Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 3

1      2      3      4      5 
- 11 -
Thấy Hoàng đau khổ lo âu thực sự, tôi không đùa nữa. Tôi cảm thấy buồn.
Thằng Lưu chết, vợ con không hay, gia đình không biết, mà chết ngay giữa thành phố Hà Nội. Riêng nhạc sĩ họ Phan thì tôi biết nhiều. Tôi và hắn rất tương đắc trong nhiều nhạc phẩm. Hắn làm nhạc bài nào cũng ném cho tôi làm lời, hoặc nhạc và lời của hắn thì hắn đưa cho tôi chữa tiếp.
Hắn có cô vợ Nhật Bổn lai đẹp lắm. Hồi ở trong Nam hai đứa được một cái giải thưởng hạng nhất về Âm Nhạc, hắn lãnh tiền chia cho tôi rồi về cất nhà ở Bạc Liêu chữa bệnh. Một lần gặp hắn ở Thái Bình, từ trong tiệm nước Chú Xồi đi ra. Hắn nói:
- Tao vừa làm xong một bài hay lắm!
Tôi nói ngay:
- Đưa tao làm lời kiếm một giải thưởng nữa ăn bánh bao với hủ tiếu Chú Xồi chơi.
Hắn xua tay:
- Mày không làm được .
- Bài gì mà dữ vậy??
- Rimifông tiến hành khúc!! Mày đâu có làm được!
Tôi hỏi:
- Ai bảo mày thế?
- Bác sĩ bảo phổi tao lủng hai ba lỗ rồi!
Khi ra Hà Nội hắn làm ở Đài Phát Thanh với tôi một lúc. Độ khoảng 1958, một buổi sáng, hắn lên gặp Ban Giám đốc Đài đòi giải thích cho hắn nghe: Tại sao Tổng tuyển cử hiệp thưong qua đã lâu mà không thấy nói gì? Ban Giám đốc – không rõ là ông nào, có lẽ Huỳnh Văn Tiểng – không biết cách nào làm cho hắn bớt nổi khùng, bèn bảo hắn chờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện cho toàn cơ quan nghe rồi đả thông tất cả. Nhưng hắn nổi khùng ngay nói tạt vào mặt Ban Giám đốc: “L..n vợ mấy ông là l…n người còn l…n vợ tôi là l…n bò. Các ông muốn tôi bỏ đi bao lâu cũng được!”. Rồi bất ngờ, hắn chụp lấy con dao rọc giấy trên bàn, vạch áo ra rạch sả ngực và cánh tay mặt của hắn. Rồi cứ để máu chảy ròng ròng ướt áo, hắn đi xuống phòng làm việc. Ai thấy cũng phải kinh tâm. Chỉ có mấy thằng Nam Kỳ …cục mới làm chuyện đó thôi.
Nhưng câu nói của hắn đã loan đi khắp Hà Nội. Nhất là ở Đài Phát Thanh ai cũng “ớn” ông nhạc sĩ “hăng xờ máu” này.
Ít hôm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện về tình hình Miền Nam và hiệp thương tổng tuyển cử. Có một anh cán bộ Nam Kỳ… cục đứng lên chất vấn thẳng thừng không ai bụm miệng kịp:
- Xin thủ tướng cho chúng tôi biết… vậy chớ tại sao hồi chúng tôi xuống tàu, Trung ương có hứa hai năm về, nay đã bốn năm rồi! Thủ tướng có thể cho chúng tôi biết là chừng nào chúng tôi về Nam được không?
Thủ tướng Phạm Văn Đồng giận dữ, đáp:
- Làm cách mạng chứ phải làm thầy bói hay sao mà nói rõ ngày tháng cách mạng thành công? – Rồi ông ngoe nguẩy bước xuống bục không nói nữa.
Tôi có dự cái buổi nói chuyện đó. Bị hỏi bất ngờ, thủ tướng lúng túng nên đáp lời không được “biện chứng” lắm. Điều đó làm cho Ban Giám đốc xanh mặt.
Sau khi thủ tướng ra về, Ban Giám đốc bèn mời ông cán kỳ cục lên văn phòng không rõ để làm gì, nhưng sau đó anh chàng biến đi đâu mất. Từ đó mỗi lần có ông lớn tới Đài Phát Thanh nói chuyện, Ban Giám đốc đả thông trước: ” Các đồng chí có thắc mắc vấn đề gì, xin cho Ban Giám đốc biết trước, chúng tôi sẽ ghi chép từng câu và bẩm lên đồng chí trả lời chung một lúc, không nên hỏi lẻ tẻ!”
Trước đó cũng có một vụ động trời làm cho Đài Phát thanh trở thành một cơ quan nổi tiếng bê bối nhất Hà Nội. Tác giả vụ động trời này chính là tôi.
Tôi đã viết về vụ ấy rải rác ở nhiều báo hải ngoại, lần này xin ghi lại đầy đủ nhất vì vụ đó có dính liền tới vụ vượt Trường Sơn của tôi ngót mười năm sau.
Số là hồi chuẩn bị xuống tàu tập kết, tôi được cho đi làm phóng viên của tờ Quân Đội Miền Tây để viết những bài tường thuật về sự đón tiếp nồng nhiệt dân Nam Bộ tập kết của nhân dân Miền Bắc và của Bác Đảng ở bến Sầm Sơn. Mỗi chuyến đi ra vào chừng hai tuần lễ. Trong thời gian qui định cho cuộc chuyển quân ở bến Chắc Băng là ba tháng, tôi có thể làm con thoi ra vào ít nhất là năm chuyến, viết năm bài động viên quân dân Miền Tây mạnh dạn rứt áo ra đi.

Không vương thê nhi

Ra Miền Bắc nước tuyết rét mướt.
Tôi ra tới Sầm Sơn đi tìm tài liệu xong, chuẩn bị theo tàu trở vô viết bài cho toà báo lúc bấy giờ còn đóng ở Chắc Băng và hãy còn in báo rào rào. Giữa lúc đó thì tôi bị ở trên giữ lại, với lý do: Không cần loạt bài ấy nữa.
Tôi chới với ngay vì cái “lệnh phản lệnh” bất ngờ ấy. Tôi buồn lắm. Vì hai lẽ: lẽ thứ nhất là hứa với bạn bè còn trong Nam sẽ nhậu một trận đái ra rượu, mửa tới mật xanh trước khi xuống tàu. Lẽ thứ hai là gặp một số người Nam vừa ra còn nằm ở Sầm Sơn đã tỏ ý chán nản do đó tôi hoang mang và trong đầu, nói nào ngay chưa có ý định ở hẳn lại không đi tập kết, nhưng đã manh nha cái ý định đó rồi. Bây giờ bị giữ lại thì hết phương cục cựa.
Sau này tôi mới đoán ra ý đồ của ở trên là sợ tôi trở về Chắc Băng nói tùm lum chuyện này chuyện nọ làm nản lòng ba quân.
Cái ý đinh manh nha ấy lớn dần khi tôi vào làm ở Nông trường Trình Môn tỉnh Nghệ An và khi tôi ra công tác ở Đài Phát thanh. Tôi cảm thấy tôi không thể nào sống nổi trên đất Bắc. Cho nên một buổi sáng kia, tôi lấy chiếc xe đạp nội hóa sơn màu vàng hiệu Alpha của cơ quan, tôi đạp thẳng một hơi ra trụ sở Ủy Ban Quốc tế ở đường Đinh Lê gần Bắc Bộ Phủ, cạnh đường Ngô Quyền.
Tôi dựng xe đạp vào cái chòi gác trong đó đang thòi ra một cái đầu đội mũ sao vàng.
- Đồng chí đi đâu đây? – Người lính hất hàm hỏi,
- Tôi muốn gặp Ủy Ban Quốc tế.
- Có việc gì ?
- Theo Hiệp đinh Giơ-ne thì trong vòng… tháng (tôi không nhớ rõ thời gian được ấn định này), người Nam lẫn người Bắc đều có quyền ra vào với sự giúp đỡ của Ủy Ban Quốc tế để định cư. Tôi muốn nhờ Ủy ban đưa tôi về Nam.
Người lính ngập ngừng một chốc rồi chồm qua cửa chòi gác ngó chiếc xe đạp. Xong, anh ta vui vẻ:
- Bữa nay… Ủy Ban đi vắng cả. Vậy phiền đồng chí trở về cơ quan. À mà quên, đồng chí làm ở cơ quan nào ?
- Đài Phát Thanh.
- Ờ, ờ, ờ, từ đó tới đây cũng gần. Vậy đồng chí trở lại ngày mai, sẽ có người tiếp mà… đồng chí muốn Gia Nã Đại, Ba Lan hay Ấn Độ?
- Ai cũng được miễn Ủy Ban Quốc Tế thì thôi. Chào đồng chí.
Tôi lên xe đạp về cơ quan một hơi yên chí lớn mình sẽ được gặp Ủy Ban Quốc Tế ngày mai. Thực tình, từ ngày ra Miền Bắc tôi thấy không thể sống được. Cái Miền Bắc Độc lập Tự do sao nó không Hạnh phúc một tí nào, Hạnh phúc. Đó là cái gì? – Cơm ăn áo mặc, nhưng không phải chỉ có thế. Còn Tự do nữa chứ. Tự do là cái gì? Tôi không biết nhưng tôi cảm thấy cuộc sống ở đây không thoải mái. Nó như thế nào ấy, không phải cái mà mình mơ ước khi khởi đầu kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra tôi còn nhớ nhà quá sức, không chịu nổi. Ở trong Nam tôi vẫn đi xa nhà – liên tục chín năm – nhưng tôi còn được thư từ, còn được nhắn nhe còn được biết cha mẹ tôi mạnh khỏe hay đau yếu thế nào. Còn ra đây bịt bùng bốn phía. Mà ngày về thì không có. Tương lai chỉ là một dấu hỏi không ai trả lời. Thế nên con đường lên Ủy Ban Quốc tế là con đường vừa nhanh vừa rẻ lại vừa hợp pháp.
Tôi vừa đạp xe về tới cổng Đài Phát Thanh ở số 52 Quán Sứ thi đụng một lô nào là trưởng phòng trưởng ban đứng giàn chào tôi.
- Đồng chí đi đâu đấy ?
- Tôi đi tìm đề tài.
- Đồng chí ra Ủy Ban Quốc Tế phải không?
Tôi thấy không thể chối được nên chịu thật.
Tôi phải lên Ban Giám đốc. Tôi vẫn nói thật không chối quanh một chút nào. Mọi người đều ngẩn ngơ. Tôi hơi sợ nhưng vẫn không nguy biện gì về việc làm của tôi cả. Và đến giờ phút này tôi mới hiểu ra là đồng chí gác cổng người anh em Ủy Ban Quốc Tế đã “giúp đỡ” tôi, báo cáo bằng điện thoại về Đài Phát Thanh.
Ngay chiều hôm đó, một cuộc họp mặt toàn cơ quan. Người đông đến nỗi không có đủ chỗ, phải đứng cả bên ngoài hành lang. Một cuộc kiểm thảo vĩ đại. Có sự chứng kiến của toàn ban Giám đốc Đài: Trần Lâm, Nguyễn Kim Cương, Huỳnh Văn Tiểng (hai ông Phó là dân từ Nam tập kết ra Bắc). Chủ tọa phiên họp là Nguyễn Thanh Đạm, Thư ký Công Đoàn của Đài.
Tôi giơ mặt ra chịu đấm. Nhưng thật bất ngờ. Chẳng có “cú đấm” nào cả. Chỉ toàn “cú vuốt.” Nghĩa là không ai nói mạnh hoặc sỉ vả chỉ trích lập trường quốc tế của tôi. Đúng ra đó là chủ trương của Ban Giám đốc. Các ông ấy không muốn làm mạnh, sợ tôi liều mạng. Dân Nam Cờ mà. Bất mãn rồi thì gì mà không dám làm. Ngoài ra cũng có thể là vì trước đây ít tuần có một anh bạn của tôi cũng làm ở Đài này đã chui bằng đường nào không biết mà qua Lào, xổng tuốt về Sài Gòn. Đài Phát thanh Sài Gòn la om lên… Anh ta nói với tôi: “Tao nhớ vợ quá, chịu hết nỗi rồi”. Ít hôm sau thấy anh ta mất tiêu. Sau nghe ra anh ta đi đường Nghệ An lên Đô Lương.
Do “năm bảy xôi nhồi thành một chõ” như thế nên tội của tôi đáng lẽ phải đi cải tạo mút mùa nhưng lại chẳng hề chi. Chỉ có một tiếng nói nặng của anh Phạm Tường Hạnh(bây giờ là nhà văn kêu rêu xã nghĩa to tiếng nhất nhì Sài Gòn), Hạnh nói rằng tôi “khờ khạo!” Thế thôi còn ngoài ra không ai nói gì kể cả các vị cò mồi được mớm trước cũng thun cổ… cò.
Nhưng như thế đâu đã yên thân cho cái thằng lên UBQT! Đâu vài hôm sau tôi lại được Ban Giám đốc mời. Ông Huỳnh Văn Tiểng, Phó Giám đốc Đài (bây giờ là tay tổ trong Câu lạc bộ Kháng chiến chống đảng kịch liệt ở Nam Kỳ Ha… ha… Té ra nhờ thời gian (ba mươi hai năm! Cũng hơi nhiều ! mà tôi được minh oan. Vì rằng tôi trốn chạy xã nghĩa hồi đó là phải lý lắm – trước ông Phó Giám đốc những ba mươi hai năm!). Ông Tiểng đưa cho tôi xem một tờ báo của Sài Gòn tường thuật về vụ lên UBQT của tôi với dòng chữ tít rất to – (Rất tiếc tôi không được ông Tiểng cho xem tên tờ báo mà chỉ cho tôi xem bài báo: “Xuân Vũ lên UBQT đòi về Sài Gòn – VC đã được và đày đi nông trường!” Tôi nhớ nhất là chữ ĐÀY!!
Bằng một giọng rất nhỏ nhẹ gần như vỗ về. (Đó cũng là cá tính của ông. Ông rất to con nhưng nói rất nhỏ và câu rất ngắn. Khi cười chỉ nhếch môi). Ông Tiểng nói với tôi:
- Trong Sài Gòn địch đã biết hết, vậy anh phải lên đài nói vào trong đó để đính chánh cho Miền Bắc.
Một bài đã được ai đâu viết sẵn đưa đến cho tôi. Đại ý “Tôi, Xuân Vũ không có lên UBQT cũng không có bị đày.” Bài này phát đi phát lại suốt tuần trên làn sóng phát vào Nam từ 10 đến 10:30 đêm.
Cái sự đời như vậy đó. Khổ một nỗi là Phan Văn, kẻ rạch ngực đâm tay bằng dao rọc giấy và tôi, kẻ lên UBQT là đồng tác giả của một bản nhạc (Niềm Thương Mến) được giải thưởng Cửu Long năm 1950-51 chi đó, cho nên vô tình chúng tôi lại đồng tác giả của một bản “Niềm Ai Oán” sáng tác giữa lòng Hà Nội xã nghĩa không được giải thưởng nào, nếu có chắc chắn là giải thưởng Hỏa Lò.
Gần mười năm sau khi tôi được gọi vào trường đi B, sau khi bị các thứ tổ chức duyệt lý lịch từ đời ông cố tới đời con tôi (lúc đó tôi chưa có vợ, nếu không con tôi sẽ liên lụy), tôi vẫn còn nơm nóp lo sợ cho cái “gáp” UBQT của tôi đã tưởng bị xóa nhòa bằng một trăm thứ công tác phóng viên do tôi đảm nhận để chuộc tội tổ tông – nào dè đến cửa ải chót để lọt qua cổng trường đi B, anh thẩm vấn viên “mác” Năm Eo còn cười mũi với tôi:
- Hồi năm 56… đồng chí có lên UBQT xin về Nam phải không?
Tôi giật nẩy người, ú ớ. Hắn tiếp:
- Nhưng mà đồng chí đã công tác tốt liên tục một thời gian dài, (Tôi hú vía) cho nên tổ chức mới gọi. Về trong đó đừng tái phạm nữa.
- Vâng ạ !
Thế là lọt. Nhưng sự huấn luyện còn kéo dài ba tháng. Trong vòng ba tháng đó biết đâu tôi sẽ chẳng bị thẩm vấn tiếp nữa? Tôi cũng khôn. Tôi bèn tìm cách gặp hắn. Chiều thứ bảy không ai được ra khỏi trường mặc dù là người Hà Nội đi nữa. Nhưng tôi được ra. Mà tôi lại được xe hơi của Ủy Ban Thống Nhất của Trung tướng Nguyễn Văn Vinh tới chở đi công tác đặc biệt do đồng chí Năm Eo kể trên (có lẽ là bà con của Võ Văn Mờ, em của Võ Văn Mịt bán đất quê nhà mà lấy tiền tại Hà Nội – xin xem Xương Trắng Trường Sơn). Đồng chí Năm Eo ngồi xe ra khỏi cổng để đưa tôi về tận nhà… công tác đặc biệt. Chả có cái đếch gì đặc biệt cả. Tôi “hiến” cho đồng chí tất cả đồ đạc của tôi mua sắm trong vòng mười năm ở đất Bắc (Trước đây tôi cho anh Kim Lân nhưng ảnh không nhận món nào hết cả trừ hai cái chậu sành xưa để trồng kiểng chơi) gồm giường, tủ áo, võng và vô số bút giấy đặc biệt có đôi giày da nâu tôi mới đóng. Hắn xỏ vào và đi luôn. Rất vừa! Rồi gói đôi dép cao su cặp nách.
Thế là xong. Xong tất. Tưởng vậy ai dè chưa. Một hôm hắn lại gọi tôi lên văn phòng để phụ nhĩ một vấn đề cơ mật. Tôi sợ quá. Tôi nghi là cho gà ăn xong, gà quẹt mở…nhưng không, đồng chí ta chưa đến đỗi tệ như gà. Hắn cho tôi xem hồ sơ khám sức khỏe và nói:
- Bác sĩ Việt Xô bảo đồng chí có áp huyết cao, không leo núi được.
- Vậy hả đồng chí !
- Thì đây nè, đồng chí đọc thử.
- Đồng chí “lo” dùm tôi được không?
- Được mà. Để tôi bảo nó. Cái thằng bác sĩ Tào cà thọt chân, nó là em út của tôi. Nó đến Ban Thống Nhất khám cho cán bộ đi B. Nó dưới quyền tôi mà.
Đồng chí nói vậy có lẽ là để cho tôi biết là mọi việc ra vào trường đi B này là phải qua tay đồng chí cả và để cho tôi hiểu rằng số đồ tôi “hiến” cho đồng chí để lọt vô đây không nhiều lắm đâu – Nhất là đối với một người chạy trốn Miền Bắc xã nghĩa mười năm trước như tôi thì bao nhiêu lại không dám hiến để đi cho lọt.
Quả thật tôi đã lọt và đã về tận đây rồi, nơi chỗ tôi gặp ông Mặt Sắt và vừa uống trà nói chuyện bất mãn Hà Nội mà không sợ ai báo cáo lên trên vì những người ngồi quanh bình trà đều bất mãn như tôi hoặc hơn tôi.
Câu chuyện lúc nãy tới đâu rồi nhỉ ?
À, tới chỗ nhạc sĩ Hoàng Lưu chết cứng trong hang không ai biết.
Lúc đó ai cũng bất mãn, ai cũng muốn về Nam. Không ai thiết tha với cái gọi là chủ nghĩa xã hội kỳ cục. Những anh chàng có vợ ở trong Nam thì ân hận nhưng không làm gì được, như ông bạn nhạc sĩ Phan Văn của tôi.
Sau vụ ăn vạ không ăn thua chi với Ban Giám đốc Đài Phát Thanh, tôi không thấy anh ta tới đây nữa. Một hôm gặp gặp anh ta đi xích lô chạy loong toong trên đường Tràng Thi, tôi ngoắc lại. Anh ta ngồi ôm một chiếc “contre basse” tổ bố. Đầu chải Tango ba tàu, quần áo trắng như tuyết. Giày cũng trắng. Kính trắng như thường lệ. Anh ta nheo mắt hỏi:
- Đi với tao không ?
- Đi đâu ?
- Hoà nhạc.
- Nhạc gì ?
- Nhảy! Rồi tiếp – Tao ra khỏi đài lâu rồi. Này mày xem tao mang giày gì đây?
- Giày Bata chợ trời chớ giày gì mậy!
Anh ta giơ chân lên, cười:
- Peau de daim nghe (da con mang).
- Giày gì dã man vậy ?
Anh ta cười khì khì:
- Nghèo quá. Kiếm ăn bữa đực bữa cái. Cho tao xin vài hào mua thuốc lá ! .
Nghèo lắm nhưng nể tình bạn cũ, tôi móc hào bạc cho người “đồng tác giả” năm xưa. Từ đó tới sau không gặp nữa. (Mãi đến khi tới về Sài Gòn nghe anh em hồi chánh sau tôi cho biết Phan Văn cũng đã vô tới R. Tôi nghĩ: Đó là người Nam Kỳ cuối cùng trên đất Bắc được về quê bằng đường rừng. Nhưng tiếc thay chúng tôi không làm sao đứng chung tên cho một bản hát nào nữa. Nó mà “được” đi Nam, thì đúng là chuyến tàu vét.)
Đúng như ông Mặt Sắt nói hôm nào: “Đường Trường Sơn là nơi bộc lộ tất cả những khuyết điểm của đảng ta!” Chẳng những khuyết điểm mà còn những nỗi niềm tâm sự không dám nói ra trên đất Bắc.
Nằm ở đây, ghê rợn vô cùng. Ngoái ngược lại mười năm trên đất Bắc lại càng ghê rợn. Quá thật! Ghê rợn vô cùng. Kẻ nào đã nói rằng: “Chế độ ta vĩ đại, sống một ngày trong chế độ ta bằng sống hai mươi năm trong chế độ tư bản!” Có đúng như vậy không? Đúng rất đúng! Sống một ngày ở chế độ xã nghĩa đau khổ bằng sống hai mươi năm trong chế độ tư bản. Đói rét, ốm đau, bệnh tật, ly tán,… đủ thứ. Một ngày gộp lại bằng hai mươi năm. Sống một ngày già đi hai mươi năm. Đúng với cái nghĩa đó đó!
Tôi nghĩ bậy chơi vậy, khi nằm phơi nắng tuổi thanh xuân trên lưng đèo 1001, khi phơi sương tóc xanh trên đỉnh Cardamomes, khi vùi sâu nhiệt tình trong lòng suối độc. Vậy mà bây giờ – sau bốn mươi lăm năm xây xã nghĩa, mười lăm năm giải phóng, dân Việt Nam ở Miền Bắc còn thèm miếng cơm trắng còn dân Miền Nam thì vượt biên ào ào . Đúng là một ngày xã nghĩa bằng hai mươi năm tư bản.
Bạn đọc thân mến,
Có nhiều độc giả của Đường Đi Không Đến  Xương Trắng Trường Sơn “than phiền” rằng tại sao tác giả không ngăn chương mà cứ viết luôn một mạch 450 trang đọc mệt quá mà không buông sách được vì “không có chỗ nghỉ xả hơi.”
Xin cảm ơn độc giả đã “than phiền” nhưng kẻ cầm bút này cũng vẫn không ngăn chương gì hết ráo, vì cuộc sống ở Trường Sơn chỉ có trạm, có đồi, có dốc, có suối , có đói, có chết, có bom đạn, có kiết lỵ và thương hàn, có quáng manh và phù thủng,… mà những thứ này thì nó giống nhau hết cả. Ngày nào cũng thấy cũng chịu bấy nhiêu đó thôi, cho nên chương nào cũng giống chương nào, ngày sau giống ngày trước, ngày trước nữa lại giống ngày chưa tới. Bạn đọc, đọc những quyển hồi ký Vượt Trường Sơn không cần phải đọc từ trang đầu trang cuối, mà đọc từ trang cuối lộn ngược ra đầu cũng được, hoặc giở đâu đọc đấy, nó cũng y chang như nhau và nó cũng cho bạn một cảm giác kinh hoàng như nhau.
Một thằng bạn nối khố cửa tôi – cũng thuộc loại chồng Bắc vợ Nam – trong một “bữa chiêu đãi sữa trâu” của Viện Nông Lâm Súc ở Gia Lâm – hắn là Kỹ sư Nông Lâm Súc – (Chúng tôi gọi hắn là “Kỹ sư súc vật”) trong buổi “tiệc” sữa trâu (bổ hơn sữa bò! Báo Nhân Dân bảo thế!), nó đã nói với tôi một câu: “Muốn đất nước thống nhất thì chỉ có một cách. Đó là: Bắt vợ con của Ban Chấp hành Trung ương đảng quăng vô Nam hết thảy…” Là một tên độc thân nên tôi chưa lĩnh hội được ý tưởng cao siêu của hắn. Tôi hỏi:
- Nghĩa là sao ?
- Mấy chả không có đồ chơi, mấy chả quýnh lên mấy chả tìm đủ mọi cách tiến hành. Còn như thế này mấy chả hưởng lạc tì tì, cao hổ cốt tẩm gân, sâm Triều Tiên bổ thận, thống nhất hay không thì cũng thế thôi ! “
Đúng là một câu đùa… y như thật. Đảng, người nói: Lo trước dân, hưởng sau dân. Mô Phật ! Tôi chưa bao giờ thấy câu này được đảng – tức là từ bác Hồ trở xuống đảng viên quèn – thi hành. Ngược lại: Hưởng trên đầu cha dân, dân kêu thây kệ mẹ ! Hai mươi, ba mươi năm trước ở Hà Nội vẫn thế, bây giờ cũng cứ như thế và muôn đời sau, đảng còn, còn thế mãi.
Hai mươi năm sống trong chế độ “tư bổn bổn xứ Sài gòn đến chạy sang tư bổn kếch xù: Hoa Kỳ” tôi cũng có đau khổ chứ không phải chỉ có hạnh phúc, nhưng đau khổ của hai mươi năm ấy chưa bằng một góc tí tẹo của nàng Kiều Việt Nam. “Thanh lâu ba lượt, thanh y hai lần”. Vậy, tự do độc lập hạnh phúc có nghĩa gì ? Ai cho ta các thứ ấy? Không cần phải trả lời. Hãy nhìn bốn mươi ngàn dân “boat people” của Việt Nam xà nghĩa đang ở Hồng Kông.
Đảng, tay phá hoại dân tộc lớn nhất lịch sử . Với cái búa Cải Cách Ruộng Đất hằng triệu sinh mạng hi sinh vô tội vạ, với cái liềm tập kết hằng mấy triệu gia đình ly tán, với cái đường mòn Hồ Chí Minh lại hằng triệu bộ xương phơi. Rồi tới “Giải phóng Miền Nam” đảng đã phá nát tan sự phồn thinh của một nửa đất nước và làm tan nát hằng chục triệu gia đình. Sáu mươi năm có đảng, có bác trên cõi đời này, dân tộc Việt Nam điêu linh cùng cực. Hãy nhìn, hãy nhìn thôi, hãy nhìn cũng đủ rồi, không cần phải suy nghĩ.
Hai mươi lăm năm trước tôi nằm trên dãy Trường Sơn mà đau hận cho dân tộc Việt Nam khôn cùng, bây giờ càng hận. Viết lại những dòng này, tôi mệt lắm, không khỏe khoắn nhanh nhẹn như viết bất cứ truyện nào khác. Vì sao? Vì tôi thấy lại tôi trên dốc, trên đồi, dưới suối, trong bệnh tật, trong lê lết, trong bi thương. Tôi như võ sĩ tả xung hữu đục giữa cái trùng vây đó. Tôi thấy tôi đang khát, đang sốt, đang run khi viết lại tập hồi ký đã mất này. .
Tôi và Hoàng Việt cùng cô vũ nữ ba-lê được phái đoàn ông Sáu Mặt Sắt giúp chừng ba bốn chặng đường. Rồi họ rẽ sang lối khác. Có lẽ họ được xe hơi chở hay đi con đường nào đặc biệt khác không biết được. Nhưng có một điều – không biết may mắn hay rủi ro cho tôi, cho Thu! Đoàn ông Mặt Sắt cho Thu đi theo cùng với “anh Sáu.”
Trước đây có nhiều lúc tôi muốn Thu quay ra Hà Nội với Hồng, em trai của Thu gặp ở mấy trạm trước cùng với Thiếu tá Kim – Như vậy tôi sẽ nhẹ gánh dễ đi hơn. Nhưng bây giờ có người muốn nhấc cái gánh đó khỏi vai tôi thì tôi lại thấy nao nao tấc lòng.
Sáng mai Thu sẽ xa tôi .
Đêm nay là đêm không ngủ của hai đứa. Cơm chiều xong, Thu lên võng nằm, tóc nàng buông xõa xuống chiếc võng lắc lư như nhịp theo bài hát buồn não nùng.

Trời thương đôi ta đây, còn cho ta suốt đêm nay

Những ngày đôi lứa chia tay. nước mắt rưng rưng vì chua cay
Rồi mai đây xa nhau, ồ, em yêu dấu !
Anh khóc cho đêm này qua
Đêm nay là đêm cuối cùng của… đôi ta. …
Sao nàng chọn đúng bài hát và đúng lúc để hát vậy? Đó là tâm tư của nàng và của tôi. Chúng tôi sắp xa nhau và chỉ còn có đêm nay.
Tôi không thể ngồi yên nghe tiếng hát cứa đứt từng mạch tim tôi nữa.
Tôi sang ngồi ở đầu võng nàng. Mớ tóc đen huyền vẫn lắc tư phảng phất hương. Nàng vừa gội đầu dưới suối. Nàng muốn nhờ gió hong tóc cho mau khô.
Tôi khẽ nói:
- Thu ! Mai em đi. Chúng ta xa nhau rồi.
- Đành thế thôi !
- Em có giận anh chuyện gì không?
- Có anh giận em thì có. – Tiếng nàng rơm rớm nước mắt – Em đã nghĩ kỹ rồi. Em đi với anh thì chỉ khổ cho anh thôi. Để em đi với đoàn ấy. Rồi vào trong kia cũng gặp nhau. Rồi lại khổ nữa. Nhưng chừng đó em là kẻ đau khổ nhất giữa hai chúng ta. Em biết anh yêu em, nhưng chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu. Vậy nên buổi chia tay này tuy có gây buồn cho anh lẫn em, nhưng sẽ vui về sau.
Tôi nâng tóc nàng lên tay tôi và thổi từng hơi dài.
- Anh làm cho tóc em mau khô nhé. Anh là gió đây !
- Không ? Anh là “Mưa” mà.
- Ừ thì mưa? Tôi ôm quàng cả võng và người nàng vào tay tôi. Tôi nghiêng cả chiếc võng để áp mặt nàng vào mặt tôi. Gương mặt trắng như một mảnh giấy chờ tôi đề lên những câu thơ.
- Thu ! Em đừng giận anh nghen !
Nàng ôm chặt đầu tôi vào ngực nàng, thổn thức khóc.
Trời tối hãi hùng. Rừng núi sâu thăm thẳm. Chúng tôi như hai hạt bụi hoang gặp nhau ghép vào nhau trong một cơn gió lạ. Tôi lên võng nàng, nhẹ tay buông màn. Không một hơi thở nào thoát ra khỏi vòm trời riêng của hai đứa tôi. Bỗng nhiên tôi quay đầu lại ôm riết hai ống chân mềm mại của nàng vào mặt tôi và đặt vào làn da mát rợi đó những chiếc hôn nồng nàn và thầm thì. Vừa thầm thì vừa hôn như mưa. Cả chiếc lều như chực đổ theo nhịp võng lắc lư.
- Thu! Thu! Chúc em chân cứng đá mềm. Anh sẽ gặp em ở cuối đường này.
Nàng ôm lấy tôi và nấc lên:
- Anh yêu em đi. Và đây là lần cuối !
—>Chương 12


- 12 -
Chúng tôi còn nằm lại trạm này: Hoàng Việt và tôi, hai thằng “sĩ ” Nam kỳ trên đường về xứ. Đường lại kẹt. (Có lẽ vì kẹt đường cho nên giao liên đặc biệt đến đưa đoàn ông kẹ đi lối khác).
Hoàng Việt mở bản đồ Quốc Văn Giáo Khoa Thư ra coi để đoán mò. Nên nhớ rằng Miền Bắc không có xuất bản một tấm bản đồ chi tiết sông rạch núi non nào mà chỉ dùng bản đồ Indochine Française để giảng dạy ở các trường. Những lần tôi đi công tác dưới tàu biển cũng không có hải đồ. Thuyền trưởng chỉ dùng hải đồ kẽ lòng biển Việt Nam dọc bờ biển Việt Nam của một Thủy Sư Đô Đốc người Anh vẽ đâu hồi thế kỷ mười chín. Cho nên cái bản đồ của Hoàng Việt mò mẫm để tìm tọa độ của đoàn chỉ to bằng bàn tay, một chấm bằng đầu chân nhang có thể là một dãy đất chúng tôi lội ba ngày không giáp và nguyên cả khu Năm chỉ to bằng nửa cái lá rau thơm. Tuy vậy nhưng ông nhạc sĩ cũng tỏ ra thành thạo trỏ tay vào bản đồ mà nói:
- Mình đang ở đây này !
- Nghĩa là đầu hay cuối khu Năm vậy?
- Có lẽ quá nửa rồi. Chắc là Quảng Nam quê con Phương của mày.
Trạm này khác với các trạm trước. Ở tận trong sâu dọc theo đường dây chính, khắp một đoạn dài có những lều trại cửa cán bộ khu Năm dựng ở đây lâu đời nên đã thành một loại buôn của người thiểu số. Có nhiều láng giống như nhà. Có nhiều nhà đã trồng được rau cải. Có vài nhà nuôi gà. Có cả một nhà nuôi được lợn. Người ở đây mặc quần áo thường như ở đồng bằng. Sinh hoạt của họ khác hẳn chúng tôi, chỉ có nước da là giống nhau thôi: vàng và bủn.
Tuy vậy chúng tôi cũng thở được cái không khí bình thường. Cho nên Hoàng Việt gợi ý treo giò ở đây một thời gian để dưỡng lão. Thấy tôi hơi miễn cưỡng, Hoàng đùa: “Đường K… kách mệng còn rài chú em chớ có rội nghe chưa… Cái bao tử rách của mày đâu đã vá xong mà hăng hái ! “
Thế là chúng tôi tìm chỗ treo võng giăng lều và ngụy trang thật kỹ để khỏi hạ xuống dựng lên hằng ngày nữa.
Tôi buồn lắm: Vắng Thu! Tôi đâm ra nghĩ ngợi. Thu đã hết yêu mình. Đang đi chung, gặp ngả rẽ ngon lành là đi ngay không hỏi ý kiến mình. Con gái đứa nào cũng thế. Cứ hễ thấy chỗ nào sướng, khỏe là bỏ chỗ cực nhọc.
Nhưng rồi tôi tự vấn tôi: Còn mình thì sao?? Nếu ông Mặt Sắt cho mình tháp tùng chưa chắc mình đã từ chối huống chi đối với Thu ! Nhiều lúc mình coi Thu như một cái nợ đời, chẳng những trong ý nghĩ của mình mà lộ cả ra ngoài Thu cũng nhận ra điều đó. Bằng chứng là khi thằng Hồng và Thiếu tá Kim định quay về Hà Nội, Thu đòi đi theo mình không có lấy một câu ngăn cản. Thì bây giờ Thu đi với người khác – (đi vào Nam, tốt hơn trở ra nhiều) – cũng thế thôi. Mình rảnh nợ. Lòng ích kỷ muôn thuở của con người là thế. Cho thì muốn cho ít, được thì muốn được nhiều.
Thấy tôi sầu tình lộ ra da, Hoàng chọc:
- Nó ở lại với tụi mình, mày có cõng được không?
Tôi hết đường trả lời. Câu hỏi “duy vật” trăm phần trăm làm tôi tét mắt, sáng ra. Cố nhiên là chân ai nấy bước. Thương nhau lắm cũng chỉ chờ dăm ba lần, vác ba-lô hộ một quãng, thế thôi ! Nhiều hơn nữa, nổi cáu. .!
Một buổi trưa nằm đong đưa trên võng, tôi bỗng nghe một giọng quen quen. Tôi bèn ngóc dậy nhìn. Ngơ ngẩn một lúc rồi kêu lên:
- À. . Thiệp! !
- À kia…
Chúng tôi nhìn nhau.
- Vợ mày đâu ?
- …
- Mấy đứa kia đâu? ..
Hoàng Việt đi đâu về cũng hỏi tới tấp:
- Sao lại trở lên đây ? Bộ đường xuống Bác Kế bị kẹt à?
Thiệp tuột ba-lô ném xuống đất và ngồi phệt lên một cái rễ cây, rút nút bi-đông ngửa cổ uống một hơi dài, quệt mồm, đậy nút bi-đông rồi lắc đầu, chẫm rãi nói:
- Hi sinh hết rồi !
- Trời đất ! – Tôi và Hoàng kêu lên – Hả hả ? Mày nói gì Thiệp?
- Lớp chết, lớp bị bắt !
- Thiệt hả?
- Không thiệt thì bịa à? – Con Phương cũng chết rồi .
Tôi chưa kịp hỏi thì Thiệp đã nói. Tôi như bị một mũi tên xuyên tim.
- Chết rồi. Chết cả rồi, mày nghe không?
Tôi ngồi trên võng trân trân. Tôi cũng cảm thấy chết nửa thân người. Hoàng buông xụi con dao và mớ củi xuống đất kêu lên:
- Bộ mày nói giỡn sao mầy?
Thiệp lặng thinh. Ba người nhìn nhau lặng thinh. Trời đất xoay vần. Chẳng còn hiểu sao nữa.
Hoàng ngồi xuống gom củi dóm bếp uống trà cho đỡ khổ. Chớ còn kêu la than thở gì bây giờ? Thiệp lột cái mũ tai bèo xuống lau mồ hôi quanh cổ rồi quạt quạt. Mặt trời ác quá ! Giá đừng có mặt trời thì chúng tôi dễ sống hơn.
Thiệp tựa lưng vào gốc cây. Đoàn người cùng đi với Thiệp, kẻ thì ngồi gần đó, kẻ tản ra trong các láng, tìm ngườl quen địa phương của họ
- Sao mà hi sinh dữ vậy ?
- Trên đường luồn về đồng bằng bị phục kích !
- Còn con Phương?
- Nó bị một mảnh cà-nông bằng ngón tay trúng ngay tim, chết liền. Tình hình ác quá. Mình chờn vờn hoài mà không đi xuống được. Đến chừng quyết định đi thì bị phục kích.
- Đi đêm à?
- Thì đi đêm chứ đi ngày sao lọt ! Đường sá đâu có biết chút nào. Giao liên dắt đi thì cứ đi. Vợ tao từ nhỏ tới lớn chân giày chân dép. Lội về tới đây đã hết sức kiệt lực rồi. Tưởng đã tới nơi. Ai dè đường đi xuống còn gian khổ gấp chục lần đường đi vào: Đi từng chặng ngắn một, có chặng chỉ leo vài tiếng đồng hồ rồi không bò được nữa. Leo núi còn tàn nhẫn hơn trên đường này. Lại phải chui trốn địch liền liền. Máy bay nó biết lạch mình đi nên cứ bay rè rè quan sát. Rồi lại còn dân Thượng nữa. Không biết được họ theo mình hay theo “tụi nó” nên cứ mỗi lần gặp dân Thượng là phải chui trốn ngay. Ác lắm tụi bây ơi. Không được ngồi yên như ở đây đâu. Ba-lô lúc nào cũng gọn gàng, hễ báo động là quơ chạy, hoặc lủi vô hang núi hoặc chạy xa. Đâu có hầm hố gì. ….
- Đất ở đó không đào hầm được à?
- Đâu có đất, chỉ toàn đá thôi ! Không thọc cuốc chỗ nào được hết. !
Hoàng rót trà cho Thiệp. Thiệp bưng cái chén sắt tổ bố ực một hơi, chép miệng, buông cái chén như rụng xuống đất:
- Chết cả đoàn rồi ! Thiệt ! Thiệt ! Không phải chiêm bao!
- Trời đất ! – Tôi kêu lên, vẫn còn sững sờ, ngây dại.
- Nó phục kích, ban đêm, chạy đường nào? Nó thuộc đường. Mình thì mò từng bước.
- Không lấy thây được à?
- Tao đoán là phải chết đến hai phần ba. Còn lại thì bị bắt sống.
- Trời đất ! !
- Vợ tao đang đi trước tao, ngã đánh huỵch một cái, chỉ kêu được một tiếng “anh ơi” rồi tắt luôn. Tao chạy thối lui. Đạn bắn vét đỏ như tàn đuốc rát cả mặt. Máy quay phim không biết tao đã liệng hồi nào. Khi chạy ra xa khỏi chỗ phục kích, tao ngã lăn không nghĩ là mình còn sống !
- Còn những thằng kia đâu ?
- Đâu có biết thằng nào sống sót thằng nào chết đâu. Tao chỉ biết có mình tao còn tại thế đây thôi.
- Còn giao liên?
- Giao liên đi đầu chắc lĩnh nguyên băng trung liên rồi chớ gì !
- Bị phục kích hôm nào?
- Ba hôm trước – Thiệp tiếp – Cái chỗ này là khúc eo. Từ trên núi đổ xuống thì có nhiều lối đi như rẽ quạt, đường rộng, nhưng đến ngang đây thì nó thắt lại. Muốn xuống đồng bằng nhất thiết phải qua cái Eo này. Tục gọi là Eo Máu. Qua được cái eo này thì mới luồn vào đồng bằng được, nếu không thì ở trên núi tu luôn. Ngược lại những đoàn người của mình ở đồng bằng chui lên núi thì có phần dễ dàng hơn. Chúng cũng phục kích nhưng rất thưa, chỉ lấy lệ thôi.
- Tại sao? .
- Tao cũng không rõ. Nhưng theo giao liên nói, thì chúng đó để mình thoát ra khỏi đồng bằng rồi “nhét nút” không cho trở lại. Đóng đô trên này thì lúa gạo đâu mà sống?
- Sao tao thấy cả một làng ở đây toàn dân Eo ?
- Thì ở dưới không còn đất sống, một số phải chui lên đây, ăn gì ăn miễn sống thôi. Đó là một lối. Còn một số thì lại cứ bám riết dưới đồng bằng, cái chết như nháy mắt, nhưng có cơm ăn, được ở trong nhà hoặc núp ngoài vườn cây, khỏi phải trở thành cà khu. Hai loại người, hai chủ trương. Loại người lên rừng “lập làng” đây tuy ngủ yên như lại không có gì ăn . Lâu lâu vẫn phải mò về đồng bằng xin tiếp tế. Thì cũng phải bò qua cái Eo Máu đó, năm ăn năm thua thôi. Giao liên bỏ trạm hết. Họ không dám dắt khách đi đúng chuyến nữa. Cho nên những người ở vùng cao tự lực về đồng bằng tiếp tế lấy. Người thì tới nơi nhưng khi trở lên tới Eo Máu thì bị bắn chết với gùi ngô sống trên lưng, còn người khác về chưa tới đồng hằng đã ngã gục với chiếc gùi không.
Tôi hỏi:
- Con Phương chết ở đâu?
- Chết lảng nhách ! Không ai tưởng tượng được ! Chúng tao đang nấu cơm chiều ăn để chuẩn bị vượt Eo Máu. Nó đang đứng bên bờ suối, bỗng một trái cà-nông nổ. Tụi tao chưa quen nên bò lăn trên đất, nhưng giao liên cười bảo: “Ăn thua gì ! ” Vừa dứt lời thì nghe tiếng kêu: ‘”Chết tôi !” Chúng tao nhìn lại thì thấy con Phương ngã xuống đất. Tao chạy lại trước nhất. Tay nó bịt chặt ngực. Máu rỉ ra không nhiều. Nhưng nó đã tắt hơi. Mảnh đạn có bằng đầu ngón tay, nhưng nó ác quá, lại ghim ngay tim. Con nhỏ chết tươi không kịp trối trăn gì hết.
Thiệp ngồi lặng ngắt. Một chốc, tiếp:
- Nó bảo sắp về tới quê nó rồi. Ở đó nó còn ông nội, bà cô, cậu, dì đủ hết. Nó bảo về đến nơi sẽ thết đoàn một con lợn! Nhưng không phải riêng nó mà thôi. Những thằng trong đoàn quảy đờn, trống và áo mão định về quê làm một đoàn vừa hát bội vừa bài chòi đều thấy quê nhà trước mắt. Bỗng vứt tất cả, xuôi tay.
Trưa nắng muốn điên đầu, lại còn nghe một cái tin bể óc, thần kinh của tôi chắc phải dai như dây chão dây thừng của hợp tác xã thì tôi mới khỏi ngất xỉu.
Thiệp nói tiếp:
- Thế nhưng con Phương còn may mắn chán mày ạ. Vì nó được chôn cất tử tế.
- Như thế nào ?
- Ít nhất cũng được gói ghém kỹ lưỡng bằng vải và ni lông. Ít nhất cũng có một cái huyệt để nằm cho ấm thân và một nấm đất lè tè với một khúc gỗ đánh dấu. Còn vợ tao, đâu biết thân xác ra sao !
- Mày chắc thế thật à?
- Đúng là trúng đạn. Tao nghe tiếng kêu thì biết chắc. – Thiệp lắc đầu – Bình thường tiếng kêu không như thế.
… Tôi nhớ lại cả cái khung cảnh trường đi B. Vui lắm. Tài tử giai nhân lớp lớp nói cười. Hầu hết các trái tài gái sắc của các đoàn Văn công Trung ương đều được tuyển chọn để vào Nam tiếp thu Sài Gòn và Đà Nắng giải phóng. Tiếp thu Sài Gòn thì có đoàn chúng tôi gồm trên bốn mươi người; tiếp thu Đà Nẳng thì có đoàn khu Năm có trên ba mươi người. Đoàn tiếp thu Sài Gòn thì chia làm nhiều cán bộ chuyên môn, trong đó có nhạc sĩ sáng tác, nhạc sĩ cho quân nhạc (chúng tôi gọi là đám cai kèn), đông nhất là các vũ nữ dân tộc và ba-lê, nhà quay phim tài liệu và phim truyện, nhà văn, nhà báo, v.v… Riêng đoàn khu Năm thì trọng tâm là hát bội và bài chòi. Vợ chồng Thiệp xin đi Ông Cụ nhưng ở trên lại cho đi Bác Kế. Ý định chéo ngoe, nhưng phải bóp bụng mà đi. Đi, nhưng không phấn khởi. Người Bắc thích con người và đất địa Nam Bộ hơn, trước đây cũng vậy mà bây giờ càng như vậy. .
Thiệp có cô vợ rất xinh – nhỏ nhắn như búp bê, môi đỏ như son, mắt sắc như dao cau. Còn Thiệp thì khoẻ như lực sĩ. Chúng tôi gọi đùa cô nàng là Hélène “tiểu thư nhỏ nhắn” như trong tiểu thuyết “Chiến Tranh và Hoà Bình” của Tolstoi. Cô nàng không biết múa hát gì cả nhưng “chàng đi vì nước thiếp theo chàng.” Thiệp biết chiến trường gian khổ, chết chóc, không muốn cho vợ theo. Nhưng nàng nhất định xung phong “Vô đó, nấu cơm, quét nhà cũng được.” Thiệp khỏe như trâu, mang tất cả đồ lề cho vợ. Cô nàng chỉ mang có cái bi-đông và cầm gậy chỏi đi, rất thảnh thơi. Đã vậy những lúc qua suối, Thiệp sang bờ bên kia xong, trút cả ba-lô và trở lại cõng vợ. Chúng tôi bảo: “Coi chừng mày ngã mày nhúng nước, vợ mày rã ra như giấy đấy!” Tội nghiệp! Vậy mà vẫn đi với nhau tới ngả rẽ xuống Bác Kế. Ở đầu ngả rẽ, thấy tôi bận bịu với Phương, Thiệp bảo:
- Tao sẽ giúp đỡ con Phương cho ! Đừng lo !
- Cảm ơn mày ! , . . Nhưng mày đã mệt đừ với cô Hélène của mày rồi còn tay chân đâu nữa mà giúp !
- Tuy không giúp được nhưng nó có vợ tao, hai đứa hủ hỉ với nhau!
Bây giờ cả hai đứa cùng hủ hỉ dưới suối vàng.
Cách mạng nghĩ cũng kỳ. Tôi không có duyên với cách mạng hay cách mạng không hấp dẫn được tôi không rõ nữa. Nhưng đi theo cách mạng, hễ tôi yêu ai thì hỏng nấy ! Không sinh ly thì cũng tử biệt. Cho đến lúc tôi leo núi hồi hương hôm nay đây, tôi đã có ba mối tình – có thể gọi là Tình yêu – nhưng không đi đến đâu cả.
Với Phương tôi định sẽ nên vợ nên chồng. Ngoài ba mươi rồi, chưa lập thân còn chờ gì nữa. Nhởn nhơ hoài mang tiếng mang tai phóng túng, mình tự làm phiền mình không ít. Khi vào trường đi B thì tôi đã gác lại một cách đàng hoàng các mối tơ Hà Nội ở ngoài vòng rào: “Em đi đường em, anh đường anh!” Định vào đây “tu” ba tháng để về quê cho nó nhẹ nhàng cái tấm thân nam nhi chi chí. Nhưng trời không cho trái tim tôi ở không. Tôi gặp Phương, một vũ nữ ba-lê chói sáng trong những vũ nữ chói sáng của sân khấu Hà Nội. Nàng có yêu một người nhạc trưởng (của đoàn nàng) trước khi gặp tôi. Nhưng gia đình nàng, gốc người Quảng Nam, bố là nhà giáo, anh làm Trung đoàn trưởng, tất cả đều nhất định không tán thành mối tình của hai người. Ông bố nghiêm khắc bảo: “Bố không gả con cho người đó!” Chỉ có thế thôi. Chỉ có thế mà nàng không vượt nổi. Và hai bên phải chia tay. Vào trường đi B lại gặp tôi. Nước mắt tình cũ chưa khô lại thấy lố dạng tình mới. Chúng tôi yêu nhau dễ dàng không ai dắt đường không ai nói ra nói vào cả. Coi như đó là một lẽ tự nhiên trên đời: Hễ bị thương thì phải chữa chạy vết thương. Với đàn bà thì thuốc men hữu hiệu nhất là đàn ông. Với đàn ông thì thuốc men hữu hiệu nhất là đàn bà. Lấy đàn ông trị vết thương do đàn ông gây nên. Lấy đàn bà trị vết thương do đàn bà gây nên. Lúc đó tôi hầu như không bị thương tích gì, nếu có thì cũng nhẹ.
Cái khổ của chúng tôi là kỷ luật của trường đi B. Ở trên nói rõ toèn toẹc ra trước mặt ba quân rằng: “Vào đây là để rèn luyện thể chất và tinh thần đi giải phóng miền Nam chứ không phải để yêu đương. Những đồng chí đã yêu nhau thì hãy tốp lại, những đồng chí chưa yêu nhau xin đừng tiến tới !”
Mặc dù giám thị răn đe hằng ngày, chúng tôi vẫn có mánh lới để trao đổi tình cảm. Mỗi tối ngồi vào hội trường nghe lên lớp, tôi chia hai cái lỗ tai cho giảng viên còn trái tim và khối óc thì để dành viết thư cho Phương. Trong chín mươi ngày đêm ở trường, tôi viết ít ra là chín mươi bức thư, nếu in ra chắc thành một tập Tình Thư. Viết thì dễ nhưng gởi lại khó, khó lắm. Vì giám thị có tai mắt công khai, còn có cả tụi “nội ứng.” Đó là bọn cùng đi B hoặc bọn được tổ chức cho khoác áo đi B sinh hoạt lẫn lộn với đám đi B thứ thiệt để theo dõi mọi người.
Tôi nhờ một người rất thân tín. Đó là họa sĩ Diệp Minh Châu, người cùng quê, biết nhau ở Nam Bộ. Anh Châu thuộc tuổi nghề và tuổi đời đàn anh và là một loại người “ưu tiên” của trường đi B này. Anh muốn tập thì tập muốn học thì học, không thì thôi, giám thị không dám động tới. Cho nên mỗi buổi sáng anh qua phòng tôi giả bộ: “Ê mày còn hào cho tao mưa thuốc hút!”. Thế là tôi đưa cho anh hoặc “hào bạc” hoặc “nửa bao thuốc lá”. Riết rồi thành thói quen, không ai để ý nữa, ảnh bỏ túi, cười hề hề: “Ê, thuốc ngon để ăn cơm rồi tao sẽ hút nghe mậy?” Thế là trong giờ xuống nhà ăn anh tìm mâm cơm ngồi ăn chung với Phương hoặc sau khi ăn cơm anh chận đường Phương mà thi hành nhiệm vụ liên lạc.
Dù thực hành công tác bí mật còn hơn “Tỉnh ủy Bí mật” của bác dịch, nhưng tôi và Phương vẫn bị gọi lên văn phòng cảnh cáo hai lần. Lần thứ ba lời cảnh cáo rất nghiêm khắc: Nếu tái phạm sẽ ngưng vụ đi B. Nhưng sợ gì ? Tôi là thằng coi kỷ luật như trò hề. Nó nghiêm chỉnh với người này nhưng lại dây thun với kẻ khác. Do đó tôi đổi chiến thuật trao thơ. Tôi bảo anh Châu đọc sách. Thơ từ của tôi và của Phương qua lại trong những trang sách. Nói tóm lại, khi yêu chỉ có trời níu được chân và cấm được… thơ từ.
Dằng dai như thế, cho đến kỳ nghỉ phép cuối cùng. Một tuần lễ. Ai nấy đều được về nhà ăn Tết với gia đình và ngày mồng năm Tết, đúng sáu giờ phải có mặt tại trường để lãnh đồ trang bị sửa soạn lên đường.
Trong bảy ngày đó, ngày nào tôi cũng tới nhà Phương, một thứ nhà kho biến chế thành nhà ở, đường Bà Triệu gần Tòa án Nhân Dân của ông Cựu Chủ tịch Ủy Ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam bây giờ bị đá ra rìa một cách êm ái. Phương đòi giới thiệu tôi với bố mẹ và gia đình. Tôi không muốn cái “lễ nghi” ấy, vì sợ ông già lại bảo “Bố không gả con cho người này” nữa thì tôi chui đi đằng nào? Nhưng Phương cứ nằn nì giận lên giận xuống mãi. Bảy ngày nghỉ phép hóa ra bảy ngày giận hờn không ngớt. Cuối cùng tôi phải nhận lời. Cũng may, cả gia đình đều đồng ý. Ông già lại còn đưa tôi đến nhà bà con để giới thiệu: “Đây là fiancé của con Phương!” Tôi mắc cỡ tím cả người. Nhưng Phương liếc .. tôi lấy làm đắc chí: “Thấy không, em biết mà. Đâu có ai ghét dân Nam kỳ… (cục) của anh đâu!” Người anh rể làm Trung đoàn trưởng chạy đi tìm những đồ nhà binh như thắt lưng, vải bạt, vải dù để tăng cường trang bị cho tôi.
Chúng tôi xem như đã hứa hôn với nhau trước mặt gia đình rồi. Không có còn lăng nhăng nữa đấy nghe!- Phương bảo tôi. (Cô nàng cũng ớn các ông nhà văn lãng mạn chúng tôi lắm!)
Phương đưa cho tôi một chiếc nhẫn vàng, một đôi giày trẻ sơ sinh màu trắng như tuyết và bảo: “Anh cất đi để sau này cho con đeo!” Tôi không có gì để tặng nàng làm kỷ vật cả nên chạy đi bán cái xe đạp mua cho nàng cái đồng hồ. Chỉ có thế.
Trở lại trường, chúng tôi bình tĩnh coi nhau như bạn thường.
Khi vào đến Trường Sơn mới bắt đầu ngửi thấy không khí chia ly trên thực địa.
Nghĩ cũng kỳ! Đang sum họp và sắp thành vợ chồng bỗng chốc mà chia ly. Y như đùa. Tôi thì nhất định không đi Bác Kế với nàng rồi. Nếu “ở trên” khôn ngoan mà thông cảm với hai chúng tôi thì đã để cho Phương cùng đi Ông Cụ với tôi. Nhưng họ nhất định cứng rắn, không thay đổi. Họ mất gì nếu để cho Phương đi Nam Bộ? Không mất gì cả, ngược lại còn được, được rất nhiều.
Đó, cách mạng vô sản! Cũng là vô lương, vô bổ. Tôi đá bỏ là phải lắm! Khi tôi hồi chánh, tôi có đi ra nói chuyện ở Đà Nẵng một lần. Tôi có đi tìm gia đình và bà con của Phương, nhưng vì tôi đánh mất địa chỉ nên không tìm được. Tôi có người bạn cũ cùng học trường quận với nhau nay làm tới tướng. Anh ta ngỏ ý sẽ giúp cho trực thăng và lính đổ bộ đi bốc xác người yêu về cải táng trong thành phố nhưng rừng núi điệp trùng, biết người yêu vùi thây nơi nào mà tìm đến được? Hơn nữa Eo Máu không phải là một địa danh có trên bản đồ. Do đó mà ý nguyện cuối cùng đối với Phương cũng không thực hiện.
Đâu chừng ba, bốn năm sau…
Một buổi trưa, tôi đang ngồi trong văn phòng Giám đốc Trung tâm Chiêu Hồi Trung ương ở Thị Nghè (tôi là Giám Đốc) bỗng người tùy phái vào trao cho tôi một mẩu giấy con. Tôi cầm lấy đọc. Thì ra có người quen cũ đến tìm. Tôi cho mời vào.
Đó là nhà đạo diễn Xưởng Phim Truyện Hà Nội cũng là đạo diễn Đoàn Kịch Nói Trung ương. Anh ta đi vào một lượt với tôi và rẽ xuống Bác Kế. Chính anh ta là một trong những người bị phục kích ở Eo Máu trên đường luồn xuống đồng bằng! Tên anh ta có hằng chục. Nhưng anh thích nhất chữ L. nên xin gọi anh ta là L.
Tôi đãi anh bạn chết hụt một chầu la-de tại văn phòng. Anh ta nói:
- Tao được trao đổi tù binh ở Xuyên Mộc mày à! – L. nói khi đã uống tới cha 33 thứ tám.- Địt mẹ! Tao mà còn sống đây là nhờ Trời. Chỉ có Trời mới cứu tao khỏi chết thôi.
- Mày đâu có sốt rét trận nào. Khoẻ như voi mà! Hì hì, con gái đứa nào cũng o mày cả để cho mày cộ đồ dùm chúng nó.
- Không sốt rét nhưng cái vụ Eo Máu đáng một ngàn cơn sốt!
- Những đứa nào sống sót với mày?
- Một thằng đờn Bài Chòi, ba thằng Hát Bội và mấy thằng địa phương. Còn bao nhiêu chết hết. Mày tưởng tượng xem, thế này nhé! – L. xếp các chai và cốc thành một hàng dài và tiếp – Địa hình hành quân của đoàn là thế đó. Đường đi độc đạo. Nó kê súng máy trước mặt. Mình cứ đâm sầm đi tới. Mày nghĩ xem, sống sót sao được kia chứ! Hừ hừ.. vậy mà tao lọt. Hừ hừ.. tao không hiểu là đạn mù hay tao có mắt.
- Rồi sao?
- Rồi nó xách óc đem bỏ tù chớ sao nữa. Mấy thằng Bài Chòi và Hát Bội khóc rưng rức vì mấy cô đào thương chết cả. Tao ngồi trong khám, dửng dưng. Hồn bất phụ thể năm sáu ngày liền. Ai kêu tên cũng không lên tiếng. Con Phương của mày, nếu không bị đạn buổi chiều thì tối hôm đó cũng không thoát. Tụi tao chôn nó chớ ai? … Trời đất!…Đ.m. Tao hết biết nói sao!… Trong đêm lập loè ánh đèn pin, tao bị đẩy đi còn ngó ngoái xem bao nhiêu thằng mình vừa gục.
- Rồi sao mày ra được vậy? – Tôi hỏi.
- Còn sao mày ra được đây? – L. hỏi vặn lại.
- Tao “dông” chứ còn sao.
- Tao có nghe trên đài. Lúc đó tao được tự do nghe đài và coi báo! … Còn tao, không hiểu sao chúng nó bắt tao ra làm đồ vật đổi chác! Khi ra đến địa điểm đổi tù, tao nói ngay: “Tôi không lấy thân tôi đổi với ai cả. Và tôi cũng không muốn trở về với Miền Bắc. Tôi muốn được một đặc ân của Chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà. Cho tôi cải danh ‘tù binh’ ra ‘hồi chánh’. Phía các ông Sàigòn ngạc nhiên. Còn tụi Hà Nội chúng nó lõ mắt trợn nhìn tao như muốn nuốt sống tao. Tao nhìn lại thách thức: “Lõ con cặc! Tao chào tụi bay luôn!” và tao được làm hồi chánh viên khoẻ ru như cu bà bóng. Hà hà bây giờ Mỹ nó thuê tao. Lương tháng xài thấy mẹ không hết… Ngặt một nỗi là vợ con ở cả ngoài Bắc, mình ăn uống gì cũng không ngon! Thằng Burchett nói đúng. Đất nước chia đôi, chia đôi đến một làng, một gia đình cả đến một vợ một chồng.
o O o
Thiệp ngồi giữa nắng chang chang mà cơ hồ không hay biết. Trái tim của nó đã chín nhừ trong biển lửa mênh mông.
Tôi hỏi:
- Bây giờ mày tính sao?
- Còn tính cái gì nữa chớ?
- Công tác thế nào?
- Tao đâu còn cái gì mà công tác. Mà công tác ở đâu kia chứ?
- Vậy cơ sở của mày là ai?
- Là cậu giao liên mười sáu tuổi dắt đường đêm trước. Cậu ta đi đầu. Chắc là lãnh nguyên băng súng máy rồi. Khách chạy bạt mạng mạnh thằng nào thằng nấy chui. Đó, mấy đứa cùng đi với tao lúc nãy đó! Họ là dân khu 5 chứ không phải người trong đoàn đi từ Hà Nội. Trong đó có một ông Huyện ủy viên. Ông ta bảo ông ta chết hụt lần này là lần thứ mấy chục rồi. Ổng tởn luôn rồi. Ổng bảo với tao là kỳ này chắc phải xoi đường khác mới dám “hạ san”, nếu không xoi được có lẽ phải tu luôn trên núi.
- Rồi sao?
- Chẳng có sao cả! Thằng chả đâu có trách nhiệm gì đối với tao. Mà tao cũng đâu có giấy tờ gì để trình ra. Có cái giấy đi B con con, đóng cái mộc nâu nâu méo méo tròn tròn. Ừ thì biết là dân đi B vậy thôi, chứ ở đây ai lại ách giữa đàng mà đem mang vào cổ. Khoai bắp đâu cho ăn? Ở vùng này mày thấy đống cứt nào toàn lá cây, khoai, bắp còn nguyên hột đó là có cán bộ ở gần đó.
Hoàng buột miệng:
- Đi mẹ nó vô Nam Bộ với tụi tao cho rồi!!!
- Đi đâu cũng được nhưng bây giờ tao phải nghỉ ít lâu cái đã.
- Nghỉ bao lâu mà không được.
- Chịp! Tao muốn mò trở lại gần Eo Máu tìm vợ tao. Mày ơi …
Thiệp đang nói bỗng dứt ngang, gục đầu xuống khóc như con nít.
Hoàng đứng dậy, đi tránh… Tôi ngồi lặng ngắt. Nước mắt chảy ròng ròng nóng ran trên má. Tôi quệt ngang và bảo Thiệp:
- Thôi, quên đi là xong.
- … Hu hu hu…
- Chớ còn làm gì được! Tao hỏi mày!
- Hu hu hu…
- Để thong thả rồi tụi mình tính, Thiệp à! Bây giờ hãy mắc võng nằm cái đã ! – May sao tôi cũng còn được chút bình tĩnh. Tôi lục ba-lô của Thiệp, moi lấy võng mắc cho nó nằm. Nó lịm đi trong đau đớn, trong quằn quại.
Những ngày dưỡng sức của chúng tôi ở cái “buôn” này không mấy gì yên ổn với anh chàng mất vợ. Và tôi nữa, mỗi lần Thiệp than thở thì tim tôi cũng động lây. Đồng bệnh tương lân là thế. Tôi mất Phương như mất vợ. Một người con gái đã giới thiệu mình với gia đình và gia đình cũng đã chấp nhận, thì trong tinh thần nàng đã là vợ của tôi rồi. Chỉ còn gang tấc là mọi việc đã thành.
Bây giờ thì không có gì thành cả. Tất cả thành mây khói.
Thiệp không lúc nào quên đi được cô bé Hélène của nó. Chốc chốc Thiệp lại than: “Trời ơi, phải viên đạn đi chệch qua một chút thì vợ tao đâu có sao!” Một chốc, lại chắc lưỡi: “Lúc chiều giao liên bảo có triệu chứng bị phục kích, nên nó bàn với khách không nên đi, để chờ dò xét cho kỹ rồi sẽ đi – Nhưng có lắm ông sốt ruột bảo “Không chết bữa nay thì mai cũng chết! Chết trước được mồ được mả!” Thế là đi! Cho nên mới chết hết! Có ai được mồ được mả đâu nào!”
Chập sau, Thiệp lại tự trách: “Tại tôi không cương quyết. Tôi đã bảo với vợ tôi đừng có đi. Nhưng nó cãi lại: Để em đi cho biết cách mạng ra sao! Ở Hà Nội nay “xây” mai “chống” em chán lắm! Không đi B thì ở nhà em cũng lên Bắc Thái khai hoang chớ đâu có được yên thân. Thế là đi. Và chết như thế đó!”
Chập nữa, Thiệp lại nói nhảm một mình: “Bây giờ thì thân xác đã rã nát rồi! Có ai chôn cất gì đâu. Ở Hà Nội yên thân, không chịu, vô đây cho diều tha quạ xớt! Người chết đã yên, người sống lại khổ. Làm sao mà trở lại đó bây giờ.” Thiệp cứ lèm bèm không ngớt mồm. Thiệp cứ nhắc cứ than, bất kể có ai nghe hay không có ai nghe.
Cái sướng độc nhất ở chặng đường này là chúng tôi được lãnh gạo. Và gạo chỉ phát cho “dân” đi B, còn “dân” địa phương thì không được dấm dớ.
Kẻ nào chìa cái thẻ con con ra thì được lĩnh mười sáu kí gạo. Mèn đét ơi! Đó đâu phải chuyện giỡn chơi. Hạt gạo giữa Trường Sơn phải hiểu ra là một ống B12.
Chiều hôm đó, ông Huyện ủy tới lều tôi, tự giới thiệu và ngồi lại nói chuyện rất lâu như để tự bào chữa cho chuyến đi đau đớn vừa rồi. Rằng việc đó thường xảy ra và không thể nào ngăn ngừa được. Ông nói:
- Mình không có cơ sở đường dây ở đồng bằng. Từ trên núi xuống cũng như đi mò, may nhờ, rủi chịu vậy. May thì thoát, rủi thì chết. Không có ám hiệu gì từ đồng bằng như thời chống Pháp. Tụi Ngụy bây giờ khôn gấp trăm lần thằng Pháp. Chúng nó lập vành đai trắng rộng mấy cây số sát chân núi. Phải vượt vành đai đó mới xuống tới làng.
- Làng này tên gì, đồng chí? – Tôi hỏi.
- Xin lỗi đồng chí! Chúng tôi không được phép nói tên địa phương cho các đoàn đi B.
- Tại sao?
- Vì đã có trường hợp xảy ra rồi…
- Trường hợp gì?
- Họ nghe tên một làng một quận là họ có thể đoán ra hướng đi và … Tôi nói vậy đồng chí thông cảm! – Ông Huyện ủy tiếp – Lắm khi qua lọt Eo Máu rồi vào xóm thì gặp tụi Bình Định, ớn lắm. Chúng nó nằm trong dân. Một tiếng chó sủa khang khác cũng không lọt khỏi tai chúng nó. Tôi từng kháng chiến chín năm chống Pháp. So với bây giờ, kháng chiến chống Pháp chỉ là trò đi chợ Tết… Đồng chí ơi! Thiệt hại của mình vô kể. Không còn chi bộ địa phương. Hầu hết các chi ủy đều bị bắt và tù Côn Đảo cả. Lứa trẻ bây giờ không có kinh nghiệm và cũng không gan góc như cha anh chúng. Đã vậy lại đụng với một đối tượng vừa có huấn luyện vừa đầy đủ kỹ thuật.
- Kỹ thuật gì? – Tôi hỏi.
- Tôi nói ví dụ như cái vụ hầm bí mật. Ngày trước xuống hầm bí mật đem thức ăn thức uống xuống đó, tối ngày ăn hút khoẻ lắm. Tối bò lên đi từng nhà rỉ tai chuyện nọ chuyện kia. Bây giờ xuống hầm bí mật năm ăn năm thua. Chúng nó có chó. Trời đất, những con chó mang đâu từ bên Mỹ sang đây. Con nào con ấy to bằng con bò con. Chỗ nào nó nghi, nó thả chó đi tìm thì “bật nắp” hết. Chó đã đánh hơi thì không sót một hầm nào!
- Rồi mình hoạt động làm sao?
- Chưa biết. Hiện giờ cứ sống cái đã. Kỳ rồi tôi định luồn về để phổ biến những nghị quyết quan trọng nhưng không lọt.
- Đồng chí định công tác sắp tới thế nào?
- Trước mắt là tổ chức đi lấy xác.
- Đồng chí dám trở lại sao?
- Tụi này ác thì rất ác nhưng nhân cũng rất nhân.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là nó bắn ai chết, nếu là người trong vùng mà nó biết thì nó cho gia đình hay để đến lấy xác. Còn nếu nó không biết thì nó để cho năm ngày ai muốn đến lấy xác thì lấy, nó để yên, không phục kích. Sau năm ngày không ai lấy xác thì tụi nó cho trực thăng tới bốc đi, đem về chôn ở một bãi đất hoang. Bãi này ở rìa thành phố nghe dân đồn rằng nay đã hết chỗ.
- Ủa, có chuyện đó nữa sao? – Thiệp nhảy tưng lên.
- Bởi thế nên tôi muốn tổ chức người trở lại lấy xác và tìm kiếm những đồng chí thất lạc của mình nhưng không ai muốn đi hết. Riêng đồng chí thì thế nào? – Ông Huyện ủy hỏi Thiệp.
Thiệp đáp:
- Các đồng chí có đi thì tôi mới theo được, chứ nếu các đồng chí không đi, tôi làm sao dám tới đó ?
- Để tôi thuyết phục các đồng chí xem sao!
Chúng tôi nấu cơm với gạo (ở vùng này nói là nấu cơm nhưng thực sự trong nồi chỉ có bắp, khoai) và mời ông Huyện ủy ăn luôn cho vui. Chả là mới lãnh được gạo mà. Dân Nam Kỳ như thế đó. Nhà có đám giỗ mời luôn cả xóm. Huống chi mình đang ở trong “đất” người ta. Biết đâu sẽ còn nhờ vả.
Tội nghiệp, ông Huyện ủy ăn có vẻ ngon miệng hơn chúng tôi. Ông thú thực:
- Lâu lâu mới ăn được bữa cơm trắng các đồng chí ạ. Cơ quan ở đây phải tự túc tám mươi phần trăm, bộ đội năm mươi phần trăm lương thực. Nhiều rẫy bắp sắp được ăn, chúng nó phá sạch.
Riêng Thiệp thì không ăn một lượt với chúng tôi. Nhờ chìa ra cái thẻ chứng nhận đi B Thiệp cũng lãnh được gạo trắng. (Sau vài tháng đồng hoá với địa phương thì phải ăn bắp hoặc lãnh lúa về vọt lấy mà ăn như người Thượng).
Thiệp lui cui nấu nướng. Đợi chúng tôi ăn xong, Thiệp mới lấy cái bàn bện bằng cây rừng của tôi để gác ba-lô, trải ni-lông lên và bới cơm ra chén. Hỏi nó làm gì vậy? Nó móc túi lấy một tấm hình cỡ 4×6 dựng bên chén cơm rồi bệu bạo nói:
- Tao cúng cơm vợ tao! – Rồi Thiệp đứng trước bàn lâm râm khấn vái – Em là Phạm Thị Xuân Anh đi công tác chẳng may bị nạn, hi sinh giữa đường, sống khôn thác thiêng xin về phù hộ cho anh và các đồng chí đi đến nơi về đến chốn – Vái xong, xá xá, nước mắt ròng ròng và khóc rống lên.
Tôi cũng cầm lòng không đậu. Hoàng và ông Huyện ủy ngó ngang như không muốn nhìn cảnh bi thương diễn ra trước mặt: Cái bàn thờ tang và ông cán bộ giải phóng khấn vái.
Tôi thấy lòng quặn đau như vò. Lời van vái đơn sơ của Thiệp, chạm tới tâm can tôi. Ừ nhỉ! Mình cũng mang một nỗi đau như nó, nhưng mình không biết làm như nó. Tại sao? Mười năm qua, tôi đã sống trong những “cái nhà” không có bàn thờ, những cái nhà không có ông bà cha mẹ, những cái nhà chỉ treo hình cụ Hồ và đám mặt mo, những tên lạ hoắc lạ huơ mà phải gọi là ông nọ ông kia, gọi là tiên tổ. Sự thờ cúng đã vắng mất trong đời sống của tôi một quãng thời gian mười năm. Gia đình và dòng họ tôi cũng như gia đình và dòng họ những người Việt Nam hằng năm, đều có những lễ giỗ, những dịp cúng tế. Tôi đã hít thở hương khói thiêng liêng quanh bàn thờ, đã sống và lớn lên trong phong tục đó. Xã nghĩa văn minh đã gạt bỏ những phong tục “lạc hậu”. Cho nên bây giờ tôi thấy Thiệp cúng vợ mà ngạc nhiên và tự xấu hổ thầm. Không có một cọng nhang, một tờ giấy vàng mã nhưng chắc lời nó khấn sẽ bay lên cao đến tai vợ nó.


- 13 -
Đang nằm toòng teng trên võng bỗng nghe tiếng máy bay đến. Máy bay dọ thám. Có tiếng thét to cảnh giác mọi người, vang lên đây đó:
- Đầm già! Dẹp quần áo vô!
- Tắt lửa!
Mọi người ngửa mặt lên nhìn: Con “đầm già mang guốc” (loại máy bay tuần thám, bay chậm rì, có hai bánh xe thòi ra như cặp chân mang guốc. Bọn tôi chế diễu nó là “đầm già mang guốc”. Danh từ này có từ thời chống Pháp. Sau này về Nam “đầm già” bay đen trời. Nó tới đâu là bom tới đó, khác hẳn với thời chống Pháp, nhưng nó vẫn giữ nguyên tên: đầm già mang guốc.)
Con đầm già bay rè rè trên cao, vòng quanh khu rừng, không có vẻ gì nguy hiểm cả. Nhưng ông Huyện ủy bảo:
- Thằng này khó chịu lắm đó, các đồng chí phải đề phòng. Nó lên tới đây tức là nó đi tìm cái gì đó chứ chẳng chơi đâu.
Mười năm ở Hà Nội, tôi không còn nhớ các trận bom của đám “cồng cộc lửa” (spitfire) nay thấy máy bay thì cũng hơi gờm. Chiếc đầm già chao qua liệng lại một chốc rồi từ trên không có tiếng vang lên. Tiếng người nghe rõ từng câu một:
- Nghe đây! Anh em cán binh Việt Cộng hãy nghe đây. Đoàn văn nghệ xâm nhập xuống đồng bằng gồm có cán bộ Trung ương và cán bộ địa phương đã bị bắt đêm… Họ đã được đối xử tử tế và họ tự nhận ra công việc làm của họ là phi nghĩa, cho nên họ có đôi lời nhắn nhủ cùng đồng đội cũ của họ. Mời các bạn hãy lắng nghe những lời tâm tình của họ.
Chiếc máy bay bay chậm lại rồi hạ thấp xuống.
Tôi bảo ông Huyện ủy :
- Mình có bộ đội sao không chơi nó?
- Ấy chết! Ấy chết! Mình bắn một phát là lạy ông tôi ở bụi này ngay!
Chiếc máy bay lừ lừ bay thật chậm và tiếng nói lại phát ra:
- Cùng các bạn Hà Nội. Tôi là nhà nhiếp ảnh Bùi Văn Ánh. Tôi là người đã từng chụp ảnh bác Hồ đăng trên báo Nhân Dân, các bạn còn nhớ không? Trong chuyến đi vào đồng bằng đêm trước đây tôi đã bị bắt sống trên đường đột nhập. Tôi được đối xử tử tế, được trị bịnh sốt rét, hiện nay đã lành mạnh. Mỗi ngày tôi được ăn uống đầy đủ có cá thịt, nước ngọt, la-de, muốn thứ gì có thứ đó. Các bạn, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Chúng ta chiến đấu, hi sinh cho cái gì và cho ai? Nếu cho lý tưởng Thiên đàng Cộng sản thì hiện tôi đang sống trên Thiên đàng Cộng Sản! Hà Nội luôn luôn tuyên truyền rằng Miền Nam phồn vinh giả tạo, nhưng Miền Nam dưới mắt thật và cả trong ống kính máy ảnh của tôi nữa là một miền trù phú giàu có thực sự…
Sau bài phát thanh của nhiếp ảnh gia họ Bùi, có một bản nhạc. Trời đất! Bản “Kinh Cầu Nguyện” của Lưu Hữu Phước, bản nhạc tôi hát đến mòn lưỡi:

“Trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa cỏ

Thời xưa lưu dấu, âm vang nỉ non trong gió…”
Nghe nó, nhớ tổ tiên ông bà ông vải gì đâu không biết nữa. Mấy cái bộ mặt móp méo nhìn nhau mà chán nhau đến hết muốn thấy nhau nữa. Bỗng vang lên một giọng eo éo:
- Tôi là Phạm Thị Xuân Anh bị bắt cùng với nhà nhiếp ảnh Bùi Văn Ánh trong chuyến đi đồng bằng. Tôi là người Hà Nội, đi theo chồng là nhà quay phim Nguyễn Thiệp. Tôi không biết chồng tôi hiện giờ ở đâu còn sống hay bị thương bò lết rồi gục trong hang đá nào … hu hu…
Tiếng khóc của người đàn bà vang lên giữa trời xanh mà nắng lại chang chang như đổ lửa. Thiệp dựng đứng dậy nép mình bên thân cây, ngước lên khoảng lá trống như để nhìn cho rõ chiếc máy bay.
Phạm Thị Xuân Anh vẫn nói đi nói lại mấy câu ấy… Cũng giọng ấy rồi lại khóc. Tiếng khóc như làm vỡ cả trời đất.
Chập sau chiếc máy bay bay mất. Thiệp còn đứng mặt ngơ ngác tay chân không cử động giữa rừng như một cái cây khô. Ông Huyện ủy nói:
- Chúng nó bịp đấy, đừng có tin !
- Mày nghe có phải giọng nói của vợ mày không?
Thiệp ngồi phệch xuống lẩm bẩm:
- Nghe có lúc đúng có lúc không!
- Nhưng sao nó biết tên vợ mày và thằng Ánh nó nói trúng phông phốc cả vậy ?
Ông Huyện ủy gạt ngang:
- Nó có sở tâm lý chiến, nó biết hết mà!
- Nhưng làm sao nó biết chồng của bà Anh là Thiệp?
Ông Huyện ủy im vì không gạt được nữa. Tôi nói với Thiệp:
- Vấn đề là mày có nghe ra giọng của bả hay không thôi. Nó bịp cái gì thì bịp chớ giọng người thì không bịp được.
Thiệp bứt đầu bứt tai:
- Nghe có lúc đúng lúc không!
Ông Huyện ủy nói ngay:
- Đàn bà con gái thì giọng hơi giống nhau cả mà!
Vừa dứt lời thì chiếc đầm già trở lại. Cũng vẫn lời tâm tình của nhiếp ảnh gia họ Bùi rồi đến trời mây u ám, xong, đến Phạm Thị Xuân Anh. Thiệp ngước lên như hớp từng ngụm nước mưa vô hình. Phạm Thị Xuân Anh nói xong thì khóc. Mọi sự đều y như lúc nãy.
- Tao nghe giống lắm – Tôi buột miệng nói.
- Vâng, khúc đầu tôi nghe cũng giống lắm. Tiếng khóc cũng giống. Chỉ có khúc giữa thì hơi khang khác – Thiệp phụ hoạ – khang khác chứ không khác lắm!
Tôi từng làm ở Đài phát thanh Hà Nội, nên có ít nhiều kinh nghiệm về công việc thu âm. Tôi nói:
- Có thể là đoạn đầu nó thu âm trực tiếp, còn đoạn giữa là nó thu lại từ đoàn đầu nên âm thanh không hoàn toàn trung thực. Với lại có thể là phát ra giữa tầng cao, âm thanh bị gió và sức chuyển động của phi cơ làm méo mó đi nhiều.
Ông Huyện ủy lại gạt ngang một cách vui vẻ.
- Tôi bảo đảm đó chỉ là trò bịp. Chúng tôi đã bị nhiều lần rồi. Có cả một lần thằng “cán binh Việt Cộng ngồi trên máy bay đang kêu gọi đồng đội cũ lại là thằng đang ngồi chong ngóc dưới đất với chúng tôi”. Thằng đó lại chính là tôi. Hà.. hà… Các đồng chí biết sao không? Nó giả giọng nói của tôi. Chả là tôi có bị chúng bắt một lần và trốn thoát, nên nó có lời khai của tôi trong máy ghi âm. Nó chọn một người có giọng gần giống giọng của tôi… Thế đó! Nó làm cả xã, cả huyện hoang mang, vợ con tôi khóc hết nước mắt chứ phải chơi đâu!
Tôi gật gù miễn cưỡng. Hoàng chêm vào:
- Cái bọn chơi ngón độc thật. Lấy bạn gọi bạn, lấy vợ gọi chồng.
Tôi nói:
- Thì nó cũng “học” cái ngón của mình thường dùng thời kháng chiến chống Pháp chớ sao! – Tôi vỗ vỗ đùi – Tôi bị bốn vít cũng vì ham săn đề tài nội ứng để viết truyện cho chiến dịch trung tâm công tác năm 1952 ở Cần Thơ đấy cha! Kỳ đó tưởng hốt trọn ổ, ai dè mình bị phản thùng.
Còn đang cãi chuyện hư chuyện thực thì một tờ giấy rơi đúng vào giữa cái bàn thờ tang của vợ Thiệp: Bà Phạm Thị Xuân Anh. Cơm chưa nguội. Hồn Bà bay về hưởng của cúng!
Tôi thấy tấm giấy hình chữ nhật to bằng bàn tay trắng toát mà nghĩ như vậy. Tôi không tưởng tượng ra được ở giữa rừng laị có một mẩu giấy trắng đẹp đến thế. Ở đây cái gì cũng xù xì, thô lỗ, bần tiện, khốn cùng, làm sao có một tấm giấy thế kia? Vì ngồi gần đấy, nên tôi đưa tay cầm lấy. Tôi kêu lên:
- Trời đất! Vợ mày Thiệp!
Thiệp chụp lấy tờ giấy từ trên tay tôi. Rồi ông Huyện ủy cướp lấy. Ông ngoẹo đầu:
- Thôi, thế bỏ mẹ rồi! Thiệt rồi!
Tôi chẳng nói chẳng rằng gì hết. Còn Thiệp thì giật lại tờ giấy nâng lên mắt. Tôi chẳng ngờ được một câu chuyện như thế đã xảy ra kịch tính giống in như trong Shakespeare.
Đúng là vợ thằng Thiệp, bà Phạm Thị Xuân Anh, tôi quen ở trường đi B mà. Một tấm ảnh của bà in bên góc trái, còn bên góc phải là ảnh của hai vợ chồng chụp chung nguyên người. Thiệp kênh đồ Tây, cà vạt hẳn hoi. Còn vợ thì áo dài tha thướt. Cả hai cùng cười hạnh phúc.
Thiệp lắc đầu:
- Ảnh này chụp trong ngày cưới. Mỗi đứa bỏ ví một tấm đề phòng khi vô đây công tác xa nhau.
Chẳng còn ai nói thêm câu gì. Cả đến ông Huyện ủy có thói quen gạt ngang hết mọi sự đời cũng im luôn. Ông ta cứ chắc lưỡi như thằn lằn. Thiệp chỉ đọc đi đọc lại những dòng chữ trên giấy. Cũng y như lời phát thanh. Chữ to, đậm ở phía dưới cùng lại có cả chữ ký tên Phạm Thị Xuân Anh. Tôi hỏi:
- Mày xem có phải chữ ký của bả không?
- Chứ còn của ai nữa!
Có lẽ sau một phút suy nghĩ, ông Huyện ủy tìm ra được cái “chà gạt” mới, nên nói:
- Nhưng mà bà ấy bị ép buộc nên phải làm thế thôi!
- Có ép buộc gì đâu. Mấy câu của bà ấy chỉ cho biết bả bị bắt, cho biết tên chồng, cho biết gốc gác, công tác của vợ chồng, thế thôi!
Ông Huyện ủy trở tờ giấy đọc mặt bên kia.
- Đồng chí này cũng bị bắt buộc. Ai bị bắt cũng nói y như vậy thôi!
Tuy miệng nói vậy nhưng mắt ông vẫn đọc. Tôi theo dõi, liệu chừng ông đọc xong, tôi giật lấy.
Liếc sơ qua cũng thấy lời lẽ phát thanh và chữ in trên giấy đều giống nhau. Còn ảnh của anh phó nháy thì cũng in bên góc trái. Đúng là hắn rồi chứ không phải ảnh “mượn” được của ai mà lại giống đến thế.
Cả mấy người đều ngơ ngẩn nhìn nhau, chưa ai có đối sách như thế nào thì chiếc đầm già lại trở lại. Cũng phát thanh những lời lẽ thống thiết như trước . Ông Huyện ủy lại xua tay:
- Kệ xác nó nói gì nó nói, mình đừng thèm nghe.
(thiếu một trang vì nhà in sắp nhầm. - Ghi chú của người đánh máy. Lê Thy)
…ổn định dân của ông nên ông chạy lại chỗ có tiếng ồn kia.
Tôi ngoái cổ nhìn theo thì thấy một nhóm người đang túm tụm vào nhau giành giật lia lịa. Rồi mấy người chạy thụt lùi về phía này. Tôi thấy trên tay mỗi người có mấy cái hộp vuông dẹp hoặc hộp tròn bóng loáng.
- Hộp thịt! – Tôi nói với Hoàng.
- Thịt gì?
- Thịt Mỹ. Loại mình đã từng lượm được và ăn dọc đường ngoài kia!
Chập sau lại có tiếng kêu ở xa xa.
Ông Huyện ủy trở lại ngồi xuống và lắc đầu:
- Tụi nó chơi mình tới gáo!
- Cái gì vậy đồng chí ?
- Chúng nó ném thịt hộp, đồ Mỹ!
- Trời đất! Thiệt vậy sao?
- Thì càng khoái! Buồn ngủ lại gặp chiếu manh! – Tôi nói – Để tôi đi kiếm một hộp về ăn cơm trắng coi! Loại này tôi có ăn rồi! Béo lắm!
Ông Huyện ủy lại gạt ngang:
- Không được đâu! Ăn của nó là “dính” nó đấy!
- Nó bỏ thuốc độc à?
- Không ?
- Vậy dính cái gì?
- Ăn của nó phải suy nghĩ về nó. Rồi so sánh với mình. Rồi hoang mang. Hại lắm.
Hoàng Việt cười:
- Ăn thì ăn nhưng mình vẫn giữ vững lập trường thì thôi chứ gì mà dính.
- Miếng thịt hộp nó có liên quan với tư tưởng của mình chứ đồng chí !
- Vậy những người lượm kia thì sao?
- Tôi không chặn kịp!
- Giá đồng chí chặn kịp thì đồng chí sẽ giải thích thế nào?
- Ở đó mà giải thích! Tôi chỉ ra lệnh: Không được ăn đồ của địch! Thế thôi!
- Hồi nào tới giờ đã xảy ra vụ thả đồ ăn như thế này chưa?
- Có rồi chớ!
- Rồi đồng chí làm sao?
- Đâu có làm gì kịp họ. Họ lượm rồi giấu đút ăn lén, hoặc đổi chác.
Tôi chíp trong bụng cái tiếng “đổi chác” đó rồi. Mình đang cần, Mỹ lại tiếp tế! Câu chuyện bảng lảng rồi nhạt phèo. Ông Huyện ủy tuy mồm nói rất cứng nhưng cặp mắt ông lại láo liên. “Tư tưởng có vẻ không tập trung” Tôi nghĩ thầm: Xét ba-lô cha này nếu không có “đặc sản” thì cạo đầu tôi bằng con dao găm Hàng Mã này. Tôi biết tỏng chúng nó hết cả. Càng lớn đầu càng ăn vụng tợn. Lão Hồ thì thiệt tình tôi không biết, nhưng từ Lê Duẫn tới tận thằng bí thư xã, tất cả, không có một thằng nào liêm chính và yêu dân thực sự. Chúng nó toàn một loại đeo mặt nạ để lừa người. Và tôi cam đoan lời nói của tôi không sai. Chuyện về chúng nó tôi viết mãn đời cũng chưa hết.
Cái thằng cha Huyện ủy này nói miệng tài thế nghĩa là trong ba-lô của hắn đã có vài hộp thịt của người ta lót, biếu, hoặc đổi cho hắn rồi.
Mỗi người ai về lều nấy. Thiệp thì nằm ngất ngư mặt ngó cái bàn thờ có tấm ảnh dựng bên chén cơm. Tôi thì quèo Hoàng Việt:
- Ê, kiếm vài hộp thịt về ăn cơm trắng uống trà khao quân một bữa cha nội.
- Ở đâu mà có?
- Ở đâu có thì thôi.
Thế là hai đứa làm một cuộc phiêu lưu đi đổi đồ….ăn Mỹ!
Chúng tôi đi theo một con đường mòn nhỏ. Càng đi xa con đường chính càng có thêm đường mòn và càng gặp chòi trại, lều võng, núp, giăng lềnh khênh dưới những tàng cây. Một xã hội mới hình thành nơi đây, có cả trẻ con 6,7 tuổi và có cả đàn bà chửa.
Như đã nói trên kia, lên núi thì dễ, trở xuống đồng bằng thì khó. Chúng mở cổng Eo Máu cho đi lên, hầu như thả lỏng không làm gì, nhưng bịt đường trở xuống.
Tôi lại tình cờ gặp anh bạn gì mua đất trong Nam nhưng ký giấy và trả tiền ở Hà Nội. Và đã đổi cho tôi hộp muối lấy bộ quần áo lụa đen. Ông cũng là một Huyện ủy viên ra Hà Nội bị phân công làm đủ thứ việc táp nham, nay trở về quê, bỏ vợ con ở lại Hà Nội. Ông ta mua đất của một đồng hương tên là Võ Văn Mịt. Ông Mịt có đất ở quê nhưng lại không về quê bèn bán cho ông Huyện ủy và nhận tiền của ông này ở Hà Nội. Giấy đã ký do ông Huyện ủy cầm tay. Khi về đến nơi trao giấy cho ông em là Võ Văn Mờ đang cư ngụ trên mảnh đất đó, ông Mờ sẽ cắt một phần “giao” cho ông Huyện ủy ở Hà Nội mới về.
Cuộc mua bán dự định sẽ diễn ra như thế…
Trông thấy tôi, ông Huyện ủy nhớ ra ngay, niềm nỡ như gặp lại cố tri:
- Mới tới đây thôi à?
- Tới đây là tài lắm rồi, còn muốn gì nữa cha non. Con cha sao trồi lên đây?
Vừa nói tôi vừa bước vào lều của ông bạn, còn Hoàng Việt thì xăm xăm đi theo đường mòn tìm kiếm như một nhà thám hiểm đáy biển.
- Nó đánh ác lắm! Ngồi còn không yên, nói chi chuyện mua đất mua đai.
- Vậy là đồng chí trở thành vô sản hoàn toàn rồi đó! – Câu pha trò của tôi đâm ra vô duyên. Ông Huyện ủy không vui lên chút nào. Tôi ngồi bệt xuống gốc cây.
Ông bạn trỏ quanh lều:
- Tài sản của tôi đó.
- Định chừng nào gặp bà con?
- Có gặp được đâu! Từ Eo Máu này mà về tới chỗ tôi còn phải vượt mấy cái lộ mấy con sông máu nữa. Khu 5 rộng lắm chứ đồng chí tưởng nhỏ à?
- Vậy trong bản đồ xem có bằng lóng tay! – Tôi tiếp – Rồi định kế hoạch ra sao?
- Địch “móc” gia đình nhưng chưa biết móc cách sao!
- “Móc” là thế nào? – Lần đầu tiên tôi nghe cái tiếng này nên tôi hỏi.
- Theo địa phương thì “móc” có nhiều cách. Một là móc để xin tiếp tế gạo muối quần áo, hai là móc người địa phương lên lãnh mình về công tác.
- Rồi đồng chí định móc kiểu nào?
- Kiểu nào cũng không móc được cả! Tụi nó kiểm soát gắt lắm. Tôi đã lọt được Eo Máu, trầy vi tróc vảy, nhưng vô đến làng đồng bào ở, đâu có ai dám chứa.
- Cơ sở hồi đánh Pháp không còn à?
- Người ta đều làm ăn khá cả nên không còn nhớ chuyện xưa nữa. – Ông bạn ngồi lên võng và tiếp – Tôi có nói chuyện với một vài gia đình, họ có vẻ lơ là với cách mạng. Không giống như hồi đánh Tây nữa. Họ nói là Tây đi, độc lập rồi, giải phóng rồi. Người mình cai trị nước mình rồi. Còn nô lệ đâu nữa mà giải phóng. Do đó họ coi mình vô tích sự. Và không chịu chứa. Nhưng họ không đi báo cho tụi chính quyền mà chỉ yêu cầu mình đi nơi khác. Thế mới bỏ bố kia chứ!
- Đồng chí có cho bà con biết đồng chí từ Hà Nội về không?
- Có chứ!… Tưởng mình xưng ra như vậy họ niềm nỡ tiếp nhận mình, chẳng ngờ họ nói như tạt nước lã vô mặt – Một ông tập kết mới về tới làng ra hồi chánh ngay và được tụi nó đối đãi tử tế quá sức. Rồi anh ta đi nói chuyện khắp trong tỉnh. Thế đó. Cái uy tín mình tưởng từ Hà Nội cõng về đây là ăn tiền lắm, nhưng ngược lại, người ta sợ mình mất hồn!
- Sợ thế nào?
- Hễ ai chứa cán bộ Mùa Thu, chúng bắt được chúng tịch biên gia sản và bỏ tù. Còn gia đình nào có chồng con đi tập kết mà trở về kiểu đó thì thưởng to lắm. Tôi chưa thấy nhưng nghe người ta nói thế. Đó chánh sách của tụi nó. Đồng chí có nghe máy bay nó la om trên trời đó không? Nếu vợ con bè bạn mình ở trên trời gọi mình như thế mình nghĩ thế nào? Mình chơi nó hết ga thì nó chơi lại mình cũng tới đáy. Mình có phép nó cũng có bùa. Mình mấy nó mấy chớ nó có chịu xuôi tay cho mình nuốt à? – Ông Huyện ủy tiếp – Còn cái bùa ác lắm ông bạn ơi!
- Bùa gì?
Ông Huyện ủy lấy thuốc ra quấn bằng giấy nhựt trình đốt hút rồi chậm rãi tiếp:
- Tụi nó biết chồng tập kết thì nó bắt vợ tái giá thấy mẹ hết.
- Vậy à?
- Ác lắm ông bạn ơi! Nó không có bắt buộc gì nhưng nó tâm lý chiến. Nó dỗ dành nay một tiếng mai một tiếng. Ngọt mật chết ruồi. Lửa gần rơm không tròm thì cũng trẹm. Đồng chí nghĩ coi mười năm không thư từ, không tin tức. Bưu thiếp mình gởi từ Bắc qua Paris đâu có vô thấu đây. Đàn bà có con hay không có con cũng vậy, không có đàn ông, sống làm sao? Những người từ hai mươi đến ba mươi tuổi đi lấy chồng mới, có đến chín mươi phần trăm.
Tôi lặng thinh. Ông Huyện ủy tiếp:
- Ở ngoài đó mình tưởng tượng tình hình một cách chủ quan, về đây đụng thực tế mới ngã ngửa ra cả đám.
Tôi nói:
- Trung ương đã nhận định tình hình đúng chớ. Cho nên chúng mình đều được chuẩn bị chịu đựng gian khổ cả mà!
Ông Huyện ủy bặp bặp điếu thuốc tắt queo. Tôi tưởng ông ném quách nó đi nhưng ông lại vói tay dán nó lên cọc mắc võng – Để phòng khi ngặt có mà đốt cho thơm râu…
- Đồng chí ơi, cái gian khổ mà Trung ương chuẩn bị cho mình là cái gian khổ vật chất. Tôi nói thật, tôi không ngán ăn bờ ngủ bụi đâu! Tôi chỉ sợ mình vào nhà đồng bào, đồng bào “đuổi khéo” mình kìa! Đuổi khéo mình ra vườn. Còn một cái gian khổ nữa, thiệt kêu trời không thấu.
- Không có hầm bí mật hả?
- Không! Cái khổ này là các đồng chí mình không ưa mình.
- Đồng chí nào không ưa mình?
- Các đồng chí địa phương.
- Tại sao mình về tiếp tay với các đồng chí mà các đồng chí lại không thích mình?
- Thế mới lạ! Ban đầu tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng qua thái độ và lời nói của họ thì dần dần tôi hiểu ra hết. Họ không phân công công tác cho mình. Ở ngoài Bắc, trước khi đi, Trung ương có nói là các đồng chí ở cấp ủy nào, trước kia nếu không phạm kỷ luật trong mười năm xây dựng xã hội chủ nghĩa thì về trong Nam sẽ giữa nguyên cấp bậc cũ và góp sức củng cố cấp ủy địa phương. Nghĩa là nếu trước đây đồng chí là tỉnh ủy viên thì về tỉnh cũ đồng chí bổ sung cho tỉnh uỷ tỉnh nhà, nếu là huyện ủy viên thì bổ sung cho huyện ủy nhà…Tôi là huyện ủy lúc chúng nó chưa vô đảng và có đứa do chính tôi kết nạp. Bây giờ tôi về có một đứa là huyện ủy viên. Gặp tôi chúng nó không mừng lại có vẻ khinh khỉnh. Chúng nó bỏ tôi nằm lỳ không tiếp xúc, không phân công công tác. Đường đi nước bước bây giờ khác hết, hớ một tấc đường là chết ngay. Vậy nên mình đâu dám cục cựa.
Tôi băn khoăn hỏi:
- Tại sao họ lại có thái độ kỳ lạ vậy?
- Họ cho tôi là thằng hưởng lạc mười năm, lạc hậu nọ kia. Có lẽ vậy!
Là một người viết văn, làm báo, đi kháng chiến chống Pháp, sống mười năm trên đất Bắc, tôi chưa hề nghĩ tới cái tâm lý này. Cho nên khi nghe ông huyện ủy kể, tôi không khỏi ngạc nhiên. Ông ta tiếp:
- Tôi ngót năm mươi rồi. Về kinh nghiệm đời, tôi đâu có kém chúng nó và cắt đi mười năm “hưởng lạc” miền Bắc, thành tích của tôi cũng chưa kém chúng nó mà. Còn tuổi đảng thì khỏi phải nói rồi, thế thì tại sao chúng nó không xài tôi ? Tôi về đây đâu phải để nằm ỳ ăn hút? Xa vợ, xa con, để làm gì kia chứ?
Có lẽ tâm sự của ông huyện ủy lâu nay chất chứa trong lòng không xổ ra được với ai nên nay gặp tôi, một người lạ, mà ông coi như một người thân.
Tôi còn biết khuyên bảo gì ? Vả lại tôi trẻ hơn ông ta ít ra là mười lăm tuổi. Tôi đã từng biết cái tâm lý của người Bắc cạnh tranh – và luôn luôn thắng thế- với người Nam kỳ. Tôi từng biết sự bạc đãi của Trung ương đối với dân Nam kỳ. Cụ thể là những lãnh tụ kháng chiến của Miền Nam Việt Nam và của Nam Bộ đều cho đứng xa khỏi những chức vụ quan trọng của Trung ương. Như ông Phạm Văn Bạch và ông Phạm Ngọc Thuần hai nhà đại trí thức (cả hai đều là luật sư danh tiếng ở Nam Bộ) là Chủ tịch và Phó Chủ tịch ủy ban Kháng chiến kiêm Hành chánh Miền Nam Việt Nam, tức là, ngoài Nam Bộ ra hai ông còn lãnh đạo luồn ra các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Chức Phó Thủ tướng và Bộ trưởng (bất cứ Bộ nào) cũng xứng đáng cho hai ông cả. Nhưng hai ông chẳng được xơ múi gì. Ông Bạch thì làm Chủ tịch Tòa án Tối cao nghĩa là không làm gì hết. Còn ông Thuần thì bị gởi đi làm Đại sứ ở Đông Đức, một hình thức tù đày sang trọng.
Cái tâm lý Bắc cai trị Nam kỳ, Bắc kỳ nuốt sống dân Nam kỳ có trong tôi và trong toàn dân tập kết. Nó xảy ra từ sau hòa bình. (Tôi tưởng tôi sai lầm. Chẳng ngờ bây giờ sau ba mươi lăm năm, tôi thấy tôi nghĩ đúng lắm).
Thế nhưng tôi chưa từng biết tới vụ người địa phương chống người địa phương đi tập kết về. Và đây là lần đầu tiên tôi được nghe cái tâm lý đó. Mẹ kiếp! Không khéo, mình về trong đó lại cũng gặp cái rắc rối này nữa cho coi. (Đúng thật, tôi thấy lời ông huyện ủy kể là một thực tế rất phổ biến mà có lẽ Trung ương cũng “khơi” nốt)
—>Chương 14


- 14 -
Hoàng trở lại. Anh ta một tay cầm hai hộp thịt, một tay cầm mớ giấy. Hoàng xòe giấy ra cho tôi:
- Ác quá mày ! Đọc coi !
Tôi đọc và kêu lên:
- Thế này thì chúng mình phải cuốn gói đi ngay !
Ông huyện ủy giật mình hỏi:
- Gì thế đồng chí ?
- Chúng nó kể tên từng đứa một trong đoàn chúng tôi.
- Ồ tưởng cái gì chớ cái vụ đó thì ăn thua chi đâu. Chúng nó in tên các cấp tỉnh ủy huyện ủy xã ủy kể lai lịch từng người một và kêu gọi hồi chánh mà. Chúng rải truyền đơn khắp nơi để dân chúng biết mà tìm gọi mình nữa. Người dân nào đem được một cán bộ cỡ nào thì được thưởng một số tiền bao nhiêu, còn cán bộ cỡ nào tự mình tìm đường về nộp mạng thì được tặng bao nhiêu tiền.
- Làm vậy mà có kết quả à?
- Có mạnh chớ sao không !
- Thế à ?
- Ngày nào cũng có. Hễ có là chúng cho loa tên tuổi người đó. chụp hình in kèm với lời kêu gọi rồi rải đi khắp nơi ! Đồng chí nghĩ coi nó đánh mình thế đó, mình đành chịu thôi không đỡ gạt nổi.
Tôi thấy ngồi lâu sẽ bi ông Huyện ủy tuyên truyền về chánh sách hồi chánh rồi nhiễm mất (và tôi bị nhiễm thiệt, nhưng chưa nhiễm ngay bây giờ mà mấy năm sau) nên nháy Hoàng đi về lều. Vừa đi, tôi hỏi:
- Ở đâu mò ra vậy?
- Thiếu gì ! Hầu như ai cũng được một vài hộp. .
- Tụi ngu bỏ mẹ ! Đáng lẽ chúng nó để mình chết đói, lại ném thịt cá cho ăn !
- Nó khôn thấy bà !
- Khôn gì ! “Khôn liền” thì có !
- Ăn hết hộp này nó không liệng nữa đâu ! Mình thèm! Ăn quen nhịn không quen. Thế là bò về tìm thịt. Thế là nộp thịt. Phải không?
Tôi cười :
- Anh học trường tâm lý chiến của tụi nó hồi nào vậy ?
- Mới vừa rồi đó ! Cái ông đó đã dạy mình một bài học tâm lý chiến khá chi tiết.
- Đổi với cái gì vậy?
- Cái áo thun ba lỗ.
- Mới cũ?
- Cũng còn mới ! Chỉ sợ không còn đồ đổi thôi, chứ thịt thiếu gì !
- Bây giờ mà trở lại được trạm 1 quơ ba cái đồ mắc trên cây ném trên vách đá đem vô đây đổi thịt ăn hé !
- Bố tao bảo trở lại tao cũng không trở. Xe tăng lôi tao cũng bứt xích chạy ngược lại.
Hoàng là người gương mẫu trong trường đi B, nhưng đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải anh mới bắt đầu hiện nguyên hình: “bất mãn chúa, tấu nhạc toàn chói tai.”
Tôi nhớ lại lúc mới đi chặng đầu tiên của con đường này. Vui vẻ, hào hứng, phấn khởi vô cùng. Mọi người coi giải phóng Miền Nam như trở tay. Lấy đồ trong túi còn khó hơn. Trên trời không có máy bay. Dưới chân tuy đồi dốc khá nhiều, nhưng sức lực còn dồi dào. Thanh Niên Xung Phong vừa đi hằng đoàn vừa hát. Cơm ăn với muối nhưng rất ngon miệng. Và tự cho mình đang nằm gai nếm mật cùng với nhân dân khi ngủ giữa trời dưới một tấm tăng bằng cái… lá đa rách nát. Giản chính tư tưởng và giản chính những thứ kềnh càng. Cuộc sống bị “giản chính” một cách không thương tiếc. Dọc theo đường đi, nào áo len, nào mũ dạ, quần ga-bạc-đin, giày bố, khăn mặt, cặp da v.v…. treo mắc như một cửa hàng chợ trời đầy màu sắc.
Người đi trước vứt bỏ, người đi sau nhặt lấy hoặc đổi lấy cái tốt của người vừa bỏ vứt cái xấu của mình. Cứ thế, cho đến vài trạm sau thì chẳng còn thấy món đồ nào treo mắc hai bên đường nữa. Con người đã giản chính tối đa. Ở trạm 3, tôi thấy một anh chàng đập cây ghi ta của mình ra mà nhóm lửa vì trời mưa to quá, củi ướt vả lại giữa ban đêm, không còn cách nào khác hơn là hi sinh món nhạc cụ yêu quí đã từng được cõng từ Hà Nội vào đây. .
Nghe Hoàng nói có lắm thịt hộp thì tôi mê lắm nhưng biết chắc trong ba-lô không còn được bao nhiêu món có giá trị để đổi chác. Ở đây thì đồ vật đổi chác phải là thứ thiệt chứ không thể đem dây chuyền mạ, cà rá giả ra mà đổi lợn, gà như đối với đồng bào Thượng.
Đí “ruồng” thịt hộp và nói chuyện khào, tâm thần sảng khoái. Về đến lều thấy Thiệp nằm gác tay lên trán thở hắt ra mà rầu. Hoàng nói:
- Chắc cậu không còn giữ ý định vô Nam kỳ quốc với tụi này nữa phải không?
- Tôi phải trụ hình ở lại đây rồi anh ạ! Chờ xem tình thế thế nào !
- Đã rõ rồi, còn xem tới xem lui cái gì nữa !
- Nhưng mà… Khổ quá anh ơi !
- Thôi, để nấu cơm ăn cho khoẻ cái đã rồi sẽ tính tới – Tôi cắt ngang.
Đợi đến sẫm tối chúng tôi mới bắt đầu nổi lửa nấu cơm. Lửa khói đốm đỏ đốm xanh khắp cả một dãy rừng. Tiếng chí choé í ới nghe thiệt vui tai. Suốt ngày đói meo uống nước cầm hơi, ngồi nhao nháo ngó lên trời không thấy trời, trông xuống đất chỉ thấy toàn sỏi đá mong cho chóng tối để nấu cơm.
- Các anh ăn đi ! Tôi ăn không vô đâu!
Chúng tôi biết Thiệp ngại không muốn ăn chỗ thịt của Hoàng vừa đổi được. Không phải Thiệp sợ mất lập trường mà “ăn của anh em rồi lấy gì trả lại. Ở đây một hạt muối cũng phải đổi chác mà ! ” Tôi bèn nói :
- Tớ ăn cơm Miền Bắc mười năm, nay cậu ăn lại miếng thịt mà gì dữ vậy?
Tôi nói cà rỡn cho nguôi buồn thằng bạn đồng hành để nó ăn no chôn lấy nỗi buồn của nó, cũng là của tôi, chẳng ngờ nó òa lên khóc.
- Các anh tốt bụng quá ! Xin cảm ơn! Tôi tưởng các anh thành kiến với tụi tôi nặng lắm !
- Thành kiến với tụi lớn đầu không nên nết kìa ! Chớ tụi tao đâu có thành kiến với cả đồng bào Miền Bắc. Mày hiểu không? Chúng mình cùng là nạn nhân của những chánh sách lạ kỳ hết cả mà.
Hoàng Việt nói xong đi lấy tấm hình vợ Thiệp:
- Dẹp bàn thờ được rồi chứ! – Rồi đem mấy chén cúng trút vào gà mèn trộn cho đều.
- Ừ ừ tôi quên khuấy đi.
Chúng tôi ngồi dưới đất ăn cơm trắng và thịt nghiền đóng thành bánh xắt lát mỏng.
- Thịt nạc Mỹ đây ! – Tôi vừa gắp một miếng vừa nói – Kê vô mát cả răng!
Hoàng Việt tiếp tục khuyên lơn Thiệp:
- Cậu cho là cô Anh đã hi sinh rồi phải không? Thế mà bây giờ cô cấy còn sống. Đó là một cái may không ngờ được. Cậu còn muốn gì nào? Chắc cậu muốn cổ được thả dù xuống đây chắc. Chuyện đó thì không thể có. Vậy ta hãy vui với cái ta đang có là cô Anh còn sống. Đó là phần cô Anh. Còn cậu, hãy so sánh với ông bạn nhà văn của chúng ta đây thì sao? Cậu sung sướng hơn nhiều phải không? Nếu chẳng may cô Anh lâm vào trường hợp cô Phương và chính tay cậu gói liệm, chôn người yêu như cậu đã liệm và chôn cô Phương thì sao? Cô Phương vĩnh viễn nằm lại đó, mưa gió sẽ khỏa tan nấm đất. Có ai còn biết tới nữa đâu. Trước khi chết không trối được một lời, chết rồi không được người yêu nhìn xác.
Thiệp đang bưng chén cơm bỗng đặt xuống, gục đầu xua tay:
- Thôi … thôi, anh đừng nói nữa! Tôi hiểu vậy, nhưng tôi đau quá anh ạ ! – Rồi bỏ lên võng nằm – Tôi xin lỗi các anh, tôi đã làm cho bữa cơm mất ngon.
Hôm sau, tiếp tục đi ruồng thịt hộp tôi lại gặp quá nhiều người quen, toàn dân Nam Cờ. Đúng là khúc ruột…thừa Miền Trung. Tất cả rác rến cặn cáu của dân Nam Bộ mang từ ngoài xứ xã nghĩa vào đến đây đều xì bật ra .
Trong sáu người có ba người tôi quen từ trong kháng chiến Nam Bộ. Còn ba người kia không quen nhưng cũng là dân Thành Đồng. Tất cả đều là cán bộ trung cấp nghĩa là từ Tiểu đoàn phó lên tới Trung đoàn phó. Ai nấy đều mang giò heo oai phương lấm lét. Quý, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 chuyên gia đào gốc lim ở nông trường Lam Sơn tóc bạc phếu như bọt biển, Mật, Tiểu đoàn phó thuộc đội Công binh Sư đoàn 330 và Trữ, Tiểu đoàn trưởng kiêm Tham mưu phó Trung đoàn 2 đóng ở Bãi Thượng nơi tôi từng tới lui để tìm ngõ chui qua Lào về Nam mà không lọt. (Nếu lọt tôi đã không phải bị muỗi đòn xóc tiêm cho thuốc bổ sốt rét rừng trên đường này).
Các tay tổ này cũng đang lùng tìm thịt hộp. Tôi và Hoàng khoái tỷ vì đã gặp được bồ tèo. Dù thế nào cũng xin tháp tùng với họ đi cho vững bụng. Khi tôi bày tỏ ý ấy ra thì Mật nói ngay:
- Ê, tụi này là một lũ tội nhơn đây nghe ta ! Bộ muốn không còn chỗ đội nón hay sao mà dính vào ?
- Tại sao là tội ?
- Chuyện Tam Quốc ba mươi sáu cuốn kể sao cho hết.
- Tóm tắt “Hồi thứ năm mươi” nghe thử coi.
- Đại khái là ở trên phân công tụi này về khu Sáu !
- Trời đất! Thiệt sao cha?
- Không thiệt thì bịa à?
Hoàng nói:
- Thì ở mấy trạm ngoài mình cũng nghe một vụ tréo cẳng ngỗng như vậy mà.
Tôi lại hỏi Mật:
- Ông đã nếm mùi khu Sáu chưa?
- Mới nghe hin hỉn là đã chạy sốt vó rồi, nếu phải nếm chắc ói tới mật xanh.
Hoàng Việt hỏi:
- Nói vậy đây là khu Sáu rồi sao cha? Vậy gần qua ranh Nam Cờ mình rồi !
Mật xua tay:
- Chưa, chưa đến khu Sáu đâu mẹ đĩ ! Nhưng khu Sáu không có đường xuống. Phải xuống “Khu Eo” rồi mới luồn vô “khu Éo” (Có một số ngôn ngữ sáng tạo trên đường dây như khu Eo, khu éo là khu Năm, khu Sáu). Đừng có mừng vội.
Đoàn người rẽ theo những đường mòn khác nhau đi ruồng thịt hộp. Tôi và Mật cố tri nên bắt cặp với nhau đi chung một đường. Tôi hỏi tiếp:
- Rồi các cha làm sao?
- Một số chống lệnh một số thỉ hành lịnh.
- Họ không nói gì à?
- Nói chớ sao không nói ! Họ bảo là phạm kỷ luật quân đội sẽ ra tòa án binh khu.
- Ớn vậy à?
- Chống lệnh cấp trên đâu phải chuyện đùa ta! Chắc họ bảo sẽ cho các trạm phía trong bắt giữ chúng tớ lại. Nhưng chưa thấy ai bắt cả.
- Nếu họ cho người bắt thì làm sao?
- Làm sao thì mặc làm sao, dẫu có bề nào cũng chẳng có ghê mà ! Tụi tôi về quê chiến đấu chứ có theo giặc đâu mà sợ tội !
Tôi vẫn còn thắc mắc:
- Nhưng lệnh đâu lại có lệnh lạ kỳ vậy hả?
- Người ra lệnh cứ việc ra còn dưới này có thế nào cũng mặc. Cậu chưa rõ đầu đuôi, để tôi kể cho nghe. Số là ở khu Sáu vừa lập một trung đoàn mới chỉ có lính, rất thiếu cán bộ cậu biết không? Cho nên họ điện ra Hà Nội xin cán bộ. Sẵn dịp bọn này đang đi ngang qua đây, thế là bộ Tổng ra lệnh cho chúng tôi xuống Bác Kế để nhận công tác, tức là lắp vào cái trung đoàn mới đó và chỉ huy nó luôn.
- Sẵn ổ đẻ, sướng thấy bà, còn đòi gì nữa!
- Ổ gì mà đẻ sướng, cha non ! Có sướng mấy tôi cũng không đẻ mà ! Ổ tôi phải lót ở trong Nam thì tôi mới đẻ. Mà ở trong đó tôi có sắn ổ rồi. Tôi mong về tới đó. Tôi phải về trong đó cơ! Sống chết cũng về mà! Chứ theo ông, ông bị phân công xuống khu này, ông có đi không ông nội “Thành bùn Tổ cò?”
Câu hỏi như một đột biến trong tâm tư tôi.
Ừ nhỉ. Đó là lương tâm con người đối với Quê hương. Tôi có người yêu quê ở khu Năm đi về khu Năm. Sao tôi không đi với nàng. Nếu tôi xin đi khu Năm thì chắc chắn được ngay. Vì khu Năm, khu Sáu, ngoài người địa phương, không ai đi. Ngược lại người ở khu Năm mà được đi Nam Bộ thì lấy làm sung sướng. Chao ôi ! Cũng thời là con cháu Thành đồng Tổ quốc, nhưng đứa thì con cháu ruột, đứa lại ghẻ. (Cái Thành đồng Tổ quốc này có một thời bị cà nanh dữ dội. Số là cái “thành” này già Hồ tặng cho Nam kỳ không phải cho khu Năm khu Sáu. Đây là lời phỉnh vĩ đại nhất đối với dân Nam kỳ. Do sự phỉnh này mà dân Nam kỳ mới đưa ngực ra đỡ đạn cà-nông trong mười năm trời và lấy làm tự “hìu” so với các miền đất kháng chiến khác. “Tụi tao anh “rũng” nên mới dược cái vinh dự to bằng bồ ấy.” Do đó khu Năm khu Sáu phân bì. “Miền Nam đi trước về sau ! ” Cùng với Nam Bộ, khu Eo khu Éo cũng anh “rũn” nào có kém ai ? Tại sao già Hồ không tặng gì hết. Già Hồ thấy hơi khó xử, nên lập lờ nói tráo rằng: “Hồi đó tui tặng cái “thành” đó chung cho Miền Nôm” (từ vĩ tuyến mười bảy trở dzô!! Ô hô hô!) Nhưng cái huy hiệu thành đồng nhỏ hơn hai ngón tay tréo chỉ được phát không cho dân Nam kỳ chứ không phát cho dân khu Năm khu Sáu. Nhưng dù được nhận mặc lòng, dân Nam kỳ cũng không có đứa nào thèm đeo trên ngực vì cái ngực bằng xương thịt thì lổ chỗ dấu đạn mút-canh-tông và cà nông, còn áo thì tả tơi nên không còn chỗ đeo. Còn một chỗ khả dĩ được cái huy hiệu đó nhưng không thể đeo vì đeo ở đó, không ai nhòm thấy. Vinh quang cũng có lắm thứ vinh quang, thứ vinh quang thiệt tình là ghế ngồi, đất đứng thì dân Nam Kỳ không được cấp phát bao giờ. Còn vinh quang hàng mã thì được cấp phát nên không nhận. Đại khái cái Thành Đồng nó như vậy đó, cho nên dân Nam Kỳ trên đường này và trong thời kỳ chống Mỹ ở Nam Bộ có những danh từ nhại lại: Thành bùn Tổ cuốc, Thành bùn Tổ cò).
Câu hỏi của Mật làm tôi chạnh lòng, một sự chạnh lòng cho những bầy con cháu ghẻ mà tưởng mình là con cháu ruột hằng mấy chục năm trời. Mật tiếp:
- Ông mần nghề văn chương, ông không bị ai xỏ lá, chèn ép, bạc đãi, vùi dập khốn nạn như tụi tôi nên ông không biết nỗi nhục của những người đeo cái tấm Thành Bùn trên lưng ông văn sĩ ạ. Bọn này được người ta xài như cái nùi lau vậy. Khi cần lau chân, xách ra lau cho chân, khi cần lau mặt cầm lên lau mặt, khi cần lau háng cứ lau háng một cách vô tội vạ. Tôi đang đào gốc lim, ở trên bảo trở về làm Công binh, đang làm Công binh ở trên bảo sang Lào, sang Lào về ở trên bảo dzề Nam, đi nửa đường vô Nam, bảo xuống khu Sáu.
- Vinh quang thấy mẹ còn rên !
- Ừ vinh quang thấy ông cố nội, nên tóc rụng gần hết vì đội các thứ vinh quang đó ! – Mật giở chiếc mũ tai bèo – Gì đây ! Thấy vinh quang chưa ? Da tôi ngày nay có giống da Pha-thét không? Đó lại là một thứ và vinh quang quốc tế đấy!
- Ủa, có sang đồng Chum nữa hả?
- Có chớ ? Chum, hũ, lu, mái gì có đi hết cả. Trước khi đi được “hấp da” cho giống người anh em.
- Có vụ đó nữa sao ? Tôi nhìn Mật trân trối – Vậy tôi tưởng đen này là do ông “rầu rãi ró sương” biến nước da tạch tạch xè (tiểu tư sản) ra nước da lãnh đạo chớ!
- Bây giờ có môn bắt nước sôi mà cạo như cạo heo vậy mới mong lấy lại nước da Hồng Lạc ông ạ !
- Trời đất !
- Cho nên ai có bắn tôi thì bắn, tôi cũng càn về xứ thôi ông ạ !
- Năm nay băm mấy cái xuân tình rồi?
- Sao không hỏi bốn mấy!
- Ối mà lo gì, về trong đó cây nhà lá vườn, các cô trừ cho mười tuổi mà. Ủa ! Tôi nói thiệt nghe cha ! Con gái hơ hớ ở trong bây giờ chỉ chờ tụi mình về làm đám cưới tập thể thôi, Tui có đọc thơ ở trong gởi ra tại Ban Thống Nhứt mà cha!
- Tôi lạy ông ! Con gái Nam Kỳ không có lấy thằng mặt lọ như tôi đâu !
- Mặt lọ nhưng huy chương đỏ ngực, lo gì không có đứa mê.
- Ông nội ơi ! ông lãng mạn cách mạng dữ he! Tôi thì thực tế thôi. Nè, tôi kể cho ông nghe. Một lần nọ tôi đến dinh Sư đoàn Bộ ở Thọ Xuân, tôi trông thấy một cảnh tôi chán tới bây giờ.
- Cảnh bộ đội mình rước ông Già Rô mà tưởng Cụ Hồ phải không?
- Không đâu. Cảnh khác, nhưng cũng ớn lắm. Một ông Trung tá mặt non bấm ra sữa đại điện Bộ Tổng tư lệnh vào kiểm tra Sư đoàn mình. Ông Đại tá nhà mình đầu bạc trắng đứng nghiêm chào và nhận huấn thị của ông Trung tá con nít đáng con !
- Cấp bậc quân đội thì phải vậy chứ sao ! Người ta đại diện Bộ Tổng mà.
- Nhưng nó làm gì mà lên Trung tá mau vậy kia chứ? Mười năm ông Đại tá nhà mình có lên đâu! Ổng là Đại đoàn phó hồi năm 1947 kia mà. Còn tôi Tiểu đoàn trưởng, mười năm trên đất Bắc vẫn còn nguyên!
- Xin lỗi nhé, cách mạng quên đồng chí ! Ủa không! Cách mạng thử thách đồng chí đấy Hổng sao đâu! Về tới trỏng thăng hai ba cấp một lúc.
- Này ông Bảo, Chính ủy Sư đoàn được đi về làm Chính ủy Quân khu Sàigòng Chợ Lớn…
- Ủa, ổng dzô rồi sao ?
- Lâu rồi và đền xong nợ nước cũng lâu rồi.
- Vậy hả. Trời đất! Ổng có cho tôi ngồi ngồi xe jeep lên nông trường Lam Sơn một lần.
- Nhưng giấu kỹ nghe !
- Ừ thì giấu !
- Chết lãng nhách !
- Đánh với Mỹ chết là vinh quang chứ sao lãng nhách?
Hai đứa nói chuyện khào cũng qua hết nửa ngày. Khi đổi được thịt hộp chúng tôi quay lại. Tôi hỏi ngay:
- Chừng nào di cho hay để tôi móc cái rờ-mọc của tôi theo với.
- Mai!
- Sớm vậy ?
- Hễ có chuyến thì đi chớ sớm muộn gì. Cái “làng” khu Eo này bê bối lắm. Nằm lại một ngày teo… một ngày. Vừa rồi máy bay phóng thanh có nghe không?
- Có !
- Nó kêu đích danh từng tiên ông tiên bà trong bảng Phong Thần. Hình như có tên ông nữa đấy! Kêu xong, nó cho ông ba bốn ngày để “về với chánh nghĩa” ông hiểu không? Nếu có người về thì nó lại kêu tiếp, nếu không ai chịu về là nó chơi mạnh.
- Sao ông chắc vậy?
- Thì phải đoán bụng thằng địch chứ. Ngồi chờ nó tới à? Nó không biết những cán bộ từ đồng bằng hết đất sống chạy đi đâu à? Máy bay nó nghiêng cánh liếc thấy hết tất cả lều trại dưới này ông nội ơi ! Nó chỉ ném cho ba trái bom napal thì rụi lẻng beng hết ráo thôi. Liệu mà “cuốn vó chạy dài” đi thôi cha non.
Nghe ông quân sự Mật bàn như thế, tôi về thuật lại cho Hoàng nghe Hoàng gạt phắt:
- Mấy tay đó trốn xâu lậu thuế sợ bí nắm đầu nên phóng nhanh, cậu chớ có tin! Mình lợi dụng tình hình hòa bình này bồi dưỡng và bỏ lưng một mớ lương thực nữa rồi sẽ đi. Đi một cuốc nữa phải vô tới ranh Nam Bộ. Có chết cũng bò cho tới ranh rồi chết mới nhắm mắt.
- Tùy anh ! Tối thấy mấy chả cũng có lý lắm .
- Không bao giờ có chân lý cho mọi người, ai có chân lý nấy! Và cũng không có chân lý nào cố định. Chân lý cũng như con kỳ nhông. Nó đổi thay theo hoàn cảnh. Mấy chả phải đi ngay vì ở lâu sợ lậu sự, còn cậu Thiệp thì ban đầu định quất ngựa chuối vô Nam với mình nhưng sau khi biết vợ còn sống thì ở lại đây muôn năm. Phải không? Còn mình thì chừng nào đi được thì đi, muốn ở đến chừng nào thì ở. Riêng với mấy ông bà ở đồng bằng thoát chết lên đây mắc võng căng lều ngủ ngon giấc thì đây là đất sống, chỗ nào mắc võng căng lều được thì chỗ đó là Thánh địa ! – ông nhạc sĩ chơi một hơi “andantino” làm tôi thối chí và hết muốn đi theo mấy nhà quân sự lậu vé nữa.
- Ở thì ở! – Tôi nói xụi lơ, rồi hỏi – Anh đổi được cái giống gì không?
- Không!
- Lấy gì “liên hoan” chiều nay?
- Ráng đào ba cái rễ cây vô nấu cà-ri ăn đỡ rồi mai sẽ tính!
- Cha nội giỡn hoài? Đổi được cái gì đưa ra coi.
- Có được một con cầy, nhưng nó đòi mắc lắm. Tao phải về bàn kế hoạch với mày. Nếu được thì minh sẽ làm lương khô bỏ theo lưng đắp dầu gối khỏe nhất!
- Còn ba cái xương “Tổ tiên” nữa ông nội !
Hoàng vỗ đùi kêu:
- Thấy mẹ ! bỏ quên hỗm rày trong ba lô chắc thành dòi hết cả rồi.
Vừa nói Hoàng vừa chạy lại moi ba lô, lôi cái gói xương khỉ ra ném đánh bạch xuống đất rồi giở ra một cách cẩn thận như sợ hơi bom nguyên tử xì.
- Thối rùm!
- Không, không thối chút nào !
Hoàng đem xuống suốì rửa ráy rồi đem lên bỏ vô gà-mèn, nói:
- Tao nấu liền ba ngày ba đêm.
- Khoan đã !
- Sao?
- Để mai ăn thịt chó lấy xương nấu luôn một mẻ!
- Ai bảo mày vậy ?
- Thì theo công thức quốc doanh do anh phát hiện chớ ai !
- Cái thằng!
Cơm nước xong ai leo lên võng nấy. Cơm no thật nhưng lại cảm thấy vẫn còn đói vì ăn với hộp ruốc mặn và uống nước trà tráng miệng. Hoàng lại trở lại với mẻ cao khi tưởng tượng.
- Mày nhớ hồi thuở nhỏ đi học, thầy giảng cho nghe vụ nấu sơn của Bernard Palissy không? Ông ta chụm hết củi mà cũng chưa tìm ra sơn. Ông ta bèn lấy bàn ghế làm củi. Đốt hết bàn ghế cũng vẫn chưa ra cái giống gì cả. Ông ta giở luôn cả nhà. Sau khi thiêu đến mảnh ván cuối cùng của ngôi nhà ông ta tìm được chất sơn dầu.
- Ông muốn làm Palissy hay “Palisse” – không “sy” ?
- Đừng giỡn mày! Nấu sơn thì còn tìm công thức chứ nấu cao khỉ cứ già lửa là xương nó mềm ra, nó hóa thành nước, thế là đạt yêu cầu.
- Ừ thì cứ nấu xem. Mẹ, đây rồi khỉ, dọc, cà khu, lọ nồi trên đường này trốn mất hết đó anh Bảy! Vì chúng sợ cái phát minh của anh.
Suốt ngày nói liền miệng, chân đi không nghỉ, tay hoạt động không ngưng cho nên không nhớ không suy nghĩ gì hết. Khi màn đêm buông xuống mới thấy rêm nhức từ thể chất đến tâm tư.
Thiệp nằm ngất ngư bên cạnh cứ thở dài não nuột, mỗi một hơi thở của hắn có tác động làm tan hết cả khí phách còn sót lại trong người tôi. Tôi nhớ Phương! Mới hôm nào, nay đã nằm rã mục dưới đất giữa rừng.
Tôi nhớ những đêm vác gạch đi trong khu vực nhà Phương. Chỉ có hai đứa. Chúng tôi đi sánh đôi nhau trên những quãng đường khi thì lát gạch khi thì đầy cỏ đẫm sương. Tình yêu đến thật nhanh và bất ngờ. Chúng tôi hình như đã cho đây là lần quyết định, không còn lần nào khác nữa. Một gia đình con con đã vẽ ra trước mặt với một hài nhi oe oe trên tay mẹ.
Phương đã có ý thức đó từ lúc nào không biết, nhưng một hôm Phương đưa cho tôi đôi giày trắng tinh nhỏ tí xíu và bảo tôi: “Anh giữ lấy nhé ! Mình sẽ mang cho con. Em mang một chân, anh mang một chân!” Nàng hôn tôi mãnh liệt và nói: “Không có con, em không chịu được!”
Một đêm chúng tôi tập xong, vào nhà; mẹ của Phương đã quay sẵn một con gà cho chúng tôi ăn. Phương cứ liếc nhìn tôi như bảo: “Mẹ thương anh lắm đó. Em nhỏng nhẽo ghê cơ ! Mẹ lúc nào cũng chìu em ! Em về là mẹ phải để dành cho em món gì cơ! Chị em cũng cưng em ghê lắm.” Rồi Phương òa khóc: “Em không muốn xa mẹ và chị một ngày nào ! ”
Phương khóc suốt đọc đường. Chỉ qua ba trạm đầu Phương đã rên rẩm.
Đoàn khu Năm của Phương cùng với đoàn Nam Bộ của tôi hợp thành liên đoàn hành quân theo đội hình hàng dọc. Một chiều, Phương đi lạc không một người nào chịu trở lại tìm dùm. Của đáng tội, ai cũng mệt nhừ, mong tới nơi hạ trại để mắc võng nằm hoặc lo cơm nước ăn rồi nghỉ, có ai thừa sức khỏe mà đi làm một công việc như vậy Chỉ có tôi. Tôi ném ba lô và chạy, bò, leo ngược lại và tìm gặp Phương ngồi bên một bụi lau đang gục đầu khóc. Tôi quảy ba lô cho Phương và kè nàng đi từng bước. Nàng nói ngay:“Người ta đem con bỏ chợ!” Đó là lời than thở đầu tiên tôi được nghe trên đường Trường Sơn. (Và tới nay, đã hai mươi sáu năm qua, tôi như còn nghe văng vẳng bên tai khi tôi ngồi viết những dòng này). Tôi hỏi: Nếu anh không trở lại, em làm sao? – Em cứ ngồi đây chứ còn biết làm sao nữa. – Sao hồi theo kịp em không kêu lên? – Em vấp ngã, em bi trặc chân. Em biết ngay vì em không đứng dậy được. Em có kêu, nhưng người đi trước em quay lại vẫy vẫy tay quát: “Đi cố lên!” Rồi mấy người đi sau em đi tới, người thì hỏi một câu, người thì sờ đầu, rồi đi qua luôn ! – Bộ họ không biết em đau chân sao? – Họ biết chứ!
Chúng tôi về đến điểm hạ trại. Tôi nấu cơm cho Phương ăn, nấu nước cho Phương ngâm chân. Tôi ở lại với Phương, săn sóc nàng tới khuya. Nàng khóc không dứt nước mắt.
Từ trạm đó trở đi, tôi như kẻ tùy tùng của nàng, lúc vác ba-lô lúc dìu nàng qua suối. Nàng rất tự hào về đôi chân đẹp của nàng. Đôi chân nàng đẹp thật. Có lẽ vì biết thế, nên mỗi lần qua suối nàng cố tình đi chậm lại và để cho “kẻ tùy tùng” lùi lại phía sau nàng. Nàng xắn quần lên dò dẫm lội từng bước và chốc chốc ngoái lại lườm tôi: Anh nhìn gỉ thế? – Anh xem em múa trên mặt nước!
Một đêm mưa, tôi đến tìm hơi ấm ở nàng. Hai đứa nằm trên một chiếc võng, nước mưa đổ ngập cả lưng…
Một lần khác trời khô ráo, ai nấy đều ngủ say. Nàng bảo:
- Giá mà bây giờ chúng mình đã có với nhau một đứa con !- Rồi nàng bảo: Anh cho em một đứa con đi!… Bây giờ này ! Rồi nàng khóc. Mấy hôm sau chúng tôi chia tay. .
Bây giờ này!
Bây giờ thì tất cả đều chấm dứt. Chấm dứt không còn một thứ gì. Đôi giày con tôi vẫn còn cất trong ba lô. Tấm hình nàng nằm trong ví nhưng tôi không dám dở ra xem từ khi Thiệp báo hung tín. Tôi sợ nhìn thấy nàng. Tôi nhìn thấy tôi trong mắt nàng. Bức thư nàng viết cho má tôi – tự nhận mình là con dâu trước khi làm lễ cưới – tôi vẫn còn giữ chung với hình nàng, bọc trong giấy bóng. Sau bao nhiêu lẩn lội suối, dầm mưa, tôi đã đem phơi nắng hoặc hơ lửa.
Tôi sợ tất cả những gì của nàng còn lại trong tôi. Tôi như nghe lại lời than trách giữa buổi chiều lạc đường “Người ta đem con bỏ chợ!” Lời ấy quả thật không quá đáng !
Tôi nằm trăn trở mãi cho tới khuya. Thiệp cũng không ngủ. Đồng bệnh tương tri.
- Anh có định làm gì cho chị Phương không?
- Tôi ấy à? Làm gì được bây giờ? – Tôi giật mình trả lời như máy rồi hỏi lại – Còn cậu, cậu định làm gì cho bà chị?
- Tôi hoàn toàn bí lối.
Sương khuya nặng hạt rơi đầm đìa trên mái lều.
Sáng hôm sau, thức dậy thân thể đau như dần, tâm thần nhẹ bông như vừa đầu thai kiếp khác. Giao liên đến ra lệnh tập họp để chuẩn bi lên đường. Giao liên, đó lại là một chàng trai. Giao liên toàn là người trẻ, hoặc từ Bắc vào hoặc từ Nam ra. Họ phải là những người “giỏi gìò, mau chân” trước nhất. Họ là những cái máy biết đi và thuộc đường đi. Họ không có tình cảm thương xót hoặc có mà không hề để lộ ra trước những cảnh huống bi đát của khách đi đường. Cho nên giữa khách và giao liên không có cả “chất nhờn xã giao.”
Trái hẳn với những buổi sáng lên đường khác, anh giao liên này cho tập họp từng đoàn một và đứng thành một hàng dọc, những ai chưa lên đường thì không được bén mảng tới. Khách lao nhao phản đối. Anh ta cứ mặt lạnh như tiền đi tới đi lui la quát, chỉ chỏ khách thi hành điều này điều nọ. Rồi cuối cùng đến từng đoàn một, yêu cầu trưởng đoàn cho xem danh sách đoàn viên của đoàn mình .
Đoàn đầu tiên được anh ta chiếu cố là đoàn cán bộ thuộc Bộ Công nghiệp nặng. Một người trong đoàn nói ngay:
- Trưởng đoàn nằm lại trạm ngoài.
- Ai thay thế?
- Chẳng có ai thay thế cả!
- Các đồng chí có bao nhiêu người ?
- Khởi đầu thì bốn mươi, bây giờ còn hơn ba chục.
- Rụng bao nhiêu?
- Bảy, tám gì đó !
- Bảy hay tám nói rõ dùm cha nội ?
- Bảy hay tám, tám hay chín, chín hay mười, không rõ được. Muốn rõ đồng chí chịu khó đếm.
- Vậy mỗi người cầm giấy ra tay cho tôi kiểm tra!
- Giấy gì?
- Giấy đi B chứ giấy gì.
- Nào, lấy giấy ra cho người ta xét ! – Người kia bảo những kẻ cùng đoàn.
Tức thời có tiếng nhao nhao lên khắp đoàn. Có người ném cả ba lô xuống đất.
- Giấy đầu còn mà xét!
- Còn bộ xương sườn đây có đếm mấy cọng thì đếm!
- Cho đi vô thì đi, không cho thì trở ra chẳng xét con mẹ gì cả.
Ở đằng sau, cũng có tiếng la ó.
- Làm gì lâu vậy? Sáng sớm đi khỏe mà không cho đi bắt ngâm chân ở đây!
Anh giao liên cáu tức, quát trả:
- Yêu cầu các đồng chí giữ dùm kỷ luật chút !
Có tiếng đáp lại to hơn:
- Đồng chí xét cái gì mới được chớ?
- Có người đi lậu vào Nam!
Mọi người cười rộ lên. Một người nói:
- Vào Nam sung sướng quá nên có người ham chúng bay ạ !
Anh giao liên bị chọc tức, nói to:
- Có một số đồng chí được phân công xuống Bác Kế lại không đi mà chuồn vào Ông Cụ đấy ! Ở trên bảo chặn họ lại. Vậy đoàn nào có người lạ mặt không phải là đoàn viên của mình xin báo cáo cho tôi biết ngay, nếu không, tôi sẽ xét giấy từng người một.
À ra thế! Tôi giật mình và lo cho các ông bạn vàng của tôi. Tôi đảo mắt khắp các đoàn nhưng không thấy các ngài thuộc đoàn nào và đứng ở đâu. Nếu xét gặp chắc rắc rối to. Các tay này không phải là loại người dễ bị bắt nạt.
Một hồi lâu, tôi không thấy ai báo cáo với giao liên cả Bỗng một người nói:
- Có cả chục đoàn, mỗi đoàn có vài chục người, đồng chí hỏi khơi khơi như vậy làm sao moi ra dân đi lậu. Ít nhất đồng chí cũng phải biết mặt mũi dấu riêng, vóc dáng và tên tuổi chứ đại khái chủ nghĩa vậy ai biết ai là ai?
- Biết thế nào được mà biết. Ở trên không cho biết gì hết !
- Thế thì chịu thôi .
- Ở trên bảo là: Mật, Trừ Trử Trữ hay Trứ gì đó, còn một dọc năm, sáu ông nữa trong đó có tên Quỳ hay Quy Quý gì đó tôi không nhớ.
- Vậy ai mách cho đồng chí những cái tên ấy ?
- Trạm ngoài !
- Họ có nói thêm chi tiết nào nữa không?
- Họ nói toàn là cán bộ trung cấp.
Bỗng bật lên một tiếng cười:
- Bọn tôi là cán bộ trung cấp đây ! Đồng chí lại xem có phải là dân đi lậu thì cứ bắt giữ lại.
Tôi nhìn ra Mật. Cái thằng cha ba trợn thật. Nó moi không ra lại chường mặt tự giới thiệu. Nhưng anh giao liên đi đến rồi xua tay:
- Đùa hoài !
- Giấy đây có xem thì xem — Mật tiếp.
- Dân đi lậu không như các đồng chí. Họ không thể nào đàng hoàng như các đồng chí vậy!
Mật nói:
- Vô Ông Cụ sướng ích gì mà họ phải trốn chui trốn nhủi vậy?
- Các cha ấy nhớ nhà các cha ấy không chịu đi khu Eo khu Éo. Tôi đoán thế!
Cả đoàn cười rần. Anh giao liên, hơi ngượng, ra lệnh:
- Thôi, ta đi – Nhưng còn bực tức – Trong khi đi đồng chí nào phát hiện được những ông ấy, báo cho tôi biết.
Mật cười:
- Họ đi mất đất rồi ở mà xét.
- Sao đồng chí biết?
- Đã đi lậu thì phải đi lén chứ đứng ra tập họp để đồng chí nắm đầu à?
- Thôi, tất cả theo tôi ! – Anh giao liên nói xong bước nhanh tới phía trước.
Tôi thở phào. Bất giác tôi nhảy xuống đất chạy ra nắm tay Mật, rưng rưng:
- Ông về trước cho tôi gởi lời thăm bà con nghe ông!
- Ừ ráng mà lết nghe ! Mật nắm tay tôi thật chặt – Tôi nhắn dùm cho. Mà nhớ đừng chết dọc đường! Có tệ lắm cũng ráng bò tới Bà Rịa nghe cha !
Tôi nhìn đoàn người lom khom đi khuất ở ven rừng, nước mắt đổ trào không ngăn được. Tôi cảm thấy quê hương còn xa quá! Mình tới đây mới được hơn phần ba đường. Rồi mai mình cũng đi về, nhưng thấy người ta đi sao buồn vậy .
Tôi về võng nằm. Hoàng đã thức dậy ló đầu ra gác trên mép võng hồi nào. .
- Các cha lậu đi lọt rồi hả?
- Làm đếch gì bắt được họ !
—>Chương 15


- 15 -
Một tiếng gà gáy. Trời đất! Gà ở đâu mà gáy vậy? Một âm thanh làm tôi điếng người. Có một làng quê ở đâu đây hay sao ? Trời đã trưa trờ rồi mà nó lại mới báo bình minh. Lâu nay mình không nghe tiếng gà gáy tiếng chó sủa, không biết tới mái nhà, không biết sự êm ấm. Toàn hóc búa, thô lỗ, hấp tấp, giành giật, chen lấn, bòn mót, liều mạng. Cuộc sống mọi rợ hoàn toàn nảy lên giữa đám người tự khoe văn minh.
Tôi bỗng buột miệng hỏi:
- Anh biết thằng Quang không anh Bảy?
- Con bà Mười “Thép” ủy viên Trun ươn?
- Nó chết rồi.
- Ừ, thằng Phẩm nói cho mày biết chớ ai !
Im lặng một chốc, Hoàng lại nói:
- Nó chưa tới số chết mà tại nó muốn chết !
- Tội nghiệp !
Hoàng lặng thinh, một chốc:
- Tụi quí tộc đỏ hư hỏng hết. Tao biết chúng nó rành hơn mày. Tao gặp tụi nó ở ngoại quốc cơ. Không có đứa nào học hành nên thân hết. Toàn chơi bời phá phách, Đại sứ quán của mình lo trị tụi này mệt hơn cả làm việc nước. Chúng nó phá nát kỷ cương của sinh viên du học. Con ông cháu cha thời nào cũng vậy. Hễ cha làm thầy thì con bán sách. Có thằng lấy con gái người ta có bầu. Con gái ở bên đó dễ “gà” lắm, không có phải như con gái Hà Nội đâu. Gái Hà Nội mình nắm tay được cũng còn là khó huống nữa là cái sự kia. Còn đám đó thì dễ thôi. Đá lông nheo vài phát là ăn thua rồi. Nhưng bọn sinh viên thường, bậc trung có dấm dớ cũng phải kỹ lưỡng, mày hiểu không? Nếu không kỹ để “lộ ra da” thì chết! – Hoàng bị khui trúng tủ, xổ như liên thanh – Đại sứ quán kêu lên kiểm thảo rồi cho “về xứ trồng khoai lang” ngay. Còn tụi quý tộc thì không nhằm gì. “Lập thành tích vĩ đại” ở Bungari xong thì được thuyên chuyển qua Đông Đức, lại “lập thành tích vẻ vang” thì lại đưa qua Liên Xô chạy tang!
- Thế là lai giống Tiên Rồng thành quốc tế chớ sao?
- Cái thằng Quang này là thằng đạo đức, đàng hoàng một cây. Tao chưa thấy thằng nào như nó.
- Dân Nam Kỳ mà không lang bang à?
- Bậy hoài mậy! Bộ hễ dân Nam Kỳ thì lang bang hay sao? Như tao nè, đạo đức số dzách! Hí … hí … hí … Để yên , tao kể chuyện thằng quý tộc cho mày nghe. Nó sang Liên Xô ba tháng học môn chính trị xã hội gì đó. Nó chán! Nó đòi về. Bà Mười cho nó sang Tiệp. Ba tháng nữa, lại đòi về.
- Không “lập thành tích” gì ráo à?
- Không! Nó về vì nó chán! Nó bảo học năm năm về cũng chả làm được cái gì hay ho ngoài cái bằng cấp phó tiến sĩ giấy. Nó về nước hẳn chứ không đi nước nào nữa cả. Bà Mười chỉ có nó là con trai. Bà chăm chút nó dữ lắm. Em nó là con Thư mày biết không ?
- Nghe nói!

- Coi cũng được lắm! Nhưng nó lại mê thằng kép cải lương Nam Bộ. Thằng này đóng

vai Lữ Bố! Mày biết nó mà. Già khú rồi. Mặt nhăn như da ổi. Hổng biết nó mê thằng nọ chỗ nào? Con nhỏ mê man tàng tịch, bà già rấy la không nổi!
- Mê cái chỗ đó chớ chỗ nào?
- Thằng nọ vợ con đùm đề rồi chớ phải chân trơn hay sao mà nhảy vô? Hai đứa hẹn nhau ở hội sân khấu đường Ngô Văn Sở. Nó mang tới đủ thứ đồ bổ. Tao gặp và được thằng Lữ Bố mời một lần. Mẹ! Ăn rồi chạy rong khắp ba mươi lăm phố phường như chó điên, đụng ai cũng muốn ngoạm.
- Thứ bổ gì mà dữ vậy cha?
- Đồ bổ của Kim Nhựt Thành tẩm gân mày biết không?
- Sâm à?
- Củ nào của nấy bằng củ củ … cải..ải vậy mày ơi! Mình cả đời không nếm được một lát còn nó đem hầm bồ câu cho thằng Lữ Bố ăn.. để nó múa lang ba cây kích sắt!
- Ở đâu mà nó có nhiều vậy?
- Cái thằng! Nó lấy phiếu của bà Mười vô Tôn Đản cái gì mà hổng có chớ! Muốn hốt bao nhiêu mà hổng được? Còn nhiều thứ khác còn ác hơn nữa mày ơi!
- Thứ gì mà ác hơn nữa?
- Bòi, dái, cừu Mông Cổ!
- Trời đất! Có các thứ đó nữa sao?
- Đại lãnh chúa mới có phiếu mua các thứ này mày ơi! Nó đã vô hộp đặc biệt hết rồi dán nhãn đỏ chữ mạ vàng. Ăn chưa hết đã lật màn làm tại mâm mà! Cho nên tới lui chẳng bao lâu, con nhỏ mang cái bụng thè lè, cần cổ cao nhòng lên. Bà Mười rầy nó, nó vác mùng vác chiếu lại ở luôn với thằng Bố…
- Vợ nó đâu?
- Dân Nam kỳ làm gì có tiêu chuẩn mang vợ ngoại trừ mấy thằng xếp.
- Rồi ở luôn à?
- Bả tới bắt về. Nó tự vận bằng dầu nóng. Đem vô nhà thương… giấu kín lắm, nhưng ai mà chẳng biết. Có một mình mày không hay gì hết thôi.
Tôi cười:
- Cha nhầm rồi ! Con nhỏ không phải mê thằng Lữ Bố. Nói vậy tội chết. Nó khoái thằng họa sĩ vẽ phông màn cải lương vì thằng này có vẽ cho nó một bức chân dung. Vẽ xong anh chàng đề ngay dưới bức ảnh một câu: “Người đẹp tôi tôn thờ suốt kiếp.” Do câu đó mà nàng cảm… gió mạnh! Còn một chi tiết nữa ông kể cũng sai. Nàng không đem chăn màn tới ở chung với thằng Bố. Cơ quan đâu có chỗ chứa. Hai đứa đi mướn nhà riêng hè hè… Còn khúc sau thì đúng y vậy.
Hoàng tiếp:
- Thằng Quang đi nước ngoài về nhà đụng ngay cái màn cải lương đó. Đã chán nước ngoài về “nước trong” lại càng thêm ngấy. Bà Mười cũng rầu nhưng bà nghĩ tới tuổi già trên sáu mươi rồi không có cháu bồng. Bà bèn chạy hỏi vợ cho nó. Bà tìm ra chỗ đồng chí cựu trào. Bà mừng gặp được con giòng cháu “giống.” Bà làm đám cưới tức thì…
Hoàng đang kể hăng say thì có tiếng la oai oái. Hai đứa nhìn về phía có tiếng kêu, thì ra máy bay tới. Người ta kêu dập lửa và lấy quần áo dẹp vô trong lều.
Tôi và Hoàng ngồi im trên võng nhìn mặt nhau, chờ xem loại máy bay nào. Thình lình trên không có tiếng phát ra vang vang:
- Allô, allô nghe đây ! Tôi là Trung tá Nguyễn Văn Hàm, Tham mưu trưởng Trung đoàn X3 bị bắt ở trên đường mòn cách đây ba trạm về phía Nam. Đơn vị của tôi bị phục kích bất ngờ nên chống cự không được. Trên năm mươi binh sĩ trong Trung đoàn bị thiệt mạng và trên hai mươi binh sĩ bị bắt sống. Tôi mang theo ba thứ tiền Việt Miên Lào để mua thực phẩm cho đơn vị. Tôi biết hiện giờ anh em còn trốn tránh trong rừng vậy nên tôi đã ném trả lại số tiền đó để anh em chi dùng. Hiện giờ tôi có đầy đủ thức ăn thức uống… Allô, allô! Anh em thân mến ! Có khi nào anh em tự hỏi mình chịu đói chịu khát để ai hưởng không ? Có bao giờ anh em trông thấy một đứa con đứa cháu nào của mấy ông to bà lớn đi trên con đường này không? Chúng nó đi giải phóng Miền Nam bên Liên Xô, Tiệp, Đông Đức. Thậm chí có đứa sang tận Cu Ba để giải phóng Miền Nam…
Hoàng nói ngang:
- Tụi này đểu thật ! Nó chơi mình mười cú không sai một.
- Hôm trước một cú, đã xính vính, nay bồi thêm cú nữa !
- Mặc mẹ nó, đừng có nghe nữa uổng lỗ tai.
Chiếc máy bay vòng vòng phát hết bài bản rồi rải giấy và biến đi.
Hoàng quơ lượm và nói:
- Thứ này mình đang cần đây. Nhóm lửa là nhất !
Tuy nói vậy Hoàng vẫn đọc.
Tôi giục Hoàng:
- Mình đi ăn cơm rồi giải quyết vụ con chó xem sao !
Cơm đã nấu hồi hừng sáng, để tới bây giờ cứng quánh như đá nhưng ráng nuốt.
Hai đứa dặn Thiệp ở nhà coi chừng đồ đạc cho kỹ rồi dắt nhau đi đến lều có con chó mà chủ nhà đã hứa đổi cho hôm trước.
Dọc đường, Hoàng nhặt được thêm vô số “thứ nhóm lửa tốt.” Hoàng chắc lưỡi:
- Mình bị “đẽo” hết nhát này tới nhát khác.
- Đi đâu coi bộ cũng không khỏi. Nó ở trên đầu mình nó bổ xuống mà.
Đến chỗ ông chủ nhà đổi chó, chúng tôi chìa ra một cái đồng hồ và một cái blouson da. (Chiếc áo này Hoàng mua từ nước ngoài, định đem về làm quà cho con trai). Chủ nhà là một người đàn ông tóc hoa râm. Ông có cả một cái lều gần giống cái nhà lợp bằng lá rừng chớ không phải căn lều ni-lông như tụi tôi, – một loại nhà đá nhà đạp nhưng khéo léo và tươm tất hơn cái nhà của anh giao liên Phẩm. Bên cạnh ông ta cũng lại một cái nhà khác to hơn nhưng xập xệ hơn trong đó ẩn nấp hai vợ chồng và một đứa bé. Chồng đang chẻ củi. Vợ ôm con hát trên võng.
Ông chủ chó nói ngay:
- Tui thì tui muốn đổi nhưng anh tê lại can. Anh với tui ở chung một thôn. Chạy lên đây có hai anh em. Lúc chạy chị ấy có thai. Mới sanh được hơn một tháng. Anh ta nói để con chó lại cho vui cửa vui nhà. Ở trong rừng có tiếng chó sủa nó ấm áp, cũng như thêm đứa con nít vậy. Hôm qua tôi tính sai…
Nghĩ rằng ông ta chê cái đồng hồ và chiếc áo chưa cân với con chó – của đáng tội, nó chỉ bằng bắp chân thôi – tôi móc túi, định đưa thêm bửu bối, nhưng ông ta khoát tay:
- Không đâu, mấy tui cũng không đổi! Tôi chạy lên đây, vợ con bỏ hết, ôm được nó theo làm bạn. Tưởng là vô dụng nhưng khi lên đến đây rồi, thấy nó hữu ích lắm. Nhìn cây rừng tối ngày, thấy nó cũng vui và đỡ nhớ nhà. Có chút gì ăn cũng chừa cho nó. Đi đâu nó cũng chạy theo chân. Bây giờ vì miếng ăn mình lại bán nó ư. Ra mình ác quá !
Nếu ông ta đòi cò kè bớt một thêm hai thì hai tên công tử bột này sẵn sàng phình bụng, mấy cũng đổi, miễn có chút thịt bồi dưỡng, nhưng đây là vì lý do triết lý luân lý của một con người ly hương, nên hai đứa tôi đành rút lui ý kiến. Hoàng hỏi:
- Đồng chí hoạt động ở xã à ?
- Tất cả các lều chung quanh đây đều là xã ủy cả. Cái xã chúng tôi địa dư ác lắm. Trước mặt thì biển, sau lưng là núi. Nó bịt hai đầu, nó ruồng khúc giữa là có môn bay lên trời thôi chứ không còn lối nào thoát cả.
- Vậy làm sao đồng chí hoạt động được ?
- Có hoạt động gì đâu. Sống được đây đã là thắng lợi rồi. Bi bắt hết ráo, sót mình tôi. Lớp nào còn sống thì dần dần ra đầu thú rồi xin giấy chứng nhận để làm ăn, mỗi ngày trình diện ấp một lần, ba ngày trình diện xã một lần. Nó nêm mình khít rim như nêm cối không cục cựa được.
- Các anh về Nam hả? – Ông ta hỏi lại tôi.
- Vâng
- Không biết ở trong đó có dễ thở hay không?
Đứng nói chuyện tình hình một lúc, tôi hỏi:
- Đồng chí biết chung quanh đây có ai đổi món gì không?
- Có cái đồng chí kia có con gà trống, đâu các đồng chí đến hỏi xem.
Tôi nhìn con chó Vàng ốm nhom nằm bên gốc cột. Mõm nó đen, bốn chưn cũng đen: Hình như nó hiểu lời chủ nó phân trần với chúng tôi. Ở khóe mắt nó tôi thấy dường như có một ít nước mắt. Tôi thấy tội nghiệp con vật. Chiến tranh làm cho người cả vật đều khổ. Tôi bật ra câu hỏi bất ngờ:
- Mà làm sao đồng chí lại bế nó theo được ?
Ông chủ lều nghẹo đầu sang bên và nói:
- Cái số nó khổ ông ạ ! Tôi đi trong đêm mù mịt, đâu có thấy gì. Qua một xóm nọ, giao liên bảo ngồi nghỉ ở mép đường chờ cho đám nhân dân tự vệ đi qua rồi sẽ tiếp tục. Đang ngồi dẫu tai nghe tiếng động thì lại nghe có tiếng rên rỉ và vật gì nhồn nhột bên chân. Tôi quờ thì đụng nhầm nó. Tôi chẳng suy nghĩ gì cả. Tôi cởi khăn choàng ở cổ bọc nó luôn, quảy bên nách và bảo thầm: Tao sống mày sống. Tao chết mày giữ mả cho tao. – Ông trỏ con vật – Ba tháng rồi mà mới bây lớn đó. Có cái gì ăn mà lớn được !
Hai đứa men tới chỗ chủ gà. Con gà bi xiềng chân vào gốc cột. Mào đỏ chóe, lông xước xù xì. Chúng tôi ngỏ ý đổi đồ nhưng người chủ, một ông già đầu .bạc trắng đáp:
- Để nó gáy cho ấm làng.
- Sao cụ lên đây vậy?
- Chúng nó treo giá đầu tôi một trăm đấu thóc, không đi để nó bắt à?
- Cụ làm gì mà nó treo giải thưởng vậy .
- Tôi chỉ huy ám sát tụi thôn trưởng ác ôn nhưng thất bại. Mình giết người thì người giết lại. Tôi chẳng hận gì cả. Chi có cái buồn. Buồn chết người đi được. Các anh về Nam hả.
- Vâng.
- Tôi là dân Ba Tơ của Nguyễn Chánh đây các anh ạ. Ông ấy bỏ chúng tôi thế này cũng hơi khó coi. Ổng ra ngoái đóng lon Trung tướng phải không?
- Đúng! Nhưng ổng đau nặng và chết rồi !
- Thế à? Chúng tôi ở trong này mắt mù, tai điếc, có biết gì đâu !
- Sao cụ già yếu rồi lại không đi tập kết?
- Ông Chánh ổng bảo phải ở lại giữ cơ sở. Cố chịu hai năm là tương lai rực rỡ. Mười năm còn chịu được. Hai năm nữa là bao. Ở thì ở! Đến nay là mấy “hai năm” rồi ? Tôi không còn nhớ nữa. Hừ ! Cách mạng đang thắng lợi ngon như gỏi, bỗng nhiên chúng tôi ra thế này, thật chẳng hiểu sao. – Lão già nổi nóng ngang – Các anh có ở trong này thì mới biết nỗi khổ của thằng cán bộ. Sau khi tàu tập kết lui rồi, chúng nó tố Cộng ngay. Đêm nào cũng tố. Không một ngoe nào lọt lưới. Anh nào không bị bắt thì ra đầu thú. Không đầu thú không bị bắt thì mau mau lên rừng. Ở dưới đó sớm muộn gì cũng bị nó thôi. Chúng tôi có tổ chức một chuyến ra Bắc bằng đường biển để báo cáo tình hình nước sôi lửa bỏng ở trong này. Liều chết mà đi. Nhưng không biết có ra tới không?
- Chắc đã tới rồi cụ ạ ! Vì thế cho nên mới có con đường này. Hoàng nói.
- Người có về thật nhưng khó xuống dưới đó lắm !
Không muốn vướng vào những thắc mắc thâm căn của ông chiến sĩ Ba Tơ, tôi trỏ chú gà:
- Cụ nuôi nó lâu chưa vậy cụ ?
- Nó là gà rừng. Tôi đi kiếm củi bắt được cái trứng khảy mỏ. Tôi đem về để gần bếp cho ấm. Nở ra nó đấy. Ba tháng rồi chi to bằng ấy thôi. Tuy bé người nhưng tốt giọng và siêng gáy lắm. Ban đêm nó gáy là cả làng này được nghe.
Tôi hôi:
- Bà con ở đây đông lắm sao cụ?
- Chừng hơn trăm. Ngày nào cũng có người lên. Ở dưới mình mất hết. Mất người, mất đất. Có nhiều anh về nhà, vợ đuổi kìa mà. Nói thế các anh biết là tình hình nguy ngập đến mức nào. Các anh cố đi bươn về trong đó, nếu muộn, không cứu chữa được đâu. Cụ Hồ ngày xưa đang hóa ra Cụ Ngô rồi đó! Có ca dao chạy trong dân rồi cơ mà ! – Ông già chớp chớp mắt như để nhớ ra câu ca dao – À, nó như thế này:

Một mai mưa rã tan “hồ”

Lúa lên ngô tốt ăn “ngô ” no lòng. .
Tôi bấm Hoàng.
- Chào cụ ạ!
- Chúc các anh chân cứng đá mềm nghe. Chớ già này thì hết mong thấy mặt bà con làng xóm rồi.
Đi kiếm ăn chẳng ngờ gặp toàn chuyện rủn chí. Chẳng có hi vọng đổi được món gì, hai đứa đành trở về lều. Về lều lại gặp cái cục bi quan nằm chình inh trên võng. Thiệp hỏi ngay:
- Các anh có nghe tên gì loa trên máy bay không?
- Có ! Rồi sao ?
- Nhiều người lên máy bay kiểu đó quá nhỉ !
- Bị nó bắt, nó bảo làm gì mà không làm !
Hoàng săm soi mẻ cao khỉ. Đó là hi vọng cuối cùng. Tôi bảo:
- Mai ta đi thôi, anh Bảy!
- Ừ đi quách. Tới đâu tới. Ở đây mỗi ngày mình nghe như lún xuống với ba cái ông khu Eo này. Tập kết cả vợ con nội ngoại láng giềng xa láng giềng gần mà cũng than . Vô đây, đụng mấy ổng, lại nghe mấy ổng than.
- Thôi, nghỉ cho khỏe đi rồi mai ta cùng nhau “xông pha lên đàng” quách !
- Nè cái ông chủ trại cưa Kim Hữu chắc vô tới trỏng rồi hả?
- Tới lâu rồi! Ổng vô để sửa soạn làm Bộ trưởng mà !
(Chủ trại cưa Kim Hữu là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Số là khi chúng tôi vô trường đi B thì gặp ông ở đây. Ông cũng vác gạch tập quân sự ì ạch như bọn tôi. Riêng tôi thì ngủ chung một phòng bốn người với ông. Ông có tật ngáy như sấm. Không đứa nào ngủ được. Lần lượt chúng tôi chuồn đi hết, bỏ ông chiếm lãnh một mình. Do tiếng ngáy hùng hồn của ông mà chúng tôi đặt cho ông là cái trại cưa. Còn Kim Hữu là cái tên lậu của họ Lưu. Vô đây thằng nào cũng thay tên đổi họ.
Ông chủ trại cưa Kim Hữu được ở trên chỉ định làm trưởng đoàn để dìu dắt ngót bốn mươi văn nghệ sĩ vào tận R giao cho Hội Văn nghệ Giải phóng. Nhưng vào giờ phút cuối cùng, ngay trong đêm xuất phát, ông nhạc sĩ lại “đau bụng”, ở trên bèn chỉ định một anh khác thay thế ông chủ trại cưa. Chúng tôi thừa biết đó là một màn hài hước không ăn khách. Ông chủ trại cưa đi máy bay vô Phnom Pênh và ra rừng bằng xe mô tô của Khiêu Samphan) .
- Ngày mai lên đường? Demain on partira hả !- Hoàng cười – Đừng có cái kiểu demain on mangera sans payer (mai ăn khỏi trả tiền) nghe!
- Tùy anh thôi! Anh đừng có bàn ra nữa! Tôi nghe ớn ớn rồi.
- Lại sốt hả?
- Không phải? Nghe mấy ông quân sự bàn về tình hình ở đây, tôi ớn lắm ! Máy bay nó liếc hằng ngày như vậy là nó ra hiệu cho rồi đấy. Sớm muộn gì nó cúng tái sụn cái làng này thôi.
- Tụi nó đểu thật nhỉ! Nó mở cửa cho đi, tưởng thoát, ai dè lại vô rọ.
- Nó đánh một phát là diệt hết gốc rễ xã thôi.
- Thằng Núi thằng Ngữ không biết đã đi chưa hay còn nằm đó?
- Tội nghiệp thằng Phẩm quá nhỉ. Nó làm bạn với con khỉ con mồ côi.
- Mình ác quá! Bắn chết con khỉ mẹ…
- Người mình bây giờ làm bạn toàn với gà, chó, khỉ . Nay mai rồi họ cũng ăn thịt chúng nó thôi. Đói quá còn kể gì tình nghĩa. Đến như tình đồng chí thiêng liêng thế mà còn choảng nhau bạt mạng nữa là.
- Cái thằng! Mày đâm ra triết lý rởm quá mậy!
- Thiệt chớ rởm. Đánh nhau bằng sư đoàn có cả xe tăng để giành mấy tấc đất hoang mà là rởm à?
- Chậc . Đó là phe ta thử sức mạnh cho đế quốc biết mặt mà ghê răng chơi thôi !
- Tôi nghi thằng Núi không đi nổi quá anh ạ ! Tội nghiệp con bé ở Hà Nam !
- Mày lo tội nghiệp cho cái con Phương của mày kia đi!
Hoàng nói chơi mà động thật. Câu nói đã đâm vào tim của tôi lẫn Thiệp.
Nhưng tôi gượng nói lấp cho qua:
- Thôi, cậu ở lại nhé Thiệp. Cậu còn hi vọng hơn mình nhiều ! Người sống đống vàng cậu ạ! Tớ chỉ mong được như cậu mà không được !
Thiệp lặng thinh. Hoàng lui cui trút mớ xương tổ tiên gói bằng ni-lông bỏ vô ba-lô.
Đúng là khạc không ra, nuốt không vào. Bỏ thì uổng mà ăn thì không ăn được.
Hai hôm sau sẽ có chuyến đi. Chúng tôi phải chuẩn bị từ bây giờ. Số gạo mười sáu kí lô mà chúng tôi vừa lãnh đã ăn hết độ một phần tư. Còn lại trên dưới mười kí. Mười kí lô trên đường Trường Sơn nằm trên lưng một tên ốm đói, chán nản như tôi, như Hoàng Việt không phải là chuyện đùa.
Người ta cho biết số gạo lãnh kỳ này là để chi dụng trong một thời hạn vô định, nghĩa là không biết chừng nào sẽ được lãnh nữa, vì từ đây vào trong thì bom đạn xảy ra thường trực, ngoài ra còn biệt kích. Người đi đường phải luôn luôn ở trong tư thế chiến đấu chứ không có thể lè phè lắc lư như từ trước nữa. Bằng chứng là viên tham mưu trưởng trung đoàn gì đó bị bắt và lên máy bay tuyên truyền giở giọng xuống đất. Tôi sực nhớ mấy câu chót của ông ta mà chợt thấy đúng quá! “Các con ông lớn đi giải phóng Miền Nam ở bên Tiệp Khắc Liên Xô! Chỉ có chúng ta đi giải phóng Miền Nam bằng con đường tử đạo này.”
Cách mạng này thành công nhờ sức dân, nhưng dân ăn cám, ăn khoai, ăn củ chuối thấy mẹ còn các lãnh tụ thì tha hồ vì dân, ông thì vợ bé, ông thì chôm vợ người, ô-tô nhà lầu, lính gác khít như răng, ông nào ông nấy mặt đỏ như gấc ngồi xe volga nặng sát nhíp.
Tôi buột miệng nói:
- Thằng Quang con bà Mười là thằng kỳ cục, hả anh Bảy !
- Nó có cái lý của nó !
- Ở ngoài Hà Nội cưới vợ rồi kiếm bậy chân giám đốc dễ như chơi mà không chịu để lăn thân vô đây làm giống máu gì cho chết sốt rét?
Hoàng Việt ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Mày nghĩ theo chủ quan của mày còn nó có hoàn cảnh của nó.
Hoàng Việt kể tiếp câu chuyện về Quang:
- Bà Mười tìm được con gái của một ông đồng chí cựu trào. Bèn nhờ ông Hùng làm mối. Ông Hùng làm mối là chắc như bắp rồi ! Hai nhà cách mạng kỳ cựu làm suôi gia với nhau môn đăng hộ đối biết bao nhiêu, nhưng cái thằng công tử Quang lại vô phúc. Khi cưới xong con vợ thì mới biết là cô nàng đã mang bầu với đồng chí ta… Nó không nói gì hết cứ bỏ nhà đi.
- Bầu của ai vậy ?
- Cả Hà Nội biết mà mày lại không à?
- Hà Nội có một ngàn lẻ một trái bầu hoang chớ phải một hay sao ông?
- Bầu với ai không bầu lại bầu với thằng lái xe của ông già tía nó.
- Thấy bà chưa ! Vậy mà tôi đâu có biết. Tôi có đến chơi nhà đó hoài mà ! Ổng cũng là tay bán trời không mời thiên lôi nên con ổng noi gương ổng chớ sao!
- Mày có “thêm chưn thêm tay” gì không?
- Không! Tôi thề có thánh thần làm chứng. Tôi đến là tôi nhắm vô con em thôi. Con em có vẻ nhu mì dễ thương hơn. Con chị cũng đẹp nhưng là cái đẹp hỗn, beauté brutale, tôi có muốn cô ta thật, nhưng tôi hơi sợ. Còn.cưới cô ta làm vợ thì tôi không bao giờ có ý nghĩ đó. Tại bà Mười bả không biết coi tướng nên bả mới nhảy vô chỗ đó.
Hoàng Việt gạt phắt:
- Tướng tá cái khi meo. Tại bố nó ăn hết lộc con. Bố nó già rồi mà còn “hoạt” mạnh lắm. Ổng quơ luôn một loạt mấy bà góa của các cựu đồng chí nhà mình. Mấy trái dừa khô để lâu ngày mọc mọng mày biết không? Cho nên gặp ổng xới đất trồng là rung rinh ngay.
- Đời cha ăn mặn đời con khát nước ! Quả có đúng!
Hoàng Việt tiếp:
- Thằng Quang lên Ban Thống Nhất xin về Nam. Lần này thì không có ai cản được nó nữa. Nó đi giải phóng Miền Nam mà. Lấy lý do gì cản nó?
- Tội nghiệp, cái thằng chết mà trong ba-lô đầy sâm và B12.
- Gặp sốt ác tính có thuốc tiên cũng không chữa nổi !
- Tội nghiệp bà Mười. Vllla rộng mênh mông mà không có con cháu gì ở chung hết, trong lúc bọn mình thì lại không có cái ga-ra chui rúc.
Buổi sáng, giao liên lại làm thủ tục trước khi dắt khách đi. Hắn nói:
- Mấy tay trung cấp không biết đã lọt chưa? Các đồng chí để ý dùm. Ở trên đốc thúc tìm cho ra. Nhưng bố tôi cũng không tìm được. Cứ nói đại khái như vậy thì lấy gì làm bằng chứng để xác nhận từng người khách chớ!
Tôi từ giã Thiệp với những cảm xúc nghẹn ngào. Tôi bắt tay Thiệp:
- Thôi cậu ở lại nhé. Phải bình tĩnh giải quyết vấn đề. Chúng ta không có khả năng gì trước một thực tế như vậy. Chỉ cầu mong sự may mắn xảy ra cho chúng ta thôi !
- Tôi thiệt tội nghiệp cô Phương. Nếu tôi biết anh còn ở đây tôi sẽ lấy lại một vật gì cho anh giữ làm kỷ niệm. – Thiệp rơm rớm nước mắt nói.
- Kỷ niệm cũng không thay đổi được gì. Mang thêm kỷ niệm càng thêm nặng bước đi.
- Tôi ở lại đây vì không thể đi, chứ ở lại làm gì chính tôi cũng không hiểu,
- Thiếu gì những chuyện mình làm mà mình không hiểu gì hết. Phải không?
- Anh nghĩ rằng nó có thể đem vợ tôi về Sài Gòn không?
Câu hỏi của Thiệp làm tôi chới với. Có thể lắm chứ. Nó đi bằng máy bay mà. Nhưng dù ở Sài Gòn hay ở đây, nàng vẫn xa cách chàng. Một ngàn cây số hay chỉ một bức tường con thì sự xa cách vẫn là xa cách. Tôi hỏi lại :
- Nhưng nếu nó đưa cô ấy vào Sài Gòn thì cậu sẽ làm gì nào?
- Tôi sẽ đi với anh vào trong đó !
- Thì cũng thế thôi !
Thiệp lặng thinh.
Hoàng Việt xuất hiện như một cứu tinh:
- Tôi biết sự đau khổ tận cùng làm cậu quẩn trí. Bây giờ tôi đề nghị cậu dùng biện pháp của tôi là tốt nhất.
- Biện pháp gì anh?
- Cậu coi như cậu đi công tác xa để vợ ở nhà. Đúng! Cũng như tôi vậy. Tôi đi kháng chiến hồi 46, không có hẹn gì với vợ tôi cả. Tôi nói chừng nào hết kháng chiến thì về. Thế là đi. Mới ban đầu vô chiến khu Đ. Vợ tôi còn ra vào tiếp tế nọ kia. Vài năm sau tình hình găng quá, chạy xuống Tháp Mười, bả vẫn còn mò xuống đem cà phê, sữa, tẩm bổ cho tôi và ở chơi vài ngày rồi về. Nhưng Tháp Mười bi càn nát bét, tôi chạy xuống miền Tây, cũng còn móc ngoéo được vài chuyến. Thế nhưng sau khi tập kết thì dứt đường tương chao. Bưu thiếp cũng không gởi được. Đến chừng tôi đi Bungari thì mới gởi được thư từ qua đường Paris. Gần hai mươi năm trời. Bây giờ tôi mới thấy le lói cái hi vọng gặp lại bả. – Hoàng Việt nói trôi chảy nhưng tôi biết đó là một kiểu đau chân há miệng thôi chứ Thiệp không thể xài được cái biện pháp của ông ấy. Vì hoàn cảnh của Hoàng Việt và của Thiệp khác hẳn nhau. Sống trong lòng giặc và bi giặc bắt không thể coi là một hoàn cảnh.
- Tất cả lên đường! – Giao liên ra lệnh.
Tôi bắt tay Thiệp không muốn buông ra hay chính Thiệp không muốn buông tay tôi ra. Hai niềm đau cộng lại thành ra một biển đau thương. Hai đứa nước mắt ròng ròng, nhưng không thể đứng lâu hơn, tôi đành phải chia tay với Thiệp. Nếu dùng dằng tôi có thể ở lại và Hoàng Việt sẽ tán thành không chút đắn đo.
Đường bắt đầu dốc và dốc cao. Hoàng Việt la ngay:
- Mẹ nó, giết mình quách cho xong!
Đoàn bây giờ vỏn vẹn chỉ còn có hai đứa đi chung với nhau ở đây. Thằng Núi và thằng Ngữ còn ở trạm ngoài không biết sống chết thế nào.
Trời lại bắt đầu đổ mưa. Đường gồ ghề với những mô đá lẫn trong bùn, vừa đi vừa trợt. Mọi người đều lấy vải ni-lông ra trùm từ đầu trở xuống không cho ba-lô ướt, vì nếu ướt thì nó sẽ trở thành một quả núi đè trên lưng không thế nào đi nổi. Lưng người nào người ấy gồ lên như những con lạc đà một bướu.
Người đi đằng trước tôi chuyền lệnh:
- Đi khít nhau kẻo lạc đường.
Tôi quay lại để nói cho Hoàng Việt thì không thấy anh nữa. Nhìn xuống phía dưới cũng không thấy anh mà toàn là những người lạ. Nhưng tôi không thể dừng lại được vì nếu dừng lại sẽ đứt đuôi và không biết đường đi. Tôi đành phải lội bươn tới cho kịp người đi trước. Đã một lần tôi bị đứt đuôi ở tại một ngã ba. Đoàn người phía sau tôi đi tới nhưng tôi không biết phải rẽ sang ngả nào. Nhiều người sừng sộ suýt đánh tôi. Tôi nổi doá để cho họ đi trước và tôi bọc hậu cuối cùng. Như thế dù tôi có đứt, thì cũng chỉ lạc mình tôi, không phương hại gì đến ai.
Trời mưa càng lúc càng to, nước tuôn xối xả đến mức độ hai người chỉ cách nhau mươi thước là không còn trông thấy nhau nữa. Nước từ trên trời đổ xuống như dội, vuốt mặt không kịp, nước từ trên đỉnh dốc tuôn theo đường mòn xuống ào ào như một dòng suốì nhỏ chực cuốn phăng những bàn chân run rẩy đang dấn bước lên. Tôi đang mò mẫm tìm một nơi chắc chắn để đặt bàn chân thì bỗng một bàn tay nắm ống chân tôi lôi xuống.Tôi trượt ngã và rơi lên đầu người ở phía dưới cuốn theo một loạt người nữa. Tất cả đều lăn long lóc trên sườn núi như những quả bóng cho đến khi mỗi người có chỗ bám lại mới thôi. Tôi quờ quạng bò lên, đứng dậy và vừa vuốt mặt vừa quát:
- Đồng chí nào chơi kỳ cục vậy.
Một người hỏi:
- Chơi gì mà kỳ cục.
Tôi nói:
- Tôi đang leo thì đồng chí nào lôi chân tôi.
- Ai lôi đâu? Té trên đầu người ta còn nói.
Tôi cố tìm xem thủ phạm là ai nhưng vì ai cũng trùm ni-lông và ni-lông do chính phủ phát nên chỉ một màu xám. Do đó không biết thủ phạm là ai.
Cuối cùng lại lóp ngóp bò lên đi tiếp. Tôi đi mà cứ bị ám ảnh bởi một bàn tay ở phía dưới nắm chân mình. Tôi biết họ không có bụng xấu nhưng vì họ suýt ngã nên chụp ẩu ống chân tôi để gượng lại như níu một gốc cây, nhưng gốc cây lại tróc luôn theo người gượng.
Người giao liên cho cho cả đoàn lên đến đỉnh dốc rồi bảo:
- Các đoàn kiểm điểm lại người của mình, nghỉ một chút rồi đi xuống.
Chẳng có ông đoàn trưởng nào kiểm điểm cả. Mà cũng chẳng còn ai là đoàn trưởng nữa. Mạnh ai nấy đi. Có khi đoàn trưởng lại nằm ờ trạm ngoài kia. Và chẳng có ai lên thay đoàn trưởng. Cuộc hành quân vô cùng hỗn tạp. Đặc biệt các đoàn dân chánh thì cứ như là loạn đến nơi. Thằng nào khỏe thằng ấy sống. Tôi chờ mãi không thấy Hoàng Việt tới, bèn nói với giao liên:
- Đoàn tôi có hai người. Tôi và một đồng chí nữa. Bây giờ lạc mất một người.
- Đoàn gì kỳ cục vậy.
- Hai đứa tôi bi tụt hậu, còn đại bộ phận thì đã đi trước.
- Rồi sao? – Anh giao liên gắt.
- Bây giờ chỉ có mình tôi. Còn đồng chí kia đâu mất.
Anh giao liên nói một câu xanh dờn:
- Tôi không có trách nhiệm gì hết !
- Đồng chí nói vậy sao được ?
Anh giao liên nổi cáu ngay:
- Tôi đã bảo rồi. Ai đi nổi thì đi, không đi nổi thì nằm lại. Ở đây không có trạm giữa đường, không có cứu thương y tá gì hết. Nếu bị lạc thì tự tìm đường đi về trạm chớ nếu tôi bỏ đại bộ phận ở đây để trở lại tìm một người thì không dân chủ. Thiểu số phải phục tùng đa số.
Dân chủ !? Tôi không còn biết nói gì. Cãi với họ thì càng mệt mà chẳng có ra ngô ra khoai gì. Nên khi anh ta bắt đầu dẫn đoàn đi thì tôi đứng lại đi ở cuối hàng, vừa đi vừa ngóng lại phía sau xem ông bạn vàng có tới không.
Trời tạnh mưa. Mặt trời hiện lên như một ân huệ vĩ đại. Những con người khoác áo mưa lột tung cả ra như lột vỏ.
Lên hết dốc, bắt đầu xuống dốc. Lên cũng mệt mà xuống cũng mệt. Lại có phần nguy hiểm hơn.
Tôi nhìn sườn núi đổ hun hút mà tê tái cả tâm can. Đi đứng gì kỳ cục quá vậy. Càng đi càng buồn nản vô cùng.
Như một trò chơi thí mạng con người.
Đường trơn, chuyện đó đã đành, nhưng đá lởm chởm và hố sâu vực thẳm, không phải suông sẻ. Tôi đã từng trông thấy hai anh bộ đội khiêng pháo ban đêm đổ dốc. Vì không có đèn nên anh đi đầu bước hụt chân xuống hố lới theo anh đi sau. Cả hai lăn xuống hố với khẩu pháo đè. Tiếng kêu từ dưới hố vọng lên nghe rợn tóc gáy. Mọi người dửng dưng đi qua, nhưng luôn luôn bị câu hỏi sau đây ám ảnh tôi: “Làm sao lôi hai anh ấy lên?” Có quân đội nào hành quân kỳ cục vậy không?
Lần này tuy trời chưa tối nhưng đường trơn. Cái ba-lô ướt trên lưng đè xuống mà ven đường không có tay vịn để giảm sức lao của khối nặng toàn thân. Có lúc phải chạy ào xuống đến lúc ngã thì đó là lúc dừng lại, ngoài ra, mỗi một người là một chiếc xe không “phanh” thả dốc một cách mạo hiểm.
Đi được một vài chặng thì nảy ra kinh nghiệm. Người ta ngồi xuống và lết. Như vậy không bi ngã, nghĩa là tránh được mọi thứ tai nạn. Ở những chặng có bùn sền sệt thì người ta đi patin, tuột một hơi đến chỗ nào không tuột được nữa thì đứng dậy đi từng bước.
Tội nghiệp mấy người đàn bà con gái không thể đi được, mà chơi kiểu phiêu lưu patin thì không dám. Nhiều cô nhiều bà đứng khóc ròng.
Nhiều chặng không có bùn nhưng dốc rất ác. Đi thì nhất định phải ngã và mất rất nhiều thì giờ. Nhiều người chơi trò mạo hiểm. Nhìn thấy cái cây ở dưới kia cách chừng ba bốn tầm đất, ngắm cho kỹ, chuẩn bị dép cho chắc, rồi lao đầu một hơi xuống ôm chặt lấy gốc cây để đứng lại. Nếu ai bám được gốc cây thì sẽ đứng lại, còn nếu ôm hụt hoặc vuột ta sẽ lao luôn hoặc ngã lăn toành, toé máu là cái chắc.
Cái cách này đã được nhiều người còn sức khoẻ khá áp dụng và thành công chớp nhoáng nhưng cũng đã xảy ra lắm tai nạn. Có kẻ gãy rằng, có người tét trán. Nhiều ruột tuợng gạo vỡ tung, gạo bay, đổ xuống bùn như gieo.
Số đông chỉ dòm như coi hát xiệc rồi áp dụng phương pháp của Lê-nin: “Kiên nhẫn, kiên nhẫn, kiên nhẫn nữa.” Tuy có mất thì giờ nhưng không mất máu. Chưa đánh giặc mà máu đã đổ, kể ra không hợp lý lắm!
Ở một chặng trò xiếc này được biểu diễn một cách ngoạn mục. Số là ở phía dưới có một cái cây nhỏ bằng cổ chân. Cả chục người lần lượt lao xuống và ôm vào đó một cách mỹ mãn. Đến một anh hơi to béo lao xuống và ôm vào cây thì cây trốc gốc. Cả người và cây đổ sầm. Cũng may anh chàng chỉ rác toạc áo và xước ba sườn. Từ đó về sau, mỗi lần trượt dốc kiểu đó, người ta bảo chàng béo:
- Ê, cậu xung phong trước đi, nếu cây còn đứng vững thì những thằng ròm ôm mới bảo đảm.
Khi đến chân dốc thì trời đã về chiều hẳn. Tưởng mình vừa đầu thai kiếp khác. Quần áo người nào người nấy rách cả, mặt mũi quần áo bê bết bùn như vừa bắt hôi đìa. Chưa bao giờ bờ suối vui nhộn như hôm nay: Tắm tập thể! Cả trăm con người ta ùa xuống suối một lúc. Vừa tắm vừa giặt, giặt quần áo, giặt ba-lô. Tất cả đang khô ráo bỗng trở thành lấm và ướt. Cả một khúc suối dợn sóng ba đào, nước suối đục lên như nước trong ao có một bầy vịt quậy mò cá, nhưng sự ồn ào thì lại làm cho người ta có cảm tưởng chợ đang họp phiên lớn.
Riêng phái nữ thì rất đáng tội nghiệp. Họ luôn luôn bị động. Biết thân không thể sống chung với bầy “sói đói”, những con thỏ con tìm một quãng cách xa ở phía trên nguồn, nhưng bọn đàn ông lại ré lên phản đối:
- Xui lắm, xui lắm!
- Tắm dưới nguồn rụng tóc hết!
- Tắm dưới nguồn mất đầu thai luôn đó tụi bây!
Thế là đám đực rựa ào ào vác đồ đạc chạy lên phía trên nguồn để khỏi bị mất đầu thai. Nhưng cũng có số đông chống lại một cách vui vẻ:
- Ở dưới này mới đi đầu thai mau hơn.
- Nước này mới bổ chớ ạ! Mấy thằng đầu bạc gội thử coi, sáng mai tóc xanh lại. Khỏi cần uống Hà thủ ô của Cuốc Roanh Rượt Phẩm!
Tiếng cươì, tiếng chế diễu râm ran cả lòng suối. Một tiếng nói oang oang dội lên:
- Đàn ông thì phải ở trên,chứ ở dưới rồi làm sao mần ăn?
- Ở dưới thì phải ngoi lên.. hà hà…!
- Các ông cứ ngoi lên thử coi nào? – Một người trong phái yếu đáp lời sông núi – Tắm dưới các ông tụi tui cũng rụng tóc, cũng mất đầu thai vậy! Bộ mấy ông là tiên hả?
- Tiên không tiên thì tục chớ gì các bà ơi!
- Mà các bà muốn tiên hay tục? Nè, tôi cho hay, tiên chỉ biết đánh phép, biết bay thôi chớ chẳng có được cái tích sự gì đâu! Đừng có ham!
- Bây giờ mà có được một ông tiên ở đây thì tôi ưng ngay.
- Để làm cái gì ba cái thứ đó?
- Để tôi bắt cõng tôi và vác ba-lô tôi bay cho mau vô tới trỏng.
- Tui cõng được không? – Một ông đứng gần đó ra miệng – Tui cõng có lợi hơn tiên. Há há há !
- Thôi chị ơi, đừng có đấu khẩu với mấy ông đó.
- Bộ sợ hả?
- Sợ gì mà sợ ?
- Không sợ thì đấu thử một trận coi ! Hà hà….
Một bà sồn sồn nguýt và nói to:
- Đuổi ruồi còn không nổi kia, đòi đấu.
- Đuổi ruồi không nổi chứ đấu thì hăng lắm ! Không tin thì cứ làm giao kèo. Hễ tôi thua thì tôi cõng đằng ấy và vác luôn ba-lô vô tới Bà-Rịa, còn nếu đằng ấy thua thì tính lẽ nào?
- Thôi mấy cha ơi, đừng có nói xầy, về tới trong Nam gặp bả rồi tha hồ đấu. Tôi sợ e chừng đó lại than xin xỏ đầu hàng chớ!
Mấy nàng trẻ cúi gầm giặt giũ nhưng tai thì dường như lắng nghe. Đói khát, nhưng ai cũng thích những chuyện trần tục đó cả. Nhờ vậy mà buổi tắm tập thể có vẻ lạc quan yêu đời và rất “biện chứng nói bá láp”.
Mấy chàng trai thì vừa tắm vừa liếc những cặp đùi trắng lộ ra dưới nước, những bộ ngực vun lên sau làn áo ướt, những làn cong được phô diễn rất đầy đủ và những “ưu” điểm những “khuyết” điểm cũng được trông thấy lồ lộ hơn. Để che mắt sói đói, những cô những bà quây phòng thay quần áo bằng những tấm ni-lông. Vì không có trụ cột nên bốn người căng bốn tấm ni-lông đứng bốn phía cho một bà chui vào. Khi bà xong xuôi thì trở ra làm nhiệm vụ dừng vách cho mỹ nhân khác vào thay xiêm y.
Cứ thế cho đến hết một nhóm. Sáng kiến này được áp dụng cho phía nữ một cách mỹ mãn.
Bọn nam giới ngó lom lom nhưng mắt đâu có xuyên được ni-lông. Mặc dù vậy vẫn cứ ngó cho đỡ ghiền. Ngó và tưởng tượng. Mười năm ở Miền Bắc chẳng hoạt động gì được nên rất khao khát của trời. Mong thấy mặt “cụ Đề” được chút tí thôi thì cũng bằng uống một củ sâm Triều Tiên.
Bỗng có tiếng cười ré lên.
Mỗi người mỗi giọng, mỗi kiểu, mỗi tình cảm.
Số là một cô đang cầm ni-lông căng ra bỗng vuột tay. Tấm ni-lông bị rơi xuống một góc. Bà hoàng hậu ở trong cung bị phô bày trọi lỏi từ đầu đến chân không thiếu chỗ nào. Bà hoảng hốt la ré lên. Mấy cô kia yếu bóng vía nghe tiếng la thì tưởng là rắn rết hay có chuyện gì nguy hiểm bèn nhảy cà tưng, cô thì buông ni-lông, cô thì chạy vọt qua tránh né. Bà hoàng hậu đứng giữa bốn bức tường sụp đổ bị cả chục cặp mắt xoi mói từ bốn phía. Bà hoàng chạy loạn như đạp lửa và giật một tấm ni-lông quấn quanh mình.
Đáng lẽ thẹn thùng trước cái tai nạn hiếm có đó, bà hoàng lại vui vẻ và cười như nắc nẻ, đấm vào lưng mấy cô bạn thùm thụp:
- Bây hại tao ! Bây hại tao !
- Cho người ta coi chút, mất màu sao mà sợ.
- Ừ tới phiên bây, tao tốc màn lên cho thiên hạ xem
- Tốc màn lên thì phải bán vé. Hay cho coi khôngl’- Một người đàn ông lên tiếng.
Cả bọn cười rộ lên. Một người đàn bà gắt: .
- Các ông lúc nào cũng như cọp đói rình mồi ấy. Chờ người ta sơ hở một chút là chọc ghẹo.
- Chọc thì chọc thẳng vô chớ ai có ghẹo mần chi cho mất công!
Từ đó tới mãn cuộc, bọn đàn ông không có gặp cơ hội may mắn nào để xem “u khuyết” của đối phương nữa.
Tắm xong, tôi mang tất cả đồ lề lên tìm chỗ mắc tăng giăng võng. Vì không có Hoàng Việt nên tôi không hợp tác xã với ai được. Nếu để ba-lô xí phần giành chỗ như người ta giành chỗ ở chợ trời, thì đi tắm lên, cái ba-lô sẽ không còn ở chỗ đó nữa. Chủ nghĩa Mác Lê không có chương mục nào dạy thuỗn đồ đạc của đồng chí nhưng vì thiếu thốn quá nên tay chân sanh ra quơ quào.
Khi tôi lên bờ tìm chỗ mắc võng thì rừng đã kín đặc. Những đoàn vô trước, đến đây thì ùn lại không đi vô được nữa. Đang bực mình thì người ở ngoài lại đùn vào. Họ đang bực lại càng thêm bực. Sự ứ đọng này có lẽ do trận phục kích mà hậu quả là ông tham mưu trung đoàn ngồi trên máy bay loa ong ỏng xuống đất hôm nọ.
Loay hoay một hồi rồi tôi cũng tìm được một chỗ. Tuy không như ý lắm nhưng phải chấp nhận, cũng như mười năm qua ở Miền Bắc không có một người Nam Bộ nào như ý về bất cứ vấn đề gì, nhưng họ vẫn phải chấp nhận để sống chờ ngày về nước.
Vấn đề lớn nhất của mọi người trong chuyến này là gạo ướt. Ở trạm vừa rồi, những người đi Ông Cụ như chúng tôi được lãnh mười sáu kí lô. Chúng tôi ăn xài đổi chác cũng hết một số kha khá. Còn lại thì cộ theo mình. Bây giờ ướt hết vì mưa. Không biết làm sao ăn cho hết cả chục kí gạo còn lại kia. Nhưng nếu để cách đêm thì nó sẽ thối ra không ăn được nữa. Đang thừa mứa bỗng nhiên thiếu thốn. Tôi bèn trải ni-lông và trút cả chỗ gạo ra, banh mỏng để cho nó mau khô.
Vô lý thật. Mới ở chặng rồi, nghe ông Mặt Sắt khiển trách ông Tư lệnh Khu 4 không bảo vệ nổi hai tàu gạo để phản lực Mỹ đánh chìm. Cho không cũng chẳng ma nào dám lặn mò. Ở đây chẳng ai cần lặn mò nhưng vẫn có thừa gạo mà không biết làm sao tiêu thụ. Dưới sự lãnh đạo anh minh của bác đảng, xảy ra toàn những sự vô lý.
Mắc võng qua loa xong tôi bèn bày ra nấu cơm. Tôi thấy cô đơn chết người đi được. Chưa bao giờ tôi phải sống một mình, chung quanh không có bè bạn, như thế này. Nói chuyện với một người bạn là một nhu cầu không thể thiếu, nhất là trên đường này. Mỗi buổi chiều hạ trại, chúng tôi đều đấu mép, pha trò, chọc ghẹo nhau vang trời. Như thế cũng đỡ mệt.
Chiều nay người bạn cuối cùng của đoàn cũng đã rời tôi . Tôi nhóm lửa mà bụng cứ nhớ Hoàng Việt. Không biết ông bạn nhạc sĩ bây giờ ở đâu. Đang đi patin hay làm trò xiếc ôm gốc cây trên dốc xuống?
Không còn một thứ gì còn khô trong ba-lô. Sau khi soạn tất cả đồ đạc ra tôi phát rầu. Bao nhiêu hình ảnh kỷ niệm, mặc dù đã gói hai ba lớp cất trong ba-lô cũng ướt, nói chi đến những vật cất trong bóp bỏ ở túi quần. Lết rách cả đáy quần thì hình ảnh nào còn được . Sau bao nhiêu trận mưa và lần lấy thủy làm bộ, các tấm hình đã chớm tróc. Đến phen này thì gỡ đến đâu rách đến đó. Tất cả chỉ còn là những tấm giấy trắng loang lỗ bông hoa trắng trắng đen đen không còn rõ ai là ai nữa.
Trong một cái gói khác, tôi moi ra đôi giày trẻ con nhỏ xíu như hai đóa hoa huệ.
Bất giác tôi kêu thầm một tiếng, không biết tiếng gì, nhưng là tiếng đau đớn nhất. Vết thương quá sâu bây giờ mới bắt đầu chảy máu, máu từ tim tôi tóe ra.
- Phương!
Quần áo ướt, võng chăn ướt, gạo ướt, bây giờ đến lượt tâm hồn ướt và nát ra từng mảnh vụn như chiếc bánh tráng bị nghiến dưới sức bóp của một bàn tay thô bạo. Một cái thằng Tôi như thế đó !
- Phương !
Đây là đôi giày trẻ thơ, nàng đã trao cho tôi và thầm thì: “Em muốn có với anh một đứa con ! Giày của con mình đấy!”
Tôi cất từ bấy đến nay không lần nào giở ra xem lại, kể cả những lần đồ đạc ướt hết tôi cũng chỉ phơi rồi ngó phớt qua chứ không cầm lên săm soi như những món đồ thân yêu khác trong ba-lô. Ấy vậy mà đôi giày ấy lại là kỷ vật thân yêu quí giá nhất của tôi. Tôi không dám nhìn nó là vì mỗi lần trông thấy nó tôi đau buốt tâm can, là vì tôi thấy hi vọng của chúng tôi như tan vỡ hoàn toàn kể từ khi nàng gục đầu vào cội cây ở ngả rẽ xuống Bác Kế mà khóc như rung chuyển cả đất trời.
Bây giờ thì cái hi vọng ấy mới thật tan vỡ hoàn toàn: Phương đã nằm dưới bao lớp đất. Một người con gái xinh đẹp mơn mởn đào tơ duyên dáng và tài hoa như vậy bỗng nhiên vùi xác giữa rừng không cho cái gì cả, chỉ vì một sự ngông cuồng của những thằng điên. Bao nhiêu mộng tưởng, bao nhiêu lời âu yếm trong tim nàng chưa thốt ra cho tôi đều đã chôn chật dưới kia rồi.
- Phương!
Bên cạnh đôi giày, còn có một xấp thư của nàng gởi lén cho tôi lúc ở nhà trường. Chúng đã bị nhúng nước bao nhiêu lần, chữ đã nhòe, giấy đã rách, tôi vẫn giữ nguyên, dù không có gì để nhóm bếp. Tôi đã đốt cả bản thảo của tôi – bản thảo của tôi có đốt thì tôi viết cái khác – còn chữ của nàng đốt đi ai viết lại được, cho nên tôi cứ giữ hoài, những dòng chữ đã mất hẳn trên mặt giấy nhưng còn in mãi trong đầu tôi, trong tim tôi. “Anh ơi ! Em cảm thấy như đời em thuộc về anh hoàn toàn. Anh đi đâu thì em đi đấy. Nhưng không hiểu tại sao người ta chia rẽ chúng ta. Đất nước ta bị quân thù chia cắt còn chúng ta yêu nhau, sao ai nỡ tách làm đôi …! Người ta ký lệnh cho anh đi một nơi, em một ngả…”
- Phương !
Em chẳng bao giờ còn nói được tiếng nào nữa. Em chẳng bao giờ còn viết được chữ nào nữa mà sao tai anh vẫn cứ như nghe em nói, mắt anh vẫn cứ như đọc chữ em viết.
Nước mắt ràn rụa. Tôi không còn thiết đến gà-mèn cơm đang sôi sùng sục trên bếp nữa. Tôi leo lên võng nằm.
—>Chương 16


- 16 -
Trời ơi! Tôi mới biết cái lạnh ở đây là cái lạnh gì. Quần áo ướt, chăn võng ướt và tâm hồn lạnh cứng. Tôi liệm tâm hồn và thể xác tôi vào cõi băng giá mênh mông.
Con đường này không những là con đường đau ốm bệnh tật đói khát nhọc nhằn mà còn là con đường dày vò, khổ ải , tinh thần rẽ phân, ly tán. Nó chưa xóa được những giọt nước mắt chia ly của tập kết giờ nó gây ra những vĩnh biệt ác độc hơn.
Người với người là đồng loại cũng như thú vật với thú vật là đồng loại.
Người cùng một dân tộc là đồng bào. Người cùng đảng phái là đồng chí.
Nhưng khi người nắm được quyền bính trong tay thì người quên mọi điều cao cả, người quay trở lại ăn thịt đồng loại, đồng bào và đồng chí của người. Chữ “người” này có lẽ phải viết hoa.
Tôi giật mình thức dậy không biết do mùi cơm khét hay do chiếc võng bị lắc. Có lẽ cả hai.
- Mơ tiên dữ hả mậy?
Tôi mở mắt và nhận ra Cao, anh bạn nhạc sĩ trong đoàn Văn Công phục vụ đường dây tôi gặp hôm trước.
- Mày đã vô đây rồi à? – Tôi hỏi.
- Hai ba ngày rồi.
- Đi đường nào, sao tao không thấy?
- Tao cũng không biết đường nào, người ta biểu đi thì đi, biểu đứng thì đứng, biểu hát thì hát, biểu đừng hát thì giữ miệng câm. Biết cái gì là cái gì đâu !
- Hát xướng gì ở đây chưa?
- Không dám hát. – Cao nhìn tôi rồi tiếp – ướt hết hả?
- Nhúng trong nước, khô sao được..
- Để tao về lấy quần áo khô cho thay, mặc đồ ướt cảm chết.
- Biết chừng nào giao liên cho đi mà cho mượn!
- Còn lâu ! Cứ tin tao đi ! Tụi nó nhét nút bịt kín rồi , đường đâu mà đi ! – Nói vậy rồi Cao quay đi nhanh.
Chập sau trở lại với quần áo trên tay và… một ông bạn.
- Mày biết thằng nào đây không?
Tôi nhìn thằng người kia một thoáng mới nhớ ra.
- Mày cũng đi nữa à? – Tôi gắt yêu.
- Cả hai vợ chồng ! Thế mới độc đáo !
Anh chàng kia là dược sĩ. Anh ta làm ở Quân y viện Cần Thơ hồi kháng chiến chống Pháp. Tôi và Cao thỉnh thoảng ghé qua được nó bê cho một chai nhau ngâm mật ong để tẩm bổ hoặc khi có cấy Phì-la-tốp (là nhau khô, rạch da, cấy vào, nghe nói tăng “sức bật” dữ lắm nhưng tôi ớn quá không cấy lần nào. Ông nhà văn Sơn Nam có viết một bài tuyên truyền cho môn thuốc này tựa là “Rủ nhau đi cấy” đăng ở báo Kháng Địch khu 9) thì cho hay để đến cấy.
Tên nó là Vân, nhưng tên khai sanh của nó là Quách Tích Hích. Bọn tôi gọi nó là Chệt lai, bi phê bình mất đoàn kết Hoa Việt, vì nó là cháu bác Mao lẫn bác Hồ.
Cao bảo:
- Thôi dẹp ba cái chòi trại của mày, quảy tất cả lại đằng lều họ Quách, ta liên hoan đồng hương một bữa !
Cao vừa nói vừa quơ quào mọi thứ đồ đạc và lôi tôi đi mau mau.
Vừa đi, Cao nói:
- Mày có tưởng tượng rằng nó “vào” rồi lại trở ra cõng vợ nó vào luôn không?
- Trời đất ! – Tôi kêu lên và quay lại nhìn Vân.
- Tao không có sáng tác đâu ! – Cao tiếp – Nó đi trước mày mà. Rồi trở ra Hà Nội rước vợ vào đấy. Không tin mày lại đằng đó coi có bà Phụng hay không.
Chúng tôi tới gần lều thì Quách kêu:
- Phụng ơi, Phụng, có người quen tới nè!
Một người đàn bà từ trong chiếc lều “kín cổng cao tường” ló mặt ra hỏi:
- Ai đó?
- Không nhìn ra ai hả chị ?
Phụng chớp chớp mắt giây lâu rồi kêu lên:
- Anh Xuân Vũ hả ?
- Chớ còn gì nữa! – Vân nói – Nó đi lạc đường em ạ!
Cả ba cùng vào lều, một cái lều khác hắn lều Trường Sơn. Nó có vách che bốn bên nhưng cũng đều bằng ni-lông. Tuy bằng ni-lông vẫn còn hơn trống rỗng trống lơ như lều của bọn này, nằm trong lều mà tưởng nằm giữa trời.
Tôi buông đại đồ đạc gạo thóc ba-lô xuống đất. Cao bảo:
- Đi thay quần áo đi cái đã !
- Nó có sốt không? – Vân hỏi- Có sốt tao cho uống thuốc ngay cắt cử cái một.
Tôi như người té dưới sông vừa được vớt lên. Tôi xách bộ đồ quân sự của Cao ra rừng thay rồi vào nhanh. Tôi ngó quanh quất cái lều rồi nói:
- Bộ muốn trụ hình ở đây luôn sao mà làm nhà kỹ vậy.
- Ở đây có hai tuần lễ rồi ! Đường kẹt nặng. Đơn vị đi trước mình bi phục kích. Nghe nói ông trung đoàn phó hay tham mưu trưởng gì đó bị bắt.
- Tao có nghe máy bay loa! – Tôi cứ nhìn ngó chiếc lều hoài – ấm quá!
- Nó có kinh nghiệm lần vô trước nên kỳ này nó cải tiến cái lều bảnh quá mày thấy chưa? Có vách hẳn hoi. Mưa gió đâu có tạt. Ngủ như trong nhà.
Tôi chưa từng biết ai khỏe mạnh, siêng năng, tĩ mỉ và cưng vợ như cái thằng dược sĩ này. Hồi ở trong Nam, nó có chiếc ghe tam bản nhỏ có hai tấm rèm dựng lên xếp xuống. Đó là cả cái giang san của nó. Nó không khi nào ăn cơm cơ quan. Bao giờ cũng ăn riêng hai vợ chồng hoặc trên nhà dân hoặc dưới ghe. Cơm kháng chiến đạm bạc nhưng rất tươm tất. Thỉnh thoảng đi ngang qua Y viện của nó ở Vườn Cò, bọn tôi thường tắp lại ghe của nó để ăn cơm. Không có gì, ăn cũng ngon nhờ nước mắm tỏi ớt, củ cải muối hoặc tương nếp do chị Phụng sáng tạo. Ăn xong nấu trà uống, nói dóc một hồi cho tiêu cơm rồi đi.
Mỗi khi cơ quan di chuyển, nó ở trần trùi trụi vác hết thùng đồ này tới thùng đồ khác chèo ghe chất đầy đồ đạc của Viện tới địa điểm mới rồi trở lại rước vợ. Không bao giờ nó để vợ chèo một phút. Con hai đứa, đứa gởi về ngoại nuôi, đứa giao cho nội giữ. Hai vợ chồng đi kháng chiến một cách thong dong và hồn nhiên.
Bây giờ gặp lại nhau ở giữa rừng núi này quả là hạnh ngộ. Tôi nói với chị Phụng về tình trạng gạo của tôi. Chị Phụng đưa sáng kiến ngay:
- Lỡ xuống nước rồi, anh có phơi cũng không ăn được trừ khi anh nấu liền nó mới không hôi. Chỉ có một cách là ngâm luôn rồi xay bột.
- Nhưng lấy gì mà xay?
Đang bàn việc xay gạo bỗng Cao kêu lên:
- Ông Hoàng Cò đâu rồi ?
- Tụt hậu hồi ở nửa đường!
- Rồi sao? Không ai vớt ông hết à?
- Tao đang đi bỗng quay lại thì không thấy ảnh nữa. Mấy người đi phía sau bươn lên nói là ảnh tuột biệt đằng sau. Trời mưa tầm tã. Tao đâu có sức mà trở lại tìm, còn nếu ngồi lại chờ thì sợ lạc đường ma dắt vô bụi cho ăn đất sét bỏ mạng!
- Mày không báo cáo với giao liên à? – Cao gặn hỏi.
- Báo làm mẹ gì. Chân thằng nào thằng ấy đi. Nó có dư chân cho mình đâu mà báo cáo.
- Hoàng Cò là ai ? – Vân hỏi. Tên gì lạ hoắc vậy.
- Hoàng Việt đó! Tụi tao nói “cò” cũng như “diệc,” kêu bằng Hoàng Cò nghe vui hơn. ..
Vân kêu lên:
- Hoàng Việt hả? Trời đất ! Ổng ốm yếu vậy mà cũng lội vô đây à?
- Ốm cũng đi. Xa bà xã đã hai chục năm rồi đó mày .
Vân đưa tay vẹt tấm vách ni lông ngó trời rồi nói:
- Bây giờ còn sớm, để tao đi rước thằng chả coi. Bỏ “chả” dọc đường cọp tha uổng cái “Lá Xanh” chớ tụi bây!
- Lá xanh ăn nhằm gì, Đại hòa tấu Giao hưởng kia đấy !
- Thôi, tụi bây ở nhà lo cơm nước, tao đi chút coi.
- Cứ đi theo dấu bùn nát nhừ là gặp ổng thôi. Bây giờ ổng giỏi lắm là đã lên tới đỉnh dốc. Mày mang ba-lô dùm cho ổng thì ổng bay nhẹ thôi.
Vân nai nịt gọn gàng, lưng đeo súng lục đi nhanh như chạy.
Tôi và Cao đứa đi “túm” nước về ngâm gạo, đứa đi tìm củi nấu cơm. Trong khi chị Phụng soạn thức ăn. Cao lo nấu cơm còn tôi bỏ gạo vào bọc ni lông nước buộc túm lại và để vào một hốc đá, một kiểu ngâm gạo mới phát minh.
Tôi bỗng nhớ lại tất cả cái sinh hoạt kháng chiến của chúng tôi. Vô tình hôm nay là buổi họp của những cựu học sinh đi kháng chiến cùng một lúc.
Tôi buột miệng hỏi:
- Chị có cho thằng “kỹ sư súc vật” hay trước khi đi không chị ?
(Lối xưng hô của chúng tôi hơi kỳ cục, gọi chồng thì bằng thằng mà gọi vợ lại bằng chị)
Chị Phụng nói:
- Trước khi đi anh Vân có cho ảnh biết, để ảnh tiếp thu “tài sản” của chúng tôi.
- Coi bộ cái “nghề chăn bò” của nó không khá lắm. Có lần nó mời tôi sang uống sữa trâu của sở nó, ý nó muốn tôi viết bài tuyên truyền sữa trâu ngon và bổ hơn sữa bò Hòa Lan.
- Sao tôi không thấy bài đó trên báo?
- Tôi có viết đâu mà chị thấy được. Nó pha cho tôi một cốc tôi hớp một hớp ngậm hồi lâu mới trợn trắng lên mà nuốt. Tanh bỏ mẹ. Vì tình bạn, nếu không tôi phun ra ngay!
Chị Phụng nói:
- Ảnh có đem cho anh Vân một bình để nhờ anh Vân phân chất.
- Ông dược sĩ phân chất thấy chất gì trong đó ?
- Tôi không nghe kết quả, nhưng chắc không khả quan lắm nên ảnh im luôn.
- Hắn đi tập kết bỏ vợ ba con ở lại. Vào lứa tuổi tôi ai cũng vợ con đùm đề, chỉ mình tôi là còn độc thân. Khi ra Hà Nội, gặp tôi, hắn mới tỏ ra ân hận chị ạ!
- Ảnh sang tôi chơi lần nào ảnh cũng than. Ảnh nói với anh Vân một câu, tới bây giờ tôi còn nhớ: “Muốn mau thống nhất bắt vợ con mấy thằng trung ương đem vứt vô Sàigòn hết cả thì có kết quả ngay!” Anh Vân hỏi tại sao vậy, ảnh nói: “Có thế thì chúng nó mới điên tiết lên! Chứ còn để chúng bữa nào cũng ăn ngon rồi vợ sẵn bên đó, còn “thống” cái giống gì kia chứ. Muối xát lòng ai nấy xót. Phải không ? ”
Tôi hỏi:
- Không biết nó có xin về nước không?
- Vợ ảnh ra được rồi.
- Trời đất! Làm sao mà ra?
- Ảnh có đưa mấy đứa nhỏ và chị ấy sang thăm vợ chồng tôi. Chị thuật lại chuyện đi gian nan lắm. Trước nhất phải lén đi lên Cao Miên, ở Cao Miên đi làm thuê làm mướn hai ba năm rồi mua giấy căn cước sao đó, lẹo tẹo ớn lắm mới đi từ Cao Miên ra Hà Nội.
Cao nói:
- Bây giờ thì nó cũng hết cần thống nhất rồi. Vì nó đã “thống nhất với vợ nó” rồi. – Cao tiếp- Nè, ông bác sĩ Cư nhà mình ra Hà Nội rồi đâu biệt tăm chị Phụng?
- Ông Trung, ông Thành, ông Nghiệp còn lặn mất tiêu, ông Cư ăn nhằm gì ! Ông Thành thì đi học Liên Xô, ông Trung thì làm bác sĩ ở tỉnh nào đó, còn ông Nghiệp thì làm Ủy viên trung ương đảng Xã hội, anh không biết à?
- Có biết chớ! Tôi có gặp ổng xếp hàng đi ăn cơm ở hợp tác xã sau lưng Mậu dịch Quốc doanh ăn số 1 ở Tràng Tiền.
Chị Phụng lắc đầu khe khẽ:
- Mấy ông lớn trong mình ra ngoài này lu mờ quá!
- Lu mờ gì. Tiêu tùng hết ráo. – Tôi xen vào – Hồi kháng chiến, ông Nghiệp từ Bắc vô Nam với chức Tổng Thanh tra Quân y Toàn quốc, oai như trời, đi đâu tiền hô hậu ủng rầm rầm. Ổng mở lớp đào tạo y tá sáu tháng ở tại nhà tôi chớ đâu. Tôi ghét nghề thầy thuốc nên không học.
- Anh Vân đã từng làm ở quân y hồi các ông Bờ ông Thầm cưa tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc. Công của ảnh đóng góp cho nghề biết bao nhiêu, thế mà ra Bắc cũng chỉ lãnh chức Phó. Ảnh chán ảnh mới ghi tên xung phong về xứ. Ảnh nói về trong mình kháng chiến như hồi trước vậy mà vui hơn. Ra Bắc bon chen ganh tị ti tiện qua. Cục muối chia hai, cục đường nuốt hết. Biết vầy ai có mong kháng chiến thành công làm gì để đi tập kết ly hương.
Kể đến đây, chị Phụng lại hỏi tôi: .
- Anh Hoàng Lưu bệnh sao mà chết ác vậy anh ?
- Nó đau gan lâu rồi. Vì ở riêng và bị chảy máu nội tạng không ai hay.
- Ảnh có con chưa ?
- Lúc tập kết thì vợ có thai.
- Vậy mà cũng đi !
- Hai năm về mà chị! Không nhớ mình giơ hai ngón tay lên để từ giã đồng bào ở bến Chắc Băng à?
- Trong lúc tụi Tây ngồi trên mui tàu há mồm thì xòe hai tay và giơ cả hai cẳng. Nghĩa là hai chục năm !- Cao tiếp – Tụi đế quốc nói ẩu vậy mà hổng chừng đúng đó ! Mười năm rồi! Mười năm nữa là tiêu tùng hết ráo! Mại dô!
Tôi thở dài:
- Tội nghiệp chị Kim Minh vợ thằng Hoàng Lưu! Có lẽ bây giờ chị cũng chưa biết chồng chết. Chậc ! Gia đình nó có một mình nó. Lúc bà già nó vô cưới vợ cho nó, tôi có gặp bả. Đám cưới nó ở Phú Hữu, tôi có dự.
Ba người im lặng một hồi như để cho dĩ vãng tươi đẹp hiện lên rõ hơn.
Bỗng chị Phụng nói:
- Còn anh, tính sao?
- Tính sao gì, chị ?
- Ai cũng vợ con cả rồi. Anh từ Nam ra Bắc, từ Bắc về Nam vẫn cứ chân không hoài à?
- Ngán ngẩm lắm chị ơi ?
- Người ta còn đợi anh kia kìa!
Tôi quay sang chuyện khác. Tôi hỏi Cao:
- Sao mày biết tao vô đây mà tìm, hay mày chỉ đi hờ cơ rồi gặp tao?
- Mấy cha quân sự đi lậu mách cho tao. Họ quen mặt tụi tao quá mà. Ông Trữ, ông Mật và ông Quý đóng quân ở vùng Thọ Xuân Bái Thượng chớ đâu. Các chả nói có gặp mày nằm ở trạm ngoài. Tao chắc thế nào mày cũng vô đây. Hễ có đoàn vô thì tao rảo đi kiếm.
- Vậy hả? Mấy chả đâu hết rồi ?
- Cũng lẩn quẩn đâu đây thôi.
- Các chả đi lậu đó nghe !
- Nhiều thằng được gọi tên đập bệnh để ở lại, mấy chả đi lậu là sao?
- Mấy chả bị phân công xuống Bác Kế!
- Thế à? – Cao nhảy dựng lên – Cái gì quái gỡ vậy?
- Mấy chả không xuống đó mà đi thẳng. Trạm có xét giấy sơ sơ… ăn thua gì. Chẳng thằng nào vuốt nhớt được mấy chả hết.
Chị Phụng trở lại chuyện lúc nãy:
- Anh Cao chờ đón anh ở trạm này rất có ý nghĩa đấy.
- Thì để nói chuyện khào chơi cho đỡ buồn. Ngoài ra nó còn nhờ tôi đem thư và hình về cho… con nó ở Cần Thơ
- Hình cho con chứ không cho chị Tuyết Hoa à?
Cao nháy tôi. Tôi nhanh miệng đáp:
- Hồi chưa có con thì nhớ vợ. Có con rồi thì nhớ con. Cho con cũng là cho vợ chứ gì, chị!
- Anh Cao có con chín mười tuổi rồi, còn anh, anh không lo cha già con muộn hay sao ?
- Đã muộn rồi, cho muộn luôn.
- Ai nói như anh vậy. Phải vớt vát lại chứ. Ông già bà già mong có cháu bồng. Bộ anh bị dính gốc rau muống rồi hay sao?
- Tôi tuốt bỏ hết cả không có dính rau dính cà gì hết. Đi là đi, nhẹ như không!
- Nếu có người ta chờ anh thì sao?
- Ai mà chờ tôi ?
- Vậy mà có mới lạ chứ!
Lúc nãy khi chị vừa gợi ý thì tôi đã ngửi thấy vấn đề nên đánh trống lảng ngay, bây giờ tôi nói thẳng:
- Chuyện đó hãy quên đi cho rồi chi ạ !
- Anh có quên thật không kia chớ!
- Chị có nhắc thì tôi mới nhớ! Nếu không tôi đã quên, quên lâu rồi.
- Anh quên nhưng người ta không quên.
Tôi biết là chị muốn nối tôi và Nguyệt lại với nhau. Chắc là Cao gặp chi ở đây đã thuật lại đầu đuôi sự phản ứng cửa tôi ở trạm ngoài. Hắn nhờ chị tiếp tay. Nguyệt cũng là người cùng cơ quan Y viện của chị. Lúc đó tôi theo bộ đội tìm đề tài “trong máu lửa” nên bị thương. Vào y viện mổ lấy đạn. Nguyệt và tôi quen nhau vào dịp đó. Chị là xếp của Nguyệt. Chị đã tạo cơ hội cho chúng tôi gặp nhau. Ra Bắc khi nghe chúng tôi tan vỡ, chị có rầy Nguyệt, nhưng lúc đó vấn đề lập trường giai cấp và tự ái cá nhân là tối thượng. Tôi chẳng chịu xuống nước năn ni còn Nguyệt thì tự ti về thành phần bóc lột. Do đó chân ai nấy bước.
- Bây giờ nó ăn năn rồi anh ạ, anh cũng nên thấy sự tiến bộ của nó chứ.
Cao vọt miệng:
- Tóm lại là nó còn yêu mày ! Nó muốn gặp mày để nói cho mày nghe mọi chuyện. Mày không nên quá khắt khe!
Trời tối mịt hồi nào không hay. Mải mê ôn lại chuyện cũ mà quên cả bước đi của thời gian.
- Chắc anh Vân đã tìm được anh Hoàng Việt rồi – Vừa nói, chị Phụng vừa khoác tấm ni lông nhìn ra rồi lấy đèn pin xẹt ra ngoài.
Thì đúng y như thần linh độ mạng. Có tiếng kêu to:
- Tụi mày ơi ! Hoàng Việt đây này !
Chị Phụng đưa đèn cho Cao. Chúng tôi chạy ra. Trong vệt sáng xanh lét tôi thấy một cây cột bùn đang di động về phía chúng tôi.
- Tôi kêu lên “Anh Bảy” – rồi chạy nhào tới ôm lấy Hoàng Việt.
Vân nói:
- Tao thối chí muốn trở về rồi, may sao tao còn ráng đi thêm một chặng nữa…
Cái lều trở nên nhộn nhịp rối rít tiếng người nhưng không chật chội.
Hoàng Việt ngồi phệt xuống đất, hai chân duỗi thẳng. Vân bảo như ra lệnh:
- Nhúng khăn ướt lau sơ thay quần áo, rồi cho ảnh lên võng nằm đắp chăn nghỉ trước đã. Không cho ăn gì bây giờ cả. Không ai hỏi han gì. Để cho ảnh ngủ một giấc. Thức dậy sẽ tính tới. – Vân vừa nói xong thì chị Phụng cũng vừa đưa bộ quần áo khô cho Hoàng Việt.
Hoàng Việt ra ngoài thay rồi trở vào. Vân trỏ chiếc võng của chị Phụng vừa mắc xong:
- Anh lên võng ngủ đì. Bất cần đời nghe !
Hoàng Việt ngã đánh vật lên võng, chỉ nói một câu:
- Tao đã định ngủ lại giữa đường rồi tụi mày ạ !- rồi lịm luôn. ..
- Mấy thằng giao liên ác thiệt ! – Cao buột miệng nói – Bỏ con người ta như thế à?
Tôi nói:
- Chớ mày bảo nó làm gì bây giờ? Có nó dắt tới nơi là quí lắm đó.
- Ở đâu cũng thế hay sao ?
- Khác thế nào được. Ác là cái thằng nào tổ chức con đường này này! Đến nỗi anh Sáu còn bật ngửa ra. Chính ảnh cũng không ngờ đường đi lại tệ hại như thế này mà.
- Ủa, con nhỏ gì đi với mày ở trạm ngoài đâu rồi ?
- Ông Mặt Sắt cho theo đoàn của ổng rồi.
- Sao không thấy đi chung với tụi tao?
- Có thể họ đi con đường nào khác mày không biết. Tao nghe nói có nhiều đường lắm !
- Đường nào tao không biết chứ con đường tụi tao đi diễn thì chết vô số kể. .
- Ai chết? Khách à?
- Lính công binh chứ khách gì !
- Đánh chát gì với ai mà chết?
- Đánh núi, đánh cây nên núi đánh cây đánh lại. Một bãi chôn đặc những mả.
- Mày có hỏi thử dân Nam Kỳ mình có nằm ở đó không?
- Toàn dân mình chớ dân nào nữa. Ra đi bằng tàu, mở đường về bằng mìn. Ra tàu Liên Xô, về cỡi mìn cũng Liên Xô. Ra an toàn, về tan xác. – Cao nói giọng chua chát – Bọn Nam Kỳ mình tưới nước mắt ngập bến tập kết, bây giờ rắc máu xương mở đường về trên mỗi tấc đất Trường Sơn . Đi trước về sau ! Vinh quang quá cỡ ! Đi cũng vinh quang mà ở cũng vinh quang! Địt mẹ vinh quang một phát đi !
Tôi biết Cao trong mười năm kháng chiến. Vợ con Cao toàn sống nhờ bên nhà vợ. Áo rách, xuồng nát, chèo gãy mà đời vẫn như bay. Chưa bao giờ phàn nàn về nỗi nghèo đói.
- Thôi mày ơi! Mày có muốn về thì trốn về, chớ cằn nhằn mẹ gì ! – Tôi nói.
Vân bật lên:
- Ừ đó, về với tụi tao đi ! Cái thằng Xuân Vũ luôn luôn là vô kỷ luật. Nổi tiếng Hà Nội. Nhưng sự vô kỷ luật của nó hình như đúng cả. Đấy, ý kiến của nó hay lắm. Hễ mày đồng ý, tao lo trang bị cho. Thế là đi luôn với tụi tao!
- Trang bị gì ? Tôi hỏi .
- Thuốc men, đao búa. Tao có sẵn cả. Nếu cần thì mầy lấy hết trang bị của vợ tao. Vợ tao với tao “hùn vốn” xài chung. “Cùng chia sớt khi cùng đói lòng, từng miếng khô từng vắt cơm” (*) mà mậy
(*) Một câu trong bài hát “Niềm Thương Mến” của Xuân Vũ và Phan Vân, giải nhất Cửu Long 1950 trong Kháng chiến Nam Bộ.
Tôi nói:
- Nó đi công tác trên đường này thì trang bị cũng đủ hết cả, phải không Cao?
- Ngoài tăng võng ra thì thêm một gói thuốc gồm có quinine, thuốc đỏ, thuốc rắn và một hộp muối ruốc chớ có cái gì quí giá đâu!
- Tụi tao cũng chỉ có thế, thêm một con dao trành bằm chớ có gì khác !
Vân nói:
- Vậy là đủ rồi. Ngoài ra tao còn mười “em ngái” thồ cả tủ thuốc đi theo tao kia. Bảo đảm cho tụi bây không chết vì sốt rét dọc đường.
- Đó là một ưu tiên “rỉ đại” duy nhất đúng rồi, còn đòi gì nữa ?
Vân tiếp:
- Không tin tao kêu các em lại đây trình diện cho chúng mày xem. Tao về trong đó làm xếp phòng dược của quân y Nam Kỳ quốc mà ta.
- Ủa, leo lên được chức trưởng rồi hả?
- Vô Nam khói lửa, Bắc kỳ nó đùn cho mình, nên nó mới phong cho mình chức trưởng, chứ nếu còn ở ngoài đó thì ôm cái phó cối muôn năm, đâu có leo lên nổi.
- Nói vậy sẵn “ổ” trong đó rồi hả? Về cái là “đẻ” phải không?
- Tao lo đủ hết các thứ rồi. Hễ về là… đẻ – Vân vừa nói vừa liếc vợ – Hả bà?
Phụng nói:
- Bỏ hai đứa nhỏ ngoài Hà Nội em phát rầu đây nè!
- Thì chúng nó ở với cậu nó chớ ai mà bà rầu. Lớn lên đứa đi Liên Xô đứa đi Đông Đức như con anh Hai Hùng anh Ba Khiêm vậy. Tụi nó về làm thủ tướng bộ trưởng, con mình làm bậy phó phòng vệ sinh trưởng ban ủ phân xanh thôi !
Tôi hỏi:
- Mấy đứa ở trong Nam lớn đại hết rồi hả chị Phụng?
- Đứa mười bốn đứa mười sáu ! Con gái lớn, con trai thứ ba.
- Nhờ cậy được cả rồi ! À mà ngoéo tay làm suôi với thằng Cao đi !
Cao không vui, nhưng cố gượng:
- Con trai tao còn nhỏ hơn.
- Thì kết bạn với con trai của thằng Vân.
- Anh không lo cho anh đi! Về riết để người ta cưới hết con gái ở trỏng – Chị Phụng nói – Hay là còn tơ vương Hà Nội ? Anh mà khỏi, tôi thua luôn !
Bữa cơm ăn dưới đất nhưng trong lều kín, ngon miệng vô cùng. Vân chơi sang treo ngược chiếc đèn pin. Ánh sáng vòng tròn chụp xuống vừa đủ soi sáng mâm cơm.
- Không món gì có xương đâu mà sợ – Vân nói – Ăn khô ăn hạn tạm bữa nay đi, sáng mai vợ tao nấu canh cho mà húp!
- Còn ba cái gạo ngâm kia thì làm sao ?
- Mày lo ba cái vụ sáng tác đi, tao xay cho mà coi !
- Trên mười ký gạo đó nghe mày ! Trạm ngoài cho mỗi thằng lãnh mười sáu kí lô một phát.
- Ấy chết! Vậy vạch ba-lô của Hoàng Việt ra coi có gạo không. Hay là ổng vứt rồi.
- Không dám vứt đâu! Ảnh bảo là không biết chừng nào mới tới kho gạo, phải ăn tiết kiệm ! Vậy hồi cậu ngang trạm đó, nó phát bao nhiêu?
- Mười hai ký.
- Mà nó có dặn ăn nhín không?
- Không dặn cúng phải nhín.
- Gạo không có cho lính, nhưng chúng nó dư cho lợn. .
- Hả?
- Bác Mao bảo quản lý ba năm đem chặt đầu. Quản kho ở Trường Sơn ba tuần đem treo cổ. Tôi nói – Tụi bây không biết gì hết đâu. Tao đã từng đi ăn cướp gạo kia đấy.
- Ăn cướp ở đâu?
- Cách đây chừng vài trạm. Bộ đội bị cúp gạo kéo đến kho bắt trói quản kho, khai kho cho lính lấy tha hồ.Tụi mày biết không, chúng nó lấy gạo nuôi lợn và đổi chác các thứ với đồng bào thiểu số.
- Có chuyện đó nữa à?
- Ôi thôi chỗ nào có cơ quan chỗ đó có tham ô. Mày không nhớ vụ Cao Xà Lá à?
- Cái tụi ghê gớm thật.
- Tụi nào mà chẳng ghê gớm! Hễ có quyền chức trong tay là ghê gớm cả. Ghê gớm nhất là cái bọn tham ô mà chẳng ai dám nói năng gì, chẳng ai dám kiểm soát, cái bọn ăn xương uống máu cửa dân mà lúc nào cũng bô bô cái miệng: của dân, vì dân, do dân.
Vân bỗng ngoặt ngang hỏi Cao và chị Phụng:
- Ở nhà nãy giờ mày và vợ tao có nói cái vụ con Nguyệt chưa ?
- Em nói rồi ! – Chị Phụng đáp.
Không đợi ai thêm câu nào, tôi cười:
- Thôi được, gặp thì gặp nhưng tao không hứa gì trước cả.
Cao cười. Vân và chị Phụng cũng cười. Cao nói:
- Hội nghị Giơ-ne giải quyết vấn đề chính ở ngoài hành lang với bộ râu của Mandes France mal rasée mày hiểu không?
- Tao không hiểu gì cả? Nhưng mày cứ kèo nèo hoài, biết đâu…
- … lại chẳng tốt cho mày! – Vân tiếp.
- Ừ, anh đi gặp nó đi. Con nhỏ đó dữ và khó tính lắm… Hồi nó ở chung Y viện với tôi, mấy cô phơi quần áo cùng một sào với nó rồi hốt vô chung, nó lấy của nó ra sông giặt lại và phơi riêng đó. Nó mà còn yêu anh và xuống nước như vậy là chuyện không hèn.
Để Hoàng Việt ngủ trong lều của vợ chồng Vân, tôi đi theo Cao. Cao cầm cái đèn pin của Vân rọi đường cho tôi đi Chị Phụng vén màn nói với theo:
- Ông mai ráng ăn cho được cái đầu heo nghe !
- Đầu heo rừng chắc gặm rách mép !
—>Chương 17
1      2      3      4      5 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét