Bận rộn chuyện gì chẳng ra
chuyện gì, nhưng cuối cùng rồi cũng hết một ngày. Lúc gần tối, thì từ ngoài
giao liên dẫn tới một đoàn rất đông, gồm đủ các hạng quân dân chánh.
Bây giờ chúng tôi mới nôn nao
nghĩ tới việc đi. Chậm mất một ngày rồi. Trừ Núi ra, tất cả đều có thể đi. Phải
đi dù thế nào thì cũng gần với quê hương hơn.
Ngữ nói với tôi bằng một giọng
đầy nước mắt:
- Các anh và Thu cứ đi đi, để
em ở Lại với Núi, nếu nó cố mệnh hệ nào thì cũng có em bên cạnh, như vậy nó đỡ
tủi thân. Còn Trời Phật mà phù hộ nó khỏe lên được thì em sẽ dìu nó đi dần tới
đâu hay tới đó. Luật lệ của đường dây là chỉ đưa người vào không cho người ra,
mình không thể cưỡng lại được.
Tôi nói :
- Đã đành là các anh phải đi
rồi, nhưng trong lòng thấy nó kỳ cục thế nào ấy cậu ạ !
- Thì cũng như lần trước, anh
ốm nằm lại chúng em cũng cứ đi đó thì sao? Đó là ý định của ở trên mà. Ai bịnh
cứ nằm lại, ai khỏe cứ việc đi. Cách mạng Miền Nam đang chờ mình như chờ nước
uống !
Thế là chúng tôi dứt khoát chia
tay. Tôi và Hoàng, Thu sửa soạn để mai lên đường. Thu lúc nào cũng nhăn nhó với
cái chân đau. Nàng tìm một cây gậy thật chắc, Hoàng thì lo băng đầu gối như cầu
thủ bóng tròn trước khi ra sân cỏ. Riêng tôi thì không cần gậy, còn cái bao tử
loét thì không thể băng bó gì được cứ để thế mà đi, được khúc nào hay khúc ấy.
Chừng nào mửa ra máu cục thì cách mạng cho nghỉ ngơi.
Trong đoàn mới vào tôi nhận
thấy có một tốp rất phân biệt với mọi người. Tốp này độ chừng một tiểu đội,
nhưng những chiến sĩ thì mang rất nhiều máy móc khác hẳn với bộ đội thường. Khi
đi xuống suối lấy nước, tôi nghe toán chiến sĩ xầm xì với nhau thì tôi biết đây
là đội bảo vệ cho một ông kẹ. Nhưng không biết ông kẹ đó tên gì. Lượt trở lên,
khi đi ngang chỗ họ đóng, tôi giả vờ đánh rơi gà mèn nước và ngồi xuống, tay
nhặt gà mèn mắt ngó vào cái võng mà tôi ngờ là ông kẹ đang nằm. Quả nhiên tiếng
gà men rơi lầm ông ta giật mình ngóc đầu dậy nhìn ra. Tôi nhận ra ngay ông ta.
Tưởng ai lạ. Một bộ mặt sắt có
dấu bấm như vết móp trên chiếc hộp lon chứ không phải cái sẹo. Ông ta nhìn
người bằng cặp mắt lúc nào cũng trợn lên trắng dã như muốn nuốt sống đối tượng.
Nếu trên sân khấu cần một vai tướng cướp thì cứ đưa y phục cho ông ta, còn mặt
mũi thì khỏi cần vẽ nanh hoặc đeo râu thêm. Một số cán bộ rất sợ ông ta, nhưng
ngược lại một số khác thì lại coi ông ta là một tên chăn bò đắc thời được một
bàn tay quyền lực bốc lên ngồi ghế cao và trao cho cây gậy chỉ huy ba quân với
cái ga-lông bốn sao và nhành dương liễu rũ.
Tôi đã từng nghe ông ta nói
chuyện nhiều lần. Lần sau cùng tại Viện Văn học -cũng còn được nghệ sĩ gọi là
Sở Mạ Kền- của bà già trầu móm Hoài Thanh. Hoài Thanh cũng có một bộ mặt móp
một bên như ông kẹ này. Lần đó ông kẹ đập thêm vài búa vào nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm vốn đã bẹp dí dưới sức đè của đảng rồi – như những “nhát ân huệ.”
Ông ta nói rổn rảng, múa tay
tít thò lò, nhưng nghệ sĩ che tay cười nhếch mép khi ông ta tuyên bố.
- Dù phải chống Mỹ năm năm,
mười năm, hai mươi năm hay một triệu năm chúng ta cũng chống tới cùng.
Một triệu năm ? Sau khi tan
buổi họp, Nguyễn Tuân và tôi đạp xe song song trên đường Phan Thanh Giản, ông
hỏi tôi:
- Anh có nghe gì không?
- Dạ nghe gì ạ?
- Chống Mỹ một triệu năm ! Anh
không nghe à?
- Dạ, tôi có nghe.
- Anh nghĩ thế nào về “cái một
triệu năm đó?
- Dạ tôi không nghĩ thế nào cả.
- Rõ một khái niệm kỳ quặc về
con số! Tôi chưa nghe ai nói như vậy bao giờ.
- Tôi cũng thế. Đây là lần đầu tiên.
Cái ông mặt sắt kia coi nghệ sĩ
như rác. Và nghệ sĩ cũng coi ông ta không như gì cả. Ông ta hò hét thì to nhưng
sau khi ông dứt lời thì người ta chẳng biết ông muốn nói gì. Bây giờ ông lại vô
đây chắc hẳn là đi giải phóng Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam
rồi. Hợp tác xã là cái chắc!
Tôi chợt nghĩ ngay như thế khi
tôi nhác thấy bộ mặt sắt kia. Tôi nhặt chiếc gà mèn trở xuống suốì múc nước rồi
trở về chỗ cũ. Tôi đến rỉ tai Hoàng, Hoàng cười:
- Dân Nam kỳ mình chuyên môn
gậm cùi bắp mà cứ tưởng nhân sâm.
- Thằng cha Tài Lé (tức Sơn
Nam) nói Nam kỳ là thuộc địa của Bắc kỳ, đúng vô cùng. Đúng từ Nam ra Bắc rồi
từ Bắc vào Nam.
- Ông ta mà vô trỏng thì hợp
tác xã, chỉnh huấn, lập trường giai cấp là gốc rồi. Hồi tao ở Bưngari mới về,
tao có đọc bài “Cây đa bến cũ con đò khác đưa” của ông.
- Ừ, lúc đó ổng đang phụ trách
Trưởng ban Nông thôn của Trung ương đảng. Do đó ông cỡi ngựa xem hoa các hợp
tác xã hàng mã một vòng rồi về nói cho thư ký viết phứa ra bài đó.
- Văn chương hay ra phết đấy
chứ nhi ?
- Văn chương mà nói làm chi.
Lập trường kia mới đáng kể. Bọn nhà văn chúng tôi phải lấy bài đó ra làm phương
hướng sáng tác đấy. Bên Hội Nhạc sĩ của ông gặm không vô phải không?
- Ai thì tao không biết, chứ
tao rặn không ra nốt nào cho hợp tác xã cả !
- Nói đùa cho vui, chứ thực
tình là tôi nghĩ đến số phận của Miền Nam qua câu nói bất hủ của Tài “lé”. Anh
chàng này chỉ có một khuyết điểm là cặp mắt lé. Nhưng dù “lé,” Tài vẫn nhìn sự
vật rất chính xác.
Ông kẹ mặt sắt này làm cho tôi
nhớ câu nói của Tài. Nó đã được chứng minh từ hồi kháng chiến. Nam Bộ là miếng
thịt bít tết tươi roi rói mà đám Bắc kỳ từ Trung ương vào là một lũ kên kên,
chúng chia nhau không dành cho dân địa phương một thẻo nhỏ.
Ra Bắc cũng thế. Thằng Bí thư
tỉnh ủy ngoài Bắc trong kháng chiến thì hòa bình được vô Trung ương, ngược lại
thằng Bí thư của Thành Đồng Tổ Quốc nghe lời cụ Hồ dụ dỗ đi tập kết hai năm về,
thì nay đã mười năm mới trốn chui trốn nhũi như ăn trộm trở lại quê hương. Mười
năm trên đất Bắc thằng Tỉnh ủy đi cạo muối, nhà cửa thì ga-ra tư sản. Ông Chủ
tịch tỉnh tôi ở một cái ga ra tệ hơn cả chuồng heo. Bây giờ Nam kỳ lại bị “Bắc
kỳ thuộc” lần thứ hai. Người cầm cán cho hai lần Bắc thuộc này chính là cụ Hồ.
Dân Nam kỳ hận tràn lòng, đau như hoạn, nhưng lỡ tin nên mắc, gái Nam ngồi phải
cọc Bắc, không dám kêu.
Sáng hôm sau hành quân. Giao
liên Phẩm ra địa điểm đóng quân sớm lắm. Cậu ta cũng “đả thông” cho khách những
điều cần thiết rồi bắt đầu dắt đoàn người đi.
Tôi đến sờ trán thằng Núi, thấy
nó bớt sốt, nhưng vẫn mê man. Không biết ở trên đưa một anh chàng học vẽ chưa
ra họa sĩ như thế này vô Nam để làm cái giống gì? Nhìn qua nét vẽ của anh ta,
tôi thấy anh ta cần phải học ít nhất là ba năm nữa mới vẽ đúng hình khối và
anatomy. Rủi nó chết ở đây, ai khổ ai đau chứ Trung ương đâu có đau khổ chút
nào. Hơn nữa Trung ương đâu có biết tới.
Chúng tôi được đi sát với giao
liên nghĩa là đi đầu đoàn. Nhưng vì Thu đi chậm nên bị lính kêu, Phẩm lại đẩy
chúng tôi xuống khúc giữa. Đến lúc nghỉ trưa, cũng do yêu cầu cửa lính, đám dân
chánh chúng tôi lại bị cho xách đèn đỏ bọc hậu, nhưng rồi vẫn cứ rơi dần lại
phía sau. Con nhà lính còn cực khỏe đi vượt lên phía trước hết cả.
Người dẫn đầu của toán sau cùng
là tôi. Người đi sau cùng của toán sau cùng là Thu. Người đi giữa cố nhiên là
nhạc sĩ họ Hoàng. Thỉnh thoảng nhà nhạc sĩ dừng lại gục trên đầu gậy (tôi phải
dừng lại chờ) quắc mắt về phía trước càu nhàu:
- Mày hỏi chuyền dùm thằng Phẩm
xem nó dẫn có lạc đường không mậy ?
- Đường gì mà lạc. Nó đi hàng
ngày mà!
- Đường gì kỳ cục thế này chứ.
Không bước được một bước trên mặt đất bằng !
- Đường giải phóng miền Nam chớ
đường gì mà ky cục! Đây Trường Sơn vinh quang mà!
- Đường gì đi hoài không đến.
Vinh gì mà vinh?
- Vì nó là đường đi không đến !
Vinh thì có vinh nhưng nó không đến vẫn không đến.
Nói pha trò vần lân một chút
vậy rồi đi tới nữa. Cái điệp khúc này nhà nhạc sĩ cứ lặp đi lặp lại với giọng
tenor.
Bỗng được lệnh của giao liên
truyền lại: “Nghỉ mười phút.”
Hoàng ném cái gậy ngồi phệch
xuống đất ngay tựa lưng vào chiếc ba lô soải hai chân ra thở phào:
- Tưởng mày quên cho nghỉ chớ!
- Uống nước uống non đi cha
nội, ở đó mà càu nhàu. Nó lại bắt đi nữa bây giờ!
Tôi quay lại Thu:
- Thu này, em có thấy cái ông
mặt sắt đi ở giữa đoàn không ?
- Không, ủa mà có, cái ông môi
thâm sịtt đầu vuông như tảng đá kê cột nhà phải không?
- Ừ chính là ông kẹ đấy !
- Để làm gì?
- Em có muốn xin về Hà Nội thì
xin ông ấy ngay bây giờ đi!
- Thôi đi anh đừng có đùa ! –
Thu hơi cáu.
- Anh nói thật mà. Ông mà đồng
ý là giao liên phải kiệu em ra Hà Nội đấy.
Từ ngày thằng Hồng trốn mất,
Thu không còn tí hy vọng gì quay lại nữa, nên đành phải “đi giải phóng Miền
Nam… cùng quyết tiến bước” vậy.
Hoàng tợp ngụm nước rồi nói:
- Vô tới trạm trong anh Bảy sẽ
nấu mẻ cao khỉ cho lem gái tẩm chân là trèo núi như thần thôi.
- Anh có mang theo đó à ?
- Tao nhất định thắng lợi mà !
Lệnh giao liên truyền xuống:
- Tiếp tục đi. Còn một chặng
ngắn tới trạm. (Đây chỉ là lối động viên của giao liên thôi. Một chặng của họ
là vô tận. Có khi lội hộc máu cũng chưa tới
- Lệnh nghỉ vừa truyền xong thì
lại có lệnh đi !- Hoàng nhạc sĩ quát với cặp mắt nảy lửa- Nghỉ chưa hết thúi
cái đít thì bắt đi ! Thằng phải gió mày có khùng không hả?
Tuy giận dữ như vậy nhưng họ
Hoàng vẫn gượng chỏi gậy đứng đậy lụm cụm di theo. Được một quãng tôi bị “đút
đuôi,” đoàn đã bỏ tôi xa lắc, tôi quay lại thì họ Hoàng cách tôi một quãng khá
xa và không thấy Thu đâu nữa. Tôi đứng chờ Hoàng tới và hỏi:
- Thu đâu ?
- Còn múa Hồ Thiên Nga ở đằng
sau. Mày là Hoàng tử trở lại rước.
- Hồi mới xuất phát giao liên
bảo cố nhiều đường mòn “ngánh” coi chừng lạc, mình lớ quớ bị lạc cho coi.
- Mày trở lại rước nó đi !
- Khổ quá! – Tôi ngóng phía
trước: Đoàn đi mất hút, không chờ. Nhìn phía sau: Không thấy Thu. Tôi bèn tụt
ba lô ném xuống đất bảo:
- Anh ngồi đây chờ.
- Ừ, đi cho lâu lâu nghe !
- Đứt đuôi thế này còn bảo lâu
lâu.
- Kệ mẹ nó. Tao cần nghỉ cái
đã. Mà nè ! Tao bảo nè!
Tôi vừa đi được ít bước thì
quay lại gắt:
- Gì?
- Mày tới đó nếu nó bi cọp ăn
thì quơ ít xương đem về cho tao nấu cao nghe chưa?
Tôi phát quạu, làm thinh, đi
thẳng. Được một quãng xa chừng nửa cây số thấy Thu ngồi ở ven đường. Tôi quát:
- Sao ngồi đó? Có đi mau lên
không?
Thu không nói không rằng. Tôi
vẫn chưa hết giận:
- Người ta đi mất đất rồi, mau
lên.
Thu vẫn không nhúc nhích. Trời
ơi, trông mặt nàng mới thảm hại làm sao. Tôi đỡ nàng đứng dậy bảo:
- Đưa ba lô đây anh mang cho.
Nàng chỏi gậy đứng lên và bước
từng bước một như xẩm bó chân. Tôi cũng chẳng oai phong gì. Chỉ được cái may là
bao tử chưa đồng khởi.
Tôi đi chậm chậm bên nàng, cố
tìm cách đưa nàng đi tới, chậm như rùa cũng được, miễn là đừng ngồi lại, vì Mác
có dạy: “Mọi vật đều tiến triển;, cái giống đếch gì đứng lại thì có nghĩa là
thụt lùi !”
Đứng lại mà đã là thụt lùi rồi,
thì ngồi như Thu còn thụt lùi bao nhiêu nữa?
Tôi nhìn xuống gót chân Thu,
định hỏi: “Cái cổ chân củaa em có đỡ không?” (Đỡ gì mà đỡ! Biết vậy nhưng vẫn
cứ hỏi). Nhưng tôi chợt nhận ra mấy lớp băng nhuộm máu đỏ lòm.
Tôi kêu lên:
- Chân em bị thương à?
- ….
- Bị thương hồi nào, sao không
kêu?
- ….
- Vấp đá hả ?
Thu không nói một tiếng. Mắt
nàng bật ra nước mắt. Nàng úp mặt vào đầu gậy mà oà lên.
- Cái gì vậy? Tôi quát om lên.
Tiếng quát vang lên dội lại từ sườn núi.- cái gì thì nói, khóc khóc cái gì ? Cứ
khóc rồi tới nơi hay sa…o? – Tôi dậm chân đồm độp.
Thu vẫn gục đầu vào cây gậy mà
nức nở, đôi vai gầy gò run lên. Tôi chợt hiểu ra rồi. Nàng có kinh.
Từ cái lần lấy đường thủy làm
đường bộ ngâm mình dưới suối cả ngày, nàng thường hay khó ở. Đàn bà con gái,
cái gì cũng rắc rối cả. Biết thân như vậy thì làm B quay phứt đi hồi ở mấy trạm
ngoài, lại còn lê vô tới đây làm gì kia chứ! Tôi hậm hực nghĩ. Nhưng khi trông
thấy gương mặt nàng đầm đìa nước mắt tôi hối hận. Tôi đến bên nàng khẽ hôn vào
vệt nước mắt và nói:
- Anh cho chân em một lá bùa sẽ
hết đau ngay.
Thu đưa tay ra vẫy vẫy:
- Đưa ba lô đây cho em !
- Đi đã không nổi, còn mang ba
lô !
- Không, em đi nổi. Em hết đau
rồi !
- Thì đi đi xem nào !
- Anh cứ đưa ba lô cho em. Em
khỏe lại rồi ! Em không muốn ai giúp em hết.
Nàng bi chạm tự ái vì những câu
không dịu ngọt của tôi . Tôi thấy có chút hối hận nên dỗ dành. Tôi nói như viết
tùy bút:
- Em cố đi lên chút nữa đi. Sắp
tới nơi rồi. Mình sẽ nghỉ hai ba ngày. Nghỉ chừng nào chân em hết đau ta lại
đi, đi được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Anh chẳng cần tới nơi nữa. Không có em
tới, một mình anh chẳng thú vị gì. Anh sẽ tới trong giấc mơ hồi hương, trong
thực tế và chỉ trong mộng, anh phải có em. Đi, di em!
Tôi tưởng văn chương mồm của
tôi đã vuốt nhẹ được trái tim đau, lau khô được dòng nước mắt của nàng chẳng
ngờ lại ngược lại.
Nàng càng khóc to lên và đứng
lại. Quờ lấy quai ba lô giật ra khỏi vai tôi buông xuống đất và nói đứt quãng:
- Anh đi đi, đi… cho tới quê
nhà… Còn em… em chết ở đây! Nói xong nàng ngồi khuỵu xuống.
Tôi nắm tay lôi nàng đứng lên.
Mặt nàng trắng bợt ra, đầm đìa nước mắt. Tôi nói cũng hết ra tiếng:
- Đi em ! Cố lên. Tới chỗ anh
Hoàng sẽ nghỉ. Kia kìa cách đây có vài… chục thước! – Tôi lại cũng cái lối động
viên của giao liên. Đứng ra đó là cái lối cổ điển cửa đảng, cái lối treo bó cỏ
trước đầu ngựa muôn năm.
Tôi lại mang ba lô lên vai và
dìu Thu đi, vừa đi vừa “viết” thêm mấy chục đoạn tùy bút. Có lẽ đó là những
đoạn văn chương hay nhất của tôi, những đoạn được viết ra từ sự rung động cực
kỳ mãnh liệt, từ một khung cảnh bi thương nhất mà tôi chưa từng sống cho đến cái
buổi chiều hôm ấy. Tôi nói như thằng điên, tôi nói như một thi sĩ ngâm thơ
trước dân chúng yêu mến mình, tôi nói như diễn thuyết, như một thằng láo toét,
tôi nói những điều phản lại chính lòng tôi: “Cố gắng đi em rồi ta sẽ tới ! Cách
mạng Miền Nam đang mong chờ… ! ! “
Nàng bước theo tôi, mỗi bước
một giọt nước mắt, không phải “Lệ” (1) của Xuân Diệu, “rách đau thương đi giữa
cuộc đời,” cũng không phải Lệ của kịch sĩ bôi cù-là trong vở Lu ba (2), mà là
lệ của một nữ nghệ sĩ đẹp tuyệt trần rơi thấm đá Trường Sơn không phải để nở
thành một đóa thơ, mà là để ghi dấu một tội ác.
Tôi cố hết sức dìu nàng đi tới,
lưng nặng như núi đè, tay đẩy lưng nàng như đẩy một chiếc xuồng mắc cạn. Tôi đã
lê cái thân tàn của tôi không nổi mà còn phải đèo cái của quí này, trời hỡi,
còn có sự bất công nào bằng?
Nhưng trời cũng thương người.
Cuối cùng rồi tôi cũng đưa nàng tới chỗ Hoàng ngồi đợi. Hoàng đang sửa lại cái
“giơ- nui-de” cầu thủ trên đầu gối.
Tôi cố gượng pha trò:
- Sút có vô quả nào không??
- Có vớ hai quả !
- Nào, “đứng lên đi, người của
núi sông, nặng lòng chi ngày xưa vương vấn. ” (3) “‘
- Nứng thế đéo nào nổi.
- Xuỵt! – Tôi trợn mắt vào
Hoàng.
- Đứng lên hay nằm xuống cho
khỏe thân ?
- Người ta đi xa ba ngàn dặm
rồi. – Tôi giục, và khoác luôn chiếc ba lô của tôi lên vai, như một anh hùng
giết giặc sắp được Bác bắt tay và gắn huân chương chiến công và một tay đẩy
Thu, một tay lôi Hoàng. Vì biết chắc nếu để Thu ngồi xuống thì cả hai người đều
sẽ đồng tình mà đóng chốt luôn tại đây.
Cũng may, hai người giác ngộ
khá cao nên “thề quyết tiến bước.” Đi được một quãng thì đụng ngã ba. Cái ngã
ba này to lớn thênh thang hơn bất cứ ngã ba nào trên đường từ Làng Ho vô đây.
- Đi ngả nào anh ? -Tôi hỏi
Hoàng- Không khéo mình đi xuống Bác Kế thì hỏng.
- Ừ nhỉ ! Đi ngõ nào bây giờ,
tớ không biết mô tê!
Tôi hoang mang không biết đi
đường nào. Nếu đi sai sẽ chẳng đến trạm, việc đó đã hẳn rồi ! Nhưng còn thêm
cái nguy hiểm là có thể đụng vào chướng ngại hoặc lọt vào khu tử địa thì nguy.
Tôi đã bi lạc vô trại tù binh một lần và bi các ông cai ngục xét giấy, gằm ghè
dữ quá, làm như mình là do thám không bằng.
Hoàng và Thu chộp lấy cơ hội
ngồi xuống nghỉ. Ngồi xuống thì đứng lên, có khó gì ! Nhưng đó là đối với những
người bình thường kìa, còn ở đây lại khác. Ở đây ngồi xuống được là đít dính với
đất, mọc rễ ngay tức khắc chẳng đứng lên nổi.
Phải đấu tranh tư tưởng, phải
hát thầm bài Giải Phóng Miền Nam của trại cưa Kim Hữu mới đứng lên được !
- Đi ngả nào? – Hoàng hỏi.
- Có thể ngả này -Tôi trỏ – Ngả
phía bên trái.
- Ngả nào thì tùy mày đấy’ Tao
không biết ngả nào là ngả đéo nào!
- Hình như có dấu chân.
- Dấu chân gì in trên sỏi đá
được.
- Thì tôi tưởng tượng ra thôi!
-Tôi thở phào- Mệt quá! Đủ thứ rắc rối. Thôi đi mẹ nó ngả đó đi.
- Không được! Nguyên tắc của
giao liên đề ra là nếu rủi bi lạc thì cứ ngồi tại chỗ họ sẽ trở lại tìm. Đi bậy
bạ họ không tìm được.
Tôi nói :
- Đó là nguyên tắc xưa rồi. Bây
giờ mình đi lạc họ bỏ 1uôrl, họ không có trở lại tìm đâu.
- Thằng Phẩm nó tình cảm với
bọn mình mà !
- Tình thì tình, cảm thì cảm
nhưng nó mệt nó không đi tìm đâu.
- Vậy thì làm gì bây giờ?
Thu buột miệng nói:
- Mình cứ ngồi ở tại đây, chốc
nữa anh ấy trở ra thế nào cũng gặp mình.
- Biết đâu nó lại đi đường
khác.
- Đường khác là đường nào ?
Cãi với nhau một lúc, cả ba
thấy cái biện pháp ngồi ỳ lại đây là phúc lợi hơn cả và hợp lý cho bộ giò nên
ai nấy đều tìm chỗ mắc võng nằm chờ và tự giải lao bằng số nước còn lại trong
bi đông, mỗi người bận rộn một kiểu.
Thu mở băng ra xem lại cái cổ
chân, Hoàng thì củng cố cái bánh chè còn tôi thì ngủ. Nắng chiều nóng như
thiêu, quần áo đã đẫm mồ hôi như tắm. Khi thức dậy thấy mình nằm giữa nắng
vàng… chẳng có thơ mộng một chút nào, ngược lại tưởng đang bi cảm… nắng và có ý
nghĩ mình sẽ phải đi nhà thương Biên Hòa.
Tôi nhảy xuống đất chạy vào một
mép núi có bóng mát, tuột cả áo ra dùng làm quạt và quạt bất đếm bằng cái áo
đẫm mồ hôi kia. .
Quả thật một chập sau thì Phẩm
trở lại. Cả hai bên đều mừng rỡ như những tình nhân tái ngộ.
- Tôi tưởng các anh đi lạc rồi.
- Đứt đuôi thôi .
- Vâng, hễ đứt thì cứ ở tại chỗ
chờ, đi bậy nguy hiểm lắm.
- Từ đây tới trạm còn xa không?
- Hơn tiếng đồng hồ.
- Vậy thì không sao. Bây giờ
còn sớm. Tôi nói.
- Còn sớm gì nữa, mặt trời sắp
lặn rồi ! -Thu cãi lại.- Em làm sao lết cho kịp
- Em cứ coi như múa một lớp Hồ
Thiên Nga là tới chứ gì .
Hoàng pha trò nhưng Thu không
cười nổi. Phẩm đến bên tôi, giọng cảm động
- Thôi các anh đi, mạnh giỏi
nhé! Anh có gặp anhnhà văn gì, nói em nhắn lời thăm anh ấy. Tiếc quá anh có đi
ngang đây mà em không… gặp để hàn huyên.
Cậu bé rưng rưng nước mắt bắt
tay tôi. Tồi bỗng thấy thương tôi thì ít, thương cậu bé thì nhiều. Nó ở lọt tỏm
giữa hoang dại đầy đe dọa, một loại “Bạch Mao Nam” do đảng tạo ra.
Cũng như ngày trước, lúc tôi
còn ở Hà Nội, tôi đã đi công tác ra tận các hải đảo trong chòm đảo Hạ Long. Ở đấy
có những hòn đảo không tên. Ở đấy có những thanh niên “tình nguyện” công tác.
Mỗi đợt là sáu tháng. Công tác của họ chỉ là đốt một ngọn đèn cho tàu ngoài
biển vào bến Hòn Gai ăn than và trở ra. Họ ở trong những cái nhà đá chung quanh
không có cây cối gì hết, cũng không trồng trọt được ngọn rau dây bí nào hết.
Đặc biệt là không có liên lạc bằng điện đài. Những ngày bão to họ vào nhà đóng
cửa khóa chặt và ngồi bên trong nghe sóng tràn qua nóc nhà hoặc nhìn qua cửa
kính biển động sôi lên trùm phủ nhận chìm tất cả những cụm đảo lớn nhỏ.
Những cậu thanh niên thất tình
muốn trốn đời, những cậu khác thì hăng máu vịt đinh tỏ lòng yêu tuyệt đối với
chủ nghĩa xã hội, hoặc vì lý do này nọ khác mà xung phong ra đây, đều vái cả mũ
những hòn đảo cô đơn giết người này. Tôi đã hết sức ngạc nhiên khi bước lên
những hòn đảo đó, tôi tự hỏi không hiểu các chàng trai đầy nhựa sống và mộng mị
đó, đã sống làm sao một trăm tám mươi ngày và một trăm tám mươi đêm không thấy
một mái tóc mềm, không nghe một tiếng thân yêu bên tai. Vậy mà báo và đài luôn
luôn ca ngợi và nói rằng có nhiều cậu đoàn viên “xung phong ở lại thêm một
nhiệm kỳ nữa ! ”
Thì cũng như thằng Phẩm “xưng
phong” vô làm giao liên Trường Sơn này. Nhưng so với cái thâm sơn cùng cốc này,
ở hải đảo hãy còn là hạnh phúc chán. Ở hài đảo, cuộc sống chỉ cô đơn nhưng
không bệnh tật, không bom đạn, không trộm cắp, không giật giọc, không thổ phỉ,
không thú dữ rắn độc. Còn ở đây thì có đủ, có nhiều các thứ này.
Tôi như thấy rõ nỗi u uất trong
lòng cậu thanh niên xung phong trong một thoáng nhìn gương mặt cậu ta. Tôi vỗ
vai Phẩm và nói, giống y như cụ Hồ huấn thị các cháu:
- Em ở lại cố gắng công tác cho
tốt nhé. Giải phóng Miền Nam xong ta về xây dựng lại đất nước tươi đẹp hơn mười
lần xưa ! Chừng đó anh sẽ ghé lại ăn mận của em!
Phẩm đi khuất, tôi còn đứng
nhìn theo. Đêm nay nó ngủ một mình chắc nhớ bọn tôi lắm, nhớ con bé ở Nghi Tầm
nhớ cả Hà Nội. Tất cả đều thấy đó mà lại xa vời. Cây mận của nó thì chừng nào
mới trổ trái?
(1)Thơ Xuân Diệu, diễn tả nỗi
mừng của nghệ sĩ được cách mạng cứu)
(2) Kịch nói Liên Xô
(3) Bài ca Thanh Niên Với Mùa
Xuân của Dzoãn Hối
—>Chương 7
- 7 -
Chúng tôi cuốn võng và đi ngược
chiều với Phẩm. Đến nơi trời chưa tối. Nhưng chiều nay khác với những buổi
chiều khác khi chúng tôi hạ trại.
Bữa nay ở địa điểm trú quân rất
nhộn nhịp. Hỏi ra mới biết rằng đêm nay có Văn Công diễn phục vụ chiến sĩ. Tôi
bảo Thu:
- Em đóng góp một màn đi !
- Thôi anh ơi. Em không múa nổi
đâu.
- Mới hôm trước múa Hoa Champa…
- Đó là hồi em chưa trặc cổ
chân kìa.
Tôi giúp nàng căng lều mắc
võng. Tôi và Hoàng cũng mắc võng nằm dưỡng lão. Chuyện ăn uống chưa tính tới.
Bỗng nghe tiếng loa vang vang (không có micro) giới thiệu các tiết mục. Tôi
chưa kịp nói gì thì Hoàng đã bảo:
- Mày lại gặp “ẻn” rồi. Coi
chừng lại đổ nợ!
Quả thật, đoàn Văn Công đang
biểu diễn là đoàn của Sư đoàn 330 là lính Nam kỳ quốc của Chúng tôi. Người yêu
cũ của tôi đang làm “biên đạo” vũ của đoàn này. (Biên đạo tức là viết và đạo
diễn). Tôi không vui cũng không buồn, nhưng lại rất ngạc nhiên. Văn Công biểu
diễn phục vụ ai ở đây? Trong khi lính cần gạo, thịt và thuốc men thì không đem
tới, trái lại đem cho những thứ họ không cần – Nghe hát xướng mà no được sao ?
Không biết ai có sáng kiến này,
một sáng kiến lạ lùng không kém sáng kiến của Tào Tháo gạt quân sĩ đang khát
nước gần chết bằng cách bảo rằng ở phía trước có vườn quít.
Nhà nước có nhiều sáng kiến
kinh hoàng. Tôi còn nhớ thời kỳ Không quân Mỹ !eo thang ra Miền Bắc, Tố Hữu bắt
văn nghệ sĩ phải đi thực tế bom đạn ở khu IV. Tôi đi ra đi vào Quảng Bình và
Vinh đến những bốn lần trong lúc một văn nghệ sĩ chỉ cần đi một lần là đủ “tiêu
khuẩn.” Một lần tôi đi cùng với đoàn Văn Công Trung lương đi vô Quảng Bình mảnh
đất đang là mục tiêu đánh phá của Không quân Mỹ. Phương tiện vận tải là một
chiếc xe Skoda của Hungari loại dùng làm xe bus ở Hà Nội. Ban ngày sợ máy bay
đánh nên phải chui trốn và ngủ lấy sức đợi tối mới đi. Nhưng đi đêm xe phải mở
đèn pha đèn cốt, nếu không thì làm sao chạy được. Để tránh làm mục tiêu cho máy
bay, anh tài xế (quân sự của Bộ Quốc phòng đưa sang. Vì ở trên sợ lái xe dân sự
không có kinh nghiệm) dùng một cần câu trúc dài gắn ở đầu xe và chuyền một bóng
điện nhỏ ở đầu cần câu thay vì mở đèn xe. Và anh ta lái xe trên dường với cái
ánh sáng to hơn con đom đóm đó. Bọn chúng tôi hỏi: Như vậy có ích lợi gì ? Anh
ta bảo đó là sáng kiến của Cục Vận tải phổ biến khắp các đoàn xe để thi hành,
không làm khác được ! Không hiểu Cục Vận tải quan niệm tầm sát thương của bom
đạn như thế nào mà xài cái sáng kiến đó trong lúc máy bay của Mỹ không phải
dùng mắt thường để tìm mục tiêu và nếu một quả bom ném đúng ngay vào cái đầu
cần câu thì chiếc xe vẫn chạy an toàn?
Cũng may chứng tôi không bị máy
bay tấn công lần nào nhưng từ Hà Nội vào Quảng Bình, bình thường chỉ đi một
ngày, chúng tôi phải mất năm đêm. Cái sáng kiến thật rất khoa học có một không
hai.
Bây giờ lại gặp cái sáng kiến
đem Văn Công vô phục vụ cho chiến sĩ Trường Sơn. Nghệ sĩ biểu diễn không sân
khấu không có micro. Người xem ngồi chung quanh như lửa trại hồi thời kháng
chiến. Tôi mệt bã người ra, nhưng vì công việc này có dính tới nghề nghiệp mình
nên cũng ráng lê chân tới ngồi tựa gốc cây xem, còn Thu và Hoàng nhất định
không đi xem coi “cái tụi nhảy cóc nhảy nhái” đó, vì Thu là diễn viên ưu tú của
đoàn Ca múa Trung ương, Hoàng là thầy của thầy các diễn viên này.
Tôi cố ý tìm xem ông kẹ có mặt
ở buổi biểu diễn này không. Cuối cùng tôi thấy ông ta nằm võng và có người đem
nước lại cho ông trong khi Văn Công biểu diễn ở ngay trước mặt ông như dành
riêng cho ông vậy.
Không biết trước khi chúng tới
đến, đoàn đã diễn những tiết mục gì, nhưng bây giờ thì đang sửa soạn đồng ca
bài Chiến thắng Điện Biên Phủ cửa Đỗ Nhuận.
Chắc lâu lắm chiến sĩ mới thấy
con gái đẹp tô son điểm phấn trước mặt mình nên họ nhìn trân trối. Nói nào ngay
“chất tươi” trên đường này cũng có chứ không phải là không, nhưng nó không tươi
tắn mà có vẻ nhếch nhác nên không thích mắt, hơn nữa những nữ cán bộ không biết
làm bộ làm tịch như Văn Công. ‘Kìa xem, họ nghiêng qua, ngả 1ại như một đám cây
rừng trong gió bật ra tiếng hát.
Những người lính ngồi nghe mê
mẩn. Sau những ngày, những tháng tiêu pha sức khỏe với các em “đá tai mèo” họ
được những giây phút giải lao.
Hết bài Chiến Thắng Điện Biên,
tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Tiếp theo, họ được xem“Kéo pháo” lên Điện Biên với bản nhạc nổi tiếng
của Hoàng Vân, một anh nhạc sĩ rau muống được đặc ân đi học Trung Quốc nhưng
khi về nước, được vinh quang đi giải phóng Miền Nam thì lại thụt lùi.
Bài Hò Kéo Pháo cũng được hoan
nghênh bằng những tràng pháo tay ròn rã. Sau những phút sống lại chiến thắng
hào hùng xưa, chiến sĩ ta được xem một hoạt ảnh bằng thơ có ba diễn viên. Hoạt
cảnh này được viết bằng thơ tám chữ, lục bát có điểm xuyết vài đoạn bài chòi
khu Năm.
Tôi xem hoạt cảnh đó đến nay đã
hai mươi lăm năm rồi nên không còn nhớ lời thơ, chỉ ghi ra đây đại ý.
Màn Một: Một anh chiến sĩ nghĩa vụ quân sự được người vợ chưa cưới tiễn
chân đi giải phóng Miền Nam vào một buổi sáng tươi đẹp của đồng quê miền Bắc.
Hai anh chị quyến luyến nhau rất lâu và rất tình tứ pha lẫn buồn đau, nhưng hai
người đều giác ngộ cách mạng cao nên đều dứt khoát nghe theo tiếng gọi của Miền
Nam đau khổ. Chị hứa ở lại Miền Bắc tăng gia sản xuất và làm theo khẩu hiệu của
đảng: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.” Còn anh thì hứa hẹn sẽ
làm tròn nhiệm vụ nơi chiến trường để trở về cưới em với vòng hoa chiến thắng.
Màn Hai: Người thanh niên đi đến Cầu Hàm Rồng thì thối chí. Ra đi từ Hà
Nội, thay vì được chở chuyên bằng xe, đơn vị lại phải hành quân bộ. Đến quá Nho
Quan mới được đi tàu hỏa. Với sức lực hao mòn; với những gian nan đã vượt qua,
chàng hình dung trước mật cảnh tượng máu lửa hãi hùng của Miền Nam. Khi tàu hỏa
đỗ lại ở ga Hàm Rồng thì chàng nhảy tàu chạy trốn nhưng bi đồng đội đuổi theo
bắt lại được. Chàng phản tỉnh và tình nguyện đi giải phóng Miền Nam. Qua khỏi
giới tuyến một đổi thì chàng dùng súng bắn vào chân để có lý do ở lại trong lúc
đơn vi đi tới.
Màn Ba: Người thanh niên len lỏi trốn ngược ra Bắc và về tận gia đình, thú
thật mọi nỗi gian truân với người vợ.. Lần này lại có thêm bà mẹ vợ. Cả hai dùng
hết lời và lập trường cách mạng để giác ngộ anh chàng. Thêm vào đó anh chàng
lại nhớ đến cha đá hi sinh anh dũng trong kháng chiến. Để xứng đáng là cháu
ngoan bác Hồ và con của một người cách mạng, chàng thanh niên quay trở về một
đơn vị bộ đội nhận sai lầm và lại tiếp tục vào Nam chiến đấu.
Khi hoạt cảnh bắt đầu diễn thì
bộ đội còn ngồi xem như trước, nhưng khi diễn tới màn “ga Hàm Rồng” lác đác có
người kêu mệt và bỏ về.
Khi diễn sang màn ba thì chỉ
còn có ông kẹ và đoàn tùy tùng của ông. Tôi cố nán lại để gặp mấy thằng bạn
trong đoàn Văn Công. Tôi né mặt để khỏi bị ông kẹ nom thấy.
Buổi biểu diễn trở nên lễnh
loãng, có vẻ như muốn dứt ngang với lý do là trời đã tối , nhưng nhiều người
còn thích xem nên lấy đèn pin ra thay cho ánh sáng mặt trời. Tất cả được hơn
mười chiếc mà phần lớn là của đoàn tùy tùng ông kẹ. Họ bấm công tắc rồi để
ghếch dầu đèn lên ba lô hoặc đít soong chảo chiếu thẳng vào “sân khấu.” Họ chơi
ngông vậy có lẽ vì họ có đủ sức chơi. Riêng bộ đội thường thì đến Ban Chỉ huy
cũng không có đèn pin đừng nói chi tới lính lãi.
Với ánh sáng của mấy chiếc đèn
pìn vẫn tiếp tục màn ba của hoạt cảnh. Có lẽ người ta đói nên phải ăn mặc dù là
món ăn là thứ gì đi nữa cho nên người ta ngồi “ăn” cái món hoạt cảnh này, càng
cạn tới đáy soong nó càng nhạt ra – Có lẽ khi vét soong húp muỗng cuối cùng
thực khách ân hận vi đã ăn phải ngồi đau lưng để được đãi cho một cái mơ-nuy vô
bổ như thế còn đầu bếp thì tự hứa lới mình đây là lần cuối cùng nấu món “canh”
hoạt cảnh này.
Tôi trông nét mặt mấy thằng
quen bới hết son phấn tội nghiệp. Chắc chúng nó tự thấy trơ trẽn nên xách đàn
và vác đồ lề khác lủi nhanh. Nhưng ông kẹ đã cho người gọi chúng lại. Anh
trưởng đoàn đến yết kiến ông kẹ, để cho diễn viên đi rửa mật dưới suối.
Ông kẹ – tạm gọi là ông Mặt Sắt
cho để nhớ. (Sau này độc giả sẽ lại gặp ông ấy ở cục R với vợ của ông anh hùng
X. có nhiều pha vui lắm). Ông Mặt Sắt là dân Bình Trị Thiên khói lửa còn anh
trưởng đoàn Văn Công là người cùng quê với Bác. Hai bên nói chuyện với nhau
bằng những dấu nặng chình chịch nghe mệt quá, nhưng tôi cũng nán lại xem họ nói
với nhau những gì. Chắc anh trưởng đoàn Văn Công biết ông kẹ là ai nên nói năng
thưa dạ răng rắc.
Ông Mặt Sắt hỏi:
- Đoàn Văn Công của anh đi vô
đây được bao lâu rồi ?
Anh trưởng đoàn đáp:
- Dạ mới có vài tuần !
- Anh chị em khỏe cả chứ?
- Dạ không được khỏe lắm ạ!
- Mới vô mà đã không được khỏe
rồi cơ à?
- Dạ sốt rét nhiều quá! Có đến
gần một nửa bị sốt !
- Thế cơ à? Sao không uống
thuốc. Để tôi bảo bác sĩ cho anh chị em một ít kí-nin.
- Dạ vâng !
- Sao các anh đi vào đây mà
không có chuẩn bị gì hết vậy ?
- Dạ, đoàn đang phục vụ ở giới
tuyến mười bảy rồi được lệnh ở trên nên phải đi luôn, thành ra không có thuốc
men gì hết.
- Rồi lương thực làm sao?
- Dạ có muối thôi ạ, còn gạo
thì khi có khi không.
- Thế cơ à? Bộ mấy cái anh quân
khu này coi chuyện vô đây như đi Hà Nội hay cao? Này! – Ông Mặt Sắt quay lại
một anh đang đứng ở sau lưng – có lẽ là trưởng đội tùy tùng hay bí thư riêng –
Anh gọi cho anh Nam Long lâp tức tiếp tế đầy đủ cho đoàn Văn Công phục vụ đường
dây nghe chưa?
- Dạ ! – Người kia đáp to.
- Gọi ngay bây giờ. Tôi muốn
ngày mai đoàn Văn Công phải được trang bị đầy đủ.
- Dạ! – Người kia quay ra đi
làm nhiệm vụ.
Ông Mặt Sắt hỏi tiếp anh trưởng
đoàn Văn Công:
- Anh lấy đề tài cho cái hoạt
cảnh ở đâu thế?
- Dạ ở cơ sở ạ!
- Cơ sở nào, hợp tác xã hay bộ
đội ?
- Dạ bộ đội ạ !
- Bộ đội nào ở đâu ?
- Dạ bộ đội ngay trên đường
này, ở cách đây vài ba trạm.
- Có thực vậy hay sao?
- Dạ, những chuyện như thế này
còn nhiều ạ. Chúng tôi chỉ chọn chuyện đơn giản nhất để sáng tác. Chính đơn vị
đã kể cho chúng tôi nghe để sáng tác.
Ông Mặt Sắt thở dài:
- Quái nhỉ, sao Trung ương
không biết gì hết cả?
- Dạ chúng tôi cũng không biết,
chỉ thấy chuyện đó là chuyện thật như bao nhiêu chuyện thật khác Tổng cục Chính
trị phát động viết đề tài “Người Thật Việc Thật” và có giải thưởng cho tác giả
trúng giải ạ. Những chuyện như thế này, sau khi ghi chép xong chúng tôi có đề
nghị thủ trưởng đơn vị chứng nhận rồi mới dám sáng tác ạ.
- Để làm gì?
- Dạ để khi nào ở trên có hỏi
chuyện xảy ra ở đơn vị nào thì chúng tôi có chứng cớ trả lời ạ. Nếu không , ở
trên sẽ nói chúng tôi phịa và chúng tôi bị khiển trách.
- Anh có ghi đơn vị anh lấy
được đề tài đó không?
- Dạ có!
- Đâu đưa cho tôi xem.
Anh trưởng đoàn Văn Công móc
túi áo lấy một quyển sổ tay mở ra đưa cho ông Mặt Sắt.
Ông Mặt Sắt cầm lấy. Một anh
chiến sĩ đứng gần đó rọi đèn pin vào.
Anh đoàn trưởng trỏ vào trang
giấy có ghi nào chữ nào số đặc nghẹt.
Ông Mặt Sắt xếp lại ngay kêu
lên và trả quyển sổ lại cho người chủ:
- Quái lạ, sao lại có những
hiện tượng như thế này nhỉ!
Anh chiến sĩ bấm tắt đèn. Tất
cả chìm trong bóng tối. Ông Mặt Sắt làu bàu:
- Thế mà các anh văn sĩ và
phóng viên viết toàn chuyện anh dũng. Những chuyện như thế này thì lại bịt mất
tiêu.
Rôi ông hỏi anh đoàn trưởng:
- Hồi nãy anh có nói đây chỉ là
chuyện đơn giản, vậy còn những chuyện không đơn giản là những chuyện gì?
- Dạ nhiều lắm ạ, tôi không ghi
nên không nhớ.
Ông Mặt Sắt ngoảnh lại anh
chiến sĩ đang cầm đèn pin ở tay:
- Anh đi tìm cho tôi một ban
chỉ huy đơn vị đang đi vào Nam và một anh giao liên.
- Vâng.
Ông Mặt Sắt trở lại với anh
đoàn trưởng Văn Công:
- Các anh sáng tác hoạt cảnh ấy
à?
- Vâng, chúng tôi hưởng ứng
phong trào “tự biên tự diễn” của Tổng Cục vừa đề ra.
- Vừa leo núi vừa viết được như
thế à?
- Vâng, chúng tôi họp lại bàn
luận đề tài để thống nhất ý kiến rồi phân ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm viết
một màn, xong rồi ráp lại ạ. Đó là lối sáng tác tập thể. Viết xong diễn vài lần
rồi bỏ ạ. Chúng tôi toàn áp dụng phương pháp đó.
- Cái màn ba, cha mẹ vợ và vợ
xây dựng anh lính trở lại đơn vị, các anh lấy ở đâu?
- Dạ, màn này thì chúng tôi
tưởng tượng ra rồi phóng tay sáng tác ạ! Thật ra như thế cũng rất hợp lý cách
mạng và đúng chánh sách ạ.
- Ở ngoài kia các anh có áp
dụng phương pháp sáng tác tập thể đó không?
- Dạ có chứ ạ! Phương pháp này
giúp cho chúng tôi tránh được chủ nghĩa sùng bái cá nhân ạ. (Ông Mặt ắt “hả” to
lên) Nghĩa là không có đề tên tác giả cũng như các nghị quyết của Trung ươong
để là Bộ Chính Trị chứ không đề tên ai cả.
- Ai bảo anh thế? – Ông Mặt Sắt
cười gượng – Chính trị khác văn nghệ khác chứ!
- Dạ chúng tôi học tập chỉ thị
của Tổng Cục đấy ạ!
- Sao tôi không biết gì hết cả
vậy?
- Dạ thì tôi cũng không biết gì
hết. Nhưng ở trên bảo rằng sáng tác tập thể thì vừa biểu đạt phong phú hơn sáng
tác cá nhân vừa tránh được cá nhân chủ nghĩa gạ! (Ông Mặt Sắt kêu lên: Quái
nhỉ!) Dạ, nếu có anh chị em nào sáng tác được một vở kịch hay một bài hát thì
cũng đều mang ra tập thể xây dựng chung rồi sau đó đưa ra diễn thì giới thiệu
tên của tác giả trước rồi kèm theo phải nói là “với sự đóng góp của tập thể
đoàn Văn Công” ạ.
Đến đây thì anh thư ký riêng
trở lại báo cáo:
- Thưa anh Sáu, đồng chí Nam
Long nhận khuyết điểm đã điều động văn ông vào mà không trang bị cho họ đầy đủ
vì đồng chí ấy bận bố phòng các trận địa pháo ngày đêm di chuyển luôn. Ngày hôm
nay hai tàu gạo của ta bị máy bay Mỹ đánh chìm tại Vinh, hiện đồng chí đang huy
động dân và bộ đội mò moi gạo lên và cho không dân chúng ai móc được bao nhiêu
lấy bấy nhiêu.
- Có chuyện đó nữa à?
- Dạ thưa có ạ! Chính đồng chí
Tu lệnh Nam Long trực tiếp nói với tôi như thế. Đồng chí còn bảo ước gì đem
được số gạo đó vô đây cho anh em binh sĩ thì hay biết mấy.
- Còn việc tiếp tế cho Văn Công
? Ông Mặt Sắt gạt ngang, gắt.
- Dạ, đồng chí Nam Long nói là
gạo muối thuốc men thì có đủ nhưng nếu đem vô tới đây ít ra cũng một tháng,
nhanh lắm cũng ba tuần lễ, vì ta không có phương tiện gì hết. Xe hơi chỉ đến
làng Ho là phải ngừng lại. Ngoại trừ có trực thăng thì mới đem được gạo muối
cho Văn Công nhanh chóng .
- Thôi được ! Cảm ơn đồng chí
Văn Công nhé! Sáng mai đồng chí đến gặp tôi.
- Vâng!
- Các anh lấy thịt kho và thuốc
men dành cho tôi đưa cả cho đồng chí trưởng đoàn – Ông Mặt Sắt bảo đoàn tuỳ
tùng và làu bàu – Con người đâu phải con vật mà muốn ném đâu thì ném. Hậu cần
như thế này có nghĩa là tự mình chuốc lấy nhục và bại thôi. Này, nói với anh
chị em nghệ sĩ rằng tôi tặng huân chương Giải Phóng cho đoàn về việc biểu diễn
bữa hôm nay.
- Vâng! Xin cảm ơn anh Sáu .-
Anh trưởng đoàn bắt mò được cách xưng hô do anh thư ký lộ bí mật vừa rồi.
Người chiến sĩ cầm đèn pin đưa
anh giao liên và hai người trong ban chỉ huy một đơn vị luồn vào Nam đến trình
diện anh Sáu.
Anh Sáu hỏi:
- Hai đồng chí là chỉ huy?
- Vâng, chúng tôi là D trưởng
và D phó ạ!
- Còn chánh trị viên đâu?
- Dạ đã hi sinh rồi ạ!
- Tại sao?
- Dạ, cây ngã đè chết ạ!
- Lạ nhỉ!
- Dạ trong một cơn bão ạ. Thưa
cũng không lạ gì ạ. Chúng tôi đã có kinh nghiệm khi có mưa to gió lớn thì bảo
chiến sĩ chớ có mắc võng gần cây cao. Cây cao dễ tróc gốc.
- Đơn vị các anh còn đủ quân số
không?
- Dạ…
- Các anh hãy nói thật để tôi
biết, không nên giấu giếm. Giấu giếm có tôi!
- Dạ, tôi là tiểu đoàn trưởng,
tôi phải nói trước! … Thưa đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục…
- Ấy đừng gọi tôi thế. Tôi chỉ
là chiến sĩ Trường Sơn thôi.
- Dạ thưa đồng chí…
- Cũng không dạ thưa…
- Tôi phải báo cáo với đồng chí
sự thực là đơn vị tôi còn già nửa quân số!
- Tại sao?
- Dạ, tại vì… lính trốn nhiều
quá!
- Tôi, tiểu đoàn phó, xin bổ
sung! – Một giọng khàn khàn tiếp theo – Thưa đồng chí, chúng tôi được đảng giao
phó cho chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh nhưng vào đến đây thì phải dừng lại chờ
gạo. Không có gạo, núi non như thế này lại mang súng đạn, không trèo nổi. Trong
lúc chờ gạo lính trốn khá đông.
- Bao nhiêu?
- Mười bảy chiến sĩ.
- Họ đi đâu?
- Họ trở về Hà Nội.
- Tại sao?
- Họ bảo đi nam không có tương
lai… Dạ ngoài ra họ còn tự bắn vào đùi hoặc vào chân để có lý do nằm lại. Như
đồng chí thấy trong hoạt cảnh…
- Đó là sự thực à?
- Vâng!
(Tôi thầm bảo: còn nhiều sự
thực bi đát hơn, định xía vô câu chuyện nhưng chưa chưa kịp nói thì viên tiểu
đoàn phó nói tiếp.)
- Họ còn tự sát nữa cơ!
- Có chuyện đó nữa cơ à?
- Dạ tôi đâu dám bịa tạc những
chuyện tày trời như thế.
Ông Mặt Sắt thở dài rất to. Im
lặng hồi lâu.
- Rồi các đồng chí giải quyết
như thế nào?
- Dạ nếu có gạo thì mới giải
quyết được, ngoài ra không có cách gì khác.
Anh giao liên lên tiếng sau khi
nghe mọi chuyện của tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó.
- Họ đã từng đánh tôi, thưa
đồng chí thủ trưởng!
- Vì sao?
- Tại vì tôi dắt họ đi lãnh
gạo, đến kho thì quản kho không còn ở đó.
- Tại sao?
- Dạ không rõ. Còn khi thì
không còn gạo. Chắc có lẽ đồng chí sợ bộ đội đánh.
- Tại sao?
- Dạ, giận cá chém thớt vậy
thôi. Cũng có khi họ cho là quản kho giấu gạo để ăn riêng không phát. Họ giận
lây họ đánh cả giao liên.
Lại tiếng thở dài.
- Này gọi Tư lệnh Nam Long cho
tôi nói chuyện.
- Vâng!- Người thư ký dáp rồi
gọi người chiến sĩ mang máy bồ-đàm tới (đây
là loại tê-lê-phôn của nhà binh mang trên lưng, tôi không hiểu vì sao có cái
tiếng bồ-đàm này. Cũng như cái bình thủy được gọi là cái “phuých” nước.)
Người chiến sĩ cầm ống gọi. Một
chập, trao cho ông Mặt Sắt và nói:
- Dạ đây là Tư lệnh Nam Long,
xin anh Sáu cho chỉ thị.
- Alô! Đồng chí Nam Long đấy
hả… Tôi đang trên đường vào … Gạo nước thế nào? Không có đủ cũng phải kiếm cho
đủ. Để các đơn vị khác thiếu cũng được. Riêng trên đường này không được thiếu.
Chiến sĩ ở đây không có gạo. Giải phóng Miền Nam sẽ không thành công nêu không
có gạo cho bộ đội ăn. À, thuốc men nữa… Không có thì chạy đi tìm. Hai tàu gạo…đồng
chí cho bảo vệ thế nào lại bị đánh chìm thế hở…? Hừ, thì phản lực nhanh nhưng
nếu ta có pháo phòng không giữ kỹ thì nó đâu có đến được… Núi Quyết nữa cơ à?
Có thiệt hại gì không? tốt lắm. Tôi nhắc lại: Gạo và thuốc men cho đường này ưu
tiên một nghe không?…
Tôi phải vào…chưa biết chừng
nào mới đến… Tưởng là đi xe suốt, nhưng vào đến đây, đường bị phá không đi xe
được . Cố gắng nhé. Tôi còn nằm ở đây… Chưa biết bao lâu!..
Ông Mặt Sắt đưa ống nói cho anh
chiến sĩ và nói với các người khác:
- Cảm ơn! Các đồng chí về nghỉ,
mai đến gặp tôi.
—>Chương 8
- 8 -
Tôi mò về đến võng thì có tiếng
của Hoàng:
- No chưa?
- Vấn đề gạo sẽ được giải quyết
nay mai anh ạ! Tôi nghe trộm nên biết thế.
- Ai nói thế?
- Ông kẹ gọi và chỉ thị trực
tiếp cho Đại tá Tư lệnh Quân Khu IV, tôi nghe bằng chính lỗ tai tôi.
- Có chắc không?
- Thì nó đã được Bộ trông thấy
tận mắt. Lính đói rõ rồi chứ phải chỉ nghe đâu!
- Gạo tiếp tế cho Bà Thủy hết
rồi!
- Hả ! – Tôi giật mình – Sao
anh nói vậy?
- Thì hai tàu gạo đó là gạo
tiếp tế cho đường này chứ ai. Bị đánh chìm ở Bến Thủy – Hoàng tiếp – Lúc ổng
nói với ông Tư Lệnh tao có ở đó. Tao đến xem văn công lúc gần xong màn ba.
Tôi nói:
- Anh không nghe ổng nạo ông
Nam Long hay sao?
- Vấn đề không phải là “nạo” mà
là “gạo”. Nạo thế mấy mà ông Nam Long không có gạo cũng không tài nào tiếp tế
được !
Sáng hôm sau tôi còn đang ngủ
thì một bàn tay đập đập võng tôi. Tôi tốc mùng ra nhìn thì ra thằng nhạc sĩ của
đoàn, bạn của tôi từ thời chống Pháp ở Miền Tây Nam Bộ:
- Ông kẹ gọi mày!
- Kẹ nào? – Tôi bật dậy hỏi.
- Còn ông kẹ nào nữa?
- Sao mày biết tao ở đây?
- Lúc tao diễn cái họat cảnh
tao nom thấy mày ngồi gần gốc cây.
- Ủa mày đổi nghề rồi sao?
- Mấy đứa trong tổ kịch sốt
rét, tao phải thế vai, không có chó bắt mèo ăn cứt.
- Ổng gọi tao làm gì?
- Không rõ thằng nào mách mà
ổng biết có tụi bây ở đây. Ổng tính mở một buổi họp để nghe tố khổ. Nè.
- Gì?
- Muốn thăm con bé của mày
không?
- Thôi! Còn gì để nói mà gặp.
- Phải rồi, gặp cũng chẳng làm
gì. Nó đang bị “lập trường đè”. Một cổ hai tròng mày ạ! Nó đang sốt rét rên hù
hù đằng kai.
- Khổ quá, họp thì họp, gọi tụi
này làm gì.
Thằng nhạc sĩ bạn tôi đi, tôi
quay ra gọi Hoàng. Hoàng đáp:
- Mày có đi thì đi, tao cử mày
đại diện cho tao và con Thu đó.
- Làm biếng hoài cha nội.
- “Phương tiện giao thông” của mày
còn khá thì ráng chút đi, coi ổng có cho cái gì không?
- Nói thì nhất định có nói rồi
nhưng cho thì chắc là không.
- Sẵn dịp mày tố khổ luôn. Mấy
khi được nói thẳng vào lỗ tai kẹ.
Tôi đến thì thấy một lô người
ngồi trước võng của ông Mặt Sắt. Ông đang ngồi trên võng hai tay giăng ra nắm
hai đầu võng như con chim gi soải cánh. Ông đang cà gục cà gặc cái mặt sắt về
phía đám người.
Thú thực là nếu ở Hà Nội thì
tôi không đến cái buổi họp vì hai lần tôi gặp ông Mặt Sắt. Một lần ở Viện Văn
Học mà tôi đã kể ở trên kia. Lần thứ hai tôi đọc bài “Cây đa bến cũ, con đò
khác đưa” trên báo Nhân Dân. Cái lối của ổng là bất chấp đối tượng và bất chấp
lý lẽ. Cái lối của ổng là bắt người khác nghe theo lý lẽ của mình mặc dù lý lẽ
đó chưa hẳn đã là chân lý.
Ông đang nói:
- … Cách mạng Miền Nam đang gặp
khó khăn. Quân Mỹ đang đổ bộ thêm vào Sàigòn. Chúng tăng cường cho bọn Sàigòn
hai ngàn trực thăng và rất nhiều dụng cụ truyền tin. Miền Bắc chúng ta phải hi
sinh nhiều hơn nữa. Trận Pleime là trận thử sức giữa ta và nó…
Ông ngưng lại, không nói cái
kết quả của cuộc thử sức đó ra sao nhưng ai cũng biết nó ra sao rồi. Ông nói
sang những vấn đề trên đường dây:
- Đảng và Chính Phủ không phải
là không thấy những khó khăn về gạo thóc thuốc men ở đây. Trong lúc Miền Bắc
mất mùa nhân dân phải thắt lưng buộc bụng thêm nữa. Đảng và Chính Phủ đã cho
chở vào Vinh hai tàu gạo để đưa vào đây, nhưng rủi ro đều bị đánh chìm ở Bến
Thủy. Đồng chí Tư Lệnh Quân Khu IV cho tôi biết hiện giờ đồng chí đang động
viên dân và bộ đội lặn moi lên. Nước mặn gạo ngâm một đêm là hỏng hết cả. Ở
dưới hầm tàu, dễ gì moi lên. Tôi nói rõ cho các đồng chí nghe một sự kiện quan
trọng như vậy để các đồng chí thấy Đảng và Chính Phủ rất quan tâm tới con đường
này chứ không phải để các đồng chí ăn đói ăn khát rồi thối chí nản lòng. Làm
cách mạng, không ai được thối chí nản lòng. Những lúc đảng gặp khó khăn thì
chính là những lúc đảng cần bàn tay và khối óc của đảng viên và quần chúng yêu
đảng chia sẻ gánh nặng với đảng chứ không phải là lúc chửi đổng và phá đám như
bọn Nhân Văn Giai Phẩm.
(Cái câu cùng này đúng y nguyên
văn tới nghe ở Viện Văn học mấy năm trước )
Ông tiếp:
- Bây giờ gạo thiếu thốn, các
đồng chí chỉ huy không điều khiển đơn vị được. Như tôi xem thấy trong họat cảnh
tối qua, chiến sĩ đào ngũ, tự sát thương, vô kỷ luật .. chúng ta nhìn nhận hiện
tượng đó nhưng là người Cộng sản chúng ta phải đặt vấn đề khắc phục nó như thế
nào, chứ không nên đứng nhìn nó hoặc xuôi tay cho nó tràn ngập chúng ta. Tôi
thay mặt Trung ương đảng, Tổng quân ủy, xin gởi lời chào thân ái và quyết thắng
của Hồ chủ tịch đến các đồng chí. Các đồng chí còn có ý kiến gì không?
Mọi người im phăng phắc.
Ý kiến gì bây giờ? Té ra làm
cách mạng với đảng thì không cần gạo. Dù có phải trèo non vượt biển, cứ hễ
thiếu gạo thì tìm cách khắc phục lấy, không được thối chí nản lòng.
Các vi quân dân chánh đảng lẳng
lặng ra về, tôi cũng gầm mặt mà rút lui cho được việc. Về vừa đến võng Hoàng đã
hỏi:
- Chừng nào gạo tới ?
- Tới rồi ! Tới dưới lòng sông
Bến Thủy !
Đáng lẽ giao liên đã đưa đoàn
đi vào trạm trong, nhưng ông Mặt Sắt cho nghỉ lại tất cả để ông nói chuyện và
chấn chỉnh tổ chức.
Chúng tôi không buồn vì cách
mạng Miền Nam chậm tiến một ngày mà lại mừng vì được nghỉ ngơi hợp lý và không
bị giao liên gắn cho là nằm ỳ ăn vạ.
Vấn đề nấu cao khỉ được tôi đặt
ra. Nhưng Hoàng gạt ngang:
- Cách mạng chưa cần cao khỉ !
Cả hai cùng cười. Riêng Thu thì
rưng rưng nước mắt.
Tôi gắt đùa:
- Cách mạng Miền Nam không cần
nước mắt ! Rõ chưa?
Nhưng Thu vẫn cứ rên rẫm trong
nước mắt:
- Giá lúc này mà thằng Hồng trở
lại thì em đi theo nó.
- Sao hôm đó không đi ?
- Nó gạt em. Nó nói nó đi rồi
nó trở lại. Mà nó không trở lại -Thu tiếp- Còn cái ông Kiếm ông Kiết gì có một
ba lô K54 đó, ổng hứa cho em tháp tùng nhưng rồi cũng lẩn mất. Ai cũng sợ gánh
nặng đeo lên lưng.
- Chỉ mình anh là không sợ thôi
!
- Anh nữa, anh cũng sợ chịu
trách nhiệm về em chớ gì!
- Sao em nói vậy?
- Anh luôn luôn khuyến khích em
làm B quay.
Tôi lặng thinh. Quả nàng nói có
đúng. Tôi yêu nàng là vì tôi, không phải vì nàng. Nàng biết tôi vừa tạm biệt
người yêu ở ngả rẽ xuống Bác Kế cách đây hơn mười ngày. Người yêu tôi, Phương
là bạn nàng. Tôi cũng biết nàng đi Nam để gặp người yêu trong đó. Thế nhưng
trong hoàn cảnh bi thương hai đứa cần nương tựa nhau về vật chất lẫn tinh thần
hằng ngày. Và hai đứa đã vượt biên giới của tình bạn và càng lúc càng đi sâu
hơn. Nàng khổ lắm. Tôi biết vậy, nhưng tôi cho là nỗi khổ đó chính là hạnh
phúc. Còn tôi, tôi là thằng đàn ông như mọi thằng đàn ông khác, chẳng bao giờ
cưỡng lại những cử chỉ thân ái của đàn bà. Tôi chẳng những tạo hoàn cảnh để làm
nảy ra những cử chỉ ấy mà lại còn tấn công bằng một chiến thuật có vẻ như vô
tình mà thực ra là cố ý. Và bây giờ Hoàng cũng biết tôi và Thu yêu nhau. Chúng
tôi tỏ vẻ thân ái với nhau hơn những người đồng hành một cách không ngần ngại.
Chúng tôi tự cho mình chẳng có tội gì. Trước những giờ phút mà thân thể và tinh
thần bị dày vò cực độ, người ta cần có sự an ủi. Chúng tôi an ủi và giúp đỡ
nhau để đưa nhau đi trên con đường cách mạng gian khổ và đi tới đích của nó.
Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, Lê Hồng Phong và Mình Khai…đã yêu nhau
trong công tác…
Nhưng bây giờ Thu trách tôi.
Thu trách tôi cũng như trách bao nhiêu người khác: Sợ chịu trách nhiệm về Thu
cho nên muốn Thu làm B quay.
Nói cho cùng, Thu đã trách
đúng. Tôi đã không dám chịu trách nhiệm về Thu. Tôi chỉ muốn Thu có mặt với tôi
để tôi được vui vẻ nếu Thu mạnh khỏe không gây trở ngại cho tôi, không trở
thành gánh nặng của tôi. Nếu Thu bệnh họan thì tôi tránh né hoặc chối từ trách
nhiệm một cách khéo léo.
Tuy bị nói trúng tim đen nhưng
tôi vẫn cố chống chế:
- Thì em lúc nào cũng nằng nặc
đòi về Hà Nội, vậy anh còn làm gì được !
- Sao anh không lấy quyền gì
của anh mà cấm em. không cho em làm thế. .
- Quyền gì, anh có quyền gì đối
với em ?
- Em đã cho anh cái quyền tối
cao rồi, anh không biết ư?
- Em chỉ cho anh tình yêu chứ
cho quyền gì ?
- Tình yêu là quyền lực mạnh mẽ
nhất, mạnh hơn bất cứ quyền lực nào cả.
Tôi lặng thinh. Nàng tiếp:
- Giá bây giờ em từ giã anh để
trở và Hà Nội thì chắc anh cũng chỉ hơi buồn tí thôi rồi khi quay lưng anh
chẳng đau khổ tí nào. Phải không ạ?
- Anh không thể biết được vì
chuyện đó chưa xảy ra!
- Thế thì bây giờ anh muốn em
như thế nào ?
- Anh muốn thế nào được mà
muốn.
- Thấy không? Đáng lẽ ra anh
quát em: “Em không được quay lại, em phải đi với anh. Không có em anh sẽ chết
đọc đường. Anh muốn nếu chẳng may anh chết dọc đường, anh có được bàn tay em
vuốt mắt ! ” Nếu anh nói thế thì dù gì đi nữa em cũng không quay lại. Nhưng anh
lại không nói gì hết, anh lại còn tán thành việc em quay lại. Thế nghĩa là anh
yêu em đó phải không?
- Thu ạ ! -Tôi đành dịu giọng-
Chúng ta có hai quê hương khác nhau, cùng nằm trên một nước nhưng là hai mảnh
đất xa nhau nghìn dậm. Em không muốn rời quê hương và mồ mã ông bà thì anh trên
đường về quê hương thăm lại mồ mã ông bà, lẽ nào anh bắt em phải nghe anh. Đối
với anh tình quê hương nặng hơn bất cứ tình nào khác kể cả tình yêu. Nếu khác
đi thì anh đã đi với Phương về Bác Kế rồi chứ không đi một mình về Nam Bộ. Em
biết anh và Phương yêu nhau như thế nào. Chỉ một bước nữa là thành vợ chồng.
Nếu ở Hà Nội thì Tết này có thể cưới nhau rồi. Bố mẹ Phương rất thương anh và
anh cũng rất yêu bố mẹ Phương. Anh không về được lần này thì không còn lần nào
khác nữa! Nếu em muốn đi vào thì anh sẵn sàng đi với em đến nơi nào em muốn,
nhưng ngược lại em muốn trở ra thì anh cũng không muốn cản ngăn em. Tình yêu là
điều cao cả nhưng không phải là tất cả ! Em thấy đó, nếu đối với anh tình yêu
là tất cả thì anh đã ở lại Hà Nội, cưới vợ sống muôn năm trong hòa bình rồi,
lựa là phải lê xác vô đây ! Và không phải đợi đến yêu Phương, nếu muốn thế, anh
đã lấy vợ từ lâu rồi.
Tuy tôi giải bày cặn kẽ và rất
có lý như thế, nhưng Thu vẫn không vui lòng. Đàn bà không mấy khi nghe lý luận,
họ nghe tình cảm nhiều hơn. Nếu không thế chẳng có nhiều bi kịch cho đàn bà hơn
đàn ông, trong đó đàn bà là nạn nhân của tình cảm.
Tôi nói:
- Cái ông vừa gọi anh đến đó có
thể cho em về Hà Nội được đấy.
- Anh đi xin giấy phép của ổng
dùm em đi.
- Thật không?
- Thật mà ! Em chán tất cả rồi.
Em muốn về ngay Hà Nội bây giờ, bây giờ!
Nàng gào lên và ôm mặt nức nở.
Tôi rối lọan tâm thần không
biết nàng dỗi mà nói thế hay là nói thật. .
Đang lúc hoang mang thì Hoàng
nói vọng sang :
- Đúng đấy, mày đến trình bày
vấn đề của nó và đề nghị ổng cho nó trở lại thôi. Tao lấy con mắt chuyên môn mà
nhìn thì cái chân của nó không thể leo núi nổi đâu và dù có đến nơi cũng không
công tác như cũ được.
Tôi thấy Hoàng có lý, nên chẳng
suy nghĩ gì thêm, tôi đến chỗ ông Mặt Sắt để trình bày vấn đề. Giá mà ở Hà Nội
thì còn lâu mới trông thấy mặt ông ta được, nhưng trên con đường này ranh giới
giai cấp, theo nghĩa nào đó, đã bị xóa mất: Tất cả đều cùng một giai cấp, giai
cấp “chân đất.”
Tôi đến nơi gặp lúc ông đang
thuyết giảng vấn đề gạo. Tôi đứng xa xa đợi một hồi rồi nhờ một chiến sĩ trong
đoàn tùy tùng bẩm dùm.
Nghe nói cô nữ văn công có vấn
đề, ông gọi tôi đến ngay. Ông vui vẻ hỏi:
- Đoàn các anh đi được bao
nhiêu người ?
- Dạ trên bốn chục.
- Gồm các bộ môn nào?
- Dạ đủ hết cả.
- Bộ môn nào đi đông nhất ?
- Dạ nghệ sĩ biểu diễn.
- Sáng tác cũng cần. Anh thuộc
bộ môn nào?
- Dạ, Văn.
- Thế à? Anh đã in được mấy
quyển sách rồi.
- Dạ, ba quyển.
- Nhiều thế, giỏi thế.
- Dạ còn hai quyển to hơn nữa
nhưng không in !
- Sao không in ?
- Dạ nhà Xuất bản Quân đội hứa
in rồi không in!
- Tại sao kỳ vậy?
- Dạ chuyện hơi dài nhưng tóm
tắt có thế này. Dạ mà, tôi nghĩ anh Sáu đang còn bận nhiều việc không nên làm
mất thì giờ của anh Sáu.
Ông Mặt Sắt xua tay một cách dễ
thương:
- Không mất thì giờ đâu. Ở đây
tôi dư thì giờ. Muốn làm gì cũng không làm được. Đại khái như nghe hai tàu gạo
bị máy bay Mỹ đánh chìm ở Bến Thủy nhưng tôi làm gì được bây giờ. Tôi cảm thấy
như mọi khuyết điểm của cách mạng được bộc lộ trên con đường này. Nào, anh cứ
nói cho tôi nghe vấn đề sách của anh xem! Mà này, năm trước tôi có đến nói
chuyện với anh em văn nghệ sĩ ở Viện Văn Học anh có đến dự không ?
- Dạ có!
- Anh nghe thế nào?
- Dạ, anh Sáu nói thế nào tôi
nghe thế ấy.
- Tôi muốn biết là câu chuyện của
tôi có giúp cho các anh được gì trong phương hướng sáng tác hay không?
- Dạ có ạ, có rất nhiều.
- Nhiều như thế nào?
- Dạ thì như anh Sáu nói lúc
đảng gặp khó khăn thì mọi người nên góp tay vào…
- Đúng! Đó là thái độ đúng đắn
nhất. Anh có đọc bài “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa” của tôi không?
- Dạ có!
- Có thật không?
- Dạ có thật ạ, bài đó đăng hai
ba kỳ báo Nhân Dân mỗi kỳ bốn trang. Anh Sáu ký tên.. Trưởng ban Công Tác Nông
thôn…
- Đúng đó. Anh thấy nó thế nào?
(Sự thực thì nội dung của bài
báo là ca ngợi tổ chức Hợp Tác Xã, đả phá lối làm ăn riêng rẽ. Kết luận của nó
là tất cả nông dân Miền Bắc đều sẽ phải vô hợp tác xã để làm mẫu mực cho Miền
Nam giải phóng sau này. Quả tình tôi có đọc bài ấy thật. Tôi đọc nó trong một
hoàn cảnh điễn hình. Hồi đó tôi đang tìm đường trốn về Nam. Tôi đang ở trong
nhà một anh nông dân. Tôi có hỏi về đời sống gia đình anh. Anh nói thẳng ra là
cuộc sống bây giờ khó khăn hơn thời Pháp. Anh không chịu vô hợp tác xã. Hợp tác
xã đã bao vây anh bằng mọi cách, nhưng anh nhất định không vô. Ruộng nhà anh là
ruộng do chánh phủ cấp trong Cải cách ruộng đất. Ở ranh ruộng có một cái ao mà
tiền kiếp là một hố bom trong thời kỳ chống Pháp. Anh đã thả rau muống, thả chà
để nuôi cá nhưng éo le thay, một nửa cái ao nằm bên ruộng nhà anh, còn một nửa
thì lại nằm bên ruộng hợp tác xã. Vì rún ép mãi mà anh không vô hợp tác xã cho
nên xã viên gai con mắt, chẳng phải vì chánh sách, mà vì cái ao đem lợi lộc cho
anh chàng cá thể kia. Một hôm thừa lúc anh đi rừng đốn củi- ban quản trị cầm
đầu một nhóm xã viên ra tát cái ao. Sắp bắt cá thì anh gánh củi về ngang. Thấy
cớ sự lạ lùng, anh bèn chất vấn những người đang làm ẩu kia. Những người này
lên mặt thầy đời mạt sát anh là tên lạc hậu. Anh không nhịn thua. Anh mắng trả
lại. Hai bên xô xát nhau bằng lý lẽ rồi dùng đến tay chân. Cuối cùng là vũ khí.
Bởi là ăn cướp nên đám xã viên có mượn súng du kích đem theo để phòng thân. Họ
dọa bắn . Và anh ta đã nhanh tay dùng dao rừng chém một nhát, người xã viên cầm
súng dọa anh bị đứt lìa một chân sát đầu gối. Khi tôi chạy đến nơi thì cả xóm
đã bu đen quanh miệng ao. Anh chủ nhà bị trói, bị giải đi. Rồi ở tù. Ở nhà
ruộng đất anh bị tịch thu chia chác. Vài tháng sau tôi đi ngang vùng này, tôi
có ghé thăm gia đình anh. Người trong xóm rỉ tai tôi rằng ông phó chủ nhiệm hợp
tác xã tới lui nhà anh thường xuyên để “giúp đỡ” vợ con anh lắm khi ngủ luôn
tại nhà… Đúng là một bức minh họa sống cho bài “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa”
của ông Trưởng ban Công Tác Nông Thôn Trung ương đảng Nguyễn Chí-Bần-Cố-Hỉ.
Tôi có được chi tiết “cái ao”
đó tôi khoái lắm, định viết thành truyện ngắn, nhưng thấy truyện ngắn không
chứa nổi, bèn dựng truyện dài lấy tên “Một nửa bên này” nhưng đem nó đi trình
bày trong tổ đi thực tế nông thôn của Hội Nhà Văn thì có hai ý kiến trái ngược.
Ý kiến thứ nhất cho rằng đề tài vô cùng phong phú, chưa có sách nào viết về hợp
tác xã mà có được chi tiết (cái ao) lý thú đến như thế, nên viết ngay ra để cho
Trung ương thấy rằng hợp tác xã là một thất bại trong quan hệ sản xuất.
Ý kiến thứ hai cũng cho rằng
chi tiết rất lý thú nhưng nếu viết ra thì vô cùng bất lợi cho chính sách hợp
tác xã vì ý thức sản xuất cá thể mạnh quá lấn át cả đường lối của đảng. Cho nên
hợp tác xã không giác ngộ anh cá thể được mà phải cưỡng bách và cuối cùng áp
bức (tát ao ẩu). Rồi lại bắt anh cá thể đi tù. Như vậy hoá ra chánh sách chỉ là
một cái khuôn đẫm máu chụp trên đầu nhân dân. Vì ngoài các luật lệ của hợp tác
xã, hợp tác xã còn có chánh quyền đứng sau lưng… Nói chung chi tiết hay, nhưng “rất
khó” viết.
Cuối cùng tôi đành “ngâm cứu”
luôn cho đến ngày đi B không hỏi ý kiến ai nữa cho đến ba mươi ba năm sau
(1988) tôi mới viết nó ra trên xứ Hoa Kỳ – cho Mỹ xem chơi.
Câu chuyện Cây đa Bến đò nó
lằng nhằng như thế đó, cho nên khi ông Mặt Sắt hỏi gắt:”Có không?” thì tôi đáp
“Có!” . Mà tôi có đọc nó thật!
Nhưng khi ông hỏi tiếp: Anh
thấy nó thế nào, thì tôi ngắc ngứ. Nếu tôi kể chuyện “Cái ao” cho ông ấy nghe
thì sẽ có một cuộc tranh luận mà trong đó chiến thuật lấy thịt đè người chắc
chắc sẽ bị áp dụng và người bị đè không phải là ông. Như vậy vừa mất thì giờ
vừa mất sức khoẻ cho nên tôi đáp như máy:
- Dạ tôi vốn là người Miền Nam
nên không hiểu nông thôn Miền Bắc lắm ạ!
- Theo anh trong Hội Nhà Văn ai
hiểu nông thôn Miền Bắc nhất?
- Dạ theo tôi thì có ba người:
anh Kim Lân, anh Tô Hoài và anh Nguyên Hồng. Anh Kim Lân thì hiểu nông thôn đến
mức độ chúng tôi gọi đùa là chuyên gia mắm cáy, anh Tô Hoài thì chuyên gia nông
thôn nhưng đặc biệt là giới thủ công nghiệp và dân nửa chợ nửa quê, anh Nguyên Hồng
thì là bạn của dân nghèo thành thị.
- Các anh ấy có viết gì về Cải
cách ruộng đất không ?
- Dạ không, ủa có! Hai anh Tô
Hoài và Nguyên Hồng thì không, nhưng anh Kim Lân thì có viết một truyện.
- Một truyện thôi à? Bao dai?
- Dạ chừng năm trang sách.
- Có thế thôi ư?
- Vâng! Đúng ra thì có cả một
quyển chừng hai trăm trang, nhưng chỉ có một truyện được nhắc nhở.
- Truyện nào, tên gì?
- Dạ “Cu Ế”.
- Nội dung như thế nào?
- Dạ đại khái là một thanh niên
bần cố nông nghèo đói suốt đời, không ai chú ý tới, các cô nàng không dòm ngó
nên không lấy được vợ, cho nên được gọi là “thằng Cu Ế”. Nhưng nhờ đội
Cải cách ruộng đất về bắt rể, Cu Ế đứng lên tố khổ địa chủ và được chọn làm cốt
cán gương mẫu, sau đó thì lấy được vợ.
Ông Mặt Sắt nhăn mặt:
- Chỉ đơn giản thế thôi à?
- Dạ, vâng, chỉ có thế.
- Nếu chỉ có thế thì có gì để
mà các anh nhắc nhở?
- Dạ anh em nhà văn nhắc nhở là
vì thằng Cu Ế của anh Kim Lân mô tả lại rất giống anh Kim Lân, nó gầy gò xấu
xí! Giống đến đỗi anh em gọi luôn anh Kim Lân là Cu Ế.
- Thế kia à! – Ông Mặt Sắt cười
gượng. Chập sau ông lại hỏi – Ngoài ra không có quyển nào khác viết về Cải cách
ruộng đất à?
- Dạ có nhưng không được nhắc
nhở bằng Cu Ế . Ủa, có một quyện trọn bộ ba cuốn. Quyển này được Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đọc tới.
- Thế cơ à? Quyển gì?
- Dạ quyển “Đất sụp”, “Đất lở”
gì đó tôi không nhớ!
- Thế anh Tô đọc rồi ảnh nói
sao?
- Dạ, Thủ tướng bảo là nhà văn
non tay.
- Nghĩa là thế nào?
- Dạ đồng chí Thủ tướng không
có nói trực tiếp với tôi (tôi làm sao được cái hân hạnh vĩ đại đó) nhưng
tôi có nghe anh em nhà văn đồn rằng Thủ tướng bảo : ” Nhà văn tả địa chủ như tả
con vật. Địa chủ cũng là người. Nó cũng yêu vợ con nó chứ!”
- Chỉ có thế thôi à?
- Dạ tôi chỉ nghe được có thế.
Ông Mặt Sắt gật gù, hồi lâu lại
nói:
- Đấu tố càng hăng càng tốt
nhưng viết văn mà y như đấu tố thì lại không chắc tốt. Tôi bận quá không có thì
giờ đọc sách, để khi tôi trở ra Hà Nội, tôi tìm sách nói về Cải Cách đọc thử
xem, nhưng anh Tô nói thì chắc đúng. Ảnh gần với nhà văn hơn tôi.
Tôi sực nhớ ra rằng tôi đi đến
ông Mặt Sắt không phải với sứ mạng văn học nên thừa lúc kết thúc được câu
chuyện, tôi bèn trình bày về trường hợp của Thu. Nghe xong, ông kêu lên:
- Bọn giết người! Bọn giết
người! Chúng nó tưởng một diễn viên ca múa như thế dễ kiếm lắm chắc. Ở Liên Xô
một diễn viên ba-lê đứng cao bao nhiêu vàng chồng lên cao bấy nhiêu, ở đây sao
mình coi như đồ bỏ vậy? Đâu nào, đem cô ấy lại đây tôi xem. – Ông quay lại mấy
người tùy tùng đang đứng quanh chờ sai bảo. Tôi nói luôn:
- Cô ấy đang ở cuối dãy lều.
Tên là Thu.
Ông Mặt Sắt quay lại tôi. Tôi
bỗng thấy cái mặt ông bớt đi màu sắt, dễ thương hơn.
- Anh đã ghi chép được nhiều
chưa?
- Dạ có ghi nhưng không còn gì
hết.
- Ủa, tại sao kỳ vậy.
- Dạ, tôi nhóm lửa nấu cơm hết.
Tôi dùng luôn cả cái bản thảo mà nhà xuất bản Quân Đội hứa in rồi không in! Tôi
định mang về Nam in, nhưng giữa đường thì nặng quá…
- Tại sao họ hứa rồi không in?
- Dạ, họ đòi một nhân vật có uy
tín Nam Bộ đọc, nếu nhân vật này đồng ý, họ sẽ in. Nhưng nhân vật đó đã khen
sách hay, có nhiều tính chất Nam Bộ, họ vẫn không in.
- Nhân vật đó là ai?
- Dạ là đồng chí Nguyễn Văn
Trấn, Tư lệnh kiêm Chính ủy khu IX hồi chống Pháp.
Ông Mặt Sắt cúi mặt một chốc
rồi ngóc lên:
- Ai là giám đốc nhà xuất bản
Quân Đội?
- Dạ, Trung tá Lữ Giang!
- Sao lại thế nhỉ! Anh này thì
phải cho làm hậu cần sao lại phụ trách xuất bản?
- Dạ, chính ông ấy đấy ạ!
Vừa đến đây thì Thu tới. Ông
Mặt Sắt kêu lên:
- Trời đất! Con người ta vầy
mà… Ông quay lại bảo – Anh Thuần đâu?
- Dạ, đồng chí bí thư văn hoá
đang sốt.
- Thôi được, anh nào đó, gọi
cho tôi anh Lành, anh Vịnh, bảo chấm dứt gởi diễn viên văn công vào đây! – Ông
càu nhàu – Nhất là nữ diễn viên.
- Dạ!
Ông nói tiếp:
- Tôi không hiểu đầu óc các
người ấy như thế nào mà họ gửi các cô con gái mảnh mai như thế này vô Nam. Để
làm cái gì mới được chứ? Trông kia, chân của một nữ diễn viên ca múa trên sân
khấu phải lót bằng nhung, đâu có phải chân voi như chân tôi mà múa trên đá ta
mèo được!… Cô đi vào đây bao lâu rồi?- Ông hỏi Thu.
- Dạ hơn một tháng.
- Cô đau chân bao lâu rồi?
- Dạ hơn mười ngày chi đó.
- Sao cô không nằm lại mà cứ đi
thế này?
- Dạ nằm lại thì không có ai
giúp đỡ cả thành ra cháu phải cố đi.
Tôi tiếp thêm:
- Dạ chúng tôi đi cùng đoàn với
cô ấy, nhưng không thể nằm lại được. Vì nếu nằm lại thì coi như phạm kỷ luật
của đường dây.
Ông Mặt Sắt ngoảnh lại. Một
chiến sĩ biết ông cần ai, bèn thưa ngay:
- Đồng chí bí thư chính trị sẽ
đến gnay, thưa anh Sáu.
- Bảo anh nhắc tôi vấn đề kỷ
luật đường dây nghe!
- Dạ!
Rồi ông quay lại tôi:
- Kỷ luật thế nào, ai đặt ra?
- Dạ cái kỷ luật này bất thành
văn, nhưng tóm tắt nó như thế này thưa anh: “Ai mạnh cứ đi, ai ốm cứ nằm lại.”
- Được rồi! – Ông hỏi Thu – Cô
học nghề múa ở đâu vậy?
- Dạ ở Trung Quốc rồi sang Liên
Xô.
- Cô đã đến hai mươi chưa?
- Dạ, cháu đã hai mươi hai.
- Ai bảo cô đi Nam vậy?
- Dạ ở trên, đâu Bộ Văn Hoá hay
Ban Thống Nhất cháu không biết, chỉ thấy cơ quan bảo đi.
- Họ có nói vô Nam cô sẽ làm gì
không?
- Dạ họ nói là vô Nam sẽ biểu
diễn ở Sàigòn!
Ông Mặt Sắt bảo:
- Gọi bác sĩ lại đây. Nhanh
lên.
Tôi thở phào. May quá! Phải chi
hôm trước mình gặp được ổng thì thằng Núi có thể bớt khốn nạn hơn nhiều. Tôi
như thấy nó nằm trên cái võng kaki xâm xấp nước theo kiểu hạ nhiệt độ của ông
Tùng. Sẵn dịp tôi tố luôn:
- Chúng tôi còn hai đồng chí
cũng đau không đi nổi.
- Ở đâu? Sao kỳ cục thế nhỉ? Họ
coi văn nghệ sĩ như rác thế này là nghĩa làm sao?
- Dạ một đồng chí thì đang ở
đây, một đồng chí tụt ở trạm sau. Đồng chí ở đây thì còn đi được, nhưng đồng
chí nằm tại trạm sau thì ốm nặng.
- Cho mời đồng chí ở đây! Còn
đồng chí ốm nặng kia thế nào?
- Dạ chúng tôi sợ đồng chí ấy
bị sốt ác tính.
- Thế cơ à?
Tôi kể lại bệnh tật của Núi cho
ông nghe. Nghe xong ông kêu trời luôn ba bốn tiếng rồi nói:
- Một họa sĩ đã học Cao Đẳng Mỹ
Thuật lại bị ném vào đây như thế ư? Anh nào gọi đồng chí Lành và đồng chí Vịnh
từ nãy đã được chưa?
- Dạ Trung tướng Nguyễn Văn
Vịnh thì đi vắng còn đồng chí Tố Hữu thì không có điện đài liên lạc với chúng
ta.
- Vậy gọi về Tổng Cục bảo cho
hai cơ quan Bộ Văn Hoá và Ủy Ban Thống nhất ngưng hẳn gởi nữ văn công và văn
nghệ sĩ vào đây nữa, rõ không?
- Vâng ạ!
(Tôi giật mình đánh thót. May
mà mình đã lọt vào đây rồi. Nếu không thì sẽ kẹt ngoài đó mười năm mưa phùn gió
bấc nữa!)
—>Chương 9
- 9 -
Bác sĩ tới, ông Mặt Sắt bảo:
- Anh xem chân cẳng diễn viên
múa ba-lê của con người ta đó. Anh chữa dùm đi!
Viên bác sĩ dắt Thu đi. Tôi nói
tiếp:
- Cô ấy muốn trở ra Hà Nội thưa
anh. Không phải vì cô mất tinh thần mà vì cô không thể nào đi nổi nữa- Luôn dịp
tôi kể lại những việc cô và thằng Hồng định tổ chức trở về Hà Nội cùng với một
anh sĩ quan có một ba-lô K54.
Nghe xong ông ngồi lặng ra.
Đến đây thì Hoàng nhạc sĩ tới.
- Anh đau chân à? – Ông hỏi.
- Vâng. Trặc cái bánh chè, thưa
đồng chí.
- Có sốt không mà da vàng thế?
- Thưa anh, tôi chỉ bị trặc cái
bánh chè thôi.
- Cái chân chỉ có đầu gối là
quan trọng nhất, trặc bánh chè rồi còn đi đứng làm sao?
- Thưa anh, cũng phải cố gắng
thôi!
- Quê anh ở đâu?
- Dạ, Sàigòn!
Tôi chêm vào:
- Anh là nhạc sĩ Hoàng Việt mới
tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Bungari về, thưa anh Sáu, nhạc sĩ nổi danh nhất của
Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp. Và là nhạc sĩ duy nhất có tác phẩm giao
hưởng ở nước ta.
- Nhạc giao hưởng là nhạc gì?
- Dạ là nhạc chỉ dùng âm thanh
và tiết tấu để diễn tả chứ không có lời.
- Vậy lâu này tôi tưởng bài Sông Lô Trường Ca của anh Văn Cao là nhạc hay nhất rồi.
- Dạ hay nhất nhưng nó không
phải là nhạc giao hưởng như nhạc biểu diễn ở Nhà Hát Lớn vừa rồi.
- Tôi bận quá rồi không biết
cái gì ngoài hợp tác xã cả.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, ông hỏi
Hoàng:
- Anh ở quân đội phải không?
- Dạ khi ra đây tôi còn ở quân
đội.
- Cấp bậc gì?
- Da, tiểu đội phó!
- Trời đất! Một nhạc sĩ như thế
mà đeo cấp bậc tiểu đội phó nghĩa là sao?
- Da, tôi đâu có đòi hỏi gì!
- Lữ Giang là trung tá hậu cần
lại phụ trách văn hóa xuất bản toàn quân còn một nhạc sĩ như anh lại chỉ là
tiểu đội phó là sao?
Tôi chêm vào:
- Do đó khi vô đây, anh chỉ
được cấp phát theo tiêu chuẩn cán bộ sơ cấp, tức là muối trắng, võng kaki.
Không được thịt kho và võng ni-lông.
- Có chuyện đẳng cấp trong sự
cấp phát trên đường này như thế nữa sao?
- Dạ có chớ. Mưa ướt võng anh
ấy không mang nổi. Vì nó nặng như sắt cục vậy!
- Anh bao nhiêu tuổi?
- Dạ bốn mươi bốn – Hoàng đáp.
- Sao tóc bạc dữ vậy?
- Dạ không biết!
Tôi chêm vào:
- Anh ấy xa gia đình đến nay là
chẵn hai mươi năm. Mười năm kháng chiến và mười năm tập kết.
- Bây giờ anh có muốn trở ra
không?
- Dạ, chết sống gì tôi cũng đi
về cho bằng tới nơi.
Ông Mặt Sắt nhìn anh nhạc sĩ
hồi lâu rồi nói:
- Tôi coi bộ anh yếu lắm, không
đi tới nơi nổi đâu. Thôi để tôi cho anh trở ra nghe. Tôi sẽ phong cho anh chức
trung tá và làm việc ở Cục Tuyên Huấn của anh Lê Chưởng.
- Cám ơn anh Sáu, tôi quyết tâm
về xứ.
- Các anh căm thù Miền Bắc phải
không?
Hoàng và tôi đứng im. Ông nói
tiếp:
- Tôi biết các anh căm thù Miền
Bắc lắm mà, phải không? Có nhiều anh đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải bèn lột nón
quay lại xá Miền Bắc mấy xá.
Tôi nói:
- Họ đùa thôi, thưa anh Sáu!
- Trong đùa có thật!
- Nhiều người bị rắc rối vì xá
như thế!
- Rắc rối gì?
- Bị kiểm thảo! Nghe đâu có
người bị gởi trả lại Miền Bắc.
- Làm gì ác thế! Đường này có
người dám đi thì đã tốt lắm rồi. Bất cứ họ có tư tưởng gì. Sao lại gởi họ trở
ra?
- Dạ, không rõ!
- Các anh có tưởng tượng được
con đường này nó như thế trước khi vô đây không?
- Dạ, ông Ủy Ban Thống Nhất báo
cáo toàn chuyện ngon lành hết cả.
- Vì báo cáo kiểu đó Bác mới
phải khóc trong Cải cách ruộng đất.
Có lẽ ông vô đến đây mới sáng
mắt ra mà thấy một tình trạng thê thảm của quân dân chánh đảng đi Giải phóng
Miền Nam. Tôi đoán là ông và đoàn tùy tùng không lội bộ từ Làng Ho vô đây. Có
lẽ ông đi bằng một đường đặc biệt. Cho nên gương mặt ông còn đầy đặn và không
vàng vọt. Chỉ phải cái màu “sắt” . Nhưng màu đó vốn là màu cố hữu của ông. Ở Hà
Nội nước da của ông vẫn luôn luôn là “nước da lãnh đạo” như thế đó.
Cả ba đứa tôi trở về lều như
sắp lên thiên đàng.
Ông kẹ đã ra lệnh cho tất cả
các đoàn có mặt ở trạm dừng lại, không đi vào nữa để chấn chỉnh tinh thần lẫn
vật chất.
Riêng Thu và Hoàng được bác sĩ
của anh Sáu săn sóc. Cả hai đều được chích thuốc và băng bó đúng quy cách như ở
nhà thương. Riêng Thu thì ôm một gói gì nho nhỏ đi vào lều rồi dúi liền vào
ba-lô.
Nhìn những làn băng mới trắng
tinh ôm cổ chân Thu, tôi có cảm giác nàng khỏi bệnh ngay.
- Bác sĩ tiêm thuốc cho em, anh
ạ!
- Thuốc gì?
- Pê-nê-xi-lin. Ổng bảo cứ ba
tiếng đồng hồ ổng lại tiêm cho một mũi.
Còn anh Hoàng thì ổng cho một
ống thuốc, một lọ kem thoa. Ổng bảo cổ chân em đã sai khớp. Lớp da bên ngoài có
thể bị mưng mủ. Nếu để nó làm mủ thì phải mổ. Eo ôi! Nếu mổ thì em chết mất!
- Bây giờ thì còn kịp hả?
- Còn kịp, nhưng phải có đủ
pê-nê-xi-lin.
- Rồi bác sĩ có cho đủ không?
- Ổng nói sẽ trị cho em lành
bệnh.
- Em phải nằm lại đây à?
- Ổng nói bác Sáu ra lệnh ngưng
mọi cuộc hành quân đi vào. Ngoài ra bác sẽ ngưng mọi cuộc đi vào đường này. Bác
sẽ đề nghị với Trung Ương thảo luận lại để có một tổ chức tốt hơn.
Xế chiều hôm đó Phẩm lại đưa
vào một đoàn đông nghịt . Chẳng có chỗ đóng quân.
Họ phải càn rừng để tậu chỗ mắc
võng. Hoạt động ào ào, hối hả giành giật chen lấn bát nháo làm nên một không
khí loạn.
Tôi mừng lắm. Để cho ông kẹ
biết một thực tế của Trường Sơn. Nếu không, các ông ấy cứ tuởng là mọi việc ở
đây đều tốt đẹp. Từ ngày hoà bình lập lại, Trung Ương chui rúc vào cái vỏ chiến
thắng kiên định là các villa ở đường Trần Phú, Quan Thánh và những cái villa
lưu động là những chiếc xe hòm kính lộng lẫy cực kỳ xa hoa để không còn biết
dân sinh dân trí ra sao nữa, do đó có Cải cách ruộng đất tang thương. Nếu Trung
Ương đi sát với dân như thời kỳ chống Pháp thì đã không có chuyện đau lòng này.
Cải cách ruộng đất như một vết thương toang hoác được băng bó bằng một miếng
giẻ rách sửa sai, chưa kín miệng thì bây giờ lại đẻ ra con đường vinh quang
quái gỡ này. May mà có một đồng chí Bộ Chính Trị, nhân vật đứng hàng số 5 trong
đảng đã không đi trực thăng tới đây mà đi chân đất.
Chiều hôm đó, sau khi “cơm
nước” xong, Thu gọi tôi sang lều của nàng và bảo:
- Em sẽ cho anh xem một kỳ
quan.
- Thứ chín? – Tôi cười _ Kỳ
quan thứ tám là cái cổ chân của em kia rồi.
Thu lấy cái gói con lúc trưa
đưa ra trước mặt tôi:
- Đố anh biết vật gì?
- Anh đâu có phải ông “đồng” mà
em đặt vật?
- Anh nói trúng em sẽ…
- Thưởng?
- Ừ, thưởng…
Thấy tôi định đòi một phần
thưởng đặc biệt, nàng vội xua tay:
- Không! Không! Anh đừng có nói
ra. Thôi, để em cho anh xem này.
Thu từ từ mở cái gói và chỉ cho
tôi thấy cái cạnh hộp tròn sáng loáng. Tôi nói:
- Cái hộp lon hả?
- Cầm thì biết!- Nàng đưa cho
tôi. Tôi cầm lấy và thấy nặng. Tôi hỏi nàng:
- Nguyên hộp sữa à?
Nàng chỉ gật, đôi mắt rực lên.
Một hộp sữa đặc. Trời đất! Ở
đâu mà có nếu chẳng phải rơi từ trời, nếu chẳng phải tiên cho. Cảm ơn anh Sáu,
cảm ơn Bác Đảng, cảm ơn phe xã hội chủ nghĩa, cảm ơn phe đế quốc, cảm ơn cả và
thiên hạ đã bồi dưỡng chúng tôi bằng cả một hộp sữa! Nhưng hộp sữa lại làm nảy
ra một rắc rối: Chờ đến tối chúng tôi mới xầm xì bàn luận uống thế nào cho đúng
với ba nguyên tắc: Thiên thời, Địa lợi và Nhân hoà. Về mặt Thiên thời thì chẳng
bị trở ngại gì, bởi vì uống sữa vào mùa Đông hay mùa Hè sữa vẫn là sữa và rất
ngon, không có ai chết hoặc ốm vì uống sữa cả.
Ở Hà Nội cả chục năm, tôi chỉ
được uống sữa vài lần, bây giờ mới lội Trường Sơn có hơn một tháng, đã được một
hộp. Ở Hà Nội muốn có một hộp sữa phải là cán bộ có bìa phiếu hạng A. Cái phiếu
này sẽ dắt bạn qua cửa ngõ số 4 Tôn Đản, trong đó bạn sẽ tìm thấy một cái thiên
thai thức ăn giữa Hà Nội nghèo đói mạt rệp bần cùng nhếch nhác như một mảnh đất
cằn bị những bánh xe Volga chạy qua chạy lại cắt như những đường chém trên mặt
thớt. Nếu không có cái phiếu hạng A thì bạn phải là bệnh nhân sắp chết, mà là
bệnh nhân của bệnh viện Việt-Xô hữu nghị cơ, chứ còn bệnh nhân bệnh viện Việt
Đức tức Phủ Doãn cũ, bệnh viện C, bệnh viện 108 tức Đồn Thủy cũ,- thì chưa
chắc. Có khi hộp sữa được phát tới, bệnh nhân chỉ nhìn thấy cái mỏ con chim
vàng thì hồn đã lìa đời rồi, hoặc ngược lại khi nhìn thấy nó, bệnh nhân phấn
khởi cách mạng quá mức nên vượt chết mà khỏe hẳn lên.
Nếu bạn không lọt vào hai
trường hợp trên thì bạn phải là bà con của các ông các bà có cái phiếu hạng A
hoặc là em út của ông bà giám đốc cái cửa hàng Tôn Đản ấy. Chỉ có thế bạn mới
được diễm phúc làm chủ của một hộp sữa Con Chim mà Lang Sa nó gọi là lait
condensé. Cái thứ này thì không thấy nhập cảng từ Liên Xô. Liên Xô chỉ đưa sang
sữa hộp bột chua lét.
Do những điều kiện quan trọng
kể trên mà vấn đề tiêu thụ một hộp sữa ở đây trở thành vô cùng quan trọng. Giữa
lúc ba quân ăn đói nhịn khát mà mình lại uống sữa thì lương tâm nào không cắn
rứt ? Giữa lúc mình chưa phải là bệnh nhân sắp chết mà lại được cả một hộp sữa
thì những người sống trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đang tiến nhanh
tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa chết đi mà chưa kịp biết mùi sữa
chắc sẽ oán gận ganh tị với mình vô biên.
Nhưng thôi, đó là vấn đề tình
cảm hoặc duy tâm. Chúng tôi là những kẻ thờ chủ nghĩa duy vật. Vật chất đẻ ra
tinh thần. Có sữa uống, cái gân cái cốt sẽ khoẻ lên, cách mạng sẽ sớm thành
công! Vấn đề ở chỗ đó. Không ngại gì! Không ngại gì! Cứ uống! Cứ uống!
Nhưng uống bằng cách nào mới
được ? Uống phải bí mật. Bí mật cách nào?
Tôi đưa ý kiến:
- Nên để dành khi bệnh hãy xài.
Bây giờ ta chưa đến nỗi nào. Uống nó phí đi. Lại nữa đó là của anh Sáu tặng cho
Thu.
Thu phản đối ngay:
- Đây là của chung, em muốn mỗi
người uống một chút. Và uống ngay trong lúc miệng mình còn biết ngon biết ngọt.
Anh Hoàng thấy thế nào?
Hoàng cười hắc hắc:
- Tôi ba phải. Ai sao tôi vậy!
Thu tiếp:
- Em nhất định ta nên uống
ngay. Bây giờ em đề nghị hai phương pháp: một là nấu nước sôi rồi khuấy đầy một
gà mèn, sớt ra mỗi người một ít đem vô mùng tự túc, đường của ai nấy bỏ lấy mà
uống. Hai là luộc nguyên hộp sữa rồi khui ra cứ lấy muỗng múc ăn dần. Ăn kiểu
này ít lộ bí mật hơn vì sữa luộc chín không bốc hơi đi xa còn sữa khuấy thì
người ở cách ba bốn lều có thể ngửi thấy.
Tôi cười:
- Phương pháp nào cũng hay cả
nhưng mắc công lửa củi. Cứ để vậy chọc hai lỗ trút ra chén mỗi người một ít đem
vô mùng uống sống quách nó cho xong.
- Hay! Hay!
Hoàng vỗ đùi đôm đốp, và đá vào
võng phành phạch:
- Sáng kiến này phải được báo
Nhân Dân phổ biến cho mọi người đã từng hoặc chưa từng là “khổ chủ” của một hộp
sữa.
Tôi bỗng phá ngang:
- Nói đùa vậy chớ không uống
cách nào cả. Đó là phần của em và của anh Hoàng. Hai người là bệnh nhân nên anh
Sáu mới ưu tiên cho như vậy. Chứ còn anh mạnh khù mà uống sữa cái gì.(Nói
vậy chứ cái bao tử thủng của tôi cũng cần sữa lắm.)
Cứ cãi giằng dai hoài không ai
chịu ai. Rốt cuộc hộp sữa chưa đầu thai thành cái hộp lon được.
Bỗng tôi nghe có tiếng hỏi:
- Có anh nhà văn nằm đâu đây
không?
- Để làm gì? – Hoàng hỏi lại.
- Tôi quen anh ấy mà!
- Tôi đây! – Tôi đáp.
- À, mày đó hả?
- Ai đó?
- Thuần! Thuần đây! (Tôi không nhớ tên nào) Thuần Đại học Thái Hà đây!
- Ủa, mày cũng đi đây nữa a?
- Tao làm bí thư trưởng cho anh
Sáu.
- Bảnh vậy à?
Thuần rọi đen pin qua lại mấy
nhát tìm cội cây rồi mắc võng nằm song song với tôi. Thuần nói ngay:
- Ổng ra lệnh ngưng cái vụ vô
Nam này rồi.
- Tao có nghe nói.
- Ai nói?
- Ông bác sĩ của đoàn mày.
- Ờ đúng đó. Hồi trưa tao có
thấy mày nhưng tao bận quá… Ủa, tao sốt.
- Cơm nước mầy đâu có phải nấu
mà bận.
- Không. Vụ khác cơ.- Thuần kề
tai tôi – Tao phải dắt một đội bảo vệ đi liên lạc với các đồng chí Pathet tìm
voi cho ổng đi! Nè đừng có nói lộ ra, chết chém nghe!
- Thôi đừng có nói gì thêm, tao
không muốn nghe!
- Ừ, nhưng mà nè! Nghe tao bảo.
- Gì?
- Đoàn của tao đi võ trang
khủng khiếp lắm, toàn là thứ dữ và nhân sự như mày thấy đó toàn là lực sĩ. Tao
mách cho tụi mày một việc hay lắm!
- Việc gì? – Tôi ngồi dậy sốt
sắng – Việc gì hay dữ vậy. Hay bằng cái hộp sữa Con Chim không?
Thuần lận trong lưng ra rồi ấn
một vật gì lạnh và nặng vào ngực tôi. Tôi cầm lấy.
- Nhưng mà chưa hết đâu! Mày đề
nghị cho đoàn của mày đi chung với ổng. Ổng có vẻ chiếu cố tụi mày lắm. Nhất là
con bé ca vũ trặc chân.
Tôi nói:
- Đi chung thì chân ai nấy đi
chứ khác gì!
- Tầm bậy mậy! Mày kêu rêu mang
đồ không nổi, ổng sẽ cho người mang cho tụi mày. Hiểu chưa? Con không khóc mẹ
không cho bú.
- Vậy mày mại hơi dùm tụi tao
trước đi!
- Không được! Phải tỏ ra là tụi
mình không quen nhau mới được.
- Nhưng tao đâu có gặp được ổng
nữa?
- Thì chừng nào hành quân mày
tìm cách đi ngang qua mặt ổng cho ổng thấy.
- Ừ, được rồi.
- Nói cho mày biết, một tiểu
đoàn theo hộ giá ổng đấy. Còn đám xây lố cố đứng chung quanh võng của ổng là
ngự lâm quân và quân sai vặt mày hiểu chưa. Ba thằng bí thư: một thằng bí thư
chính trị, một thằng bí thư quản trị, một thằng tham mưu. Tao là xếp ba thằng
đó. Ổng chọn tao vì tao là dân Nam Kỳ. Hừ hừ phen này “về nước” nghe.
- Mày đi Liên Xô mất mấy năm?
- Ba năm rồi! Còn ba năm nữa!
Về Hà Nội nghỉ hè, mấy ổng “ách” lại không cho đi nữa, bảo sửa soạn đi B.
- Sao không vô trường tụi tao
mang gạch đá?
- Tao không có thực tập ngày
nào hết ráo.
- Bơ sữa xẹp hết rồi hả. Coi bộ
mày càng ngày càng lún xuống và trắng đỏ ra như đồng chí Khu vậy. Chắc ở bển
khoái lắm hả mậy?
- Sướng thì có sướng hơn bên
mình, nhưng nghèo lắm.
- Sao hồi đấu Nhân Văn Giai
Phẩm tao thấy mày ở trong trường rồi biến đâu mất, tao không gặp mày nữa.
- Thì mày biết cái trường Đại
Học Nhân Dân đâu có ông bà sinh viên nào. Chỉ toàn là bàn ghế và vách tường
thôi. Cho nên anh Bảy mình ảnh cho tao đi học, để ở nhà tốn cơm. Chính ảnh cũng
chán cả ảnh mà.
- Nè, mày có biết tại sao hồi
cướp chánh quyền ở Sàigòn, ảnh là Trời Con, trong kháng chiến ảnh vẫn là Trời
Con mà ra Bắc ảnh tuột dênh hết ráo vậy mậy?
Thuần làm thính. Có lẽ đó là
câu hỏi mà mọi người Nam Kỳ tập kết đều muốn đặt ra công khai, muốn được trả
lời rõ ràng như câu nói bất hủ của Bác là: Nam
Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam, sông có thể cạn núi có thể
mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi! hoặc là : Miền Nam luôn luôn trong tim
tôi! hoặc hơn nữa là
:Nam Bộ Thành Đồng Tổ Quốc!
Vâng, cái câu trả lời đã rõ như
ban ngày. Nguyễn Văn Trấn, Tư lệnh kiêm Chánh ủy khu IX Miền Tây Nam Bộ từng là
Phó Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ thời Mặt Trận Bình Dân, Chủ bút báo Cộng sản tiếng Pháp
Le Peuple! Ra Bắc mất hết áo mão cân đai, đạp xe đạp chạy rong Hà Nội như con
chó đói, ai mà không biết, ai mà không xót xa não lòng khi thấy một “đứa con
Thành Đồng Tổ Quốc” được cưng đến mức đó?
Tại sao?
Có lẽ Thuần cũng bất ngờ khi
tôi đặt ra câu hỏi. Đúng ra không phải bất ngờ. Bởi vì thằng Nam Kỳ tập kết nào
dù đang ngủ mê bị đập dậy bất thình lình cũng có thể trả lời ngay một cách đúng
đắn nhưng Thuần làm thinh hồi lâu không đáp. Thuần làm thinh không phải vì
Thuần không đáp ngay được mà vì Thuần muốn tìm một sự trả lời khác với ý nghĩ
chân thật của mình.
Thuần gãi đầu gãi tai:
- Có lẽ…Có lẽ thôi, vì thành
phần ổng là địa chủ!
- Cái đách !
- Há há … há! – Thuần cười to
một cách khoái trá.
Tôi để cho hắn cười đã đời rồi
mới hỏi:
- Sao mày cười chớ?
- Mày đã trả lời thay cho tao
rồi đó.
- Hả?
- Thì mày không đồng ý với tao
tức là mày cũng đã có câu trả lời của mày rồi. Vậy mày nói cho tao biết xem!
Tôi nói ngay:
- Địa chủ thì khối ông trong
Trung ương thành phần địa chủ; quan lại nữa là đằng khác. Tại sao? Khối ông
trong hàng cao cấp được đề bạt, tại sao ảnh bị trù? Tại sao ảnh bị coi như con
chó ghẻ?
- Mày hỏi tức là mày đã trả lời
rồi! – Thuần gạt ngang – Bỏ đi mày! Lôi mấy chuyện đó ra mệt lắm. Bảo vệ sự
trong sáng của đảng như bảo vệ con ngươi của mắt. Đó là nguyên tắc của Lê Nin.
Ở Liên Xô bảo vệ sự trong sáng đó bằng bàn tay thô bạo của Staline, hết bàn tay
của Staline rồi đến cái mồm thằng già trọc. Ở Việt Nam cũng bảo vệ sự trong
sáng đó bằng thưởng cho Dương Bạch Mai chai nước ngọt tại Quốc Hội ngã lăn
đùng, bằng cho Trần Văn Giàu cái con vít Đại học Tổng hợp để tự khoá miệng,
bằng cho anh Bảy Trấn ôm cái bục Đại học Nhân Dân không có học trò. Đó, hỏi nữa
chưa thằng mắc dịch.
- Thôi bỏ đi! Tao cũng không
muốn nói tới những chuyện tâm tư đó làm gì, nhưng nằm trong rừng đâm ra nhớ vớ
vẩn vậy đó. Mày vô đây được bao lâu rồi?
- Vài ngày thôi.
- Đi xe hơi à?
- Xuỵt!
- Ê, mày đi Liên Xô học cái
giống đách gì?
- Triết!
- Triết gì?
- Đạo đức học!
- Là cái đéo gì?
- Lãng xẹt thôi mày ơi!
- Vậy sao phải mất một ngàn
ngày cho nó?
- Mày nghĩ, tao ở cái trường
Đại học Nhân Dân Thái Ấp Hoàng Cao Khải Phó vương Bắc Kỳ để làm cái gì chứ? Tối
ngày đi ra đi vô ngó cái chân bàn xẹo, sửa cái bục sút ván, ra ngoài sân lượm
nhãn rụng, đến hồ bán nguyệt coi lao công vứt cứt trâu cho cá tra ăn, hay là
gì? Tao là Phó Giám Đốc của anh Bảy mất hai ba năm, thấy mình vô tích sự hơn
bao giờ hết. Nếu không đi Liên Xô thì làm gì? – Thuần nghỉ một hơi rồi tiếp –
Mày chưa vợ con, mày không biết gì hết đâu.
- Giỡn hoài mậy!
- À, không, tao nói về cái tình
cảm xa vợ xa con kia, chứ không phải cái sự ấy đâu. Bọn văn sĩ Nam Kỳ tụi mình
nổi tiếng như cồn ở Hà Nội về cái sự ấy, tao biết mà. Nhưng tao nói về cái tình
cảm xa vợ con kia. Tao được một đồng chí Liên Xô khen là “Thần Thánh” nghe mậy.
- Về cái gì?
- Về sự xa vợ con.
- Thế à?
- Tụi nó sang mình chỉ vài tuần
là đã mang vợ con theo bên cạnh rồi. Bọn Nam Kỳ ra Bắc xa vợ hai mươi năm. Con
c..c chỉ làm có nửa sứ mạng là đái thôi còn một nửa sứ mạng kia quan trọng hơn
thì lại không làm được .
- Vậy mày qua Liên Xô không có
dịp cho nó thi hành sứ mạng đó à?
- Có thì kể ra cũng có, nhưng
mình thấy hơi kỳ.
- ..Hơn nữa là sinh viên môn
Đạo Đức Học phải không?
- Không phải chỉ có thế. Nhiều
ông to tổ bố giảng đạo đức cho toàn đảng học nhưng có coi đạo đức là cái mẻ…ơ
gì. Tao là cái thá gì mà tao sợ mất đạo đức.
- Mua một cục thịt bò khoét lỗ
như Tây vậy là vẹn toàn!
- Không phải vậy đâu mày ạ! Tây
nó bậy bạ trong vụ đ… cũng nhiều, nhưng nó vẫn có đạo đức cổ truyền của nó. Ne fais pas à autrui ce que tu ne
veux pas qu’on te fasse. Đừng
làm cho người khác việc gì mày không muốn người khác làm cho mày. Thì tại sao
tao viết thư về cho vợ tao bảo “ẻn” đợi chờ chung thủy nọ kia đủ thứ thì mình
lại tự cho phép mình lang bang? Một trăm bài học không bằng một hành động thực
tế, phải không?
- Vậy mày nắm chắc bài học dữ
rồi đó. Chừng nào lấy bằng cấp?
- Ba năm nữa.
- Bằng gì?
- Phó tiến sĩ “giấy”.
- Bỏ ngang thế này thì bằng gì?
- Bằng cạo giấy.
- Thế còn bảnh hơn khối thằng!
Có viết sách chưa?
- Viết một cuốn “Đạo đức
Cộng Sản và Luân lý Việt Nam”.
- Mày muốn qua mặt Lưu Thiếu Kỳ
cơ à?
- Cái đách! Tao đưa cho anh Bảy
xem, ảnh bảo thẳng: “đem đi mà chúi đít”. Há há há! Tao tức cười quá!
- Tại sao?
- Tại vì tao đưa cho tụi bạn
Liên Xô coi, nó bảo là “độc đáo”.
- Hoá ra độc đáo của nó là đồ
chùi đít của mình à? Viết làm cái gì cho mệt.
- Không hẳn như vậy, nhưng cái
đó là tao làm bài thi nửa khóa.
- Mày viết bằng tiếng Liên Xô
à?
- Viết bằng tiếng Việt rồi đưa
cho ban thông dịch của đại sứ quán ta dịch ra.
- À nè, mày có quen với ông Sáu
Ú không?
- Ông đầu bếp của anh Mười Kỉnh
đại sứ hay Ú nào?
- Ở toàn cõi Việt Nam có một Ú
đó thôi chứ còn ông nào nữa?
- Để làm gì?
- Hồi đó tao có cô bạn đi Liên
Xô nhờ vay tiền của ổng mua được cái radio và một cái quạt tai tượng.
- Quyền hạn của ổng còn to hơn
anh Mười mình.
- Ổng sắp thay anh Mười à há
há…
- Bậy mậy! Thằng nào muốn gì
nói với ảnh đều được hết!
- Ổng sắp làm Chủ tịch Mặt Trận
Giải Phóng thay cho ông Thọ rồi đấy!
- Thiệt hả? Ai nói với mày?…Nếu
quả thật vậy thì đây là lần đầu tiên dân Nam Kỳ tập kết được ngồi ghế cao.
- Còn gì nữa, ông ta đi đúng
đường lối cổ điển của đảng mà.
- Đường lối gì?
- Bồi, Bếp! Ngày xưa Bác là bồi
tàu bây giờ là Chủ tịch nước, còn ông Sáu Ú là bếp của đại sứ quán ta ở Liên Xô
thì sẽ lên Chủ tịch Mặt Trận. Vậy chẳng đúng đường lối là gì? Bồi và Bếp là
thành phần cơ bản mà!
- Cái thằng phạm thượng quá
mậy!
- Đó là sự thực, tao có phạm
thượng phạm hạ gì đâu!
- Nằm gần đây có ai không? –
Thuần quét đèn pin chung quanh – Thằng nào nghe, nó báo cáo là đứt đầu.
Tôi cười:
- Những gì mình không nói được
ở Hà Nội, vô đây mình xổ ra cho núi đá nó nghe mày ạ. Chẳng lẽ mày để cho cái
miệng như con c…, chỉ làm được một nhiệm vụ là ăn thôi, còn nhiệm vụ kia là nói thì lại không làm được?
- Cái thằng!
- Tao không có được đi Liên Xô
học “duy vật biện chứng pháp” nên tao toàn nói “dương vật biện nứng bá láp” cho
sướng cái miệng, mày có nghe thì nghe, không nghe thì nhét lỗ tai lại.
- Cái thằng!
- Thằng gì? Thằng Ngốc! L’idiot
phải không?
- Thôi đi mày! Tao ớn mày quá!
- Mày gặp ông “Tiếng còi
trong sương đêm” còn ớn hơn nữa. “Bún-cà-ri” năm năm đấy!
- Chả quê ở đâu vậy?
- Sài Gồng! Cũng xa vợ có bằng
cấp hai mươi năm như mày, nhưng chưa được ai khen là thần thánh cả. Mày nên
chia nửa cái bằng cấp xa vợ của mày cho chả đem về treo cho vui cửa vui nhà.
- Thôi cha, tui không có nhận
đâu! – Hoàng lên tiếng và cười há há.
- Ê, cái bánh chè đỡ chưa?-
Thuần bắt chuyện sang Hoàng.
- Đỡ chớ! Nè về chi sớm vậy?
Hoàng hỏi.
- Ở bên đó thì quì hai gối
chống hai tay, về bên này cũng thế thôi, nhưng thực tế hơn.
- Về tới trong Nam thì còn thực
tế hơn nữa! – Hoàng tiếp – Nãy giờ tớ nằm nín he nghe cậu giảng “đạo đức” cho
“nhà dzăng” tớ ớn cậu quá!
- Ớn cái gì, đó là sự thật mà
ta!
- Ê, cho tui xin nghe! Các em
tóc vàng đâu có để cho cậu đỗ phó tiến sĩ đạo đức chậm vậy! Tui qua Bungari chỉ
vài tháng đầu là “đỗ” luôn hai ba cái! Há há há!
Cả ba cùng cười. Tôi thò đầu
qua võng Thuần:
- Nè, tốp đi! Có cô em gần kia
kìa!!
Thuần ngồi dậy:
- Thôi, để mình về coi ổng có
gọi gì không .
- Khoan đã. Tôi níu Thuần lại –
Để tao hỏi câu cuối cùng.
- Gì?
- Mày biết tụi tao đi còn mấy
tháng nữa không?
- Bố tao cũng không biết.
- Cho tụi tao đeo vè được
không?
- Thì tao đã mách kế hồi nãy
rồi đó! Cứ thế mà làm! Tao “nội ứng” cho!
Nói vậy rồi Thuần nhảy xuống
đất cuốn võng quảy lên vài rồi mằn mằn túi quần móc ra một vật gì đưa cho tôi.
- Biếu mầy bửu bối phòng thân.
- Gì vậy?
Thuần rọi đèn rồi tắt ngay:
- Một rúp chín mươi tám kô-péc
đó nghe mày!
- Mắc dữ vậy!
- Đồ của đế quốc mà!
- Liên Xô không sản xuất được
à?
- Được nhưng không bảo đảm bằng
của đế quốc. Với lại của đế quốc cải tiến hơn, mày mở ra xài rồi biết! Hơn nhau
chỉ chút xíu thôi!
- Sao mày đem thứ này vô đây
làm gì?
- Lúc nào tao cũng có một hộp
ba cái cất kỹ trong bóp, đề phòng xáp chiến thì có ngay.
- Mày có đem ba “cái đế quốc”
này vào luận án phó tiến sĩ của mày không?
- Chưa…
- Nhưng …
- Nhưn nhị gì – Thuần rỉ tai
tôi – Tao thấy mày có chất tươi đi bên cạnh, tao biết mày là thằng bén nhạy và
sáng tác ác lắm nên tao mới tặng mày để khỏi bị “tai nạn” dọc đường. Các em ở
bển kỹ lắm. Không có…, các “ẻm” không cho đâu.
- Tao hết xí quách rồi. Mã tấu
mài hoài không bén được.
- Ậy! Cũng có khi! Mày không
nhớ đồng chí Trường Chinh nói vấn đề Miền Nam ở hội nghị Văn Nghệ Thái Hà Ấp à?
“Chưa mưa nhưng ta vẫn phải mang dù theo. Chừng có mưa ta đã sẵn áo mưa”
vậy đó, hiểu chưa nhà “răng”?
Thuần đấm vai tôi một cái rõ
đau rồi đi.
Hoàng cười toé ra giữa bóng tối
như một trái phá con:
- Đúng là một phó tiến sĩ đạo
đức tương lai.
Tôi và Hoàng tán gẫu một hồi
thật khoái khẩu.
—>Chương 10
- 10 -
Nếu chặng đường đã bị đạp lùi
lại phía sau lưng là chặng đường của đôi chân thì con đường phía trước là con
đường của suy tư. Cái gì cũng bắt bộ óc làm việc. Thắc mắc, bất mãn, so sánh,
lý luận, vấn đáp, kết luận rồi lại kết luận. Nếu ở Hà Nội, người ta từng quen
sống với cái khuôn của cuộc sống với nếp nghĩ của báo Nhân Dân và cái vòng lẩn
quẩn của bánh xe đạp và mép bờ hồ méo méo tròn tròn thì vào đây đầu óc như được
núi rừng giải phóng hẳn. Cái gì cũng dám nói, cái gì cũng dám nghĩ, cả những điều
mà trước kia mình cho là rất bậy bạ cũng cứ nói phứa ra. Thì ra, cái lập trường
chỉ giữ được khi ta bị chăn dắt kỹ càng. Buông lỏng nó ra nó quay ngoạm ngược
lại kẻ đã tạo ra nó.
Đường này là đường cách mạng?
Đi chừng nào thì tới? Không tới thì sao? Quê hương, cha mẹ, người yêu, lập
trường, thành tích, thâm niên, sáng tác, dĩ vãng, tương lai… tất cả tâm tư trở
thành một món xà bần vĩ đại sau đám giỗ. Món ngon nhất là thịt kho tàu, món dở
nhất là chuối chát, món trung bình là cá nướng, tất cả còn lại đều trút vài cái
trả to, tất cả đều trở thành một món “kho” có cái tên là xà bần.
Tư tưởng con người vượt Trường
Sơn ỏ những chặng vừa qua là quyết phấn đấu giải phóng Miền Nam. Sau trên một
tháng ý chí phấn đấu đó bị đá tai mèo cạp, bị muỗi đòn xóc hút, nay chỉ còn lại
một cục bất mãn bao quanh bởi một lớp mây suy tư cho có vẻ triết học để tự lừa
mình: Mình đang phấn đấu đây! Sự thực thì mình đang rũ xuống.
Có tiếng người khá hách dịch:
- Có ông nào là nhà văn nằm ở
đây không?
- Tôi đây – Nghe cái giọng khá quan
trọng tôi đáp ngay.
- Anh Sáu cho mời ông lại gặp.
Nhanh nhé! – Rồi tôi nghe bước chân đi trở lại.
Tôi mọc ốc đầy người. Anh Sáu
mời! Làm gì quan trọng đến thế. Cái thằng nhà văn này mười năm nay không được
ai mời thỉnh cả. Cả mấy nàng mậu dịch cũng không mời, chỉ hất mặt như hỏi “ông
cần gì?”. Nếu ông không cần gì thì đừng tới đây! Chỉ có các cô hàng bán xôi cá
thể hay mấy bà bán bún riêu vỉa hè quen mặt biết tôi là “ông nhà báo” thì còn
lễ độ chào mời. Hay bà chủ nhiệm hợp tác xã cơm tháng mà tôi giao cả cái bìa
phiếu cho bà muốn bán buôn đổi chác làm gì thì làm – thì cũng còn biết trọng
vọng tôi, ngoài ra…!! Làm gì có đến một ông lớn – mà là một ông mặt rằn trong
các ông mặt rằn to nhất Hà Nội mời?
Bỏ mẹ rồi! Cái thằng Thuần là
tên “gián điệp hai mặt”. Nó đến giả đò bất mãn nói nhảm để moi ruột mình rồi về
báo cáo cấp trên. Thằng tệ thật. Không khéo mình bị gởi trả lại Miền Bắc thì
chịu thêm luôn mười năm mưa phùn gió bấc nữa!
Tôi đến thì thấy anh Sáu đang
nằm. Anh bấm đèn pin rọi vào một hòn đá rồi nói:
- Anh ngồi đó nghe! Xin lỗi tôi
mệt quá. Giải quyết bao nhiêu công việc suốt ngày hôm qua với các đồng chí chỉ
huy đơn vị… Này, anh cho tôi biết vấn đề B quay và vấn đề lính mình làm thổ
phỉ, tự sát thương có thật không? Anh cho tôi biết sự thực với con mắt quan sát
của anh.
- Dạ… – Tôi ngập ngừng.
- Anh cứ nói đi. Không việc gì
đến anh cả. Anh là nhà văn anh đi trên con đường này đã hơn một tháng rồi. Anh
có thấy những hiện tượng đó thật không?
- Dạ cái đó thì…
- Tôi đã bảo anh là anh cứ nói
thật. Đảng cần biết sự thực. Tôi đã gạn hỏi các trưởng đơn vị nhưng họ chỉ nói
là mặc dù đói la liệt nhưng chiến sĩ vẫn giữ kỷ luật rất nghiêm minh của quân
đội cách mạng. Tôi có hỏi vấn đề thổ phỉ và B quay thì họ nói đó là lời đồn
thôi. Tôi hỏi sang vấn đề quân số thì anh nào cũng nói là trừ số lính bệnh, thì
không có ai đào ngũ cả. Anh thấy thế nào? Các anh đã nói đi hôm qua, nay đều
nói lại hết!
- Dạ, những điều đó tôi chắc là
…không có.
- Anh có chắc thật không?
- Dạ ít nhất là tôi không thấy
ai sát thưong hoặc ai làm B quay cả!
Tôi mà không thấy thực ư? Có
chắc như thế không hở cái thằng TÔI – NHÀ VĂN. Trời ơi! Tôi nói láo sao mà tài
thế. Tôi nói xong, tôi giật mình vì không ngờ mình nói láo tài hơn viết văn. Mà
đúng ra không phải Trời cho tôi hoặc tôi bẩm sinh mà chính là đảng đã dạy tôi
cách nói đó. Cái trắng nói đen, cái đen nói trắng.
Tôi đã từng thấy lính chết trên
võng mắc tận ngọn cây, tôi đã từng thấy xương rũ trong hốc đá, từng thấy những
anh B quay trộm heo của trạm làm thịt và bị trạm bắt quả tang, tôi đã từng thấy
những vụ cầm nhầm của nhau từ quai dép đến bi-đông, tôi cũng đã nói chuyện với
một tên thổ phỉ là em trai của Thu trên đường này. Cớ sao tôi không dám nói cho
ông Mặt Sắt nghe chứ ?
Bởi vì tôi đã kinh nghiệm bản
thân rồi. Đảng chỉ thích nghe tung hô vạn tuế. Đảng chỉ thích nghe vỗ tay hoan
nghênh. Đảng không có muốn ai chỉ trích phê bình những sai lầm của đảng ngoại
trừ những sai lầm đó đã tầy uầy ra không bụm laị được, bởi vì đảng lấy“Phê
bình tự phê bình làm qui luật tiến bộ” nhưng
cái qui luật ấy chỉ được đảng dùng như cái roi để quất vô mặt ai khác chứ không
ai được dùng cái roi ấy chạm khẽ tới lông chân của đảng.
Do đó mà những thằng ngu nhất
cũng không nói sự thực cho đảng nghe, mà nó nói theo kiểu đảng muốn nghe: đảng
là thần thánh.
Ở Thái Hà Ấp, trong cuộc học
tập chỉnh huấn đấu Nhân Văn, có một anh nhà văn, nhà văn Nam Kỳ Đoàn Giỏi đã
phát biểu về tình hình thống nhất nước nhà một cách chân thành như sau: “Tại
mình tham lam quá, cái gì cũng muốn quơ cả, chứ nếu mình trung lập như thằng Sia-núc
thì có phải dễ dàng hơn không?) (Anh
là bạn học với Sihanouk ở Chasseloup Laubat hay trường nào đó, tôi không nhớ).
Chỉ vì một câu nói đó thôi mà anh bị kiểm thảo trần ai lai khổ. Bị chụp cho một
lô mũ chồng cao tới nóc nhà.
Nhưng trời lại dun rủi làm sao
mà sau đó, Trung Ương lại sáng mắt ra (chẳng lẽ nhờ câu nói ấy) đảng lại chủ
trương “Hoà bình trung lập thống nhất đất nước”. Cái khẩu hiệu chiến lược này
được kẻ dọc bờ tường từ Câu Lạc Bộ Thống Nhất cặp theo bờ hồ đến gần tới Nhà
Thủy Tạ, chữ nào chữ ấy to hơn người và bề dài của nó phải đạp xe mười bốn phút
năm mươi chín sơ-gồng mới hết.
Vậy mà đảng đâu có lời gì xin
lỗi cho mát lòng mát dạ nhà văn. Cho nên sự nói láo thượng cấp của tôi kể ra
cũng lô-gích lắm vậy.
Ông Mặt Sắt phàn nàn:
- Tôi chỉ nhìn thấy đoàn hôm
qua hạ trại mà tôi phỏng đoán là các đồng chí ấy đã không nói sự thực.
- Dạ nếu họ không nói sự thực
thì sự thực đó đã không có gì đáng nói thưa anh!
- Không phải thế đâu! Chẳng có
con voi nào nằm im trong thúng được!
Anh Sáu lặng thinh.
Tôi càng giữ sự im lặng cho
chắc chắn. Tôi muốn ghì giữ tôi lại chớ có lạc lòng mà nói tung hê ra. Chưa
chắc được cái giống gì! Chỉ chuốc hoạ vào thân thôi. Nhân Văn Giai Phẩm há
chẳng nói sự thực về Cải cách ruộng đất hay sao? Đảng đâu có chịu nghe. Đã bảo
đảng thích ngọt mật mà! Thằng Phùng Quán chết lên chết xuống vì cái bài thơ Lời Mẹ Dặn. Nó chỉ viết : “Yêu
ai cứ nói là yêu. Ghét ai cứ nói là ghét!” Thế mà các hợp tác xã đã từ chối không
dám nấu cơm cho nó ăn. (Không phải vì ghét nó mà chính vì sợ liên lụy với một
anh nhà văn có tư tưởng Nhân Văn)
Cái sự đời xã nghĩa không mấy
gì đơn giản như người ta tưởng ngay cả trong việc nói lên sự thực cho đảng nghe
với lời yêu cầu của đảng.
Tôi còn biết một sự thực rất ác
hơn cũng trên con đường này. Cách đây vài trạm trên đường rẽ xuống Bác Kế, tôi
được thấy một cái giấy bán đất. Người bán hiện đang ở Hà Nội, người mua đất
đang trên đường về Nam. Tiền mua đất được chồng ở Hà Nội nhưng người về Nam có
đến khu V thì mới nhận đất, nếu chết dọc đường thì sao?… Không ai biết được. Vì
khi tôi thấy tờ giấy bán đất đó thì người cầm giấy còn sống và sắp về tới nơi!
Nếu sự kiện này được nêu ra ở
Hà Nội thì toàn đảng sẽ ngồi cụp xương sống mà học tập cái “tư tưởng bóc
lột phản động của địa chủ, tư bản” này, nhưng ở đây không ai phát hiện ra
nổi. Và người mua đất đó là một huyện ủy viên.
Tôi không ngần ngại gì mà giấu
luôn cái chuyện đó với đồng chí Trưởng ban Công Tác Nông Thôn của Trung ương
đảng, tác giả “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa“.
Sau khi thấy thái độ “chân thành”
của tôi, anh Sáu bèn hỏi sang chuyện khác:
- Bao giờ các anh lên đường?
- Dạ cô diễn viên ca múa còn
yếu chân quá!
- Không đi được à?
- Dạ cô ấy cứ lấy nước mắt thay
chân.
- Nghĩa là sao?
- Dạ, thấy cô khóc, anh em
chiến sĩ mỗi người mang ba-lô dùm một quãng.
- Chỉ vậy thôi à?
- Dạ đối với chúng tôi lúc này
một tờ giấy cũng nặng như núi.
- Thôi được. Nghỉ vài hôm đã,
rồi tôi cho người mang ba-lô cho cô ấy. Được không?
- Dạ nếu được thế thì cô ấy
phấn khởi lắm
- Thôi, anh về nghỉ đi, sáng
mai tôi bảo bác sĩ tới trị tiếp cái chân cô ấy và cái đầu gối của anh nhạc sĩ.
Hãy yên tâm. Mọi việc trên đường dây rồi phải khá lên. Như thế này thì không
thể được! Hai tàu gạo, ác quá!
- Dạ, cám ơn anh Sáu.
Tôi lững thững đi về như đi
trong mơ!
Hai tàu gạo, anh Sáu nhắc lại,
tôi nghe cũng xót xa lắm. Gạo đó đáng lẽ đắp đầu gối nay lại trút cả vào mồm Bà
Thủy.
Tôi về đến lều thì quơ đúng cái
gà-mèn trên đầu võng. Nó còn âm ấm.
Tôi cầm lấy giỡ nắp ra. Mùi
hương bốc lên bát ngát như một thứ tiên dược tôi chưa được biết bao giờ: sữa!
Thu và nhạc sĩ đã làm thịt hộp
sữa. Tôi nâng lên miệng nốc mấy hơi liền, tưởng mình bay bổng thành tiên. Sữa
xuống cổ họng chạy vào dạ dày mát như nước sông chảy vào ruộng hạn. Bao nhiêu
đất cằn cỏ khô đều vươn ngóc dậy, tôi nghe từng sớ thịt tươi lên, đầu óc sáng
sủa lạ lùng.
- Anh về đấy à?
- Ừ!
- Có gì lạ không?
- Sẽ có người giúp em đi đến
nơi.
Tôi sang lều Thu, ngồi phệch ở
cái rễ cây đầu võng, thủ thỉ:
- May quá! Nếu không gặp anh
Sáu anh không biết em sẽ làm sao mà đi.
- Em được sự săn sóc của bác sĩ
tự nhiên em thấy những ý nghĩ trước đây của em tiêu tán hết.
- Em thấy phấn khởi cách mạng
trở lại rồi hả?
- Anh lại ngạo em rồi!
- Lần này em về luôn quê anh
nghe!
Thu lặng thinh. Tôi nghe hương
tóc Thu bay loáng thoáng như những mảnh lụa bé tí vô hình trong bóng đêm.
Một vài ánh lửa bếp của mấy anh
chiến sĩ nấu nướng muộn lập loè sau những bụi rậm làm cho không khí âm u của
rừng vỡ ra thành một tấm màn ma quái rùng rợn. Tôi bỗng thấy mình hoá thành một
thư sinh trong Liêu Trai, thân mình lâng lâng nhẹ nhỏm.
Tôi bước đến võng Thu, run run
giọng:
- Anh lạnh quá.
- Anh có thấy gà-mèn sữa không?
- Uống hết rồi! – Tôi vén màn
lên và chúi mũi vào tóc Thu, hai tay ôm quàng lấy cả chiếc võng. Tôi hôn, tôi
hít miên man.
Thu đẩy tôi ra nhưng tôi vẫn
ghì chặt, ôm nàng đầy tay tôi.
Sao bữa nay nàng thơm thế. Sao
bữa nay gương mặt nàng không hiện rõ trong bóng đêm mà tôi vẫn thấy đẹp thế?
Tôi không ngăn được tôi nữa. Tôi ngồi ghé lên mép võng làm hai cây cọc mắc võng
rung chuyển mạnh.
- Ây chết! – Thu vừa xô tôi ra
vừa kêu.
- Để anh lấy tí hơi ấm trong
em.
Tôi cứ ngồi lên võng. Tôi đã
quen mùi da thịt của Thu lâu rồi, nhưng mỗi lần gần nàng tôi vẫn thấy rụt rè
hồi hộp như mới lần đầu.
Cái võng đã từng là chiếc
thuyền không bến đưa tôi và Phương lên những khoảng không của vũ trụ, ru hồn
hai đứa lạc vào những rừng tinh tú không tên. Chiếc võng là cái lá trong chuyện
thần thoại nào mà người đời chưa biết. Mỗi lần tôi ngồi lên võng Thu tôi lại
nhớ đến Phương. Một chiếc võng nhỏ bé mong manh nhưng chứa chan hạnh phúc, nặng
trĩu những nguồn tình.
Chiếc võng của Thu khua xào xạc
khi tôi ngả người lên, một nửa người tôi đè lên tấm thân bát ngát của nàng. Tất
cả dây và võng đều chuyển mình tưởng đứt vỡ tung ra. Chiếc võng nằm một người
thì thơ mộng biết bao nhiêu. Hai người nằm chung thì càng thơ nhưng lại khó
mộng. Nó chập chờn, lắc lư như con thuyền nhỏ cỡi trên đầu sóng to. Một tí cử
động cũng làm như cả lều trại sắp đổ ụp.
- Thôi anh ạ! Anh không nhớ à?
- Nhớ em lắm chứ.
- Em ở đây mà nhớ gì! Anh phải
nhớ người ở xa mới phải!
- Dù có nhớ mấy cũng không làm
gì. Anh nói thật với em nhé. Nhưng em phải hứa.
- Hứa gì?
- Hứa là đừng chê anh.
- Chê gì?
- Phương đã muốn anh và Phương
có một kỷ niệm cụ thể hơn những cái hôn.
- Phương tỏ ý đó với anh hay
sao?
- Không tỏ ra nhưng anh đoán
thế.
- Anh chỉ phịa.
- Phương đưa cho anh đôi giày
hài nhi trắng như tuyết.
Thu thở dài. Không biết trời đã
khuya lắm chưa nhưng rừng đêm im bặt. Tiếng thở dài của Thu vang to, rõ mồn
một.
Tôi hỏi Thu:
- Em nghĩ gì?
- Em không nghĩ gì cả. Em đau khổ…
Nàng chưa thốt hết câu thì môi
tôi đã cắt ngang lời nói. Nàng vùng ra. Tôi thấy mình khoẻ hẳn lên. Sốt rét,
đau bao tử và các thứ bệnh nặng bệnh nhẹ đều tản đi hết. Tôi cũng không ngờ.
Trong giấc mơ trần tục của tôi
có một con suối ấm chảy qua, có một ngọn đồi phơn phớt cỏ xanh mát rượi và hai
quả đào chín treo lơ lửng trước môi tôi. Mùi thơm ngây ngất. Tôi không dám cắn
chỉ hưởng lấy mùi hương.
- Anh đi ngoài sương, không
khéo bị cảm cho coi. – Thu rủ rỉ.
- Không bị đâu! – Tôi vừa nói
vừa ngả nằm xuống.
- Gãy cọc mắc võng cho coi!
- Không sao đâu mà.
- Đứt võng.
- Hồi nãy không đứt, bây giờ
đứt gì mà đứt? – Tuy nói thế, hai tiếng “đứt võng” vẫn dựng lên trong tôi caí
hình ảnh lần trước hai ông bà làm tình vụng trên võng bị đứt võng, người con
gái rơi xuống đất, xương sống bị cấn một mũi đá nhọn bị thương nặng. Người đàn
ông bỏ trốn. Đến sáng khi giao liên đến dắt khách mới tìm thấy người con gái đã
hấp hối.
Hai tiếng “đứt võng” làm tôi
“ớn xương sống”, tôi bèn bảo Thu đưa đèn pin rọi dưới đít võng xem có đá hay
không. Chỉ có lá khô.
- Em đừng lo. Anh lấy làm hạnh
phúc được chết vì em hay chết chung với em.
Nàng tát mạnh vào mồm tôi:
- Nói gở.
- Thật mà ! Anh thấy ấm lắm Thu
ạ.
- Anh thiệt à! Cứ phí sức.
- Anh còn trèo núi như Fulro
vậy mà.
Chiếc võng bé quá mà cũng rộng
quá. Trời đất như run khe khẽ. Đầu núi nghiêng nghiêng như sắp đổ.
Một chập.
Thu phàn nàn:
- Cái ông đạo đức học đến thăm
anh làm gì?
- May nhờ nó, em không phải lo!
- Lo gì?
- Lo chuyện nọ chuyện kia cho
em chứ chuyện gì.
- Chuyện nọ chuyện kia là
chuyện gì?
- Những chuyện em không thể
biết mà cũng không nên biết.
- Em nghe hết cả rồi.
- Vậy sao còn hỏi?
Thu lặng thinh.
Con người kể cũng không khó
nuôi hơn con lợn là mấy. Chỉ có tí sữa loãng mà đã làm cho sức khoẻ vượng lên
trông thấy. Chẳng khác gì uống cao đại sâm nhung hổ cốt của Thái Thượng Lão
Quân bào chế cho các tiên ông tiên bà ăn tiệc trên Thiên đình.
Một buổi trưa, tôi đang đi quơ
củi để chuẩn bị cơm chiều thì tôi gặp thằng bạn nhạc trưởng. Tất cả đoàn đến
đây đều được lệnh của anh Sáu dừng lại để chỉnh đốn tổ chức. Còn văn công thì
phải chữa lại cái màn hoạt cảnh lính bắn vào chân thành ra lính chỉ bất mãn
chung chung thôi. Nếu để như cũ thì chẳng khác nào xúi giục lính bắt chước. Hơn
nữa, một anh lính đã liều đến mức đó rồi và đã về tới ngoài Bắc rồi thì không
ai có thể giác ngộ cho anh ta trở vào đây nữa hoặc có giác ngộ thì không thể
chỉ trong một sớm một chiều như đã diễn ra trong hoạt cảnh.
Do đó đoàn Văn Công có cơ hội
ăn hút. Thanh Cao (gã nhạc trưởng) nói:
- Con Nguyệt nó muốn gặp mày
ghê lắm.
- Sao cô ta biết tao ở đây?
- Nó thấy mầy chớ sao! Nó đóng
vai con tẻng người yêu của thằng mắc dịch bắn vào chân đó. Nó bảo nó trông thấy
mầy nó mất tinh thần, nó diễn không nổi nữa.
- Đếch họ. Cô ta có thằng Ba Ke
nào đó “kèm” chặt mà!
- Đó là chuyện xưa rồi. Bây giờ
nó đã trống chân! – Thanh Cao tiếp – Nó than với tao ghê lắm.
Hai đứa tìm cái bóng mát ngồi
nói chuyện. Cao tiếp:
- Nó nói nó nghĩ tầm bậy về
giai cấp. Lúc cải cách nó bị truy kích dữ quá nên nó bấn xúc xích nó phăng teo
hết thảy mọi quan hệ bất cứ với ai, cho khoẻ cái thân. Kể cả chị ruột của nó,
nó cũng không tới lui. Còn mày, nó biết mày đi kháng chiến từ 45 nhưng thành
phần của mày lại không “hẩu”. Cả hai đứa cùng loài “đụ chỉa” cả nếu yêu nhau
thì nặng chình chịch cất đầu lên không nổi. Hơn nữa, tổ chức đâu dễ gì chấp
nhận cho hai bên lấy nhau.
Tôi phát cáu:
- Vậy sao sau đó có thằng đáp
vào mà tổ chức lại “giúp đỡ” nghĩa là sao?
- Thì mày còn lạ gì nữa chứ!
Phép vua thua lệ làng, trâu buộc ghét trâu ăn. Cái thằng đáp vô này là thằng
trung đoàn trưởng, tuổi đáng bố tụi mình nhưng nó là “loại chưn xanh mắt ếch”
mày rõ chưa? Thời nào cũng có Ông Trượng – Tiên Bửu cả… chứ không phải chỉ thời
xưa mới có. Tình ca bây giờ đâu có dệt bằng “tơ lòng” mà xây dựng trên lập trường.-
Cao tiếp – Thằng trưởng đoàn văn công được thằng trung đoàn trưởng đãi trà buổi
sáng, đãi rượu buổi chiều. Ăn xôi chùa thì phải mở miệng. Cho nên nó xây dựng
con Nguyệt cho thằng kia. Mày không nhớ vụ con Thu Hồng ở Ông Dèo gần Hoả Lựu
nhà tao à? Lão Tư lệnh Lé đá thằng Sơn Lâm một cú nhẹ nhàng và quơ nàng Hồng bỏ
xuống ghe bốn chèo cái một. Thằng Sơn Lâm tức giận chửi địt mẹ cách mạng rồi au
revoir kháng chiến hồi 1950 mày nhớ không?
- Nhưng tên Lé là Tư lệnh cho
cũng được đi, còn thằng trung đoàn truởng thì nước mẹ gì kia chứ?
- Nó không nước mẹ gì, nhưng
thằng trưởng đoàn cứ rù rì rủ rỉ mãi rồi con Nguyệt thấy “giày cộp” và súng
ngắn cũng oai. Hơn nữa nó lại có xe đạp riêng. Muốn đi Thanh Hoá chơi là nó đèo
khỏi phải ngồi xe cây đau đít.
- Thì cứ mà ngồi xe đạp và
khoái súng ngắn! Tao có ý kiến gì đâu!
Cao nói:
- Nhưng con nhỏ bị trong đoàn
chế diễu quá xá nên chưa cắn câu đã cho thằng trung tá sụt cà lui té xuống Nông
giang luôn.
- Thôi bỏ đi mày ơi! Tao chẳng
thiết gì tới nàng ta nữa đâu! – Tôi gạt ngang – Nói chuyện bá láp nghe còn mát
lỗ tai hơn.
Cao cười:
- Thì đây cũng là chuyện bá láp
chớ chuyện hay ho gì! Nhưng chưa hết đâu. Sau khi hạ màn trung tá, tới lớp Ba
Ke. Thằng Ba Ke này ở ngoài Tổng Cục đưa vào. Tao đang phụ trách đoàn, nó vào
tự nhiên được bổ nhiệm thay tao để tao đi học ngoài Hà Nội. Thôi cũng được. Cái
nghề này tao cũng chán thấy mẹ rồi… Đọ, nó vào hôm trước hôm sau đã “biểu diễn”
một màn “chỉ huy đồng ca”. Chả là nó có đi học Trung Quốc mà. Thế là nó để ý
con Nguyệt. Con Nguyệt là biên đạo vũ nên có cơ hội học tập ở nó. Rồi đó hai
bên thân nhau đến mức độ trong đoàn phải “ách” lại. Rồi có thêm đề tài “Rau
muống mà cấy ruộng Nam. Ba năm chết héo biết làm sao đây“. Con Nguyệt tự
ái đá luôn phát thứ hai. Lúc đó tao đi học Hà Nội đã về. Tao xin chuyển ngành.
Cởi áo lính, trở ra Hà Nội. Kỳ đó tao gặp mày, tao “tường thuật” cả cho mày
nghe, nhớ không? Và có nói là con Nguyệt nó đang ân hận về cái lập trường kênh
gân của nó, nó muốn gặp mày nhưng mày phớt lờ đi. Thiếu chi con “ghé” Hà Nội mà
phải lụy vào một cái nơi bầm dập như vậy chứ!
- Thì tao có lụy đâu. Tao có lo
ế đâu mà!
- Để tao nói nốt. Có lần nó ra
Hà Nội, nó nhờ tao tìm mày dùm. Nhưng tao bảo là tao không biết chỗ ở của mày.
Nó rầu lắm. Kể từ đó không có “chưn xanh mắt ếch” hoặc Ba Ke Bốn Ke nào vô được
mà tụi trong đoàn thì lại chẳng thằng đực rựa nào sánh được với
“nhà…à…dă..ăng”. – Cao dịu giọng – Thôi chín bỏ làm mười đi mày ạ. Cột kèo cũ
coi vậy chớ vẫn hay hơn cái mới. Để nó âu sầu hoài, kể cũng tội nghiệp.
- Thôi đi mày ơi! Tao bây giờ
lo đi “rải” phóng Miền Nam, chuyện lăng nhăng xin gác lại hết.
Cao cười hềnh hệch:
- Tàng hoài cha nội!! Vậy còn
ngôi sao nào lấp lánh bên hông mày đó.
- Nó đi cùng đoàn với tao.
- Tao biết con nhỏ mà. Nó múa
ba-lê cho đoàn Múa Trung ương chớ gì.
- Rồi sao?
- Thì đâu có sao, nhưng mà rau
muống vô trong mình “trọ trẹ” nghe mệt lỗ tai lắm mày ơi. Các “via” nhà mình
không “đắc co” cho đâu.
- Tao có gì mà phải “đắc co”.
- Mày là con quỉ mà! Tao không
biết ư. Hở hở ra là bị mày. Láng cháng là mày yêu thôi. Đi như thế với mày, đố
khỏi!
Hai đứa làm thinh. Một chập Cao
nói:
- Nó muốn gặp mày được không?
Tùy ý, tao không ép. Nhưng nó nhờ tao. Đây là lần thứ hai. Mày nên an ủi nó
chút.
Tôi thở dài:
- Để về tới trỏng hãy tính.
- Mày dìa chớ “nàng” có dìa đâu
mà tính.
- Vậy khỏi tính.
- Cái thằng ba trợn quá mậy!
Chán mày quá!
- Ừ, chính tao cũng chán tao
nữa là ai! – Tôi quơ ba que củi đứng dậy – Thôi đi về đằng chòi tao nấu nước
trộm uống trà nói dóc. Trời nắng, củi khô, ít khói.
Thế là hai thằng kéo đi về lều
của tôi. Trời nắng như thiêu. Mặc dù ngồi trong bóng mát mà mồ hôi vẫn đổ ròng
ròng mồm thở như gà toi, há cả mồm ra mà không đủ.
Hoàng Việt và Thanh Cao cũng
biết nhau từ lâu trong kháng chiến ở Miền Tây. Thấy Cao tới, Hoàng reo lên:
- Còn kí-nin đủ uống không chú
em?
- Anh “rơ” cái bánh chè hả? Hừ
hừ, tháo nó ra, gởi qua Bungari cho người anh em vô dầu mỡ rồi gởi trả về ráp
lại mấy hồi.
Ba thằng ngồi dụm đâu uống trà
nhu ba ông táo.
- Nè! Anh Bảy! – Cao gợi chuyện
– Anh có gởi thơ về cho chị Bảy thường xuyên không?
- Mỗi năm 2 chiếc. Đi đường
“Pa-Ghi” dô Sài Gòng.
- Hôn trên giấy rách hết cả
giấy hả?
- Còn chú mày tài gì hơn tao?
- Hà hà… Mười năm chưa có cái
nào! Phải được hai chiếc một năm cũng đỡ khổ.
Trong những thằng bạn tôi đi
tập kết có hai thằng tôi cho là gan cùng mình. Cả hai đều là nhạc sĩ nổi tiếng
cả. Một là nhạc sĩ Hoàng Lưu. Con nhà giàu, con một của gia đình. Lưu vừa cưới
vợ được hai tháng là bỏ vợ đi ra Bắc. Không tin tức gì cả. Làm ở đài phát thanh
với tôi. Đau gan, ở một mình, trong một cái hang không có số nhà. Nửa đêm bị
chảy máu nội tạng. Hai ngày sau cơ quan đến đập cửa (vì tìm mãi không biết Lưu
ở đâu), Lưu đã chết cứng.
Thằng thứ hai là Thanh Cao. Vợ
là tiểu thư đài các, học trường đầm về quê ở Cái Đuốc Lớn (Cần Thơ) ở với ông
ngoại là đại phú hộ trong vùng ai cũng biết danh. Chị tên Tuyết Hoa. Con trai
nhà giàu đi hỏi rất đông lại không ưng. Gia đình gả ép. Đêm động phòng chị bỏ
đi theo chàng nhạc sĩ nghèo rớt mồng tơi không có xu dính túi. Nhưng gia đình
cưng con cháu nên đem cây gỗ cất nhà cho chị và Thanh Cao ở với nhau. Nhà trên
bờ kinh Hoả Lựu. Chúng tôi về nghỉ ngơi ở đây luôn và nhờ sự tiếp tế của ông
ngoại vợ mà vợ chồng Thanh Cao sống rất đầy đủ và hạnh phúc. Cao bảo vợ gọi cô
em gái đang học ở trường đầm trên Sàigòn về để “làm cột chèo” vói tôi cho đủ
cặp. Nhưng không hiểu sao hồi đó tôi lại lơ là không quyết tâm, hơn nữa, coi vợ
con là một sự vướng bận làm cho mình không tung cánh được. Còn mê kháng chiến
quá mà. Tuổi xanh như lúa
mai! Đời thanh niên sáng tươi! -
Không muốn ai ràng buộc! Cho nên tôi đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.
Khi đình chiến Cao đã có hai
trai. Hai cháu bé thật xinh đẹp, bụ bẩm. Chị Hoa có đưa hai đứa bé xuống bến
Chắc Băng để từ giã chồng. Tôi thấy chuyện chồng đi vợ ở lại có hai năm, ăn
thua gì. Cả ngàn người như thế, không phải một mình Cao. Ra Hà Nội, Cao đến tôi
chơi. Anh chàng mới ân hận.
Khi gặp tôi ở Trường Sơn thì
Cao đã bước đi bước nữa với một ca sĩ nào đó. Trước khi hai bên ở với nhau, Cao
có đến hỏi ý kiến của tôi, gần như xin thông cảm và muốn tôi gật đầu như một sự
“cho phép”. Nhưng tôi nhất định không đồng ý “Mày muốn làm gì tùy mày, nhưng
tao không chứng nhận vụ này. Về trong đó, nếu chị hỏi tao, tao nói tao không
biết.”
Cao ở liều với nàng ca sĩ. Và
tôi không lui tới nữa. Có đến ba bốn năm liền. Bây giờ gặp nhau ở đây. Cao nói
vụ cô Nguyệt với tôi nhưng cũng là để nói về tình duyên của chính mình.
Tôi biết Cao sẽ mở màn và lại
yêu cầu tôi thông cảm cho nên tôi nói trước:
- Mày coi anh Bảy cũng như mày,
ảnh có lăng nhăng gì đâu!
- Dề! Mày biết ảnh không lăng
nhăng bên Sophia hả?
- Nhưng đó là cỡi ngựa xem hoa.
Còn mày, mày làm thiệt.
Cao ngồi tự nhiên, bắp thịt má
giật giật. Hồi lâu mới nói:
- Sẵn có anh Bảy ở đây, tao xin
công khai hóa vấn đề.
Hoàng Việt xua tay:
- Thôi tao không có muốn làm
quan toà để về sau ăn chổi chà, cũng không muốn làm biện hộ sư để ăn đạp ăn đá.
Chuyện của mày mày làm mày biết và mày chịu lấy. Tao biết mày đã có con với cô
ca sĩ rồi, nhưng khu phố không chịu khai sinh phải không?
- Tôi không cần! Khai hay không
nó cũng là con tôi, tôi nuôi! – Cao nói tiếp – Nhưng hôm nay sẵn có bạn bè tôi
xin đưa ra một bức thư. -Vừa nói Cao vừa móc túi lấy ví và moi ra một bì thư. –
Đây mày đọc đi, Vũ.
Tôi tiếp lấy mở ra đọc. Đó là
bức thư của một người chú của Cao ở Sàigon gởi ra cho Cao. Và một bức thư của
chị Tuyết Hoa. Thư của chị Hoa viết rằng chị không thể sống cô đơn lâu hơn nữa
vì những khó khăn mà chị không vượt nổi. Cho nên chị đến nhà chú ruột của Cao
để trình bày (cha mẹ Cao đều qua đời khi Cao hãy còn bé) và xin phép chú đi lấy
chồng nuôi con. Lá thư của chú Cao viết:Chú đồng ý vì đàn bà không thể
không có chồng nhất là người đàn bà còn quá trẻ lại có hai con, v.v.. mà ngày
chồng về thì không có hạn. Vậy việc “cháu Tuyết Hoa tái giá trong lúc cháu vẫn
còn sống là điều có vẻ trái nghịch nhưng theo chú lại rất hợp lý…”
Tôi như thấy trời đất xoay vần.
Bản tình ca khởi đầu đẹp đẽ biết bao, đoạn giữa cũng phong phú biết bao! Nhưng
kết thúc lại vô cùng bi đát.
Tôi trao trả hai bức thư cho
Cao. Cao lặng lẽ đút vào túi.
Nước trà đang ngon bỗng nhiên
đắng lạ lùng. Cao rưng rưng nói:
- Tao không muốn cho mày biết
để mày khỏi buồn lây. Tao biết mày mến gia đình tao, thương mấy đứa nhỏ dữ lắm.
Sự đổ vỡ của đời chúng tao làm mày khổ. Do đó tao giấu biệt. Nếu trong lúc đó
(1959-60) tao cho mày coi hai bức thư này thì mày sẽ cho răng tao mạo ra để
dựng cớ mà làm càn. Bởi vì có rất nhiều đứa “lập hồ sơ giả” để xin tổ chức cưới
vợ. – Cao tiếp- Trong số bạn bè mình, có thằng đã chơi mững đó rồi.
- Thằng Duy! Bạn chúng mình! Nó
làm ở Bộ Công Nghiệp!
- Phải đó! Ba bốn năm liền nó
lặn mất tiêu không đến với tao.- Cao nói.
- Nó bịa một bức thư gởi từ
Paris. Nói rằng vợ nó đã lấy chồng. Nó cũng đem thư đến cho tao xem để tao
“thông cảm” nhưng tao nhìn ra ngay tuồng chữ của nó. Tao nói thẳng ra, không sợ
nó giận. Vì tao biết vợ chồng nó đã hục hặc với nhau hồi ở Rạch Ba Ngọn kia mà.
Nó muốn thôi mà vì Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh bắt gắt quá nó thôi không được. Khi nó
về cất nhà ở địa phương xong, nó bỏ vợ lăn lóc và đi lêu bêu, kháng chiến cà
nhõng với chức chánh trị viên đại đội hồi xưa. – Tôi nói để cho Hoàng Việt biết
một trường hợp lừa gạt của một ông cán bộ tập kết luôn. – Nó đã ăn ở với một
người đàn bà goá rồi nó mới đến thanh minh với tôi anh Bảy ạ! Thế đó! Hồi ở
trong Nam, chị Hằng, vợ nó than với tôi luôn. Chị ấy nói:”Anh Duy làm gì kỳ
quá! Ở với tôi nữa thì ở, không thì tôi cho ảnh tự do! Đã có hai mặt con rồi,
làm vậy chị em cười tôi chết. ” Khi chị sanh đứa bé thứ hai, một đứa con gái
rất đẹp, anh ta về nhà kiếm chuyện gây lộn rồi ẳm con bé lội qua rạch đi…
- … Hắn đi qua nhà tao ở Hỏa
Lựu và bảo vợ tao cho con bé bú dùm. Bà già vợ nó cho người đi tìm bắt đứa cháu
về!… Một thằng khùng!
Tôi tiếp:
- Nó không khùng đâu. Nó vặn
nài bẻ ổng như vậy là nó muốn nói gì đó chớ. Bởi vậy khi nó đưa “bức thơ Paris”
ra cho tao xem là tao gạt ngay.
Hoàng hỏi Cao:
- Rồi mày tính sao?
- Thì tính như vậy đó! Tính rồi
còn tính sao gì nữa!
- Không! Tính vụ vợ con mày ở
trong Nam kìa.
Cao thở dài:
- Bây giờ chúng nó đâu còn là
vợ con của tôi nữa anh Bảy!
- Tuy “lìa ngó ý còn vương tơ
lòng”. – Hoàng cười gượng gạo – Vợ tào khang đâu có bỏ được chú em! Anh Bảy đây
có chết bỏ xác dọc đường thì thôi chớ còn sống thì nhất định phải lết về tới
nơi thăm con mẹ xề bằng được.
- Trường hợp anh khác trường
hợp của tôi.
- Sao hồi đó không đem vợ con
đi?
- Thì tưởng hai năm về. Anh Bảy
ơi, tui đâu có dè cái sự đời nó thế này.
- Mày có định về không?
- Tôi ấy à? Xin về làm cái con
mẹ gì nữa chứ?
- Mắc gốc rau muống rồi phải
không?
- Không phải vậy đâu anh Bảy
ơi! Lỡ dỡ như thế này rồi, tôi không muốn về nữa. Tôi ở luôn ngoài này thôi!!!
- Thôi mà, đừng có nói lẩy .
Mày bỏ vợ chứ bỏ con được sao?
- Con không bỏ được mà vợ cũng
không bỏ được, nhưng hoàn cảnh nó thế… Tôi phải đành nhắm mắt đưa chân. Tới đâu
thì tới!
Cao uống thêm tí trà rồi nói
với tôi:
- Tao nhờ mày một chuyện.
- Chuyện gì?
- Mày đem thư về cho vợ tao
được không?
- Biết còn ở Hoả Lựu không?
- Nếu không thì mày hỏi bà con
lối xóm. Trong vườn dừa có nhiều bà con biết và mến chúng mình. Chắc chưa ai
quên mình đâu. Mày nhớ cái ông học đàn ghi-ta với tao không? Với ông Ba bên kia
rạch, mỗi lần mày về nhà tao mày hay sang đó ngủ để nghe ổng đàn bầu. Vợ tao đi
đâu bà con cũng biết mà.
- Ừ viết mau đi.
- Tao viết lâu rồi, nhưng không
gởi được! Với nhờ mày đem cái hình tao về cho mấy đứa nhỏ coi . Nói đây là
thằng cha khốn nạn của nó. Không biết tụi nó bao lớn rồi?
- Đứa mười hai , đứa mười tuổi.
- Không biết có học hành gì
không hay chăn trâu chăn bò?
- Ông bà nó giàu có thế mà…
- Còn khỉ mẹ gì. Bộ đội và cơ
quan ăn tàn mạt hết. Cô của vợ tao đã bỏ về thành hồi trước hoà bình. Phải hồi
đó mày chịu làm cột chèo với tao có hai đứa hủ hỉ với nhau đỡ khổ biết mấy.
Cao nói vậy rồi gục đầu khóc
mùi. Tôi hết biết nói sao. Cái thằng coi vậy mà yếu quá. Tôi không muốn nói gì
thêm.
Hồi lâu Cao hỏi:
- Mà mày định không gặp con
Nguyệt thiệt hả. Để tao trả lời dứt khoát cho nó kẻo nó chờ đợi hoài.
Tôi nói:
- Mày bảo cô ta là coi như tao
không có ở đây. Nào, đưa hình và thư đây. Tao hứa với mày là khi về tới nơi tao
sẽ tìm cách đến gặp vợ con mày.
(Nhưng khi về đến nơi tôi
không giữa được lời hứa. Không phải vì tôi là thằng bạn quen thói thất tín
nhưng vì không thể nào đi nổi xuống Miền Tây. Nếu đường đi suông sẻ thì tôi
cũng ráng tìm hiểu một sự thực để có thể sau này viết tiểu thuyết, nhưng khi về
R thì lại được phân công đi Bến Tre quê tôi. Từ Bến Tre mà xuống tới Cần Thơ
thì phải vượt qua không biết bao nhiêu sông và lộ mà hồi kháng chiến tôi đã
vượt và suýt chết không biết bao nhiêu lần rồi. Bây giờ xương đầu gối đã khô,
túi mật không còn đầy, một đoạn đường gian nan như vậy, tôi không thể đi nữa,
nhất là sau khi đã lội suốt Trường Sơn rồi… Trên đường về Bến Tre tôi có gặp
một đoàn về Miền Tây, tôi có nói rõ địa dư của vùng nhà chị Tuyết Hoa và nhờ
một anh bạn – nếu có dịp đi qua đó thì tìm đến trao thư và ảnh dùm. Không biết
kết quả thế nào. Nhưng khi hồi chánh về Sàigòn, tôi có lên Tivi nhắn tin. Tôi
tin chắc chị Tuyết Hoa có nghe…)
Cao nói:
- Để tao viết thêm ít hàng.
Chừng nào mày đi?
- Chừng nào có lệnh anh Sáu thì
đi. Ảnh đang cho vô từng đợt sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ.
- Được rồi! Tao sẽ đưa thơ cho
mày trước khi đi.
Cao đứng dậy ra về.
Trời nắng chang chang như lửa
xối xuống những ngọn cây rừng nhưng tim tôi nghe lạnh buốt.
Tôi trèo lên võng nằm lắc lư
cho cái không khí nặng nề chuyển động tan bớt đi sự ảm đạm do câu chuyện gây
nên.
Hoàng Việt cũng nằm thườn ra
thở dốc.
- Thế là tiêu tùng một cặp uyên
ương. Cũng vì tập kết mà ra cả. Còn một vài thằng nhạc sĩ nữa cũng đang treo
mõm ngoài Hà Nội. Lâu nay mày có gặp thằng Phạm Văn không?
- Chừng ba tháng trước khi vô
trường đi B.
- Nó còn khùng khùng nữa hết?
- Vẫn thế thôi!!
- Còn thằng Lưu Kiều?
- Thằng này thì lo buôn lậu đâu
có thiết gì tới vợ con.
- Còn thằng đại uý gì, rể ông
Mười Huệ?
- Tôi không quen nhiều, nhưng
thấy chiều thứ bảy nào nó cũng chở cô em vợ đi Bờ Hồ. Cô em thì ăn mặc bảnh
tẻng còn y thì áo quần nhổm nha.
- Còn thằng Quốc Hiên, mày có
nghe tin gì mới về nó không?
- Tin gì mới?
- Sau khi nó “cấy” con Lịch
Dzung ở xưởng phim rồi nó còn “ghép” con nào nữa không?
- Ồ, hắn đi học hát ở Hungari
mà anh không có liên lạc sao?
- Có nghe nó đi nhưng tao không
biết tin gì về nó cả.
Rồi Hoàng thở dài:
- Như mày vậy mà khoẻ! Có vợ có
con mệt lắm mày ơi!
- Không “hoạt” hai cái lỗ tai
được hả?
- Không phải chuyện đó đâu. Tao
nói nghiêm túc đấy. Mấy đứa con tao hồi tao đi tập kết thì đứa đã mười tuổi,
đứa bảy tuổi. Nay lớn lắm rồi. Mẹ nó chụp hình gởi cho tao, tao đâu có nhìn ra.
Mẹ kiếp, mình chống đế quốc mà đế quốc lại nuôi vợ con mình. Thế mới lạ!
- Đế quốc nào mà nuôi vợ con
anh?
- Thì mình đi hết chín năm, rồi
đi luôn mười năm nữa, bỏ vợ con lại Sàigòn. Vợ làm mướn, có tiền, nuôi con, còn
con thì đi học nay có đứa chắc đã đỗ tú tài. Đế quốc không nuôi là gì?
- Tụi Sàigòn nó không biết anh
đi tập kết à?
- Sao không biết, nhưng nó
không khó dễ gì. Bạn bè tao ở Sàigòn cùng chơi nhạc cho các “bar” ngày trước
thằng nào lại không biết tao đi kháng chiến, nữa là công an mật thám – Hoàng
Việt thở dài sườn sượt – Tao nghe chuyện thằng Cao mà tao ớn lòng. Tao không
hiểu nếu trường hợp của nó mà xảy ra cho tao thì không biết tao làm sao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét