượt qua một dãy núi tới suối Mã Đà. Mã Đà Sơn Cước anh hùng tận là ở đây ! Nó nằm ở giữa tỉnh Long Khánh và Phước Long. Dân Nam Kỳ mình bò tới đây là kiệt sức, chỉ còn lết chớ đi hết nổi. Nhiều người nằm luôn tại đây. Nghỉ dưỡng sức ở đây rồi lại phải băng qua sông Bé thuộc tỉnh Bình Long lội qua sông Sài Gòn đi hết bề ngang của tỉnh Tây Ninh. Đây là Kà Tum. Đây là Cầu Cần Đăng. Lúc chú về ngang chiếc cầu còn đó không?
- Sập rồi.
- Hiện mình đang ở đây, trên xứ con Mên. Hễ có động tịnh là vọt vô sâu nữa.
Tôi nhìn lại con đường mà ớn cho cặp giò. Vậy mà vẫn lội suốt.
- Bây giờ mình phải đi dọc sông Vàm Cỏ Đông. Có lẽ phải qua cả Vàm Cỏ Tây nữa. Lội băng hai tỉnh Kiến Phong Kiến Tường tức là Đồng Tháp Mười, qua Mỹ Tho rồi mới đến tỉnh mình. Còn cả chục con sông phải qua, vài ba khúc lộ Đông Dương phải vượt.
- Tôi tưởng về đến R coi như là tới nhà chớ!
- Chưa đâu chú em. Còn lội tóe phở ra đấy. Coi trên bản đồ thì chẳng mấy gang tay nhưng ngoài thực địa thì vạn lý trường chinh. Mấy cậu đi miền Trung miền Tây về nói lại, găng lắm, không có dễ như hồi kháng chiến trước đâu. Đi rồi sẽ biết. Bây giờ thì phải chuẩn bị cặp giò. Ở Trường Sơn thì núi đá tai mèo, mang dép cao su leo được, nhưng ở đây dép cao su thọc xuống là dính luôn. Ở Đồng Chó Ngáp, biết không? Củi tràm lục dưới bùn đâm thủng gan bàn chân.
Tôi ngán ngẩm vô cùng. Đường về quả là khó khăn.. Đến đây chỉ mới nửa đường. Nhưng chẳng lẽ lại không về. Không về thì vượt Trường Sơn làm cái gì ? Bao nhiêu người bỏ mạng trên đỉnh Trường Sơn, bên bờ suối Mã Đà, giữa dòng sông Bé cũng là vì một chữ “nhà” – Về Nhà – chứ nào có phải vì lý tưởng giải phóng giải phiếc gì. Ngoài ra còn có một lý do khác, chán ngán ê ẩm cái xã hội chủ nghĩa quái gở. Có phải vậy không? Ba trăm ngàn hồi chánh viên trong đó có trên một trăm ngàn người Bắc, còn lại là dân Nam Kỳ tập kết hoặc dân giải phóng Nam Kỳ tại gốc – ngày nay sống rải rác khắp trong nước và ở nước ngoài, hãy xác nhận điều tôi nói. Riêng tôi tôi đã chán đến cùng cực cái xã hội mọi rợ do một lũ ngố dựng lên. Ai về được sẵn sàng về, như thoát địa ngục, ai không về được thì ráng ở lại chờ. Chẳng có quyến luyến chút nào với cái gọi là xã hội chủ nghĩa.
Một hôm tôi nằm buồn bèn đi theo một cậu thanh niên lao động đến địa điểm của tiểu ban Văn Nghệ để tìm sách đọc. Sách đây là sách “phản động Sài Gòn.” Người có “trách nhiệm” mới được quyền mó tới nhưng vì trong lúc loạn lạc, cái kho sách chẳng còn ai trông nom nên mạnh ai nấy tìm đọc. Trước khi tôi về, tiểu ban Văn Nghệ R đã bị một trận B52. Khi tôi về đến R thì được biết ông Trần Hữu Trang, thường được gọi là bác Tư Trang, chủ tịch hội Văn Nghệ Giải Phóng, ủy viên trung ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ đã chết trong trận bom B52 đầu tiên. Ngoài ra còn có bảy người khác gồm diễn viên hạng bét ở Sài Gòn chui ra rừng và một soạn giả cải lương ở miền Bắc về: Ngọc Cung. Tôi quen anh ta hồi kháng chiến chống Pháp, ở Bắc không viết được vở nào khả dĩ diễn được trên sân khấu lớn, nhưng không hiểu sao Hà Nội cho anh về để chết vô lối như vậy. Về đến R, lội luôn một mạch đến nhà ở tận Bạc Liêu gặp vợ con cha mẹ. Gia đình buôn vàng ở thị xã Bạc Liêu, giàu lắm. Anh được tiếp tế cả chục lượng vàng, giắt lưng lội trở về R để nghỉ ngơi, sáng tác gởi ra Hà Nội nhưng chưa kịp xài tí vàng cũng chưa viết được vở nào thì bị B52. Thanh Loan, Thanh Hùng và Ngọc Lan là những người sống sót trong trận B52 kể trên nên tôi được gặp mặt, còn Bảy Thinh và những người khác thì chết đã lâu nhưng tên tuổi được giấu rất kín. Ngay cả vợ con ngoài thành hỏi tin tức thì R chỉ trả lời rằng các anh ấy đi công tác ở tỉnh, nhưng tỉnh nào thì không chịu nói ra. Ai mà khống biết cái kiểu ấm ớ của tụi đầu bò.
Bây giờ ngồi viết lại những chuyện xưa (hai mươi tám năm qua, ít ỏi gì) tôi thấy những người chết hồi đó quả thật khỏe hơn là đồng đội của họ bây giờ. Chết đi, khỏi phải trông thấy những cảnh hỗn man mọi rợ của Sài Gòn đỏ, cái Sài Gòn tươi vui phồn thịnh đã nuôi họ lớn đã tạo cho họ tiếng hát để cuối cùng bị họ phản bội. Họ chết đi để khỏi phải nhìn thấy đào kép bây giờ xơ xác trơ trụi khốn nạn bần cùng đi hát với cái bụng lép với cái đầu đội mão nhà Hồ nặng cụp cổ. Họ chết đi để khỏi phải ân hận thấy rằng mình đã ngu dại đi tìm cái mà mình đã có thừa trong tay nhưng đã quăng đi để tìm cái không. Họ chết đi để khỏi phải trông thấy những đồng nghiệp tài ba của họ rụi dần và không có mầm non nào mọc lên dưới sự cai quản của lũ xạo ke gọi là đảng ủy và công đoàn. Họ chết đi để khỏi bị dân Sài Gòn chửi vào mặt, như đã chửi vào mặt một tên nào đó ăn cơm quốc gia thờ ma Việt Cộng bằng mấy câu thơ tuyệt vời:

“Thằng nhạc sĩ vàng

Ôm cây đàn đỏ
Âm nhạc từ đó
Trở thành màu cam. ”
Màu cam là sự pha trộn đỏ với vàng. Màu cam là màu chết người. Thằng nhạc sĩ vàng là thằng nào? Bảy Thinh, Tư Trang, Ngọc Lan, Thanh Hùng hay thằng nào khác mà bài thơ không chỉ trán ra? Họ chết đi là họ đã tránh được cái địa ngục chính họ góp công sức và tiếng hát xây đựng và ca ngợi. Đời cô Lựu xưa hãy còn đẹp gấp vạn lần đời các cô Lựu ở Sài Gòn ngày nay.
Ngày nay nếu lão Tư Trang còn sống ắt là sẽ được đám đầu bò Hà Nội quăng cho cục xương giò bò để đền ơn đã ra công vận động nhiều nghệ sĩ hạng bét Sài Gòn tham gia Mặt Trận Giải Phóng của một tên lưu manh mang tiền án nhơ nhớp chưa rửa sạch.
Tôi theo chân cậu thanh niên đến vùng bom B52 cũ bên đất Tây Ninh để tìm sách đọc giải sầu.
Cậu thanh niên miền Bắc giải thích:
- Chỗ mình ở hiện nay là đất Miên anh ạ.
- Đất Miên ?
- Vâng. Sau khi bị B52 cơ quan mình vượt biên giới.
- Làm bừa như vậy tụi Miên nó không nói gì sao?
- Họ thấy mình có súng họ chạy bỏ bố chớ nói gì !
Tôi gặn hỏi:
- Nhưng làm sao cậu biết rằng mình đã vượt biên giới?
- Em nghe ở trên nói vậy thì hay vậy, chớ có biết biên giới là cái gì.
Tôi không thấy dấu vết gì có thể gọi là ranh mức cả: một lạch nước hoặc một làn cỏ khô nằm giữa một vạc đất trống cũng không.
Nhưng tôi hiểu sự đào tẩu sang đất Miên dù chỉ cách đất Việt non cây số là sinh lộ. B52 của Mỹ nó biết tôn trọng luật quốc tế còn “chúng ta” dùng cái sai để đáp lại cái đúng. Cộng sản luôn luôn như thế. Chúng sống để làm bậy và bịp người. Và không bao giờ dám công nhận lỗi lầm.
Vùng đất bị B52 nay đã hồi sinh. Cành cây đã nảy tược, những lỗ bom đang cạn dần. Tôi hỏi cậu thanh niên:
- Các đồng chí mình nằm ở đâu?
- Dạ, rải rác mỗi người một nơi.
- Em vô đây hồi nào? Đột nhiên tôi hỏi ngoặc lại để tìm hiểu thêm.
Cậu thanh niên đáp:
- Em vừa đút đầu vô vài bữa thì bị.
- Bom tới vào buổi sáng hay buổi chiều?
Cậu bé đứng hẳn bên một gốc cây bị vết đạn gãy cúp như một cánh tay xụi và nói:
- Thường thường nó đến buổi sáng. Mỗi buổi sáng đều có vài vụ ở chung quanh mình. Lúc đó anh em trong cơ quan bàn rằng nó đánh các cơ quan khác quan trọng hơn như Bộ Chỉ Huy, Cục Tham Mưu và Mặt Trận, còn mình là văn hóa chẳng quan trọng gì nên nó không cần đánh. Thế nhưng đùng một cái nó đánh, cho nên không trở tay kịp. Em đang nấu cơm sáng. Lúc đó chừng chín giờ Bỗng nghe rầm rầm rầm. Em đâu có biết là tiếng gì. Nếu bom thì phải có máy bay tới, nhưng em không nghe tiếng động cơ. Chỉ nghe tiếng bom nổ, mà nổ hằng loạt như liên thinh. Em lăn xuống đất. Rồi bò bạt mạng.
- Không có hầm à?
- Có chứ, nhưng đâu còn nhớ đầu đít gì. Nếu có ai hỏi mình tên gì cũng không nhớ nữa là ! Em co mình phóng vào gốc cây. Cây run như bão, đất lắc như sàng gạo còn miểng đạn thì rít như sáo thổi anh ạ. Dứt loạt đầu em lóp ngóp bò dậy không thấy gì hết. Khói đen nghịt và lửa cháy từng cụm, em không còn nhớ lều của ai ở đâu nữa vì tất cả cây cối đều gãy cụp xuống hết.
- Nó bỏ trúng ngay trân à?
- Chứ còn gì nữa anh ! Trúng ngay cơ quan ! Chẳng những thế lại trúng ngay đầu não. Bác Tư chết ở loạt đầu và ngay trong hầm. Cậu bé nuốt ực và kể tiếp – Lúc đó em nghe văng vẳng tiếng chú Sáu Lăng kêu: Bác Tư bị thương các đồng chí ơi ! Bác Tư bị thương.
- Chỉ một mình bác Tư thôi à?
- Cả chục người chứ đâu một mình được anh. Em định chạy tới coi sự thể ra làm sao. Nhưng em vừa đứng dậy thì lại té ngửa ra rồi rầm rầm rầm.
- Nó tới nữa à ?
- Vâng, nó tới nữa. Nó tới đợt thứ hai.
- Ác thế!
- Chỉ cách nhau chưa tới năm phút. Anh Cung chết ở đợt này. Còn chú Tư Siêng thì bị đất lấp. Cũng may nó chỉ bỏ có hai đợt. Nếu nó thêm đọt nữa chắc tiểu ban không còn người nào.
Tôi viết đến đây thì chiến tranh mặt đất bắt đầu diễn ra ở Kuwait. Tôi có dịp xem sự tàn phá của B52. Đứng ngoài vòng nguy hiểm để xem sự nguy hiểm thì còn thích thú nào bằng. Lửa cháy như biển. Một chiếc B52 qua, một loạt bom rắc như trấu vẫy. Sinh mạng con người dưới cánh B52 quả là mong manh hơn mạng con kiến.
Không gì chịu nổi với B52. Nhưng quân Iraq thì có thì giờ đào hầm hố và đúc bê tông công sự để cố thủ hoặc có pháo phòng không để chống trả. Hơn nữa khi cần di động thì chúng có xe thiết giáp. Còn cái gọi là tiểu ban Văn Nghệ và các cơ quan R không có gì hết. Ban đêm thì nằm phình bụng hứng còn ban ngày thì dùng đầu để đội như cầu thủ đội banh da. Trên thế giới này không có ai tàn nhẫn bằng bọn lãnh đạo Hà Nội. Chúng ở trong dinh thự hưởng lạc, xua đám thanh niên miền Bắc ngây thơ đi giải phóng miền Nam và đốt đít bọn Nam Kỳ nhẹ dạ cả tin Trung ương thừa thắng xông lên chơi với Mỹ để sau này lãnh thêm một cái huy hiệu Thành Đồng Tổ Quốc.
(Khi kết thúc cuộc chiến tranh ăn cướp, dân Nam Kỳ lãnh khúc xương không có tí thịt để cạp chơi đỡ buồn).
Cậu bé thanh niên lao động này vượt Trường Sơn bốn tháng vào đến tiểu ban Văn Nghệ lãnh chức hỏa đầu quân và chết hụt B52. Cậu ta nói tiếp:
- Chúng em phải moi đất kéo chú Tư Siêng lên. Chú vừa thở dốc vừa nhìn cái cây bên miệng hầm bị xén đứt ngọt vừa hổn hển nói: “Trời cứu tôi.”
Cậu thanh niên trỏ cho tôi cái mả của Bác Tư Trang, cái mả của Ngọc Cung, của Bảy Thinh và mấy cái nữa. Mấy mô đất nằm không có hàng lối gì, cũng không gần nhau… Bởi vì khi chôn còn tùy địa hình địa vật. Chỗ nào đất mềm mới đào huyệt được, theo cậu bé nói. Đâu có ai ngó ngàng gì. Vì chúng nằm bên Tây Ninh. Về bên đây lơ mơ lại ăn phát nữa.
Đột nhiên tôi hỏi:
- Chỗ mình đang đứng đây là đâu, tên gì ?
Cậu bé đáp vừa đủ cho tôi nghe:
- Tà Nốt ! Cậu ta ngập ngừng một lúc rồi nói – Đây là sát biên giới Miên. Nếu mình nhảy một cái qua là đất Miên rồi. Đây là Tà Nốt. Còn chỗ mình đang ở là “phum” gì đó cháu quên rồi. “Phum, sóc” là làng người Miên. Tà Nốt đâu phải là tiếng Việt Nam. Có lẽ đất Tây Ninh ở vùng này trước đây thuộc về Cam Bốt.
Những địa danh khác cũng nghe như tiếng Miên: Kà Tum, Lò Gò, Trảng Bàng, Củ Chi, Nàng Rà, Chà Ruột…
Cậu bé bảo tôi:
- Chú có lấy sách vở gì thì lấy mau đi rồi về ! Vừa nói nó vừa trỏ tôi cái hầm.
Tôi chui xuống và moi tất cả vứt lên mặt đất. Một số ướt ẩm, một số bị mối ăn.
Mặc kệ, tôi liếc những tên sách báo rồi tìm một tấm ni-lông rách túm lại tất cả quảy lên vai.
Thằng bé nói:
- Chờ cháu một chút.
- Để làm gì ?
- Cháu cắm mấy cái bia.
Lúc ra đi tôi thấy nó xách hai ba tấm gỗ bó vào nhau. Tôi không hiểu nó dùng để làm gì. Té ra đó là những tấm bia. Nó đi sang đây công tác đặc biệt chứ không phải chỉ xung phong dắt tôi đi lấy báo.
- Chú Sáu Lăng bảo đem cắm mấy cái bia cho bác Tư, ông Bảy Thinh và ông Ngọc Cung.
- Ừ thì cắm nhanh nhanh đi rồi về.
- Nhưng cháu không biết bác Tư nằm đâu còn hai ông kia nằm đâu.
Tôi hơi cáu:
- Sao hồi nãy nói rõ vậy ?
- Chú Sáu Lăng có dặn cái mả cao nhất là mả bác Tư nhưng bây giờ cả ba cái đều tụt thấp bằng nhau cả, cháu không biết cái nào là của bác Tư.
- Thôi vác bia về để kỳ sau hỏi cho kỹ rồi hãy đem cắm. Chẳng lẽ bia ông này lại cắm mả ông kia.
Thằng bé bảo:
- Cháu ớn đi qua bên này lắm. Cháu không dám đi nữa đâu. Chú coi đó toàn là mồ mả, hố bom giữa hoang tàn, không có một bóng người.
Tôi thông cảm với thằng bé:
- Vậy thì làm sao?
- Thôi cháu cứ cắm đại, bia nào mộ nào cũng được chớ sao !
- Làm như vậy tủi vong linh người chết quá cháu ạ !
Thằng bé đáp ngay, không suy nghĩ:
- Nếu tủi vong linh thì những đồng đội của cháu chết dọc Trường Sơn tủi hơn nhiều. Họ chết có được chôn cất gì đâu ! Toàn dập, lòi cả tay chân nói chi đến mộ bia. Thằng bé nói vậy rồi dựng mấy thanh gỗ vào một gốc cây – Thôi để kỳ sau…
Chúng tôi trở về trên vết mòn cũ. Thiệt là hãn hữu. Bất ngờ tôi có một tủ sách con con để giải sầu.
Tư Mô thấy tôi về thì mừng rỡ:
- Chú đọc hết mớ sách báo đó thì mình đi là vừa.
- Anh có viết cho những tờ báo này lúc ở Sài Gòn không?
Tư Mô soạn qua và đáp:
- Tôi có viết cho mấy tờ thôi.
- Anh thấy những tờ văn nghệ Sài Gòn so với tờ Văn Nghệ Hà Nội thì sao?
- Ai có trí thức nấy chú ơi.
- Vậy cũng tốt chứ sao ? Mình có lý luận phủ nhận công trình của người ta thì người ta cũng có lý luận phủ nhận công trình của mình. Anh viết truyện ngắn hay gì ?
- Truyện ngắn. Ý mà thôi bỏ đi chú ơi ! Tôi khổ vì ba cái truyện ngắn đó.
- Viết là khổ chứ sao !
- Không phải thế đâu. Khổ công sáng tạo nói làm chi ! – Tư Mô ngó quanh, không thấy có ai nên tiếp – Khổ này là khổ ngồi còng lưng kiểm thảo. Người ta kiểm thảo tôi ba ngày ba đêm về tư tưởng sáng tác đó chú ạ !
- Con mẹ gì lắm thế?
- Ác lắm. Tôi chỉ nhận sai lầm thôi; còn sửa chữa thì không cần thiết.
- Tại sao vậy?
- Vì tôi không định viết cái gì nữa hết.
- Thì đó cũng lại là sai lầm. Hì hì. Tiểu ban có mấy ngoe, anh không viết thì ai viết.
- Có thiếu gì !
Tôi trải sách báo ra một vệt nắng tròn tròn méo méo mà phơi. Tôi gỡ ra từng trang rời cho mau khô. Tôi tự chế diễu mình: Một thứ Cống Quỳnh phơi sách nhưng không có bà công chúa nào đi ngang qua để xin “đá bèo” một phát.
Trong tiểu ban có một anh ban rất dễ thương. Đó là nhà văn Thủy Thủ, thân hình gầy nhom, tay chân lòng khòng. Đã vậy lúc nào cũng mặc quần cụt và áo bà ba ngắn tay không cài cúc để hở cái cổ cao nhòng và bộ ngực lép như tấm các-tông. Anh có giọng nói khàn khàn. Thủy Thủ thân với Tư Mô nên đến chơi luôn. Do đó gặp tôi ở trong lều với Tư Mô. Thủy Thủ hay nói chuyện trời mây mưa nắng chứ không nói chuyện Sài Gòn (sợ các đồng chí nghi là còn dính đáng với chế độ cũ!) cũng không nói chuyện rừng rú hoặc xã nghĩa, vì không biết nhiều. Anh là một thủy thủ – từng sống trên đại dương… hơn trên đất liền. Tôi có nghe anh em nói anh làm chủ bút tập san Hải Quân Sài Gòn. Ngoài ra tôi còn biết anh qua truyện ngắn “Chiếc Guốc Xinh Xinh” đăng trên báo văn học Hà Nội, là cơ quan cuối cùng của tôi trước khi tôi đi B.
Thủy Thủ lận lưng một gói “chè” Chính Xuân. Anh đưa cho Tư Mô và nói:
- Của anh Sáu Lăng cho tôi.
Sáu Lăng, cũng như anh em, trên răng dưới dế, có cái gì khác đâu Anh đặc biệt chú ý đến Thủy Thủ như một người bạn lầm đường biết ăn năn hối ngộ, và với Tư Mô là đồng chí bị kỷ luật đảng (một cách oan uổng hay không oan uổng) và đang buồn rầu. Có lần đi hội nghị ở đâu “trên,” anh giấu đem về được một tí rượu Mao Đài Tửu trán đít chai để tặng Tư Mô, cái thứ rượu thừa của các ông bà thủ trưởng vô sản, nhưng rất quí với đám cắc ké này.
Tư Mô luôn luôn nhắc lại tấm ân tình nồng mặn đó. (Ngay cả lúc xuống Bến Tre với tôi, hai đứa chạy vắt giò lên cổ, anh cũng vẫn nhắc cái hớp rượu Mao Đài).
Tư Mô nhóm lửa nấu nước và bộ ba ông táo uống trà khan. Tư Mô khen:
- Ngoài Bắc chỉ có trà Chính Xuân là uống được thôi. Nó đậm đà, pha nhiều nước vẫn còn cốt. Còn các thứ khác như Hoa Nhài, Ba Đình thì không bằng.
Tôi nói:
- Tôi không phải là chuyên gia uống trà, nhưng xin cho anh biết Chính Xuân là trà hạng bét miền Bắc ta đấy !
- Còn trà nào hạng nhất?
- Anh đoán thử coi ! Thiết Quan Âm Kỳ Chưởng của Chợ Lớn, Vũ Di Sơn, Trảm Mã Trà của Tàu không sánh nổi đâu.
Tư Mô ngẩn ngơ:
- Có thể là tôi chưa biết.
Tôi nói:
- Đó là trà “cau khô”.
- “Trà cao” à? Trà nấu thành “cao?”
- Không!”Cau,” trái cau của mấy bà cụ ăn trầu.
- Rồi làm sao thành trà?
Tôi điềm nhiên nói :
- Trà khó mua lắm. Cán bộ và dân ghiền phải treo mõm chờ đầu tháng để mua một gói. Lúc lên cơn ghiền thì đi quán uống trà cau khô. Nói tắt một cái là chủ quán phơi xác trà rồi tẩm với nước cau khô đem sấy. Châm nước vào rót ra cũng nước nâu nâu, uống thì chát chát nhưng không có bao nhiêu vị trà. Tụi quán này tìm được sáng kiến đó nên làm được khối tiền.
Tư Mô hỏi:
- Khách vẫn uống à?
- Không có chất chát nào khác thì đành chịu uống nước cau khô thôi.
Tư Mô nghe tôi nói thế lắc đầu ngồi im.
Tôi rót cho anh và Thủy Thủ mỗi người một cốc và nói:
- Đây không phải là nước cau khô đâu. Uống đi cho bổ khỏe.
Tư Mô bỗng bật qua rượu:
- Tại sao quốc doanh ta lại cho rượu Đồng Tháp cái màu bao nhang như vậy chú?
- Tôi đâu có hiểu được anh !
- Nó giống như xi-rô gờ-rờ-nát-din trong này chớ không phải rượu. Hơn nữa nó ngọt quá đi. Uống gắt cổ tưởng như ăn chè.
- Anh uống hồi nào mà anh biết rõ vậy?
- Hôm nọ thằng gì ở bên Tuyên Huấn gởi cho tiểu ban nửa chai. Sáu Lăng đưa tôi nếm thử để phê phán !
- Rồi anh phê phán làm sao? .
-Trước mặt vài ba người khác, tôi đành phải né. Tôi nói nó ngon như Anis của Pháp nhưng phải cái màu đỏ bao nhang, nhà quê quá ! Giống như Marie Sến trong văn học vậy.
Không muốn để cho đồng nghiệp Thủy Thủ nghe nhiều chuyện miền Bắc nên tôi quay sang “Chiếc guốc xinh xinh”. Tôi hỏi một câu đáng lý ra là một nhà văn không nên, nhưng tôi muốn biết câu chuyện chứa đựng bao nhiêu sự thực hay chỉ là một sự tưởng tượng hoàn toàn.
- Anh viết “Chiếc guốc xinh xinh” trong trường hợp nào?
- Tôi viết ngay ở đây, trong cái lều của tôi kia kìa.
Tư Mô nhắp hớp trà rồi nói:
- Chú nó muốn hỏi anh là chuyện đó có “baser sur une vérité” (căn cứ trên sự thực) hay chỉ sáng tạo ?
Thủy Thủ cười:
- Chắc anh cũng tưởng tượng ra được câu trả lời. Nhân vật chính trong truyện là tôi. Tức là một sĩ quan trong cuộc hành quân ở An Hóa ấy mà. Tôi đã dùng một chiếc guốc có cái gót nhọn đập đầu tên chỉ huy trưởng cuộc hành quân và chạy sang hàng ngũ cách mạng. Ở tại mặt trận đang nổ súng, có viên chỉ huy trưởng nào để cho sĩ quan thuộc cấp đánh mình trước mặt ba quân như vậy không? Càng lạ lùng hơn nữa là viên sĩ quan vẫn chạy thoát và…
- Và bây giờ ngồi chong ngóc ở đây uống trà Chính Xuân. – Tôi nói tiếp – Và nghe cán bộ miền Bắc kể chuyện uống trà cau khô !
Cả ba cùng cười, Tư MÔ nói:
- Chú ấy hỏi cho vui vậy thôi, chớ ai không biết đó chỉ là sự tưởng tượng quá phong phú của tác giả.
Thủy Thủ cười khoe hàm răng trên vàng ệnh khói thuốc.
Cuộc uống trà chỉ xoay quanh năm mẩu chuyện vặt. Rồi trà nhạt, chuyện cũng nhạt theo. Sắp sửa tan hàng, bỗng tôi sực nhớ câu chuyện cắm mộ bia cho bác Tư Trang. Biết rằng cả hai người Thủy Thủ lẫn Tư Mô đều là những kẻ sống sót Sau vụ B52, nên tôi hỏi thẳng Tư Mô
- Bác Tư bị thương ở đâu anh Tư?
- Ở đầu và cổ.
- Nặng không?
- Nặng chớ. Anh Sáu Lăng kêu y tá. Nhưng tiểu ban đâu có y tá y tướng gì. Chỉ có chị Hai Lý (tức vợ anh Lý Văn Sâm) giữ một mớ kí-nin và thuốc đỏ thôi. Ngoài ra khi ốm đau thì mỗi người là y tá của chính mình. Kêu khản cổ chẳng có ma nào chạy tới. Nhưng nếu có thì cũng không kịp.
- Tại sao vậy ?
- Chú ơi ! Bị một trận rồi mới biết B52 là ma quỷ. Nó rải thảm một loạt rồi chú thấy trời đất đều thay đổi, không biết đường nào mà đi. Chân tay như xụi lơ, đầu óc trống rỗng không còn hoạt động và suy nghĩ gì nữa. Nhưng chỉ trong vòng ba, bốn phút là đợt hai lại tới. Tất cả lại thụt xuống hầm chớ làm sao mà băng bó. Nhưng băng bó cũng vô ích vì bác đã chết rồi .
- Không có trối trăn gì à?
- Bác chết trên tay Sáu Lăng. Sáu Lăng bảo bác không có nói gì hết. Ngáp ngáp rồi đi xuôi.
- Còn Ngọc Cung?
- Ngọc Cung chết ở đợt hai.
- Nghĩa là…
- Hồi sau đợt một Ngọc Cung chỉ bị sụp hầm nên bò sang hầm Bảy Thinh. Do đó mà chết cả hầm sáu, bảy người – Chậc! Tư Mô ngồi thừ ra một hồi rồi tiếp – Con người có cái số hay sao đẩy chú ạ! Nếu nó không bò sang hầm Bảy Thinh thì nó đã không chết.
- Tại sao ảnh lại bò sang đó?
- Đã bảo là hầm của nó bị sụp mà ! – Tư Mô lại ngồi thừ ra, không giấu được sự xúc động. – Mấy người chui trong hầm chữ L là cái hầm lớn nhất của tiểu ban đều văng mất hết. Sau đợt hai, anh em đi nhặt nhạnh. Bảy Thinh còn sót có cái đầu, nhờ mớ tóc xám tro mà anh em nhận ra. Còn Ngọc Cưng thì anh em chỉ nhặt được có cánh tay đeo đồng hồ. Lạ thay người chết mà cái đồng hồ vẫn chạy. Cái đồng hồ vàng của vợ mới mua cho. Chỉ có bác Tư là còn nguyên xác thôi.
- Rồi chôn cất làm sao?
- Chịp ! Điêu đứng, hoang tàn và khốn nạn lắm chú ơi. Ở trong nhà chỉ có một người chết là tang gia đã bối rối lắm rồi. Đằng này sáu, bảy người. ủa… đâu phải sáu, bảy mà…
Thủy Thủ tiếp:
- Mười một người anh ạ !
- Mười một người chết một lúc, chôn một lúc. Và “tang gia” không có món gì hết ngoài chiếc cuốc cùn. May sao còn được món binh khí đó. Nếu không thì phải đào huyệt bằng răng. Ba lô ba liếc bay mất hết, võng màn lều trại không còn chút nào. Anh em đi quơ được miếng ni-lông, mảnh võng nào đem đắp điếm chứ không đủ gói ghém đâu. Cứ để nguyên xác vậy cho xuống huyệt rồi lấp đất. Chôn xong mười một cái xác là đến nửa đêm. Chưa kịp đắp nấm đã phải dời cơ quan. Vì sợ sáng mai nó chơi phát nữa là rụng hết tiểu ban. Thằng yếu hóa ra ốm, thằng mạnh thì dật dờ như sắp chết. Cả một lũ khật khừ kéo nhau đi giữa đêm tối. Đâu có biết đường hướng gì. Cứ nhắm chừng mà vượt biên giới, qua đất Miên để lánh nạn. Cũng may nó không vượt biên ẩu cho nên mình mới tìm ra chỗ bắc cái bếp nấu lon nước uống. Nếu nó đuổi theo thì chẳng biết chạy đi đâu. Chịp! Chú biết không, tôi nằm ở giữa hai hố bom chú ạ. Nếu thằng phi công “bấm nút” sớm hoặc muộn một cái nháy mắt thì tôi văng xương rồi. Chú có nghĩ rằng có trên một trăm trái bom rơi xuống khu vực tiểu ban mình không?
- Một trăm ? . .
- Sợ còn hơn. Số chết tôi vừa kể là người của tiểu ban Văn Nghệ thôi, còn các bộ phận khác thì không tính. Có một cặp vợ chồng ôm nhau mà chết. Đó là một cặp đào kép trẻ mới tập sự. Hai đứa yêu nhau nhưng tổ chức lại ngăn cản. Sợ rằng cô đào mang bầu thì không lên sân khấu được ngoại trừ một nhân vật trong kịch có bầu. Chúng nó vẫn kiên trì yêu nhau… Hôm đó có lẽ chúng chui chung một hầm để có dịp tâm sự hoặc hôn nhau. Đúng vậy, khi bom dứt anh em đào lên, thấy cô trong tay cậu. Không vết tích gì hết nhưng chết tươi. Sức ép của không khí làm đôi tim ngưng đập. Hai đứa nó sẽ yêu nhau trên thiên đàng.
- Mặc dù hết sức bối rối, anh em vẫn làm hô hấp nhân tạo cả mấy tiếng đồng hồ, nhưng tim vẫn không đập trở lại. Có lẽ mạch máu nào đó bị đứt. Trái bom nổ cách có ba thước tây.
- Có ai làm thơ về cái chết đó không?
- Ở đó mà thơ. Thơ văn ở đâu chớ ngay trong tiểu ban Văn Nghệ thì lại không.
—>Chương 8


- 8 -

Thủy Thủ đi về lều. Còn nửa gói giao lại cho Tư Mô để ngày mai lại hội nghị bàn trà. Trời ngả hẳn sang chiều. Nắng làm khô những cuốn sách và những tờ báo. Tôi khao khát được đọc báo Sài Gòn xem sinh hoạt văn học trong này ra sao.
Tôi hỏi Tư Mô:
- Tờ nào anh thích nhất?
- Chú cứ đọc đi rồi tôi sẽ trả lời sau.
Tôi mắc màn chui vô nằm kỹ vì sợ lúc mê đọc muỗi đòn xóc chích không hay mà mang khốn. Tôi để một chồng báo và một mớ sách dưới đất ngay đầu võng còn một xấp thì ôm trên mình, như vậy khi đọc hết thì sẵn đó với tay lấy khỏi phải đi đâu mất hứng. Khởi đầu bằng các tờ tạp chí. Tôi dở từng tờ thì thấy mấy truyện ngắn của các nhà văn Liên Xô chống đối Stalin. Như truyện Bàn Tay của nhà văn Kuzenetsov. Anh ta mô tả Stalin với bàn tay đẫm máu, loại truyện ẩn dụ không phải tả chân. Đọc xong tôi dở tìm những bài khác. Bất ngờ tôi gặp bài nói chuyện của Trường Chinh (lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên bài và tờ báo nào đã đăng nó). Nhưng sau này khi về Sài Gòn thì tôi biết đó là do Vũ Hạnh từ khu mang về. Tôi đọc lại cả bài thì thấy gần nguyên văn bài nói chuyện của Trường Chinh mà tôi nghe và sau này đăng trên báo Hà Nội. Lần đó, sau đại hội văn nghệ toàn quốc đè bẹp Nhân Văn Giai Phẩm, ông ta lên lớp toàn thể văn nghệ sĩ Hà Nội. Tất cả là chín điểm. Dài lắm. Cho nên nói không kịp giờ, phải dời văn nghệ sĩ đến Câu Lạc Bộ Quân Nhân ở trong sân Cột Cờ. Câu- lạc bộ nhỏ quá không đủ chỗ chứa cho nên một nửa ngồi bên trong, một nửa đứng ngoài sân cỏ. Tôi là cái thằng không bao giờ chịu đọc hết một bài báo Nhân Dân, bất cứ bài gì và của ai viết trừ bài của ông vua xét lại Khơ Rút Sốp (có bài dài cả ba trang báo nhưng đọc vẫn khoái). Từ 1958 trở đi tôi có ý nghĩ tờ Nhân Dân là tờ báo Ngu Dân nhất thế giới, nói bậy nói bạ, nói ẩu nói tả, nói láo nói toét, không có một bài nào đàng hoàng, ngay cả một mẩu tin sản xuất của Hợp Tác Xã. Các báo Cộng Sản phụ họa cái đường lối đó. Nhân dịp câu lạc bộ không có chỗ ngồi, nên tôi ra ngoài sân cùng với cả trăm người khác một cách hợp pháp. Nghe ông diễn giả nói đâu tới điểm thứ năm gì đó thì tôi ngủ khò. Nằm trên cỏ xanh êm như nệm lại có gió thổi lai rai, tội gì không ngủ. Khi giật mình thức dậy thì tôi nghe lan man được một câu – đến bây giờ vẫn còn nhớ – Câu đó như thế này:
- Ở nước ta thì có nhà văn Tô Hoài chú ý tới lời ăn tiếng nói của quần chúng.
Thế là tôi ghi trong trí câu nói ấy. Tất cả chín điểm của ông nói mất tám tiếng đồng hồ, còn sót lại trong tôi có mấy chữ đó. Bây giờ có cả bài in trên báo Sài Gòn, tôi có thừa thì giờ đọc nhưng tôi cũng không đọc. Tôi tìm các báo khác. Tôi có đọc một truyện ngắn của Thế Uyên, không nhớ là truyện gì trong đó có câu: “Những tên cộng sản cuồng tín”. Câu này không làm tôi phản ứng gì cả. Tuy vậy vẫn còn nhớ tới bây giờ: “cộng sản cuồng tín!” Đúng quá !
Sau đó tôi đọc “Loan mắt nhung” một cách say sưa. Vì lâu nay không đọc loại truyện có nhiều “chất mặn” như vậy. Đúng ra là thời kỳ còn đi học thì có đọc lén các sách của Pháp như Paris Magazine, Sous Les Tilleuls, v.v.. Rồi đi kháng chiến thì đọc báo sách toàn là căm thù giết Tây. Có thể nói chồng báo sách Sài Gòn đã cho tôi thấy hai con đường văn học khác nhau giữa Hà Nội và Sài Gòn. Hà Nội thì quá nhiều thứ cấm kỵ còn Sài Gòn thì chẳng cấm kỵ gì cả. Tôi cũng không nghĩ là một ngày nào đó tôi sẽ viết như nhà văn Sài Gòn, nhưng có một thời tôi mơ ước được làm nhà văn viết như Tam Lang , Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân – mô tả những cảnh khốn cùng, những cảnh chơi bời, những cảnh éo le của cuộc đời. Đó là khoảng 1956, khi tôi từ trong Nam mới ra Hà Nội. Tôi thấy sao người viết văn ở đây bị gò bó quá xá. Hở ra một cái là lập trường. Nhất là trong Cải Cách Ruộng Đất thì lập trường càng phải được giương cao lên như một thứ quốc hồn. Nhưng nhìn quanh tôi những nhà văn tên tuổi, có ai viết được một quyển nào về Cải Cách Ruộng Đất đâu !
Tôi chỉ đọc có một quyển “Mười năm” của Tô Hoài. Anh nghe tôi than thở:“Không viết được” thì cầm quyển sách tới tận cái ga-ra bần hèn của tôi – (ở chung với Nguyễn Quang Sáng) ngay bên cạnh một cái cầu tiêu thùng – mà cho tận tay rồi lại còn rủ tôi đi đến chợ Hàng Da ăn bít-tếch và uống rượu vang nữa. Nhưng tôi chỉ uống rượu chớ không ăn, nại cớ là đã ăn cơm rồi, kỳ thực thì bụng nghĩ giá miếng bít tếch năm đồng (tôi lãnh lương có đâu ba chục đồng) thì nhiều quá, ăn rồi biết bao giờ mới mời lại anh được?
Anh khuyên tôi cố gắng nhớ lại chuyện kháng chiến và quan sát chuyện bây giờ… Tôi nhận lời cả, nhưng cứ nao nao tâm trí thế nào ấy, vẫn cứ không viết được. Và ý nghĩ về Sài Gòn ngủ dưới gầm cầu để viết những chuyện trong đó có gã Gavroche, có cô Colette như Victor Hugo hay những chuyện đi hát lang thang trong Sans Famille của Hector Malot, chứ ở đây thì suốt đời chắc chắn không viết được, nên đã có ý định giang hồ lang bạt chứ không thích cuộc sống bình thường. Do đó tôi lên Ủy Ban Quốc Tế xin về Nam để viết… Nhưng chuyện bất thành, như đã kể trên.
Bây giờ tôi lại được thấy “đồng nghiệp” ở Sài Gòn viết những gì mà mình từng mong ước nhưng quả tình là chưa có ý định về Sài Gòn. Vì ít ra mình cũng đã ra khỏi miền Bắc bó buộc, về Nam thì có không khí mới mẻ của chiến tranh chống Mỹ, nào Ấp Bắc, nào Đồng Xoài, nào Địa Đạo Củ Chi, nào anh hùng diệt Mỹ. Do đó ý định xưa của tôi bị loãng đi, hầu như bị vùi lấp. Tuy vậy không chết hẳn !
Tối hôm đó, nhân có một cuộc diễn tập một vở kịch nói của Nguyễn Vũ, tức là ca sĩ Ngô Y Linh trước kia từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Tôi muốn đi xem cho biết. Đây là vở kịch thứ tư của nhà soạn kịch này. Ở Hà Nội, Nguyễn Vũ có vài vở diễn ở Nhà Hát Tây được ở trên khen mạnh. Đó là những vở mô tả phong trào học sinh chống đối chánh quyền ở Sài Gòn. Tôi có đi xem nhưng không đến màn cuối. Tôi thấy nó không đúng. Tác giả bịa ẩu quá! Cũng kiểu như vở Giáo Sư Hoàng của Bửu Tiên. Tôi được vé mời mấy lần mới đi xem, nhưng cũng chỉ xem nửa chừng. (Cái lối của Hà Nội là ở Sài Gòn cái gì cũng tệ hết cả, kể cả lương tâm). Tôi đi học, có nhiều thầy và giáo sư có bằng cấp cao, tôi tin chắc giới trí thức không ngông cuồng như thế, nếu có thì không phải là bản chất mà là hiện tượng, không phải phổ thông mà chỉ là đặc thù gì đó (theo như lý luận của các ông giáo sư Chính trị Hà Nội).
Buổi diễn tập này tôi lại cũng không xem được, vì ông ta cũng phịa ẩu như ở Hà Nội, bất chấp thực tế. Tôi lại gặp Thuần, thằng bạn Hà Nội. Hắn làm Phó giám đốc Đại Học Nhân Dân ở Thái Hà ấp. Trường này tọa lạc trong khuôn viên của Phó vương Hoàng Cao Khải do ông Nguyễn Văn Trấn làm giám đốc, một cái trường đại học gần Khâm Thiên, như một cái ổ cô đầu, dùng để làm mọi việc ngoại trừ đào tạo sinh viên thành tài.
Thuần chán cái chức Phó Giám Đốc trường Đại Học Nhân Dân này vì thực chất không có ai học cả. Nó như một cái nhà chứa. Cơ quan nào cần họp đại hội thì đến mượn hội trường. Chính cuộc đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm đã xảy ra ở cái trường Đại Học Nhân Dân này.
May mắn không hiểu ở trên nghĩ thế nào mà ông Phó Giám Đốc được cho đi học Triết học ở Liên Xô. Hắn đi hồi nào quả tình tôi không hay, nếu có thì sẽ nhờ hắn mua giùm cái quạt máy tai voi để dùng dỗ giấc ngủ vào mùa hè. Bù lại tôi sẽ gởi cho hắn vài chai nước mắm. Khi tôi sắp về Nam thì lại gặp hắn ở Hà Nội. Hắn cho tôi biết cũng sẽ đi Nam cùng với Bùi Thanh Khiết sau này về làm trưởng phòng Chính Trị mà tôi sẽ có dịp nói đến trong hồi ký “Củ Chi Đất Thép Thành Bùn” của tôi.
Khi vào Trường Sơn, đến trạm năm, hay sáu gì đó thì lại gặp Thuần. Bấy giờ hắn làm bí thư riêng cho ông đại tướng Mặt Sắt. Ông đại tướng giấu mặt nhưng nhờ hắn mà tôi biết được. Lần đó hắn cho tôi cả một hộp sữa Con Chim Nestlé thứ thiệt. Ối giào ! Phải là một thằng như thế nào và thân với tôi đến mức nào mới có thể làm cái nghĩa cử vĩ đại đó. Rồi hai đứa chia tay. Không rõ hắn đi đường nào nhưng bây giờ gặp lại thì thấy hắn tốt tươi như hoa xuân trong vườn xuân vậy.
- Mày lò mò tới định làm rể cho bà Thanh Loan hả?
- Bậy hoài ! Thằng nào muốn làm suôi với tao thì làm chớ tao chịu làm rể cho ai mậy!
- Mày có con trai hay con gái ?
- Con trai con gái có đủ, nhưng con trai lớn hơn.
Hắn lớn hơn tôi vài tuổi. Thế mà con đã lớn ngần ấy, còn tôi “vợ còn chưa có, có chi con!” Rõ buồn. Bây giờ tôi mới thấy thích thú thay là cái sự có con. Cứ xách xe chạy rong hết yêu lại yêu, yêu từ Hà Nội yêu vô tận trường đi B, yêu vô tận Trường Sơn rồi bây giờ chả con ma nào bên cạnh cả.
- Tao đem thằng con gởi cho chị Ba Thanh Loan đây chớ.
- Mày móc nó vô hả?
- Chớ sao ! Cha Việt Cộng, con Quốc Gia sao được !
Hai thằng kiếm chỗ mắc võng, nhưng nằm một chập, hắn gợi ý:
- Mày có chỗ nào nhậu không?
- Có!
- Vậy thì đi ! – Để tôi yên tâm hắn nói ngay – Tao có rượu, thịt, cà phê, thuốc lá đủ hết. Kiếm chỗ nào yếm yếm hai đứa làm một bữa. Tao biết qua đây là gặp mày nên chuẩn bị sẵn hết.
Nói xong hắn đi một chốc rồi trở lại với chiếc xe đạp.
Tôi kêu lên:
- Mày làm chúa tể rồi !
- Vợ tao nó gởi vô đấy !
Tôi nhìn chiếc xe Peugeot mà trầm trồ:
- Phải còn ở Hà Nội tha hồ mà “nhỡn” với các em.
Thuần cười :
- Thứ này trong Nam là đồ bỏ. Tao nói cho vợ tao nghe về tình trạng xe đạp ở Hà Nội. Tao kể cho nàng nghe luôn chuyện một ông giám đốc gởi thơ về nhà ở Sài Gòn qua đường Pháp, chỉ xin gia đình cái khung xe đạp thôi. Vợ tao hỡi ơi. Nàng không dám hỏi “xã hội chủ nghĩa gì nghèo vậy anh?” Nhưng tao đọc trong đầu nàng một trăm câu. -Nào, nhảy lên cho anh đội “lái” về nhà! – Thuần pha trò – Rồi về nhà mời anh đội uống tí “nước”… ! Bộ sợ hư xe hả. Peugeot chắc lắm, đừng lo !
Thuần gò lưng đạp đi.
Tôi cũng pha trò trở lại:
- Độ này anh đội còn khỏe không ạ? Vừa gặp “chị đội” có công tác tốt không?
- Tốt chứ! Hí hí! Cả chục năm tích trữ lực lượng chẳng lẽ lại thua à?
- Ba ván liền không bỏ ván nào hả?
- Ôi giào, anh đội khỏe như vâm ấy. Ban đêm không đủ, tranh thủ cả ban ngày.
- Rồi chị đội về à?
- Ở trong này muỗi mòng chịu sao thấu. Ẻn gốc “đ. chĩa” mà.
- Chị ấy có rù rì câu gì mất lập trường không?
- Ẻn thì rầu lắm. Còn thằng con tao thì nó gặp tao nó không mừng chút nào. Nó nói với má nó rằng tao không giống ba nó mới thấy mẹ chớ! Đã vậy, một hôm nó hỏi tao: “Ba ơi ba! Việt Cộng là thằng nào hả ba? Sao hổm rày con không thấy ? ” Tao vừa tức cười vừa tức giận, quát: “Là thằng cha mày đây nè!” Nó nói: “Ở trường, tụi con nghe nói: Việt Cộng, ba thằng đeo một tàu đu đủ không rụng.”
Hai đứa cười vang rừng. Chiếc xe bất ngờ sụp xuống một cái ổ gà nhưng Thuần đạp rướn lên. Tôi nói:
- Trường hợp của mày còn có chỗ chế, vì trẻ con chẳng biết gì. Mày đi hồi nó mới bốn, năm tuổi. Ở nhà nó lớn lên không có cha bên cạnh lại bi Ngô Đình Diệm nhồi nhét hai tiếng Việt Cộng vào đầu cho nên nó không thể tưởng tượng một thằng lèm nhèm lùi xùi như mày lại có thể là bố nó. Để tao kể cho mày nghe trường hợp thằng cháu vợ của Lê Đức Thọ. Mày biết Nguyễn Văn Cung trưởng ty Công An Bạc Liêu thời chống Pháp không?
Thuần nói:
- Hắn đeo đít ông em vợ ủy viên Bộ Chính Trị nên được lãnh chức trưởng Sở Du Lịch Hà Nội rồi về Nam được đi bằng máy bay không phải lội Trường Sơn như mày.
- Như mày nữa chớ ?
- Ý tao thì khác mày đa nghe !
- Nói vậy mày đi trên mây hả?
- Không biết chừng! Rồi sao nữa?
- Thằng chả có thằng con trai tên là Chu Dung Chu Vương gì đó. Ở tại Sài Gòn nó ăn chơi khét tiếng và mần ký giả nữa. Ông già nó về, kêu nó vô khu nó không vô. Ổng phải nhờ chú ruột nó gọi tiếp nó mới vô.
- Tại sao bố không có quyền bằng chú?
- Tại vì chú nó có công dạy nó nuôi nó từ bé ! Ngoài ra chú nó còn là giáo sư triết học đi Liên Xô như mày. Nó vô bị chú nó chỉnh một keo nặng lắm. Nó ngồi im không nói gì. Chú nó tưởng thằng cháu thấm bài bèn lấy bài thơ“Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi” của Tố Hữu ra đọc cho nó nghe và giải thích cho nó theo kiểu triết học. Đại khái là: “Phút thiêng liêng anh gọi Bác ba lần” và “lũ giết thuê và lũ viết thuê. “ Y nói là lính Sài Gòn và các ông nhà báo Sài Gòn là một lũ “viết thuê.” Đến đây thì không còn nhịn ông chú được nữa, ông cháu bèn hỏi:
- Chú nói ai là “lũ viết thuê ? “
- Là tụi báo biếc Sài Gòn.
Ông cháu cười nhạt:
- Chú đã lần nào gặp “tụi” đó chưa mà biết họ “viết thuê” ?
- Chưa gặp nhưng chú biết chúng nó chỉ viết theo lệnh đồng tiền và bọn chánh quyền.
- Cháu xin lỗi chú, cháu cũng là nhà báo đây, nhưng chưa bao giờ cháu viết theo lệnh đồng tiền và lệnh chánh quyền cả. Cháu hoàn toàn làm chủ ngòi hút của cháu. Ngược lại cháu thấy các nhà báo Hà Nội toàn viết theo lệnh chánh quyền.
- Sao cháu biết?
- Cháu có đọc báo Hà Nội khá nhiều. Toàn là một khuôn. Chỉ có Nhân Văn Giai Phẩm là khác thôi.
Ông chú bí lý, ngồi im. Ông cháu tấn công tới tấp:
- Cháu nghe ba cháu nói là nước mình độc lập dân chủ nên má cháu ở nhà nuôi cháu và em cháu để ba cháu đi kháng chiến. Khi hòa bình lập lại, cháu cũng muốn tập kết với ba cháu nhưng má cháu không cho đi vì cháu là con trai duy nhất. Cháu tưởng là miền Bắc có dân chủ thật sự, nhưng khi hành nghề ký giả, cháu tìm hiểu nền báo chí và văn học miền Bắc để so sánh với báo chí và văn học miền Nam đặc biệt là Sài Gòn. Càng tìm hiểu, cháu càng thất vọng. Qua các báo Nhân Dân, Độc Lập, Lao Động, Văn Học, Tạp Chí Nghiên Cứu Văn Học và một số truyện, bút ký của Hà Nội, cháu có thể thấy ngay miền Bắc không có tự do, bất cứ tự do gì. Còn như ông Tố Hữu viết cái câu thơ “viết thuê” là viết ẩu.
Ông chú trợn ngược và nhảy dựng lên:
- Mày nói thật đấy chứ?
- Vâng, đây là cháu nói với một sự chính xác và nghiêm túc tối đa. Cháu có thể đặt giả thuyết: Nếu tất cả các báo đều xóa tên của mình chỉ đề tên báo Nhân Dân thì cũng được, bởi vì báo nào cũng nói giống y báo Nhân Dân, gần như “báo cóp.” Còn truyện và ký, nếu xóa hết tên tác giả chỉ để một ông X hoặc Y nào đó đứng tên giùm tất cả cũng cứ được, vì ngòi bút không có sắc thái, không có cá tính riêng mà chỉ có một lập trường.
Ông chú ngồi ngẩn tò te. Cuộc “tranh luận” giữa chú, cháu chấm dứt. Đường ai nấy đi. Sáng hôm sau ông cháu cắp nón ra về. Mày biết ông chú đó là ai không?
- Ai?
- Ổng ở bên tổ huấn học của Ban Tuyên Huấn Miền Nam.
Thuần đạp một mạch tới nơi “tư thất” của tôi và Tư Mô, thì hạ trại. Tư Mô thấy chiếc xe Peugeot còn mới mà trầy trụa, bùn đất dính đầy thì lắc đầu. Tôi liền giới thiệu thằng bạn:
- Đây là ông Phó Giám Đốc trường Đại Học lớn nhất Hà Nội nhưng không có ông bà học trò nào cả, đồng thời là một nhà triết học suýt đỗ bằng Phó Tiến Sĩ… Còn đây là ông Tư Mô dân ghiền có “bài nhì” của tiểu ban Văn Nghệ nhưng vì không có nước cay nên không vươn lên “bài nhứt” được. Bữa nay ông Phó Tiến Sĩ hụt sẽ đãi ông ghiền bằng một hộp thịt Mỹ, một chai rượu Tây, một gói cà phê Lèo, một chai mắm bò hóc Miên và một hộp sữa Sài Gòn v.v…
- Cơm chiều với mấy cục thịt dọc dai nhách, nuốt không vô, xót ruột chưa biết phải cải thiện sinh hoạt bằng cách nào đây, chẳng ngờ ông bạn mang bằng ấy chiến lợi phẩm tới thết chúng tôi quả thật là nhờ hồng phúc của Sáu Lăng đại đế.
- Đại rượu đế!
Bếp núc nổi lửa rào rào. Rượu khui một cách êm ái. Tránh mọi tiếng động có thể quến những ông khách không mời mà đến, những ông vô ngại tướng quân, và những ông hay đi rảo qua các lều vào những buổi chiều ăn cơm “hẽo” như thế này.
Tư Mô vừa khui hộp thịt vừa nói với tôi:
- Chú Hai sẽ thấy một cục thịt nạc heo bằng chiếc gối đệm trong cái hộp này.
- Sao anh biết ?
- Ở Sài Gòn tôi ăn hoài mà. Nhưng nhậu thì đây không phải là món hấp dẫn.
- Kệ nó, dù sao cũng hơn rắn mối và cua đá.
Anh nói:
- Chỉ nên ăn một phần ba, còn hai phần ba để đành ngày mai chớ! Ông bạn ở lại chơi mình lấy gì đãi?
Chai rượu tây hiệu gì tôi không còn nhớ nhưng ngon lắm, lạ lắm. Tư Mô đem nó pha với rượu đế để khỏi xa xỉ. Nhậu xong thì uống cà phê. Cà phê xong đến trà. Vì có khách đặc biệt nên tôi lẫn anh Tư đều đồng ý không mời Thủy Thủ. Tuy nhiên, theo điệu nghệ “bài nhì” chúng tôi long trọng quyết định sẽ để dành cho ông bạn vàng một cục thịt khả dĩ chi dụng trong một bữa cơm, ngoài ra sẽ đãi ông một chén cà phê sữa pha theo kiểu nhà nghề và một điếu thuốc Pall Mall.
Thuần nói với tôi:
- Tao tìm mày để nhậu bữa nay vì tao sắp đi với “ổng” xuống Củ Chi đất thép không biết chừng nào về và không biết có về được không. Ngoài ra tao muốn gởi thằng nhỏ cho mày trông coi giùm. Má nó không cho nó đi nhưng tao sợ để nó ở ngoài rồi nhiễm ba cái văn hóa Sài Gòn. Sau này khó uốn nắn theo cách mạng dữ lắm.
Tôi hỏi:
- Sao mày không để nó ở “bển” có phải tốt không? Ở đó toàn là tướng tá gương mẫu cho thằng bé noi theo, còn trong cái tiểu ban Văn Nghệ này chú bác của nó bê bối lắm, làm sao mà dạy dỗ nó cho được?
Thuần nói:
- Nó bảo nếu để nó ở bển nó sẽ đi về với má nó. Tao nghe nói văn công của chị Ba có lắm chất tươi cho nên muốn gởi nó ở đó. Chị Ba đang cần người mặt mày sáng sủa để làm diễn viên, chắc nó nhảy cóc nhảy nhái giúp cho chỉ cũng được.
Tôi cười :
- Nhưng mà chuột sa hũ nếp, ở đó có mấy cô đào non Việt kiều, coi chừng nó bị hớp hồn đó nghe mày.
Thuận lắc:
- Dòm ngó cho vui thì được nhưng đi sâu hơn nữa ắt không xong. Má nó ở nhà đã lựa chỗ làm suôi rồi. Con nhỏ kia có cho nó hình. Coi cũng khá lắm. Tao nghĩ cũng kỳ, bỗng nhiên mình có dâu. Giống in như trời cho.
- Tao thấy mầy khỏe rồi đó. Dầu sao cũng lấy vốn.
- Vụ con “ba lê” của mày tới đâu rồi ?
Tư Mô cười:
- Phải nói là “ba lết” mới đúng.
Tôi cũng cười và phụ họa:
- Chắc là phải “lết” thôi. Nhưng bà bầu Thanh Loan canh kỹ quá. Tao không muốn ra đó.
- Cô “ba lê” tôi gặp ở dọc đường đó anh Tư.
- Anh đội leo núi mệt ứ hơi mà lại còn đèo em út. Vô tới đây chắc em không ngó tới anh nữa phải không? Công anh xúc cá nuôi cò, nuôi cho cò lớn cò dò lên cây.
Tư Mô lắc đầu:
- Không phải vậy đâu ông bạn. Vấn đề lại quay ngược.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là cô ta đeo mà cậu chàng muốn gỡ. Vì nghe đâu có một cô ở ngoài Hà Nội sắp vô.
Thuần cười :
- Tôi biết vụ đó anh Tư à. Tôi có bằng chứng đây này! Thuần vỗ vô túi áo. Tôi đem tin cô nàng qua cho chú Hai nó đây. Cái thư gởi đi từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 330. Biết đâu nàng đang trên đường vào. Chú mày biết không? Tôi vào đến đây. – Thuần đưa tay che miệng – mất có sáu ngày kể từ khi gặp chú ở trạm năm. Đó là trạm đặc biệt cho loại cóc nhái như tao. Còn anh Sáu thì chỉ mất có hai ngày.
- Tin gì ?
- Để nhậu xong sẽ biết !
- Đi mất sáu ngày mà là cóc nhái, còn tao mất trên ba tháng thì là cái gì ? Là ruồi muỗi chắc.
Tư Mô cắt ngang:
- Rượu này khá quá đó ông bạn. Chắc uống xong gân cốt sẽ chuyển răng rắc như dây giăng võng vậy. Ở bên Liên Xô có bán thứ này không?
Thuần lắc:
- Không có đâu. Toàn là Volka. Muốn có rượu Pháp, ý, thì phải vô tiệm rượu đặc biệt.
- Lại cũng quốc tế mậu dịch như ở Hà Nội à?
- Không phải có phiếu nhưng phải có xu cho nhiều. Một chai Cognac, Champague của Pháp giá gấp ba Cognac Champagne của Liên Xô.
- Tại sao vậy?
- Tại uống Champagne Pháp đã hơn. Uống vô một ly là nhớ người yêu phương xa ngay.
- Người yêu phương xa thì nhớ còn người yêu phương gần thì sao ?
- Cái vụ đó thì khỏi phải nói rồi. Con gái ở bên xứ bạn “đại chúng và khoa học ” lắm. Tụi nó không có phong kiến như con gái xứ mình. Mày rủ nó đi chơi là nó đi ngay.
- Đi đâu?
- Vô rừng thông, đi bãi biển, đi hái nho.
- Đi hái nho chớ không phải hái lá nho nghe chú Hai ? – Tư Mô chen vô.
- Mấy vụ này thì ông Hoàng Cò nhà mình tương đối rành.
Thuần hỏi:
- Ổng có gần đây không? Hú ông lại chơi ! Cái giò què của ổng khỏe lại chưa?
- Ổng đi đón con ổng vô. Thằng nhỏ cũng mười lăm, mười sáu tuổi gì đó.
Thuần uống một hớp buông chén và nói:
- Mong rằng nó không hỏi bố nó: Việt Cộng là thằng nào như con tôi hỏi tôi. Thuần quay sang Tư Mô – Anh Tư được mấy cháu?
- Nhờ trời tôi được bốn đứa. Ba trai một gái.
- Chỉ ở ngoải làm nghề gì để sống?
- Bán bánh bò ở nhà lồng chợ Bến Tre.
- Trời đất !
- Đứa con gái và thằng con trai lớn của tôi ở với cô đặng đi học vì vợ tôi không nuôi nổi.
- Nó học trường Sài Gòn thì đố khỏi nó nói “Việt Cộng ba thằng đeo tàu đu đủ cho coi.”
- Thì cũng đành thôi chớ biết làm sao bây giờ ông bạn. Đến vợ tôi còn không hiểu nổi “tại sao anh cứ đi hoài” và “anh đi làm gì ?” nữa mà, huống hồ con nít.
- Hồi kháng chiến trước anh ở đâu?
- Mấy năm đầu thì ở tại xứ, sau ngày Một On chiếm, chạy xuống miền Tây. Hòa bình về thành bị tù. Tù ra có người móc, nhảy vô khu. Tóm lại từ ngày có vợ có con tôi chỉ ở trong gia đình chừng vài tháng. Còn bao nhiêu thì đi mần cách mạng.
- Thì tôi cũng như anh vậy. Từ năm 1946 tới giờ có đụng vợ được mấy lần đâu.
Tôi xen vào:
- Sao bả vô mày không bắt ở lại lâu lâu mà thả bả về mau vậy?
- Bắt sao được mà bắt. Ở trong này bom đạn bất ngờ. Rủi chết chùm cả đám làm sao? Bả còn muốn lôi tao về thành nữa đó mày ơi ! Đây là tao chỉ nói riêng với mày và anh Tư. Đừng để ông Tổ Chức hay được là tao mất chức “bí” đấy.
- Mấy vẫn còn làm “bí” cho “ổng” à?
- Còn chớ. Ngoài vụ đó ra tao có mần được cái gì.
- Bí nhứt hay bí nhì ?
- Chỉ một mình tao thôi.
- Vậy là bí nhứt. Nhút bí !… Ba cái triết học ở Lomonossov, mày đã kho tương hết chưa?
- Chưa. Còn chờ nấu canh Xiêm Lo với mắm bò hóc !
- Sao không ráng học chút nữa lấy cái bằng Phó Tiến sĩ Triết học mà về đút đầu vô rừng mần chi ?
- Thì tao cũng tính vậy nhưng mấy chả kêu về đi giải phóng Miền Nam. Đúng ra tao cũng chán ngấy học hành rồi. Học cái gì kỳ vậy mà học năm sáu năm trời. Tao thấy nó chẳng ăn nhập gì với nước mình cả: Duy vật biện chứng pháp xài vô cái ngả nào trong khi dân ăn toàn mắm cáy? – Thuần rút thuốc hút và tiếp – Tao chuẩn bị làm luận án Phó Tiến sĩ.
- Viết về vấn đề gì đó ông bạn ? Tư Mô hỏi.
Chủ nghĩa Mác và vấn đề tôn giáo Việt Nam.
Tôi kêu lên:
- Mày muốn làm Phó Tổng bí thư theo sát đồng chí Trường Chinh chắc ! Ổng thì làm một phát “Chủ nghĩa Mác và vân đề văn hóa” còn mày thì “Chủ nghĩa Mác với vấn đề tôn giáo Việt Nam. “
Tư Mô nói:
- Vấn đề của ông bạn đây hóc búa hơn vấn đề của đồng chí Trường Chinh nhiều. Tôn giáo Việt Nam rất phong phú nhưng cũng rất phức tạp.
- Tôi cũng biết vậy nhưng loay hoay mãi chẳng tìm ra đề tài nào. Lại nữa, mình phải chọn đề tài mà mấy ông thầy đọc phải điếc con ráy, mấy ổng không mò ra thì mấy ổng phải chịu thua mình và cho mình năm điểm cộng. Còn nếu mình chọn đề tài dễ xơi như “Chủ nghĩa Mác và kinh tế Việt Nam”thì mấy ổng thừa biết kinh tế của mình là cái cày chìa vôi và xếp hàng rồng rắn mua đồ thì làm sao mình hù mấy ổng được. Tôi chọn đề tài đó là cao tay đó chớ anh ! Hì hì. Nhưng khi tôi gởi cái dự thảo về cho anh Bảy Trấn xem thì ảnh trả lời: “Vứt sọt rác cho mau! Đừng có mà bêu riếu chủ nghĩa Mác kiểu đó.”
Thuần bật cười khoái trá:
- Cũng may là tôi được ra trường về nước đi giải phóng Miền Nam.
Thấy tôi ngồi đăm chiêu có vẻ nghĩ ngợi, Tư Mô nói:
- Tôn giáo của mình vô số kể ngoài những tôn giáo lớn như Công giáo, Phật giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành v.v.. Còn có các ông đạo Nổi, đạo Liếm, đạo Nằm, đạo Ngồi, đạo Đũa Bếp… ở vùng Thất Sơn Châu Đốc ở trên núi Cấm, núi Tượng, ngoài ra lại còn nhiều đạo khác nữa, mà ông giáo chủ nào cũng được tôn thờ cả.
Tôi nói:
- Điều đó cũng khó luận, nhưng không khó bằng đề cập tới các tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo.
- Tại sao? Thuần hỏi.
- Mày không nhớ hồi đầu kháng chiến à? Tại đất Tây Ninh này, bộ đội của các ông Tô Ký, Hai Bứa đã làm cỏ tín đồ Cao Đài quăng chật giếng các đồn điền cao su, còn bộ đội Miền Tây thì giết vô số tín đồ Hòa Hảo ở các vùng Thất Sơn, Bảy Núi, Ba Dầu, Định Mỹ, Láng Linh v.v…. Đặc biệt ở Láng Linh, Vệ quốc đoàn đã giết hằng trăm tín đồ, đốt phá triệt hạ mấy làng. Cảnh tượng ghê rợn đến đỗi có bài hát đồng dao phỏng theo bài “Nhớ Chiến Khu”của Đỗ Nhuận:

Còn đâu trên Láng Linh khi trời chiều

Bên ngàn chất đống cao ngàn thây chết…
- Chú có đi Láng Linh à? Tư Mô hỏi.
- Có chớ. Hồi 47 tôi đi theo bộ đội tảo thanh vùng đó. Rồi năm 50-51 tôi đi chiến dịch Long Châu Hà I – Long Châu Hà II. Bộ đội mình đã bị tín đồ Hòa Hảo bao vây chạy suýt chết.
Cả Tư Mô lẫn Thuần ngồi im. Tôi nói:
- Tệ nhất là mình đã giết ông Huỳnh Phú Sổ lúc ổng đang làm ủy viên đặc biệt của ủy Ban Kháng Chiến/HC Nam Bộ.
- Chuyện đó cũng chưa ghê gớm.
- Vậy chuyện gì mới ghê gớm ?
- Mầy không biết cụ Hồ giết Dương Bạch Mai bằng thuốc độc của Trần Quốc Hoàn ở tại Quốc hội à?
Tôi làm bộ không biết:
- Không, tao chỉ nghe ổng đau tim.
- Đau gì mà đau. Thôi bỏ qua đi ! Tao mong sao giải phóng cho dân Nam Kỳ về xứ.
- Về con mẹ họ chớ về ! Bỏ xác khắp nước Lèo và Trường Sơn! Còn về được mấy ngoe ?
Buổi nhậu đạt chỉ tiêu năm trăm phần trăm. Nói chuyện khào một lúc, ai leo lên võng nấy. Tư Mô kéo chăn lên tới cổ buông màn và bảo:
- Các chú xổ bầu tâm sự đi nhé. Tôi du tiên đây.
Đêm đã khuya, nhưng tôi không chợp mắt được. Lá thư của Nguyệt làm cho tôi bồi hồi. Tôi nhớ đêm “tái ngộ” trên đỉnh Trường Sơn. Chúng tôi đã xóa hết giận hờn của ngót mười năm và sống những phút vợ chồng trong căn lều của thằng bạn dược sĩ đồng hương tốt bụng. Nguyệt hứa với tôi khi trở về đơn vị sẽ lập tức xin đi B.
Y như lời, bức thư vào trước như một cánh én mùa Xuân.
—>Chương 9


- 9 -

Tôi biết Thuần ở gần mặt trời có nhiều tin hấp dẫn, nên cạch hỏi nó liên miên về tình hình sắp tới. Trước khi “cung khai” nó dặn tôi hãy kín miệng “là cứu nước” năm bảy lần. Tôi cũng hứa với nó năm bảy chục lần rằng tôi sẽ “kín miệng” để cứu nước, nó mới chịu nói như nói chuyện cấm đàn bà và trẻ con dưới hai mươi lăm tuổi.
Trước tiên tôi hỏi nó:
- Mày thấy tình hình giải phóng đã “meo” chưa?
- Meo là sao?
- Là sắp “bưng mâm”
- Chưa đâu ông nội! Đừng có tếu!
- Vậy hồi tao ở trong trường đi B ông Vịnh rồi ông Giáp có đến nói chuyện với tụi tao rằng thì là tình hình miền Nam sắp chín muồi rồi. Rằng thì là các đồng chí về tới trong đó thì tất cả đều khác xa. Vậy là cái nghĩa gì?
- Tao không biết nhưng thấy còn vất vả trăm ngàn mày ơi! Chưa có loé lên một tia sáng tia tối gì đâu. Mấy ổng còn đang lo ba cái vụ Mỹ đổ vô Đà Nẵng, Huế, Sàigòn gì đó.
- Lo là lo thế nào?
- Lo chỉnh huấn bộ đội.
- Chỉnh sao cho lại ba cái B52?
Thuần làm thinh. Tôi biết tôi vừa buông ra một mũi tên độc ác trúng tim đen của thằng bạn nên không hỏi thêm nữa. Gió rừng lao xao. Những chiếc lá rơi rào rào khua động trên rừng. Vài chiếc rơi trên nóc tăng nghe rõ mồn một. Thấy Thuần không nói tì thêm, tôi bèn rẽ sang chuyện khác:
- Mày sang đây để gởi con mày cho Văn Công à?
- Mày thấy còn chỗ nào cho nó trú ngụ không?
- Tao đâu có biết. Mày đến hỏi thử xem. Tao chẳng có quyền hạn gì với ai cả. Mày biết tính của tao không có muốn chỉ huy ai và không muốn ai chỉ huy mình. Nhưng mà mày gởi nó ở đó để học cái gì?
Thuần thở dài:
- Tao đâu có định cho nó học cái gì. Ở ngoài Sàigòn nó gần thi Tú Tài rồi, nhưng tao sợ nó thi rớt bị bắt đi học sĩ quan thì nguy lắm. Thằng con giết thằng tía mà không biết! Cho nên tao đưa nó vô đây để hai cha con gần gũi nhau, vậy thôi chớ ở trong này có cái gì mà học?
- Ừ đúng đó, mày có biết là con gái vô đây là hỏng bét hết không?
- Làm gì tao không biết. Ở bên Bộ Chỉ Huy toàn là con gái mấy ông lớn nhưng hư thì cũng cứ hư. Đám con gái đánh máy cho Lê Đức Anh và Hai Bứa, Ba Sinh, Ba Thắng, Chín Hô quá trời quá đất, không ai can nổi.
- Chúng làm gì?
- Còn làm cái gì nữa! Kể ra cũng bị mấy cha lớn bày chuyện cho chúng nó cả. Chính mấy chả không nên thân nên con nít bắt chước. Kể cả ông tướng Mặt Sắt nữa. Tao ớn lắm! Một là ớn B52, hai là ớn mấy chả.
Tôi hỏi:
- Chúng mày ở đâu cớ chứ?
- Mày không biết thật à?
- Tao từ ngày chui vô đây không có đi đâu ra khỏi cái “Bầu Lùng Tung” này. Biết cái gì mà biết?
- Chỗ tụi tao ở là Tà Bon. Nói phức ra cho rồi. Ở đó có động tịnh gì thì các chả có đường sinh lộ: vọt ngay sang Minốt bên xứ Thổ uống rượu thuốc không đau lưng.
- Minốt là cái giống gì?
- Là đồn điền cao su có sân bay. Các cha ở ngoải vô toàn là đi máy bay. Tao đeo vè xe hơi ông tướng Mặt Sắt được một đoạn. Ờ, trong chuyến đó có con nhỏ ba-lê của mày. Coi được lắm! Nhưng tao đâu có dám bỏ ngón vì nó là của mày mà.
- Đếch gì! Ở đời muôn sự của chung. Nó vô đây hết là của tao rồi. Chỉ đá lông nheo xa xa thôi không có rờ rẫm được nữa.
- Chuyến đó… ờ phải rồi. Gặp mày ở tại trạm 5, có Văn.Công sư đoàn 330 diễn kịch, rồi ổng hỏi ý kiến của mày chớ gì. Sau đó đoàn tụi tao tách ra. Đi ít hôm nữa là ổng trở về Hà Nội rồi đi máy bay luôn vô Nam Vang. Con Thu cũng đi xe hơi với tụi tao về Hà Nội, nhưng không được trở lại cơ quan và cũng không được liên lạc với gia đình. Kể như nó đã đi rồi. Sau đó lại đi…
- Không biết ổng có giấu con nhỏ trong văn phòng ổng hay không. Chuyện đó có trời biết !
- Ối ! Tao đâu có tính mấy chuyện đó. Nó vô đây là đụng thằng nởm của nó rồi.
- Mày không… gì nữa à?
- Tao có cấy rau muống thì cấy từ ngoài Hà Nội chớ về tới xứ rồi, rau muống đâu có giá nữa.
Tôi quay lại chuyện bên Bộ Chỉ huy:
- Ê! Bêka vô ngập hết rồi hả mậy?
- Thì vậy thôi. Để rồi mày coi, đấm đá thì dân Nam Cờ mình đi đầu, mâm cỗ dọn lên thì Bêka quơ sạch. Tụi mình bơ mỏ chó chứ được cái đếch gì. Mày không thấy hồi tập kết ra Bắc đó sao? Dân Thành Đồng Tổ Quốc hóa ra dân Thành Bùn Xó Hóc, lon gáo người ta mang hết sạch, lơ lơ láo láo đứng dựa gốc cột ngó một hồi rồi về nhà uống trà dảo nuốt hận. Lần này cũng vậy nữa. Bộ Chỉ huy toàn là dân cọc cạch và rau muống không thôi. Trần Văn Chè là dân khu “Nôm” đó nghe cha nội. Đừng có tưởng chả là Nam Cờ mà lầm đau đớn.
- Tao thực sự không hiểu thằng cha đó có ăn chịu gì với Trung ương mà nó lên chức vù vù vậy.
- Mày không biết thật à?
- Không!
- Nó canh gác cho Ba Duẩn đéo đứng mụ Nga ở U Minh. Nó kiếm gái cho Lê Đức Thọ chơi. Nó nịnh Văn Tiến Dũng. Có thế thôi. Bây giờ nó đội Nguyễn Chí Thanh. Chỉ còn thiếu dâng vợ nó…
- Mẹ kiếp! Nó ở khu 8, tao biết rành quá chời ! Nó có đánh đá gì đâu. Chiến công Giồng Dinh Giồng Dứa, Mộc Hóa, La Bang, Pắc Xa Ma, Vàm Nước Trong, Phú Lễ, Bàu Vơi v.v… và những trận khác toàn là của các tay tiểu đoàn trưởng và lính chớ nó có xía vô được phát súng nào. Vậy mà ra Bắc lên trung tướng, hiệu trưởng Lục quân Trần Quốc Tuấn, thứ trưởng Quốc phòng…
- Thói đời thằng nào đội giỏi thằng đó lên lon mau mày ơi ! Ông Bảy Trấn của tao đáng lẽ cũng là Trung tướng mà chẳng được cái mẻ gì hết. Tụi nó tống ổng ra dân, làm “giám cái mòng đóc” đại học.
- Nhưng tụi nó còn cho làm giám đốc đại học Nhân Dân cũng là đỡ lắm. Còn hơn Tư lệnh khu 7 Huỳnh Văn Nghệ chỉ được cho làm trọng tài thổi còi các trận đá bóng Sân Cột Cờ. Còn mày nữa, sao mày lọt sổ đi Liên Xô được vậy hả?
- Mày không biết là tao làm Phó giám đốc trường đại học “không có ai học” đó à? Bởi vậy nên ông Bảy ổng muốn tống tao đi nghỉ mát ở Liên Xô vài năm chơi cho biết mùi bơ sữa nước anh em.
- Qua đó thì bơ sữa đã đành, nhưng có biết mùi các em không?
- Chuyện đó khỏi nói rồi. Dễ cu thôi. Có xu, rủ em đi pic-nic vô rừng là ăn thua ngay, nhưng tụi nó khoa học lắm. Nó bắt thằng nhỏ phải mặc áo giáp như auto blindé, thì nó mới cho vào hang “bắt cọp.”
- Sao kỳ vậy ?
- Nó sợ mang “bị tương lai” chớ sao.
- Mày có để lại cái nào cho các em không?
- Hì hì…
- Tao hỏi chuyện này mày phải nói thật nghe.
- Tao sợ gì mày mà tao phải nói láo mậy?
- Tao nghe nói có một tay to lắm sang đó mò một con nhỏ hầu phòng vốn là đoàn viên Komsomol bị nó la nên Sứ quán mình mất mặt phải xin lỗi. Có không?
- Không có đâu ! Thằng nào ngu mà đi mò tụi đó. Có cần thì cho nó năm, sáu rúp là … nó suốt đêm, Komsômôn sô miếc cái đếch gì ? Có tụi thanh niên mình tin ở lý tưởng nọ kia chớ tụi Liên Xô chẳng tôn thờ cái món đó lắm đâu. Mày ra bãi biển với một em, mày có thể làm vịt Xiêm đạp mái dưới nước được mà.
- Không! Tao nghe nói lão bộ trưởng Phủ Thủ tướng bị em Komsomol la.
- Có thể là thằng chả xui xẻo mò nhằm một cái lập trường cứng rắn.
- Nghe nói con gái anh Ba Duẩn mê thằng cha thầy có không?
- Tao chỉ biết là các ông lớn, ông nào cũng có con học Liên Xô với tiêu chuẩn cao hết cả, chớ không biết vụ đó. Nhưng có biết vụ con ông lớn làm tiền ở bãi biển Krimée.
- Mày “trả thù xứ sở” được mấy lần?
- Nhiều.
- Mày khiển có xuể không?
- Khi ăn khi thua. Nói chung là mấy “ẻn” không chê dân ta lắm.
- En nào cũng trường túc hết cả hả?
- Có em mập có em ốm chớ. Nhưng nói chung là em nào cũng hảo ngọt cả. Ăn và chơi là hai môn các em thích nhất. Mười lăm, mười sáu ít khi nào còn nguyên. Tụi nó thực hành đâu hồi mười bốn tuổi hay sao ấy. Nó có mùi hôi hôi mày ạ. Không phải hôi hám đâu. Cũng không phải là nó ở dơ. Nhưng cái mùi của các em bên đó không có hợp với “khứu vị” của bọn mình.
- Nè ! Mày có biết thằng Lê An không?
- Không. Nhưng có nghe nói. Khi tao qua thì Sứ quán kêu một lũ “ma mới” đến dằn mặt ngay. Ông Kinh đại sứ bảo là chớ có lang bang. Lơ mơ là đóng thùng gởi về nước. Thằng Lê An nhạc sĩ violon chớ gì. Không biết nó làm cách nào lủi vô được Sứ quán Hòa Lan rồi dông về Sài Gòn. Cái thằng! Báo hại tụi sinh viên phải học tập cả tháng.
- Học tập cái gì ?
- Học tập lại lập trường vô sản chớ học tập cái gì.
- Vậy còn các cha Võ Văn Doãn và Lê Vinh Quốc qua học đại học Mác Lê rồi ăn phải bã của ông Trọc Khơ, học xong ở lại thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam bên đó, có học không?
- Tao qua thì cờ tàn rồi, nhưng cũng còn nghe dư âm. Khô rơi đài. Kốt-xi-ghin lên nắm, hai tên xét lại bị bỏ củi heo gởi về Việt Nam. Bây giờ mất tích luôn không thấy tụi đó đâu nữa.
- Vậy chắc đám sinh viên học tập đã đời về vụ đó hả ?
- Cũng vừa phải thôi ! Vì tư tưởng của già Khơ ăn ruồng ác lắm. Ai mà nghe lão nói chuyện cũng mê hết.
- Kể ra xừ lũy cũng có tài chớ hả. Lôi cả cái xác Stalin ra khỏi hồng trường thiêu hủy và đá văng cả bảy ông trong Bộ Chính trị ra khỏi ghế mà y không hề hấn gì cả. Đây rồi tới Mao chủ tịch.
- Ớn nhất là ông nội Bánh Bao này ! Vì lão bụng phệ này ở gần mình và mình ăn chịu với lão quá đậm. Lão ho một phát là mình rởn tóc gáy và quì xuống mà vâng dạ ỏm tỏi. Mày không thấy ông Mai nhà mình chỉ nói lão ta là “Mác xít mít xoài” là bị thưởng một chai nước ngọt, uống chưa hết là dẫy tê như cá lóc bị đập đầu hay sao?
- Không biết bên đó đang diễn cái trò gì mà lúc tao nằm giữa Trường Sơn tao nghe Đài Bắc Kinh nói oang oang Lưu Thiếu Kỳ là tên phản đảng và bị gọt gáy bôi vôi, hả mậy?
- Mình không có thể hiểu được mấy ông to đầu đâu mày ạ. Tao đã ở gần ông Mặt Sắt này khá lâu. Tao thấy ổng có vẻ bí hiểm lắm. Ổng lầm lầm lì lì như thánh con vậy. Ổng vô đây là toàn quyền đó nghe mậy, ổng muốn thay đổi tổ chức như thế nào thì cứ thay, không cần phải thỉnh thị Trung ương – Thuần tiếp – Sắp tới đây có hội nghị to lắm ở bên Bộ Chỉ huy. .
- Ổng ở bên đó hả?
- Thì ở bển chớ ở đâu. Ổng như vua trong cung điện vậy không có ai gặp mặt được, chỉ trừ con vợ thằng Trỗi thôi !
- Thằng Trỗi nào?
- Trời đất! Mày lú lẫn rồi hay sao? Mày quên cả anh hùng của mình à?
Thực tình là tôi đã quên. Hoặc nói theo duy vật biện chứng bá láp là trong tiềm thức của tôi không có ghi cái tên Trôi tên Trỗi này. Bây giờ nghe nhắc, nó mới bật ra. Và nhớ lại. Nguyễn Văn Trỗi mà Đài Phát Thanh Hà Nội đọc là Nguyễn Văn “Trôi” và các nhạc sĩ Hà Nội theo lệnh Tố Hữu đã làm hằng trăm bài hát ca ngợi chớ gì ? Nhà thơ cng thế, làm thơ đăng khắp các báo. Thứ thi sĩ con cóc nhảy ra chưa bao giờ được “hôn tòa soạn” để tòa soạn đăng cho một bài, thì nay có dịp trổ tài thi phú. Vần “ôi” trong chữ “TRÔI” thì dễ gieo dễ đáp quá, nên thơ rất nhiều, báo Văn Nghệ (mà tôi ở trong Bộ Biên tập) đăng không hết. Riêng Tố Hữu thì làm một bài xếp xầm đăng ở báo Nhân Dân có tựa là “Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi ?” trong đó có câu ‘”Phút thiêng liêng anh gọi Bác ba lần. ” (Có những cái mồm ăn mắm ăn muối cười toét với nhau hỏi: Sao không “bốn lần ? “, nói lái theo kiểu Nam Kỳ thì mất hết thiêng liêng). Chế Lan Viên và Xuân Diệu thì tha hồ biểu diễn lập trường thơ của mình.
Thuở đó tôi rất mệt vì phải chạy lăng xăng làm phóng sự nghĩa là đi tìm tài liệu trong “các tầng lớp nhân dân” để viết, nhưng rồi tôi không viết nổi vì xưởng Phim Tài Liệu Hà Nội đã thầu hết cả rồi. Họ làm phóng sự bằng hình ảnh, để chiếu ra liền. Riêng các họa sĩ thì thức đêm để vẽ áp phích… Nguyễn Văn Trôi đứng ngồi nằm đủ ba mươi sáu kiểu khắp Hà Nội, kiểu nào trông thấy cũng tê người hết cả. Đi đâu cũng nghe bàn tán, ở ngã tư, ngã ba, ba ngõ… hẻm nào cũng có hình Nguyễn Văn Trôi. Đùng một cái trên Thông Tấn Xã cải chính “Nguyễn Văn Trỗi.” Trỗi, chớ không phải Trôi. Thế là bỏ mẹ rồi ! Khổ nhất là các nhạc sĩ. Dấu nhạc đồ (gì) không đổi ra (xỏ)  được. Vả lại muốn hát trên đài cho nhân dân nghe, phải có mủ-dích đi kèm, chứ chẳng lẽ cứ la như mãi võ sơn đông? Cho nên cuối cùng không sửa được cứ để “Anh Nguyễn Văn Trôi” nguyên con. Do đó dân Hà Nội vốn chúa dí dỏm và sáng tạo ngôn ngữ, bảo nhau: “Mình ca ngợi ông Trôi anh hùng, trong khi ông Trỗi lại chết bắn! ” Thành ra trớt he .
Nhưng còn một cái tai nạn khác khiến cho tôi không quên ông TRÔI được. Đó là quyển “Sống Như Anh,” một quyển sách độ trăm ngoài trang do Hà Nội in. Hai chữ SỐNG NHƯ màu đen, chữ ANH màu đỏ. Sách này là của một anh chàng làm ở báo Cứu Quốc rất vô danh chuyên nghề viết tin hợp tác xã. Để tống bớt nhân viên đi cho nhẹ tòa soạn, báo này cho anh ta hưởng cái vinh quang đi Nam. Và chó ngáp phải ruồi. Anh ta vớ được “vụ Nguyễn Văn Trỗi” trong cục R. rồi tương lên thành sách, kỳ là Trần Đình Vân. Bản thảo gởi ra Hà Nội, Tố Hữu sướng lắm, xách đi khoe ở Hội Nhà Văn và cho lệnh in hai mươi ngàn bản. (Thơ của Xuân Diệu, Chế Lan Viên chỉ đến sáu ngàn là thượng đỉnh. Chỉ có thơ họ Tố mới in hai mươi ngàn). In xong, họ Tố bảo Hội Nhà Văn họp để hoan nghênh và xé to ra cho có tiếng vang quốc tế! Trước nhất là các ông to bà lớn trong Hội phải viết bài để ca ngợi nghệ thuật và lập trường của ông anh hùng. (Tôi không có ý chế diễu một người đã chết dù chết cách nào đi nữa. Nhưng đây là sự thực. Chính Hà Nội đã làm cho người anh hùng của họ trở nên hài hước. Càng hài hước hơn nữa là đồng bào Sài Gòn ở vùng cầu Trương Minh Giảng đã biết rõ ông anh hùng này. Sau khi về Sài Gòn tôi có tìm hiểu để xem sự thực nằm ở cái lỗ mô: Một là “Ngô Đình Diệm bỏ thuốc độc giết cả ngàn tù ở Phú Lợi.” Tôi đã đến tận nơi hỏi, thì đồng bào ở đây ngơ ngác bảo chẳng biết vụ đó là gì ? Vụ thứ hai là Nguyễn Văn Trỗi đặt bom ở cầu Công Lý để giết Mac Namarra. Vài người bảo không rõ đầu đuôi nhưng bà con trông thấy một kẻ chui vô chuồng gà tưởng là tên ăn trộm gà nên kêu cảnh sát bắt… Rồi ở Hà Nội, tên “ăn trộm gà” lại hóa ra vĩ nhân!)
Tôi xách xe đạp chạy long cả đầu gối đi lạy từng ông từng bà một để mong ông bà viết cho một bài khen dùm quyển “Sống như anh ” của Trần Đình Vân.
Nguyễn Tuân bảo: Đó không phải là nghệ thuật văn chương gì cả mà chỉ là những bài bán, có thể ông Quang Đạm ông Như Phong (hai cây bút trụ cột của báo Nhân Dân) hoặc ông Hoàng Tùng (Việt Nam Thông Tấn Xã) khen thì cứ khen, còn tôi thì… hà hà bận quá!
Còn Tô Hoài chỉ cười nhếch mép: “Tôi chưa có đọc!”
Còn một ông, nhưng ông lại ở xa quá, ông Nguyên Hồng ở mãi nơi miền sơn cước Bắc Giang, nên tôi đành chịu… phoọc-phe. Tôi bèn xoay ra kế khác. Đi đến Thành Đoàn Thanh Niên Lao Động Hà Nội. ông Bí thư (tên gì tôi quên mất, hình như là Vũ Quang) buồn rầu bảo: Trong thanh niên Hà Nội có một luồng chế diễu quyển sách này, chúng tôi đang có chỉ thị dập tắt đây. Tôi hỏi : tại sao chế diễu? Ông Bí thư bảo: Thanh niên kháo với nhau rằng “Sống như anh” thì “chết sướng hơn.” Nghĩa là chết ở pháp trường bỏ vợ trẻ đẹp lại cho ai? Thế nên họ bảo: “Đừng sống như anh ! “
Tôi mất hứng quá, không còn biết cạy gỡ cách nào. Bèn chạy về tòa soạn tìm quyển sách. Đến lúc này tôi vẫn chưa đọc. Tôi chỉ đọc vài trang thì… quả như lời ông Tuân nói.
Tố Hữu cáu lắm, nhưng không làm gì được, đành tự tay viết một bài đăng báo Nhân Dân hay báo Văn Nghệ gì đó tôi không nhớ, hình như báo Nhân Dân thì phải. Rồi báo Văn Nghệ chụp in lại. Thế nhưng sau đó, khi tôi vào tới trong R thì nghe tin tác giả quyển Sống Như Anh được gởi đi Trung Quốc cùng với nhà thơ Thanh Hải và được “ăn cơm với Chủ tịch Mao Trạch Đông.”
Do đó bây giờ nằm ở R tôi làm sao quên được “Nguyễn Văn Trôi.” Tôi kể một mạch những sự việc trên cho Thuần nghe, và hỏi lại:
- Mày gặp bà anh hùng ở bên hả?
- Ừ!
- Bả có giống trong hình không?
- Hình nào ?
- Hình trong quyển sách Sống Như Anh !
- Tao đâu có thấy mặt mũi quyển đó, nhưng cô nàng xinh lắm. Còn trẻ ghê. Tên là Quyên.
- Tội nghiệp !
- Ông Sáu Vi cưng cô ta lắm… lắ…ắm hắc… hắc !
- Cưng thế nào? Như con hay như chá… áu?
- Cái thằng! Mày muốn đứt đầu hả?… Thằng Thép Mới muốn qua gặp cô ấy nhưng ông Sáu không cho gặp. Bảo cô còn buồn, không ai được phỏng… cô ta. Nếu ổng vô sớm thì thằng kia không được gặp đâu. Cô ta đi đâu ổng cũng cho vệ binh theo tò tò canh giữ cái của quí của ổng.
- Thì của quí…í chớ là gì nữa!
- Mày đừng có nghĩ bậy bạ nghe mày!
- Ơ kìa, mày nói cô ta là của quí thì tao nói là của quí chớ phải tao nói là của không quí sao mà mày bảo tao nghĩ bậy b…ạ? Tao có nghĩ bậy bạ gì đâu.
- Cô ta tắm thì vệ binh xách nước cho cổ tắm chớ ổng không cho cổ xuống suối…
- ..Sợ người ta nom thấy cái của quí… hí hí…. !
Thuần bật cười. Tôi hỏi:
- Mày đã được tiếp cận, ủa tiếp xúc với cái của quí đó chưa?
- Cái của quí nào?
- Thì cô Quyên ấy mà.
- Tao gặp hằng ngày !
- Bộ mày ở gần đó à??
- Trước đây thì tao ở chung một nhà để làm việc với ổng. Tao là “bí nhứt” của ổng mà. Hổng biết ổng kêu hay Mặt Trận tự động đưa cô ta qua cho ổng. Rồi ông Ba Chè cho vệ binh cất cho tao một cái chòi riêng cách chừng vài chục thước, ủa chừng trăm thước. Nghĩa là khi nói chuyện, người bên này không nghe người bên kia, mà phải gọi to mới nghe. Mày rõ chưa nào?
- Dạ em rõ ạ, rõ lắm ạ! Như vậy là mày bị tống ra xa chức bí nhứ để trở thành bí nhì.
- Cô Quyên về ngủ chung với ông một… chòi !
- Bậy mày !
- Gì mà bậy! Bác cháu ngủ chung một chòi. Có gì đâu? Cháu được bác cưng dữ dội.
- Hồi nãy mày bảo tao đừng có nghĩ bậy bạ, vậy còn mày thì sao ?
- Tao có nghĩ gì bậy bạ đâu. Cô Quyên là vợ một anh hùng liệt sĩ, còn ổng là một nhà cách mạng thứ dữ, chỉ có thua Hồ chủ tịch thôi. Ai mà dám nghĩ bậy về hai con người như vậy.
- Vậy sao tao nghe nói…
- Nói gì ? Mày nghe cái gì ?
- Hì hì… tao hổng có nghe cái gì hết ! Nhưng cái gì tao cũng nghe hết, không sót một cái gì !
Thuần im lặng một lúc lâu rồi ngóc đầu lên:
- Mày có nghe thiệt à?
- Mày nghe hổng nghe thì thôi chớ tao có hổng có nghe cái gì ráo trọi !
- Mày nghe gì thì nói cho tao biết, tao ngăn chận đứng dư luận. Để lan tràn ra kỳ lắm.
Thấy thằng bạn hơi hốt hoảng tôi càng nói hàng hai để thấu cáy hắn chơi.
- Nói thiệt với mày tao nghe nhiều lắm, nhưng không biết cái nào đúng cái nào sai.
- Không có cái nào đúng đâu!
- Ừ không đúng thì bỏ qua đi, hỏi tao làm đéo gì !
- Thì đâu mày nói tao nghe thử.
- Không phải ổng đâu mà thằng khác.
- Hả? Thằng nào?
- Mấy thằng bên Mặt Trận hay ở đâu đó, ai mà biết được? Có thằng nào lại chịu cha ăn cướp. Hổng chừng có mày trong cái danh sách dài dằng đặc đó.
Thằng Thuần bỗng ré lên cười khanh khách. Tôi biết là tôi đã thấu cáy hắn rất thành công nên bảo luôn:
- Nhưng mày chưa đi đến đâu đâu !
- Sao mày biết?
- Mày chỉ xạ giàn ngoài thôi!
- Giỡn hoài mậy!
Tôi biết tính thằng bạn. Nó “nhạy bén” lắm ! Hơn nữa có vó tài tử xi-nê. Dễ gì mà nó tha con nai tơ ngơ ngác nhoáng qua nhoáng lại trước mắt hằng ngày. Hơn nữa con nai đã bị treo mõm mấy năm vừa đói lại vừa khát. Nghe suối lòng reo rả rích róc ra róc rách làm sao chịu nổi. Tôi bảo:
- Mày dở thật. Của ngon treo trước mõm lại để sói già nuốt mất.
- Đếch họ ! Sói già chỉ ngửi vành ngoài thôi. Còn gân đâu mà đánh vô trung tâm ?
Tôi biết là hắn tự ái nên nói khích:
- Tao lết trên Trường Sơn ói ra máu cục vậy mà vẫn “trả thù dân tộc được mấy tháng liền,” còn mầy ăn no ngủ kỹ vậy mà người ta dâng dưa tới họng thì lại tu.
Thuần cười. Hồi lâu mới tiếp:
- Để tao kể cho mày nghe nhé.
- Đừng có nói láo ông nội ơi !
- Tao láo cho B52 ăn tao đi.
- Ừ thì kể nghe !
- Nhưng mày phải hứa là không có nói đi nói lại cho ai nghe nhé ?
- Chẳng có “nhé, nhỉ” gì hết. Nói thì tao nghe chơi. Sau này viết truyện tao đưa khéo vào.
- Ông nội ơi ! Cái “khéo” của ông là cũng đủ bỏ mẹ tôi rồi. Nhưng được, dám ăn dám chịu. Sợ đếch gì. Mánh khóe ở đời không phải là “anh có ăn vụng không” mà là “anh ăn vụng anh có chùi mõm sạch không?” Phải không mày ?-Thuần nói to lên trong lúc tôi vẫn nằm im không đáp – Tao biết nhiều vụ còn động đất hơn. Vụ này ăn thua chi ?
- Ừ nói nghe chơi. Chớ để chết đem theo à?
- Chẳng có lãnh tụ nào anh minh cả. Trước cái l…, thằng chó nào cũng hít hít và gằm mặt vào đó và mê mẩn cả thôi Tao biết hết ráo trọi.
- Cả bác Hồ?
-Ông già thì tao không có ở gần mà tao chỉ nghe vài giai thoại thôi, còn từ anh Ba Duẩn, anh Hai Hùng, anh Sáu Thọ, anh Ba Khiêm, anh Mười Kỉnh, anh đéo nào tao cũng có hồ sơ cả.
- Kỉnh nào ?
- Kỉnh đại sứ ở Liên Xô !
- Ổng cũng có thành tích dữ vậy à?
- Ông Trần Văn Chè, ông Sáu Nam.
- Nam nào ?
- Lê Đức Anh tham mưu trưởng khu 7 hồi kháng chiến chống Pháp. Vô đây đổi tên là Sáu Nam. Rồi ông đại tướng họ Võ, ông Văn Tiến Rũng, ông râu rìa mặt mốc nào cũng đội cái húm lên đầu chứ chẳng có đạo đứt họng gì cả. Nếu tao là nhà dăng thì tao sẽ ghi ra hết.
- Còn ông Phó Giám đốc trường Đại Học Nhân Dân?
- Là ai ?
- Là mày đó chớ còn ai? Mày quên mày à?
Thuần phá lên cười rồi nói:
- Ông Chánh của tao cũng vậy nên tao phải noi gương chớ sao. Ổng là một cây đó mày ơi! Sở dĩ ổng không vô trung ương được là cũng do cái sự ấy một phần. Tụi Bêka nó nại cớ đó ra mà đá ổng. Mày biết không, ổng làm tái đến bà “ích xì” nữa đó. (Bà phu nhân này là vợ của một nhà cách mạng rất danh tiếng đã qua đời từ lâu, nên tôi xin phép không nêu tên.) Hồi ổng còn làm Tư lệnh kiêm Chánh ủy miền Tây, vợ ổng ghen cạo trọc đầu và nhảy xuống sông tự tử cơ mà! Các cha Trịnh Khánh Vàng, Võ Quang Anh cũng là những con heo nọc trứ danh mày không biết à?
- Có biết chớ sao không.
- Chuyện anh Ba Duẩn mày không biết bằng tao đâu. Nhưng khui ra nó thối lắm. Tao không muốn xấu lá xấu nem. Bây giờ với mày và ở giữa rừng tao mới nói ra lần thứ nhất. Hồi ở khu 9 ấy mà. Anh Ba nhà mình không có chỗ chơi nên quơ con Nga là mèo của ông Chánh ủy quỉ nhà mình. Con nhỏ này ở thành mới ra, cái hổ phệ còn mới, ra khu để kháng chén chống Pháp. Nào ngờ ra khu lại gặp Tư lệnh khu yêu mông em liền. Tư lệnh khu bỏ em dưới ghe mui ống có hai máy gân chạy khắp sông nước miền Tây lang thang trữ tình còn hơn là Phạm Lãi Tây Thi nữa. Bà Tư lệnh nghe được bèn tới nơi đánh ghen một trận còn hơn cả trận Tầm Vu, Sóc Xoài. Ông Tư lệnh chỉ huy ba quân nhưng lại sợ Sư Tử Hà Đông bèn tìm cách dứt đường tơ với cô nữ sinh Sài Gòn hơ hớ cái xuân tình. Cũng may, thời đó anh Ba mình từ ngoài cụ Hồ vô Nam để lãnh đạo kháng chiến. Các tai to mặt bự trong mình tới tâng công bằng cách gợi ý cáp cô bé cho ông già sồn sồn mặt nám đen như trời đánh hụt.
Anh Ba mình thấy cô nàng da trắng như tuyết, tóc đen như mây thì mê tít thò lò rồi nhưng làm bộ chín hấu mại dưa leo, ra cái điều đạo đức cao “Tôi đã có gia đình rồi, làm vậy hơi khó coi ! ” Khó thì khó nhưng mấy ông Hai Hùng, Ba Khiêm, Chín Kỉnh ép tí nữa: “Anh xa nhà thiếu thốn tình cảm. Anh nên có chị để phục vụ cách mạng ! ” Thế là anh Ba nhắm mắt phục vụ cách mạng với em Nga ở dưới ghe ngay buổi tối đó ! Đạo đức con người dễ đánh rơi quá mày ạ !
- Mày có ở gần đó không?
- Tao ở trong cơ quan chớ đâu.
- Sao mày thấy cái đạo đức của anh Ba rơi mà mày không chịu khó lượm lên gắn lại dùm cho ảnh?
Thuần cười .
- Phải nó rơi một lần thì tao còn lượm được. Còn đàng này nó cứ rơi liền liền mà. Rơi nghe lủm bủm dưới nước. Cá chốt bu lại rỉa hết ráo, còn đâu mà lượm?
Ngưng một chút Thuần lại nói tiếp. Hắn nói mê man như xổ bầu tâm sự ứ đọng lâu nay.
- Tao nói thật với mày. Nhà thơ tao chỉ phục có mình Xuân Diệu thôi.
- Sao vậy ? Phục bài nào ?
- Một câu thôi.
- Mặt trời đi ngủ sớm hả ?
- Không! Câu này: “Khuyên ai chớ khá lại gần ta! Nhân loại trông gần cũng xấu xa ! “
- Là cái nghĩa gì ?
- Mày không hiểu nghĩa gì à? Sợ mày còn hiểu hơn tao chớ. Xưa kia tao đi theo “cách mệnh” tao coi trời hồng tươi, đẹp đẽ, rực rỡ, cao quí, cao thượng, vĩ đại, linh thiêng… vô cùng. Cho nên tao bỏ trường đi theo không học tiếp, bằng Tú tài chỉ còn sáu tháng nữa là nẫng cái một, vợ đẹp con xinh như chơi, nhưng tao không màng. Cách mạng đẹp quá! Đi theo cách mạng vinh quang hơn. Ở xa xa, nhìn cách mạng thì nó là mỹ nhân, khi tới với nó rồi, nó thành thường nhân, đi với nó lâu ngày, thì nó là thằng cùi, và bây giờ thì không biết nó là cái gì trong tao, tao ớn lắm. Nghe ai nói tới hai tiếng cách mạng là tao mắc cỡ thầm. Tất cả những thằng già thằng trẻ, con gái bà già đi theo cách mạng là để kiếm chác chớ chẳng phải có lý tưởng lý tung gì cả đâu. Cho nên khi họ nhìn rõ mặt cách mạng rồi họ “ô-rơ-voa” ngay.
- Giỡn hoài mậy!
- Để yên tao nói hết. Mày thấy sau khi tụi mình tập kết ra Bắc, cách mạng có còn đẹp và hấp dẫn như thời mình mới bỏ trường đi kháng chiến chống Pháp nữa không?
- Đẹp chứ, nhưng đẹp cách khác ! – Tôi gượng gạo đáp.
- Đẹp sao mày lên Ủy Ban Quốc Tế xin về Nam hả?
—>Chương 10


- 10 -

Bị thằng bạn chơi một phát bất ngờ, tôi chới với không đáp được. Thuần tiếp:
- Cách mạng hết đẹp kể từ khi cách mạng thành công. Và lũ lãnh tụ trở thành một lũ súc vật mang mũ cao áo rộng cũng kể từ đó. Tao biết cả. Thằng nào cũng mong được chức cao để lãnh villa và volga mày ạ. Có những thằng kèn cựa xe và nhà. Rất buồn cười. Bây giờ cũng y hệt như vậy. Cách mạng có cấp bậc hết cả. Cách mạng đầu trâu, đầu bò, đầu cọp và đầu c…. Cách mạng nhép, cách mạng cóc nhái, ểnh ương, cách mạng chầu rìa, cách mạng cà nhõng… Nhưng tất cả các tầng lớp cách mạng đều đồng qui nhất điểm: cái bánh bẻng.
- Mày phản động quá mày ! – Tôi vừa cười vừa nạt.
- Ừ! Kệ tao để tao nói hết ? Sợ mày còn phản động hơn tao nhưng mày không nói ra thôi. Me xừ Duẩn đéo được mụ Nga đã đời còn đi đéo vặt vô số chỗ tao biết. Ở Hải Phòng tên Hoàng Hữu Nhân, chủ tịch thành phố dắt tới, vô Thanh Hóa tên Ngô Tuyền bí thư tỉnh ủy dâng dưa, vô Quảng Bình có tỉnh ủy cống hồ. Hắn làm luộc sạp hết cả nhưng vẫn đóng vai trò lãnh tụ vô sản kính yêu như thường. Còn ông đại tướng của mình chộp được mụ Đặng Thị Thu Hề phải không? Mụ này dạy bài “Ba Lê công xã” dở ẹc, tao phải dạy lại mụ để mụ đi giảng cho học trò đại học công nông của mụ chớ ai. Sở dĩ mụ dạy Sử học là nhờ ông đại tướng gà cho, chứ mụ ấy biết Ba Lê công xã là cái đéo gì. Tây nó dạy tao rõ hơn chớ.
- Mày biết mụ nữa à?
- Mụ ta có những ngón tay rất dài, có cặp môi rất thâm. Học trò nó ngạo là môi thâm thì cái ấy cũng thâm, làm mụ mắc cỡ bỏ giảng một tuần mà. Ông đại tướng nhà mình ăn uống sâm Triều Tiên nổi gân chiến thắng Điện Biên tấn công tới tấp, bà ta vác cái đồi Him Lam chạy tới nhà tao trốn cho qua tai nạn rồi mới về. Ông đại tướng đi tìm mãi không được về nhà đánh piano, sôlô một mình. Rồi có chuyện lẹo tẹo với bà thầy đờn.
- Mày biết vụ đánh đá đó nữa à?
- Mày cứ tin là tao biết hết mọi chuyện bí ẩn của các ông anh mình. Lúc ông ấy bị ông đại tướng bần cố nông cho ngồi chơi xơi nước ở Hồ Tây, ổng mới nảy ra ý làm nghệ thuật, bèn mời một nữ nhạc sĩ dương cầm tới dạy, dương cầm thì ông ta học dở nhưng trò dương…vật thì ông ta mạnh lắm. Đến đỗi chồng của nữ nhạc sĩ ghen không cho vợ đi dạy nữa ! – Thuần thở dài ngao ngán – Mày thấy có thằng cha nào đạo đức không? ? Tao còn quên kể cho mày cái chuyện bà Mười Thẹp nữa. Ối giời, nó có dây có nhợ, có tịch có tàng mày ơi !
- Mười Thẹp nào tao không biết?
- Bà Mười nữ chiến sĩ Nam Kỳ 40 ở Cai Lậy tỉnh mày mà mày quên à?
- Quên đâu mà quên. Bà Mười Thập ! Má thằng Quang và con Thu !
- Bả ra Bắc được cho ngồi ghế trung ương đảng. Bả phát biểu ý kiến ở đại hội Phụ Nữ Cứu Quốc có câu phản đối đế quốc, bả nói BOM HỘT NHƯN (thay vì bom hạt nhân) bị phóng viên nó ngạo chớ đâu. Thằng Quang được cho đi học Liên Xô, không thèm. Bả bắt nó cưới vợ nó cũng không nghe. Nó bảo nó ghét cảnh ô trọc của đám lãnh tụ, nên xin về Nam chiến đấu cho quê hương.
- Trời đất, cái thằng lạ vậy ? (Tôi làm bộ ngạc nhiên, chứ thực ra tôi biết thằng con Bà Mười chết ở Trường Sơn.
- Để tao nói hết cho nghe. Bà Mười chạy lên ông Hai Hùng nhờ can nó dùm và bắt nó ở lại cưới vợ nhưng nó nhất định không nghe. Nó đi vô Trường Sơn sốt rét ác tính chết dọc đường, trong ba lô còn cả bó sâm Triều Tiên. Vậy đó! Còn con Thu chưa chồng nhưng lại mê thằng họa sĩ vẽ phông cải lương cho đoàn Văn Công Nam Bộ, thứ bảy chủ nhật nó đều xách cái phèng la của nó tới cho thằng họa sĩ dùng dùi cồn gõ beng beng chơi.
- Mày dùng chữ chưa chính xác. Phải nói: nó xách cái đĩa màu palette của nó tới cho thằng nọ quệt cọ lông vô chớ! Vậy mới gọi là chơi chữ.
- Ừ! Phải ! Nhưng có đúng là bà Thập đó không?
- Mày còn sư tao nữa rồi. Nhưng vụ này chắc mày không biết đâu !
- Vụ gì?
- Vụ người ta cáp đôi bả với anh Ba nhà mình ở Nam Bộ không?
- Có vụ đó nữa sao ?
- Có chớ. Ổng thì răng cỏ cái rụng cái lung lay còn bả thì đi đâu cũng xách túi nhái đựng trầu. Hơn nữa cả hai đều là chiến sĩ cách mệnh triệt để. Xứng lứa vừa đôi biết bao nhiêu, tại sao ổng không chịu mà lại quơ con bé Nga?
- Thì tại vì cái mặt nạ của bả nhăn da ổi hết rồi chớ sao ! Chẳng có thằng đàn ông nào khoái lấy bà già cả. Chỉ có con gái là mê ông già thôi. Vì ông già thì già mặt già mày tay chân già hết…
- Mày thấy chưa ? Tao bảo nhân loại trông gần cũng xấu xa mà. Mới đầu tao nhìn Ba Duẩn, Hai Hùng, Ba Khiêm như là thần thánh cả. Nhưng khi ở gần mấy chả, tao thấy mấy chả đều phàm tục dơ dáy thấy bà. Tụi mình không đến đỗi như vậy. Như tao vầy, tao có đéot vặt mấy em Liên Xô chút chút nhưng tao đâu có bỏ vợ bỏ con như các chả. Mày biết vụ bà Ba Khiêm ở Hà Nội ghen một phát vỡ cả Phủ Chủ tịch mà ! Còn vợ lớn Lê Duẩn nữa. Mụ ta đánh bà Nga tuột quần ở Bệnh viện Việt Xô. Anh Ba phải bỏ chị nhỏ vô thùng gởi sang Tàu tá túc với cụ Mao. Còn ông ủy viên trung ương Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh nữa. Ổng vô Nam cuỗm một bà hơ hớ. Ra Hà Nội lãnh villa và volga như ai. Vợ lớn ở Nam Định nghe được tin vác cái chảo bể lên hô giáng. Ông trung tướng chạy tét không dám hô thâu tiếng nào.
- Còn gì nữa hết ?
- Còn nhiều mày ơi ! Kể sao cho xiết. Mày có viết tiểu thuyết cũng không hết.
- Tuy vậy mía sâu có đốt nhà dột có nơi mày ạ! – Tôi làm bộ chống đỡ dùm cho các anh nhớn.
- Không có đốt nào không sâu, không có chỗ nào không dột hết ! Sâu tất, dột tất !
Tôi cười:
Tao nghĩ là ông Sáu Vi là con người tuyệt vời, không có một nhược điểm nào ngoài cái mặt sắt vuông như cái khay trầu của ổng.
Thuần làm thinh. Hồi lâu lại cười hắc hắc.
Tư Mô trở mình lên tiếng
- Anh Hai Hùng nữa chớ!
- Ông Hùng không lem nhem nhưng ổng phạm tội còn nặng hơn lem nhem.
- Tội gì ?
- Ổng quơ bà vợ địa chủ. Mai Khanh chị nuôi thằng nhạc sĩ Hoàng Lưu, con Hội đồng gì ở Phú Hữu.
- Vậy à? Tôi tưởng ông toàn bích.
Thuần tiếp:
- Tao nói theo kiểu vòng vo Tam Quốc để kết luận bằng câu thơ của Xuân Diệu: Nhân loại trông gần cũng xấu xa. Xấu xa thật! Hồi tao ở Hà Nội, nghe văn nghệ sĩ xầm xì oán ghét ổng, tao tự nhủ thầm: ông chỉ có tật hăng xờ máu chút thôi. Mà chính thực đảng cần những người như ổng, nếu không ai bảo vệ lập trường. Nhưng tao cũng lầm nốt ! – Thuần ngưng lại rồi cười ha hả một tràng dài như liên thanh.
- Gì như mắc đàng bố vậy mậy?
- Mày nhớ chuyện tiếu lâm ba ông thầy tu không?
- Thầy tu đạo gì?
- Không nên hỏi đạo gì phạm chánh sách. Có ba thằng thầy chùa Lỗ Mũi Trâu định sơn mặt đỏ ngoài Sài Gòn vô nằm bên Mặt Trận đang xin yết kiến ổng. Chuyện đó như thế này. Chẳng là có ba tên trần tục lên núi tầm sư học đạo tu tâm dưỡng tánh được vài năm thì xin hạ san. Ông thầy bảo: Muốn biết các con đã dứt lòng trần tục chưa thì thày cho các con một cái phép. Ông thầy lấy ba cái trống nhỏ đem đeo vào cho mỗi người.
- Đeo ở đâu?
- Để chút rồi biết! Đeo xong, ông thầy bèn dắt một cô tiên nữ cởi trần truồng ra cho đi qua đi lại trước ba trò. Hễ cái trống trò nào không khua tùng tùng thì trò đó được hạ san.
Tôi phản đối.
- Tiên nữ ở đâu mà lộn lạo với tiên nam như vậy bố non ?
Tư Mô cười khè khè:
- Tiếu lâm cải biên theo đời bây giờ mà chú !
Thuần tiếp:
- Ông thầy cho cô tiên dượt qua dượt lại vài ba lần rồi đứng ưỡn ẹo một chập. Ông không nghe cái trống nào khua cả, như vậy nghĩa là dùi trống nằm im không nhúc nhích, các đệ tử thấy mỹ nhân lõa lồ mà không có bị tà dâm kích động ! Ông thầy khấp khởi mừng thầm cho các đệ tử thành công đắc quả to. Rạng rỡ danh thầy biết bao !
Ông thầy bèn đến tháo trống ra để sửa soạn phát bằng cấp “Liêm Chánh” cho họ.
- Chớ không phải bằng cấp Phó Tiến sĩ của mày à?
- Bằng này to hơn bằng của tao nhiều. Ông thầy tá hỏa tam tinh khi nhận thấy cái dùi của tên học trò thứ nhất thọc thủng mặt trống và kẹt trong đó luôn.
- Hớ hớ. . . hớ. Tư Mô cười . Tôi cũng cười theo.
Thuận tiếp:
- Đến tên học trò thứ hai thì mặt trống còn nguyên mà cái dùi trống cũng không có chĩa ra chút nào.
Tôi hưởng ứng:
- Vậy là trò đó lãnh bằng Đại Học Nhân Dân rồi !
- Nhưng mà ông thầy coi kỹ lại thì thấy mặt trống ướt nhẹp.
- Vậy là Bùi Kiệm rồi !
Thuần tiếp:
- Đến trò cuối cùng. Trò này xuất sắc nhất. Cái dùi xuyên toạc cả hai mặt trống, ló qua cả bên kia.
- Quỉ thần ơi ! Dùi gì mà ghê hồn vậy?
- Thế là ba ông con phải ở lại tu tiếp.
- Còn cô tiên nữ đó thì sao?
- Cô ta bị đoạ luôn với ông thầy và đám học trò. Ông thầy chính là ông Mặt Sắt đó mày ạ. Còn đám học trò kia là mấy lão Chín Vinh, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Chè.Trước đây tao cũng cho là ông Mặt Sắt thì cái gì ổng cũng “sắt” cả. Ở Hà Nội có lần ổng đến dự tiệc của Bộ Quốc phòng, gặp vợ Thiếu tướng Phạm Kiệt. Bà thiếu tướng trang điểm thường thôi, vì có khách Liên Xô, Đông Âu mà, chẳng lẽ lại mang bộ mặt mụ già trầu tới đó? Ông ta điểm mặt bà ta mà mắng ông thiếu tướng; “Anh coi kìa, vợ anh son phấn như một con đ .”
- Có chuyện đó nữa à?
- Có chớ, mày ở ru rú trong cái bếp Hội Nhà Văn của mày nên chẳng biết gì hết.
- Rồi ông Kiệt phản ứng ra làm sao?
- Đếch dám phản ứng gì cả. Còn bà ấy thì ôm mặt chạy ra ngoài. Khách Liên Xô ngơ ngác; có người hỏi thì phiên dịch bảo là bà ấy có bịnh nhức đầu cấp tính! Đọ,bây giờ tới phiên ổng hạ san và được xét nghiệm bằng cái trống đạo đức… thủng toạc cả hai mặt.
- Thủng mẹ hết rồi hả?
- Cái trống này ổng không phải đeo. Nó là của người ta mà ổng xách dùi tới gõ.
- Mày nói trống nào vậy?
- Tao hổng biết ?
- Ê mày nói chuyện đó có pa-tăng không mậy?
- Tao nói láo có căn chứ không bỏ sách bỏ vở đâu !
- Nếu vậy thì nói tiếp nghe chơi. Ở đây chỉ có ông bạn già mình thôi ! Đâu có ai khác mà lo tai vách mạch rừng.
- Chuyện đéo vặt các cháu bây giờ ở bên Bộ Chỉ huy là thường xuyên và công khai, đâu có ai nói gì. Mày có qua bên đó sẽ thấy. Các ông Tư lệnh, Phó Tư lệnh, Cục trưởng, Cục phó đều có riêng nữ thư ký đánh máy thành phần học sinh Sài Gòn mới ra lò cả. Phá thai càng có lợi. Ngâm rượu tẩm bổ rồi lại sản xuất hài nhi tiếp. Ông Mặt Sắt là thứ dữ trong Bộ Chính trị nhưng chỉ là cắc ké so với chín Hô và Ba Chè, Sáu Bù Lạch trong chuyện tu ở chùa “Một Cây Cột.”
- Chín Hô nào?
- Chín Hô là Chín Vinh tức Trần Độ, Ba Chè là Trần Văn Trà, Sáu Bù Lạch là Sáu Nam tức Lê Đức Anh cục trưởng Cục Tham Mưu Quân Giải Phóng. Các cha này đớp hết cả bầy tiên cô Sài Gòn mày hiểu không? Bây giờ còn hỏi tiên cô đâu nữa thôi ? Nhưng đặc biệt chỉ có nàng tiên của ông Mặt Sắt là gái có chồng thôi, còn đám kia chắc là nguyên xi. Mày nghĩ coi ở trong rừng năm này qua tháng khác mà tiên cô mang trống núc ních qua lại như vậy, dùi trống không cựa quậy hay sao?
- Tao tưởng là ông Sáu nhà mình đạo đức cỡ cụ Hồ.
- Trước kia tao cũng tưởng như vậy, nhưng sau khi ổng thử trống thì tao té ngửa ra.
- Cái thằng nói cà rỡn hoài mậy. Tao cần nghe cụ thể như sự việc đã xảy ra chứ không cần mày thêm mắm dậm muối gì cả.
- Ờ được ! Muốn nghe tao kể cho nghe. Một hôm có điện ngoài Bộ Tổng đánh vào. Ổng đã xem và nói nội dung cho tao thảo bức điện báo cáo. Tao thảo xong thì mang qua chòi ổng.
- Lúc đó nhằm buổi chiều hay buổi sáng, mấy giờ mấy phút mấy giây ?
- Buổi sáng trong rừng có chim ca vượn hú và dê kêu be he nữa. Tao qua đến nơi thì nghe tiếng giảng bài oang oang trong chòi: “Giai cấp vô sản là giai cấp tiền phong lãnh đạo cách mạng nhưng nó phải kết hợp chặt chẽ công nông binh ! ” Tao đi trờ tới ít bước gần hông nhà. Nhà bên đó có hai loại. Loại cho trung cấp thì ngăn phòng nhưng vách trống chân trống đầu. Còn cao cấp thì bít bùng bốn bên. Nhưng tất cả đều bằng thân nứa đập dập cho nên có kẽ hở, ở ngoài dòm vô, ở trong dòm ra đều không thấy, nhưng kê mắt sát vào thì thấy tuốt.
Nghe ổng giảng bài oang oang tao dừng lại, không vô ngay mà đừng lại ghé mắt vào kẽ hở. Tao thấy ông Sáu nằm võng còn cô tiên thì ngồi trên vạt nứa khít bên võng. Đám vệ binh cũng có ý thức. Chúng làm vậy để khi nào ông Sáu nằm võng chán thì bò lên giường hoặc nằm giường chán thì leo xuống võng dễ dàng.
Ổng giảng rất hùng hồn. Giọng ông sang sảng chứng tỏ sức khỏe ông còn…
-… còn có thể cất dùi lên nện vô mặt trống.
- Đến câu vô sản liên hiệp lại hay câu xã hội không giai cấp gì đó thì ông thò tay nắm tay cô tiên lôi xuống đặt cô ngồi trên bụng ổng.
- Không đứt võng à?
- Võng đôi dây ni-lông dù của Mỹ có thể treo năm tạ mà ! Cô ta ngúng nguẩy định đứng dậy nhưng hai bàn tay to sù của ông kềm lại, ông run run bảo: “Ngồi đây nghe bác giảng tiếp.” Nhưng ông không giảng nữa mà ông rủ rỉ: “Cháu ở đây có buồn không?” – Dạ buồn – Cô tiên đáp – Cháu muốn về Sài Gòn. – Ở đây học làm cách mạng chứ về trong đó toàn là dân phản động đâu có ai giúp cho cháu. – Có gia đình cháu chớ! – Ở đây bác cho đi Liên Xô. – Cháu hổng đi bên đó đâu. – Sao vậy? Người ta muốn đi mà không được đấy. Cháu chóng ngoan đi ! Bác khen giỏi, vừa “giỏi” bác vừa đưa tay ngoặc đầu cháu xuống sát mặt bác. Cô tiên vùng đứng dậy chạy tuốt vô phòng trong.
- Chỉ có bấy nhiêu thôi à?
- Đó là lớp một màn một. Sau đó còn nhiều màn khác. Kịch cọt đâu có ngưng ngang như vậy được. Tao hoảng quá, tao vội vã trở về chòi tao ngay. Tao thú thực là tao sợ run lên. Như có cái gì đổ vỡ trong lòng tao, tan nát, tan nát hết. Lạy Chúa! Đến bây giờ tao hãy còn run khi nhớ lại cái hình ảnh đó. Thuần tiếp – Tao không dám đem cái công điện qua nữa. Tao sợ phải nhìn mặt cái người mà mình kính phục lâu nay. Đúng vậy, lâu nay tao chỉ còn kính phục có mình ổng thôi.
- Còn cụ Hồ!
- Xịt! Thằng cha già sát nhân.
- Giỡn mậy !
- Lão giết Dương Bạch Mai bộ mày không biết à?
- Ờ ờ… (Tôi biết việc đó nhưng tôi làm bộ quên đi.)
- Sau vụ đó tao nhìn lại các ông Duẩn, ông Giáp, ông Thọ, tao ớn quá trời.
- Còn ông Đồng thì sao ?
Thuần cười :
- Mày thấy ổng ra sao ?
- Ổng đạo đức khá chớ. Ổng có bà vợ điên chữa hoài không hết. Ổng tức giận ổng đi hỏi người yêu của tao.
- Hả?
- Mày đếch biết chuyện đó đâu. Cũng không có nhiều người biết. Chỉ có thằng cha Nguyễn Kim Cương thứ trưởng Phủ Thủ tướng biết thôi. Vì thằng chả là xếp cơ quan của con nhỏ bạn tao.
- Rồi sao có vụ đó?
- Lão Cương đang làm Phó Giám đốc Đài Phát Thanh. Con nhỏ của tao làm việc ở đó. Thằng chả tưởng hai đứa tao “huề cờ” nên làm mai kiếm điểm. Con nhỏ thuật lại cho tao nghe. Tao bảo: Sao không nhận quách làm bà thủ tướng có phải sướng hơn không? Nó vả miệng tao, bảo: “Ổng lớn tuổi hơn tía tui mà!”
- Các ông lớn đều… thế cả. Đến ông Sáu Mặt Sắt này là hết phép Người ta thuyết giảng đạo đức thì . dễ ợt thôi. Nhưng giữ đạo đức lại khó. Chỉ khi nào đeo trống mà trống không khua thì mới chắc thôi. – Thuần nói một dọc rồi chửi thề văng tê lên – Cái Bộ Chỉ huy đã trở thành một ổ điểm đực già, tối ngày mấy thằng đầu bạc chỉ lo cạo râu, sửa chân mày và đánh quần đánh áo để gù mấy cháu chớ đâu có việc gì làm.
- Rồi lớp hai màn một như thế nào ? – Tôi hỏi .
- Để tao kể qua lớp một cái đã. Tao về nằm trong chòi. Buồn thấu trời. Thì có vệ binh tới gọi. Tao phải sang chầu. Tao cố xem cho ra sau cái bộ mặt sắt của ổng còn bộ mặt nào khác không hoặc trên cái mặt sắt đó ông có đeo mặt nạ không?
Ổng hỏi tao:
- Nãy giờ cậu đã sang đây lần nào chưa?
- Dạ chưa. Anh Sáu có việc gì cần gọi tôi?
- Không, ấy là… tôi hỏi thế mà. Vì nãy giờ tôi ngủ quên. Tôi sợ cậu sang thấy tôi ngủ rồi trở về mình đánh điện trễ mất.
- Dạ công điện dài nên tôi viết hơi lâu. Viết mới vừa xong tôi sang ngay.
Tôi hỏi tiếp:
- Còn màn hai thế nào ?- Cô tiên qua chòi tao than thở xin “trả lại đôi cánh” để về Sài Gòn. Bữa đó ổng đi họp với mấy cha xếp các Cục ở quanh đấy không xa lắm nên tao được ở nhà, không phải xách cặp đi theo. Do đó mới biết tâm sự cô tiên. Chao ôi ! Nếu tao kể ra đây chắc thằng anh hùng Cầu Ông Lãnh, ủa, cầu Trương Minh Giảng phải đội mồ sống dậy.
Cô ta kể rằng hồi đó thằng Trỗi mang về nhà mấy đồng chí để bàn công tác bí mật. Cơm nước xong, thằng Trỗi đèo một thằng đi đâu đó, chẳng ngờ là đi xem chỗ đặt bom.
Con nhỏ khóc với tao nức nở: “Nếu em biết ảnh làm việc đó thì em cản rồi. Em thấy cảnh sát canh chừng rất kỹ, làm sao mình đặt được bom. Bom chớ phải quả cà cái bánh gì mà dễ giấu vậy. Thôi việc đó qua rồi, em cũng không nên nhắc làm gì. Một anh ở nhà với em. Có bà già chồng em nữa. Nhưng nửa đêm anh ta quèo em. Em không dám la vì sợ bà già hay thì mất mặt đồng chí của ảnh. À quên, ảnh làm thợ điện nên ảnh có cái thùng dụng cụ để dưới gầm giường. Em giận lắm. Em muốn rút cái búa nện vô đầu thằng này, nhưng em cố dằn lòng. Làm đổ bể ra ảnh cũng không vui gì. Có thể mất đồng chí lẫn vợ. Thằng này lại giở ngón khác. Anh ta dụ dỗ đi với anh ta. Em bảo em có chồng rồi. Anh ta bảo: “Thằng Trỗi sẽ chết chớ không có thoát qua vụ này đâu ? Em nên móc với anh mà sống !”
Cô tiên ngừng lại quẹt nước mắt, nghẹn ngào hồi lâu mới tiếp. Em hỏi sao ông biết ảnh sẽ chết mà không can. Anh ta nói: Tại nó muốn hi sinh cho Tổ Quốc. Em ngờ có một âm mưu của anh ta trong vụ công tác này. Bây giờ ảnh đã thế rồi. Em không muốn khơi lại nữa. Mà dù có âm mưu, thì ai dám nhận? Tao hỏi: – Sao em biết có âm mưu? Cô tiên nói: Sau khi anh Trỗi bị bắt thì anh ta lại xuất hiện. Không tỏ vẻ đau buồn gì hết, mà lại còn hớn hở. Anh ta xoa tay: Đã bảo mà. Lính, cảnh sát và mật thám như rươi mà làm sao qua mắt tụi nó được? Em nói: ảnh bị bắt thì mấy anh phải tìm cách giải thoát chớ? Anh ta cười, không nói gì, rồi bỏ đi. Hôm sau anh ta trở lại, kêu em chuẩn bị vô khu. Em bảo em không đi. Anh ta dọa ở đây không có an ninh. Thế là em phải đi. Anh ta chở em vô khách sạn… Em chống kịch liệt. Anh ta bảo: Nếu ưng anh ta thì hai đứa cùng ở lại Sài Gòn. Anh ta “lặn” luôn (nghĩa là không công tác nữa). Anh ta cũng là thợ điện và tổ trưởng tổ công tác của anh Trỗi. Anh xem đó, loại người như vậy mà công tác gì ? Ở trong khách sạn anh ta ép nài đủ thứ… Em không nghe. Anh ta lại dọa: Không nghe thì anh ta kêu cảnh sát bảo đây là liên lạc của tên đặt mìn cầu Công Lý. Em bảo: Chồng làm chồng chịu, em không dính vô đó. Anh ta còn bảo: Tại vì cô mà thằng Trỗi chết. Em hỏi tại sao? Anh ta nói huỵch toẹt ra: Tôi cho nó xung phong ra trước để tôi ở lại sau chớ sao!
Cô nàng uất nghẹn. Việc gì đã xảy ra cho người đàn bà cô thế lại bị kẹt giữa hai gọng kềm, tao không cần nói ra mày cũng biết rồi. Cô tiên bảo khi vào khu cô có mét mấy ông Nguyễn Hữu Thọ, ông Sáu Vi, nhưng mấy ổng chỉ hứa thi hành kỷ luật tổ công tác đó thôi, ngoài ra không gì nữa hết. Thi hành gì được mà thi hành, vì bây giờ chính ông ta lại đi vào dấu mòn đó. Em chán nản lắm ! Em chỉ muốn về thành thôi. Ở đây không được anh ạ. Kỳ cục quá hà ! ” Tao không dám hỏi tới nữa. Tao sợ nghe những chuyện đánh rơi cái đạo đức như của anh Ba mình ở miền Tây thời chín năm thì buồn lắm, tuy biết rằng chuyện đó đã xảy ra rồi, dù cô nàng không tố cáo. Ai dám đi tố cáo một ông vua? Cô ta muốn xin đi ra Bệnh viện hoặc một cơ quan nào có đông người Nam để công tác cho khuây khỏa, nhưng ổng chỉ hứa nay hẹn mai, cứ giữ riệc cô tiên để thử dùi trống.
Tôi cười:
- Còn mày đã thử cái trống cho mày chưa?
Thuần cười há há và nói:
- Tới phiên tao thì cái mặt trống phải bằng sắt chứ không chỉ bằng da trâu.
Tôi ngáp dài. Nghe câu chuyện của thằng bạn tôi tưởng bạc hết cả tóc. Nhưng nó bảo:
- Vừa rồi bả mới vô mang cái trống bể cho ổng đánh.
- Bà nào ?
- Bà răng đen tóc quấn rế chớ bà nào.
- Bà Sáu Vi vô đây? Bộ bả lội Trường Sơn tìm phu tướng hả ?
- Giỡn hoài mậy. Bả đáp phản lực “không người lái” đấy. Phản lực hạ xuống ngọn cây bằng lăng, bả nhảy dù xuống, ổng hứng xong là phản lực trở về Hà Nội. (xem Củ Chi Đất Sét Chưa Thành Bùn, đầy đủ chi tiết rùng rợn hơn.)
Tư Mô gầm lên:
- Lại tiếu lâm cải tiến !
Thuần cười:
- Nói đùa chớ các bà tướng đi mé-bay vô Cao Mên đáp xuống sân bay Xiêm Rệp rồi trực thăng đưa xuống sân bay Mimot. Ba Chè, Chín Hô cho lực sĩ đem võng sang khiêng về.
- Khiêng về!
- Chớ sao. Nuôi quân ngàn năm nhờ một thuở mà . Khiêng chừng tám tiếng đồng hồ thì tới đây.
- Tao không thể tưởng tượng nổi chuyện mấy bà đó mang cái cối vô đây cho mấy lão thọt mà lại bắt giải phóng quân khiêng như vậy.
- Vậy mới có danh từ “phải giống” của dân Bêka chớ.
- Tàn nhẫn thiệt !
- Nhân đạo bỏ mẹ chớ tàn nhẫn gì đâu. Để mấy ổng ở trong này bị dồn nén rồi ôm các cháu gái, các cháu la mất uy tín hết, hoặc các cháu không la rồi mang bầu, nạo thai, vậy còn tàn nhẫn gấp ngàn lần. Trời ơi ! Bà Sáu Vi vô ngồi với con Quyên, tao thấy tao tưởng là hai bà cháu chớ không phải hai mẹ con mày ạ! Chắc bả tin tưởng ổng lắm nên không thấy bát đũa khua trong sóng. Mấy bữa đó con nhỏ qua ở tạm bên chòi tao.
- Đọ tao biết mà, thế nào mày cũng thử trống. Có không?
- Tao cũng không biết tao có thử hay không? Nhưng nhớ chắc là trong những đêm dài dằng dặc đó, con nhỏ mới có hoàn cảnh kể với tao những chuyện vừa rồi .
—->Chương 11-17


- 11 -
Tôi không thấy buồn ngủ. Cặp mắt cứ trong veo không cay, mi mắt không nặng chút nào. Tụi Bắc Kỳ hi sinh dân Nam Kỳ cho địa vị của chúng nó không thương tiếc. Bốn mươi năm rồi chứ không phải mới vài mươi năm nay thôi. Nhưng dân Nam Kỳ bị cùm chặt quá không gỡ ra được thành thử cứ phải vái lạy mãi, chứ nếu sút cùm ra dân Nam Kỳ sẽ vùng lên giết lũ Cộng Sản còn hơn giết Tây nữa.
Khi tôi ra Bắc tôi mới sáng mắt ra dần. Dân Nam Kỳ không có nhà cửa đi lang thang ngoài bờ hồ và gặp nhau ôm khóc như mưa. Một số lớn bị đưa lên rừng khai hoang ở những nơi không có đàn bà con gái. Nhất là ở Lam Sơn. Lính như tù. Mười ngàn lính giải ngũ cuốc đất trồng khoai, chủ nhật lấy rượu làm vui. Nông trường Lam Sơn với quân số kể trên, uống một số rượu bằng hai triệu dân Thanh Hóa.
Khi tôi đi lao động ở đó, có mấy vụ “dâm ô” làm tôi hết biết nghĩ sao. Tôi thù Hà Nội tận xương tủy vì những chuyện như vậy. Đây là những sự dã man do chính thằng Hồ gây ra.
Một hôm anh lính B, người Bắc, có vợ con đến thăm. Vì không có chỗ, anh B phải khiêng tấm gỗ ván ra ngoài rừng để hưởng tuần trăng mật. Còn đứa con gái năm tuổi thì anh gởi ngủ với chú A. Sáng hôm sau, trong bữa cơm, con bé nói oang oang trước mặt cả trăm người: “Chú thơm con!” Vợ anh B lườm con: “Chú thương nên chú thơm!” Con bé nói tiếp: “Rồi chú kê miệng chú vô môi con chú nút làm con tê cả người!” Không ai bụm miệng con nít được !
Nhưng cũng chưa tệ lắm! Bên cạnh trại lính chúng tôi có một cái nhà. Không biết tại sao người này lại lên ở đây có một mình như vậy. Để cho việc của tôi sắp kể ra đây có chứng cớ, tôi nêu rõ tên đơn vị: Đại đội 2, Đại đội trưởng là Nguyễn Văn Quý. Trung đội trưởng quyền đại đội phó là một người bị thương nặng ở tay nhưng không có sổ thương binh. Chủ nhà có một đứa con gái mười hai, mười ba tuổi. Đêm nào tôi cũng nghe tiếng chân đi rậm rật về phía nhà cô bé. Được một thời gian, bỗng một hôm nghe ông già tri hô lên rằng con gái ông chết. Nhiều người chạy tới. Tôi cũng sang. Thì thấy dưới giếng sâu có hai bàn chân thòi lên và một mảnh tóc bập bềnh. Vì vùng đồi nên giếng không có nhiều nước. Ông già nghèo không có tiền mua quan quách nên nhờ bộ đội ném đất đá chôn luôn. Rồi bỏ nhà đi. Trong đơn vị xầm xì. An ninh của nông trường (Lam Sơn) xuống điều tra, nhưng không kết luận được. Dù vậy người ta vẫn biết cô bé bị hiếp hằng đêm. Những tên hiếp dâm là lũ quỉ nông trường. Có lẽ sợ lộ bí mật, mất “danh dự” ( !) nên lũ quỉ giết và ném con bé xuống giếng.
Vụ thứ ba: Chú đưa cháu ngủ trên võng. Cháu gái mới có một tuổi. Chú vừa hát vừa trật quần đút dương vật vào âm hộ cháu. Cháu khóc thét lên. Người ta chạy tới bắt quả tang giữa ban ngày. Chú bị bắt giam…
Ông Đại tá Trần Thắng Minh còn sống không, xin xác nhận ba chuyện này?
Bạn đọc tới đây có lẽ sẽ vứt sách tôi xuống đất mà chửi: Thằng nhà văn viết tởm quá! Nhưng sự thực còn tởm hơn nhiêu, tởm đến mức độ tôi chỉ dám viết một phần. Không có nhà văn nào bịa nổi những chuyện như vậy, cũng không có con người nào làm những chuyện như vậy. Chính là bọn súc vật Hà Nội dồn những con người vào hang cùng, và biến con người thành những con vật. Bạn thử nghĩ lứa tuổi mười tám hai mươi đi kháng chiến chống Pháp, ra Bắc chín mười năm liền không biết đàn bà con gái là gì. Trong khi đó các lãnh tụ ở Hà Nội vợ bé vợ mọn tha hồ, bơ sữa no phè, lại còn có tên ủy viên trung ương là Nguyễn (Văn) Quyết dùng vi trùng giết vợ lớn để lấy con gái nuôi (hãy giở báo Nhân Dân lại mà xem, tôi không có bịa đâu !)
Và trong khi lính chết như gà toi trên Trường Sơn thì các ông tướng họp nhau trong triều đình ở Cục R, uống bia hút thuốc lá thơm, phân chia chế độ cơm bưng nước rót, cần vụ giặt quần áo, vệ binh khiêng các mệnh phụ phu nhân như hoàng hậu lại còn dâm dật loạn xà bì. Cách mạng đó! Thắng lợi một trăm phần trăm rồi đó và những con người ở rừng ngày nay đã cởi bỏ . hết bộ mặt dã man chưa ? Xin thưa rằng họ còn dã man hơn lúc ở rừng. Họ bậy bạ hơn chính họ trước đây. Đất nước mà họ dẫn dắt sẽ đi đến một nơi thôi: đó là một cơn đại nguy đại loạn.
Khuya quá rồi, tôi hỏi Thuần ráng một câu để ngủ:
- Mày qua đây để gởi con, còn có việc quốc gia gì đại sự nữa không?
- Tao qua bảo Văn Công chuẩn bị sang biểu diễn cho đại hội mừng công.
- Công gì mà mừng?
- Pháo binh R vừa bắn tan mười ba chiếc B57 ở sân bay Biên Hòa.
- Có thật mười ba chiếc hay kiểu như hai ngàn chiếc phản lực bị bắn rơi ở miền Bắc?
- Mừng công to lắm, có đám trí “ngủ” Sè-goòng. Nào giáo sư, văn sĩ, kỹ sư, nào bác sĩ nào các thứ đạo dụ mắm tôm, mắm cáy, đầu cua mắt ếch không thiếu thứ nào. Có cả thằng thầy chùa Lỗ Mũi Trâu nữa.
- Thầy chùa nào mà Lỗ Mũi Trâu?
- Tao không biết mặt nhưng nghe xầm xì thì ông Sáu Vi hứa cho nó làm thủ tướng nếu lật được Nguyễn Văn Thiệu.
- Bộ thầy chùa đeo súng lục à?
- Nghe nói thằng này đang làm loạn ở ngoài SàiGòn, tên là Thích gì đó.
- Mẹ kiếp, nó làm thủ tướng thì mình ăn tương chao bỏ mạng.
- Đừng lo. Đám thầy chùa này là con cháu Lỗ Trí Thâm ăn lòng chó gặm đùi dê, khoác áo cà sa nhưng bụng một bồ dao găm chớ không phải loại thầy chính thống của Thích Ca đâu. Không nói mày cũng phải hiểu rằng thầy chùa mà chạy vô tới đây để gặp ông Sáu Vi là loại thầy chùa gì chớ? Bọn Sài Gòn vô đây ông Sáu Vi ổng coi như rác nhưng ngoài mặt thì ổng làm bộ kính trọng mày hiểu không. Có mấy thằng đồng nghiệp của mày nữa.
- Đồng nghiệp nào?
- Ba thằng văn sĩ chết nhát có lẽ ăn bơ sữa của Mỹ hết nỗi nên vô đây tìm thịt cà khu chớ gì. Lại có một con đĩ lũng răng bàn nạo. Tao thấy mấy cái mặt dày vô kiếm ăn ké tao đếch có thèm ngó.
- Vô đây làm gì đông dữ vậy?
- Bảo là vô dự đại hội mừng công mà. Sẵn dịp chia chác ghế Bộ trưởng thứ trưởng. Tư Siêng nhà mình nẫng cái ghế Bộ Trưởng Văn Hóa là chắc rồi. À quên, có mấy ông thầy cũ của tao nữa.
- Ai đó?
- Nguyễn Văn Chì và Nguyễn Văn Chí. Nghe nói thầy Chì được xếp cho ngồi ghế Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, thầy Chí thì làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân SàiGòn Chợ Lớn. Còn hai đồng nghiệp của mày thì ôm cẳng Lưu Hữu Phước tức là Thứ Trưởng Văn Hóa.
Tôi cười:
- Còn mày giữ bộ nào?
- Tao à? Chắc là bộ DTR, tức là Bộ-dùi-trống, hoặc bộ ĐKZ.
- Là bộ gì?
- Là bộ Đ… không giật.
Đ… không chạy mới đúng chớ. Ê, tao hỏi thiệt nghe. Mà mày hứa là mày nói thiệt thì tao mới hỏi.
- Hỏi đi.
- Cô anh hùng sang tố khổ với mày, mày có cảm động không?
- Cảm chớ.
- Cảm rồi ngồi y nguyên hay là kéo tay em ngồi giằn lên bụng?
- Thôi mày ơi ! Còn nhiều chuyện bí ẩn ở màn hai, màn ba lắm nhưng để hồi sau sẽ phân giải.
- Có mày một chân trong đó hả? Ê, mày ở như mày có ăn chung mâm với ổng không?
- Chung sao được mà chung. Ổng ăn đặc tiểu táo, còn tao là trung táo cách nhau ba bậc mày không biết chế độ trong quân đội à ?
- Mày đi Liên Xô học lấy bằng Phó Tiến sĩ triết học rồi mà !
- Cái bằng đó chẳng hơn gì cái tấm tả con nít.
- Vậy sao thằng cha Khiết đi Liên Xô một lượt mày nó về nước rồi vô đảng làm Trưởng Phòng Huấn Học của Ba Trà.
- Ba cái thứ đó tao ỉa cũng ra. Thằng Khiết học ngu như bò. Nó đếch có dám phát biểu ý kiến gì mới. Giáo sư bảo nó nên nghỉ đi đừng có học môn triết học vì biết nó không có óc sáng tạo. Những thằng có óc sáng tạo, về nước đều văng dênh hết cả. Hễ trong học bạ, bên Liên Xô phê cho mấy câu “sáng tạo” hoặc “có tìm tòi nghiên cứu, có ý kiến mới” thì về Hà Nội bỏ mạng sa tràng ngay. Sáu Thọ chẳng đề bạt lại còn đày đi đất trích.
- Sao vậy ?
- Vì Trung ương sợ nuôi ong tay áo cái kiểu Lê Vinh Quốc và Võ Văn Doãn tao nói hồi nãy chớ sao. Lãnh tụ đảng mình gồm những bộ óc bò, vô học nên rất sợ văn hóa văn minh. Nói ra câu gì đảng muốn một trăm năm sau nhân dân nhắc lại y như vậy không được thêm bớt chữ nào.
- Vậy sao ông đại tướng bắt mày làm bí thư cho ổng?
- Ổng thích nghe triết học. Tao thường giảng cho ổng nghe. Ổng có óc cầu tiến hơn xừ Giáp. Xừ Giáp ỷ ba cái chữ Tây nhưng về việc tổ chức thì Sáu Vi giỏi hơn vì ông ta có óc thực tế lại muốn tìm hiểu triết học. Lắm khi ổng thú thật với tao rằng ổng dốt và chẳng biết Mác Xít là cái gì. Ổng không học Mác Xít ngày nào cả, nhưng vì ghét Tây, yêu nước nên ổng chiến đấu vậy thôi.
- Thế à?
- Thì ổng xưng tội thế, ai biết đâu !
- Vậy sao mấy lần ổng đến nói chuyện với văn nghệ sĩ ổng khạc ra Mác vậy.
- Ừ thì lập trường ai nói chả được, nhưng vận dụng triết học Mác là chuyện khó chớ mậy.
- Mày có khá không?
- Tao chẳng hiểu giống máu gì cả. Đại khái như cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam này thì ai làm cũng thế thôi nghĩa là cứ nhắm mắt đánh bừa may ăn rủi thua chớ có ai thấy Các Mác Xít là ở chỗ nào. Tao học thì thuộc bài lắm, nhưng nhiều khi tao tự hỏi: Tốn cơm đi nhai ba cái này để làm gì? Đi cày một vạc đất trồng mấy cây lúa còn có ích hơn.
- Luận án của mày có gì khác không?
- Là Chủ Nghĩ Mác và Vấn Đề Tôn Giáo thôi, không có gì khác hết.
- Mày định luận thế nào để nẫng cái bằng Phó Cối?
- Tao nêu lên một luận điểm chính là tôn giáo là kết quả của cả triệu năm lạc hậu của nhân loại. Khi được ánh sáng Mác Xít rọi vào tôn giáo sẽ tan ngay không cần phải dùng những phương pháp giết chóc tù tội tàn bạo như đảng làm đối với Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo ở nước mình. Tao lấy ví dụ về những chiến dịch mình tàn sát dã man các vùng Hòa Hảo ở Láng Linh năm 1947, ở Ba Dầu Định Mỹ năm 50-57 và nêu những trò hề dùng Mười Trí làm một loại keo để hàn gắn sự đổ vỡ đó. Tất cả đều chỉ mang lại một kết quả: TẤT CẢ ĐẠO GIÁO Ở VIỆT NAM ĐỀU THÙ CHÚNG TA MỘT MỐI THÙ BẤT CỘNG ĐÁI THIÊN.
Đọc bản thảo luận án của tao xong chắc ông thầy cho tao điểm cao nhất. Ngoài ra còn điện riêng về Ban Tuyên Huấn nhà hãy nhận tao vào làm công tác tuyên huấn đảng, ổng còn nói rằng ở Liên Xô đảng có giết phản động nhưng không có trường hợp nào Hồng Quân bắn vào dân chúng giết một lúc cả trăm người hoặc thiêu hủy các làng mạc tôn giáo như thế.
Khi tao về nước, Tố Hữu không ngó ngàng gì tới tao mà lại đưa tao làm bí thư cho ông Vịnh. Ông này thì chả biết gì cả ngoài cặp mông bà vợ nhỏ. Tao than với ổng rằng tao xa nhà lâu quá, muốn về Nam chiến đấu, ổng bèn đưa tao vô Bộ Quốc Phòng nằm chờ. May sao Cục Tổ Chức chộp được, đưa tao cho ông Sáu Vi.
- Bây giờ mày định làm long-tong suốt đời à?
- Ở thế, sau đây tao xin về tỉnh nhà.
- Ở đâu?
- Gò Công. Thôi nhé ! Đừng có hỏi thêm nữa ! Tao đã vui miệng mà khai hết nỗi lòng của tao cho mày rồi. Đó là sự thực tao đã sống qua. Chắc mày cũng có những điểm giống tao! Nhưng bây giờ làm gì ? Chúng mình đã đi từ đầu, thì phải đi đến cuối, mặc dù hết muốn, cũng phải đi.
Tôi buồn vô kể. Đêm rừng là một thứ day dứt tàn nhẫn cả thể chất lẫn tâm hồn. Nghe thằng bạn tâm sự mà chán chê tê tái. Tôi nói:
- Mai mốt tao đi đồng bằng.
- Đi đâu?
- Về xứ! Thăm cha mẹ ông bà, mồ mả tổ tiên. Đi hai mươi năm chẳng ra cái tích sự gì .
- Đi cho cẩn thận nhé. Mày là con một trong gia đình. Nếu hồi ở Hà Nội mày nghe lời tao lấy vợ thì đã có con rồi. Dù bề gì gia đình mày cũng có người nối dõi. Nói không phải trù, nhưng cây một trái, rủi mưa gió sái mùa, nó rụng rồi làm sao. Do đó khi tao về tới nơi tao kêu vợ vô. Thấy thằng con trai lớn xộn, tao mừng quá cỡ. Tao bắt nó vô luôn với tao.. Vợ tao bảo để cho nó học xong Tú Tài đã. Tao nhất định đem nó vô đây. Cha con nghĩa nặng mà mậy. Dù sao cũng có nhau. Cha con hai bên chàng hảng, ra trận giết nhau đau lắm. Mày về đồng bằng phải cưới vợ ngay đi. Muộn mẹ nó rồi. Nhưng muộn còn hơn không.
Nghe bạn khuyên tôi luống ngậm ngùi. Mải mê đi theo cách mạng mà “cách cái mạng” mình luôn. Người ta đi theo cách mạng cưới cả vợ bé vợ mọn thứ hai thứ ba cơ đấy. Mình thì tuổi cứng cạy rồi vẫn không ngờ. Chả biết vợ con là gì.
Ngu thật, ai biểu tôi mê cụ Hồ, mê xã hội chủ nghĩa, mê những thứ gì đâu đâu. Nữa thôi ?
- Mai biết ‘còn gặp nhau không! Tao khuyên mày nhớ lời tao nhé.
- Như Nguyễn Văn Trôi trối “Hãy nhớ lấy lời tôi” vậy hả?
- Bậy nào! Tao đã sắp chết đâu mà trối. Thôi ngủ đi, gần sáng rồi. Mai tao gặp bà Thanh Loan bảo bả sửa soạn đem mấy chục cái “trống” qua cho người ta “thử.”
Tư Mô vốn là tay mất ngủ thường xuyên. Đêm nào cũng nuốt vài viên Tranquinol để vỗ an giấc điệp, nghe Thuần bảo “ngủ đi” thì cười xòa:
- Làm sao ngủ được mà ngủ ! Nghe chú kể chuyện có lẽ tôi phải uống cả ống Tranquinol họa may mới ngủ được.
Tôi bảo Thuần:
- Ổng cũng xa vợ hằng chục năm rồi đó. Bởi do cái tánh ham vui. Phen này hai anh em tao lội Đồng Chó Ngáp về Bến Tre một keo, coi nhà cửa ra sao !
- Ủa ổng cũng dân bà Ba Định à?
- Ừ, làm thi sĩ sớm lắm.
- Còn chuyện cái bà Tư Lệnh Phó của mày nữa. Có lẽ phải mất một đêm mới kể hết.
- Chuyện gì ? Bả được ông Sáu Vi đề bạt ngồi chồm hỗm trên đầu tụi “trí ngủ” ngoài thành là vinh quang tột đỉnh rồi còn chuyện gì nữa.
- Cái gì lên tột đỉnh rồi cũng rơi xuống đáy cả. Thôi ngủ đi. Để sáng mai có “dưa hấu” rụng còn sức mà đội.
- Bậy bạ hoài mậy!
Sáng hôm sau Thuần cuốn võng uống trà rồi đi về.
Tôi rất buồn. Những thằng bạn cũ dám nói với nhau những chuyện bất mãn của mình và chuyện lăng nhăng của thượng cấp không phải là nhiều. Ở gần những thằng đạo đức giả như thằng Hồ Chí Meo, Lê Xuẩn và thằng cha X,Y,Z… thiệt không thoải mái chút nào. Tôi vốn là tên thích nói nhảm, nói tục, nói tào lao, không ưa lễ mễ dạ thưa thì ở rừng là phải lắm nhưng lại không có bạn. Nếu có thì sắp xa nhau rồi: thằng Sáng.
Sáng hôm đó vừa ăn cơm xong thì cơ quan lại họp để quyết định phân tán tránh CZ Johnson City. Những ai ở lại tiểu ban thì lo chuẩn bị dời sâu vô đất Con Mên. Bên bộ phận nhạc nhọt gì của Lưu Hữu Phước gồm năm, sáu ngoe trong đó có anh chàng chơi vĩ cầm có hạng ở Hà Nội. Anh ta treo cây violon trong lều ni-lông thấy mà tội nghiệp. Sợ nó ướt khi trời mưa, anh ta trùm ba bốn lớp ni-lông. Lâu lâu mới mở ra kéo một vài bản. Chẳng ai buồn để ý. Vì nó lạc lõng, chối tai thế nào ấy. Ai lại đói thấy mẹ còn ngồi nghe Schubert hay Mozart? Anh ta mê một cô vũ ba-lê cùng vượt Trường Sơn vào cùng chuyến với tôi tên là Hồng. Hồng đẹp lắm, tay chân vóc mình gì cũng tuyệt cả. Đi học Liên Xô mới về xung phong đi Nam để “biểu diễn cho đồng bào Sài Gòn xem.” Vô tới đây cặp đùi ngọc trở thành hai con lươn bông, mặt mũi bủn xì, tóc rụng có nùi, đầu gần trọc hết. Và không có nhảy một bản nào cả.
Mặc dù vậy cô nàng cũng được coi là một mỹ nhân. Và ông vĩ cầm vẫn cứ mê như thường. Nhưng cô Hồng thì tối ngày cứ ngồi thở hắt ra hoặc gỡ mài ghẻ ở chân. Ai hỏi gì, ai bảo gì cũng lắc!
Bạn của Hồng là Điệp. Điệp kém hơn nhưng đã có “chồng” rồi. Chúng nó “lễ gai cho nhau” từ trên đường Trường Sơn, vào đến đây thì xin làm đám cưới, nhưng tổ chức không cho. Bảo rằng vào đây là để phục vụ không phải để yêu đương. Nhưng chúng cứ đánh du kích hoài hoài, cơ quan can không lại nên đành chịu thua.
Anh chàng cũng là nhạc sĩ, nhưng thổi kèn đồng, học bên Hungari mới về, có sứ mệnh đi vào đây để xây dựng đội quân nhạc cho giải phóng quân đi “ô pà” trong ngày diễu binh mừng chiến thắng. Anh ta hít vô hay thở ra đều rặc bất mãn. Nghe kẻng đánh gọi lãnh cơm, anh em bảo hắn đi.. Hắn bảo: “Cơm cần nhưng không cần bằng nói thật!” Được mời họp, hắn bảo: “Họp để nói láo thêm chuyện gì ? ” Kiểm thảo hắn léng phéng với cô bạn, hắn nói toạc ra: “Các đồng chí cứ thiến tôi đi, chớ để tôi nguyên thế này thì chỉ mất công kiểm thảo.” Hắn chỉ phục có mỗi một mình Hoàng Việt nhưng Hoàng Việt bảo hắn có lý nên không khuyên can gì cả. Thế là ông Cai kèn cứ bất mãn lồng lộng chẳng nể nang ai. Ông Cai gặp ông họa sĩ Đức thì kể như hết chỗ chê. Một ông thì châm biếm, một ông bất mãn, nói toàn những danh từ trời ơi ! Khỉ nghe cũng chạy tét.
Rồi một hôm tôi nhận được thư chính thức của Nguyệt ở bên Bộ Chỉ Huy Quân Giải Phóng. Thiệt là vui mà cũng thiệt là buồn. Vui là vì phen này tôi có vợ. Buồn là từ nay, không có làm thơ tình, cũng không có viết thơ loại trời trăng mây nước nữa. Tôi phải nghe lời ông Mô và thằng Thuần: lấy vợ!
Thư của Nguyệt gởi từ Bộ Chỉ Huy qua đến đây mất một tháng. Nàng đã đến nơi. Khi vô đây tôi có nghe danh từ “bên Bộ” nhưng đâu có biết “bên” Bộ là bên nào. Rừng thì ở đâu cũng như ở đó. Cây cao bạt ngàn, lá che bít mặt, khỉ già khỉ con lao xao, đâu đâu cũng chỉ là người sống chung với khỉ, hoặc người trở thành khỉ sống chung với người.Tôi bàn tới bàn lui với Tư Mô rồi tôi quyết định đi sang gặp Nguyệt. Đi bằng cái gì? Ở đâu thì cũng chỉ xe đạp muôn năm. Cả tiểu ban có ba cái, một cái cho tiếp phẩm, một cái cho ông trưởng tiểu ban và một cái cho toàn thể thần dân Văn Nghệ.
Như nguyên lý của cuộc sống, cái gì chung thì tồi tệ, cái gì riêng mới đẹp đẽ. Cái của tiếp phẩm thì không thể mượn được, cái của thần dân thì nát bét ra rồi, hai lốp chưa xì nhưng một cái pê-đan đã lọi, nghĩa là không thể đạp được. Đó là điều quan trọng nhất. Đã kêu là xe đạp mà pê-đan hư thì làm sao đạp. Mà đã không đạp được thì bánh xe không thể lăn. Tôi muốn làm gan mượn chiếc xe riêng của đồng chí trưởng tiểu ban nhưng Tư Mô can:
- Ổng để làm chân làm cẳng lên họp trên Ban (Tuyên Huấn), chú mày đi ít nhất cũng vài ba tuần, ở nhà rủi có chuyện gì hỏa tốc ổng làm sao ?
Thế là còn cái xe của tiếp phẩm, nhưng tiếp phẩm không xe, thì anh em nhịn đói ! Khả năng giao thông cuối cùng là chiếc xe công cộng. Tôi xem tới xem lui bèn sực nhớ cái xe đạp của ông bưu điện trong Quê Người của Tô Hoài. Một hôm chiếc xe bị hỏng ghi-đông, ông ta đẽo nhánh dúi thay vào. Thế mà lại có một cô nàng mê ông ta ốm lăn ốm lóc ra cơ đấy. Vậy cái xe này chỉ gãy pê-đan thì hãy còn khá hơn xe của ông ta nhiều. Tôi bèn vác dao đi đốn một nhánh cây tra vào trong cái cần pê-đan. Thế là ổn. Tôi từ giã Tư Mô với sự cảm động còn hơn buổi Kinh Kha sang Tần. Tư Mô cũng rưng rưng nước mắt như tôi:
- Chú đi cho cẩn thận nhé. Mau mau rồi về đi Bến Tre !
- Đi thì đi chớ biết cẩn thận là thế nào anh !
- Bom đạn phía bên đó nhiều hơn bên này. Tôi ở nhà lo sắm sửa đủ hết chờ chú về rồi đi !
- Tôi sang gặp cô ấy bàn định công việc rồi trở về ngay.
- Chú nói vậy sao được ! Ít gì cũng ở chơi một tuần lễ chớ!
Tối hôm đó anh em họp lại đông đủ ở lều Tư Mô. Ai cũng tỏ vẻ mừng cho tôi cả. Con quỉ phen này chịu phép rồi, không còn “phá tán” ai nữa. Thế là tôi đi. Bạn có tin rằng câu chuyện sau đây là sự thực không? Xin hãy đọc tiếp.
Tôi đạp xe đi một lúc thì cái khúc cây thay cho pê-đan gãy lọi. Tôi phải chặt một khúc khác tra vào. Đạp một lúc lại gãy. Bởi vì đường rừng, phải đạp mạnh xe mới trườn tới được. Một khúc gỗ chỉ to bằng ngón tay cái thay cho thỏi thép tra vào cần pê-đan thì làm sao bền được ?
Nhưng tôi cũng không bỏ chiếc xe đạp. Có ai dùng xe đạp một pê-đan trên thế giới này không? Nếu có thì đó là nhà văn Xuân Vũ của tiểu ban Văn Nghệ R năm 1963. Thiệt là một kỳ quan kỳ cục. Vứt nó đi thì không thể, còn dùng nó với chức năng bình thường thì cũng không được. Tôi đành phải nhảy xuống dắt nó đi. Cho đến chiều tối đến một cái xóm không biết tên 1à gì. Tôi vào đại một ngôi nhà bên đường xin nước uống. ..
Tôi bèn trỏ cái xe cho chủ nhà là một người Miên xem. Thời may ông ta có cái sườn xe đạp hư treo lủng lẳng trên vách. Ông ta lấy xuống, tháo chiếc pê-đan tra vào cho xe tôi. Tôi trả cho ông một, hai trăm rịa (gì đó không nhớ). Ông ta tỏ vẻ thương người nên tối hôm đó tôi ngủ nhờ trong chuồng trâu của ông. Hai con trâu nằm trong vũng sình để khỏi bị muỗi chích, hôi hám lạ lùng: Giống như RẶC TRÂU ở vùng Nghệ Tỉnh ta vậy.
Ông cho tôi ăn cơm nếp hấp trong giỏ mây với mắm bò hóc. Ối chao ơi ! Ngậm miếng mắm mãi và phải vận dụng tất cả lập trường mới nuốt nổi. Chỉ một miếng thôi, rồi chỉ ăn cơm nếp không.
Đêm ngủ tôi sợ quá ! Đi như thế này liều mạng thật. Nếu lão già Miên giết tôi chết để lấy chiếc xe đạp và cái ba lô thì chắc không có ai hay. Nhưng cũng may, sáng hôm sau tôi vẫn còn sống. Lão già lại cho tôi ăn cơm. Tôi trả thêm rịa và lên đường một cách hùng dũng. Trưa hôm đó mới tới con đường đá. Cứ theo bản đồ của anh em ở nhà vẽ cho mà đạp miết. Gần đến chiều thì lại vỡ lốp.
Mẹ kiếp tai nạn gì mà liên tục thế này ! Thấy một cái xe bò đi tới, tôi bèn hỏi đi nhờ. Thì ra là xe bò chở gạo tiếp tế của phe ta. Người đánh xe bò là dân Mùa Thu và là cán bộ chăn bò ở nông trường Lam Sơn nơi tôi từng vào lao động thực tế sáu tháng. (Do đó có mấy chuyện tôi kể ở trên kia). Anh ta tên là Tư Thêu (sau này gặp lại ở Củ Chi, cũng vẫn “lái” xe bò). Tư Thêu cho cả tôi và xe đạp lên xe bò. Tôi ngồi ngất nghểu trên những bao gạo và nói chuyện ba đồng bảy đổi với Tư Thêu:
- Về hồi nào ?
- Mới mấy tháng đây thôi, còn anh ?
- Vừa vô tới ! Có bỏ cọng rau muống nào ngoài đó không ?
- Tôi chưa bị quấn, chớ tụi đại đội 2, đại đội 4 bị thiếu gì. Có đứa cưới vợ Mường nữa anh ạ. Vui lắm. Bây giờ về hết rồi.
- Rồi làm sao?
- “Dang mi ra” cho ta về nước chớ làm sao ! Chuyến tôi đi liên hoan to lắm. Hùn tiền mua gà vịt mấy bội, nhậu sáng đêm. Mấy bà bầu tới khóc lóc, nhưng đi thì vẫn cứ đi.
- Về trong này cưới vợ chưa?
- Tôi quê ở Thanh An, mấy ổng cho về công tác Củ Chi. Về một tháng là gia đình cưới vợ cho xong.
- Rồi sao lên đây?
- Lên đây cũng gần. Lâu lâu xách xe đạp chạy về rồi trở lên. Tôi tính đưa vợ lên cất chòi ở trên này luôn. Nhưng coi mòi găng quá nên tôi chưa quyết định. Còn anh đi đâu lang bang đây?
- Cũng đi cưới vợ!
- Giỡn hoài anh !
- Bên Bộ Chỉ Huy ! Thiệt mà !
- Ờ phải. Nhưng anh ở đâu tới?
- Bên dân chánh.
- Rồi cưới ai bên này?
- Người này chắc chú biết.
- Ai vậy ?
- Văn Công Sư Đoàn 330.
- Ai?
- Cô Nguyệt, trưởng đoàn.
- À tôi biết rồi. Tôi quen nhiều người trong đoàn đó lắm. Tôi coi họ hát hoài mà.
- Ai?
- Tám Thơm, Huyền Tung, chị Cuộc, chị Hiên v.v… Sao ở ngoài anh không cưới, để về trong này mới cưới.
- Chịp ! Thì khổ vậy đó chú ơi !
- Chị ấy vô hồi nào?
- Vừa vô tới, cô ta gởi thơ cho tôi, tôi phóng qua ngay đây !
- Làm gấp gấp, kẻo không kịp.
- Không kịp gì ?
- Coi bộ Mỹ nó làm tới nơi rồi. Nó chơi cái kiểu xây cù bắt chuột. Nó gom mình vô rọ rồi hốt một phát là sạch.
- Đây vô đó còn xa không?
- Không xa lắm, nhưng anh có giấy giới thiệu đặc biệt không?
- Đặc biệt gì ?
- Vô tới trong cái “nồi gọ” đó không có dễ đâu nghen anh. Toàn là thứ dữ không thôi. Anh phải qua mấy trạm gác mới tới được.
- Chiều nay tới không?
- Tới nhưng mà tối rồi, nó không có cho anh vô đâu.
- Xe bò ở đâu vầy nè?
- Của đảng chớ ở đâu anh !
- Sao chú lại làm cái việc này?
- Đảng bảo thì phải làm. Hồi ở ngoải tôi có hứa miễn về được trong này, làm gì tôi cũng làm, bất kể là chuyện gì. Đánh xe bò cũng vinh quang lắm chớ. Nhưng chỉ một mình tôi mới liều mạng đánh xe đi giữa đường ban ngày như thế này. Anh coi giờ này có bóng dáng chiếc xe nào không. Độc một mình tôi thôi.
- Sao vậy?
- Vì máy bay nó thấy là nó xơi tái ngay thôi. Tôi ớn lắm, nhưng đi đêm rất cực. Bây giờ tôi sợ chết hơn hồi đi trên Trường Sơn. Anh biết tại sao không?
- Không.
- Vì sắp có con rồi !
- Ủa, mau vậy hả?
- Thì nàng tắt kinh ngay tháng đầu mà. Còn tám tháng nữa thì có con nít oe oe. Ít nhất con tôi phải nhìn thấy mặt bố rồi bố nó hãy chết chớ.
- Sao chú bi quan vậy ?
- Không phải tôi bi quan đâu anh ơi. Cái chiến tranh này ác lắm. Mình không có sống được để ăn mừng thống nhất đâu !
- Chú nói thiệt chớ !
- Chết lạ lắm anh ạ. Mới thấy đó lại chết liền. Ngay trên đường này. Đêm hôm kia. Một đoàn xe bò nhé. Bỗng một trái pháo bắn rầm. Hai con bò tan xác. Hai người chủ cũng văng theo bò. Bốn chiếc hỏng, ba bị thương. Xe tôi đi chót nên không việc gì. Con người có mạng anh ạ. Tôi lụt tụt đi đằng sau nên chẳng việc gì ! – Tư Thêu móc túi lấy thuốc hút và tiếp. – Tháng trước xe tôi đi đầu thì pháo bắn vét trúng khúc đuôi. Tôi chết hụt hai lần rồi. Chắc lần thứ ba thì dính. Không lẽ tôi hên hoài.
- Sao không về quê công tác?
- Tôi cũng định xin về Thanh An làm cán bộ xã để ở gần nhà, nhưng ở trên bảo thiếu người nên cứ xét tới xét lui hoài.
- Đánh xe thế này chừng nào thì lên đại tướng được?
- Lên đâu mà lên anh. Tôi đi bộ đội mười năm, ra Bắc đào đất tám năm, anh biết tôi lãnh quân hàm gì không?
- Quân hàm gì?
- Thượng tá. Há há… há. Thiệt mà, nhưng Bộ Quốc Phòng phát lộn cho ông Cống đeo dùm, nên được thượng sĩ. Tôi đeo được vài hôm thì ở trên lại bảo phát lộn nữa nên tôi chỉ còn trung sĩ. Vô đây thì không còn gì hết. Nhưng tôi thấy không cần nữa. Tôi đâu có công gì. Chính con bò mới có công chứ. Nếu ở trên gắn quân hàm thì xin gắn cho nó. Ờ ờ… gắn ở chỗ Nguyễn Công Trứ lấy cái quạt che.
- Chú về trong này rồi rượu ở Thanh Hóa ai uống cho hết ?
- Tại tụi tôi uống bạt mạng cho nên họ mới kháp nhiều chớ nếu không có tụi tôi thì họ kháp bán cho ai ?
Chiều hôm đó tôi tá túc với Tư Thêu. Y chở gạo tới giao cho quản kho rồi trở ra:
- Bây giờ hết giờ làm việc rồi. Anh ra chòi tụi tôi nghỉ đỡ. Ở đây toàn là dân thuộc F330 hồi trước. Ở ngoài đó chăn bò, móc gốc lim, về trong này lại đánh xe bò vác gạo. Kể ra lính Nam Kỳ mình cũng hân hạnh lắm đấy!
Tôi nôn nóng muốn vào gặp Nguyệt ngay, nhưng Tư Thêu bảo:
- Nói là tới, nhưng anh cũng phải mất nửa ngày nữa ! Thủ tục phiền phức lắm.
- Thủ tục gì ?
- Thủ tục vô khu vực của Bộ Chỉ Huy chớ thủ tục gì. Xin lỗi anh cấp bực gì ?
- Tôi đâu có cấp bực gì.
- Muốn vô đó phải là đại úy trở lên. Cỡ tụi tôi còn khước mới vô được.
- Vậy muốn vô đó phải làm sao?
- Anh cứ ở đây nhậu chơi đã, để tôi lo cho. Anh chân ướt chân ráo lại không có cấp tước, vô đó bị tụi nó xài nguyên tắc, có khi bảy ngày anh chưa gặp được chị Nguyệt. Tụi tôi tuy là đám chăn bò nhưng có đường dây riêng. Chăn bò móc với chăn trâu, đi cửa sau mau hơn cửa trước.
Tôi đành nghe theo Tư Thêu, mắc võng lắc lư nằm chờ. Tổ đánh xe bò toàn là dân Nam Kỳ, anh nào anh nấy đều quá lứa cả. Họ rất vui mừng coi tôi như một thằng đồng bệnh Nam Kỳ ế vợ ở miền Bắc. Họ có thừa gạo còn thức ăn cũng không thiếu. Họ có một tốp đi săn thịt rừng. Cho nên ăn uống rất phè phỡn.
Tôi uống rượu cũng khá lắm. Hồi ở Hội Nhà Văn tôi uống rượu nổi tiếng hơn viết văn mà ! Tôi đóng góp thêm rịa và tiền Sài Gòn. Một người vác xe đạp chạy đi, một tiếng rưỡi đồng hồ trở về với bốn bình toong rượu óc ách máng trên ghi đông xe đạp. Thịt mển nướng nguyên con như bê thui. Không chặt ra. Cứ để trên bếp xẻo từng miếng ăn và tu rượu như dân thiểu số dọc Trường Sơn.
Một anh tên là Biều cụt hai ngón ở bàn tay phải rót rượu mời tôi rồi hỏi:
- Anh còn nhớ tôi không?
- Đồng chí cũng ở Lam Sơn à?
- Đại đội trồng cao su. Anh đến coi rồi về Hà Nội viết bài “Lam Sơn Quê Hương Mới” gởi vô tụi này đọc khóc muốn chết.
- Tôi viết cái gì trong đó.
- Lúc anh vô thì báo nói là trong Nam Ngô Đình Diệm bỏ thuốc độc giết cả ngàn tù ở Phú Lợi. Anh em trong đại đội biến căm thù thành sức mạnh thức suốt đêm, đốt đuốc đỏ rừng để trồng hột cao su.
- Ờ, ờ, tôi nhớ rồi.
- Lúc đó trời lạnh nên tụi này phải quạt khói cho ấm để cao su không chết.
- Rồi sau đó có mọc lên được không?
- Có.
- Chắc bây giờ gần có mủ rồi.
- Nó chỉ lên được hơn gang tay rồi héo đọt chết ráo anh ạ.
- Sao vậy?
- Đâu có biết. Chắc là vì trồng không đúng đất chớ gì. Cũng như cây so đũa vậy, ở Ba Vì và Viện Nông Học Hà Nội trồng lên rất tốt nhưng không có trái.
Tôi buột miệng nói:
- Đúng là trồng sai đất, như cây vú sữa vậy thôi.
- Cây vú sữa nào ?
- Cây vú sữa của Hồ chủ tịch đấy mà.
- Vẫn không có trái à anh ?
- Trái gì được mà trái !
Con người cũng thế. Sống ở miền Bắc dân Nam Kỳ vất vơ vất vưởng như một lũ ốc mượn hồn. Bây giờ được vứt về Nam cũng chẳng làm được gì ngoài sự cúi đầu phục tùng sự đô hộ của bọn Bắc Kỳ xâm lược.
Tôi hớp một ngụm to rồi bảo:
- Bây giờ sắp tập kết một phát nữa đó các bạn ạ.
- Sao?
- Sắp tập kết lần nữa . Hì..hì..!
- Giỡn hoài anh Hai ơi ! Chuẩn bị bỏ vợ bỏ con phát nữa hả?
Vừa đến đó thì Tư Thêu từ bên ngoài đẩy một người vào:
- Ê thằng Bắc Kỳ này chơi được lắm. Cho nó đi vài chầu đôi rồi chốc nữa sẽ bàn công việc giúp ông “nhà dăng” của mình. Nè, Tám Nghĩa mày muốn chơi với tụi này thì phải lấy bằng cấp mới được.
Tám Nghĩa nói giọng rặc su hào:
- Dưa hấu chơi tới đâu rau muống chơi tới đó, sợ gì !
Tư Thêu cầm bi đông rượu mở nút kê vào miệng Tám Nghĩa:
- Hết bình này là cao cấp, nửa bình là trung cấp, một phần ba là sơ cấp. Làm đi. Không có nói nhiều.
Tám Nghĩa ngửa cổ ra nốc hai ba cái bị sặc, lấy bi đông ra, chùi mồm và nói:
- Có gì đưa cay không chứ?
- Ờ quên !
Tư Thêu bẻ cái giò mển khét cháy đưa cho Tám Nghĩa. Tám Nghĩa nhai rau ráu rồi nốc tiếp một hơi dài, đưa bi đông cho Tư Thêu. Tư Thêu lắc lắc bi đông và nói:
- Mày chỉ đậu sơ cấp thôi. Cho ăn đại táo!
- Thế cũng được ! – Tôi bảo – Tửu bất khả ép.
Tám Nghĩa lắc đầu:
- Em chịu thua các đại ca thôi.
Một anh to lớn, mắt đỏ lừ, râu ria như chổi xể, tay chân như hộ pháp nãy giờ không nói gì cả, bây giờ mới rót rượu cho tôi và hỏi:
- Bộ quên tôi à ?
- Ơ …ơ…
- Vương Tư Đồ đội trưởng đội đánh cá của nông trường Lam Sơn nè cha!
- Ờ ờ…Tôi có gặp ông ở kho gạo trên Trường Sơn mà.
- Về đây vẫn làm thủ kho.
- Còn đờn “vặn cổ bà con” không?
- Mới gởi mua được cây Xi-ta ở ngoài chợ Long Hoa.
Đó là Bảy Nguyên, một tay chơi nhạc cổ rất khá nhưng không chịu vô Văn Công. Ngón tay y thật to, bấm bít cả phím đờn. Tôi hỏi:
- Mấy thằng Mỹ giam trong hầm ở kho gạo ông trên Trường Sơn ông giao lại cho ai ?
- Chết mẹ nó hết ráo còn giao cho ai gì?
- Sao vậy ?
- Nó không muốn sống thì nó chết chớ sao! Thôi bỏ đi, uống!
- Uống thì uống!
Một chập Vương Tư Đồ nói với tôi:
- Chú muốn vô trong Bộ thì tôi bảo thằng Bắc Kỳ này dắt đường cho ! Nó là cai ngục ở đây đấy. Nè Nghĩa, đây là nhà dăng Nam Kỳ của tao, mày có cách nào đưa ổng vào trỏng được không?
- Để làm gì ?
- Cưới vợ !- Vương Tư Đồ kể luôn câu chuyện của tôi và hỏi: – Có cô Nguyệt ngoài Bộ Tổng vừa vô phải không? Vợ chưa cưới của ông này đấy !
- Thế à ?
- Có không?
- Có một đoàn vừa nam vừa nữ, nhưng không thấy ai tên Nguyệt . . . .
Tư Đồ cười :
- Đây là lũ ăn trộm như tụi mình vậy, đâu có ai dám giữ nguyên tên họ mà mày biết. Nè nhớ nghe, mai mày vô trong đó hỏi có ai tên là Nguyệt Văn Công F330, thì xin phép ra đây có chồng cô ta tới thăm.
- Dạ được rồi. Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó thì dễ mà. Em là trưởng phòng thường trực, ai ra vào em đều nhật ký cả. Nhưng muốn vô bên trong phải là đại úy trở lên.
- Tao biết rồi, nhưng văn sĩ làm gì có cấp bậc.
- Được rồi, để em lo.
- Nội đêm nay mày phải tìm cho ra cô Nguyệt và cho cô ấy hay như tao nói.
- Dạ được.
- Được thì thưởng cho nửa bình toong đấy !
Tư Thêu vừa nói vừa ấn cái miệng bình rượu khóa mồm Tám Nghĩa.
—>Chương 12


- 12 -
Nhờ Tám Nghĩa trưa hôm sau tôi gặp Nguyệt ở phòng thường trực. Kể từ ngày tái hợp Nguyệt trên Trường Sơn với hai ông bạn nhạc sĩ của tôi đến nay có trên ba tháng. Nguyệt cho tôi biết sau chuyên công tác phục vụ bộ đội trên đường dây, nàng về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 330 xin đi Nam ngay. Nàng được đi con đường đặc biệt có nhiều quãng đi bằng xe hơi nên vào đến đây một cách bất ngờ. Bất ngờ nhất là nàng không có màu da xanh vàng bủn beo như dân Trường Sơn.
Bây giờ nảy ra trước mắt tôi rất nhiều chuyện phải giải quyết: Cưới hỏi? Chia tay? Chừng nào gặp? Nếu cưới thì chừng nào đi đồng bằng? Nếu ở lại rừng thì đóng đô ở đâu, bên này hay đem nàng về tiểu ban Văn Nghệ ? Rồi ăn ở với nhau cách nào ? Vợ chồng là điều mơ ước của tôi từ lâu, nhưng khi đụng vào thực tế thì cả một trời khó khăn. Đây tôi kể ra một vấn đề thôi: Cái mùng? Làm sao có được cái mùng và cái giường để vợ chồng ngủ với nhau. Chả lẽ lại treo võng nằm gần nhau thôi ư? Chẳng có ai yêu vợ trên võng cả. Tôi đã từng mục kích một anh Huyện ủy làm tét võng chết một cô bé ở Trường Sơn. Đá nhọn đâm gãy đốt xương sống ở lưng quần. Anh chàng dông mất bỏ cô gái nằm quằn quại rồi chết.
Ngoài cái mùng còn cái giường, ngoài cái giường còn cái nhà, ngoài cái nhà còn túi tiền. Cả hai đứa đều là vô sản hoàn toàn. Và nếu nàng có thai thì đẻ con ra ai nuôi . Tôi đã từng thấy hai cặp vợ chồng ở tiểu han Văn Nghệ. Nó không ra làm sao cả. Nhếch nhác, lãng xẹt !
Nhưng mà đã đến đây rồi, tôi không thể trở lui nữa.
Sau một ngày chờ đợi sự duyệt y của bên trên, tôi mới được Tám Nghĩa cho vào khu ngoài của Bộ Chỉ Huy và được phép mắc võng gần Nguyệt.
Ở khu này có khá đông người: Những cán bộ từ sơ cấp đến trung cấp từ Bắc vào đây nằm chờ đợi sự phân công của Bộ để đi các tỉnh hoặc các cơ quan.
Đúng như lời Tư Mô nói: “Ít nhất cũng phải ở chơi một tuần.” Nhưng vừa mắc võng gần bên Nguyệt là tôi đã thấy một tuần lễ không dài hơn một cái chớp mắt. Câu đầu tiên tôi nói với Nguyệt là:
- Chúng ta nên thành hôn em ạ!
Nguyệt làm thinh. Tôi không biết Nguyệt không đồng ý hay đồng ý, bền rấn tới :
- Có lẽ anh phải xin phép hoãn lại chuyến đi đồng bằng.
Nguyệt vẫn làm thinh. Tôi không biết phải nói gì nữa. Đang nhúm bếp nấu hai chiếc cà mèn cơm, Nguyệt quay lại nói :
- Rồi làm sao anh . Làm sao sống?
Làm sao sống ?
Bây giờ tới lượt tôi làm thinh. Tôi nằm trên võng thò đầu ra nhìn những ngọn lửa nhảy múa dưới đít cà mèn. Quả thật nàng có những suy nghĩ giống tôi. Cuộc sống ở rừng, ngoài bom pháo ra còn một ngàn vấn đề khác phải giải quyết trước khi lấy nhau. Hoặc cứ lấy nhau rồi tới đâu hay tới đó. Vợ có bầu sắp đẻ, làm sao? Nhà bảo sanh đâu? Đi bằng cách gì để tới đó nếu có một nơi gọi là nhà bảo sanh như những cái chòt vịt trong kháng chiến chống Pháp chẳng hạn. Cuộc sống ở đây dã man không thể tả hết.
Tôi ngồi dậy để lấy một mớ khô nai mà Tư Đồ cho tôi bữa trước.
- Chúng mình ăn bữa cơm đầu tiên với nhau.
Nguyệt thút thít khóc. Tôi không biết sợ gì hết, chỉ sợ đàn bà khóc .thôi. Nàng khóc là vì sung sướng được gặp lại tôi hay vì sắp phải chia tay?
May quá vừa lúc “tắc nghẽn” tình cảm đó thì Lập và Sử tới.
Lập là nhạc sĩ nổi tiếng Hà Nội với chiếc clarinette. Anh ta chỉ thổi một tiếng “đô” là rúng động lòng người. Không có nhạc sĩ nào thổi tiếng “đô” bằng Lập. Nó nhỏ thó lại gầy, hai con mắt như hai trái dầu u. Cổ cao như cổ con cò ngảng . Không rõ người ở đâu. Còn Sử là bạn tôi từ lúc ở Cần Thơ, tôi làm trưởng tiểu ban Văn Nghệ và đã làm lời cho nhiều bản nhạc rất phổ biến của nó. Anh của Sử là Thanh Cao không về vì vợ đã lấy chồng trong Nam. Sử và Lập đều ở chung đoàn Văn Công với Nguyệt.
Thấy hai người tới, Nguyệt đon đả:
- Hôm nay tôi đãi anh Sử và chú Lập một món.
- Món gì ?
- Thịt nai khô.
- Ở đâu mà chị có? – Lập hỏi.
- Anh Vũ mới kiếm ở đâu đó không biết.
- Vậy để tôi đi lãnh cơm đem lại hùn vô !- Nói vậy rồi Lập chạy đi.
Sử bảo tôi:
- Thôi, mày lo xong cho rồi. Đây là màn chót đó. Ông Cao ổng bảo tao vô nói với mày đừng có xụt xịt nữa. Già ngắt cả đám rồi ! Nó vô đây là vì mày.
- Tao biết rồi. Nhưng mày tính, làm sao sống?
- Kệ mẹ ! Trong chiến tranh ai mà tính trước được những gì sẽ xảy ra. Sống ngày nào hay ngày ấy. Bây giờ ở Hà Nội còn loạn xà ngầu lên kia, trong này thế mà khỏe hơn đó.
- Giỡn hoài mày !
- Tao về đây đâu có từ giã được vợ con. Mẹ con chúng nó di tản đâu lên Bắc Ninh Bắc Giang gì đó. Tao chỉ gởi ít chữ rồi đi.
- Thế cơ à !
- Ngay Bộ Tổng Tư Lệnh cũng đã rời khỏi Hà Nội.
- Mày bảo tao làm gì bây giờ?
- Làm cái gì thì tùy mày nhưng chuyến này nếu lôi thôi nữa là tại mày.
Sử nói thẳng với tôi trước mặt Nguyệt. Sử biết Nguyệt từ lâu và rất thương tôi. Hồi 1952 đã có lần Thanh Cao có ý định bắt em vợ ở Nữ Học Đường Sài Gòn về gả cho tôi, nhưng hồi đó tôi lại không muốn vợ con gì hết để nhẹ gót “lãng dư” theo kiểu Dũng trong Đoạn Tuyệt. Lãng bây giờ trở thành lãng nhách, du bây giờ thành du hí.
- Sao, Nguyệt tính thế nào? – Sử quay sang Nguyệt.
- Em đâu có tính sao. Mọi việc đều do ảnh hết cả.
- Đó thấy chưa. Tao sẽ vô báo cáo với tổ chức dùm mày. Rồi thì tiến hành.
Tôi bảo:
- Mày muốn làm gì đó mày làm.
Chúng tôi ăn bữa cơm khá thịnh soạn. Vì là đi đường đặc biệt, nên nhạc sĩ Lập còn mấy cặp lạp xưởng mang đi từ Hà Nội. Nguyệt còn nhiều ruốc thịt. Sử góp vào mâm cơm một mớ bột ngọt. Vừa ăn vừa nghe tin đánh máy bay Mỹ ở Hà Nội từ chiếc radio Lập mượn của bạn trong Bộ Chỉ Huy.
- Mai mày vẽ dùm tao cái khẩu hiệu nghe Lập !
Sử bảo.
- Khẩu hiệu gì anh ?
- “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ.”
- Chà! Oai vậy hả?
Cơm xong Sử và Lập nằm võng của tôi và Nguyệt nói chuyện khào trong lúc tôi và Nguyệt đi xuống suối rửa gà -mèn và lấy nước lên nấu trà.
Tôi hỏi Nguyệt:
- Em còn giận anh hết?
- Em đâu có giận gì anh.
- Vụ cải cách ruộng đất, thành phần không cơ bản v.v… mà không giận à?
- Ôi thôi, ba cái vụ đó, bỏ đi anh ạ.
- Em hứa là không giận anh chớ .
- Cũng tại em một phần. Tự ái to quá, nên mới như thế đó.
Tôi thấy Nguyệt rất chân thành. Nếu không có ba cái vụ chỉnh huấn Cải cách Ruộng Đất, thì đã không có sự xích mích nhau vì thành phần… Cải Cách Ruộng Đất đã phá nát không biết bao nhiêu tình duyên cán bộ tiểu tư sản và địa chủ.
- Nay mai anh phải đi đồng bằng. Anh muốn có một tấm ảnh của em để đem về gia đình.
- Em đâu có máy ảnh.
- Anh có nhưng không còn. Khi anh đi qua khu 6, đói quá, anh đổi lấy nửa con chó ăn mất. Bây giờ cần thì lại không có.
- Máy ảnh mà đổi cho ai ở khu 6?
- Một ông nhà mình đổi được con chó. Anh ném cho ổng cái máy ảnh đi được ổng chia cho một nửa. Chịp! Lúc đó đổi tán đường hay lạng thịt anh cũng đổi. Nhờ thịt chó ăn liên tiếp mấy bữa và mớ thịt nạc làm ruốc mà anh băng qua nổi vùng Mã Đà. Để anh bảo thằng Lập vô trong đó tìm họa may có.
- Thôi anh ạ! Để em đưa cho anh cái ảnh của em.
- Anh muốn ảnh hai đứa kia chớ!
- Phải rồi nhưng không có thì làm sao bây giờ.
Chúng tôi trở lên với bốn chiếc gà-mèn đầy. Tôi thổi lửa đun nước. Lập chạy về lều lấy gói trà Ba Đình và gói mứt dừa mứt hột sen đem tới.
Sử nói:
- Bữa nay coi như đám tuyên bố của tụi bay luôn. Không cần phải có sự chứng kiến của tổ chức gì cả. Kể từ bây giờ tụi bây thành vợ chồng. Không có cặp tình nhân nào tiến tới vợ chồng gian nan và hằng chục năm như tụi bây vậy.
Nguyệt không nói gì. Nâng ngồi trông chừng lửa, không quay mặt lại. Lập rót một nắp gà mèn trà đưa cho nàng và nói:
- Em chúc mừng anh chị.
Sử lấy một nhúm mứt đưa cho Nguyệt:
- Ăn đi cô nữ sinh. Kẹo này là kẹo ngọt không còn đắng cay nữa.
Sử và Lập cũng làm vậy đối với tôi. Uống vài tuần trà, hai đứa từ giã ra về. Bây giờ tôi nghĩ tới chuyện làm một chiếc giường dã chiến, nhưng không có dao rựa bén. Với con dao găm Hàng Mã tôi không thể đốn nạng và số cây đủ để làm một chiếc giường. Cho nên tôi đi gom lá rải dưới đất rồi trải hai chiếc võng lên. Chiếc lều không có vách. Chúng tôi dùng hai cái mùng giăng khít nhau làm vách nhà. Tuy giăng hai chiếc nhưng chỉ một chiếc có người nằm còn chiếc kia bỏ trống. Tôi nhớ lần gặp Nguyệt trên Trường Sơn. Nhờ có bàn tay của thằng bạn dược sĩ mà chúng tôi có chỗ kín đáo để yêu nhau. Lần đó đã trở thành bước quyết định cho cuộc đời chúng tôi. Cái đêm vừa hạnh phúc vừa hãi hùng. Chúng tôi bị bom trộm suýt chết. Đại úy Mật đã hi sinh vì trận bom đó, không xa chúng tôi mấy.
- Em nhớ lần vừa rồi không?
- Em không nhớ gì khác ngoài anh. Kỳ đó trở ra đến Bộ Tư Lệnh, em xin đi vô với anh liền. Ban tổ chức cho ngay. Mấy ổng cũng biết vụ anh với em, nên trước khi em đi ông Xuân Ôn có gởi lời thăm anh. Ông Xuân Ôn ở phòng Chính Trị ấy mà.
- Ừ, ông ta học trước anh hai lớp, dân cùng quê.
- Với ông Dương Thông nữa.
- Dương Thông nào?
- Ông Phó ban Tuyên Huấn sư đoàn, người Bắc.
- Anh không ngờ em vô nhanh vậy. Nếu em vô trễ chừng hai tuần chắc chúng mình hết gặp nhau. Sẽ có chừng vài ba năm hôn nhau trên giấy nữa.
- Em ngại quá. Chúng ta sẽ sống cách nào?
- Thôi đừng tính lui, chỉ nên tính tới.
- Chừng nào anh đi đồng bằng?
- Đang chuẩn bị đi thì được thư em. Từ đây qua đó mà thư đi mất cả tháng.
- Em vô sau anh chỉ một tháng thôi.
Tôi hôn Nguyệt trên má và trên môi rồi chúng tôi ôm nhau. Chúng tôi sẽ thành vợ chồng đêm nay không có dè dặt không có nhín nhúc gì nữa. Câu nói của Sử và Lập đã xe duyên chúng tôi. Tôi cảm thấy không cần có mặt của tổ chức. Chính tổ chức đã phá suýt hỏng tình duyên của chúng tôi. Ôi cái thứ lập trường rởm!
Nguyệt không phản đối bất cứ cử chỉ nào của tôi. Tôi ngồi dậy cúi hôn hai bàn chân nàng và thầm thì:
- Hai bàn chân em đã đạp lùi những dãy núi đá tai mèo để đến với anh. Tôi hôn lên tóc nàng và nói: – Tóc em dù có trổ bạc như hoa rừng cũng sẽ mãi mãi đẹp như một bài thơ bất tận của anh. . .
Tôi không muốn nhìn quần áo hay bất cứ thứ gì che khuất thân thể chúng tôi .nữa. Da thịt của người con gái trên ba mươi tuổi thơm như hương rừng đọng đặc. Tôi ôm choàng lấy nàng. Nàng kêu lên khe khẽ:
- Anh ! Anh ! Em yêu anh !
- Anh yêu em, Nguyệt !
- Anh đừng giận em nữa nghe. Em xin lỗi anh.
- Không phải lỗi của em.
- Em không bao giờ yêu ai khác.
Tôi hôn môi nàng như uống những tiếng nàng vừa thốt vào trong hồn. Chúng tôi quấn riết lấy nhau. Những đầu núi nhọn, những con dốc trút người, những ngọn suối chảy như điên, những đói rét, những cơn sốt mưa, những chiều nắng cháy những ngọn gió Lào khét man rợ,… tất cả, tất cả đều tan biến trong đôi cặp môi của cô gái và chàng trai Trường Sơn. Chứng tôi sống ngoài trái đất không biết bao lâu.
Độ lúc nửa đêm, tôi bỗng nghe gió ù ù thổi đến. Nàng quay đầu ra lắng tai nghe rồi thầm thì:
- Gió to quá anh ạ !
- Bên em, anh không nghe gì hết! – Tôi càng ôm riết lấy Nguyệt và hôn lên hai đóa hoa lan liên tục.
Nàng vặn vẹo người và đưa tay sờ lên mặt lên cổ rồi đưa dài xuống ngực tôi.
- Anh với em ghi thêm một kỷ niệm nơi đây nhé? – Tôi thầm thì .
Nguyệt trả lời bằng một cái hôn môi rất dài rồi làm một cử chỉ hiến dâng hoàn toàn.
Tôi không ngờ tôi còn nhiều sức lực đến thế. Khi tôi vừa dứt khúc cuối cùng của bản nhạc tình ái thì Nguyệt lại thầm thì :
- Mưa anh ạ.
- Kệ nó. Mưa thì mưa.
- Lều của mình dột hết.
- Anh yêu em giữa mưa, giữa bão, giữa trời long đất lở .
Mặc cho nàng tỏ vẻ lo lắng, tôi vẫn cứ tiếp tục cấn thêm lên con đường hạnh phúc.
Bỗng mưa đổ rào rào trên lưng tôi. Nước trút như ai xối từ ngọn cây. Cả hai đều phải ngồi dậy. Nền đất ướt, rồi nước xâm xấp lớp lá khô. Mưa càng lúc càng to không phải một trận mưa thường. Chúng tôi ngồi đợi nhưng mưa đã không tạnh lại càng lúc càng to thêm.
Những cơn mưa như vầy tôi có lạ gì trên Trường Sơn, nên tôi vẫn phớt lờ, tỉnh khô. Tôi mò lấy trong ba lô ra những tấm ni-lông mà chúng tôi dùng làm áo che mưa dọc Trường Sơn, quấn quanh mình chúng tôi. Nguyệt như chú gà con rút vào cánh gà mẹ. Nàng rủ rỉ:
- Em ước được trốn mưa mãi như thế này.
Tôi hôn lên tóc lên má ướt đẫm của nàng. Chúng tôi ngồi, tay quàng tay nhau lâu lâu lại ngửa mặt nhau ra mà hôn, không thấy sợ sệt gì hết.
Hóa công bất chấp hạnh phúc của đôi trai gái rừng, cứ trút nước xuống mặt đất.
Bỗng Nguyệt kêu lên:
- Nước ngập hết rồi anh ạ !
Tôi lấy đèn pin bấm lên thì thấy những chiếc lá trôi lềnh bềnh trên mặt đất và mép mùng thì phập phều và nhòe ra những phẩm nhuộm xanh cả vùng nước.
- Để anh qua bên lều thằng Sử chút.
- Chi vậy?
- Coi nó có ni-lông dư không anh lấy đem về che thêm lều mình và mắc võng nằm.
- Ảnh làm gì có ni-lông dư?
- Nếu không anh bảo nó sang lều thằng Lập ở .
- Anh có đi thì mau lên. Ngồi một mình, em sợ lắm.
Tôi cầm đèn rọi trên mặt đất và lội lõm bõm. Đến nơi thấy Sử đang ngồi chong ngóc trên võng trong lều.
- Vũ hả? – Nó hỏi. Đi đâu vậy ông nội ?
- Đi qua mày mượn một ít ni-lông về che lều.
- Nóc lều bay hết trơn rồi đâu còn tấm nào. Còn một tấm tao đang choàng đây, có lấy thì lấy. – Nói xong nó quăng tấm ni-lông cho tôi. – Tao đi qua ké lều thằng Lập.
Tôi chụp lấy rồi đi qua lều của thằng Lập. Tôi không ngờ là tôi đi lạc vì nước ngập không còn đường mòn. Tôi đi loanh quanh mãi mới tới lều của Lập để lấy thêm ni-lông.
Lập ở khá xa Sử, nên lúc trở về tôi lại đi lạc. Mưa vẫn trút ào ào. Tôi cố tìm lối về nhưng vẫn cứ đi lang thang. Chiếc đèn pin hết điện lu dần trong màn mưa dày đặc. Tôi cất tiếng gọi to nhưng không có tiếng đáp lại.
Sấm sét nổi lên trên đầu. Lưng trời rách ra bởi những tia chớp. Gió xoáy. Những ngọn cây quay ù ù như những cái đầu tóc của người điên.
Tiếng cây đổ ầm ầm. Một gốc cây to nằm ngổn ngang trước mặt. Tôi hoàn toàn mất hướng về. Tôi sốt ruột muốn về với Nguyệt ngay tức khắc. Tôi ân hận đã bỏ Nguyệt mà đi trong lúc giông gió. Dù có một ít kinh nghiệm ở rừng, nhưng tôi cũng chưa từng lâm vào cái cánh hãi hùng như đêm nay: lạc lối hoàn toàn.
Mãi đến lúc tạnh mưa tôi cũng vẫn không về được lều. Tôi bắt đầu thấy ánh đèn xa xa lấp loáng trong màn đêm. Đó là những toán an ninh đi cứu cấp. Họ biết trận mưa đã làm bật gốc cây rừng. Đã có nhiều người chết vì bị cây ngã đè. Tôi đã từng trông thấy một anh lính bị một nhánh cây gãy phóng ngay bụng như một lưỡi kiếm khổng lồ, trên Trường Sơn.
Toán an ninh đến gần. Tôi kêu cứu. Họ đi tới và chập sau chúng tôi về lều. Nhưng tôi đã không tìm ra chiếc lều hạnh phúc của tôi nữa. Loay hoay mãi lúc lâu tôi mới tìm ra gốc cây và dưới những nhánh cây khổng lồ, chiếc lều mong manh của chúng tôi nằm bẹp dí. Tôi thét lên:
- Nguyệt ! Nguyệt !
Không có tiếng đáp. Một nhân viên an ninh trèo lên thân cây bò theo những nhánh cây mà đu người xuống đất. Từ trong những nhánh cây ngổn ngang, anh ta gọi :
- Chết rồi !
- Ai chết ?
- Không biết ai trong này.
Tôi đứng lặng ngắt, không còn biết nói gì làm gì nữa. Phải đợi tới sáng người ta mới đem cưa đến cắt những nhánh cây để lôi xác Nguyệt ra. Nó bẹp dí như nghiền. Tôi không còn nhận ra Nguyệt nữa.
Năm tấm linh hồn đã qui tiên trong đêm mưa bão hãi hùng đó. Gã nhạc sĩ clarinette cũng chung số phận của Nguyệt !
Áo quan làm bằng thân nứa đập dập đan lại với nhau và huyệt mộ là cái hố dưới gốc cây bật rễ.
Tôi chôn người yêu ở nơi rừng đất nước người mà không còn một giọt nước mắt nào để khóc.
Nàng quyết chí về. Nàng đã đến. Hạnh phúc đã chụp bắt được. Nhưng chính nàng lại biến đi. Thành ra đến rồi cũng như không. Do đó tôi đặt tên cho tập hồi ký này cái tên “Đến Mà Không Đến” để kính viếng hương hồn Trương Thị Nguyệt, quê ở Cần Thơ. Cũng như tôi, nàng đã đến mà không đến.
Ba mươi năm tấm thảm kịch xảy ra, bây giờ ngồi viết thấy rõ lại như in.
Thế là trên đường Trường Sơn về tới R, tôi mất hai người yêu, người nào cũng suýt làm vợ tôi cả. Phương chết ở khu 5 tôi chỉ nghe Thiệp kể lại mà không thấy trước mặt, còn ở đây tôi nhìn tận mắt thi thể của Nguyệt bị đè bẹp dưới thân cây. Sọ đầu bẹp nát quến với bùn và tóc lầy nhầy. Phải mất năm sáu tiếng đồng hồ một tiểu đội công binh của Bộ Chỉ Huy mới cưa thân cây từng khúc và lôi xác nàng ra. Mới vừa là một người con gái xinh xắn mà bây giờ đã trở thành một vật kỳ cục nhìn mà phát kinh hãi. Ruột gan lòi cả ra hai bên hông, lưỡi thè ra một bên mồm và đôi chân nhừ nát, be bét máu me.
Thân cây đã ngã đè nguyên trên người nàng nên không bộ phận nào còn nguyên. Nhưng trong cái rủi có cái may: ở đây có một đội công binh xây cất nhà cửa và đào hầm hố, cho nên có sẵn dụng cụ cắt cây. Nếu ở tiểu ban Văn Nghệ thì phải mất một ngày mà chưa chắc đã đem xác nàng ra được.
Bạn thử tưởng tượng, trước đây một giờ, nơi đấy là giường cưới của chúng tôi. Bây giờ là mộ nàng. Còn nỗi đau đớn nào bằng?
Khi đem được xác nàng ra thì trời cũng hừng đông. Ở chỗ lều kia, một toán công binh khác cũng đã đem được chàng nhạc sĩ clarinette ra. Cây ngã đè lên mình nó như một ngọn roi to vắt ngang. Cái cây nhỏ hơn cây của Nguyệt. Lập không còn ngáp ngáp, mi mắt hết run run, còn tay chân đã tím xanh.
Kẻ mất hồn là Sử. Nó sắp chui vô lều thằng Lập thì cây ngã. Nó chỉ bị nhánh cây quất tét trán. Nếu hai đứa nằm chung võng thì nó sẽ lãnh nguyên thân cây với thằng Lập.
Nó với tôi đi đốn nứa vác về, chẻ ra rồi với sự chỉ dẫn của đội công binh chúng tôi đan thành những tấm liếp rồi ghép lại thành chiếc hộp nứa thay cho hòm. Xác của Nguyệt nát ngớu mềm nhũn. Tôi phải lấy tay hốt những mảnh phổi văng ngoài đất cho vào tấm ni-lông rồi gói lại..
Xong, bốn đứa nắm bốn góc nhấc lên để lọt vào lòng chiếc hòm rồi đậy nắp, ràng bằng dây mây.
Tử đâu táng đó: nơi nàng vừa hưởng hạnh phúc cũng là nơi nàng thọ nạn. Tôi và Sử đắp mộ cho hai kẻ bạc mạng. Xong lại đẽo cây làm mộ bia. Tôi dùng cái lưỡi dao công binh mà khắc có một chữ “N” trên gỗ tươi.
Không có nhang để đốt trên mộ cho ấm lòng người chết. Cũng không có một đóa hoa. Sau cơn bão, tất cả đều điêu tàn. Tôi còn ở đây làm gì nữa. Đi cho khuất mắt.
Tôi thầm nhủ:
- Thôi, nằm đây em nhé. Anh đi ! – Miệng run run nói mà chân đi không đành.
Gia đình nàng có hai chị em. Chị tên là Loan, có chồng là y sĩ trong kháng chiến. Chị Loan thương tôi lắm. Chính chị đã xe sợi tơ duyên cho chúng tôi. Khi ra miền Bắc, chị thấy chúng tôi tự ái rồi chia tay, chị buồn nhưng không biết làm gì để hàn gắn. Tự ái giai cấp thì khó mà dẹp được. Thành phần bóc lột.
Khi tôi vác chiếc xe đạp trở ra đường lớn thì gặp Tư Thêu. Hắn cũng đang đánh xe bò không về hướng cơ quan tôi để ăn gạo. Hắn hay mọi chuyện bên trong Bộ Chỉ Huy. Hắn chỉ thở dài rồi ném chiếc xe đạp lên xe bò.
Tôi ngồi nghe bánh xe lăn nghiến mà đứt từng đoạn ruột. Có ngờ đâu một chuyện lạ lùng như vậy lại có thể xảy ra. Mà lại xảy ra cho tôi. Rốt cuộc cưới vợ rồi vẫn không có vợ ngay sau đó. Tôi không còn ham muốn gì nữa. Nhưng vẫn phải về cơ quan để đi đồng bằng. Cứ chốc chốc tôi quay lại ngó cái ngàn cây um tùm mỗi lúc một xa dần.
- Thôi, em nằm đấy nhé. Anh phải đi. Anh sẽ trở lại xây mộ cho em !
Tôi biết chắc chắn là tôi không đời nào còn có dịp trở lại đây nữa mà miệng thì nói thế để tự an ủi mình và vỗ về linh hồn người xấu số.
Trên đường Trường Sơn tôi cũng đã chôn một thằng bạn đồng hành với tôi và cũng hứa như thế. Tôi cũng đã gặp những cái xác chôn vội bên đường không biết thuộc đơn vị nào. Giải phóng Miền Nam là một sự hi sinh quá đáng, vô ích nữa. Những cái chết thấy mà thương tâm. Dù có chết, người cán bộ hoặc chiến sĩ không phải chết như vậy. Con cái gì của họ mà họ thương xót ?
Đến chỗ rẽ, Tư Thêu dừng xe, nhấc chiếc xe đạp bỏ xuống đất cho tôi rồi bệu bạo nói:
- Thôi, anh đi nhé.
- Ừ, tao đi. Mạnh giỏi nhé.
Hai thằng đàn ông ôm nhau khóc. Nó khóc thay cho tôi.
Và đến bây giờ tôi mới khóc được. Khóc cho nàng và khóc cho tôi.
Khóc trong hờn đau. Hai khoé mắt như hai hốc suối cạn.                               
—>Chương 13
1      2      3 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét