Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - CHƯƠNG 1 ĐẾN CHƯƠNG 4


Cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, bản của nhà Văn hoá in năm 1993 gồm:
Lời nhà xuất bản.
Vài nét về học giả Nguyễn Hiến Lê của Nguyễn Q. Thắng (Tôi tạm lược bỏ bài này).
Lời nói đầu của tác giả.
33 chương (Nhà xuất bản tạm lược bỏ lại 6 chương XXI, XXII, XXIV, XXX, XXXI và XXXII), chia làm 6 phần.
- 3 phụ lục.
Trong khi gõ cuốn Hồi kí này, khi gặp những chỗ ngờ sai, tôi thường đối chiếu với cuốn Đời viết văn của tôi (Nxb Văn hoá – Thông tin, năm 2006, về sau gọi tắt là ĐVVCT), nếu sai tôi sẽ châm chước sửa lại mà phần lớn không chú thích để khỏi rườm. Ví dụ đoạn sau đây: “Trong bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc, chỉ có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những bài dễ, còn hầu hết đều do một ông bác tôi dịch cho và kí tên là Vô danhNhư thơ cổ phong loại “từ” một thể thơ và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật” (tr.403). Câu cuối của đoạn trên, trong ĐVVCT in là: “Nhưng thơ cổ phong loại “từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật” (tr.168), nên tôi châm chước sửa lại câu cuối đó thành: “Như thơ cổ phong loại “từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật”.
Còn hai chữ “đệ tứ” trong câu “Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên Giang cũng viết ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng; Triều Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm” (tr.426), tôi vẫn giữ nguyên mặc dù trong ĐVVCT in là “đệ tử” (tr.199) vì tôi đoán “đệ tứ” ở đây có nghĩa là “Đệ tứ Quốc tế”, còn gọi là “Đệ tứ Cộng sản”.
Ở một số chỗ, tôi cũng phải chép đúng theo Hồi kí như câu sau đây trong đoạn nói về cuốnSống đẹp, nguyên tác của Lâm Ngữ Đường: “Mấy năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như của Vũ Bằng…” (tr.466); nhưng tôi phải ghi thêm chú thích vì trong ĐVVCT lại cho biết tên bản Việt dịch là Lạc thú ở đời và người dịch lại là Trình Xuyên (tr.248).
Tôi cũng đưa vào chú thích một số đoạn có trong ĐVVCT nhưng không có trong Hồi kí.Ngoài ra tôi cũng chú thích vài chỗ khác biệt mà tôi không có điều kiện để kiểm tra xem cuốn nào in đúng, ví dụ như ngày mất của cụ Phương Sơn, bác ba của cụ Nguyễn Hiến Lê, trong Hồi kí ghi: “Đầu tháng giêng năm 1960, ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi, tôi ở Sài gòn được điện tín người qui tiên”, nhưng trong ĐVVCT lại ghi: “Đầu tháng giêng 1960 (12 tháng chạp năm Kỷ Hợi) người quy tiên…”.
Trong Hồi kí cũng có một số chỗ khác biệt với các tác phẩm của cụ đã viết trước cuốn Hồi kí. Ví dụ như trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ bảo rằng lúc đi thăm Siemreap cụ đã “…hỏi mua cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”; nhưng trong cuốn Hồi kícụ bảo lại bảo: “Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang”.
Sau Hồi kí và ĐVVCT, cụ còn viết bộ Sử Trung Quốc. Trong Hồi kí, phần xét riêng các triết gia về chính trị thời Tiên Tần, cụ Nguyễn Hiến Lê sắp các triết gia làm ba phái: hữu vi, vô vi và cực hữu vi. Và theo cụ thì: “Phái vô vi chủ trương can thiệp rất ít (Lão tử) hoặc không can thiệp chút gì (Trang tử, Liệt tử) vào đời sống của dân, để mặc dân sống theo bản năng, trở về tính chất phác thời nguyên thuỷ, như vậy xã hội sẽ hết loạn. Nhưng trong Sử Trung Quốc, cũng xét về tư tưởng chính trị, thì trong phái vô vi cụ chỉ kể đến Lão tử, Trang tử và Dương tử, còn Liệt tử thì cụ lại không nhắc đến.
Trên đây tôi chỉ nêu một vài chỗ khác biệt giữa Hồi kí và vài tác phẩm khác của cụ mà tôi được biết. Có chỗ tôi chú thích, có chỗ không vì nếu chú thích hết thì rườm quá.
Trong Hồi kí có quá nhiều sự kiện, đọc một hai lần khó mà nhớ hết, hiểu hết. Do vậy, để tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Hiến Lê, ngoài Hồi kí và ĐVVCT nhiều lần, ta còn phải đọc thêm các sách khác của cụ, các bài viết của các tác giả khác viết về cụ, các tài liệu liên quan đến các thông tin liên quan đến bộ Hồi kí này.
Cuối cùng, tôi xin được nói thêm là, cũng như đối với các tác phẩm mà tôi đã gõ trước đây, khi gõ tác phẩm này, tôi cũng được bác Vvn giải thích giúp các thắc mắc liên quan đến chữ Hán, mà một phần các lời giải đáp của bác Vvn được tôi ghi lại trong phần chú thích. Xin chân thành cảm ơn bác Vvn và xin chia sẻ cùng các bạn.
Ngày 7.12.2009
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Nguyễn Hiến Lê ra đời trong hoàn cảnh nho học không còn được sủng ái. Cha mất sớm, ông sống nhờ bàn tay tảo tần buôn bán của người mẹ. Cuộc sống những năm thiếu thời của ông ở giữa ranh tốt và xấu: hư hỏng, tha hoá và trong sạch, trinh trắng. Sau những ngày tháng lêu lổng, cậu bé Nguyễn Hiến Lê còn biết giật mình nghĩ lại để rồi mình hứa với mình tu chí học hành, phấn đấu vươn lên. Người mẹ ít học kia lại là người biết bù đắp những thiếu hụt về kiến thức cho con trai bằng cách cho cậu bé điều kiện tiếp cận với Hán học.
Vậy là vừa học trường Tây, chữ Tây, cậu bé hiếu học côi cút kia đã tận dụng những mảnh nhỏ thời gian trong cuộc đời nghèo khó của mình để học chữ của Thánh hiền. Đây là chiếc cầu nối quan trọng dẫn Nguyễn Hiến Lê, cậu bé ham hiểu biết, trở thành Nguyễn Hiến Lê – học giả.
Không phải là người cách mạng, là nhà văn cách mạng, nhưng Nguyễn Hiến Lê cũng không phải là nhà văn của chế độ cũ, mặc dù ông sống giữ lòng xã hội ấy suốt mấy chục năm. Một lần nữa Nguyễn Hiến Lê lại ở giữa lằn ranh nhân cách và phi nhân cách. Có người cho rằng ông đi giữa hai làn đạn. Và một lần nữa ông đã tỏ ra bản lĩnh vững vàng trước sau ông vẫn giữ được nhân cách của mình.
Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện, xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là những mơ ước của ông.
Dầu đứng ở những góc nhìn khác nhau, ai cũng dễ tìm thấy ở Nguyễn Hiến Lê một cái gì đó gần với tâm trạng của dân tộc mình, một cái gì đó thuộc nhân bản của con người cầu tiến luôn vươn tới mục đích cao thượng và hoàn mỹ. Rất nhiều thế hệ độc giả khác nhau đều kính phục sự nghiêm túc của học giả này. Tính nghiêm túc của Nguyễn Hiến Lê có được bởi nó bắt nguồn từ trí nhớ tuyệt vời của ông và cùng với trí nhớ là cách làm việc khoa học, tỉ mỉ trong từng chi tiết nhỏ, sự học hỏi và lối ghi chép hết sức cẩn thận. Nguyễn Hiến Lê luôn coi trọng tư liệu, bởi hơn ai hết ông hiểu sự khách quan của một tác phẩm là vô cùng quan trọng. Nó là chiếc cầu đầu tiên nối lòng trân trọng hay sự coi thường, khinh miệt của độc giả đối với người cầm bút. Ngay khi nói về mình, Nguyễn Hiến Lê cũng cố giữ tính nghiêm túc và khách quan, luôn luôn tự tách mình ra khỏi văn mạch chủ quan của chính mình.
Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn Hồi kí của ông. Tuy là hồi ký một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rợi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá.
Tất nhiên, dù cố gắng khách quan, chúng tôi thiển nghĩ thật khó có thể thoát khỏi dấu ấn chủ quan. “Văn là người”, điều ấy có thể dẫn đến một số đánh giá của ông chưa được hợp lý theo quan niệm đương thời hoặc theo cách nhìn của một bộ phận, một số người nào đấy chăng?
Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không nở cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm ra và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.
Sự đóng góp của Nguyễn Hiến Lê trong nền văn học Việt Nam đương đại là hết sức quý báu, mức độ tầm cỡ đến đâu chắc chắn cần phải có thời gian mới đánh gia đúng mức được. Một lần nữa chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận. Một tác phẩm ra đời không một tiếng vang đâu hẳn là tác phẩm tốt. Dù thế nào, xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng.
Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
 LỜI NÓI ĐẦU

Năm 1935, hồi mới vào đời, làm ở Sở Thủy lợi Nam Việt, những lúc lênh đênh trên kinh rạch miền Hậu Giang, nhớ mặt nước xanh rêu của Hồ Gươm, con đê thăm thẳm của sông Nhị, tôi viết hồi kí, chép lại những hình ảnh của người thân, những vui buồn của tuổi thơ và tuổi niên thiếu. Viết được khoảng sáu trăm trang vở học trò, không có ý in thành sách mà chỉ để vài người thân đọc. Tập đó còn lại được vài trăm trang, gần đây đọc lại, không có gì đáng giữ. Năm nay, 1980, gần tới lúc cuối đời; thực hiện xong chương trình biên khảo về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần - tập cuối cùng: Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, hoàn thành năm ngoái - cũng trong cảnh xa quê và người thân như 45 năm trước, tôi lại viết hồi kí, cũng không có ý in thành sách mà chỉ để cho vài người thân đọc. Viết lần này không say mê như lần trước, mà tôi chắc cũng không có gì đáng lưu lại. Để qua những dư niên, thế thôi.
Chép sử, dù có tinh thần khách quan, khoa học tới mấy, dù tra cứu được đủ tài liệu, dù đích thân được sống thời đại mình chép, thì cũng không sao ghi đúng được sự thật. Chỉ có loại sử biên niên chép những biến cố, những việc lớn xảy ra từng năm từng tháng, sắp đặt theo thứ tự thời gian mà không thêm bớt gì hết, nhất là không phê bình hoặc ghi cảm tưởng của mình hay của người trước, chỉ có loại đó là không sai, nhưng nó lại câm, không cho ta biết chút gì về dân tình, không khí của thời đại, như vậy đâu phải là sự thật! Vì người chép không thể nào ghi hết mọi việc được, tất phải lựa chọn, bỏ bớt, và nội công việc đó cũng có tính cách chủ quan ít nhiều rồi. Cho nên tôi nghĩ không có gì là sự thật thuần túy cả.
Chép hồi kí về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phái do lòng tự cao, cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của J.J. Rousseau hay tậpAutobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào thôi.
Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết nhũng điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép từ năm 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều; nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-90, và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.
Tôi đã ghi một số biến cố, một số tình cảm, suy tư của tôi lúc này về một số việc xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe hoặc thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thật, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được, lỗi ở kí tính con người: nó bị tình cảm sai khiến; lại thêm ở tuổi 70 như tôi, nó suy giảm nhiều rồi.
Một đời người 70 năm dài thật chứ! Có bao nhiêu việc tưởng như ngẫu nhiên mà xét cho kĩ thì đều có ý nghĩa như đã được an bài từ trước để mỗi người đóng cho xong vai trò của mình.
Ngày nay, ôn lại dĩ vãng, tôi thấy ngoài hai đấng sinh thành ra tôi, và bà ngoại tôi; còn ba bốn vị nữa tiếp tay nhau dắt dẫn cho tới khi tôi thành người, cứ vị này xong thì lại giao cho vị khác. Ra đời rồi, tôi được hai người bạn cùng chia xẻ những khổ vui, thành bại với tôi; lại giúp mọi việc nhà cho, để tôi có thể đem tất cả tâm trí vào việc trứ tác.
Hai hạng người trên đều ảnh hưởng rất lớn đến đời tôi, đều là ân nhân của tôi. Tiếng ân nhân này tôi thấy nhẹ quá, vì ân nhân hàm cái nghĩa là người khác với mình, còn những người thân của tôi đó đều tạo nên tôi, là một phần của tôi.
Ngoài ra, tôi lại may mắn gặp được khoảng một chục bạn cùng đi một quãng đường dài hay ngắn với tôi, hợp tác với tôi mỗi người một cách; và một số khá đông bạn bốn phương kẻ xa người gần; nhiều người tôi không biết mặt mà cũng không biết cả tên, nhưng hết thảy đều theo dõi con đường của tôi, gợi ý cho tôi hoặc khuyến khích tôi, khiến tôi vững bước - cái duyên đó, duyên văn tự, thật bất ngờ mà thích thú, không bao giờ tôi quên được.
Tính sổ đời, tôi chỉ mừng rằng đã không làm gì khiến các bậc trưởng thượng của tôi phải xấu hổ và các bạn của tôi phải thất vọng.

Long Xuyên, ngày 12 tháng 9 năm 1980
(Mùng 4 tháng 8 năm Canh Thân)
(Ngày giỗ ông Nội tôi)
SINH TRƯỞNG VÀ HỌC Ở BẮC (1912-34)
NƠI SINH VÀ TỔ QUÁN

MỘT CÂU THƠ CỦA TÂN KHÍ TẬT

Hai năm trước, hai ông bạn tôi đều trên dưới thất tuần, một ở Paris, một ở Gia Định gần như cùng một lúc nhắc đến câu thơ này:
Vạn sự qua như mây khói
mà tôi đã dịch của Tân Khí Tật: “Vạn sự vân yên hốt quá” trong bài Tây giang nguyệt. Câu đó ở thế kỉ XII, đời Tống đã là sáo rồi, vậy mà thời này đọc lên chúng tôi vẫn xúc động, buồn mang mang. Nghĩ cho kĩ, khó kiếm được một hình ảnh nào diễn đúng được cái ý trong câu đó hơn nữa.
Lịch sử nhân loại ngày nay tiến với một tốc độ siêu thanh. Các thế kỉ trước, hoàn cầu như mặt hồ thu lâu lâu gợn sóng; qua thế kỉ này thành một mặt biển trong cơn giông tố. Khoan nói tới thế giới, chỉ xét riêng nước ta: Thời biến động nhất trong lịch là thời cuối Lê. Trong 30 năm anh em Tây Sơn nổi lên dẹp họ Nguyễn ở Nam, diệt họ Trịnh ở Bắc, đuổi quân Thanh về Tàu, chấm dứt nhà Lê, nhưng thống nhất quốc gia mới được mấy năm thì giang sơn đã về họ Nguyễn ở Nam. Biến cố dồn dập, khiến Phạm Thái thời đó phải than thở:
Ba mươi tuổi lẻ là bao tá,
Năm sáu đời vua thật chóng ghê!
Chúng ta ở thời này, cũng chỉ trong 30 năm, từ 1945 đến 1975 đã chứng kiến biết bao sự thay đổi. Chúng ta đã thấy ba bốn trào thực dân cũ và mới: Pháp rồi Nhật, rồi lại Pháp, sau cùng là Mĩ; non chục đời thủ tưởng - cũng không khác chi đời vua thời Phạm Thái - hai cuộc cách mạng với hai cuộc đảo chánh hụt; cổ nhân chỉ đuổi quân Thanh, chúng ta đã đuổi Pháp, đuổi Mĩ, đuổi Miên rồi bây giờ lại phải đương đầu với Trung Hoa nữa; chúng ta đã biết xã hội nông nghiệp của tổ tiên, xã hội tư bản rồi xã hội kĩ nghệ của phương Tây, lại được thấy hình ảnh xã hội hậu kĩ nghệ - cũng gọi là xã hội tiêu thụ của Mĩ. Còn chế độ chính trị thì chúng ta từ quân chủ dưới quyền thực dân chưa kịp tiến lên quân chủ lập hiến đã nhảy qua chế độ dân chủ Tây phương, rồi bây giờ là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tôi không biết các bạn năm đã 50 tuổi trở lên, mục kích những biến chuyển đó có hãnh diện được làm chứng nhân trong một thời đại cực kì quan trọng của lịch sử nước nhà không; có vui hoặc buồn rằng mình đã đóng góp hoặc không đóng góp được chút gì trong thời đó không; nhưng tôi chắc người nào cũng phải nhận rằng mọi sự qua mau quá, như mây khói và ôn lại thì không khác chi đã sống trong một giấc mộng.
Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ dậu, năm Tân Hợi[1] (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912[2]nhưng khai sinh ghi là 8-4-1912), ở nhà số 4 ngõ Phất Lộc, Hà Nội.
Năm Tân Hợi là năm có cuộc cách mạng đầu tiên ở Trung Hoa (ngày 10-10-1911) mà ngày nay người ta gọi là cuộc cách mạng tiểu tư sản; cuộc cách mạng sau, năm 1949, là cuộc cách mạng vô sản. Tới nay, sau non 70 năm, Trung Hoa cũng có biết bao cuộc cách mạng lớn lao như Việt Nam, nhưng xét về mức sống của nhân dân thì gần như không có gì thay đổi, khiến tôi nhớ lời một chính khách phương Tây nói mươi năm trước ở Sài Gòn trước một nhóm trí thức Việt Nam: “Muốn biết một xã hội hai mươi năm nữa ra sao thì cứ coi xã hội đó lúc này, sẽ không có thay đổi gì lớn đâu”. Lời đó trước tôi cho là bi quan, nay tôi thấy có phần đúng và bên cạnh những cái biến chuyển rất mau khiến Tân Khí Tật và Phạm Thái phải than thở, cho ta thấy nhiều cái gần như không thay đổi gì cả. Xã hội Trung Hoa bây giờ tương đối quân bình hơn thời trước, không còn sự cách biệt quá lớn giữa người giàu và người nghèo, không còn nạn chết đói hăng triệu người như dưới thời quân chủ; nhưng mức sống của nhân dân sau ba chục năm cách mạng vô sản vẫn rất thấp: không chết đói chớ vẫn thiếu ăn, thiếu mặc, ăn thì ăn độn, quanh năm chỉ có món bắp cải như ở mình món rau muống, mặc thì mỗi năm mỗi người được phát cho không tới một thước vải, mà vải hầu thì hầu hết là màu lam. Xã hội mình ở Bắc khá hơn họ một chút, nhưng đại khái cũng vậy. Đó là một sự bất biến chung cho các nước kém phát triển trong cuộc đại biến của nhân loại. Còn nhiều sự bất biến nữa trên thế giới: sự bất quân, bất bình đẳng giữa các nước phát triển mạnh và “thế giới thứ ba” ở Á, Phi, đời sống xa xỉ của Âu, Mĩ: sản xuất cho nhiều để hưởng thụ cho thích, và hưởng thụ thật phí phạm để có thể sản xuất được nhiều; rồi tinh thần tranh giành nhau ảnh hướng giữa các nước mạnh, sự ganh đua chế tạo vũ khí mỗi ngày một mới hơn, mạnh hơn, tàn sát được nhiều hơn...; nhưng ở đây tôi không muốn bàn đến vấn đề đó, mà chỉ muốn ghi lại ít cảm nghĩ liên miên của tôi do một câu thơ của Tân Khí Tật gợi nên.
NƠI SINH TRƯỞNG: NGÕ PHẤT LỘC
Ngõ Phất Lộc, nơi tôi sinh cũng là một cái bất biến, nhưng thứ bất biến này có điểm khả ái: nó là di tích của một thời cổ, may mắn không bị tàn phá, nên tôi muốn ghi lại vài nét ở đây sợ một ngày kia, hai ba thế hệ nữa, nó cũng sẽ qua “như mây khói”.
Từ ngày nước nhà thống nhất đến nay, tôi chưa có dịp ra Hà Nội, nhưng theo các bạn tôi ở ngoài đó thì nó vẫn như hồi tôi còn đi học nửa thế kỉ trước.
Nằm sau lưng phố Bờ Sông (Quai du Commerce)[3], đầu trông ra Cột đồng hồ ở bờ Sông Nhị, đuôi trở ra phố hàng Mắm, ngõ Phất Lộc rất hẹp độ hai thước, dài non hai trăm thước, lát đá gồ ghề, chỉ có một dãy nhà nhìn ra phía sau một dãy nhà mới hơn, cao hơn ở sát ngay trước mặt. Đã không có gì đẹp mà lại bẩn thỉu nữa, chỉ có đặc điểm là cổ.
Nhà nào cũng xây cất có lẽ từ thời Tự Đức, thấp hơn mặt đường khoảng một thước - vì đường được đắp sau - và từ đường phải xuống ba bốn bực gạch mới vào được phòng ngoài. Thời xưa có vài nhà bằng lá, nhưng từ hồi tôi lớn lên thì nhà nào cũng bằng gạch. Nhà đa số hẹp, chỉ hai ba thước, và sâu có chỗ tới trên 30 thước. Đi ngoài đường nhìn vào thường thấy một căn phòng hun hút thấp kê một án thư với hai tràng kỉ hai bên, và một ông già ngồi với chiếc điếu thuốc lào mà xe điếu là một cần trúc uốn cong. Trước năm 1930 thỉnh thoảng còn thấp thoáng một thiếu nữ mảnh khảnh, trắng trẻo, xanh xao, ăn mặc theo lối cổ, tóc để đuôi gà, từ phía trong đi ra nhà ngoài rồi lại trở vào ngay. Những nhà đó vào hạng khá phong lưu, chủ nhân là một ông phán hay một ông đồ. Nhà nào cũng có sân nhỏ ở trong, trồng cây cảnh; tường hai bên xây thành từng bực đi xuống như cầu thang, tôi nhớ như chỉ có một nhà là có tường thấp phía trước, từ trong ló ra một ngọn cây đào, cây lựu hoặc khế, và khách qua đường không thể không ngừng bước trước cánh cửa đóng kín mà tưởng tượng vẻ yêu kiều, thướt tha của một hai thiếu nữ chơi với em nhỏ ở phía trong.
Ngõ có một ngôi đền kiến trúc sơ sài[4], cửa gỗ luôn luôn đóng, trên cửa là một mái nhỏ với một bầu rượu lớn ở giữa. Tôi chỉ vô đền có một hai lần thuở nhỏ, thấy sân khá rộng nhưng rất vắng, vắng cả bóng ông từ. Ông lủi thủi như một bóng ma, không ai thấy ông ra khỏi đền. Tôi không biết đền thờ ai mà quanh năm cơ hồ không có người đến lễ. Lạnh lẽo mà buồn, nên tụi nhỏ chúng tôi chỉ ghé mắt nhìn vào chỗ thờ phụng tối om om rồi chạy ra liền.
Hai căn nhà số 2 và số 4 ở đầu ngõ do cụ ngoại tôi cất trong đời Tự Đức (không rõ năm nào) có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ tương đối phong lưu ở Hà Nội. Mái ngói, tường gạch, rui, cột, xà đều bằng danh mộc, năm sáu chục năm không mọt. Ngôi nhà số 2 chiều ngang ba thước, chiều sâu 32 thước, ngoài đường bước vào là một căn bếp thấp hơn mặt đường ba bốn tấc, qua khỏi bếp, xuống ba bốn bực nữa, tới nhà trong thông thống từ trước tới sau, không ngăn thành từng phòng; có một sân nhỏ mỗi chiều chừng hai thước cho nhà khỏi tối; tiến vô sâu nữa, gặp một sân dài bốn thước và choán hết chiều ngang của nhà, sân đó có một bể con chứa nước. Gần cuối nhà có một khúc quẹo qua bên trái thuộc về nhà số 4, rộng hai thước rưỡi, sâu mười thước, gồm hai phòng 2,5x3 thước, cách nhau bằng một cái sân dài bốn thước.
Chương 2
TỔ TIÊN

TRUYỀN THỐNG VÀ MÔN PHONG THUỶ

Trong xã hội ta ngày xưa, gia đình nào cũng gốc gác nhà nông và tuy có bốn giới: sĩ, nông, công, thương, nhưng có thể gom làm hai: sĩ và bình dân (nông nhiều nhất, công, thương rất ít) ít học. Sĩ và bình dân trà trộn với nhau, chứ không cách biệt: trong một gia đình, có thể một người con là sĩ còn ba bốn người khác là bình dân; hơn nữa một người là bình dân, ít năm sau có thể trở thành kẻ sĩ. Một gia đình bình dân, nếu làm ăn phát đạt do cần kiệm, có dư một chút mà biết trọng sự học, quyết tâm nuôi con ăn học thì tới đời con hay đời cháu thế nào cũng có được một vài kẻ sĩ; đã có một thế hệ là sĩ rồi thì các thế hệ sau rất dễ nối được nghiệp sĩ; nói cách khác là cha đã đỗ ông cử, ông tú thì con cháu cũng dễ thi đỗ, một phần nhỏ do di truyền, phần lớn do không khí học hỏi trong nhà, do kinh nghiệm và sự dạy dỗ của ông cha.
Ở thời đại dân chủ, bình đẳng ngày nay, khắp thế giới đâu đâu cũng vậy: thanh niên trong các gia đình trí thức (giáo sư, luật sư, kĩ sư...) hay cán bộ cao cấp vô đại học vẫn đông hơn thanh niên trong các gia đình nông dân hay thợ thuyền ít học, chính là do ảnh hưởng kể trên trong gia đình. Không phải là các gia đình trí thức có nhiều con thông minh hơn đâu, lấy số đông thì tỉ số trẻ thông minh trong giới nào cũng ngang ngang nhau: từ 10 đến 20 phần trăm (tùy cách định nghĩa thế nào là thông minh). Chỉ nhờ được hoàn cảnh tốt hơn, có nhiều phương tiện tốt hơn để học nên họ thành công hơn, vô đại học dễ dàng hơn thế thôi.
Cổ nhân rất tin môn phong thủy - xưa gọi là địa lí - có kinh nghiệm hằng ngàn năm, lưu lại nhiều sách; chúng ta ai cũng được nghe nhiều truyện để đất rất linh nghiệm. Tôi hồi niên thiếu cũng đã được một ông bác dắt đi coi vài kiểu đất phát ở quê hương, như kiểu đất mộ tổ cụ Lê Anh Tuấn đã kể trên; rồi lớn lên, trong một hồi thất nghiệp, đã bỏ ra vài tháng đọc hết bộ Địa lí hám giá[1] nhưng tôi phải thú thực rằng ra ngoài đồng thì không sao nhận ra được “long mạch” mà bác tôi chỉ cho cả. Tuy nhiên tôi cũng không dám ngờ rằng cổ nhân hoàn toàn bịa đặt, vì không ai bịa ra cả một môn học đầy đủ lí thuyết, chứng cứ, khiến cho biết bao người trong cả ngàn năm tin tưởng, nếu nó hoàn toàn sai. Hơn nữa có nhiều chuyện ứng nghiệm, cổ nhân kể lại mà tôi không thể ngờ rằng các cụ đặt ra để biện minh một cách hậu nghiệm (a postériori) một thuyết trong sách, chẳng hạn chuyện ngôi mộ thủy tổ họ Nguyễn Triệu Luật trong cuốn Ngược đường Trường Thi.
Theo các bác tôi kể lại thì gia đình chúng tôi khá nhất trong họ, trong làng, phát về văn học là nhờ hai ngôi mộ kết: ngôi cụ tổ sáu đời của tôi ở Gò Mèo được kiểu “bút gối sau đầu, học giỏi mà không đậu”; và ngôi cụ tổ năm đời của tôi ở Gò Dù phát phú quí, nhưng con cháu phải li hương và càng xa càng tốt. Một điều lạ lùng tôi không sao hiểu nổi là có lần các bác tôi lấy một cục đất ở ngôi mộ Gò Dù đem lên Trung Hà, trên bờ sông Đà, cách làng tôi 15 cây số, nhờ một thầy bói mù nổi tiếng gieo cho một quẻ xem ngôi mộ đó có “động” không, thì thầy bói đó không hề quen biết gia đình tôi, bảo ngôi đó không động mà kết, nhưng con cháu phải đi xa mới khá (y như lời thầy địa lí đã nói) vì hào tử tôn (con cháu) không hiện trong quẻ, mà trong nhật tuần nguyệt kiến, tức trong ngày tháng coi quẻ.
Hai cái gò đó, chỉ một cái năm 1945 còn nhận ra được vì cao hơn mặt ruộng độ hai tấc, còn một cái thành ruộng rồi, không cao hơn các ruộng chung quanh. Nếu là đất kết thì chỉ kết nhỏ thôi: vài cụ nổi tiếng học giỏi trong tổng nhưng thi rớt, một cụ đậu tú tài và tới đòi tôi thì hai ông anh con bác tôi[2] hơi nổi tiếng về văn thơ, nhưng không đỗ đạt. Tôi xuất thân đại học ở Hà nội, con tôi xuất thân một “trường lớn”[3] ở Paris (trường Hautes Etudes Commerciales). Bảo là nhờ kiểu đất thì cũng được. Nhưng tôi thì tôi cho là nhờ công các cụ chúng tôi rẩt săn sóc sự học của con cháu, mà gia đình nào có được truyền thống trọng học đó thì kết quả cũng đạt được như vậy, không sớm thì muộn. Tôi tin ở sức người hơn.
CÁC BÁC TÔI
Ông bà tôi sinh được bốn người con trai.
Con cả tên là Nhuận, hiệu là Tùng Hương, thông minh, văn thơ hay nhưng ghét khoa cử, không chịu cưới vợ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục rồi sau lẻn qua Trung Hoa, theo cụ Phan Bội Châu, chết ở đâu, năm nào, không rõ.
Người thứ nhì tên là Cổn, tự Đạo Quýnh, hiệu là Kế Phương học cũng khá, không thi cử, giữ tổ nghiệp ở Phương Khê, suốt đời dạy học, mới đầu làm tổng sư, sau làm thầy đồ dạy tại nhà, cuối cùng là hương sư, mất năm 1933.
Người thứ ba tên là Cổn, hiệu là Phương Sơn, thông minh, có văn tài nhất, thi Hương một khoa, rớt, rồi bỏ luôn, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục, làm rể cụ Lương Văn Can, thục trưởng, sau lẻn vào Nam Kì, đổi tên là Khôn, định tiếp tục hoạt động mà không được, mất năm 1960 ở Chợ Thủ (Long xuyên).
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép hoạt động của ông Cả và ông Ba; ngôn hành ông Hai tôi cũng ghi rải rác trong cuốn Tổ chức gia đình, Tựa cuốn Cổ văn Trung Quốc, cuối cuốn Nhà giáo họ Khổng.
Người con thứ tư tên là Bí, hiệu là Đặc Như, tức cha tôi.

[1] Nghĩa đen là “Địa lí ăn mía”. Ăn mía thì hít hết nước rồi bỏ bã. Nghĩa bóng là sách đó rút hết tinh tuý môn địa lí rồi. Người Trung Hoa dùng nhiều hình ảnh ngộ nghĩnh mà đúng.
[2] Tức “bác Ba”: cụ Phương Sơn. (Goldfish).
[3] Grandes écoles: trường Đại học số sinh viên hạn chế, thi vô rất khó.
TUỔI THƠ

SONG THÂN VÀ BÀ NGOẠI TÔI

Cha tôi ra đời năm Đinh Hợi (1887). Việt Nam hoàn toàn mất hết chủ quyền từ ba năm trước, năm kí hoà ước Patenôtre (1884) và triều đình Huế chỉ còn những vua quan bù nhìn.
Ông nội tôi không phải là nhà cách mạng, chỉ giữ khí tiết của một nhà nho bất hợp tác. Như tôi đã nói, cụ bỏ thi cử sau khi đậu Tú tài, cũng không muốn ra làm quan; cụ lại chán cả việc khuyến khích các con thi cử, chắc trong thâm tâm cụ nghĩ rằng dù có đỗ ông cử ông nghè thì cũng chỉ thêm cái hư danh, chẳng giúp được gì cho nước. Cụ để các con tự do lựa con đường đi, miễn là không làm gì nhục cho tổ tiên. Bác Cả tôi không muốn lập gia đình để hi sinh cho tổ quốc, cụ không cản; bác Hai tôi muốn dạy học, bác Ba tôi muốn kinh doanh về thương nghiệp, tuỳ ý.
Cha tôi là con út. Hồi bà nội tôi còn, chắc cụ cũng dạy vỡ lòng cho cha tôi, rồi sau cha tôi học với các anh, vì lúc đó ông nội tôi đã già. Cha tôi ham chơi mà trong nhà không ai ép học, nên sức học chưa đủ để thi hương thì đã bỏ, học chữ Quốc ngữ. So với các anh trong nhà, sức học cha tôi tầm thường nhất, nhưng so với người trong làng, trong họ, cả với họ bên vợ nữa, thì người vào hạng giỏi. Vì vậy ông nội tôi cũng không buồn. Trước khi mất, cụ cưới vợ cho cha tôi.
Thân mẫu tôi tên là Sâm, con dòng thứ cụ phủ Nguyễn Khắc Chước làng Hạ Đình (Hà Đông). Nghe các bác tôi kể lại thì cụ đỗ cử nhân, văn thơ hay, nét chữ tươi, có tài hoa. Mẹ tôi mồ côi cha từ nhỏ, bà ngoại tôi không ưa thói khinh bạc của một người con chồng lúc đó làm tri huyện, khảng khái dắt con về ở với em ruột, làm lược để nuôi con. Mẹ tôi tập buôn bán và khi người có chồng thì bà ngoại tôi theo con về ở với rể, tại số 4 ngõ Phất Lộc, trong mấy phòng ở bên phải và sau lưng nhà thờ. Nhà số 2 để cho các bác Cả và bác Ba tôi; sau khi bác Cả lẻn sang Trung Hoa, bác Ba lẻn vào Nam, thì nhà đó cha tôi cho thuê.
Cuộc đời vất vả và tận tụy của bà ngoại và mẹ tôi, tôi đã chép trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại (nhà xuất bản Lá Bối). Tôi chỉ trích lại dưới dây một đoạn ngắn để con cháu nhớ công của bên ngoại:
“Bà đã thay má tôi, nuôi nấng, săn sóc chúng tôi, lại thay cả ba tôi trong sự dạy dỗ chúng tôi nữa. Ngày nay, anh em tôi, con cháu tôi, có ai giữ được một chút cái tính khí khái của bà, không chịu lụy ai, cái đức cần cù, tiết kiệm, cố chiến đấu để vượt khỏi cảnh nghèo, cái nếp sống đạm bạc, cái tinh thần thanh khiết của nhà Nho, phần lớn là nhờ bà”.
*
Cha tôi thấp người, không gầy, không béo, nước da trắng trẻo, trán cao, chỉ có tai là xấu nhất, như cái vẩy ốc, theo sách tướng thì không thọ. Từ vẻ mặt đến cử chỉ, y phục đều nghiêm trang, nhã nhặn. Đi ra ngoài thì chiếc khăn xếp bao giờ cũng ngay ngắn, áo dài đen bằng the ở ngoài, áo dài trắng ở trong, quần là (ủi) sạch sẽ, giày Gia Định đánh bóng. Ít nói mà có lễ độ, nên được mọi người nể.
Mẹ tôi khác hẳn, dong dỏng cao, nước da tối, mặt lại rỗ hoa, trán thấp như bà ngoại tôi - tướng đó vất vả - nhưng tai có thùy châu, mũi cao và nụ cười tươi. Tôi giống cha ở trán, giống mẹ ở nước da, mũi, tai, nụ cười và bề cao. Mẹ tôi ăn mặc rất giản dị: quần áo, khăn đều bằng vải thâm hay nâu, đi đôi dép quai bằng da, nhiều khi đi chân không. Tính tình rất ngay thẳng, khảng khái, không chịu nhờ cậy ai, rất cần cù - quanh năm buôn bán từ tinh sương, tối mịt mới về, nhưng có tính dễ xúc động, tủi thân, mau nước mắt, đôi khi nóng nảy. Khéo cư xử với họ hàng, biết tính toán nên cũng được nhiều người nể.
Ở trong nhà thì có hiếu với mẹ và biết chiều chồng. Mẹ tôi chỉ lo buôn bán thôi, công việc bếp nước về phần bà ngoại tôi, công việc dạy con về phần cha tôi. Hầu hết sự chỉ tiêu trong nhà do người đảm đương cả; số tiền cho thuê nhà số 2 (năm 1925 được khoảng 5, 6 đồng một tháng[1] cha tôi giữ để tiêu riêng, làm giỗ tết, đóng thuế.
Nhờ vậy mà cha tôi sống khá ung dung: dạy chữ Nho và Quốc ngữ cho anh em chúng tôi và vài đứa cháu bên nhà vợ, hoặc con bạn bè; còn thì chơi hoa, lâu lâu đánh một vài ván tổ tôm, tài bàn; thỉnh thoảng đi coi hát chèo ở rạp Quảng Lạc, đi thăm bà con, bạn bè.
Tuy có tinh thần nghệ sĩ - một chút thôi - người sống rất có ngăn nắp, điều độ, không bao giờ say rượu, không bao giờ về quá khuya, và khi mất, còn để lại cho mẹ tôi ba chục đồng bạc trắng mà người cất kĩ trong tủ không cho vợ hay. Tôi còn nhỏ tối hôm đó, chôn cất cha tôi xong rồi, trước khi về Phương Khê, bác Hai tôi gọi mẹ tôi và tôi vào phòng trong cùng, mở một cái tủ xem có giấy má gì không, và tìm được một gói bạc, đếm từng đồng rồi đưa cho mẹ tôi. Nhờ có số tiền đó mà mẹ tôi trả hết được công nợ để làm ma chay.
Cái vui nhất của người có lẽ là chơi hoa. Năm nào, gần Tết người cũng ham mê gọt thủy tiên và săn sóc (ngắt lá) hai gốc đào trồng trong sân nhỏ sau lưng nhà thờ. Một gốc nhỏ cao độ một thước, trồng ngay dưới mái hiên trong một cái thống, là loại đào thất thốn chỉ có hoa, không có quả, hoa kép, đỏ thắm và rất nhiều, kín cả cành trong mấy ngày Tết, cánh rụng xuống mặt sân, đẹp vô cùng. Một gốc nữa lớn hơn trồng trong một cái bệ, sát sau bức tường nhà thờ, là loại đào ăn quả, hoa đơn, cánh phơn phớt hồng, không nhiều, lác đác trên cành, xen với những lá non mới nhú, xanh tươi, trông cũng đẹp.
Thủy tiên thì năm nào cha tôi cũng mua một hai giò con của tiệm Hoa kiều phố hàng Buồm, đem về gọt, ba mươi Tết lựa lấy hai giò đơn đẹp nhất và nở kịp Tết để bày trong hai cái cốc thủy tinh có chân như cốc Champagne, miệng lớn bằng bàn tay xòe ra, một cốc màu hồng, một cốc không màu. Giò thủy tiên đặt trong những cốc đó thật vừa khít, mà nhìn qua thành thủy tinh thấy rõ những rễ trắng muốt của hoa. Ai tới chơi cũng trầm trồ khen và bảo không thấy nhà nào khác có thứ cốc đó.
Người Pháp cũng có thủy tiên, họ gọi là narcisse, nhưng tôi ngờ rằng thủy tiên của họ không giống của mình, và chắc chắn là họ không có nghệ thuật gọt thủy tiên như mình, không quí nó bằng mình.
Thủy tiên quí cả về sắc lẫn hương. Lá xanh, rễ trắng muốt, hoa thì như cái chén vàng đặt giữa một cái dĩa bạc, hương nó thật là thanh quí (hương huệ và sen thì thanh cao). Nó thật xứng với danh: tiên trên nước. Cụ Phan Sào Nam vịnh nó trong bài hát nói mà dưới đây tôi trích tám câu đầu:
----Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh,
----Tiên trên non mà hiếm có đã đành.
----Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm.
----Muôn tía nghìn hồng thây tục phẩm,
----Năm hồ bốn biển nhớ tiền sanh.
----Nét điểm trang con tạo khéo đa tình.
----Nhụy kia vàng, hoa kia bạc, lá kia xanh,
----Trên mặt nước long lanh trôi với bóng…
Một người bạn kể cho tôi nghe ở Chapa, gần Lào Cai (Bắc Việt) có những ngọn đồi toàn đào, đầu xuân, ở xa nhìn như những mâm hồng kế tiếp nhau trên cả cây số; cánh đào hồng nhạt rụng xuống mặt cỏ xanh, bay lả tả trên dòng suối, đẹp như cảnh tiên. Đúng là cảnh Đào hoa nguyên của Đào Tiềm.
Vào Nam, tết năm nào tôi cũng nhớ đào, và tôi viết bài Hoa đào năm trước (Lá Bối xuất bản) chính là để cho vơi lòng nhớ đó.
Ở Sài gòn, từ mười năm trở lại đây, gần Tết, đường Nguyễn Huệ thường bày bán ít cành đào chở bằng máy bay vào; có năm bạn bè cho chúng tôi một cành hoa đơn phơn phớt hồng, nhưng tôi không thích lắm! Loài hoa nào cũng phải hợp với thủy thổ của nó thì mới đẹp. Hoa đào mà đày vô miền nắng cháy này thì lam lũ, đáng thương như thiếu nữ đài các, mơn mởn mà phải tát nước hay nhổ mạ dưới nắng hè. Ở xứ nào chỉ nên chơi hoa xứ đó, miền Nam có mai vàng, tuy không đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quí, lại có ám hương thoang thoảng lúc ban mai, mà một gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật hòa nhã.
Cha tôi không chính thức gia nhập Đông Kinh nghĩa thục như bác Cả, bác Ba tôi, và nhà cách mạng Đỗ Cơ Quang (hiệu là Chân Thiết - con cụ Đỗ Uẩn – và là em con cô con cậu với cha tôi) nhưng cũng giúp đỡ ít nhiều cho nghĩa thục. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, chương VII, tôi có chép một chuyện vui về việc cắt tóc một cụ Đồ mà bác Ba tôi, cụ Đỗ Chân Thiết và cha tôi dự vào.
Sau khi nghĩa thục bị đóng cửa, bác Ba tôi và cụ Chân Thiết (mà trong nhà chúng tôi gọi là chú Ba Đỗ), kẻ trước người sau bỏ quê hương, người qua Tàu, người vô Nam, lính mật thám Hà Nội có lần lại nhà bắt cha tôi nhốt vào Hỏa Lò (tức Khám lớn Hà Nội) để bắt khai tung tích của ông anh. Cha tôi không khai gì cả, và một tuần sau chúng thả ra. Có thể cha tôi hồi đó không liên lạc với các anh và không biết gì nhiều. Lần đó bà ngoại tôi hằng thường đến Khám lớn để hỏi thăm tin tức về cha tôi. Việc đó tôi có chép trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại. Nhưng sau cha tôi cũng bắt được liên lạc với bác Ba tôi.
Vào khoảng 1919, khi một ông bạn thân tên là Khoa, làm cho một nhà in Pháp, đổi vào Sài Gòn, cha tôi làm tiệc tiễn biệt, dặn dò bạn vô Nam thì tìm chỗ ở của bác Ba tôi rồi cho tin tức. Hồi đó, bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở làng Tân Thạnh, quận Chợ Mới, Long Xuyên (trong Đồng Tháp Mười). Chắc lần đó cụ Khoa tìm được, vì sau này tôi được biết rằng những biến cố lớn trong gia đình ở Hà Nội và Sơn Tây, bác Ba tôi đều rõ cả.
Cha tôi ít nói, mà hồi đó tôi còn nhỏ, cũng không thể nói gì với tôi được. Tôi chỉ đoán được rằng người không hoạt động chính trị nhưng giữ được nếp nhà, giữ được tư cách một nhà nho yêu nước, không hợp tác với Pháp. Một người em dị bào của mẹ tôi làm thông phán, khuyên cha tôi học chữ Pháp độ một năm rồi sẽ giới thiệu cho làm ở sở Đốc lí (tòa Thị sảnh) Hà Nội, cha tôi không chịu.
Hình như các bác tôi và cha tôi đã phân công với nhau: hai người làm cách mạng li hương, hai người ở lại, một ở Phương Khê, một ở Phất Lộc để giữ tổ nghiệp và mồ mả ông bà.
TÔI HỌC VỠ LÒNG
Tôi mồ côi cha sớm, năm đó mười tuổi ta, nhưng tuổi tây chỉ mới có tám tuổi rưỡi, vì vậy mà hồi kí về cha tôi không được nhiều.
Tôi thấy đức quí nhất của người là săn sóc sự học của con rất chu đáo. Chính người hồi nhỏ không ham học, mà khi có con thì lại không tiếc thì giờ, tiền bạc vào việc học của con.
Người dạy vỡ lòng chữ Hán cho tôi, tôi không nhớ vào hồi mấy tuổi, và cũng không nhớ được học chữ Hán trong mấy năm - tôi đoán chỉ độ một năm rưỡi thôi.[2]
Sau chữ Nho, người dạy cho tôi chữ Quốc ngữ và làm bốn phép toán. Tôi còn nhớ một lần tôi phải học lại bảng cửu chương cho thuộc làu rồi mới được đi coi hội. Tôi ham chơi như mọi trẻ vào tuổi đó nên nhiều lần bị đòn vì quên lời cha dặn. Về việc học, cha tôi rất nghiêm, rất dữ đòn, và bà ngoại tôi thường phải xin cho tôi. Hình như sau mỗi cơn thịnh nộ - mỗi năm chắc chỉ độ vài lần thôi - cha tôi ân hận. Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối) tôi đã kể một lần cha tôi nọc tôi ra đánh dữ cũng chỉ vì tội ham chơi, quên học; nhưng tối hôm đó người dắt tôi lại đường Paul Bert[3] mua cho tôi một gói kẹo Tây rồi hai cha con quay về bờ hồ Hoàn Kiếm, ngồi nghỉ trong một chỗ ít ánh đèn, người đùa giỡn với tôi, giấu gói kẹo, bảo tôi kiếm, kiếm được mới cho ăn. Một lần khác, đêm hè, người thuê giờ một chiếc xe kéo, bảo xe chạy chậm chậm dọc đường Bờ Sông, về phía Cầu Đất để hóng gió.
Ngồi xe, người không nói gì cả, có vẻ trầm ngâm. Nên tôi không dám gợi chuyện. Mỗi năm ba bốn lần người dắt tôi đi xem hát chèo ở rạp Quảng Lạc. Được đi chơi với cha, tôi thích, nhưng nghe hát được một lúc, tôi buồn ngủ, nằm ngay trên ghế bên cạnh mà ngủ vì rạp rất vắng. Ngày nay thỉnh thoảng tôi cho chạy một băng nhạc Chèo cải lương của Nguyễn Đình Nghị để nghe các giọng ngâm thơ, than của đào Nhã mà nhớ lại ngày trước. Nhưng tôi phải thú thực không thích nghe hát chèo, hát tuồng và cả cải lương nữa. Tôi thích những kịch có ý nghĩa, loại này hiếm lắm. Những kịch trên tivi chỉ nghe dăm ba phút là tôi chán.
CÁCH DẠY TRẺ XƯA VÀ NAY
Đi thăm bà con bên nội bên ngoại ở phố hàng Đường, làng Thịnh Hào, hoặc thăm một vài bạn thân, cha tôi thường dắt tôi theo (em trai tôi kém tôi ba tuổi, hồi đó còn nhỏ quá), một phần để tập cho tôi có lễ phép. Mỗi lần một ông bác tôi ở Thịnh Hào, ông Hi Thanh, con cụ Đỗ Uẩn, anh ông Ba Đỗ lại chơi, cha tôi pha trà và bắt tôi đứng ở bên để “hầu trà” các cụ, nghĩa là để nghe các cụ nói chuyện với nhau. Đứng như vậy khá lâu, các cụ chẳng sai bảo mà cũng chẳng hỏi han gì cả, tôi thấy bực bội, nhưng không dám không tuân. Lớn lên tôi hiểu nhà Nho dạy trẻ như vậy là tập cho chúng cư xử với người trên, nhất là học tự chủ, rán làm những bổn phận mà mình không thích; nhưng dạy con tôi, tôi cho nó tự do hơn, không bắt nó vào khuôn phép quá khi nó dưới mười, mười hai tuổi; lớn lên vài tuổi nữa, nó đã hiểu biết rồi, tôi mới giảng cho nó rằng ở đời bất kì ai và vào tuổi nào cũng thỉnh thoảng có những việc mình không thích làm mà phải làm, và nó nghe ra, không tỏ vẻ khó chịu nữa. Mặc dầu vậy, tôi vẫn rán tránh cho nó những sự bó buộc như vậy. Tôi không biết tôi có dễ dãi quá với nó không.
Bị đòn dữ, nhưng tôi không oán cha, vì tôi cảm thấy người yêu tôi một cách kín đáo theo lối nhà Nho. Nhưng có một lần tôi thấy người nghiêm quá cái mức cần thiết. Hôm đó trưa mùng một Tết, cả nhà quây quần chung quanh mâm cơm. Tôi ngồi ngay ngắn, xếp bàn tròn, gắp một miếng măng khô kho thịt, vừa bỏ vào miệng nhai thì nhè ra liền vì chưa quen với mùi khó tả của nó. Cha tôi giận, tát cho tôi một cái. Tôi tiu nghỉu suốt ngày quan trọng nhất trong năm đó. Bà tôi, mẹ tôi đều làm thinh, không nói gì cả, nhưng chắc đều thương hại tôi.
Cha mẹ ai cũng có những lúc bất công với con - vợ chồng với nhau cũng vậy - nhưng tôi nghĩ dạy con, thà mắc lỗi về nghiêm còn hơn là mắc lỗi về khoan, như hào 3 quẻ Gia nhân trong kinh Dịch đã khuyên.
Và bây giờ tôi mừng rằng nhờ được cha nghiêm khắc mà tôi tự chủ, có nghị lực được một chút, không mang tiếng là kẻ thiếu giáo dục.
Nửa thế kỉ trước, các nhà giáo dục Âu, Mĩ đưa ra một đường lối có lẽ chịu ảnh hưởng của Léon Tolstoi: cho trẻ hoàn toàn tự do muốn làm gì thì làm, không cấm đoán, chỉ khuyên răn thôi; và ở nước mình có nhiều người cho như vậy là văn minh, tấn bộ, mạt sát thậm tệ lối dạy con của ông cha, là làm cho trẻ hoá nhút nhát, không có cá tính, không hoạt bát hoá giả dối... họ không biết rằng khi họ bắt chước phương Tây thì chính ở phương Tây người ta đã nhận thấy người ta đã lầm rồi, mà đã bắt đầu sửa lại chính sách phóng nhiệm đối với trẻ. Tôi đã xét vấn đề đó trong bài “Vấn đề đánh trẻ” in ở sau cuốn Dạy con theo lối mới(Thanh Tân - 1958), và đã dịch cuốn Ba mươi ba câu chuyện với các bà mẹ của Benjamin Spock, một tác phẩm bán rất chạy ở Âu, Mĩ, khuyên phải cương quyết với trẻ, không nên để cho chúng quá tự do. Trẻ có nhu cầu được an toàn, được cha mẹ cương quyết cho biết điều gì chúng được phép làm, điều gì không, có vậy chúng mới khỏi hoang mang, khổ sở. Mấy năm nay tôi thấy nhiều phụ huynh ở Bắc khen trẻ trong Nam ngoan, dễ thương hơn trẻ ngoài Bắc nhiều, xin các thầy giáo, cô giáo trong Nam nghiêm khắc với con họ, và nếu cần thì cứ trừng trị. Có thực là trẻ trong Nam kém hoạt bát, thiếu cá tính hơn trẻ ngoài Bắc không? Điều chắc chắn không ai chối cãi được là chúng siêng năng. Tôi nghe nói từ niên khóa 1979-1980, đường lối dạy trẻ có thay đổi: người ta đã muốn trẻ có kỉ luật hơn, nghe lời cha mẹ và thầy cô hơn.
BUỔI ĐẦU TIÊN HỌC TRƯỜNG YÊN PHỤ
Tôi chỉ có tội ham chơi chứ học không đến nỗi dốt lắm, vì cha tôi dạy tôi chữ Nho rồi chữ Quốc ngữ chung với vài đứa em họ tôi và con một người bạn của mẹ tôi. Chúng đều hơn tôi 2, 3 tuổi mà học kém tôi.
Học như vậy được khoảng hai năm, rồi cha tôi nhờ một thầy kí có bằng Tiểu học Pháp Việt dạy vần Tây cho tôi. Đầu năm Canh Thân (1920) cha tôi xin cho tôi được vào học lớp dự bị (cours préparatoire) trường Yên Phụ. Lúc đó vào giữa năm học, chắc tôi không được chính thức ghi tên vô sổ.
Buổi học đầu tiên của tôi nhằm ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch. Cha tôi dậy sớm, sắp xếp bút mực, thước kẻ, sách vở vào cái cặp da nhỏ - một xa xỉ phẩm thời đó - rồi khăn áo chỉnh tề, thuê một chiếc xe kéo bánh sắt (chưa có bánh cao su) để đưa tôi tới trường ở dưới chân đê Yên Phụ, cách nhà tôi hai cây số, dắt tôi lại chào thầy Hà Ngọc Chử, gởi gắm tôi với thầy.
Ngày nay đọc lại hai trang đầu bài Tựa cuốn Thế hệ ngày mai trong đó tôi chép lại một buổi học đầu tiên của tôi và buổi học đầu tiên của con tôi ngoài hai chục năm sau vẫn còn bùi ngùi: tình cha tôi đối với tôi, và tình vợ chồng tôi đối với con tôi, sự săn sóc của chúng tôi đối với con y như nhau, hai thế hệ một tấm lòng, một tinh thần.
Tôi còn thấy rõ nét mặt của cha tôi, của thầy Chử, cảnh sân trường, cảnh lớp học, tưởng đâu như việc mới xảy ra tháng trước, thế mà đã sáu chục năm qua rồi. Bài Tựa đó đã làm cảm động nhiều độc giả, có người[4] định lựa cho vào một tập Văn tuyển.
Hôm đó cả sáng lẫn chiều, cha tôi đưa tôi tới trường, rồi đợi tan học lại đưa tôi về. Nhưng chỉ ngày hôm sau, cha tôi kiếm được một bạn học cùng lớp với tôi, lớn hơn tôi một hai tuổi, nhà ở hàng Mắm gần nhà tôi, và nhờ em đó hễ đi học thì rẽ vào nhà tôi, đón tôi cùng đi. Từ đó người khỏi phải đưa tôi nữa, và mỗi ngày tôi với bạn đi đi về về bốn lượt, từ nhà tôi tới trường, từ trường về nhà. Mùa hè để tránh nắng, chúng tôi theo bờ đê Nhị Hà, qua phố hàng Nâu, ô Quan Chưởng gần cầu Doumer (cầu Long Biên), bến Nứa để hưởng hương thơm ngào ngạt của vài cây đuôi chồn (loại lilas) ở khỏi dốc hàng Than, lá mùa xuân xanh như ngọc thạch, mùa đông đỏ như lá bàng. Mùa đông để tránh gió bấc từ sông thổi vào, chúng tôi theo con đường ở phía trong, xa hơn, qua phố hàng Đường, hàng Than, sau nhà máy nước, nhà máy thuốc lá. Có lẽ nhờ đi bộ như vậy mỗi ngày tám cây số luôn năm sáu năm trời, nên thân thể cứng cáp, mặc dầu thiếu ăn thiếu mặc.
TRƯỜNG YÊN PHỤ
Thời đó Hà Nội có độ mươi trường tiểu học Pháp Việt (chuyển ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt chỉ dạy mỗi tuần 3 giờ tập đọc, luận văn), mỗi trường trung bình mười lớp từ cours enfantin tới cours supérieur (lớp năm tới lớp nhất)[5]. Trường Yên Phụ ở xa trung tâm, không nổi tiếng bằng trường Bờ Sông, trên Quai du Commerce, không lớn bằng trường Sinh Từ hay hàng Than, nhưng tôi thích nó nhất vì nó đẹp nhất.
Nó nằm ở chân đê Nhị Hà, bên bờ hồ Trúc Bạch. Nó vốn là một ngôi chùa (?) của làng Yên Phụ, xây cất thêm một dãy phòng kiểu mới dùng làm lớp học.
Phía trước là một bức tường cổ, bằng gạch làm hàng rào. Phía trong là một khu rất rộng gồm ba cái sân ở ba mực khác nhau. Có lẽ xưa là một ngọn đồi người ta cuốc, xén, để xây cất. Từ cổng vào là khu sân giữa, thoai thoải, bên trái có một dãy lớp học từ lớp ba tới lớp nhất. Sau những lớp đó là nhà của người lao công quét trường.
Từ sân đó, ở bên phải có nhiều bực đưa lên sân trên cao hơn độ một thước; sân này có hai tòa chùa hay đình cổ, nóc uốn cong, cột gỗ rất lớn, tường gạch có đắp hình hai ông tướng tô màu. Hai tòa đó sửa sang lại một chút, đục thêm cửa, lắp thêm kính, dùng làm lớp năm và lớp tư. Bên hông tòa bên phải và lùi về phía sau là nhà của ông giáo lớp năm kiêm giám thị. Bên trái còn một tòa nữa, nhìn xuống sân dưới và mặt hồ. Sân dưới ở sát mí hồ, thấp hơn sân trên độ hai thước, và thấp hơn sân giữa độ một thước. Có hai thang đá đưa từ sân giữa xuống sân dưới, và một thang gạch ít bực hơn đưa từ sân giữa xuống sân dưới.
Vườn rất rộng, trồng sấu, me, nhất là nhãn. Có tới chục gốc nhãn già. Người ta nói ở dưới chân những gốc nhãn đó và chân các tượng ông tướng đắp trên tường, có những lỗ sâu, hang của mấy con rắn có mào.
Tôi thích vẻ cổ kính của trường, thích ba khu sân rộng tha hồ cho chúng tôi chạy nhảy, leo lên, leo xuống; nhưng thích nhất là hồ Trúc Bạch. Ngồi ở mí nước, chúng tôi nhìn mây nước, những thuyền đánh cá vào mùa đông, con đường Cổ Ngư ngăn hồ Trúc Bạch với hồ Tây ở bên phải, và nhà cửa trong làng Ngũ Xã (?) ở bên trái một làng đúc đồ đồng trên một cù lao ở giữa hồ Trúc Bạch.
Gió từ hồ hiu hiu thổi vào, sóng bập bềnh vỗ nhẹ dưới chân và cánh chim lướt qua trước mặt, trong đám mây hồng.
Tôi cũng thích cây gạo ở bên đường, trên đầu dốc đưa xuống trường. Gạo là một loại cây đặc biệt của đồng quê Bắc, cũng như cây sao đặc biệt của miền Nam. Không nên lầm nó với cây gạo ở miền Qui Nhơn, cùng tên mà khác loài. Nó y hệt cây gòn nhưng lớn hơn nhiều, thân có thể tới vài ôm, nhiều gai hơn gòn, cao tới hai chục thước, hoa như hoa gòn nhưng đỏ như hoa vông và lớn bằng chén ăn cơm. Khoảng đầu xuân, lá rụng hết, cành đầy nụ trông như những trái ổi đen; độ một tháng sau, hoa nở chi chít, đỏ ối cả cây, ở xa như một khối lửa lớn in lên nền trời xanh. Nhụy hoa có một thứ nhựa hơi ngọt, chim bay lại từng đàn, ríu rít trên cành. Khi có một rặng gạo bên đường thì mặt đường đỏ vì hoa rụng. Giữa mùa hè, quả gạo nứt vỏ và gặp cơn gió, bông túa ra, bay như tuyết, rất đẹp mắt.
Trước năm 1920, miền quê tôi, hầu hết làng nào cũng trồng một cây gạo ở vệ đê, ngay đầu dốc đưa vào xóm. Cây gạo đó đánh dấu ranh giới của làng. Phụ nữ đi chợ thường đợi nhau ở dưới gốc gạo để cùng đi; ở chợ về cũng ngồi nghỉ tại đó nói chuyện với nhau một lát. Ở gần đó thường có một cái quán hay điếm canh. Những ai li hương trở về, xa xa trông thấy gốc gạo của làng mình, lòng cũng hồi hộp như người Nam trông thấy ngọn sao ở đình làng.
Tôi không hiểu tại sao cây gạo có một địa vị quan trọng như vậy mà ít ai nhắc tới nó trong thơ văn. Tôi chỉ gặp nó bốn năm lần trong thơ của Cao Bá Quát và trong thơ mới thời Tiền chiến, mỗi lần chỉ trong một câu hay nửa câu.
Gạo trồng ở vệ đê có một điểm bất lợi là khi nó già, những rễ lớn của nó mục đi, thành hang những cho chuột hay cua, hại cho sự vững chãi của đê, cho nên nhà nước bắt đốn hết, làng quê và con đê mất đi một vẻ đẹp.
Cây gạo ở đầu dốc xuống trường Yên Phụ vì ở xa chân đê nên không bị đốn. Nó đánh dấu trường tôi, và hồi nhỏ chúng tôi thường kiếm cách bẻ những nụ của nó để lấy dao chạm thành đầu người, lượm những hoa rụng để đá cầu.
CHA TÔI MẤT
Tôi mới học được bốn năm tháng thì đã tới nghỉ hè. Hè năm đó cha tôi đau ruột, đại tiện ra huyết. Nhiều thầy lang trị mà không bớt. Tôi ở nhà coi chừng siêu thuốc và hầu hạ cha tôi. Bệnh trầm trọng thêm, cha tôi nằm liệt trong màn suốt một tháng. Mẹ tôi bỏ việc buôn bán, và sáng ngày 26 tháng 8 âm lịch, cha tôi tắt thở, mới 34 tuổi. Lúc đó tôi đau mắt, đương nghỉ học.
“Hai ngày sau đưa cha tôi tới huyệt rồi, trở về nhà lúc năm giờ chiều. Trời gần cuối thu, u ám, lá bàng bay lả tả dưới gió lạnh. Tôi buồn và lo, nghĩ bụng: “Mới hai tháng trước cậu còn mạnh, và mới tuần trước ông lang còn bảo bệnh sẽ hết, mà bây giờ... mình đã hóa ra con côi. Nếu chẳng may mẹ lại đau nữa thì bốn anh em mình… “Lần đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy thấm thía sự bất an toàn của kiếp người. Tôi chỉ lo thầm như vậy thôi, không dám thố lộ với ai”.
Ngày nay nhớ lại, tôi cho rằng cha tôi hoặc vì biết số mình hoặc vì linh cảm rằng khó thoát được năm đó, nên rán vận động xin cho tôi vô học trường Yên Phụ ở giữa niên khóa, khác hẳn với lệ thường, để có nhắm mắt thì người được yên bụng.
BỐN ANH EM TÔI
Cha tôi mất đi, để cho mẹ tôi bốn đứa chúng tôi. Tôi là trưởng, 10 tuổi ta, em trai tôi là Hữu Hùng 7 tuổi, rồi tới hai em gái: Oanh 5 tuổi, và Mùi 2 tuổi, mới được 8, 9 tháng.
Khi lớn lên tôi nghe trong nhà kể lại: trước ngày sinh ra tôi, cha tôi nằm mộng thấy một ông già tóc bạc phơ, chống gậy cầm một trái lê đưa cho cha tôi bảo giữ lấy, vì vậy mà đặt tên cho tôi là Hiến Lê: dâng trái lê; và trước người sinh em trai, cha tôi nằm mộng thấy vào sở thú cõng con gấu về, vì vậy mà đặt tên là Hữu Hùng: có con gấu.
Tôi không tin mộng mị, suốt đời cũng chỉ nằm mộng vài ba lần thời nhỏ và thời trẻ, mà đều là những mộng vô nghĩa như tìm thấy một đống bi (hồi tôi ham chơi bi) hoặc gặp một người bạn. Có thể rằng đêm nào tôi cũng mộng nhiều lần như mọi người - các nhà sinh lí học nói vậy - nhưng khi tỉnh dậy, không nhớ gì cả, nên tưởng rằng mình không nằm mộng bao giờ.
Em tôi không có vẻ gì hùng dũng như con gấu cả, có lẽ mộng thấy gấu chỉ có nghĩa là sinh con trai. Còn mộng được ông lão tặng trái lê thì có thể giảng rằng tôi sẽ hiền lương (lê là một loại trái thơm, ngọt mà lành) và thọ như ông lão. Tôi không tin hai mộng đó, chép lại đây để con cháu hiểu ý nghĩa tên của tôi và em tôi thôi.
Nhưng có điều dưới đây thì tôi nghiệm thấy đúng.
Khi tôi mới sinh, nhỏ bé, yếu đuối và đen, coi xấu xí. Cha tôi chắc thất vọng, thấy không hợp với mộng; bác Ba tôi lúc đó chưa vô Nam, lấy số tử vi cho tôi, bảo cha tôi: “Số thằng này dễ nuôi, sau sẽ phú quí, chú thím không muốn nuôi thì cho tôi”.
Sau một người khác coi số cho cả bốn anh em tôi, bảo: Số tôi tốt nhất, số em trai tôi non; còn hai em gái tôi thì một người (Oanh) được nhờ chồng, một người (Mùi) được nhờ con.
Ngày nay, tôi thấy đúng như vậy: em trai tôi cũng yểu như cha tôi, 32 tuổi đã chết; em Oanh tôi chồng cũng khá giả, còn em Mùi tôi thì ngoài 50 góa chồng, nhưng ba đứa con đều học khá, hiện nay đã có một đứa giúp mẹ.
Bốn lá số đều đúng cả bốn, vậy khoa tử vi có chỗ đáng tin, ít nhất là về vài nét chính. Tôi sẽ nhận xét về khoa đó trong một phần sau.

[1] Thời đó giá vàng khoảng 25 đồng một lượng.
[2] Sau câu này, trong ĐVVCT còn có đoạn sau (tr.15-16): “Người mua cho tôi mấy cái thẻ bằng gỗ rộng chừng năm phân, dài chừng ba tấc, trên mặt khắc chìm những chữ Hán dễ, lớn như chữ: thiên, trung, lập, môn… Tôi dùng một cây bút lông chấm vào nước lã rồi tô những chữ đó. Như vậy ít lâu cho quen tay rồi mới tập viết phóng. Những thẻ bằng gỗ đó hình như không thông dụng, tôi không thấy ở các nhà khác. Ngày nào tôi cũng phải trả bài, hễ còn ngắc ngứ thì phải học lại cho thuộc kĩ rồi mới được đi chơi. (Goldfish).
[3] Nay là phố Tràng Tiền. (Goldfish).
[4] Chắc cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói đến ông Châu Hải Kỳ, tác giả cuốn Nguyễn Hiến Lê, cuộc đời và tác phẩm. (Goldfish).
[5] Hệ thống giáo dục công cộng dưới thời Pháp thuộc trước 1945, bắt đầu từ khi trẻ em bước vào ngưỡng cửa của cấp Sơ Đẳng (Élémentaire), gồm có 3 năm: lớp Năm tức lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin), lớp Tư tức lớp Dự Bị (Cours Préparatoire) và lớp Ba tức lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire). Sau lớp Ba nếu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược thì được thi “Concours lên lớp Nhì”, nếu đậu thì được học tiếp 3 năm cấp Tiểu học (Primaire Supérieur) gồm lớp Nhì Nhất Niên (Cours Moyen Première Année), lớp Nhì Nhị Niên (Cours Moyen Deuxième Année) rồi đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cuối năm này thì thi bằng Tiểu Học Cụ Thể (Certificat d’Études Primaire Supérieure). (Bs Bùi Minh Đức,Thế hệ giáo khoa thư, tạp chí Sông Hương số 230, tháng 04-2008,http://tapchisonghuong.com.vn/modules/printview.php?ID=102).
 Chương 4
NHỮNG NĂM Ở TIỂU HỌC

CẢNH NHÀ SAU KHI CHA TÔI MẤT
Cha tôi mất là bắt đầu thời suy của gia đình tôi. Mẹ tôi buồn khổ nhưng không than thở, không thất vọng, âm thầm chống với nghịch cảnh. Người lại đi bán hàng, tôi lại đi học, không có gì thay đổi, chỉ khác có thêm bàn thờ của cha tôi và dải khăn sô trên đầu mẹ tôi.
Trước kia mọi việc trong nhà như cúng giỗ, giao thiệp với họ hàng bên nội bên ngoại, thu tiền nhà, cha tôi lo hết; nay mẹ tôi phải đảm đương lấy, bà ngoại tôi đi chợ nấu cơm, giặt giũ, săn sóc bốn anh em tôi, mà em út tôi lúc đó chắc mới thôi bú.
Người ra đi từ mờ đất, mùa đông cũng như mùa hè, ngày mưa cũng như ngày nắng, ra bến sông ở gần Cầu Đất[1] cách nhà tôi độ một cây số, đón ghe để mua trái cây: dưa hấu, dứa, bưởi, mía… tùy mùa, rồi thuê xe kéo chở về chợ Đồng Xuân, chia lại cho bạn hàng để lấy chút huê hồng, còn thì bán buôn cho những người ở những chợ nhỏ, cũng bán lẻ nữa.
Bốn giờ chiều tan chợ, người nghỉ bán, đi đòi tiền bạn hàng thiếu, tối mới về tới nhà, lâu lâu đội về một thúng gạo. Có hồi đội về một thúng lạc để bóc vỏ thuê cho người ta: cả nhà ăn cơm xong, xúm lại bóc độ một giờ là xong, tiền công không biết được bao nhiêu, lợi là vỏ lạc về mình để đun bếp, đỡ mua củi. Mùa hè, anh em chúng tôi đi lượm những quả bàng chín, rụng về phơi khô, bửa hột ra, lấy nhân ăn bùi, béo hơn lạc, còn cùi cũng để đun bếp; cuối thu, lá bàng rụng, chúng tôi lượm về từng thúng. Khi bà cháu, anh em làm chung thì chỉ thấy vui và thương yêu nhau chứ không thấy khổ.
Nhà tôi ở Long Xuyên hiện nay, trước cửa có một cây nính cao 15, 16 thước, thân lớn hai ôm, cứ tới đầu xuân là thay lá: ban đêm tôi nằm nghe thấy lá rụng ào ào, sáng dậy sân và đường đã đầy những lá đen, và một cô giáo với hai đứa con bảy tám tuổi, đã tới từ hồi nào để quết và hốt thồn vào những cái bao ni lông lớn. Cô giáo cột vào xe đạp chở về. Có khi mẹ bận, hai đứa nhỏ phải đội những bao đó đi bộ về nhà. Chúng thật dễ thương, có trái cây hay một miếng bánh tráng chúng cũng chia nhau: con chị cắn trước rồi chìa cho thằng em, em cắn một miếng rồi đưa lại cho chị. Nhìn họ tôi vui được sống lại tuổi thơ. Thì ra thời này củi quế gạo châu như 60 năm trước. Lượm lá cây như vậy mỗi ngày đỡ được hai đồng bạc củi, mà lương giáo viên được 60 đồng mỗi tháng. Nhưng chỉ được nửa tháng, trút hết lá, cây nính lại mơn mởn dưới ánh nắng ban mai, lại phải đợi đầu xuân năm sau mới được cái vui quét lá.
Chúng tôi phải tiết kiệm, rút mọi chi tiêu xuống mức tối thiểu. Anh em tôi không được ăn kẹo tây nữa, không được dắt đi chơi, đi xem hát, không có áo mới; bà tôi nhịn ăn trầu. Nhưng còn may là không phải ăn độn, và mỗi sáng đi học tôi còn được một xu hay một trinh (nửa xu) để mua một củ khoai lang tròn, lớn bằng nắm tay, hoặc một khúc sắn (khoai mì) dài non một gang tay, nhiều bột, bở, trắng tinh, ngon hơn khoai và sắn ngày nay nhiều.
Mẹ tôi cũng lo việc học cho chúng tôi, có ai đâu để nhờ cậy? Tôi còn nhớ buổi trưa hôm đó, không rõ là ngày thất tuần hay trăm ngày của cha tôi, mẹ tôi bưng một cái quả (thứ tráp lớn, tròn) đựng xôi và thịt quay, cùng với tôi ngồi xe lại nhà thầy giáo tôi ở trên một gác nhỏ, khu hàng Bún (?) để biếu thầy, và kể tình cảnh mẹ goá con côi của chúng tôi, nhờ thầy săn sóc sự học của tôi.
Người lại tìm thầy dạy vần Quốc ngữ và vần Tây cho em trai tôi để sau xin cho nó vào học lớp Năm cũng trường Yên Phụ.
Hơn nữa, người còn cho tôi, con trưởng, thỉnh thoảng có dịp nào tiện thì về thăm quê nội ở Phương Khê. Lần đầu tôi theo một người anh họ, đi tàu thủy từ Hà Nội lên Sơn Tây, rồi từ Sơn Tây đi xe kéo về làng; lần thứ nhì chúng tôi đi xe kéo suốt từ Hà Nội về phủ Quảng Oai, rồi đi bộ về làng. Sau khi đoạn tang chồng, mẹ tôi nhân dịp Tết, người lại đưa tôi và em út tôi về Phương Khê nữa. Như vậy là phải nghỉ bán hàng sáu ngày vì đi đường mất hai ngày, về mất hai ngày rồi.
Tết nào không về được thì người gởi thì người gởi biếu bác Hai tôi trái cây, đồ nấu, hương thơm, trà mứt để cúng tổ tiên, y như hồi cha tôi còn sống, không thay đổi gì cả. Trên bàn thờ cha tôi thì tết nào cũng có hai giò thủy tiên đặt trong hai cái cốc quí bằng thủy tinh như trước chỉ khác thủy tiên không đẹp bằng vì mua ở chợ chiều 30 tết cho rẻ.
Ngày nay nhớ lại đời sống và ngôn hành của người, tôi thấy người không kém bà Tú Xương. Bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
thì mẹ tôi cũng quanh năm mua ở ven sông, bán ở chợ, và cũng nuôi đủ bốn con - có khi thêm một đứa cháu ở bên chồng nữa - với một mẹ già.
Việc gì người tính toán cũng kín đáo và chu tất, xử sự ngay thẳng và đàng hoàng. Tôi nghiệm thấy phụ nữ người nào từ dung mạo tới tính tình, có nhiều nam tính hơn nữ tính thì hầu hết đảm đang, gây dựng nổi cơ đồ, nhưng đời thường vất vả. Mẹ tôi thuộc hạng người đó. Thật là một phúc lớn cho chúng tôi và cả cho gia đình bên nội tôi nữa. Nếu người tái giá thì chắc anh em chúng tôi phải li tán, kẻ về Sơn Tây ở với ông bác, kẻ đi ở nhờ một bà dì, nếu không thì cũng phải sống tủi nhục với người chồng sau của mẹ; cả trong hai trường hợp đó, chúng tôi đều không học hành được gì, may lắm là biết đọc, biết viết rồi kiếm nghề để mưu sinh. Nhưng dù người không tái giá mà không có bà ngoại tôi thì chúng tôi cũng không nên người được. Công của bà rất lớn.
CHẾ ĐỘ ĐẠI GIA ĐÌNH
Nhóm Tự Lực văn đoàn trong những năm 1932-1945, xuất bản một số tiểu thuyết (Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Thoát li, Thừa tự...) để chỉ trích chế độ đại gia đình, bênh vực phụ nữ, nhất là những người làm dâu, những người vợ trẻ ở góa, đề cao hạnh phúc cá nhân, chủ trương sự thoát li gia đình. Họ có lí: chế độ gia đình có nhiều cái bất công, cổ hủ nữa, phụ nữ đáng thương; dễ tạo ra những con người ỷ lại, thiếu tinh thần phấn đấu, không hợp với một xã hội bắt đầu bước qua thời đại tư bản công nghiệp; nhưng chúng ta phải nhận rằng nó rất thích hợp với một xã hội nông nghiệp và có nhiều nét đẹp cao quí: tình gia tộc đằm thắm hơn, đoàn kết hơn, người ta tương trợ nhau hơn, biết tôn kính cha mẹ, ông bà, ít ích kỉ, có tình cảm, có tinh thần trách nhiệm; và thân phận đàn bà có khi đáng thương thật, nhưng địa vị của họ cũng được xã hội tôn trọng, những cụ nào như mẹ tôi, chịu hi sinh cho chồng con, gây được sự nghiệp cho gia đình bên chồng thì chẳng những con cháu, họ hàng, mà đến hàng xóm, xã hội cũng đều kính nể.
Còn chế độ tiểu gia đình ở phương Tây bây giờ thì thôi, tôi ngán quá! Chẳng phải chỉ riêng tôi, các bạn già của tôi cũng vậy, mà ngay trong số nhà văn, nhà báo Âu, Mĩ cũng ngán nữa. Cuối cuốn Tương lai ở trong tay ta (Cảo Thơm - 1962) tôi đã chép hai cảnh thương tâm do bà Pearl S. Buck kể lại: cảnh một bà già muốn được ngủ một đêm với một đứa cháu nội nhỏ mà phải xin phép con trai của mình, cha đứa nhỏ, ông con cho phép sau khi dặn kĩ: “Chỉ lần này thôi nhé!”; và cảnh một ông già khi bước chân vào một viện dưỡng lão, quay lại nhìn con trai, nghe nó dặn nhỏ: “Ba đừng nói hớ tên gia đình mình ra nhé”.
Người ta có thể bảo bà P.S. Buck hồi nhỏ sống ở Trung Hoa, chịu ảnh hưởng đậm của Trung Hoa, nên lạc hậu. Nhưng một kí giả Pháp trong tạp chí Lectures pour tous cũng phàn nàn rằng mỗi vụ hè ở Paris có cả ngàn gia đình dắt cha mẹ già lại gởi trong một dưỡng đường để họ được rảnh rang đi tắm biển, leo núi hoặc du lịch ngoại quốc với vợ con; rồi hết hè họ “quên” không lại đón cha mẹ về! Một vài bộ lạc bán khai ở châu Phi, khi cha mẹ già thì khiêng cha mẹ bỏ vào giữa rừng với một giỏ cơm, một bình nước; ngày nay người ta bỏ cha mẹ vào dưỡng đường, vào viện dưỡng lão, kể cũng tiến bộ lắm.
Còn cảnh ông bà chết mà không đi đưa ma, cảnh nàng dâu gọi bố chồng là con “khỉ đột” là chuyện thường quá rồi!
Già đã cô độc mà trẻ cũng cô độc. Ở Mĩ, ở Pháp - ở Paris - kinh đô ánh sáng, có những khu trẻ dưới mười tuổi, đi học thì đeo tòng teng một cái chìa khoá ở cổ, để chiều đi học về nhà, tự mở cửa lấy, rồi mở tủ lạnh, lấy bánh mì và đồ hộp ra ăn, trong khi ngó tivi, vì cha mẹ chúng tám chín giờ tối mới về. Người ta gọi chúng là “Key children” (trẻ đeo chìa khoá). Việt Nam mình chưa có tình trạng đó, nhưng tôi đã thấy nhiều gia đình cha mẹ đi làm việc cả, nhốt con từ 3 đến 6 tuổi ở trong nhà, khoá cửa lại, trưa về cho chúng ăn rồi lại đi tới chiều tối.
Nhưng người ta bắt trẻ lớp Một học thuộc lòng bài này:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha…
và giảng cho chúng rằng công Bác Hồ nuôi chúng, dạy dỗ chúng… Ông Hồ Chí Minh biết việc này hẳn ông không vui?
Như vậy là người ta nhồi vào óc trẻ điều này: đoàn thể, đảng quan trọng hơn gia đình, để tập cho chúng sớm thoát li gia đình, và hễ cha mẹ già thì đưa vào dưỡng lão viện.
Người ta không hiểu rằng không thể chỉ có đoàn thể mà không có gia đình, rằng đoàn thể dù tổ chức hoàn hảo tới đâu, có những tiện nghi tối tân tới đâu cũng không thể thay thế được tình yêu của cha mẹ, ông bà. Thiếu tình yêu đó thì trẻ không sung sướng, khoẻ mạnh, thông minh được, lớn lên sẽ không giúp gì được nhiều cho đoàn thể, quốc gia. (Coi cuốn Đời mới dạy con theo lối mới của tôi -1958). Nghe nói gần đây người ta đã bỏ câu: “Bác Bác Hồ hơn mẹ hơn cha” rồi. Tiến bộ!
Tôi mừng rằng ở thời đại này được sinh ở phương Đông, hồi nhỏ được cha mẹ và bà ngoại săn sóc (ông nội, bà nội tôi đều mất trước khi tôi sanh), lớn lên được học đạo Khổng; biết chủ trương xã hội của Khổng là “lão giả an chi, thiếu giả hoài chi”[2] (Luận Ngữ, Công Dã Tràng). Và bây giờ còn thấy nhiều gia đình tôn trọng, săn sóc cha mẹ già, hoa quả trong vườn có thứ gì ngon nhất thì để dành cho cha mẹ, cha mẹ đi xóm mà chậm về thì đi tìm, nếu cha mẹ gặp mưa không về được thì đem áo mưa, dù đi đón; phòng của cha mẹ thì giữ cho tĩnh mịch, sạch sẽ. Tôi lại được thấy một số học trò cũ của tôi, nay đã gần 50 tuổi, coi vợ chồng tôi như cha mẹ.
Nhà văn Nguyễn Hữu Ngư - mất năm kia[3] - có lần hỏi tôi: “Anh là người cũ hay người mới?”. Tôi không biết đáp ra sao, chỉ bảo: “Cái đó tùy mỗi người nhận định”. Tôi không nhất định cho rằng tục lệ, luân lí của xã hội nông nghiệp hoàn toàn tốt đẹp; tôi cũng không bảo rằng xã hội kĩ nghệ phương Tây sa đọa quá rồi, con người cực kì ích kỉ, phóng đãng, tàn nhẫn. Tôi thấy xã hội nào có cái gì đẹp thì tôi theo, cái gì xấu thì tôi bỏ. Hai mươi lăm năm trước, một anh bạn theo đệ tứ hay đệ tam, nghe tôi nói vậy, bĩu môi, chê: “Vậy là anh theo éclectisme à?” Tôi đáp: “Nếu như vậy là éclectisme thì tôi theo éclectisme”[4].
Tôi thực tình mừng rằng từ niên khóa 1979-1980 này, ở cấp một các trường phổ thông lại có giờ luân lí hay đạo đức gì đó, và các trẻ lại được cô giảng cho tình thương và công của cha mẹ.
MỘT THỜI LÊU LỔNG
Mẹ tôi, ngày nào cũng đi từ sáng sớm, tối mịt mới về nhà, người lại không biết chữ, nên không thể kiểm soát sự học của chúng tôi được. Đầu năm học, chúng tôi cần tiền mua bút mực sách vở thì người lấy trong ruột tượng ra đưa; cuối năm người hỏi có được lên lớp không, thế thôi. Ruột tượng của người là một cái túi hẹp mà dài khoảng thước rưỡi bằng sồi (tơ gốc, mặt sù sì, rất bền) vừa để thắt lưng vừa để đựng tiền. Tối nào người đi thu tiền về thì ruột tượng đầy xu đồng và trinh, phồng ở trước bụng.
Khi cha tôi mất, tôi đã biết lo về thân phận của mình, nhưng tuổi đó chỉ ngủ một đêm, sáng dậy đã quên hết. Lo thì lo vậy, chứ không biết siêng học. Không còn cha nhắc nhở, kiềm chế nữa, tôi bỏ bê việc học trọn một niên khóa. Tôi vẫn đi học đều đều, không trốn buổi nào, nhưng thường đi sớm mà về rất trễ vì cùng với bạn thơ thẩn trên bờ đê tìm cỏ gà, bắt dế. Tối tối, tôi và em trai tôi rủ nhau ra chơi ở cột đồng hồ - một cột sắt cao khoảng 3 thước, trên có một đồng hồ, lớn như đồng hồ chợ Bến Thành; cột dựng ở giữa ngã năm, bên bờ sông, đầu ngõ Phất Lộc trông ra, cột đó nay vẫn còn. Thời đó đường Bờ Sông chỉ trải đá, chưa tráng nhựa, chiều hè gió ngoài sông thổi vào, bụi mù, thành phố phải dùng những xe bò kéo chở nước đi tưới. Tối, có ba bốn ngọn đèn điện sáng trưng, các loài sâu có cánh bu lại, trẻ con mấy phố và ngõ chung quanh cũng bu lại chạy nhảy trên một cái nền tròn rộng, bắt cào cào, bươm bướm, dế, cả cà cuống nữa.
Chơi chán, chúng tôi ra bờ sông, ở phía ngoài đê, lại bến tàu, leo lên những đống hàng - nhiều nhất là thùng rượu - hóng gió, nhìn tàu và thuyền đậu san sát trên mặt nước loang loáng chỗ sáng, chỗ tối. Ba bốn đứa nói chuyện láo với nhau, hoặc chơi hú tìm, đuổi bắt nhau giữa những đống hàng mới bốc ở dưới tàu lên, chưa kịp chở vô kho. Đêm nào cũng tới lúc nghe tiếng rao: “Bánh giò, bánh dày” của những người bán hàng đầu đội thúng, tay xách một cái đèn dầu, đi dọc bờ sông chuyên bán cho các phu khuân vác làm khuya, chúng tôi mới về nhà. Lúc đó vào khoảng chín mười giờ tối.
Trọn các ngày nghỉ, chúng tôi chỉ có mặt ở trong nhà trong bữa cơm, còn thì ra ngõ, hoặc đường Bờ Sông chơi với trẻ trong xóm. Chúng là con gia đình lao động: bố làm thợ mộc, thợ cưa, mẹ bán cháo, bán xôi, có khi cả bố lẫn mẹ đều làm phu khuân vác ở bến tàu. Cũng có đứa biết đọc chữ Quốc ngữ, lâu lâu chán chơi, lấy chuyện Thạch SanhPhạm Công Cúc Hoa của bố, ngồi đọc cho cả bọn nghe. Chúng coi anh em tôi là cùng bọn, khi nào gây gổ với tụi con nhà giàu theo đạo “Giê du ma” (đạo Ki Tô), có xe nhà gọng đồng bóng lộn ở dãy nhà lầu trước ngõ thì chúng rủ anh em tôi cho thêm đông. Thôi thì đủ các trò nghịch, mất dạy “ma cà bông” (vagabond) như người nói thời đó.
Bà chúng tôi hiền từ không mắng chúng tôi, cứ đến bữa cơm thì đi gọi chúng tôi về ăn; còn mẹ chúng tôi thì nghiêm khắc hơn, hôm nào về nhà sớm, gặp chúng tôi lê la ở ngoài ngõ với trẻ hàng xóm thì quát tháo, bắt phải về liền, có khi quất nữa.
Mùa đông, tôi không ra đường chơi được thì ở nhà đọc truyện Tàu cho cả nhà trong (tức gia đình chúng tôi), nhà ngoài (tức gia đình bà Cả Chiêm, ăn thừa tự) nghe; hết một cuốn thì cầm hai xu chạy vù lại hiệu Cát Thành đầu phố hàng Gai đổi cuốn khác.
Suốt một năm như vậy, bài nhà trường, tôi có học, có làm không, tôi không nhớ nữa; tôi có học thêm được chút nào không? Có lẽ cũng được ít chữ, nhưng không đủ để lên lớp trên, và đầu niên khóa sau tôi học lại với thầy Chử. Cha tôi còn thì chắc chắn tôi khỏi phải “đúp”.
Ngày nay nghĩ lại, một năm đó, xét về việc học, tôi đã bỏ phí rất nhiều, đáng tiếc thật; nhưng về mặt khác - về thể chất, về tính tình chẳng hạn - biết đâu tôi chẳng được lợi một chút: chạy nhảy nhanh nhẹn hơn, sống giản dị, tự nhiên hơn, hiểu biết trẻ bình dân hơn?
TU TỈNH
Niên khóa sau, sau ngày nhập học độ một hai tháng, một hôm thầy Chử chấm bài cho tôi rồi ngững lên nói với cả lớp: “Lê marche à reculons” (Trò Lê đi giật lùi). Bị bạn bè chế giễu, tôi xấu hổ, nhớ hoài câu đó, quyết tâm sửa tính.
Ít bữa sau, tôi xin tiền mẹ mua ở hiệu Thuỵ Ký phố hàng Giấy một “manh” giấy (main de paper) tức một xấp 25 tờ hạng tốt, dày, trắng mịn, một cái bìa, một cây viết chì mềm Gilbert và một cây thước kẻ thật thẳng.
Thời đó chưa có những tập vở 48 hay 100 trang, chúng tôi phải mua giấy đóng vở lấy. Giấy khổ lớn, gấp thành 21 x 31 phân, lại chưa kẻ hàng, chúng tôi phải kẻ lấy, vì vậy cần có bút chì và thước tốt.
Một sáng mùa đông - chắc là đầu tháng mười vì trời chưa rét lắm - tôi dậy từ lúc từ còn tối trời, đốt đèn dầu ôn lại bài học, ăn một chén cơm rang rồi sắp tập vở mới vào cặp để tới trường. Từ hôm đó tôi giữ gìn tập vở sạch hơn, học bài kĩ hơn; cuối niên tôi vượt lên hạng nhất hay hạng nhì. Chỉ có ba chữ của thầy mà thay đổi được đời học sinh của tôi, điều đó, thầy tôi có ngờ được không? Còn trong gia đình thì không ai biết cả vì tôi không hề nói với ai. Lên lớp nhất (cours Supérieur), khi học câu đầu bài Rentreé des classes của Anatole France: “Je vais vous dire ce que me rappellent tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers dîners à la lampe et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent…[5] thì hình ảnh bữa điểm tâm dưới ánh đèn của tôi năm đó lại hiện lên.
Tôi nhớ hoài công của thầy tôi. Trên 30 năm sau, hồi tôi ở đường Huỳnh Tịnh Của, tự xuất bản sách của tôi, một hôm một độc giả lại thăm. Thấy ông ta là người Bắc di cư năm 1954, sau hiệp định Genève mà lại họ Hà, tôi hỏi ngay: “Ông có cùng họ với cụ Hà Ngọc Chử[6], khoảng 1920 dạy ở trường Yên Phụ, Hà Nội và quê ở Hà Giang không?”. Ông ta đáp không. Tôi lại hỏi có nghe nói về cụ ấy không? - cũng không nữa. Tôi hơi buồn. Hồi đó nếu được tin thầy, thì thế nào tôi cũng tìm thăm hoặc viết thư ôn lại chuyện cũ với thầy.
Năm sau lên lớp 3 tôi vẫn vào hạng giỏi trong lớp. Những môn Sử, Địa, Thường thức (Leçons de choses)[7] dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Mỗi bài dài độ 7, 8 hàng. Nhà trường không bắt học sinh mua sách. Thầy giáo chép bài lên bảng đen để học sinh nhìn mà chép vào vở. Tôi và một anh bạn lớn hơn tôi đến 4-5 tuổi - thời đó học sinh đều khai rút tuổi - ngồi sát nhau, vừa chép bài vừa nhẩm từng câu, khi hết bài, đọc lại trọn bài 1, 2 lần, như vậy là thuộc. Giờ ra chơi chúng tôi trả bài với nhau ở dưới gốc nhãn. Vì vậy mà về nhà còn dư thì giờ nhiều lắm; không có ai dạy thêm, cũng không có sách để đọc, hình để coi như trẻ ngày nay.
Đã sẵn đà rồi, mấy năm sau tôi học dễ dàng. Chỉ có niên khóa lớp nhì năm thứ nhất (Moyen première année), tôi gặp một thầy bất công, giả dối, tôi không ưa, suốt đời tôi ghét nhất bọn giả dối và bọn bán nước, lại thêm mùa đông bị bệnh sưng đầu gối và mắt cá chân, đau nhức vô cùng, phát sốt lên mê man cả tuần lễ, phải nằm liệt giường, uống thuốc Bắc và thuốc Nam gần một tháng mới hết, phải bỏ mất mấy kì thi hằng tuần; nên số điểm của tôi kém, cuối năm tôi phải “đúp”, mặc dầu tôi còn sức lên lớp hơn nhiều bạn khác. Thời đó Pháp muốn hạn chế sự học của mình, không cho cuối hè được thi lại những môn thiếu điểm. Trong năm đó tôi đã đọc loại sách Livres roses của Pháp, muốn tra những chữ khó, tôi đã nhịn ăn sáng 6 tháng để mua cuốn tự điển Larousse élémentaire illustré. Ngày nay học sinh ở cấp 3 vẫn không có tự điển Việt ngữ để tra.
Hai năm cuối cùng bậc tiểu học Pháp Việt: Lớp nhì năm thứ nhì (Moyen deuxième année) và lớp nhất (Supérieur) tôi đều nhất lớp. Lớp nhất tôi chơi thân với hai anh Vũ Đình Hoè và Lê Huy Vân: ba chúng tôi đều vào hạng nhỏ tuổi nhất mà học khá nhất. Hai anh Hoè và Vân sau đều học cử nhân Luật, viết báo Thanh Nghị (anh Hoè làm chủ bút), hiện nay đều còn sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng cũng viết báo Dân Chủ (Hoè) và Tổ Quốc (Văn). Không ngờ ba anh em tôi đều thành nhà văn, nhà báo cả.
LÃNH PHẦN THƯỞNG Ở NHÀ HÁT TÂY, GẦN BẾN THẢO TÂN
Thời đó, những học trò được giải thưởng nhất (Prix d’Exellence)[8] ở lớp nhất của các trường tiểu học Hà Nội thì được lại nhà hát Tây lãnh thưởng, còn những trò khác lãnh tại trường mình. Đi học chúng tôi toàn đi chân không; riêng tôi có năm bận một chiếc áo dài vải đen vá một miếng hình chữ L trước ngực, bị Hòe và Vân chế là mang tên trước ngực. Nhưng vào rạp hát lớn lãnh thưởng mà đi chân đất hoặc đi guốc thì không được; tôi thưa như vậy với mẹ tôi và người mua cho tôi một đôi giày cũ của một người thợ sửa giày nào đó ở gần chợ. Đã không quen đi giày mà giày lại lớn, xỏ chân vào bước được hai bước thì nó đã văng ra đằng trước; vì vậy hôm đi lãnh thưởng, tôi xách giày mà đi đất, tới gần nhà hát Tây, xuống bãi cỏ ở chân bờ đê sông Nhị rửa chân[9], xỏ vào giày rồi rón rén từng bước đi lại nhà hát cách bờ sông độ trăm thước. Ngồi trong rạp thấy chung quanh toàn những học sinh lớn nhỏ, nam nữ sang trọng, tôi lo ngại đi không khéo để giày văng ra thì ê quá.
Lượt về tôi cũng rón rén từng bước vì một tay ôm chồng sách lớn, một tay xách giày thì kì quá. Lần đó là lần đầu tiên tôi thấy bực mình vì sự bó buộc của cách ăn mặc. Sau tôi còn bị một lần nữa: ngày cưới vợ, tôi phải bận bộ smoking với chemise à plastron chỉ để chụp một tấm hình, dự một bữa tiệc rồi bỏ, thật uổng tiền! Tôi quí bà Marie Curie ngày cưới chỉ may mỗi một chiếc áo vừa để làm lễ ở giáo đường vừa để đi dậy học được. Suốt đời tôi chỉ thích bận bộ bà ba, ra ngoài thì khoác thêm chiếc áo dài, xỏ đôi dép, không mất một phút. Bận đồ Tây phải cài khuy manchette, thắt cà vạt, cột giày, tôi cho là mất thì giờ quá. Về y phục, tôi giản dị như mẹ tôi, khác hẳn cha tôi và vợ con tôi.
Tối hôm đó, nhìn chồng sách thưởng của tôi, mẹ tôi rất vui và chắc hãnh diện ít nhiều, nhưng người không bao giờ khoe sự học của tôi với ai cả.
HỌC GIỎI MÀ THI RỚT - HỌC TƯ
Có những sự rủi kì cục mà lại ảnh hưởng tốt tới đời mình, khiến chúng ta không thể không tin rằng có số phận, một sự an bài nào đó.
Học nhất lớp mà thi tuyển vô trường Bưởi, hồi đó còn gọi là Collège du Protectorat (trường Bảo hộ) tôi rớt, còn Hoè và Văn đều đậu. Rớt về môn ám tả Pháp, môn này không đủ điểm thì bị loại ngay, không chấm các môn sau, dù bài làm có hay tới mấy cũng vô ích. Cho nên rớt chánh tả, chúng tôi gọi là “bay kinh nghĩa”. (Thi Hương thời xưa, bài đầu tiên là bài kinh nghĩa, không đủ điểm thì không được vào kì nhì, rớt luôn).
Tôi ngồi gần cuối phòng mà giám khảo hôm đó là một nữ giáo sư Pháp, già, quạu quọ, đọc rất khó nghe. Đầu bài chính tả là Notre chat Casimir. Bài đó tôi bị nhiều lỗi quá. Tiếc nhất là một tháng trước, khi học tư trường Trí Đức, trường đã đọc bài đó cho học sinh viết, nhưng đêm đó mưa, tôi nghỉ học; nếu đi học thì nhất định khi thi tôi không mắc một lỗi nào và đã đỗ trên hạng trung bình, vì những bài khác tôi làm khá hết. Chương IX tôi sẽ giảng vì sự rủi lần đó mà sau tôi mới vô trường Công chánh rồi làm việc ở Nam, điều này quyết định cả đời tôi.
Buồn cho mẹ tôi lắm, nhưng người không hề nói gì cả, mà tôi có tính thất bại thì chịu chứ không viện lẽ này lẽ khác để biện bạch dù là những lẽ rất chính đáng, rất đúng. Về điểm đó tôi lầm lì, có người cho tôi là tự cao.
Một người bà con ở phố hàng Đường (tức bên mẹ tôi) vợ một ông ấm, khuyên mẹ tôi cho tôi phá ngang, nghĩa là thôi học, kiếm một việc gì đó mà làm. Bà ta còn hợm hỉnh bảo với nhiều người “con cái nhà tôi không học như con cái các người”, ý muốn nói học để thành ông cử, ra làm quan huyện kia, chứ không làm thầy kí, thầy thông. Mẹ tôi nghe chỉ làm thinh và cứ cho tôi tiếp tục học, mỗi tháng bỏ ra hai ba đồng, trả học phí trường tư.
Sau khi học thử hai trường, tôi trở lại trường Trí Đức, chuyên luyện Pháp văn và Toán, mỗi tối hai giờ. Trong năm này tôi đọc được một số tiểu thuyết Pháp, loại “Meilleurs livres” rẻ tiền của nhà Hachette, mỗi tập khổ 11 x 17 phân, 90 trang, bán hai xu[10]. Tôi say mê đọcLes Misérables của Victor Hugo mà lúc đó Nguyễn Văn Vĩnh mới dịch ra tiếng Việt, rồiLes travailleurs de la merNotre Dame de Paris cũng của Hugo. Tôi nhận thấy Hugo hay dùng antithèse (như phép đối ngẫu của mình), mạnh mà kêu, và tôi hơi lây bút pháp đó.
Ở trường Trí Đức, tôi xuất sắc cả về hai môn Pháp văn và Toán. Ông hiệu trưởng mến tôi, giao một công việc sổ sách cho tôi làm trong ngày chủ nhật, và số tiền ông cho tôi để mua sách, tôi đem về đưa hết cho bà ngoại tôi (tôi đã chép việc đó trong Cháu bà nội tội bà ngoại).
Năm sau (1927), tôi thi lại và trường Bưởi, đậu thứ 12 trên 160 học sinh trúng tuyển (thí sinh là 650). Em trai tôi đương học trường Yên Phụ. Lúc này mẹ tôi yên tâm rồi. Người phải tiêu pha nhiều cho chúng tôi (vì không ai chỉ bảo cho chúng tôi để xin học bổng) mà học phí của tôi là 3 đồng mỗi tháng, nhưng việc buôn bán của người hồi này cũng khá. Cảnh gia đình tôi, nhờ người lại vượng lên.

[1] Bến đó cũng tựa như cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn, nhưng nhỏ hơn nhiều.
[2] Cả câu Khổng tử nói với Tử Lộ: “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi”, nghĩa là: “(Ta mong muốn) các người già được an vui, các bạn bè tin lẫn nhau, các trẻ em được săn sóc vỗ về”. (Theo Nguyễn Hiến Lê, Khổng tử, Nxb Văn hóa, 1991, trang 100). (Goldfish).
[3] Ngày 18-2-1979. (Goldfish).
[4] Có tự điển dịch là chủ nghĩa chiết trung, tôi nghĩ có thể dịch là Trạch thiện chủ nghĩa, thì đúng hơn. Trạch thiện, chữ trong Luận ngữ (Thuật nhi 21) có nghĩa là lựa cái hay mà theo.
[5] Tôi xin kể bạn nghe, hàng năm tôi bâng khuâng nhớ những gì khi mà trời thu mây vần, bữa ăn chiều đã bắt đầu phải thắp đèn, và lá đã ngã vàng trên các cành run rảy.
[6] Tên người thầy này, trong sách có chỗ in là “Chữ”, có chỗ in là “Chử”. Tôi tạm ghi tất cả là “Chử”. (Goldfish).
[7] Thời đó gọi là Cách trí, do bốn chữ Cách vật trí tri trong sách Đại học.
[8] Prix d’Exellence là giải thưởng hạng ưu. Chắc sách in sai thành “giải thưởng nhất”. (Goldfish).
[9] Bải cỏ đó, theo Nguyễn Triệu Luật trong Ngược dòng sông Nhị thì thời xưa là Bến Cỏ (Thảo Tân).
[10] Tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc khi học lớp Moyen première année là cuốn Voyage àMadagascar, loại Livres roses cho thiếu niên.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét