Nhờ sự săn sóc của Vân và chị
Phụng mà tôi và Hoàng Việt đi khá hơn trước nhiều. Ăn uống không tệ như trước.
Và mỗi lần hơi chớm sốt hoặc đau bịnh gì khác thì Vân moi thuốc ra chặn bệnh
ngay. Chính sách của ông dược sĩ là phòng bệnh hơn chữa bệnh, và ăn ngon ăn đủ
là cha thầy thuốc.
Đi được năm sáu trạm liền không
bệnh, cũng không bỏ cuộc, tôi và Hoàng Việt phấn khởi vô cùng. Đường đi không
có dốc cao. Chỉ vừa đủ mệt thôi. Nhưng dọc hai bên đường thì người rụng càng
đông. Không có chặng nào là vắng người treo võng nằm hai bên đường. Có người
băng tay băng chân, có người phù thũng, có người vàng như nghệ từ mặt mũi đến
tay chân. Tôi có cảm tưởng như da họ bị thoa nghệ hoặc túi mật đã vỡ ra mà thấm
tận ngoài da vậy. Thấy mà kinh hãi, không dám ngó lâu. Họ nhìn đoàn đi qua với
những cập mắt hầu như không có tí xúc động vui buồn nào. Hình như họ đã chán
kêu gào, van vỉ rồi, nên không buồn nữa. Tất cả: mặc kệ.
Một buổi chiều, giao liên dừng
lại ở ven sông. Con sông không rộng cũng không nhỏ. Đối với người biết bơi như
tôi thì chẳng ăn thua gì. Tôi có thể bơi “sải” vài cây số nhưng đối với các anh
bạn Miền Bắc thì đó là cả một vấn đề nan giải.
- Sông gì đây?
- Đừng hỏi !
- Đến khu 6 chưa?
- Không được phép hỏi.
- Có kí-nin cho xin vài viên.
- Hết rồi.
- Chừng nào phát gạo?
- Chừng nào có thì phát.
- Có bệnh viện gần đây không?
- Không ai hỏi như vậy trên
đường này. Câu hỏi là: Chết có ai chôn không?
- Hôm nay là ngày mấy?
- Ngày hôm nay giống ngày hôm
qua và sẽ không khác ngày mai.
Đó là một mẫu đối thoại mực
thước và bình thường nhất trên con đường này. Bất kỳ ở chặng nào, giữa giao
liên và khách, hay giữa khách với nhau, người ta cũng đều có thể nghe đoạn đối
thoại này. Tốt nhất là đừng hỏi gì hết. Đừng suy nghĩ gì hết. Ngay cả chuyện
Bác Mao cạo đầu và kết tội chú Lưu, – người cùng với Bác Mao thành lập Đảng
Cộng sàn Trung Quốc – là phản đảng – mà chỉ nên gằm đầu đi theo câu thơ đã được
thời đại này lấy làm lẽ sống:
Bác bảo đi là đi (Bác bảo leo
là leo)
Bác bảo thắng là thắng (Bác bảo chết là chết)
Anh giao liên bảo tất cả các
đoàn.
- Các đồng chí nằm đây, chờ
giao liên trạm trong ra rước – Anh ta còn dặn thêm – Các đồng chí nên đào hầm
trốn máy bay. Hai bờ sông thường bị bắn luôn !
Nói vậy rồi đi.
Tôi hỏi với theo:
- Chừng nào thì giao liên trong
đó ra, đồng chí?
- Chừng nào họ ra thì họ ra tôi
không biết !
- Ê, đụ bà thằng kia, mày nói
kiểu đó một năm được mấy lần vậy mậy? Đứng lại mầy! Trở lại bảo mày. Đi, tao
bắn bỏ mẹ !
Một ông nhà binh quát tháo.
Anh giao liên chầm chậm quay
trở lại. Ông nhà binh nói :
- Cậu được Đảng giao cho dắt
đường phải không? Cậu dắt mấy trăm con người ta tới đây là đâu không ai biết
cả. Cậu phải mời các trưởng đoàn đến cho biết địa hình địa vật, phương hướng,
vi trí của địch cách đây bao xa, nếu địch xuất hiện hướng nọ hướng kia thì phải
chạy đường nào chứ. Cán bộ từ Bắc vô đây đâu có phải là cá ươn chuột chết mà
cậu muốn vứt đi đâu thì vứt.
Anh giao liên trả lời tỉnh bơ:
- Tôi có biết gì đâu mà cho các
ông biết. Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa các ông từ trạm đó vô tới mé sông này rồi trở
về. Địch ở đâu, xuất hiện hướng nào tôi đâu có biết. Ở trên giao tôi ở đây cũng
không có nói gì cả.
Ông nhà binh đang giận bừng
bừng bỗng xuống nước ngay:
- Thôi được rồi, đi đi !
Nhiều người đã bọc ba-lô bằng
tấm ni-lông để dành choàng đi mưa ném xuống nước nổi phình như bao tử trâu rồi
ôm nó đập tầm vũm qua sông. Chỉ loáng mắt là họ đã qua bờ bên kia. Tôi nói với
Hoàng Việt:
- Chém chết, mấy thằng đó cũng
là dân Nam kỳ.
- Sao mày biết.
- Để rồi anh coi. Cuối cùng mấy
thằng còn sót lại ở bờ bên này đều là cá rô cây cả!
Hoàng Việt nói:
- Bắt chuồn chuồn cho cắn rún
tụi nó là biết bơi ngay.
Chúng tôi bàn kế hoạch “vượt
sông Hoài của Lưu Bá Thừa.” Vân nói:
- Tụi mình và bà Phụng thì qua
dễ rồi, nhưng còn đám nữ binh kia kìa. Ai mà cõng lội sông cho được.
Tôi sực nhớ chiếc cầu dây ở mấy
trạm ngoài. Nhưng khoan đã, trước khi nhắc lại chiếc cầu ấy, tôi muốn nói với
những tên to đầu như thế này. Chúng bay chẳng may nắm được quyền hành và điều
khiển cả một dân tộc. Trước khi làm một việc gì thì hãy cân nhắc cho kỹ lưỡng
và trong khi thi hành việc đó phải cho người đi kiểm tra. Cái ban kiểm tra của
Nguyễn Lương Bằng ăn hút ở Hà Nội có biết đâu trên đường này lính tráng và cán
bộ hành quân chiến đấu như những tội đồ sắp ra bãi chém.
Có quân đội nào hành quân kỳ
cục như lũ lính quân đội nhân dân vào những năm 1962-75 trên đường này không ?
Không có một thứ phương tiện gì hết cả ngoài hai bàn tay và một con dao cùn.
Vậy mà bên cạnh đó còn một bầy đàn bà con gái.-Phải tìm cách sống. Phải tìm
cách tự tồn. Lạ thật. Trước mặt là sông, sau lưng là núi trong ba-lô mấy viên
kí nín, trong ruột tượng mấy hạt gạo còm.
Chúng bay là lũ sát nhân. Chúng
bay là tội phạm. Con đường này mãi mãi còn là vết máu vắt ngang lịch sử . Và
chừng nào chúng bay chưa đền tội thì oan hồn Trường Sơn sẽ còn réo gọi tên
chúng mày. Hằng triệu oan hồn bay vất vưởng chưa tan đêm đêm vây quanh đầu
giường chúng mày!
Chiếc cầu dây lưng lơ bắc qua
hai mỏm .núi. Không biết do bàn tay gan góc nào. Đây chỉ là một sáng tác của
một nhà tài tử chứ không phải của công binh. Khi hai anh lính khiêng nòng súng
cối đi đến giữa cầu thì một sợi dây đứt ngang. Thân cầu làm bằng một cái rễ cây
hay dây gì không biết, chúng đan lại với nhau như mặt võng, trên đầu thì có tay
vịn, Mỗi đầu dây được quấn nhiều lượt vào thân cây ở hai mỏm núi. Không biết nó
đã được bao nhiêu tuổi rồi. Nhưng đến hôm đoàn chúng tôi dùng để qua suốì thì
nó hãy còn nên thơ lắm… Chúng tôi đi từng người một. Chiếc cầu lắc lư rất nên
thơ. Chỉ vừa đủ để tim run thôi chứ khó ngã. Chúng tôi chụp hình, chúng tôi vỗ
tay mỗi khi một đứa vừa qua khỏi cầu. Có cả máy quay phim làm việc: Dưới dạ cầu
nước chảy trong veo in hình bóng của đoàn dũng sĩ.
Nhưng khi hai anh pháo binh tha
nòng pháo đi qua thì bài thơ cầu dây cụt vận đứt ngang vần, với những âm thanh
hãi hùng của những người bước hụt chân, của nòng pháo rơi xuống lòng suối đá,
của những người nằm dưới nước bị vỡ đầu gẫy chân rên la. Người trên bờ dòm
xuống chằng biết làm sao cứu bạn.
Ôi là cái cầu dây bắc ngang
trời. Nên thơ lắm mà ác hại cũng ghê. Mi đã trả thù những bàn chân đạp lên thân
thể mi mà tiến phải không? Họ không phải là kẻ thù của mi đâu. Họ là một đàn
thú bị lùa vào tử địa mà mi chỉ là phương tiện đưa họ tới đó thôi.
Bây giờ tới dòng sông này. Sông
vô danh hay sông Gianh ? Nước sông xanh ngắt rất nên thơ. Nhưng không khác gì
chiếc cầu dây kia. Nó sẽ dìm chết người đấy. Biết đâu có những người đi trước
chúng tôi đã được nước xanh xây mồ?
Có nhiều người bọc ba-lô bằng
ni-lông làm phao bơi qua, xa trông lô nhô giống như những trái dừa khô trôi
trên sông. Nhiều anh bộ đội tay ôm phao, tay giơ súng và bao đạn lên, chân đạp
nước. Nước tủa lên trắng xóa một khúc sông. Tiếng người la hét ra lệnh hoặc
khuyến khích kẻ bơi lội vang lên hai bờ sông. Trời chiều bãng lãng. Ánh nắng
rắc đầy mặt sông làm cho đoàn lữ khách thấy ấm lòng đôi chút. Đứng trên bờ nhìn
chẳng khác nào xem một cuộc lội đua.
Vân nói:
- Mấy thằng nhãi ranh háo thắng
nhưng không có kinh nghiệm. Đi mệt, nhảy xuống nước ngay, bị trúng nước hoặc bị
vọp bẻ bỏ mạng cho coi.
- Sao mày không nói với mấy cha
chỉ huy dùm chút ?
- Ai mà chỉ huy nổi chúng nó
mày ơi ! Mình cứ nghỉ cho ráo mồ hôi chừng nửa tiếng đồng hồ rồi sẽ lội. – Vân
bảo đội nữ binh – Các cô rút hết cả dây võng đưa cho tôi ; bỏ ba-lô vào ni-lông
túm lại và buộc thật chặt để nước không vô được bên trong. Buộc rất nhiều
ngoai. Ra tới giữa sông mà dây sút ra thì chết chìm. Chừng nào tôi ra lệnh mới
được xuống nước !
Rồi Vân chuẩn bị đồ đạc phổ
biến kế hoạch vượt sông cho chúng tôi. Xong Vân nối tất cả những sợi dây võng
lại – tất cả là hai mươi tám sợi dây ni-lông, mỗi sợi dài mười thước có thể
chịu một sức kéo ba trăm kí lô. Vân buộc một đầu dây vào một gốc cây còn đầu
kia thì buộc vào lưng.
- Nó giở súng lên hết nổi. Nó
chìm rồi ! – Có tiếng la thất thanh.
- Cái phao bị thủng chớ gì !
Một ông, có lẽ là chỉ huy, dậm
chân hét:
- Hai thằng kia trong tổ tam
tam bươn lên tương trợ ! Mau lên ? – ông ta rút còi thổi om nhưng chẳng ai thi
hành lệnh của ông cả.
Cái “thằng gì” càng ngày càng
lún xuống nước. Ông chỉ huy quát:
- Vứt súng đi, vứt!
Cái “thằng gì” buông súng nhưng
vẫn cứ chìm dần.
- Nó bị vọp bẻ rồi ! – Vân vừa
nói vừa tụt quần áo, chỉ còn quần đùi, phóng ào xuống sông. Vân ra đến nơi thì
cái đầu của thằng kia vừa tụt xuống khỏi mặt nước. Vân giơ tay ra nắm chỏm tóc
lội xốc đứng một hơi vô tới bờ bên kia.
Vân kéo thẳng buộc đầu dây kia
vào gốc cây rồi vẫy tay ra hiệu cho đoàn vượt sông. Chị Phụng và các cô cởi
xiêm y còn lại đồ tắm biển, lần lượt xách những túm đồ đi xuống mé sông rồi từ
từ trầm mình xuống nước một cách trật tự.
Đám lính trừng trợn chắc lưỡi
hít hà, mỗi người mỗi ứng khẩu loạn xà bì cả lên, Nam lẫn Bắc, trẻ lẫn già.
- Họ triển lãm cả mặt cả mũi
chúng mày ạ!
- Ối giời tiên đâu mà cả bầy
thế kia.
- Để tao “lông-giông” theo làm
cá leo như Trư Bát Giới coi !
- Lâu quá không thấy mấy cái
bánh bò bánh bèo đó.
- Tao bây giờ mà nhảy xuống
nước thì nghe cái “xèo” như sắt nướng.
- Em ơi! Có bạc lẽ cho oa mượn
hai… ngà… đồng.
Hoàng Việt xuống áp chót, tôi
mở một dây ở gốc cây buộc ngang lưng rồi đội ba-lô đi vào nước. Ở bên kia Vân
cứ nắm dây rút phăng trong lúc chúng tôi như những con thủy quái rẽ nước trườn
tới. Chỉ nháy mắt chúng tôi đã qua tới bờ bên kia.
Chúng tôi lại được nghe một
loạt ý kiến của các “vô ngại tướng quân” đã qua trước nhưng chưa chịu đi, còn
đứng ở đây để chào đón các tiên cô.
- Em gì ơi ! Em đẹp thế mà em
đi chống Mỹ thì uổng quá đấy !
- Hai cái hường nhan phơi phới
để cho ai?
- Các em, mới nhìn thì thấy rõ
hai cái “u” điểm, còn cái “khuyết” điểm tuy giấu kín nhưng nhìn kỹ thì cũng tìm
ra.
- Có em nào bệnh không, anh
cõng dùm cho !
Tôi nói với Vân:
- Tao phục lăn mày đó!
- Tao đã thấy trước vấn đề cho
nên tao bảo các em chuẩn bị sẵn. Mày xem đó. Vì không có kế hoạch nên mấy thằng
bộ đội kia suýt chầu Diêm Vương rồi.
Chúng tôi kéo nhau đi theo con
đường mòn vào khu rừng gần đó và tự tìm chỗ trú ẩn không dưới một sự hướng dẫn
nào.
Chúng tôi mắc võng, căng lều và
nấu cơm. Đoàn nữ binh cũng hạ trại gần bên chủ soái. Vân nói:
- Bữa nay tao đãi mày với ông
nhạc sĩ một con gà.
- Giỡn hoài mậy? Mày đổi ở
“buôn” nào vậy?
- Gà trong ba-lô chắc ! Hoàng
Việt nói .
- Ừ gà trong ba-lô chớ đâu –
rồi quay qua vợ, Vân nói – Bắt con gà ra em ! Mình ăn mừng qua sông an toàn !
Chị Phụng moi ba-lô lấy ra một
hộp nhỏ dẹp như hộp cá mòi. Cá mòi ! Tôi trông thấy và nghĩ bụng. Nhưng Vân nói
ngay:
- Gà chà bông đấy mày.
- Một con gà mà ém hết trong
cái hộp con đó được à?
- Ông Ba Khiêm đi Giơ-ne hội
nghị với thằng Bun-Ùm ổng mua về đó.
- Gối rơm mà chồm tới Bộ trưởng
Ngoại giao kia à?
- Không đâu mày ơi ! Hồi lúc đó
mình đâu có tới gần ổng được. Tao tới nhờ chị Ba mua sâm ở Mậu dịch Quốc tế.
Chị Ba điệu lắm. Chỉ biết đứa nào về Nam chỉ cũng mua sâm dùm hết thảy. Tao
quen chỉ hồi ở trong kia mà. Lâu lâu tao gởi biếu cho bà cụ tức là bà già anh
Ba một chai bổ huyết lô-can của tao bào chế. Bây giờ tao tới nhờ chỉ mua đồ,
chỉ còn nhắc. Chỉ cho tao hộp thịt gà này đó. Chỉ nói một con gà nạc mà nó nén
vô cái hộp có bằng cái hộp quẹt thôi. Leo núi lội rừng mệt chỉ cần vít một
muỗng quậy trong nước sôi bỏ ít rau rừng là có canh thịt gà ăn cơm rồi.
Vân tiếp:
- Bả nhai trầu ngoai ngoai cặp
môi, nói bà chà bà chẹc:
” Các em về chỏng ráng oánh Mỹ
cho mau mau để chị về nghe !
- Dạ. Ráng chớ chị Ba!
- Oánh xong Mỹ rồi oánh ai biết
không?
- Dạ Pháp mình hạ xong, Mỹ diệt
sạch thì còn thằng đế quốc nào dám hó hé nữa đâu mà oánh, chị Ba!
- Hạ Pháp diệt Mỹ xong tới oánh
Bắc kỳ!”
Vân nói xong cười hô hố rồi lại
tiếp: – Chỉ kể chuyện anh Ba đòi đập Hoan Đầu Vồ bể đầu tại Bộ Ngoại Giao cho
tao nghe một cách hứng thú. Xong lại còn tiếp: Anh Ba em xin về Nam chiến đấu
nhưng “Bộ chính chị” đâu có đồng ý. Chời ơi chời ! Người ta đi oánh Mỹ mà không
cho ! Mà không cho anh Ba em đi về Nam cũng phải đó em ạ. Đó chẳng khác nào thả
hổ về rừng. Họ sợ anh Ba em uất ức rồi trở cờ oánh ngược lại.
Chúng tôi đang húp canh gà và
nghe chuyện tiếu lâm xã nghĩa thì một ông nhà binh tới. Trời chưa tối hẳn nên
ông ta nhìn ra Vân:
- Ơ, đây rồi, anh gì ơi, làm ơn
giúp em tí!
Chúng tôi bật cười vì trong đầu
chưa tan câu chuyện “ba ván liền” nhưng lại nín ngay vi thấy anh ta mếu máo
muốn khóc:
- Nó chìm mất rồi!
- Cái gì chìm?
- Thằng lính của em !
- Sao không buộc dây kiểu tôi
làm hồi chiều.
- Chúng nó bảo như thế trông
thủ công nghiệp nên chúng nó túm ba-lô rồi phóng ào xuống sông bơi. Khi qua bờ
bên này kiểm điểm lại thì mất một cậu.
- Thế thì tôi biết đâu mà tìm?
- Đồng chí không biết lặn à?
- Tôi biết lặn nhưng tôi không
thể lặn mò cả một khúc sông.
- Thế thì em chịu thôi. Em sẽ
báo cáo là cậu ấy hi sinh trong chiến đấu.
- Lội sông mà là chiến đấu cái
gì !
- Thì cũng như khiêng súng lọt
xuống hố vậy thôi.
- Quân đội không có một phương
tiện nào giúp cho các đơn vị qua sông hay sao?
- Ối giời muối gạo còn không đủ
ăn, nói gì phương tiện. Phương tiện là hai cái chân đây này. Khổ quá, chúng em
đâu có biết bơi. Cũng chả biết súng ống là gì. Thấy cây súng hãi bỏ bố!
- Ơ kìa lính tráng gì nói thế!
- Chứng em là thanh niên xung
phong làm cầu đường mà. Bỗng ở trên đem súng tới phát và bắt hành quân chiến
đấu. Cán bộ thì bộ đội đưa qua từ đại đội xuống tới tiểu đội. Còn thao tác súng
thì vừa đi họ vừa dạy.
- Bây giờ thì làm sao vớt cậu
ấy?
- Em cũng không biết làm sao!-
Anh ta đứng trân một hồi rồi bỏ đi không từ giã.
Câu chuyện làm bữa ăn có canh
gà hết ngon. Toàn chuyện ma quỉ gì đâu tắp vào mình không thôi.
Trời vừa sụp tối thì máy bay
tới. Nó bay rà sát lòng sông và bắn trái sáng đỏ rực. Bộ đội và cán bộ hai bên
bờ chạy tán loạn lủi vào rừng không còn ai lảng vảng ở bờ sông nữa. Những trái
sáng lơ lửng trên không trung tủa ra như những con mắt đỏ chạch ngó xuống với
những tia sáng lòa ước chừng nhìn thấy cả cây kim nằm trên đất.
- Đ.m. thế nào đêm nay cũng ăn
bom trộm. Vân buột miệng thốt.
Bị chọc ngay tim, tôi gạt phắt:
- Nó không chơi cái mửng đó nữa
đâu.
- Tại sao?
- Vì chẳng có thằng chì huy nào
lại mang đơn vi phục kích tại nơi mình vừa đánh trận.
- Đó là chuyện đánh nhau. Còn
đây là nó đánh mình và mình không phương gì đỡ.
- Nếu nó đánh đêm nay thì nó đã
không bắn pháo sáng như thế. – Tôi lý luận luôn – Chẳng có tên chỉ huy nào vừa
phục kích lại vừa báo cho địch biết rằng tao sắp tấn công mày. Thằng địch có
đui cũng…
- Chỉ còn một cách là lui binh
thôi. – Vân gạt ngang – Không nên chần chờ.
- Lui đi đâu?
- Đi xa bờ sông một chút! Đi
mau, kẻo tối không thấy đường. – Vân vừa nói vừa quơ cuốn đồ đạc và quát đám nữ
binh làm theo.
Hoàng Việt càu nhàu một cách
vui vẻ:
- Mới bồi dưỡng gà lại bắt gà
chạy !
Tôi vừa đi vừa chống chế.
- Đám bộ đội nó có đi đâu !
- Ối trời! Trông cậy vào chúng
nó thì chết chùm. Tao không bao giờ hạ trại gần đám đó. Chúng là Thanh niên
Xung phong bị ép cầm súng vừa bất mãn lại vừa không có một tí ý thức quân sự
nào cả. Một đám người hỗn tạp như vậy vừa đi vừa rắc xác dọc đường, tới trong
đó thì còn được bao nhiêu mạng. Vụ bom trộm đêm trước có lẽ cũng do sự ăn ở bừa
bãi của tụi đó mà ra.
Cũng may cho chúng tôi là Vân
biết hướng nhờ Vân đã đi ra đi vào hai lần rồi – nên chúng tôi không bị lạc
đường và nhờ không có dốc, nên chúng tôi đã đi khá xa bờ sông khi trời tối hẳn.
Ở đây có dấu vết đóng quân nhưng không còn một người nào. Vân nói:
- Từ đây vào trong thì luôn
luôn phải quân sự hóa, đồ đạc phải luôn luôn gọn gàng không được phất phơ như
trước nữa. Tụi nó đánh mình bằng đủ cách, kể cả biệt kích. Một trung đoàn nào
đó bị phục kích, máy bay la rùm mày có nghe không? Chính tay trung đoàn phó bị
bắt.
- Biết rồi !
- Nhưng chỉ còn một “cú leo”
hộc máu nữa thì tới vùng thoai thoải.
- Hết núi à?
- Chỉ còn đồi.
- Vậy sắp tới Bà Rịia chắc !
- Tao đoán thế!
- Mình là Nhạc sĩ Mù (*) yêu cô
tiểu thư nhưng không bao giờ biết mặt cô ấy.
( *) “Nhạc sĩ Mù là tác phẩm
của P. Pavlenko người Nga.
- Hồi ở bên Bún-cà-ri anh có đi
thuyền trên Danube bleu không?
- Có chứ mày, đi với mấy em !
- Nó có bằng cái con sông mình
vừa phăng dây qua đó không?
- Giỡn hoài mậy!
Tôi và Hoàng Việt treo võng
chung một đầu cây vì không quờ tìm được nơi nào tốt cả. Phải ở xa xa lều của
Vân Phụng một tí, để cặp tình già trăng mật. Cảnh đổi thì tình cũng vọt lên
(nhưng ở đâu kìa còn ở đây chắc tình xẹp lép). Bao giờ cũng vậy, Vân vẫn che
kín bốn bên cho vợ ngủ nghê kín đáo và hợp vệ sinh, còn hơn Quan Công phò nhị
tẩu nữa.
Tôi thấy an tâm khi nằm xa bờ
sông. Cái câu đùa của tôi về sông Danube chẳng ngờ lại khơi dậy trong lòng Nhạc
sĩ những nỗi niềm và hoài vọng cho nghề nghiệp và cho quê hương. Anh hút thuốc
liên miên. Trước khi đi anh đã “thu mua hầu hết thuốc lá bán lẻ của Hà Nội,” xé
nhỏ ra – không giữ điếu rời nữa – mà ém chặt vào một bao ni-lông. Những đĩa hát
của Dalida, của Yma Sumac anh mua ở nước ngoài đem về cho anh em nghe ở nhà
trường đã đời rồi bỏ lại. Cái radio nhỏ xíu của ông Mariane, giáo sư dạy nhạc
của anh ở Nhạc viện Quốc gia Bungari, anh cũng để nhường chỗ cho cái túi nhựa
sống này. “Tao đói thì được, nhưng không có thuốc lá thì chết sướng hơn!”
Anh đã viết xong Giao Hưởng số
một, lấy tên Quê Hương khi còn học ở Bungari. Một lần nghỉ hè, mang về đưa cho
dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội trình diễn ở Nhà hát lớn thành phố. Văn Cao khen anh
là thiên tài. Tính anh xuề xòa dễ dãi và lúc nào cũng vui vẻ pha trò nhưng bên
trong giấu kín một niềm đau vô biên về gia đình và về cách mạng.
Bạn đọc thân mến ! Tôi viết
những dòng này để tưởng niệm ông bạn nhạc sĩ của tôi. Hoàng Việt không còn nữa.
Anh đã chết trong một trận bom ở Hậu Mỹ quận Cái Bè trên đường ra ven sông Cửu
Long tìm hứng viết Giao Hưởng thứ hai của đời anh. Dù ở đoạn văn này tôi có đi
xa con đường mòn một tí để cùng với anh thả hồn bay về sông Cửu Long tôi nghĩ
cũng không lạc đề.
Quả bom nào liệng trúng hầm anh
quả là một quả bom không có mắt và vô giá. Cho tới nay ở Việt Nam theo tôi
biết, ngoại trừ Văn Cao, không có nhạc sĩ nào sáng tác tươi và phong phú như
Hoàng Việt. Anh nuôi mộng lớn và ôm giấc mộng ấy xuống tuyền đài. Ở Sài Gòn
hiện nay, có một nơi bán cà phê gọi là “Ca fê Hoàng Việt” tác giả của “Tiếng còi trong sương đêm” nổi danh trước 45 dưới tên Lê Trực.
Bản nhạc này thuộc loại Rumba Mélodie rất được yêu mến ở các bars.
Hoàng Việt vào trường đi B như
một anh lính quèn. Võng kaki, ba kí muối , một lon kho quẹt nén trong hộp ghi-gô.
Đó là tất cả lương thực đảng cấp cho Hoàng Việt để vượt Trường Sơn, một nhạc sĩ
đã viết symphonie. Lúc đó hình như anh mới bốn mươi nhưng tóc đã trắng hơn đen
rồi. Đi học ở nước ngoài lâu thế mà về nước không có thứ gì mang theo cả, kể cả
một cái pickup để nghe nhạc cũng không. Và vẫn gầy, gầy nhom như hồi kháng
chiến Nam Bộ.
Nước ngập đồng xanh lúa chết
Gió mưa sụp đô mái nhà
Bao nhiêu gia đình tan hoang
Đau thương lệ rơi chứa chan
Anh đi chiến đấu sa tràng
Còn em gánh lúa trên ngàn
Lúa trên ngàn nắng phơi chang chang
Bàn chân dẫm gai lòng không thở than
… Bao giờ kháng chiến thành công
Anh về em thỏa ước mong.
Nhớ vợ nhớ con, ở chiến khu D
Hoàng Việt viết bài Lên Ngàn này. Cô gái gánh lúa đó là hồn của
hiền thê ở Sài Gòn hiện ra chiến khu với chàng. Nhưng sự thực thì nghìn trùng
xa cách. Và cách mãi.
Ra Hà Nội nghèo lắm. Hoàng Việt
không có cả xe đạp, mỗi lần đi đâu phải mượn của ông bạn nối khố Đồng Tháp Mười
và đồng hương Mỹ Tho là Đạo diễn Trần Thiện Thanh, (em thúc bá của Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm). Nay cả hai đều hội ngộ dưới suối vàng. Nhà đạo diễn cũng đã
chết.
Thanh bảo: “Nó – tức Hoàng Việt
– chạy nhong nhong như con chó đói khắp thủ đô, chẳng ai thèm ngó.” Tài hoa mà
chi! Kháng chiến, hi sinh, xung phong mà làm con mẹ gì cho chết thân mình, uổng
công cha sinh mẹ đẻ. Ra Hà Nội thế này, ông biết trước ông đéo ra! Nhưng mà đã
lỡ ra rồi, về không được mà ở thì buồn đến muốn tự sát.
Một hôm, Hoàng Việt đến cái
ga-ra của tôi (tôi ở chung với một thằng bạn cũng nhà vãn – bây giờ làm tới chủ
tịch Hội Văn nghệ hay Hội Nhà văn gì đó) đưa cho tôi tờ giấy, bảo:
- Ê mày Xuân Vũ, coi lại dùm
lời bài tình ca của tao mới làm chút, để tao đi thu kiếm sáu đồng ăn phở coi !
Cơm cơ quan xót ruột quá !
Tình ca ( 1956)
Khi cất lên tiếng ca gởi về
người yêu phương xa
Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba
Chim bay giăng giăng ngoài nắng Xuân đẹp thay
Tan cơn phong ba lòng đất yên rồi đây
Em hãy nở nụ cười tươi xinh
Như đón chào riêng anh
Nói nhau ngàn lời qua đôi mắt xanh
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi
Bãi mía nương dâu còn mãi muôn đời
Làm một bài tình ca của đôi lứa ta
Không thể xóa nhòa.
Còn một câu “Đập tan bao đau khổ và chia ly” nhưng tôi không nhớ nó nằm ở khoảng
nào. Tôi có chữa “dùm” anh một chữ, nhưng cũng không nhớ là chữ nào. Bài hát
được ca sĩ số một của Đài Phát Thanh Trần Khánh hát đầu tiên và hát đi hát lại
trong chương trình “Nhạc yêu cầu của thính giả” mỗi tuần.
Về sau “ở trên” bảo Tình Ca là
“tiếng nấc của tiểu tư sản, thiếu tính chất chiến đấu” và cắt dần dần
không cho hát thường xuyên nữa trong khi đó lại cho hát bài “Lực lượng ta hùng
cường” cũng của Hoàng Việt, bản nhạc được giải nhất trong cuộc thi Ca Khúc của
Đài Phát Thanh lúc bấy giờ.
Lực lượng ta hùng cường
Vững như núi Trường Sơn
Đứng bên Thái Bình Dương
Bao ngàn đời giữ an Tổ quốc
Lực lượng xây bằng máu
Đã giành lấy thắng lợi sau cùng
Theo lá cờ của Đảng tiền phong. . .
Một hôm khác Hoàng Việt lại
đến, than thở:
- Kẹt quá mày ạ! Có mấy cô nước
bạn đến thăm trường âm nhạc, tao phải chường mặt ra đón tiếp (Hoàng Việt rất
ghét lễ lộc hội họp) nhưng tao không có quần áo. Coi nè, (dép cao su, áo bộ đội
ba mươi sáu đường gian khổ. Hoàng Việt được phong quân hàm thượng sĩ hay chuẩn
úy gì đó) như thế này mà đón tiếp ai ? Tôi bảo:
- Tôi không có giày, chỉ có cái
áo “câu tôm” đây thôi (tức là áo Tây cũ mèm).
- Ở đâu mày có vậy?
- Mới mua ở chợ Trời để bận
ngủ, lạnh quá, chịu không nổi anh ạ!
Hoàng Việt tròng vào. Cũng may
coi tạm được. Anh mặc luôn rồi cười như nắc nẻ: Còn cái cà vạt nữa. Tìm đâu ra?
Đến ông “đạo” Thanh thì chắc có. Hoàng Việt mượn luôn cái áo câu tôm của tôi
mấy ngày liền để đi “nhảy” đầm với mấy cô bạn ngoại quốc.
Bỏ cái nghèo lại Hà Nội, vào
đây gặp cái đói và cái sốt. Huề vốn ! Tôi thấy Hoàng Việt hút thuốc liên miên,
nên hỏi:
- Túi nhựa cạn nửa chưa?
- Quá Nửa (*) rồi Người Miền
Nam (**) ơi !
(*) Tập truyện thứ hai của tôi,
xuất bản ở Hà Nội bị cắt bài đầu tên là “Giới tuyến im lặng.” Sách bắt đầu bằng
trang 17 với lời xin lỗi của Nhà xuất bản: “thợ in xếp nhằm số trang!”
(**) Tập truyện cuối cùng của
tôi in trên Miền Bắc.
- Chưa thấy sóng Danube Xanh
sao rít hoài vậy ? –
- Tao đang travailler cho một
cái Thème về Cửu Long Giang.
- Giao hưởng hay ca khúc?
- Hoàng Việt No 2. Há há…
- Trình bày ở Sài Gòn?
- Ở tiệm nhảy.
- Tiệm nào?
- Tiệm nhảy Hoàng Việt! Nè mày
! Mày có muốn nghe tao hút gió một đoạn không? Đã lắm. Chỗ này thì phải đi bè
hai bè ba.
- Có lời không?
- Có càng hay. Vô tới nơi tao
chép nhạc ra cho mày làm lời nghe.
Thì ra Hoàng Việt đã thai nghén
từ nước ngoài và viết những chương giao hưởng trên đường Trường Sơn. Anh nói:
- Cửu Long của mình dài hơn
Danube mày ạ! Bốn ngàn cây số phải không? Tao phải viết một cái cho ra hồn. Cửu
Long của mình rất đẹp và rất hùng vĩ, thế mà mình chưa có tác phẩm nào. Nước
mình có nhiều sông. Sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, sông Lô.
- Sông Hồng thì có Du Kích Sông
Thao của Đỗ Nhuận rất hay.
- Nhưng chưa xứng với Sông
Hồng, chỉ có Sông Lô Trường Ca là xứng với Sông Lô thôi !
- Anh định mần ăn to hả?
- Tao sẽ “chơi một tụ phộc túi”
với cái giao hưởng No 2 này. Này nhé, mày sẽ nghe tiếng sóng reo, tiếng gió
thổi, tiếng hò Mỹ Tho man mác trên sông với nhịp mái chèo. Mày sẽ thấy cô em
của mày trên sông nữa chứ?
- Em nào ?
- Trăng!
Hoàng Việt lại châm thuốc hút.
Đốm lửa đỏ rực như tâm tình của chàng nghệ si. Khuya lắm. Chứng tôi nằm im mơ
màng trong mệt nhừ nhưng nghe tâm hồn sảng khoái vì lâu quá không có ai bàn
chuyện sáng tác. Tôi hầu như quên hẳn mình là nhà văn. Tôi đã biến hạ thành một
dấu nhạc thấp nửa giọng trên cái dòng nhạc Trường Sơn này. Tôi đã trở thành một
người khác, một người suốt ngày chỉ nghĩ tới việc, cắt cử sốt, làm sao có gạo,
dốc tới có cao không và v.v…
—>Chương 22
- 22 -
Bỗng rầm rầm rầm…
Máy bay tới. Chúng bắn rọc hai
ven sông. Chúng tôi bò lăn xuống đất tìm gốc cây núp. Chẳng đầy mười phút chúng
nó biến mất. Hú hồn.
- Thấy chưa? – Tiếng của Vân.
- Thấy rồi !
- Mình đánh nó thì nó đánh
mình. Nó có cùi đâu mà mình tha hồ tung hoành được! Ít nhất là vài chục chiến
thương là cái chắc.
- Thôi, ngủ đi sáng ngày dậy
sớm! ta hành quân độc lập
- Nó đi mất rồi mà, sợ gì ?
- Nó hồi mã thương thì bỏ mạng
chớ đi mất gì. Tụi Mỹ hay chơi trò “ba thoi vô một chỗ” lắm. Mình mà nhủng
nhẳng ở đây thì tao phải làm lương y kiêm từ mẫu phát nữa. Tụi bộ đội quen mặt
tao bữa trước thế nào cũng chạy đi tìm.
- Họ không có cứu thương y tá
gì hay sao ?
- Không có đơn vị nào có y tá.
Nếu có thì y tá mắc sốt rét hoặc trốn bỏ đơn vị rồi. Mày biết tại sao không?
- Vì không có thuốc men gì hết,
mà làm y tá cái gì. Y tướng cũng không xuể nữa là y tá.
- Y tướng, đại tướng! Đại tướng
tổng tư lệnh bây giờ đang báo cáo chiến thắng trước Quốc hội và Chính phủ !
Sáng hôm sau vừa tờ mờ là Vân
đập mọi người thức dậy tuốt võng giật tăng hối hả chạy đi như . chạy Tây ruồng
hồi trước. Cứ theo con đường mòn mà đi miết. Mấy em nữ binh cắn răng lết theo.
Nhiều cô khóc lê mê.
Vân quát:
- Đứa nào khóc tao sẽ báo cáo
không được vô đoàn. Đứa nào đà là cảm tình, chi bộ sẽ rút cảm tình lại.
Thế là không em nào dám sụt sịt
nữa.
Đói rã ruột chúng tôi mới đến
một khu rừng. Vân bảo tôi:
- Lần vào năm ngoái tao cũng ở
chỗ này. Năm nay còn đường mòn tức là vùng này chưa bị đánh. Có thể trận bắn
đêm qua là cú đầu tiên. Chỗ này bắt đầu hôi ổ rồi đó. Chốc nữa giao liên ra,
tao bảo nó phải dời trạm ngay.
- Nó nghe bom đạn hồi hôm chắc
nó không ra đâu.
- Mình cứ nằm đây.
- Gạo còn đâu mà nằm cha nội !
- Ăn cháo và khuấy hồ ăn ! Giải
phóng Miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước mà!
Ở đây hình như đất địa cây cối
khác ở các trạm ngoài. Đất có màu nâu đỏ cây cối xanh tươi và nhiều mặt phẳng
dưới chân hơn. Và trời như cũng rộng ra hơn. Tôi có cảm giác là mình vừa chui
ra một cái hang dài. Gần hai tháng qua mình bò trong hang ít khí trời. Nay thấy
hai lá phổi như nở lại.
Chúng tôi cơm nước xong leo lên
võng nằm nói tiếu lâm bồi dưỡng sức khỏe. Hoàng Việt cười mào đầu:
- Tui hỏi chú em một câu mà chú
em phải khai thiệt nghe !
- Ông định đem bụt công an đặt
lên tim người đấy hả?
- Gì mà bụt công an. Tui chỉ
hỏi nhỏ thô!… Ra Miền Bắc chú em trả thù Tổ Quốc được bao nhiêu lần ?
- Anh đi ở bển trả thù được bao
nhiêu lần phản tỉnh trước đi, rồi tôi khai phần tôi.
Hoàng Việt cười hố hố.
- Tao đâu có nhựt ký.
- Chục đủ đầu, hay nhiều hơn?
- Đâu nhớ nổi. Nhưng đại khái
là tuần nào cũng đi rừng picnic. Mùa hè thì liên tù tì, mùa đông thì hơi thưa
ra.
- Cái sự đó của các em có khác
với của mấy em bên nhà mình không?
- Khác chớ. Aspect général thì
nó vẫn chung chung như Hồ Xuân Hương mô tả vậy thôi, nhưng mà khi thả cá nạ
dòng dòng vô thì vạn vật biến chuyển như Mác nói.
- Biến chuyển mần răng?
- Các em kêu gào cào cấu dữ lắm
chứ không có se lệ như các em bên mình. Hễ xong là nó bảo ngay: “Hôm nay mày
làm tao điên suýt chết ngất,” hoặc là: “Mày hơi kém lần trước. Phải ăn thịt và
uống nhiều rượu vang vào”… nhưng tao thêm xài các thứ đó, mỗi khi lực lượng ta
kém hùng mạnh mà phải chiến đấu thì tao ngậm sâm. … Ê mày thằng mắc dịch, mày
lấy khẩu cung của tao hả? Mày khai đi !
- Em đâu có dám so tài với anh
Bảy. Em chỉ gà cồ ăn quẩn ba cái chả lụa bún bò và rau muống thôi.
- Ê, đừng nói vậy nghe chú em.
Sai lập trường căn bản ! Làm gì làm, ăn gì ăn, tao vẫn nhớ miếng cơm chấm muối
quả cà ròn tan mày ạ. Ra nước ngoài mới biết.
- Tui cũng hỏi anh một câu, anh
phải nói thiệt nghe?
- Thôi mày ơi, để tao hạch mày
cái đã. Bữa trước mày không được bồi dưỡng đậu phộng Hà Tĩnh mày có hoàn thành
kế hoạch đóng thuế nông nghiệp hay không nào?
- Em nói thật với anh Bảy là
bao giờ em cũng hoàn thành kế hoạch nhà nước năm trăm phần trăm hết rrráo!
- Nhưng mà về Nam, mày có để
bầu tâm sự lại cho em nào không?
- Có.
- Thiệt hả mậy?
- Thiệt mà ! Nàng tình nguyện
giữ đứa con trong bụng cho đến ngày sinh. Tôi bảo lấy ra nàng nhất định không.
Đầu năm tới, tôi có con rồi đó. Ngặt nó không biết mặt bố nó.
- Mày đi tới đâu mày ria tới
đó, bởi vậy nên con Nguyệt nó ớn mày chớ gì.
- Nhưng em chỉ làm tình ca
trong nước còn anh làm quốc tế ca thì sao anh Bảy?
Chúng tôi cười khà với nhau.
Nếu không cô những chuyện khào đó thì Trường Sơn này không ai có thể vượt nổi.
Người ta không lấy chỉ thị, chánh sách không dùng lập trường vô sản để tẩm bổ
cặp giò mà người ta xài tiếu lâm, tiếu lâm phong kiến, tiếu lâm dân chủ nhân
dân, tiếu lâm tân thời xã nghĩa.
Bỗng ầm ầm…
Tất cả ngồi choàng dậy. Vân
quát đám nữ binh:
- Có đứa nào ngủ không? Cảnh
giác !
Tiếng ầm ầm từ xa, không phải
tiếng bom. Tôi ngó lên trời cũng không thấy máy bay. Nhưng Vân kêu lên:
- Trực thăng nhảy dò rồi t Cuốn
đồ đạc mau !
Như máy, mọi người đều thi hành
lệnh của chủ soái. Tay quơ giật lia lịa mà mắt ngó trời. Lù lù từ đâu trong hốc
núi, một, hai, ba rồi cả chục chiếc trực thăng hiện ra thành hàng dội . (Đến
đây tôi mới thực sự nhìn thấy chiếc hélicoptère bay. Trước kia tôi chỉ thấy
trên giấy, hoặc nguyên hình chụp hoặc sơ đồ vẽ của Léonard de Vinci). Khiếp đảm
vô cùng. Chỉ nghe tiếng máy nổ thôi mình cũng đã mất hết tinh thần. Chúng bay
càng gần càng sà xuống sát mặt đất. Hai chiếc mình ốm nhom, đầu nhọn, (sau này
về tới đồng bằng Nam Bộ, tôi gặp thứ trực thăng này luôn, chúng tôi đặt tên là
“cá lẹp”) từ một hướng khác lao tới, không sà xuống mà bay vòng quanh, vừa bay
vừa chúi đầu, trong lúc đó thì đuôi nó xịt khói và kèm theo tiếng “ục ục” như
tù và thổi bị nghẹt.
- Nó làm gì vậy Vân ?
- Nó bắn đó chớ làm gì 1 – Vân
xanh mặt đáp.
- Bắn sao không nghe súng nổ?
- Tiếng ục ục ục là tiếng súng
đó. Trong một phút mỗi cây khạc ra sáu ngàn viên đạn đủ loại và nó bắn một lần
bốn cây cà nông 37 ly chứ không “cắc chùm” như Tây đâu.
- Sao mày biết rõ vậy?
- Mấy cha tham mưu cửa mình
nghiên cứu nói ra chớ ai. Thôi đừng hỏi nữa. Nó quây vòng rộng là bắn tới đây
đó ! Kiếm gốc cây núp đi cha !
Tốp trực thăng kia đáp xuống
đất trong lúc hai con cá lẹp vẫn quay vun vút và ục ục liên hồi. Vân quát:
- Bỏ đồ hết, chạy! Tụi nó đổ
quân xuống bắt sống thấy mẹ !
Chúng tôi chạy, đám nữ binh bò
lê bò càn. Vân lôi chị Phụng chạy sau cùng. Vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn, vì
ai cũng bị cảm giác bị cá lẹp ục sau lưng. Té có cái muốn dập mật nhưng không
dám dừng chân. Nhiều cô nằm luôn không bò dậy nổi nữa.
- Ra khỏi vòng vây rồi! – Vân
vừa ngã xuống đất, buông vợ ra và nói – Đừng chạy nữa !
Ạch ..ạch…ạch.. Những cây thịt
tự nguyện buông mình không gượng lại. Đứa tựa gốc cây, kẻ lăn kềnh trên đất.
Hồi lâu Vân mới lấy lại hơi và
giải thích:
- Tụi cá lẹp vây tới đâu tức là
bộ binh đi tới đó. Cá lẹp quay vòng nhỏ rồi. Mình đang ở ngoài càn khôn. Nếu
mình lọt vô vòng là bị nó thộp như gắp cá kho bỏ vô chén thôi.
Quả thật. Chỉ mười lăm, hai
mươi phút sau, chúng biến mất hết. Cả bọn lôi thôi lếch thếch trở lại chỗ cũ.
May quá, đồ đạc còn nguyên, không mất món gì.
- Sao mày biết chiến thuật của
tụi nó hết vậy?
- “Bủa lưới phóng lạo” là một,
“Phượng hoàng vồ mồi” là hai, nhớ nằm lòng nghe. Về tới trong đó rồi biết, chú
em!t Chạy một vài trận rồi kinh nghiệm như tao vậy.
Chúng tôi lại nấu nướng lại nói
chuyện tiếu lâm coi như không có chuyện gì xảy ra cả. Đời sống ở đây vẫn thế từ
lâu rồi. Chúng tôi đã quen với cái chết như đi chợ vậy. Càng đì vào gần quê
hương bao nhiêu càng trông thấy rõ diện mạo tử thần bấy nhiêu. Kể từ con sông
Danube của Trường Sơn này trở đi chúng tôi không có dịp nghỉ ngơi như ở cái
làng khu Eo ngoài kia nữa.
Vừa lên võng nằm thì đã có
tiếng léo nhéo.
- Cái gì thế? – Tôi làu bàu và
ngóc đầu lên thì thấy mấy cái võng lù lù đi tới. Thôi bỏ mẹ rồi ! – Nhưng tôi
định tâm lại và ngồi dậy bình tĩnh chờ đợi. Tất cả là sáu cái võng dưới mắt
tôi. Tiếng rống, tiếng la dậy đất.
- Anh giúp chúng em tí.
Đi theo mỗi chiếc võng là một
hoặc hai ba người nữa. Người nào cũng quảy hai ba cái ba lô hoặc bao đạn hoặc
súng, mặt mũi xanh xám.
- Các cậu ở ngoài sông vào à ?
- Vâng!
- Bị bắn đêm qua có thiệt hại
gì không?
- Ối giời ! Không thiệt hại gì
cả!
- Các cậu đi đến cuối con đường
mòn này rẽ phải đi độ ba tiếng đồng hồ nữa là tới Bệnh viện lớn của Bộ Tư lệnh
Quân Giải phóng. Đây là trạm tiếp nhận thương binh đầu tiên – Vân nhanh miệng
nói chặn họng tôi – Các cậu cứ yên trí, vào đến đó là có bác si chữa tri chu
đáo. Trang bị hiện đại mới toanh của nước bạn Tiệp Khắc chở bằng tàu ngầm mới
vô.
Đám lính trẻ măng lối mười sáu,
mười bảy tuổi thật thà như đếm, nghe ông dược sĩ kháng chiến hai mùa, kinh
nghiệm đầy mình, nói vậy thì mừng rơn. Cậu nào cậu ấy mặt mày sáng rỡ cả lên:
- Thế hả chú ! Thế thì may quá.
Còn hơn mươi đứa chúng em sắp tới kia rồi. – Một cậu đối đáp với Vân và bảo
đồng đội – Chúng mày khiêng nhanh lên đi ! Ta lên đường nào ! Cảm ơn các chú
nhé. Chào thân ái và quyết thắng hoàn thành sự nghiệp giải phóng Miền Nam !
Thế là sáu chiếc võng nối đuôi
nhau di chuyển ra khỏi khu đóng quân của chúng tôi và mất hút. Tôi nhìn Vân.
Vân chắc lưỡi:
- Chỉ có cách đó thôi cậu ạ !
Tôi đau lòng lắm chứ ! Thầy thuốc mà bỏ bệnh nhân, không mó tay vào chữa tri,
xấu hổ quá chừng, nhưng cậu thấy đó, chữa trị làm sao? Người ta đâu có cho tôi
trang bị của một y tá mà chỉ cho tôi mang theo các thứ “máy” để sản xuất “cao
đơn huờn tán” cho các cha lớn xài. Cậu thấy không? – Vân thở dài – Thà chỉ bậy
cho chứng nó đi khuất mắt còn hơn là nói sự thực.
Chập sau lại một đoàn võng tới.
Lại hỏi đường. Lại nhờ giúp đỡ. Và cũng được giúp đỡ đầy đủ và họ cũng hăm hở
đi về phía Bệnh viện Tiệp Khắc như đoàn trước.
Một cậu bị thương nhẹ ở chân
chống gậy đi cà nhắc. Đến đây thì ngồi lại và kêu đau. Vân mở băng và lấy thuốc
đỏ khử trùng rồi băng lại cho cậu ta.
Cậu bé ngồi tựa gốc cây không
muốn đi. Thấy thế tôi mới hỏi để biết sự thực:
- Đêm qua bị bắn thế mà không
bi thiệt hại gì hả cậu?
- Ai bảo thế?
- Mấy cậu ở đoàn trước vừa mới
đi qua đây !
- Bố láo ! Bị thương và chết
gần một nửa đại đội. Đạn nó bắn khít quá chú ạ! Chưa đầy ba tấc một viên. Có
anh bị hai viên một lúc.
- Đại đội vừa qua sông chiều
qua phải không?
- Vâng. Qua sông đã hi sinh một
cậu rồi đến khuya lại bị oanh kích. Có ác không kia chứ. Rồi đến trưa bị nhảy
dù. Khiếp, chúng đến nhanh như chớp. Mới tóm thu đồ đạc chưa kịp chạy là chúng
nó đã tới nơi chỉa súng bắt lên máy bay.
- Bắt cả à?
- Không. Chúng nó chê chúng
cháu là “đồ con nít đẻn” hay con nít “điển” gì đó cháu không hiểu nhưng chúng
không bắt, chỉ bắt có mấy cậu lớn tuổi thôi.
- “Con nít đẻn” cũng
như ngoài Bắc ta gọi là “lũ nhãi ranh” vậy.
- À thế à? Chúng béo tai em
hỏi: “Mày đi vô đây làm gì?” Em bảo: Đảng kêu em đi thì em đi chứ em chẳng biết
đi làm gì. Chúng cười với nhau có vẻ chế diễu rồi ném cho em hộp thịt và bảo:
“ăn đi kẻo đói thấy mẹ, rồi hãy đi mà phỏng dái Miền Nam !” Tại sao chúng nói
thế hả chú?
Tôi gạt ngang và đánh trống
lảng:
- Rồi hộp thịt đâu? Coi chừng
mìn đó!
- Chúng em nuốt cả rồi. Mới dầu
tưởng là mìn hay thuốc nổ gì chứ. Chẳng ngờ lại là thịt hộp. Ối giáo, béo béo
béo… Em chưa từng ăn gì béo đến thế.
- Rồi bây giờ cậu tính sao?
- Chú cho em ngồi tạm đây tí
chờ có đứa nào đi qua em tháp tùng ạ.
- Thế còn chỉ huy đâu?
- Bi bắt cả đại đội trưởng lẫn
đại đội phó! Còn chính trị viên trúng đạn chết đêm qua.
Thấy ba lô của cậu bé xẹp lép,
tôi thương hại vô cùng. Muốn cho cậu ta chút gì để an ủi, nhưng cho cái gì bây
giờ? Cái gì mà tôi đang làm chủ ở đây cũng có giá trị vật chất và tinh thần cao
độ hết cả. Thí dụ cái quai dép cao su đứt, ngắn bằng ba lóng tay mà tôi bỏ nó
trong túi hông ba lô, tuy không dừng nhưng tôi vắn còn nhớ chắc nó nằm ở đó.
Trong một bữa nào đây nhóm lửa không cháy, tôi sẽ dùng tới nó. Thí dụ như cái
pin đèn đã hết điện, nhưng tôi vẫn chưa chịu vứt đi vì có đứa bảo rằng “cứ để
nó như thế rồi nó sẽ tự “sạc” lấy, lắp vô đèn sẽ cháy” v.v… Tôi thấy không thể
cho cậu bé này một món gì trong cái tài sản đeo trên vai của tôi. Cuối cùng,
trước khi cậu lê chân đi, tôi nói:
- Chúc cậu chóng lành nhé. Ta gặp
nhau ở Thành phố Hồ Chí Minh ! – Một câu giống y như cóp ý của bác Hồ: “đánh
thắng giặc Mỹ ta sẽ xây đất nước đẹp gấp mười lần xưa” vậy.
—>Chương 23
- 23 -
Chúng tôi chờ giao liên hai
ngày liền mới có kết quả. Anh giao liên này là người lớn tuổi nhất trong số
giao liên tôi gặp từ trước tới nay. Và lạ lùng thay anh là người ở gần bên nhà
bà ngoại tôi. Nhờ một câu chuyện hỏi thăm vớ vẩn lấy lệ xã giao mà chúng tôi
nhận ra nhau.
Từ đó có một sự biệt đãi của
trạm đối với đoàn. Anh cho biết là bắt đầu từ trạm này thì ở mỗi chặng có hai
giao liên dẫn khách đi, để rủi có người hi sinh thì còn người kia dắt đường.
Tình hình từ đây trở vô “động” dữ lắm.
Mặc dù tình hình ở đây bị động
trong mấy ngày liền nhưng khách ở trạm ngoài vẫn được đưa vô. Và bơi qua sông như
bữa trước. Giao liên rút kinh nghiệm, bắt tất cả khách phải qua hết bờ bên này
và dắt đi luôn một mạch tới chỗ đóng quân nhất định để tránh bị chụp như vừa
rồi. Anh bạn đồng hương biệt đãi đoàn chứng tôi. Thay vì chúng tôi ở chung với
khách, thì anh cho vào khu vực riêng rất bí mật của trạm.
Lần đầu tiên từ mấy tháng nay
tôi được trông thấy một ngôi chòi gần giống cái nhà nghĩa là nó có hai mái. Ở
đây có hai người giao liên, – anh trẻ tên Bé, còn người đồng hương của tôi tên
Đăng.
- Vậy là hai mươi năm anh mới
về quê. – Đăng nằm lên võng và nói.
- Đúng hai mươi năm 1945-1965.
- Em là thằng thiếu nhi được cô
Hai Triêm cho cầm cờ đi đầu mỗi khi tập đi đều ở sân chợ đó, anh nhớ không?
- Tôi nhớ những buổi tập thiếu
nhi chứ không nhớ chú.
- Vậy anh còn nhớ cô Hai Triêm
không nào ?
- Cổ là cô của tôi mà sao không
nhớ.
- Bên ngoại sao lại cô ? Cô chỉ
bằng tuổi anh thôi mà !
- Ừ, cổ bà con bên nội tôi. Tuy
cổ ngang tuổi nhưng vai lại lớn.
- Bây giờ bả làm lớn lắm !
- Tới chức gì lận?
- Bí thư chi bộ.
- Dữ vậy à?
- Bả lên tỉnh rồi. Hồi em ra
đây nghe nói bả vô tỉnh ủy.
- Tôi cũng có thằng bạn học
thuở nhỏ bây giờ cũng lên tới tỉnh ủy.
- Quê mình bây giờ tiến bộ lắm
anh ạ. Anh về mà coi.
- Từ đây về tới mình lội mất
bao nhiêu ngày nữa?
- Tới R thì chừng một tháng. Từ
R tới quê mình chừng hai mươi ngày. Đó là nói đường suông sẻ. Khi có bị chụp
thì lại vô kể ngày tháng.
- Chú ra đây bao lâu rồi?
- Hai năm !
- Đồng khởi năm nào?
- Sáu mươi ! Giải phóng được ít
lâu thì em đi.
- Ở nhà bà con mình mạnh khoẻ
hết chớ?
- Dạ… mạnh hết anh ạ! Đăng lăn
qua trở lại, trong bóng đêm tôi nghe tiếng võng ni lông sột soạt như sự trăn
trở nội tâm của chàng trai. Một chốc Đăng nói:
- Có chuyện này buồn, tôi không
muốn nói cho anh biết.
- Chuyện gì, chú cứ nói, trước
sau gì tôi cũng biết.
- Cậu Tám bị trừ gian.
- Hả? – Tôi bật lên và chồm
sang võng Đăng.
Đăng lặng im. Tôi gắt:
- Chú nói thật hả Đăng?
- Dạ thì vậy đó. Còn cậu Bảy
thì bỏ đi Sài Gòn ở biệt trên đó.
Tôi choáng váng hết cả mặt mày.
Trời ! Tôi không thể hiểu được
! Tôi hỏi :
- Ai chủ trương vậy ?
- Dạ thì mấy ông chi ủy chớ ai.
- Cậu tôi làm gì mà bị như vậy
chớ?
- Dạ hồi đó mình mới nổi lên
thì ai cũng hăng hết. Ai cũng đòi chia đất như ngoài Bắc. Trong này cứ nghe
ngoài Bắc làm sao thì trong này làm vậy.
- Tại sao trong này biết chuyện
ngoài Bắc ?
- Dạ lén nghe đài chớ! – Đăng
tiếp – Mấy ổng đòi lấy đất cửa Bà Tư (tức là Bà Ngoại tôi) chia cho tá điền.
Cậu Tám bảo tụi chăn trâu chăn bò làm bậy chừng nào có lệnh cụ Hồ tao mới chia.
Có vậy thôi rồi xảy ra chuyện đó
(Vậy tôi đi theo cách mạng để
làm gì nhi? Tôi tự hỏi.)
- Thằng nào là chi ủy?
- Dạ ông Dinh, với mấy ông mướn
ruộng của Bà Tư hồi xưa tới giờ.
- Nó có đong hột lúa ruộng nào
đâu, kể từ hồi 45 tới 54, tới mùa là vỗ tuột.
- Dạ có đong! Mấy lúc sau Đồng
Khởi, Mật trận bắt phải đong nhưng Bà Tư cũng như mấy người có ruộng cho mướn
không dám lấy đúng qui định của Mặt trận mà một giạ chỉ lấy một lon sữa bò
tượng trưng thôi. Nếu lấy đúng mức là lại có chuyện. Phép vua thua lệ làng mà
anh. Bây giờ tất cả đều do chi ủy quyết định hết.
- Rồi Bà Ngoại tôi sống ra làm
sao?
- Dạ tôi không biết, nhưng chắc
cũng không đến nỗi nào đâu anh !
Tôi thực sự thấy ê ẩm cả tâm
thần. Và chán nản. Từ bên ngoại đến bên nội tôi không có một người nào đứng
ngoài hoặc đi ngược phong trào cách mạng. Riêng về sự cống hiến vật chất thì
không một gia đình nào bằng. Vì Độc lập Tự do Hạnh phúc của dân tộc!
Tôi có hai người chú đi Vệ quốc
đoàn hi sinh hồi 1947. Một người chú làm trung đoàn phó đã về Nam và hi sinh ở
Kà Tum. Một người chú khác là kỷ sư nông nghiệp ở Miền Bắc. Riêng cậu Bảy tôi
là Đoàn trưởng Thanh niên Cứu quốc tỉnh được chọn đi học ngoại quốc hồi kháng
Pháp nhưng cậu không đi, dì Năm tôi là cán bộ huấn luyện Phụ nữ Cứu quốc có
chồng là chiến sĩ Côn Đảo, hai vợ chồng đã đào tạo thế hệ cán bộ lứa tuổi tôi
cho cách mạng trong tỉnh.
Nhà ông Nội, nhà bà Ngoại tôi
không có lúc nào ngớt cơ quan và bộ đội đóng ăn dầm nằm đề khui hết bồ lúa này
tới bồ lúa khác… Hồi còn lao đao thì cách mạng dựa vào dân, khi thành công rồi
thì cách mạng quay lại ăn thịt dân. Cách mạng bên Nga bên Tàu bên ta đều thế cả
!
Tôi không muốn hỏi gì thêm. Vì
sợ nhiều chuyện không vui nữa sẽ làm cho tôi không đi nổi về tới nơi. Tôi nằm
trên võng mà nghe như lơ lửng giữa mây. Và lên cơn đau thực sự, đau tim, đau
óc, đau cả thể xác lẫn tinh thần.
Đăng hỏi:
- Anh có thuốc rét không cho
tôi đỡ vài viên ?
- Ở đây cũng sốt rét nữa sao ?
- Vừa sốt vừa chói nước anh ạ.
Bụng đứa nào đứa nấy bin rỉn giống như mắc cam tích, nhưng không có thuốc gì
hết, chỉ uống rễ cây bồ hòn.
- Có kết quả không?
- Thì đau chân há miệng vậy chớ
nhằm gì anh! Nghe người ta nói rằng hồi trước Tây nó đày người mình lên đây
uống nước suối rồi rụng tóc, bụng to mà chết dần. Mình vì nhiệm vụ cách mạng
phải đi chớ ớn quá anh ơi !
- Sao chú lọt ra đây vậy?
- Mới đầu tôi chỉ xung phong đi
lên khu thôi. Xã mình đi hai mươi người. Lên tới quận trốn hết phân nửa. Lên
tới tỉnh còn một mình tôi. Chẳng lẽ bỏ về mất mặt Đồng Khởi nên tôi bấm bụng
đi. Lên tới khu người ta đưa lên R. Lên R. họ lại đưa ra đây. Ở trên nói là ra
đón bộ đội Miền Bắc vào. Toàn là súng to, không phải thứ Ngựa Trời như trong
tỉnh mình hồi Đồng Khởi đâu ! Nghe thế tôi phấn khởi quá chừng, nên đi thì đi.
Đi tới trời cũng đi mà! Cho nên bây giờ kẹt ở đây, kêu trời không thấu. Ở trên
chưa cho về.
- Bộ đội vô hằng ngày, thiếu gì
đó !
- Tôi coi tướng mấy cậu này vô
trong mình không chịu nổi trực thăng đâu anh.
- Tuy vậy nhưng rồi cũng quen
đi chú ạ !
- Trông họ khờ quá.
- Ừ thì tân binh phải vậy chớ
sao. Còn bộ đội thiện chiến vô sau! – Tôi hỏi tiếp – Chắc đêm qua mình thiệt
hại nhiều phải không?
- Nghe họ bàn tán với nhau thì
“đi” hết vài chục.
- Rồi bỏ luôn xác đó à?
- Chứ anh bảo tụi tôi làm gì ?
Cuốc xuổng đâu mà đào đất ? Mà tay chân nào đào cho thấu. Đất ở đây không phải
đất thịt như trong mình. Toàn đá sỏi. Đào chắc gãy cán cuốc hết.
- Nếu để vậy, mai mốt trạm
ngoài đưa khách vô thấy cái cảnh người đi giải phóng chết nằm như rạ đó sao
tiện ?
- Bể điểm rồi. Tôi phải dời
ngược lên và cắt đường mới. Trạm này trụ một chỗ lâu quá không dời, nên mới lộ.
Ở chặng này thì những chuyến đi
vô không có thời dụng biểu nhất định. Cứ khách đến đông đông thì Đăng lại cho
đi. Có lẽ vì máy bay bắn bến sông và trực thăng chụp cho nên trạm ngoài đánh
hơi được nên không đưa khách vô. Hai ba ngày liền Đăng đi rồi về, không dẫn người
khách nào theo cả. Bất cứ thứ gì trên con đường này cùng đều trợt ngoài đường
rầy của sự lãnh đạo. Do sự nằm ỳ tại trạm mà nảy sanh vấn đề. Số là trong đội
nữ binh có một cô học sinh Trưng Vương rất xinh, tên là Huyền. Không biết cậu
giao liên trẻ (tên Bé) tò tí thế nào mà móc dính với cô Huyền. Và cậu Bé trình
bày thật với thủ trưởng Đăng. Đăng bèn hội ý với Vân. Vân gọi Huyền tới hỏi đầu
đuôi câu chuyện. Thì Huyền thú thật là hôm bữa bọn tôi nhậu ở trạm ngoài, Huyền
vô tình đến gần đó và nghe Vân kể về chuyện bào chế cao đơn hoàn tán cho mấy
ông kẹ. Huyền hoang mang và tìm cách thoát ly đoàn.
Vân gắt:
- Cô có nói với mấy cô kia
không?
- Không ạ ! Em chỉ giữ trong
bụng và tự lo thân.
- Tôi chỉ bịa chuyện chọc vui
mấy ông bạn của tôi thôi chứ trong cách mạng làm gì có chuyện đó !
- Vâng, em cũng nghĩ là cách
mạng không coi người dân ta rẻ rúng thế.
- Thì tại sao cô lại muốn quay
ngang không đi vô nữa ?
- Em thấy các anh giao liên cực
khổ nên em muốn chia xẻ với các anh ấy !
- Cô dắt khách được à?
- Dạ được chứ! Ở ngoài Bắc có
nữ công nhân lái máy cày, nữ công nhân dệt, nữ công nhân hàn điện, tại sao em
không làm được nữ giao liên trên đường này ? Thì cũng như em đi từ trạm “một”
tới đây vậy thôi ! Đâu có khó gì !
Vân gặp tôi và kể lại câu
chuyện trên. Tôi lôi Hoàng Việt đến. Ba đứa cùng ra rừng để bàn định. Cuối cùng
là phải để Huyền ở lại thôi. Vì đó là “lô gích cách mạng” mặc dù bên trong vấn
đề thì lại rất “phản lô gích”. Huyền đã tìm đường thoát từ khi nghe lỏm được
chuyện bí mật đó. Đến bây giờ mới có cơ hội. Vân thở dài:
- Mình lấy lý do gì để không
cho nó ở lại trạm ?
- Nó đã biết chuyện đó rồi, nếu
để nó đi, nó phụ nhĩ với đám kia thì hỏng kế hoạch của Phòng Dược của ông Dược
sĩ hết ráo.
- Hay ta nói tung hê cả vấn đề
bỉ ổi đó ra và cho các em tự tìm công tác mới ?
- Đâu có được nhiệm vụ của tao
là đi ra Miền Bắc lấy thuốc và tuyển chọn các cô. Trở vô mà không có gì hết,
tao đứt đầu à?
- Mày đứng ở cửa giữa: Lương
tâm và Cấp trên. Né bên này đụng bên kia.
- Cách mạng có nhiều cái kỳ cục
lắm mày ạ, chỉ trong phạm vi y tế thôi tao thấy cũng chướng rồi. Nội các bệnh
viện ở Hà Nội thì mày cũng đủ rõ rồi. Bệnh viện Việt Xô dành cho ông to bà lớn.
Bệnh viện 108 (tức Đồn Thủy) dành cho mấy ông tướng bà tá, bệnh viện Việt Đức
(tức Phủ Doãn) dành cho cán bộ nhèm, bệnh viện C dành cho nhân dân cá kèo. Vô
tới trong R kỳ này mày sẽ thất vọng. Nó không có giống như thời kỳ chống Pháp
nữa đâu nhé. Cùng đau một bệnh nhưng người này có thuốc, người kia lại nằm chờ
chết. Nếu tao không nói thì có bao giờ mày tưởng tượng rằng trong chế độ mà
người ta rêu rao là vì dân, do dân, của dân mà lại bắt con cháu nhân dân đi làm
những cái máy sản xuất cao đan hoàn tán như thế này không? Trong lúc đó thì con
cháu của các chả thì đứa đi Liên Xô đứa đi Đông Đức. Ở trong này thì cũng vậy.
Lính không có gạo nấu mày thấy chưa, nhưng mấy ông kẹ thì tẩm bổ bằng sữa,
whisky và… thịt người. (Tôi
giật mình nhảy nhỏm) Chứ
không à? Như tao nói đó, các cô em này không bị mấy ông ăn thịt là gì? Tao chán
lắm! Nếu bắt tao làm mãi cái trò “phục vụ cách mạng” như kiểu này thì chắc tao
về nhà nuôi vịt Tàu thôi mày ạ.
Đám cưới Bé-Huyền được tổ chức
ngay trong trạm. Vân đem một ít đường cát ra đãi khách. Còn các cô nữ binh mỗi
người mỗi món, hoặc một chiếc khăn tay, một cái kẹp tóc tặng bạn làm kỷ niệm. Tôi
xé tập bản thảo đã dóm bếp gần hết, dán ba tờ làm một với hồ khuấy bằng bột
gạo, dừng thuốc đỏ của ông dược sĩ kẽ cái khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên
nhiệm vụ” đè lên những chú ký của tôi ở dọc đường, ghim nó lên vách lá. Cái
khẩu hiệu này tôi trông thấy hai ba lần ở “Phòng Cưới” góc đường Bà Triệu dùng
làm đám cưới tập thể. May sao tôi còn nhớ. Nhưng khi nhìn căn chòi trống hoang
chẳng có vẻ gì “vui duyên mới” cả, tôi xót thương cho cặp trai gái sinh bất
phùng thời này, nên bày thêm ra cái bàn thờ Tổ quốc. Đó là cái bàn bện bằng cây
rừng của Đăng dùng để ba lô. Tôi lấy tấm vải dù của tôi (do anh rể của Phương
tặng cho tôi ở Hà Nội) dùng làm chăn đắp mấy tháng nay, trùm lên. Mấy cô em đi
hái hoa rừng cắm vào một cái lọ hoa đặc biệt: đó là vỏ đạn cà nông 37 ly của
trạm dùng uống nước trà. Để cho “quan khách” biết rằng đó là bàn thờ Tổ quốc,
tôi lại xé thêm hai tờ bản thảo, một tờ tôi bôi thuốc đỏ và kí-nin làm cờ một
tờ tôi kẽ hai chữ “Tổ Quốc” trong hai cái vòng thật tròn và to bằng vành chén
sắt Hungari như kiểu chữ Nho.
Vân làm chủ hôn bên gái, Đăng,
bên trai. Hoàng Việt và tôi được mời làm thượng khách, các cô nữ binh vừa làm
khách vừa làm người nhà.
Các cô nấu đến gần hai chục cái
gà mèn cơm. Các cô làm bánh với một ít bột gạo của tôi và Hoàng Việt. Đám cưới
gì lại không có bánh ? Chỉ có đám cưới tập thể ở Phòng Cưới Bà Triệu thôi. Thật
mỉa mai chua xót cho Bà Triệu phải nhìn thấy con cháu mình cưới nhau bằng nước
chè xanh và thuốc lá suông với năm mẩu chuyện khào nhạt hơn cả khói thuốc và
chè xanh.
Hoàng Việt bỗng gợi ý: “Còn
rượu cồn không ông dược sĩ ? ”
Thế là Vân lại pha pha chế chế
rượu tân hôn. Hoàng Việt cười :
- Tụi nó còn trẻ thì khỏi dùng
“đậu phộng Hà Tĩnh hả?
Tôi cũng cười:
- Và khỏi ngậm sâm.
Cô dâu và chú rể mặc quần áo
mới nhất của họ. Huyền thì tra chiếc áo pô-pe-lin trắng cổ bẻ bánh bèo, quần
vải đen Liên Xô loại hai thước một năm cho mỗi đầu người trên mười tám tuổi,
chân mang dép cao su cải tiến (tôi không biết là cải tiến như thế nào so với
dép của tôi, nhưng nghe gọi thế thì hay thế), tóc chải phùng và may quá, có
được một cái hoa nhựa mầu hồng gắn trên tóc. Còn Bé thì mặc áo bộ đội (chắc của
anh lính nào đổi chác hay tặng, quần tây của Hoàng Việt vừa cho, cái quần ni
lông đi pa-tanh bị thủng đít vừa vá xong. (Cũng
may là chú rể không phải mặc cái quần tiều của giao liên). Tóc chàng rể
được tỉa bớt bằng lưỡi lam của tôi với bàn tay ông thợ cạo Hoàng Việt.
Như thế là đã chu tất lắm rồi.
Một cái đám cưới nếu có ở giữa rừng Trường Sơn, không thể hơn được đám này.
Khổ tâm nhất là ông chủ hôn
đàng gái phải đứng lên công nhận đôi tân hôn và với tư cách chỉ huy, ban huấn
từ cho chúng. Vân nói lại mấy cái công thức muôn đời ở các đám cưới tập thể và
kết luận:
- Hai em nên gắn bó với nhau
trong tinh thần cách mạng, sửa chữa khuyết điểm cho nhau, khuyến khích nhau
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó để đáp lại ơn Bác và Đảng. Không có Bác
Đảng các em không được như ngày nay.
Tôi đứng bên cạnh Vân. Tôi phục
lăn hắn.
Tôi không hiểu hắn thay lưỡi
hồi nào mà nói năng trôi chảy như vậy, nói láo mà y như thiệt. Xin bạn đọc tạm
ngưng uống rượu cồn pha nước suối giây lát.
(Về sau khi tôi về hồi chánh ở
Sài Gòn, tôi gặp hắn. Hắn “dông” trước cả tôi cơ, đâu năm 1967 gì đó. Hai vợ
chồng đổi tên khác, Vân ra Bảy, Phụng ra Ba. Anh Bảy và chị Ba. Cộng lại thành
Mười có nghĩa là – theo y giải thích- mười năm xã nghĩa có đầy đủ chứng cớ để
cho vợ chồng Bảy Ba chào thua cách mạng. Anh Bảy làm cho Sở Thẩm vấn của Mỹ ở
Biên Hòa, đi Honda dame, vợ có thêm hai con trai rất bụ bẫm. Hai vợ chồng đến
tận Trung tâm Chiêu hồi Trung ương ở Thị Nghè rước tôi và sáu anh chàng nghệ sĩ
của đoàn Văn công Giải phóng mới “chia tay” với Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ – về
nhà đãi một bữa thịt bò, ngồi dưới đất ăn và uống bia và say và ói suốt đêm thứ
bảy và ngày chủ nhật. Anh Bảy và chị Ba vui mừng vô cùng. Anh Bảy nhắc lại
chuyện đám cưới Bé-Huyền. Tôi hỏi:
- Sao mày ban huấn từ “ngọt”
vậy? . .
- Mày xem tao đóng kịch tài
chưa ? Tụi mày làm văn nghệ thua tao xa. Tao đóng kịch suốt mười năm ở Miền
Bắc, bốn năm năm trong R.
Tôi nói:
- Hồi đó nhìn cái mặt nghiêm
trang của mày, tao suýt bật cười. Bây giờ đinh làm nghề gì? Mở tiệm thuốc Tây
đi ! Món này hốt bạc dữ lắm !
- Nhưng tao đâu có bằng dược sĩ
dược siết gì. Mấy chục năm trời chỉ làm ba cái huyết des chiens đó thôi. Ra Bắc
thì cũng mặc bơ-lu trắng coi oai lắm nhưng chẳng biết thêm một tí gì về dược,
vào R thì bào chế cao đơn huờn tán luôn ba năm. Cái thứ đó mà đem áp dụng ở
SàiGòn thì ở tù mục xương. Tao định làm chơi Sở Mỹ ít lâu lấy tiền mua xe nước
mía điện mày ạ. Thứ này làm giàu mau lắm. Bán nước đá lạnh nêm tí nước mía. Tao
có thằng bạn thuở bé học trường làng với nhau, bây giờ nó có tới ba cái nhà lầu
và năm xe nước mía bán ở các rạp hát bóng, còn nhà nó có năm chiếc Suzuki và
Honda, một jeep bầu, Honda để đi nhậu, Jeep để mua mía đám. Tao cởi cái áo dược
sĩ rỡm lâu rồi. Nè, có thằng bác sĩ Hiền mới “dzô” tao nghe đài SàiGòn nói đó.
Nó ra ở Đà Nẵng. Nếu nó về Trung tâm của mày thì đưa lại nhà tao nhậu. Nó là
dân “rau” nhưng chơi được lắm !)
Xin mời bạn đọc trở lại mâm
rượu cồn của tiệc cưới.
Bữa tiệc khá rôm rả, thức ăn
thì có ruốc, cơm trắng, thức uống thì có rượu y dược, tráng miệng được món bánh
cục bánh hòn do bàn tay của nữ binh chế tạo. Còn giường và phòng cho đôi tân
hôn thì hai đứa nó tự lực tạo lấy. Ông trưởng trạm Đăng phải dời ra rừng để
chúng chiếm hữu căn nhà, nhường cho chúng mắc võng.
Về lều riêng, Hoàng Việt cười
với tôi.
- Đ.m. ngủ võng đây rồi không
biết tụi nó làm sao? Hai đứa đều là “tân binh” cả !
- Anh không nhớ câu ca dao trào
phúng rất hay của Miền Bắc hay sao ?
- Câu gì?
- Chồng còng mà vợ cũng còng. Nằm
giường thì chật nằm nong thì vừa!
- Nằm nong là nằm ở dưới đất,
nó không có “nắc nư” như thuyền thúng của tỉnh “Hà Lam Linh” mày biết không?
Còn đây là võng, nó nhảy sóng như ghe bầu rồi mần ăn làm sao? Mày có kinh
nghiệm gì rỉ tai thằng nhỏ tí.
- Anh đừng lo, nghề dạy nghề mà
! Cuối cùng nếu nằm giường không ổn thì nó lại nằm nong chứ gì ! Cũng như anh
vậy, có ai dạy anh ngậm sâm không?
Hoàng Việt cười hắc hắc, rung
rinh cả mảng tóc bạc.
Tôi nhận ra anh có bộ mặt quái
gỡ trong cái cười. Nó giống như một mảnh đá tàn ong hình cái lá vông dựng
ngược. Mắt thụt mất; răng vàng ềnh khói thuốc xếu xáo mất trật tự thì lại nhô
ra như dọa con nít; hai cái vành tai rộng, trái tai dài, chui trốn dưới mớ tóc
bạc trắng như bông, dường như chúng không muốn đón nhận một thứ âm thanh phản
âm nhạc nào trong cuộc đời này nữa, còn cái cổ thì đúng là cái cổ Hoàng “Cò.”
Nó như cây que chỉ đủ sức chịu nổi chiếc kẹo con. Chiếc áo đã rộng thùng thình
như áo khính.
- Ta lợi dụng thời gian này mà
xén bớt ba cái bùi nhùi trên đầu cho nó nhẹ đi, anh Bảy bà trẻ.
- Ý bậy nà, để làm “quản xung
cơ” khi đội bom trộm chớ ?
- Anh lúc nào cũng nghĩ tới cái
point d’orgue (*) đó hết trọi
(*) Ký hiệu trong âm nhạc có
nghĩa dừng lại bao lâu là tùy hứng.
- Hồi nào mậy ?
- Quản Xung Cơ là mớ tóc huyền
mọc trên lạch Đào Nguyên chứ đâu phải mọc trên đầu. Đó là danh từ y tế có định
nghĩa như sau: “Quản xung cơ là một mớ lông thưa hoặc dày tùy từng người mọc ở
bộ phận sinh dục của đàn ông hoặc đàn bà có tác dụng làm cho sự cọ xát giữa bộ
phận sinh dục của hai bên gây ra nhiều cảm giác hơn là những người không có nó.
Nhưng người đời cho rằng nếu ai gặp loại không có “quản xung cơ” thì rất xui
xẻo. Sự thực đây chỉ là vấn đề khoa học thực tế không phải khoa học huyền bí
như người ta tưởng!”
Hoàng Việt cười ầm lên:
- Đọ ọ… Tao chỉ nói vắn tắt
thôi còn mày thì thêm mắm dặm muối, viết cả một đoạn tùy bút, thấy chưa? Khẩu
dâm tế nhị hả mậy?
- Nè, anh nói thiệt tui nghe
quản xung cơ của mấy em mắt xanh mũi lõ ở bên xứ Bún-cà-ri nó màu gì ?
- Mặt sao ngao vậy. Tóc màu gì
“quản” màu ấy, cũng như râu của mày vậy. Chẳng lẽ tóc mày đen, râu mày lại hoe
à?
Tôi sực nhớ ra mấy tuần nay tôi
không cạo râu mà không thấy khó chịu gì. Cái gì lặp lại trong ta vài lần đều có
thể thành thói quen. Thói quen ở Hà Nội là ăn khoai lang sáng ăn ngô trưa ăn
bắp chiều, thói quen ở đây là sáng dậy vác ba lô lên vai, bụng đói meo nếu
không để dành được tí cơm chiều qua, và leo núi v.v… Sáng ở Hà Nội, thức dậy là
súc miệng, cạo râu, mặc quần áo sạch vào. Sáng ở đây là không súc miệng, không
cạo râu mà vừa rút lại quai dép vừa ngóng cổ chờ giao liên.
Đáng lẽ tôi phải dẫy đi mớ cỏ
hoang trên mặt tôi để cho cái đám cưới quang đãng hơn, nhưng tôi cũng không
nhớ. Không cạo râu, đói, đã trở thành thói quen từ hồi nào cũng không nhớ nốt.
Đến tên thật cũng còn quên mà ?
Một hôm Đăng kể cho tôi một
chuyện khác ở Quê hương Đồng Khởi của tôi. Đăng nói:
- Anh có biết ông Nhứt Chậm
không?
- Nhứt Chậm nào?
- Nhứt Chậm ở giáp ranh hai
làng ở gần Cổ Cò. Anh nhớ không?
- Nhớ ! Rồi sao ?
- Ổng ở trong chi ủy đó. Hồi
trước Đồng Khởi ổng có vay tiền của vợ chồng bà Hai Đối để mua trâu làm ruộng.
Anh biết ông bà Hai Đối không?
- Biết. Ổng mần ăn và hà tiện
dữ lắm.
- Vì vậy ổng có tiền cho Nhứt
Chậm vay. Nhứt Chậm cũng có bà con với Hai Đối nữa. Vậy mà Đồng Khởi xong, Nhút
Chậm bắt vợ chồng Hai Đối thủ tiêu. Ai cũng thấy kỳ cục. Nhưng Nhứt Chậm bảo:
Hai đứa nó là gián điệp ! Thế là không ai dám xì xầm. Vợ chồng ổng hiền như cục
đất, có biết gián điệp là cái giống gì !
- Còn ai bị như vậy nữa không?
- Còn chớ. Còn nhiều. Mấy ông
chi ủy mình ghê lắm. Muốn nói gì nói muốn làm gì làm. – Đăng ậm ờ một chút rồi
tiếp — Tôi nói chuyện này ra chắc anh buồn lắm.
- Chuyện gì nữa?
- Anh còn người cô phải không?
- Phải !
- Cũng bị kiểu cậu Tám.
- Hả?
- Họ giết mất rồi. Cũng hồi sau
Đồng Khởi.
- Tại sao?
- Vì hai lẽ. Một là cô có cái
radiô. Hai là một “ông nội” chi ủy ve vãn, cô bảo “Ai mà ưng cái đồ chăn trâu !
” Họ giết để lấy radiô và rửa thù tiếng chửi.
Tôi ngồi lặng im, hết biết nói sao.
Lại cũng đồ chăn trâu giết hại dòng họ tôi.
Một buổi sáng thức dậy, Vân
được mấy cô nữ binh báo cáo có ba bốn cô đi đâu mất. Vân đoán ngay nguyên nhân
bèn gọi Huyền tới hạch hỏi:
- Cô có nói gì với mấy cô bạn
không?
- Dạ, em không có nói gì hết.
- Tại sao mấy cô kia đi đâu?
- Dạ, em không biết.
- Cô thèo lẻo thì cô chịu trách
nhiệm, nghe ! Tại cô thêu dệt câu chuyện nghe lóm đó nên mấy cổ sợ mà trốn chớ
gì ! . . . Tôi đã bảo là cách mạng thiêng liêng lắm, không bao giờ có cái
chuyện như vậy đâu. Tôi bịa chuyện chơi cho vui… ý mà… chuyện đó có thiệt nhưng
ở bên Tàu bên Tây gì ấy, bên mình Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo chính
phủ là những người đạo đức song toàn đâu có làm chuyện quái gỡ đó.
Huyền cúi mặt. Vân gắt:
- Mấy cô ấy trốn đi đâu?
- Dạ họ nói họ trở về Hà Nội !
- Xùy ! Vô tới đây rồi không có
đường về nữa đâu. Cô không thấy câu ca dao bên anh lính chết nằm dưới mô đất
lòi chân ở trạm năm trạm sáu gì đó à?
- Dạ em nhớ chớ.
“Vào đây thì ở lại đây
Bao giờ mộ mọc xanh cây thì về!”
- Vậy sao còn đòi về ?
- Dạ, em chắc mấy chị ấy nhớ
nhà!
Vân quát:
- Đi giải phóng Miền Nam không
có cái vụ nhớ nhà! Nghe rõ chưa ?
- Dạ rõ!
Tuy la quát như vậy nhưng Vân
không làm gì được. Đăng và Bé chia nhau đi lùng và tìm lại được hai cô. Đó là
cô Thúy và cô Hương. Cả hai đều là nhân viên bệnh viện và cũng trạc tuổi Huyền.
Vân than với tôi:
- Đổ bể tùm lum rồi !
- Tao thấy như thế là tốt đó.
- Tốt à?
- Chứ sao! Mày nên có biện pháp
tích cực để giải quyết vấn đề này.
- Thi hành kỷ luật ?
- Khồ…ồng! Kỷ luật đéo gì. Có
kỷ luật chăng là kỷ luật tụi …khác kia!
Vân lặng thinh, đầu gục thấp.
Tôi bảo:
- Nói toạc mẹ nó ra cho các cô
ấy rõ và hứa là vô tới trong kia sẽ…
- … sẽ gì?
- … sẽ gì đó thì tùy mày hoặc
tùy ở trên ở dưới nào đó. Bảo cho họ biết là cách mạng không có cái lối “ăn
thịt người” như thế được.
Vân thở dài thườn thượt.
- Kẹt quá đi mất! Kẹt quá !
—>Chương 24
- 24 -
Đám cưới đạm bạc và bất ngờ của
Huyền và Bé làm tôi nhớ lại những đám cưới của dân “mốc gốc lim” của Nông
trường Lam Sơn Miền Bắc, tức là lính Thành Đồng Tổ Quốc tập kết được Bác Đảng
cho ân huệ lên khai phá rừng trồng mía làm lò đường và trồng cao su lấy mủ làm
lốp xe đạp, cuối cùng mía không đủ kháp rượu cho lính uống còn cao su thì lên
không quá lưng quần đã chết rụi.
Tôi thiệt tình không hiểu người
ta coi dân Nam kỳ tôi là thứ dân mọi rợ gì mà họ đày đọa kinh hoàng như thế.
Một vạn con người ta, toàn là
thanh niên và đàn ông sồn sồn tức là từ bốn mươi, bốn mươi lăm tuổi không ai có
vợ con gì và ở đây cũng không có đàn bà con gái. Bên cạnh một đại đội có một
cái chòi con của hai cha con một lão già. Đứa con gái đâu chừng mười hai tuổi
gầy nhom ngực chưa nổi trái tràm. Nhà có một cái giếng loạn, bên giếng có một
cây cau già không trái, đứng là một cái cảnh tượng rụi tàn. Thế nhưng các anh
lính bên đơn vi vạch đường qua bụi rậm tới luôn, mãi rồi thành đường mòn nối
liền đơn vị và ngôi chòi kia. Bạn thử tưởng tượng xem họ sang đó để làm gì? –
Hỏi cô bé làm vợ!
Khi tôi đến công tác ở đây thì
ngôi chòi đã sập, chỉ còn có cái giếng và cây cau già. Nhưng cái giếng thì đã
lấp và ở dưới đáy hình như có xác cô gái. Còn ông già thì đã đi đâu rồi. Người
ta lén kể cho tôi biết và yêu cầu đừng viết báo, rằng, cô gái đã nhảy xuống
giếng tự vận và ông già đã vác đá lấp luôn rồi đi mất. Cũng có người cãi lại:
Làm gì có cái vụ tự vận? Ngày nào ông già đi làm rẫy, tụi quỉ cũng mò sang, con
nhỏ “chịu không nổi” nên ông già dắt con gái bỏ đi. Trước khi đi ổng vác đá lấp
giếng như chửi cha bộ đội cụ Hồ đó chớ!
Nhiều thanh niên đi lên bản tìm
mấy ông già bà già Mường có con gái, xin làm con nuôi rồi dần dà lấy con gái
của họ, dắt về đơn vị xin phép che cái chòi ngoài ven suối, đêm ngủ với vợ
(không cưới hỏi gì) sáng đi cuốc gốc lim ! Đồng đội chế diễu “thằng rể Mường”
họ độp trả lại: “Chẳng hơn tụi bây xài chị Năm?”
Ở cống Bàn Thạch gần Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 330 của Đồng Văn Cống có hai mẹ con nhà nọ bi lọt vào mắt xanh của anh
đội Miền Nam. Một anh đội trẻ cuỗm được bà mẹ rồi về đơn vị làm mối cho một anh
già hơn đến xơi tái đứa con gái. Cho nên có ca dao: “Trông cha lại trẻ hơn con.
Gả mẹ cho rể hãy còn đẹp đôi.” Người ta đồn rằng để trả ơn mai mối, chàng rể
già tốt số phải để cho ông bố vợ trẻ chấm mút cô vợ mình chút đỉnh.
Lần cuối cùng (1962) đến nông
trường này, tôi thấy nó tiêu điều ủ dột lạ thường. Mải miết chôn chân ở Hà Nội
tôi không biết gì hết. Những khối u hoài của dân móc gốc lim còn khó móc hơn
những gốc lim. Số là đám lính Nam kỳ cởi áo lính trên bảy năm làm tù khổ sai
nay được gọi trở lại lính, không lên một cấp bậc nào. Có những anh đi kháng
chiến ở Nam Bộ mười năm chỉ làm tới chức tiểu đội phó, ra Miền Bắc bị bác Hồ bỏ
quên, vẫn làm “cai” cách mạng, bây giờ già “mọc nanh” rồi, vẫn làm cai khi được
gọi đi về giải phóng Miền Nam. Toàn nông trường gần mười ngàn sinh mạng bi lùa
vô lò sát sinh Trường Sơn chỉ trừ những người bệnh ra lão hoặc kiệt sức. Năm
mươi còn khỏe có thể xung phong và được bác hoan nghênh kịch liệt như các cháu
ngoan nhất của bác.
Còn vài hôm nữa lên đường, họ
mở đại tiệc. Gà vịt họ mua gom hết của cả chợ Ngọc Lặc đem về chất đống trước
sân. Nhậu! Nhậu và nhậu. Ai đến chơi cũng đều được mời nhậu. Rượu của tỉnh
Thanh Hoá xe nông trường chở hết về Lam Sơn tưới cho những trái tim khô vừa
sống lại về quê.
Có rất đông những đàn bà con
gái yêu anh đội Miền Nam và đã có con với họ. Nghe chồng đi về quê, họ kéo đến.
Chả là lâu nay họ tin tưởng rằng chồng mắc gốc rau muống tại đây rồi. Nay bất
ngờ Sâm Thương đôi ngã.
Những ông chồng chùm gởi đã nói
thẳng “Xê mi ra, ông về NƯỚC.”
Những người vợ khóc như mưa
nhưng không lấy được địa chỉ của chồng để sau này giải phóng Miền Nam xong vào
tìm. Như thế thì biết được tình cảm của dân Thành Đồng Tổ Quốc sâu sắc đối với
Miến Bắc xã nghĩa là dường nào !
Họ tởn rồi. Một lần tập kết thì
tởn tới già. Đừng mong gạt họ nữa mà… uổng công. Có một số cán bộ tôi gặp trên
dường Trường Sơn như các ông tá đi lậu ở trên kia. Hành động vô kỷ luật của các
ông ấy là một sự đền đáp lại “ân huệ” mà họ được hưởng từ tay Bác!
Ôi Miền Bắc xã nghĩa !
Ôi cách mạng vô sản !
Mi là con quỉ dạ xoa ăn hết tâm
hồn và da thịt của dân Nam Bộ tao.
Ôi Bác Hồ!
Ôi đảng !
Mi là tên bịp vĩ đại đã lừa dân
Nam Bộ cả tin của tao một cách thành công trong lịch sử lừa bịp của cộng sản
thế giới !
Nhưng hãy hượm, đừng vội mừng
với những bữa tiệc máu ngoả nguê. Rồi đây chúng mày sẽ phải trả giá đắt những
gì chúng mày giật được nhờ bịp .
Cặp trai gái Huyền Bé yêu nhau
ư? Không hẳn vậy. Huyền biết mình sắp làm thứ đồ chơi cho lũ quỉ dâm dục mặc áo
lãnh tụ, nên tìm ngả rẽ, nơi mà bàn tay của Bé đã vẫy gọi nàng. Còn Bé bị đưa
ra đây không ngày về nên tìm hơi ấm nơi người con gái Miền Bắc mà nó quen trong
vòng mấy ngày. Yêu ở đây là giải thoát. Đám cưới vừa qua là một sự hùn vốn của
hai người vô sản muốn sống và hưởng mùi trần thế ở một địa ngục khó thoát.
Vài hôm sau, khách ở trạm ngoài
vô khá đông, đông nghịt những đơn vị võ trang. Đăng hoảng vía. Đăng sợ máy bay
đánh hơi được thì sẽ có một trận nhảy dù thứ hai hoặc một trận oanh kích. Có lẽ
anh ta không sợ phải chôn xác chết, phải chuyển thương binh (anh ta có làm
những việc này đâu mà sợ) mà anh ta sợ bể cái điểm của anh ta. Nếu phải dời đi,
anh ta phải cất một ngôi nhà khác, anh ta phải đốn cột kèo với cái trành bằm và
chằm hằng ngàn tấm lá để lợp nóc nhà. Đôi khi vì một quyền lợi nhỏ nhen, người
ta làm một việc lớn khác và người ta làm bộ như là hành động vì cái việc lớn
này. Bọn cộng sản Việt Nam bây giờ là một ví dụ. Chúng đang cố bấu víu Quyền và
Lợi kếch xù của chúng – đó là bắt sáu mươi triệu người phục dịch cho chúng và
gia đình chúng như những nô lệ thời phong kiến phục dịch những đế vương – Thế
nhưng ngoài mặt thì chúng chạy lăng xăng nay đi xin viện trợ, mai họp đại hội
lần sáu, lần bảy để “lo cho dân tộc.” Cái anh giao liên tên Đăng này là hình
ảnh thu nhỏ lại của đám đầu sỏ cộng Bản. Nhưng anh ta khá hơn chúng vì anh ta
không bắt ai phải phục dịch anh ta.
Anh ta đập khách dậy từ hừng
sáng và hành quân ngay. Chu đáo hơn những trạm khác, Đăng dẫn đầu với cây
các-bin, Bé bọc hậu với cái dao găm Hàng Mã và cái bay-on-nét tháo ra từ khẩu
các-bin của Đăng.
Đi sát với Đăng là tôi, Hoàng
Việt, chị Phụng, Vân và đám nữ binh. Khúc sau thì hầm bà lằn, khúc thì dân
chính, khúc thì bộ đội, khúc thì bộ đội và dân chính pha chè. Ở đoạn này đường
bằng phẳng nên dễ qua mặt nhau. Ai qua mặt kẻ khác được cứ việc qua mặt. Ai
đuối sức cứ tự nguyện tụt hậu, cho nên đi được vài tiếng đồng hồ thì cái xã hội
xã nghĩa táp nham này tự xếp lại theo một trật tự mới, mà giai cấp lãnh đèn đỏ
đáng thương hại nhất là những anh bộ đội què và những chàng không què nhưng lại
phải khiêng nòng cối 81 và cõng đế cối 60. Bạn cứ tưởng tượng một anh lính được
bồi dưỡng bằng cơm-cháo-nước suối và sốt rét đã phải cõng một cái đế cối 60
cộng với ba lô của mình trên lưng và… leo núi.
Hôm nay ai cũng có vẻ lo lắng
vì trước khi đi, Đăng cho biết là phải vượt qua một bãi pháo rất rộng. Trước
đây chúng bắn có “cữ.” Một ngày ba cữ sáng, trưa, chiều, nhưng có lẽ nó rút
kinh nghiệm bắn như vậy không có kết quả cũng như sốt rét, mình biết trước mình
chặn cữ. Bây giờ nó bắn như thằng khùng đập bậy không có giờ giấc gì hết. Có
khi hai ba ngày không bắn, có khi vừa bắn xong, nửa tiếng đồng hồ lại bắn. (Bãi
này phải mất một tiếng đồng hồ mới qua khỏi). Nó cũng đoán tâm lý: Hễ dứt loạt
pháo là giao liên dắt khách chạy băng. Vào đúng giữa bãi nó lại bắn. Y như gài
bẫy. Có lần một đoàn khách bị dính bẫy. Một nửa đoàn nằm lại bãi vinh viễn.
Pháo nó bắn chụp ác lắm. Mỗi phát sáu quả, rơi thành một vòng tròn bề kính
chừng một trăm mét. Vô phúc một trưng đội lọt vào cái vòng lửa đó thì rụi sạch.
Một đại đội chỉ cần lãnh hai vòng thì còn sót loe hoe vài mống ngất ngư.
Gần tới bãi thì Đăng dừng lại,
bảo một cách tỉ mỉ vô cùng:
- Các đồng chí nghỉ một chút
xem lại đồ đạc, gài các nút túi áo, thắt lại dây nịt, rút lại quai dép, buộc
chặt các nắp ba-lô, gà-men dồn vô ba lô không được đeo trong lưng, bi-đông mang
chéo trước ngực, đồng chí nào có súng ngắn, thì tốt nhất bỏ vào trong ba lô,
đeo bên hông khi chạy nó đập vào đùi khó chạy nhanh được. Cuối cũng là cái “thủ
cấp” phải siết quai thật chặt vào cổ. Xong xuôi tất cả rồi thì nhảy cà tưng tại
chỗ vài chục cái coi có món nào sút hoặc rơi thì chỉnh đốn lại… Tôi cho ba mươi
phút nghỉ rồi bắt đầu. Ai chạy được cứ chạy, không nên chờ đợi. Qua tới bìa
rừng là dừng lại tập trung ở đó, tôi sẽ dẫn đi tiếp.
Nửa giờ sau cuộc chạy đua bắt
đầu. Vui lắm! Không có ai đuổi mà phải chạy. Tiếng kêu réo tiếng la ó vang rân.
Người bị rơi lại phía sau kêu người chạy phía trước, người phía trước giục kẻ
rơi ở đàng sau. Xen lẫn vào đó là tiếng quát tháo của chỉ huy các đoàn và giao
liên. Đất cát mịt mù xóa bóng hình thấp thoáng giống như bãi chiến trường của một
đạo quân cô-dắc không có ngựa và không có đánh nhau với kẻ thù. Thế mà vẫn có
kẻ bị thương vì ngã. (Không phái vì tự sát thương như ở những trạm ngoài. Lính
đã vô tới đây là đã dứt khoát năm mươi phần trăm tư tưởng đi với đảng không làm
bê quay cũng không tự bắn vào chân nữa. Nhưng vô tới Nam Bộ thì lại “quay” vô
Sài Gòn. Con số lính Bắc Việt hồi chánh, theo tôi biết, có đến cả trăm ngàn
trong vòng năm sáu năm trong đó có Thượng tá Trần Văn Đắc tức Tám Hà, Thượng tá
Lê Xuân Chuyên, Trung tá Huỳnh Cự v.v .
May quá bữa hôm nay lính Ngụy
mắc đi nhậu ở bar hay đi ăn giỗ ngoài nhà dân nên không bắn pháo. Nhờ vậy đoàn
người “Cô-dắc đi chân” không bị sứt mẻ nhiều.
Đến mé rừng, tôi và Hoàng Việt
ngả dài ra đất bất chấp trời trăng. Hai ông giao liên rất khoan hồng. Họ để cho
khách tha hồ nằm ngồi và tự bồi dưỡng bằng cách hít khí trời của Đảng, không
hạn chế. Đám nữ binh của dược sĩ Vân cũng tới nơi đủ mặt. Những anh lính khiêng
nòng pháo 81 dường như bất chấp kẻ thù “mày pháo tao cũng pháo” nên cứ đủng
đỉnh đi trên bãi trống.
Tôi đã thấy pháo binh dùng xe
đẩy phân của hợp tác xã di chuyển pháo trên đường quốc lộ 1 và tôi cũng đã
trông thấy những chiếc đế pháo cối ném ở dọc đường. Những đế cối đó nằm lót
đường cho chiến sĩ bước qua hoặc ngồi nghỉ cho nên đã vắng mặt ở đây chứ gì.
Nòng không đế, dựng ở đâu mà bắn ?
Đăng đến chúc mừng tôi sắp về
đến quê hương và nhờ tôi đến gặp gia đình nói dùm anh ta ở ngoài này vẫn mạnh
khỏe và phấn khởi công tác, trong lúc Bé cũng đến cảm ơn Vân và hứa hẹn sẽ dìu
dắt Huyền công tác tốt.
Đăng nói với mọi người đang lấy
lại sức nằm ngồi đầy đất
- Hôm nay chúng ta vượt qua bãi
pháo an toàn là nhờ các đoàn chuẩn bị chu đáo và thi hành đúng kỷ luật đi
đường! (!!)
Một người khách hỏi:
- Hồi trước tới giờ có đoàn nào
bị nạn không đồng chí giao liên ?
- Có chút …đỉnh thôi. Một đoàn
bị bắn trúng giữa đội hình, một đoàn khác bị vét đuôi mà chỉ vài người bị
thương xoàng !
- Có thiệt hại gì không đồng
chí?
- Không thiệt hại gì cả. Sơ sơ
chừng vài chục.
- Sao mình không đổi đường?
- Ở trên không có lệnh, đổi sao
được.
- Bộ đồng chí không báo cáo lên
trên à?
- Có nhưng mà mình dẫn khách
chớ ở trên đâu có dẫn khách mà ở trên lo.
- Đồng chí phải tự động chứ!
- Thì tôi cũng đdã tự động
nhiều rồi ! – Đăng kể tiếp – Cái đoàn pháo binh kia kìa hôm trước họ qua sông
không được. Lính các ổng toàn không biết lội, tôi bảo chặt cây rừng làm bè
nhưng họ không có dao to. Họ không biết làm sao. Nếu để họ phất phơ ở ven bờ
sông thì có cơ hội bi “cá lẹp” mần gỏi. Cho nên tôi bảo họ đi cặp theo bờ sông
ngược lên nguồn dò xem chỗ nào cạn thì lội qua.
- Thế kia à?
- Đi tới ngọn sông mất một ngày
rưỡi đường. Trở xuống ngang bến cũ mất hai ngày nữa. Tất cả là bốn ngày. Trong
lúc đó thì những người không khiêng pháo đã bơi qua sông nằm chờ. Và bị bắn đêm
trước. Té ra tưởng khỏe mà lại mệt.
Đăng kết thúc câu chuyện với
một câu than thở riêng với tôi:
- Thà ôm súng đánh giặc mà khoẻ
anh ạ ! Còn cái công tác này coi khỏe mà lại mệt cầm canh. Chết không lên đài
tử sĩ được đâu !
Vừa tới đó thì trên nền cát
trắng có một chấm đen di động về hướng này.
- Ông nội nào tụt biệt đằng sau
vậy? – Đăng càu nhàu rồi quay lại hỏi đám người gần đó – Có phải người của các
đồng chí không, ra rước dùm chút, một bước đỡ một bước.
Cái chấm đen càng đến gần và
dần đần hiện rõ ra là một cô gái. Rồi một cô kêu ré lên:
- Con Huyền, con Huyền !
- Vợ mày hả Bé ? – Đăng buột
miệng quát – Ra rước nó đi !
Đúng là Huyền. Huyền đến thấy
chị Phụng nhào vào lòng khóc rưng rức.
- Cái con nhỏ lạ chưa? Bữa đám
cưới hứa hẹn nghe ngon lắm, mà chồng đi chưa đầy một ngày đã vác ba-lô chạy
theo.
Trước mặt mọi người thằng Bé
đứng chết trân, có vẻ ngượng nghịu, không biết nói gì mà cũng không lại gần
Huyền. Mấy anh tân binh thấy cô gái xinh xắn và biết Huyền là vợ của Bé qua câu
chuyện qua lại giữa Vân và Đăng, thì tỏ vẻ bực rọc nên lên tiếng chế diễu:
- Ở ngoài đó bộ con trai không
ai biết đánh. . . đu cả nên mới vác cái mu rùa vô đây nộp !
- Mặt mũi có vẻ sáng mà óc thi
óc lợn!
- Lấy ai không lấy lại lấy nòi
“niêu manh.”
- Ê phản động nghe ! – Một
tiếng Nam kỳ quát – Tụi bây nói ai lưu manh?
- “C… cô hồn, l… nhà nước” thằng nào giỏi quơ
thì xài chớ. Tụi bây vô tới trỏng tao cho con gái trịnh “mê thúng” lên đầu.
Huyền đã dứt khóc. Chi Phụng
buồn rầu hỏi:
- Sao em lại thay đổi ý kiến
mau vậy?
- Em tính nhầm chi ạ!
- Nhầm thế nào? – Vân quát.
- Em không dám ở lại trạm một
mình đâu. Em chết mất. Em xin tự kiểm điểm và xin anh cho em trở lại công tác
của đoàn.
Trước sự việc bất ngờ, Vân
không biết nên quyết định ra sao. Còn Đăng cũng đương lặng thinh, kẹt cứng. May
sao Hoàng Việt lên tiếng:
- Tôi đề nghị với hai ông như
thế này, Đây là trường hợp cá biệt, ta phải giải quyết thế nào cho hai đứa bé
không phải đau khổ mà vẫn có lợi cho cách mạng phải không nào? Theo tôi thì ông
dược sĩ nên nhận cho cô em trở lại đoàn mà không phải bị một hình thức kỷ luật
nào. Tuy cô bé rẽ ngang nhưng so với những người tự sát thương làm bê quay và
làm thổ phỉ thì cô còn tốt chán. Còn cậu Bé là nhân viên của trạm nhưng nếu cô
Huyền đi theo đoàn thì Bé vừa cưới vợ lại mất vợ hay sao ? Vậy tôi đề nghị cho
cậu Bé đi với Huyền luôn.
Đăng vung tay:
- Đi đâu thì đi. Tôi không cần
giữ làm gì ! – Rồi tiếp – Quê nó ở Bà Rịa. Khi đi vô ngang đó, các ông cho hai
đứa nó về quê cho rồi. Ở đây có ngày cũng chết lãng nhách về nạn cà-nông. Qua
qua lại lại cái bãi này sớm muộn cũng dính thôi ! Xương với tóc lác đác trên
bãi các ông thấy không?
Thế là giải quyết gọn hơ vấn
đề. Nhưng lại lòi ra vấn đề khác.
Khi mọi người tiếp tục lên
đường thì có năm sáu chú bộ đội “xin phép” nằm lại..
- Tôi có phép đâu mà xin ! –
Đăng quát ầm ĩ – Muốn đi thì đi, muốn nằm thì nằm, ai khiển các ông cho nổi.
Một cậu sút dép đạp mảnh đạn
đứt một vết sâu giữa gan bàn chân, hai cậu ôm bụng kêu đau. Đăng quát:
- Tôi không phải là bác sĩ !
- Lá mía em ở vào thời kỳ thứ
ba. Lúc nãy em ngã cả năm phút không dậy nổi.
- Em cũng thế! Bụng đau quá, em
không đi nổi nữa rồi!
Đăng bảo:
- Có hai cách. Một là các anh
nằm lại đây tôi trở về rước ra trạm ở với tôi.
- Ối giời, em hãi cái bãi này
lắm! Em qua được đến đây là như đầu thai kiếp khác.
- Một cách nữa là….- Đăng tiếp
– Nằm lại đây dưỡng bệnh, hết bệnh tôi đến đưa đi tiếp.
- Lấy gì chúng em ăn ạ?
- Lấy gì thì lấy, tôi cũng
không có cái gì ăn thì tôi có cái gì cho các ông ?
Vân lắc đầu. Tôi thấy bất nhẫn
lương tâm. Vân bước đến bảo bệnh nhân:
- Giở áo cho tôi xem!
Người lính run run cởi cúc, vén
áo lên. Vân chỉ mới ấn nhẹ tay, anh ta đã kêu lên oai oái. Vân lại lắc đầu:
- Phải nằm lại và chích thuốc.
Đến thời kỳ này quinine viên không ăn thua – Vân vừa nói vừa vạch mi mắt bệnh
nhân và quay đi, không nói gì.
Giao liên cũng không nói gì,
lặng lẽ vẫy tay ra lệnh cho khách đi. Tôi vẫn đeo dính theo Đăng. Đăng vừa đi
vừa trỏ tay về phía một cội cây gì đứng trơ trọi gần ven rừng, nói với tôi:
- Anh biết cây gì đó không?
- Cây gì?
- Cây xương người!
- Cây xương rồng thì có chứ cây
gì lại cây xương người, chứ?
Đăng nói:
- Lúc nãy em không dám khai
thiệt vì có đông người, chứ pháo bầy ác hơn máy bay anh ạ.
- Pháo bầy là pháo gì?
- Pháo bầy là pháo nó bắn một
lúc cả chục trái cũng như trâu bò bầy vậy. Pháo này hại mình nặng hơn máy bay
vì máy bay tới, mình biết đường mà tránh. Tôi nói thiệt với anh là các thứ máy
bay, tôi chấp! Đầm già tới bắn trái khói là tôi uống hai chung trà nữa rồi mới
chạy. Mà chạy ra xa ngoài vòng sát thương của bom rồi tiếp tục ngồi uống trà.
Sống nhăn! Còn cái thứ cà-nông “đui” này nó phang bậy mà nhằm. Nói giấu gì anh,
tôi chết hụt hoài thôi. Bị cả chục trận rồi mà chưa dính phát nào. Còn khách
thì bị tỉa nặng. Dưới gốc cây đó có một cái hố. Tôi với thằng Bé lâu lâu đi
nhặt xương đem gom lại dưới hố đó. Kệ, tuy không được chôn cất nhưng “nằm
chung” cũng ấm hơn là phơi giữa bãi hoang. Tội nghiệp, đâu có biết tên họ gì.
Giấy tờ bay mất hết. Đôi khi tôi nhặt được hình hay chứng minh thơ nhưng đâu
biết là quê quán ở đâu. Vả lại, theo mấy ổng nói là mọi người trên đường này
đều bỏ tên họ cha sanh mẹ đẻ, lấy tên họ mới cả. Và trong giấy không có ghi
làng xã gì mà toàn là X2, H4, A7, B5 coi kỳ cục quá.
- Từ đây vào tới ranh Nam Bộ
còn bao xa nữa?
- Cũng gần thôi, nhưng trạm
trong này dài lắm. Một trạm bằng ba trạm ngoài đó. Sắp tới đây còn một cái dốc
nữa. Ăn hết ráo gạo mới trèo xong.
- Vậy hả? – Vân đi sau lưng tôi
kêu lên – Cái dốc này cũng bằng cái Vịnh Trà Bay ở Long Mỹ.
- Người ta đặt chuyện nói đó là
cái cạnh đuôi của con rồng cái. Nó nhỏng đuôi lên để đẻ, cho nên cái dốc này
cao tới mây. Tiền hung hậu cũng hung! Qua cái dốc đuôi rồng này rồi là đồng
bằng tha hồ dòm ngó. Nó “chụp” liên miên cũng tha hồ chạy !
- Giò cẳng còn đâu nữa mà chạy
? Tôi nói và quay lại nhìn cặp giò quấc của ông nhạc sĩ giao hưởng Bún-cà-ri.
Trước khi băng qua bãi pháo ông
bạn đã cởi quần dài buộc hai ống ngang cần cổ “cho chắc ăn” để phơi bày hai cái
ống sậy mang dép giống như hai cái dấu nhạc. Không khéo nó lọi ngang có bữa.
Tôi vừa vui vui nghĩ vừa quay lại bảo:
- Anh đi lên trước đi anh Bảy.
- Thôi, tao không có kéo ngọn
nữa đâu. Rủi đứt đuôi mấy thằng bộ đội nó oánh tao !
Trông anh đến buồn cười. Cái
cửa hàng xén lưu động của anh rườm rà vui mắt hơn bất cứ của ai trong đoàn. Từ
các chặng này trở vô, người ta nhặt được rất nhiều hộp lon không và hộp lon đầy
của quân Mỹ vứt lại.
Hoàng Việt lượm bỏ vô ba lô để
chờ khi đắc đụng nhưng mỗi khi nhặt được cái nào đẹp hơn thì lại “được mới nới
cũ ” anh giản chính bớt, nhưng ít ra anh cũng có đến bốn năm cái làm vốn.
Một lần anh nhặt được hộp nho
nhỏ, không biết đựng thức ăn gì, nhưng anh đọc được chữ “Georgia” trên hông
hộp, anh đưa cho tôi coi và nói:
- Đây này mày thấy không, già
Khơ giúp lương thực cho tụi Mỹ ăn đánh mình đây này!
Tôi cầm lấy cái hộp coi tới coi
lui nhưng chỉ hiểu vài ba chữ Anh học hồi học trung học, nhưng lại không biết
Georgia là một tiểu bang của nước Mỹ, mà chỉ nghi đó là một trong mười lăm nước
Cộng hoà Xô viết của Liên Xô, nên cũng la ầm lên:
- Đ m. già Trọc chơi cú tiêu
lòn này hại quá! Súng thì cho bốn ngàn cây hồi thời Nga hoàng, bây giờ lại chơi
cái mửng này nữa. Mình bi mình hại rồi.
- Lại thêm “cụ Mao” cạo đầu cụ
Lưu bên Trung Quốc nữa. Toàn chuyện “xuông cựa ! “
- Xương máu mình rẻ hơn nước
lã.
Mấy người bộ đội nghe chúng tôi
nói chuyện bèn rề lại đòi xem cái hộp. Xem xong họ cũng kêu trời và hỏi tôi:
- Đồng chí nói bốn ngàn súng
Nga hoàng là súng gì, ở đâu?
- Tố Hữu đi theo Lê Duẩn qua
hội đàm bên Liên Xô về xét lại xét liếc gì đó về nói chuyện tại cơ quan tôi,
ông ấy cho biết như thế.
- Vậy còn AK tụi tôi xài đây là
ở đâu ?
- Già Trọc văng rồi, Kossigin
lên nên mình mới có pháo phòng không và AK đó chớ.
- Còn đồng chí nói cụ Mao cạo
đầu cụ Lưu nào?
- Mao Trạch Đông cạo đầu Lưu
Thiếu Kỳ bằng tay bà vợ bé, chớ Mao nào!
- Sao có chuyện kỳ cục vậy? Mà
ai nói chớ?
- Đài Bắc Kinh.
- Có thiệt không?
Tôi hơi cáu:
- Thiệt hay không tôi không
biết, nhưng đó là tin của đài Bắc Kinh, tôi nghe cách đây một tháng. Hồi đó
đoàn tôi có cái “đài” và tôi còn đi chung.
—>Chương 25
- 25 -
Đúng như lời của Đăng nói, hai
hôm sau chúng tôi suýt bị chụp. Giao liên dắt đoàn khách quân dân chánh chạy
“ém quân”" chờ địch rút mới trở lại trạm. Khách bên ngoài lại ùn vào mỗi
ngày mỗi đông.
Ngữ tới trong đoàn khách sau
cùng.
- Cậu làm sao qua sông?
- Túm ba lô bằng ni-lông. Ối
giào, từ thuở bé đến giờ em mới bơi qua sông là một.
- Thăng Núi… ?
- Em chôn nó tử tế. Nó tự vận
đấy anh ạ!
- Tôi biết ! Tôi thấy mấy viên
kí-nin rơi vãi trên mình nó và cái bi-đông sút nút nằm dưới đất, nhưng tôi
không muốn cho ai nấy biết, để khỏi bận tâm vô ích.
- Thôi vậy cũng yên thân! Em đã
giữ lại tất cả hình ảnh thư từ để sau này đưa về cho gia đình nó. Ác quá ! –
Ngữ tiếp – Mấy lúc em xốc nách nó đi với em, nó đòi nằm lại luôn anh ạ. Nó cứ
than nó không sống nổi hoài ! Em quát nó, nhưng nó vẫn cứ nói như trối. Nào là
nhắn dùm con bé Đôi hãy quên nó đi mà lấy chồng, nào là nhắn bố mẹ nó đừng buồn
coi như nó hi sinh cho Miền Nam cũng như ba anh nó hi sinh trong kháng chiến.
Nhà nó thế là cụt hết con trai. Nó nói vậy. Và nó khóc. Ngữ rưng rưng – Em đoán
được ý định của nó, nên em moi lấy gói thuốc của nó để giấu nhưng nó bỏ ở túi
áo trước rồi, không để trong ba lô nữa.
- Rồi cậu có làm dấu gì cho mả
nó không?
- Giao liên dời trạm luôn rồi
anh ạ! Ai còn đi ngang đó làm gì nữa.
Tôi bỗng thấy, sau câu nói của
Ngữ, một sự hoang lạnh của cả trời đất đổ ụp xuống vùng núi rừng không có bóng
người này, nơi có một nấm đất lè tè mà mai kia, chỉ vài trận mưa đã xóa bằng
mặt và cỏ dại sẽ bò lên phủ kín trong lúc ở nhà cha mẹ và người yêu vẫn ngày
ngày mong tin… chiến thắng của người đi…
Trên con đường này tôi đã gặp
bao nhiêu nấm đất như vậy. Tôi đã gặp những bộ xương rũ trong hốc đá mà bên
cạnh là ba cây AK giá dá vào với nhau như trong giờ phút giải lao ở thao
trường.
Tuổi trẻ đã bị đem ra xài như
những món đồ vật, nhưng đồ vật hỏng thì sửa chữa còn ở đây hỏng là vứt vì không
có xưởng sửa chữa cho bệnh nhân.
Hai hôm sau khách lại đùn đông
nghẹt, đa số là lính.
Và chúng tôi leo cái đuôi nhỏng
của con Rồng đẻ.
Hoàng Việt đứng dưới đất ngóng
lên và càu nhàu như thường lệ:
- Có còn sâm đâu nữa ngậm để mà
trèo !
- Mỏi gối chồn chân cũng phải
trèo hiền nhân quân tử ơi !
- Từ vô trường đi B tới nay tao
tu, có làm gì mà mỏi gối hả thằng quỉ ? Mày mới mỏi gối chồn chân thì có !
- Coi vậy chớ dây xích chưa
nhão đâu, chỉ mới khô dầu tí thôi !
Trong lúc rảo tới rảo lui chờ
lệnh xuất phát, tôi gặp nhiều người quen ở Hà Nội. Tôi có cảm giác là tất cả
các chiếc tàu Stavaropol và Arkhangels đã chạy trốn mất vì nhận thấy lỗi lầm
quốc tế của họ đã đem những đồng chí của họ trút vào một vùng đất chết, hơn nữa
một trại tù khổ sai mang tên Miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trong số người quen này, có một
ông chú họ, chung đầu ông cụ, chú lớn vai nhưng nhỏ tuổi hơn tôi. Chú được cho
đi Liên Xô học đỗ Phó kỹ sư nông học. Chú là em ruột của ông trung đoàn chết ở
Kà Tum. Tôi định nói ngay cái tin cô tôi chết với những chi tiết của Đăng kể,
nhưng may sao tôi ghìm lại được nhờ tôi nhớ tới thằng bạn ở Viện Nông học của
ông Lương Đình Của ở Gia Lâm đã từng cho tôi uống sữa trâu để viết bài tuyên
truyền, tới nay nhắc lại còn mắc ói.
- Chú có gặp thằng “kỹ sư súc
vật” không?
- Kỹ sư súc vật nào ?
Tôi nói tên. Chú cười:
- Nó được chuyển từ chăn trâu
qua chăn… gà.
- Gà gì mà phải chăn vậy chú.
- Giống gà Anh Cát Lợi, mỗi con
nặng tám kí lô, mỗi ngày đẻ hai trứng.
- Có to bằng ếch Cu-Ba không
chú?
Chú tôi gạt ngang:
- Thôi bỏ mấy vụ đó đi mày ! –
rồi hỏi tiếp – Tao nghe nói mày về lâu lắm rồi sao bây giờ còn ở đây?
- Đi được một tháng thì quẹo
cu-lát nằm đường đó chú. Còn chú đi hồi nào?
- Tao đi đúng một tháng tám
ngày.
- Tôi đi loạt đầu khá lắm. Sau
mấy cơn sốt cứ lê từng trạm một. Mới vừa khá lại cuốc được mấy trạm liền. Chú
biết cỏn bao xa nữa thì tới không?
- Non tháng ! Tao nghe nói vậy
thôi! Chưa chắc !
Đoàn bắt đầu đi, câu chuyện hàn
huyên bị gián đoạn. Nhưng khi leo được một phần ba dốc thì giao liên cho nghỉ
một giờ để lấy sức leo một đoạn cuối ác hơn. Chú lại tìm đến tôi. Hai chú cháu
mắc võng nằm tâm sự vụn không lo ai rình nghe, báo cáo lên trên.
- Thằng Chánh đi học điện ảnh
bên Đông Đức vừa về. Còn thằng Bình em nó đã hi sinh.
- Hi sinh ở đâu?
- Đâu bên Lào, nghe nói bán
chánh thức. Tụi đi Lào chết không có giấy báo tử.
- Rồi chú Chánh có hay không?
- Lúc tao về thì nó đã biết
rồi, nó vô Bộ Tổng hỏi thì người ta bảo đó là chuyện quốc phòng không thể nói
được. Chậc! Đám mình ra đây rắc xác khắp nơi. Ở trạm 15, 16 gì đó có một đám
lính Nam Bộ trôi ra trôi vô, bảo vệ đường dây, thấy đoàn tao đi ngang chúng nó
khóc mùi. Chúng nó bị neo ở đây không được về. Thấy người ta về mà khóc.
- Tôi cũng gặp đám đó. Chú định
về làm gì trong mình?
- Chưa biết nghề ngỗng gì. Kêu
về là về cái đã.
- Chú đi học Liên Xô được bằng
cấp Phó kỹ sư Nông học chú không có kiến thức gì sao mà nói vậy.
- Kiến thức thì kiến, nhưng đất
người ta khác, đất mình khác, lúa má cũng khác. Người ta có cấy lúa đâu mà áp
dụng cho nước mình được.
- Vậy chú đi làm gì cho mất
năm, sáu năm ?
- Vậy ở bên này làm gì, nếu
không đi, cũng mất cả chục năm? Có lẽ tao về làng mình để học lại mấy ông nông
dân cố cựu và xin mấy ổng phát cấp bằng mới cho, trước khi làm công tác nông
nghiệp.
- Chú nói vậy còn ông Lương
Đình Của thì sao ?
Chú cười:
- Ổng cũng kẹt đạn như mấy
người mình thôi, nhưng vì ổng là “sư mòng” trong Nông nghiệp nên người ta không
dám bóp hung. – Ngưng một chút, chú tiếp – Ở đâu cũng vậy hè mày ơi. Vấn đề
tranh giành địa vi là ghê gớm nhất chứ chẳng phải là công tác.
Tôi thở dài, vừa mệt cho đoạn
đường này, vừa ngán ngẩm cho con đường tôi đã đi qua. Tôi có biết kỹ sư nông
học Lương Đinh Của. Tôi đến chơi với ông luôn, hoặc tại Viện Nông học của ông ở
Gia Lâm, hoặc ở tại nhà của ông trong cư xá Kim Liên ( ?) cách Hà Nội không xa
lắm ! Tôi thấy mỉa mai, thật tình! Mỉa mai cho trí thức và cho đảng tiền phong
(!!). Lương Đình Của là người Sóc Trăng, nòi địa chủ. Ông có ý tưởng phát minh
nông nghiệp nước nhà từ thời còn ngồi ghe đi thu lúa ruộng cho ông bố. Lớn lên
học tiếng Pháp nhưng lại sang Nhật đi về ngành trồng lúa, đặc biệt về cây lúa
nhiệt đới. Ông đã đỗ bằng Tiến sĩ Nông học tại Nhật và làm việc tại xứ này với
một địa vị rất cao. Ông có vợ Nhật. Sau nhiều năm làm việc tại đây ông đã đưa
ra những phát minh và luận án về Cây Lúa của Việt Nam. Với luận án này ông đã
đạt đến tầm mức chưa từng có của người ngoại quốc trong nền nông nghiệp của
Nhật Bản.
Ông về làm việc ở Sài Gòn (hình
như trong Bộ Canh Nông). Rồi không biết ai móc ngoéo dụ dỗ thế nào mà ông bỏ
nhiệm sở đi theo cộng sản, ra Hà Nội đâu khoảng sau 54. Tưởng là đem tài năng
ra hoán cải đất đai khô cằn của Miền Bắc phục vụ nhân dân của ông. Âu cũng là
một cách thực hiện giấc mơ thuở thiếu thời của ông vậy. Nhưng than ôi, người
Nam Bộ không bao giờ được trọng dụng dưới triều Hồ, cả những anh chàng dày công
với đảng, với kháng chiến nữa là một tên kỹ sư Ngụy như ông Của.
Ông được cho làm Viện phó Viện
Nông Lâm Súc (thằng bạn của tôi là “kỹ sư súc vật” nơi đây). Trên đầu ông là
Viện trưởng Bùi Huy Đáp. Tai hại thay, Đáp lại là học trò của Liên Xô, kẻ
“giảng đạo Mitchourine Lyssenko’ trong ngành Nông nghiệp Việt Nam, trong lúc
ông Của lại là đồ đệ của nền Nông nghiệp Nhật Bổn. Liên Xô và Nhật Bổn là kẻ
thù cựa-chọi-cựa, răng-cà-răng trong chiến tranh, cũng là đối thủ của nhau
trong khoa học mà tượng trưng là cặp Đáp-Của.
Ai thắng? Của thắng trong
chuyên môn.
Ai thua? Đáp thua cũng trong
chuyên môn.
Nhưng cuối cùng lại cũng Chuyên thua Hồng.
Cho nên rồi:
Của thua, Đáp thắng. Chỉ vì Đáp
là Viện trưởng, kẻ có quyền phổ biến những phát minh của Viện hoặc phủ nhận
những phát minh ấy. Lương Đình Của đã lai tạo được nhiều giống lúa, trong đó
tôi biết có các giống Thần Nông, Nông nghiệp 1, Nông nghiệp 2. Nhưng cái viện
Nông Lâm “súc vật” của ông học trò Nga đã vùi dập luôn không cho phổ biến. Khi
tôi sang gặp ông để tìm tài liệu viết bài (Hạt Giống Mới đăng trên báo Văn
Nghệ) tôi gặp một ông lão Nông là người giúp việc chuyên môn cho kỹ sư Của. Ông
lão cho tôi biết là giống lúa của ông Của rất khỏe, ông ta đã lén đem cho nông
dân vùng Gia Lâm gieo thử. Lúa rất trúng, đạt năng suất gần gấp đôi lúa thường.
Do đó nông dân vùng Gia Lâm mới đòi giống NNI, NN2 của ông Của. Nhờ vậy mà vỡ
lẽ ra. Bài báo của tôi đăng lên trong lúc các loại giống kể trên đã về tới đồng
ruộng Thanh Hóa và được đón nhận như một thành công của Viện Nông Lâm Súc
Ông Của suýt được tặng danh
hiệu anh hùng lao động cùng một khóa với Bác sĩ Tôn Thất Tùng (*).
(*) Vì viết tiểu thuyết bị bác
hoài nên tôi nản chi, lẻo đẻo theo các ông anh hùng, chiến sĩ thi đua viết
truyện, lấy họ làm nhân vật chính, không nhà Xuất bản nào dám bác nữa. Sau các
truyện Hạt Giống Mới, Trái Tim Đầu Tiên, giải nhất truyện ngắn nói về BS Tôn
Thất Tùng, tôi viết về anh hùng đường sắt, anh hùng làm phân xanh, anh hùng
nuôi vịt Tàu hết xẩy.
Khi nghe tin này, tôi đến để
mừng một người Nam Bộ được vinh dự đeo mề-đay tối cao xã nghĩa. Nhưng khi vừa
đến gặp ông thì ông kêu lên: “Không biết ai trình lên trên mà “họ” đẽo tôi một
cú văng tuốt, chút” Tôi ngần người ra: Ai chơi ác vậy? – Đâu có biết!… Tôi cũng
tưởng là chắc ăn rồi, không ngờ bị Bác gạt tên. Chắc Bác muốn thử thách tôi
thêm chớ gì !” Ông Của nói vậy rồi vẫn vui vẻ tiếp tôi và khoe: “Tôi vừa đi
Nhật về! Chú biết không? Họ mời tôi ở lại làm việc cho họ với số lương… (?) (có
lẽ 2 đô 50 xu một tháng như lương cán bộ xã nghĩa bây giờ chăng?) nhưng tôi
nói: Để tôi lo cho nước tôi trước !” Cũng nên biết thêm ông Của đã lai tạo được
một loại “dưa hấu không có hột” (chính ông kể cho tôi). Thời ấy Mỹ đã mời ông
sang Mỹ làm việc và chỉ trồng loại dưa hấu ấy thôi. Ông cũng không đi. Mỹ mua
mỗi hột “dưa hấu không hột” ấy một đô la. Đem về trồng, dưa ra quả ăn rất ngon,
nhưng không có hột, cho nên muốn ăn dưa không hột lại phải mua hột dưa không
hột của ông Của, mỗi hột một đô la. Nên nhớ thời đó (1940-45?) một đô la là bao
lớn ?
Ông sang Nhật kỳ đó, các bạn
đồng niên trong nền nông nghiệp Nhật gọi ông là “Tiên sinh” để tỏ lòng cảm phục
về tài năng và về lòng yêu nước cao cả của ông. Ruộng lúa giống của Nhật – theo
ông kể lại với tôi, – là một bí mật quốc phòng. Họ không cho khách ngoại quốc
vào thăm. Nếu đôi khi có khách đặc biệt được đến đó thì họ cho người theo kiểm
soát rất kỹ lưỡng vì khách chỉ cần “ăn cắp” một gié lúa thì đủ thay đổi cả một
nền nông nghiệp rồi. Thế nhưng đối với Tiên sinh Lương Đình Của thì họ mời vào
thăm và tặng cho một túi gấm nhỏ đựng một ít hạt giống. Thế đủ biết họ trọng
người Kỹ sư Việt Nam – cũng là người đã cống hiến cho xứ sở họ rất nhiều tâm não
– như thế nào?
Trên đường cứu nước, cụ thể là
làm giàu cho Miền Bắc, ông Của gặp không biết bao nhiêu trở ngại đáng lý không
có, và chắc sẽ không có, nếu ông ở lại Nhật hay nhận lời sang Mỹ ! Một tài năng
có một không hai ở nước Việt Nam như vậy mà ông Của và gia đình (vợ người Nhật)
của ông gồm sáu người (lúc tôi đến chơi 1958-59 gì đó không nhớ rõ) chi được
nhận một gian phòng nhỏ tồi tàn ở khu Kim Liên. Ông không được cấp cho cả cần
vụ để dọn đất cho ông làm thí nghiệm giống, ông phải tự tay cầm cuốc. Mỗi sáng
đi làm ông phải đạp xe từ Kim Liên qua Gia Lâm. Cũng may ông được bạn bên Nhật
tặng cho cái xe đạp. Nếu không, ông phải chờ ba năm để mua xe quốc doanh.
Tôi đã đi hơi xa con đường dốc
đuôi Rồng phải không bạn đọc, nhưng có lẽ không lạc đề, bởi vì, thưa bạn, tất
cả mọi người Miền Nam vượt Trường Sơn đều có một mục đích là “về tới quê nhà”
nhưng mỗi người đều có một tâm sự đắng cay, não nề sau khi sống mười năm ở Miền
Bắc, như tâm sự Lương Đình Của.
Kỹ sư Lương Đình Của không vượt
Trường Sơn, ông ở lại Miền Bắc (và chết trên Miền Bắc) với một bầu tâm sự không
được thoải mái trút ra như bọn vượt Trường Sơn chứng tôi. Ông phải mang nó
xuống tận tuyền đài. Chủ nghĩa chủ ngỏm, lập trường lập bò đã đẻ ra chánh sách,
chánh sách đẻ ra ngu xuẩn và ngu xuẩn đẻ ra ganh tị, sự ganh tị cuối cùng đã
giết chết mọi tài năng, gây tai họa không lường, và dài dằng dặc như Trường
Sơn, cho dân tộc.
Ngày nay hình như ở Sài Gòn,
người ta có cho một con đường nho nhỏ nào đó cắm một tấm biển kẻ tên “đại lộ
Lương Đình Của.” Để làm gì? Để tự thú tội ngu xuẩn của mình chăng?
Tôi thấy buồn cho nông dân Miền
Bắc và buồn cho một người Nam Bộ đi lầm đường. Giá đi lầm từ đầu như tôi đây
thì không đáng tiếc cho lắm. Bởi vì trong hoàn cảnh của tôi năm 1945 không có
con đường yêu nước nào bằng con đường có cắm lá cờ đỏ sao vàng. Thời đó, cờ đó
là Cờ Dân tộc. Nó chưa có lòi cái cán búa ra. Ai mà thấy cho được!
Nhưng Lương Đình Của đã đi đúng
đường, đã vinh thân phì gia, đã phát triển được tài năng rồi và đã có đất để
gieo giống rồi mà mắc chứng gì lại đùng đùng bỏ đi, để đến nông nỗi đó, dở mếu
dở cười ? Cũng như anh bạn văn Thủy Thủ tên thật là Thái Trần Trọng Nghĩa đang
ở Sài Gòn mang lon thiếu úy Hải quân bỗng đùng đùng dông theo Nguyễn Hữu Thọ.
Cuối cùng, nhìn rõ mặt Giải phóng, anh đã tự phạt mình bằng một phát AK xuyên
qua đầu ? (Tôi sẽ kể chuyện này ở quyển Đến Mà Không Đến” tiếp sau đây).
Hết một giờ được giao liên cho
phép nghi, tôi không hỏi thêm chú tôi một câu nào về nghề nghiệp của chú nữa.
Vì tôi đã biết trước rồi. Đến như kỹ sư nái như ông Của mà còn không làm được
việc gì nữa là kỹ sư con.
Trước phút lên đường leo dốc
tiếp, chú móc túi ba lô cho tôi xem một gói lúa giống và nói:
- Mười năm ở Miền Bắc tao chỉ
được có mấy hột lúa Nông nghiệp 1 này. Để đem về trỏng gieo rồi cấy thử xem
sao. Ở trong đó chắc không có Bùi Huy Đáp cũng không có Mitchourine và
Lyssenko. Hễ lúa nào sai hột thì mấy ông nông dân mình khoái thôi.
Tôi vừa cuốn võng vừa hỏi:
- Chú có xuống dưới các hợp tác
xã để giúp nông dân cày cấy không?
- Giúp cái gì ?
- Thì cách cấy lúa làm sao cho…
- .. mau chết hả?
- Ít nhất chú cũng dạy cho họ
được kinh nghiệm của nông dân Liên Xô chớ!
Chú cuốn xong võng bỏ vô ba lô
và cười:
- Nông dân người ta cày máy,
gieo mạ bằng máy bay, cấy lúa mì, rải phân hóa học còn mình cày chìa vôi, gieo
cây mạ lên bằng cọng hành, lúa lên ngang đầu gối, phân bắc phân chuồng phân
xanh chắt mót từng cục một, có kinh nghiệm gì của người ta đem về xài được cho
mình đâu. Nông dân tập thể của người ta làm nông trường rộng cả vạn mẫu , hợp
tác xã của mình bằng cái bụm tay, nông trường của người ta làm việc có kỷ cương
răng rắc, xã viên của mình nay vô mai ra, tới năm nay rồi mà còn cãi như bằm
bầu cái vụ cấy thưa cấy dài, gieo mạ để luôn hay nhổ lên cấy lại.
- Nhạc sĩ Văn Chung đã phải làm
một bài hát để phục vụ hợp tác xã úng hộ phương pháp “cấy thưa” đó chớ chú !
- Bài hát gì ?
- Tôi không biết tên bài hát,
chỉ nhớ mấy câu vì nghe đài hát vời vợi suốt ngày suốt đêm:.. “Cấy thưa thì thừa thóc, cấy dày
thì cóc được ăn. Chị em ơi lại đây xem chúng tôi cấy . . . “
- Nhưng chẳng ai nghe theo bài
hát đó. Cũng chẳng ai nghe theo mấy ông cán bộ của Viện Nông Lâm Súc của tao.
Tao xuống coi họ canh tác một tháng thì tao nghĩ rằng mình đi học mấy năm chẳng
có ăn nhậu gì cả. Chẳng dùng được một tí tẹo nào của Liên Xô cho Miền Bắc lẫn
Miền Nam.
Tôi nói:
- Phải chú đi sớm một tuần lễ
thì chú đã gặp ông Cây Đa Cũ
Bến Đò Xưa rồi. Nhất
định ổng sẽ hỏi ý kiến chú về Hợp tác xã.
- Tao sẽ bẩm là Hợp tác xã
tuyệt vời như Cải cách ruộng đất vậy !
Có lệnh tiếp tục đi. Chú tôi
trở về đoàn của chú ở phía sau.
Trời bắt đầu đổ mưa. Trong
tiếng mưa rơi có tiếng cà nông nổ xa xa hết loạt này đến loạt khác. Tôi nghĩ
thầm: Đoàn mà vượt bãi thì sẽ lượm bạc chuyến này. Hú vía cho mình !
Mưa tầm tã. Nước mưa bít mặt.
Dốc núi trơn như thoa mỡ. Tôi và Hoàng Việt thay nhau chụp ếch lia lia. Chị
Phụng phải đeo lưng chồng, vừa bước vừa kêu: “Đường gì ác thế! Đường gì ác
thế!” Đường càng lên càng dốc đứng, người đi sau đội đít kẻ đi trước. Kẻ đi
trước móc cái gót dép cao su thum thủm vào mồm người đi sau. Tay vuốt mặt tay
bám gốc cây hoặc bám nhầm cái ống quyển người đi trước. Người đi trước kêu lên
vì bị lôi lại phía sau suýt ngã.
Thằng nào đạo đức lắm cũng phải
Đ.M. vài chục lần. Ai bảo núi là thơ, mưa là thơ, người ấy nhầm. Thơ không có
họ hàng gì với núi với mưa cả. Chúng tôi đang ôm núi đội mưa đây nhưng chúng
tôi hộc máu ra thì có chứ chẳng thấy thơ mộng gì. Nếu ngồi trong nhà uống trà
nhìn qua cửa kính thấy núi mờ trong mưa thì chắc núi và mưa trở thành thơ.
Chưa bao giờ chúng tôi leo núi
như lần này. Dốc đứng hơn cả cái dốc chúng tôi đi pa-tanh thủng cả đáy quần ở
trạm trước và lại bùn lầy, dép mắc dưới bùn và đi bước nào trợt bước nấy, đã
trợt át phải té. Một người té làm mấy người té theo. Tiếng kêu ơi ới giữa mưa.
Tôi quay lại nói với Hoàng
Việt:
- Đây là “Mưa Dầm” (*) đó anh
Bảy.
(*) Bài hát của Hoàng Việt sáng
tác trong thời kháng chiến.
- Thôi đi mày! – Hoàng Việt gắt
– Đừng có giỡn !
Tôi và Hoàng Việt bị nhiều
người qua mặt. Lần này tôi cố “đi chậm” để không lạc Hoàng Việt nữa. Chẳng có
ai trở lại rước anh nữa đâu.
Đang thất vọng, bất mãn và muốn
làm reo với giao liên thì có người nói:
- Đất này đỏ tươi, chắc là Bà
Rịa quá ta ơi !
Câu nói vô căn cứ bỗng nhóm lại
ngọn lửa sắp tắt trong lòng. Tôi vuốt mặt quay lại nói với Hoàng Việt:
- Vậy thì mình vô tới ranh xứ
minh rồi đó anh Bảy ơi!
- Chắc không?
- Tôi hỏi anh có cái gì trên
đời này là chắc không?
- Chắc một lần “hai năm” là
muốn lòi đom rồi.
- Thôi thì chưa chắc, cứ leo
cho lòi… thêm.
- Thôi ngậm miệng giữ hơi leo
cho mạnh, nói chuyện mất sức lắm mày ơi. Tới đâu tới.
Vì trời mưa không đi lên nhanh
được, cho nên lên đến chót núi thì đã xế dài. Không còn đủ thời giờ “hạ san”
nữa. Theo giao liên nói thì trạm tới còn xa. Xuống núi xong phải cuốc luôn bốn,
năm tiếng đồng hồ mới “đạt kế hoạch nhà nước!” Cho nên giao liên linh động cho
các tiên ông tiên bà dừng chân trên chót núi để luyện thuốc trường sanh trong
một đêm. Một đêm trên non Bồng bằng một trăm năm dưới trần thế. Ngày mai khi
trở lại trần gian con nít đã trở thành ông già còn tụi này thì vẫn trẻ măng như
con nít.
Sau mưa ông trời chường mặt ra
với những tia mắt quái ác. Quần áo ướt dầm. Tuột cả ra phơi tha hồ triển lãm
xương sống xương sườn và cặp giò ống điếu. Lâu lâu có dịp tự nhìn lại bản thân
thấy thịt không còn là mấy, da thi dùn xệu như cái vỏ banh lông xì hơi và nhăn
nheo như da voi. Nhìn xuống cái của quí thì càng thảm hại. Nó đã trở thành em
bé tí tèo tèo teo chui mất tiêu trong đám cỏ hoang u xù. Nói cho có văn hóa văn
hoa văn học thì: một khi ngọn thiết bảng cửa Tề Thiên Đại Thánh đã trở thành
cây kim giắt mép tai thì chiếc bình bát bửu của các tiên cô chắc cũng teo lại
bằng mảnh da lừa của Balzac tiên sinh rồi. Có lâm trận chắc không có hô giáng
hô thâu nổi nữa. Lại võng ướt, chăn ướt, tất cả người ngợm đều ướt, tâm hồn
cùng ướt nhẹp và rã rời như cơm nếp mắc mưa. Củi cũng ướt nhưng không khó kiếm
vì ở đây ít khi có đoàn dừng lại. Tôi và Hoàng Việt chung ty và tự lực các thứ,
cố không làm phiền ông bạn dược sĩ nữa. Chúng tôi đã nhờ cậy vào Vân quá nhiều
rồi. Trên đường này không có ai hảo tâm với ai đến thế cả. Đã có một lần tôi từ
chối không cho một anh bộ đội một khúc khoai mì sống.
Đang sắp sửa ngả lưng an dưỡng
thì Hoàng Việt kêu :
- Thằng Ngữ đâu rồi ?
Tôi cũng giật mình. Mải miết
lội, leo, bò, lết mà không nhớ đến Ngữ nữa.
Tôi chạy tới chạy lui một lúc
mới tìm được chàng họa sĩ, nhờ cái khăn rằn nâu sọc rất to của nhà trường phát
cho mỗi học sinh chúng tôi. Ngữ đang nằm trên võng trùm chăn. Cái mùng màu xanh
lá cây đã mắc xong nhưng chưa buông xuống. Tôi giở chăn ra, sờ trán Ngữ.
- Sao thế này ?
Ngữ ư ư hai ba tiếng, không mở
mắt, và đáp:
- Em sốt hồi trận mưa đầu.
Có lẽ Ngữ biết trong đám khách
này hắn không có ai quen ngoài Hoàng Việt và tôi, nên nhắm mắt mà vẫn biết
người quen và miệng nói leo lẻo:
- Có lẽ con muỗi đòn xóc nào
chích thằng Núi lại chích em hay sao ấy anh ạ.
- Bậy mày ! Nghe trong mình thế
nào ?
- Như có lửa dậy trong máu ấy!
- Có thèm cơm nước gì không?
- Em chỉ khát, nhưng ở đây
không có suốì. Em tìm mãi không có nên mới trở lại nằm.
Tôi đứng ngơ ngẩn trước đồng
đội ngã sốt và trước một sự việc bất ngờ: ở đây là đỉnh núi nên không có suối.
Tôi nói:
- Lấy kí nín chặn cữ đi. ..
- Em không còn lấy một ngụm
nước.
- Tao không còn một giọt.
(Tôi là thằng dở chịu đói mà
cũng dở chịu khát. Đó là hai chứng xấu không nên có cho những ai muốn leo núi.
Tôi đã ngã sốt ngay sau khi uống nước vũng voi dầm với thuốc lọc nước của Bảo
Gia Lợi). Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Lấy giấy quấn kí nín rồi
nuốt, được không? Đâu mày làm thử coi. Nếu có được một trái chuối chín thì nhét
thuốc vào rồi nuốt trộng. Ngoài ra thì chẳng có cách gì. Nhưng ở đây làm gì có
chuối? – Tôi ngó quanh quất một chút rồi reo lên: – Phải rồi, để tao đi tìm
nước cho!
Sau trận mưa, nước đọng đầy các
hốc đá. Trong đó những cái lá đã rửa hết thịt chỉ còn lại xương và những cái lá
khô lá vàng nằm sắp lớp lên nhau. Tôi đưa cái lon múc nhón lớp trên cho khỏi
cặn, nhưng tôi lại thấy những con loăng quăng bơi lội trong nước và có những
chú bị múc vào lon. Đây là tiền thân của những anh chị “đòn xóc” nguy hiểm nhất
cho đoàn lữ khách. Tôi đem về lều sớt gạn loăng quăng ra và nhóm bếp nấu mớ
nước đưa cho Ngữ. Ngữ uống xong mấy viên kí-nin (và những trứng muỗi lẫn vi
trùng sốt rét chưa chết hẳn, cùng một lúc).
Ngữ lại trùm chăn. Tôi trở về
lều thì Hoàng Việt bảo:
- Đây là dốc Cụ Hồ mày ạ!
- Sao anh biết?
- Giao liên mới nói. Nó không
thua đồi 1001. Đặc điểm của dốc Cụ Hồ là không có nước, làm sao nấu nướng?
Tôi thuật lại vụ sưu tầm nước
mưa trong hốc đá cho Hoàng Việt nghe. Anh nói :
- Sao không hứng lúc trời đang
mưa?
- Ai có ngờ tình trạng khan
nước thế này mà hứng trước !
- Thằng giao liên này đáng treo
cổ!
Mấy trăm con người ta nhao nhao
lên vì nước! Người thì đi múc nước trong hốc đá, kẻ đi nghiêng từng cái lá vét
lấy những hạt mưa hiếm hoi. Bỗng có người đề ra sáng kiến. “Ta múc lấy mây!”
Cái sáng kiến ấy lan đi rất nhanh khắp các đoàn. Quả thật mây bay từng cụm dưới
chân, trên đầu, dưới đít võng. Trông hay hay. Cái sáng kiến nghe cũng ngộ ngộ.
Giống như một lý tưởng lãng mạn nhưng đó là một sự thực bất ngờ.
Khi leo, không ai nghĩ mình sẽ
lên đến độ cao này.
Hoàng Việt cười hóm hỉnh:
- Đến rìa thiên đường rồi mà
không hay. Nhưng mày có chìa khóa mở cửa không?
- Chìa thì có đây, nhưng không
biết khóa ở chỗ nào.
Vừa nói, hai đứa vừa lấy gà-mèn
ra múc mây. Mây bay phơi phới trước mặt, sau lưng. Chứng tôi cứ nhè những đám
to mà quơ đại vào, hi vọng mây bị hốt vào gà men sẽ hóa thành nước. Tưởng là
múc được nhiều mây thì sẽ được nhiều nước, nhưng mây thì nhiều mà nước chẳng có
tí nào. Cái sáng kiến có vẻ vừa thực tế vừa ngớ ngẩn đó chẳng giúp ai.
Lại có người đề ra sáng kiến
khác, cứ há mồm cho mây bay vào cũng như uống nước. Tự bồi dưỡng kiểu đó, xong
rồi ngủ, sáng mai sẽ xuống núi tìm suối. Tôi cũng há mồm cho mây bay vào và
ngậm lại, nhưng không giảm bớt cơn khát tí nào.
Thất vọng, tôi lắc lắc bi-đông
nghe nước khua khe khẽ, bèn trút ra gà-mèn. Nói có Trời Đất chứng miên. Số nước
còn sót lại được mấy chung, cái loại chung mà Cụ Hồ rót rượu mời đồng bào uống
hồi toàn quốc kháng chiến năm 1946 trên nhựt trình, mãi tới bây giờ chưa có ai
nếm được, và có lẽ nó đã biến thành nước lã trên dốc Cụ Hồ này. Bây giờ làm gì
với mấy chung nước đó cho khỏi sai lầm đối với bản thân mình để tránh sửa sai ?
Mặc dù cơn khát đang thiêu đốt cơ thể, nhưng tôi cố dìm cái anh họ Trư đang
lồng lên trong tôi. Nếu tôi buông lỏng, hắn sẽ tiêu diệt mấy chung nước cam lồ
đó như ăn nhân sâm, nuốt xong mà chẳng biết mùi vị gì. Khi người ta vừa đói lại
vừa khát mà đứng trước món ăn thức uống thì rất khó ghìm mình lại. Người ta
phải bắt mình nghĩ tới lý tưởng cao cả này, chủ nghĩa vinh quang nọ để không bị
cái tí bã vật chất kia cám dỗ mà sa ngã mặc dù họ là đồ đệ của chủ nghĩa duy
vật.
Suýt chút nữa tôi quên một chất
liệu quan trọng. Số là hồi trưa này khi nghỉ ở dưới dốc chúng tôi gặp một gốc bứa.
Ngữ là người còn khỏe nhất trong chúng tôi và là người trông thấy nó trước
nhất. Ngữ leo như một chú khỉ bị thợ săn đuổi nột. Tất cả đội nữ binh và chúng
tôi vây quanh gốc cây. Các cô léo nhéo với giọng óc đáng yêu nhất:
- Anh cho em xin tí.
- Anh bẻ cho em cái búp non kia
!
Hoàng Việt nhìn tôi và kêu với
Ngữ:
- Anh đội Miền Nam ơi , “giúp
các em tí!”
Chúng tôi cười nhưng không ai
hiểu gì về cái điển tích ấy ! Hoàng Việt hỏi các em:
- Giúp thì anh đội Miền Nam
thừa sức giúp, nhưng các cô muốn mấy ván?
- Dạ ván gì ạ?
- Ván tức là lá ấy mà. -Tôi
nhanh nhẩu-. Tiếng Miền Nam chúng tôi hơi khác, cũng như ngoài ta gọi là thuyền
nhưng trong ta kêu là ghe !
- Nếu thế cho chúng em xin mấy
ván cũng được, càng nhiều càng tốt.
- Các cô nói cậu cho mấy ván
cũng được. Thế ba ván nhé!
- Ừ ba ván không bỏ dở ván nào
!
Chúng tôi lại cười với nhau.
Nhờ vậy mà nghe đỡ mệt. Ngữ ở trên cây nói tiếp xuống :
- Xin lá hay cành ?
- Dạ lá thôi.
- Bứa có củ nữa, có lấy không?
- Ném luôn lá cả củ lẫn cành
cho đủ bộ!
Vài cô đã biết chúng tôi trêu
nên không kêu đòi nữa trong lúc các cô khác thì cứ xin rối rít.
Những cái đọt bứa còn bị bỏ
quên trong túi ba lô. Tôi nghĩ đến canh chua. Lá bứa nấu chín rồi dầm ra trong
nước húp một thìa đã ê răng, nước miếng bị kích thích sẽ tràn ra đầy mồm còn có
tác dụng hơn cả vườn quít tưởng tượng của Tào Tháo. Ai cũng khéo đặt cái dốc
này là dốc Cụ Hồ.
Chao ôi ở cái đỉnh non tiên này
mà nấu món đồ chua ấy các tiên cô tiên bà ngửi được ắt phải mê mùi tục lụy
ngay. Tôi đóng hai cái cọc gác một que cây ngay để treo gà-mèn sửa soạn nhóm
lửa. Khắp một dãy lều trại vừa giăng mắc ấm lên với những khói và lửa bếp chiều
hôm trong lúc bao tử reo lên chờ đợi với hi vọng nhá nhem như lửa ma trơi lập
lòe từng đóm.
Nhưng bữa nay, khác với thường
lệ, tôi treo cái gà-mèn nghiêng để được thấy nước kha khá trong góc, nếu treo
ngay ngắn thì nước sẽ loãng ra chỉ trán đít gà-mèn và theo vật lý học thì mặt
nước càng rộng sự bốc hơi càng lớn, như vậy nấu xong chỉ còn cái gà-mèn không.
Tôi dự đinh sẽ nấu thật nhanh để nước không kịp bốc hơi. Tôi vừa móc bật lửa để
nhóm bếp vừa hỏi sang ông bạn vàng:
- Anh định sáng tác món gì đó ?
- Khuấy hồ dán mép cấm khẩu
luôn cho khỏe, còn mày?
- Tôi “cất” nước để pha thuốc
bổ.
- Bổ gì?
- Bổ thận.
Hoàng Việt mang qua cho tôi một
cái lá, bảo:
- Mày hửi xem là lá gì ?
- Lá Xanh (*) nhưng anh không
còn trẻ ! – Tôi cười, đưa chiếc lá lên mũi ngửi rồi kêu lên – Ngò, anh Bảy ơi!
Ở đâu anh có vậy ?
( *) Lá Xanh, bài hát rất phổ
biến của Hoàng Vệt, có câu: “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ…”
Hoàng Việt lôi tay tôi qua lều
của anh và trỏ vào cái gốc cây ở đầu võng. Tôi nhận ra là một bụi ngò gai có
đến bốn năm lá. Tôi vò cái lá tôi đang cầm trên tay ngửi tiếp để chắc bụng. Mùi
nó hăng hăng, không dịu như lá quế và rau om, nhưng nó cũng là một trong mấy
thứ rau dùng để nêm canh chua ở xứ ta.
- Đúng nó rồi anh Bảy ! – Tôi
reo lên – Buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Tôi đang nấu lá bứa làm canh chua – Tôi
hỏi – Còn mấy cái Lá Xanh của anh đâu?
- Tao nhai hết dọc đường rồi.
Nhờ nó mà tao còn chút nước để khuấy hồ đó chớ ?
Tôi ngồi xuống, đưa tay nhổ bụi
rau ngò như tiên cô hái đào tiên. Bên cạnh chiếc lá xanh, bàn tay tôi hiện ra
gầy guộc lòi những xương gu và vàng kinh khủng. Tôi tưởng như không còn đủ sức
để lôi bật gốc bụi rau. Tôi cào bỏ mấy hột đất dính quanh cái rễ đuôi chuột
trắng và dài không quá hai lóng tay. Có lẽ nó đụng đá nên không ăn sâu nếu nó
ăn sâu hơn thì có lẽ tôi và Hoàng Việt phải hợp tác xã sức khỏe mới giải phóng
nó nổi. Tội nghiệp bụi rau ngò cũng như tôi, như tất cả đám dân Nam kỳ tập kết,
bị đặt không đúng đất, nên nó chỉ có dăm lá giống như một cái “chông ba lá” của
Giải phóng quân dùng diệt Mỹ mà tôi gặp sau này. Bụi rau ngẫu nhiên mọc giữa
trời cao, dưới chân cây to và trên chót núi, nhưng nó vấn không chết rụi.
Bất giác tôi ngẩng nhìn trời.
Mây tuôn lớp lớp qua ngọn cây. Hỡi những thuyền mây, hãy chở hồn ta về quê dùm
chút. Ta đến đây như con ngựa chiến đã hết cỏ, chắc phải gục xuống với bốn vó
gãy lìa, chỉ còn trăn trối với tiếng hí thê lương không vang.
Các ông các bà chơi trò hứng mây
lấy nước phí sức mà vô ích nên tìm hốc đá múc nước loăng quăng thực tế hơn. Tôi
lãng mạn, lại há mồm hớp những cụm mây bay qua bếp và bảo Hoàng Việt:
- Anh Bảy ! Có quán kem Thủy Tạ
Bờ Hồ nè !
Hoàng Việt đang lui cui với cái
bếp mịt mù khói, ngó sang với mắt mũi ròng ròng nước mắt nước mũi:
- Ê đừng có hư cấu nghe mày !
- Đây là hiện thực xã hội chủ
nghĩa chứ đâu có hư cấu gì !
- Ừ, nếu thiệt, mày ăn mấy cây
kem ?
- Tôi chỉ múc nước Hồ Gươm để
nấu canh chua thôi.
- Nước phẩn rùa à? Bỗng Hoàng
Việt đột ngột hỏi tôi: – Mày có tin rằng trong Vạn Lý Trường Chinh của anh Ba
Mao, lính luộc dây nịt da mà ăn, đái ra mà uống không?
- Đái ra uống thì có thể, nhưng
ăn dây nít là hư cấu. Bởi vì một khi da đã thuộc rồi thì dù có luộc nó cũng
không có trở lại là da sống được. Thằng cha nào viết chuyện đó là viết láo,
cũng như thằng bạn tôi nó kể lại rằng Lê-nin đọc sách như thế này. Ông ta cứ
nhìn vào trang sách là đã đọc hết tất cả chữ trong chớp mắt, nghĩa là ông có
thể đọc một ngàn trang sách trong một tiếng đồng hồ.
- Đời này thằng nào nói dóc
giỏi thằng đó có địa vị cao. Chỉ có những thằng nghệ sĩ không nói dóc trong tác
phẩm được thôi, bởi vì trái tim con người là một thực chất, không mạ cũng không
làm bằng sáp được. Nếu nói dóc, tác phẩm chẳng rung động nó được. Cái sự nấu
dây nịt để ăn là một sự biện chứng bá láp – Hoàng Việt ngưng lại và hỏi tôi –
Mày đang sáng tác truyện gì đó hả? Chẳng lẽ lại luộc dép cao su để kính dâng
Bác Mao gái à ?
- Nước đâu mà luộc ?
- Mày là thằng “yêu nước” hơn
tao. Ráng nhín một chút để mai bôi bánh chè mà đi pa-tanh nghe em ? Xe hơi
xuống dốc thì không cần xăng, nhưng người tuột dốc thì không có nước không
được. Tao chắc bây giờ đem cái bi-đông của mày ra vắt cũng không ra giọt nào,
đúng không?
- Còn vài chung mắt trâu.
- Thế mà lại đem ra nấu canh
chua là thế nào? Phí của giời ! Đáng lẽ mày phải giữ gìn nó như con ngươi của
mắt mày vậy, để khi sắp chết khát, mày đem ra mà nhìn như bò nhai cỏ vậy hiểu
chưa?
Tôi ngẩn người ra. Tôi đã sử
dụng mấy chung nước và mớ lá bứa một cách sai lầm. Nhưng lỡ đã nấu nó rồi, đâu
có sửa sai được. Tôi bảo:
- Vậy thì ngày mai khi xuống
núi, hễ tôi kêu khát thì anh cứ làm Tào Tháo dùm tôi vậy.
Hoàng Việt cười :
- Tào Tháo thành công là vì
binh sĩ của ông ta tưởng trước mặt có vườn quít thật, nhưng với mày tao không
thể làm Tào Tháo được vì mày biết rằng tao nói theo sách của Trung ương. Hồi
mới đi tao đã bảo mày trên đường này có mậu dịch Việt Miên Lào bán bằng ba thứ
tiền hà hà… Bây giờ cuốn sách đó đã hết trang.
Thấy cái gà-mèn của tôi lên
khói, Hoàng Việt la:
- Mày không đậy nắp, nước bay
hết.
Tôi lật đật nhắc gà-mèn canh
xuống luôn. Mùi rau ngò hiếm hoi bốc lên mũi tôi. Tôi lấy nắp đậy lại để nước
khỏi bay. Mùi rau làm tôi nhớ nhà vô hạn. Sao có thể một bụi rau ngò lại mọc
trên núi này. Một con chim nào ngậm hạt trong mỏ nhả xuống đất hay một ngọn gió
nào thổi nó ra tận đây để nó phải mọc lên trên cái đất không phải là quê hương
của nó?
- Xong chưa, đem trao đổi văn
hóa ?
- Đổi thì đổi.
Hoàng Việt xách cái gà-mèn hồ
loãng sang lều tôi mà không phải qua một hữu nghị quan nào.
- Ăn hồ trước rồi húp canh chua
sau rồi đi ngủ,
- Ừ, sao cũng được.
- Mai đi một mách tới trưa mới
nghĩ đó ! Giao liên nó bảo thế – Hoàng Việt vừa sớt chỗ hồ loãng vào nắp gà-mèn
cho tôi vừa tiếp – Có những chặng đi đêm nghe chú em ! Hì hì, nhưng sắp tới
ranh nước mình rồi.
Tôi bỗng ứa nước mắt ra. Hoàng
Việt tiếp:
- Nó bảo còn chừng hai chục
trạm nữa thôi. Liệu có kham không?
- Lo cho cặp giò ống điếu của
anh kia kìa.
- Ê ống điếu nhưng trường túc
nghe chú em !
- Ừ muối hết, gạo hết mai này
tuột dốc cho anh giỏi mà trườn… tu…ốt! !
Bản thảo này mất hồi 1975 tại
Sài Gòn.
Viết lại xong tháng mười hai 89 ở Hoa Kỳ.
(tức
hồi ký Đường Đi Không Đến tập IV)
gồm
những cảnh sống rùng rợn ở R.
Soạn giả Trần Hữu Trang, một số
nghệ sĩ Sàigòn như Bảy Thinh.. và nghệ sĩ cải lương ở Miền Bắc về chết trong
những trận B52 như thế nào?
Nguyễn Chí Thanh có phải là nhà
cách mạng đạo đức không, trong khi ông ta “chăm sóc” rất chu đáo một goá phụ vợ
của một anh hùng giải phóng (Nguyễn Văn Trổi)?
Thủy Thủ tức Thái Trần Trọng
Nghĩa , một Đại Úy Hải Quân V.N.C.H cùng với Phan Lạc Tuyên chạy ra Khu, được
đối xử như thế nào? và tại sao Thủy Thủ lại tự sát bằng AK, trối trăn những gì
trong mấy giòng ngắn ngủi ở quyển sổ tay ?
Tác giả đã thoát chết trong
trận B52 thảm khốc đó như thế nào?
Lưu Hữu Phước trở thành con bài
hiếu hỉ trong tay Bộ Chính Trị như thế nào.?
Hai Thứ trưởng Văn hoá của
chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, gốc nhà văn Sàigòn bị đám cá kèo giải phóng xem
thường ra sao? Hội Văn nghệ giải phóng là những ai, ngoài Lý Văn Sâm – nhà văn
Sàigòn ra Khu?
Một số nét về Quách Vũ, Vũ Anh
Khanh và nhiều hình tượng đời không thấy ở đâu ngoài R.
Tác giả đã cãi to với cấp chỉ
huy và gởi thơ cho Trần Bạch Đằng như thế nào trước khi xin phép rước vợ con
lên R rồi hồi chánh luôn, sau bảy ngày nhịn đói trong rừng Cao Miên. Ngay sau
khi tác giả về đến Sàigòn, một nửa đoàn văn công giải phóng đã hồi chánh. Mười
Cúc đến tiểu ban văn nghệ xạc-cà-rây ban chỉ huy và “chỉnh đốn” tổ chức như thế
nào?
Bạn đọc đã theo dõi suốt ba
quyển trước, sẽ rất thích thú khi đọc Đến Mà Không Đến. Sau một trăm ngày leo
núi Trường Sơn, tác giả đến thì có đến “R” thật đấy nhưng trong tinh thần lại
chẳng đến đâu! Cũng như ngày nay, quân Cộng Sản đã đến Miền Nam ..mấy mươi năm
nhưng cũng thật sự chúng chẳng đi đến đâu! Mỗi cái tên tác giả đặt ra cho sách
mình đều mang một triết lý: Đường Đi Không Đến, Xương Trắng
Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, Đồng Bằng Gai Góc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét