Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám 1945,
bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II
ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ Tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử
đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ Tịch đến thì vẫy
cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí
Minh tới.
Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng
thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên,
nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin.
Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng. Hồ Chí Minh bước
ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông
đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy
chúng tôi ra sức phất cờ và hô “Hồ chủ tịch muôn năm!” .Đứng lại một lát, liếc
nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng
thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của
tôi về Hồ Chí Minh là như thế. Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt
động khá mạnh. Đã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính quốc dân đảng và Vệ
quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên Ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ Tịch là vào
khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh. Ông Hồ
vào Vinh. Người ta tổ chức cho Ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị
xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre – có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với
một số cán bộ Tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người: –
Đảng lao động Việt Nam Muôn năm! – Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!
Ông Hồ vung tay rất cao.
Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba: – Chủ
tịch Hồ Chí Minh muôn năm!
Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay
xuống.
Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy. Ông Hồ bắt đầu nói
chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện.
Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác.
Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy…” thì vội
ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ
Tĩnh chăng, vả lại “cậy thần” là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông
nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các anh
Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam
hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên
thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng
Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi
được biết nhiều chuyện cụ thể về Ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện Ông
Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí trong tù.
Ông Hồ về PắcBó ngày 28 – 01 đầu năm 1941, tháng 8 – 1942 ông trở lại Trung
Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và
mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với Ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì
gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách
khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, Ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh phụ
ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng
Chinh phụ ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ
sở cách mạng. Hôm sau, Ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh
niên Trung Quốc tên là Dương Đào – tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Đến
xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn
Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27 – 8 – 1942).
Không phải Ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như
thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất
nhiều đôla. Nghe nói hồi ở PắcBó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm
mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh
Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình
thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giả Nhật kí trong tù cũng đã
nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(Đường đời hiểm trở)
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(Đi Nam Ninh)
Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp,
Hoàng Quốc Việt… nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tầu dò hỏi
xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn
quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó
là Nguyễn ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra. Biết không phải là Hán
gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sáng chế độ nhà tù
khác. Trong Nhật kí trong tù, bài Bốn tháng rồi có thể coi là
bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của Ông
Hồ – “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời”
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh
thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo.
Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này ông Trần Dân
Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng chú ý là, Nhật kí
trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn tháng rồi là bài thứ 103. Nghĩa
là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ
Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm
cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông
dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Trung
Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn “Trung Quốc đích mệnh vận”)…
Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. Ở cuối tập Nhật kí còn có tới 20
trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc
báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan Mới
biết, viết bài Mở đầu (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã nói thật
lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải
khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam
như thế nào đó, nó mới thả cho về nước. Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh
(Trong Nhật kí trong tù ông Hồ gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm
cục chính trị đệ tứ chiến khu)) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có
tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12 – 1943). Trong liên hoan, họ có
thử tài nhau bằng thách đối. Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”.
Ông Hồ xin đối:
“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”.
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca
ngợi: “Đối hay lắm!”. Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: “Hồ tiên sinh tài
trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục!”
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điệu
Nga la tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể
chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù “chân mềm như bún”, đi không được,
phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại
có thể nhẩy điệu Nga – la – tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán
gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là
chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để
leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu Châu, ông Hồ đi
tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa
tháng 9 – 1943, sau một thời gian tập luyện,
cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên
đỉnh núi, Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết
lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp, trong
tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: “Bữa ấy, tôi về
cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét
quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
– Anh xem có đúng là chữ của Bác không?
Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán
viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: “Chúc chư huynh ở nhà
mạnh khoẻ và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên”. Phía dưới lại có một bài
thơ.
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9 – 1943) trước cuộc liên hoan tiễn
chân nói trên 3 tháng (12 – 1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước hôm ấy
còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường
Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù.
Thực ra không phải.
Ngày 16 – 9 -1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được
ông giữ cẩn thận.
Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho
ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích
Câu: “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các
cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng”. Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy
ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương” .
Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được
biết hoạ sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời
kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là
tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp
nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân… bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện kia, có lúc
lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
Ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về
Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra
nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ Chủ
Tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi
đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn
ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: “Chú cứ ăn trước đi”.Tất nhiên Châu không
dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sỹ: “Về sau chú làm nghề
gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm!”
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc
họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình:
Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh,
chắc thế.(Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm
Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên Xô):
Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là
đồng chí (tavarich).
Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra
suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: “Hồi
ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một
là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ.
Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối với ông
Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo
nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không
trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà
thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi.
(Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là
một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối
hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân
được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng. Năm ấy,
tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam
Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên văn ra gặp
Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo.
Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa
được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh
vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn
đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh
dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không
vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ
tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi”
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi
tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong Anh em nhà
Karamadôp: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người
nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều khi
tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (…) thế nhưng tôi lại không thể
sống chung với bất kì ai trong một căn phòng”. Đó là loại người mà Dostoievsky
gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng” chứ không có tình yêu thực sự. Ông Hồ một mặt
yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con
người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước
căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ
đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh
lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói: Vậy để bác
gác cho cháu ăn, không sợ.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra
rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống Pháp, hoạ
sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu
đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh
trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu
quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện
này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử
như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại để có lời với
anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ
muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường.Cũng có thể
trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh
cũng phải “diễn” những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực
bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố
Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh
muôn năm!”, ông nói: “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!” Ông Hồ cũng thích hút thuốc
lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và
bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh
Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban
đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra
cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ. Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với
ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống
sữa tươi (Người ta nuôi một con bò để lấy sữa cho ông).
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh thoảng lại
đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ
nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là
surnature, ông Hồ nói: “Chúng mình là contrenature”. Hà Huy Giáp có một thời
gian ở gần Hồ Chủ Tịch. Ông kể chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm
thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với Cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: “Sao Bác
không lấy vợ mà chịu được”. Ông Hồ nói: “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở
xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh
nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì
đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong
chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần áo vải. Có cán bộ lên công tác
ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo
buộc lại. Để khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông
Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. Ấn tượng để lại chỉ
là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc,
cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai.
Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu dài. áo
cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy…
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người
thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý thức sáng tác
hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh hoạ
đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ
này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn
đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ
làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm
việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân biệt này:
Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại
bảo là để giải trí.
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy. Người ta thường kể chuyện
này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ: khi làm những bài thơ
tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để
nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên
truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ
nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập thể như thế!
Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi nói chuyện
về thơ Hồ Chủ Tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để ngâm thơ minh hoạ.
Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ Tịch còn sống, vào dịp cuối năm, chị thường được
gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát luôn trên đài. Tới dự có cụ
Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ
có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm
Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn
Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một
đoạn thơ buồn.
Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không biết đến
bao giờ mới được làm sáng tỏ.
Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với
Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc Tày và các con (Trung
và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người
ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Bộ công an) thủ tiêu cả ba chị em.
Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong
cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc
Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy
Sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng
gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể
trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá:
điều
này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không
thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe
doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban
đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên,
tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ.
Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết
chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập
chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng.
Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái đến cho
ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi quần,
slip… rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói đầu, ông
cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy – lấy vì mục
đích chính trị – chắc ông nói cho vui.
Tô Hoài cũng cho biết, đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn
tiếng Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi
sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: “Không có vợ, khổ
thế!”
– Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra nước ngoài là
đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?
Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo cao cấp của ta,
cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang Trung Quốc theo
đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người bán nước mắm, từ Nghệ
An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà
Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô
Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến
và Nhạn.
Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung
Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.
Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng
sản.
Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho Nguyễn Tất
Thành đi Pháp.
- Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí
Minh?
Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn Ái Quốc có khuynh hướng dân
tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi
thành lập đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn ái Quốc có đưa ra một văn
bản gọi là Chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát
với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa
chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được).
Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn ái Quốc đi, thay
bằng luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng
Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn ái Quốc đối với
cách mạng Việt Nam.
Xem chừng Hồ Chí Minh thích Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên
hơn. Ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù
Quảng Tây, Trung Quốc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu cách
mạng của Tôn Trung Sơn.
Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói
với Hoàng Ngọc Hiến: Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo
Đại nó thoái vị sớm quá! ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành
lập ở Việt Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước
mình. Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần
Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông muốn cho
người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên cho biết,
ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện lỡ rồi, ông
chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi (ông gặp hai bà
con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng gặp Phạm
Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường).
Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.
Ngoài ra, từ hồi dự hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh đã muốn
liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính quyền Sài Gòn.
– Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử
quan trọng: năm 1945, chấm dứt đại chiến thế giới thứ hai và cách mạng tháng
Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975
chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.
Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài Diễn ca lịch sử nước ta: “Bốn nhăm
sự nghiệp hoàn thành”, thì ở hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe
Đồng Minh là Staline, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.
Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại
đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh
chống phát xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ.
Mà ba tay này đâu có dốt nát gì !
Trần Quốc Vượng kết luận: Cụ Hồ có tử vi.
Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở thư viện quốc gia có cuốn Tử
vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không
còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ
Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho Cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ Cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy
lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng
đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh
Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
- Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu,
bên nào đáng sợ hơn?
- Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng
sợ. Đáng sợ nhất là các chú – Ông Hồ trả lời như vậy”.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ
đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.
Một câu hỏi khác đặt ra: Cụ Hồ có ý thức
tự thần thánh hoá mình không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại
nói ông có ý thức thần thánh hoá ? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu
cầu chính trị, có khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa – Về mặt
này, ông Hồ cũng khá “siêu” đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có
tâm lý trọng người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người
thường. Cho nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng là già Hồ. Và cũng
không phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng,
hồi kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán
những câu sấm Trạng Trình ứng vào Cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận
quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là “sáng kiến” của Đảng
ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viếtNhững mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn hiện trong mây.
Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai !.
– Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch, sống cứ
phải “diễn” như thế, kể cũng khổ. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Diễn”
tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu đã ai hiểu cho
ông cụ nỗi khổ này ?
Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt đối với
tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm 1946,
Hồ Chí Minh ở hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và một kỹ sư tên
là Quang theo về. Trên tàu, Cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với các thuỷ thủ.
Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không theo Hồ Chí
Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang. Nhưng Hoàng Ngọc
Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này có gặp Quang rửa xe
máy ở Sài Gòn.
– Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng do ông tự
đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn độc
lập (2/9)
Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo
để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ Sĩ Tạo)
thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước,
ngày mà ông
đọc Tuyên ngôn độc lập.
– Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình – Tôi
cãi lại Hiến.
– Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ
của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao! – Hiến khẳng định thế.
Một phán đoán không phải là không có lý!
Hà Nội, ngày 6.7.2006.
Chương VIII. Tố Hữu
Nhớ lại ba, bốn chục năm về trước, vào những năm 60, 70 của thế kỷ vừa qua,
biết bao thế hệ đã từng mê thơ Tố Hữu. Mê thật sự. Đọc những bài như Bài
ca mùa xuân 61 mà chảy nước mắt. Hồi ấy ông rất xứng đáng với danh
hiệu “Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam”. Để phục vụ cách mạng và kháng
chiến, thơ ca hồi ấy bám rất sát từng nhiệm vụ chính trị, nên thường viết chung
một số đề tài: anh bộ đội, anh giải phóng quân, Bác Hồ, anh Trỗi, mẹ Suốt, chị
Trần Thị Lý, miền Nam thành đồng Tổ Quốc, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội…
Ngẫu nhiên mà thành ra những cuộc thi thơ toàn quốc. Trong những “cuộc thi” như
thế, Tố Hữu hầu như đều chiếm giải nhất. Vinh quang của Tố Hữu đâu chỉ ở tư
cách nhà thơ. Về chính trị ông cũng lên vòn vọt, có lúc tưởng như là người kế
cận Lê Duẩn, thay Lê Duẩn đến nơi. Cho nên ngày Tết, người ta xếp hàng nối đuôi
nhau ra tận ngoài đường để chúc tết Tố Hữu. Loại như Nguyễn Văn Hạnh, Hà Xuân
Trường thì phải xếp hàng mãi tít ngoài đường, rất xa. Còn Hoàng Xuân Nhị thì
chỉ rình rình chen ngang… Lúc bấy giờ được viết về Tố Hữu cũng danh giá lắm!
Tôi nhớ có lần anh Lý Hải Châu, giám đốc nhà xuất bản Văn học có ngỏ ý giao cho
tôi làm Tuyển tập thơ Tố Hữu. Định thế thôi chứ đã giao thật đâu. Vậy mà tiếng
đồn ra, nhiều người đã mừng cho tôi. Anh Xuân Diệu gặp tôi, bắt tay chúc mừng: “Thế
là Mạnh bắt đầu được tiếp cận với nhà đỏ rồi đấy!”
Thế mà bây giờ! Không thể ngờ Tố Hữu xuống giá nhanh chóng và thảm hại đến thế,
ở cả hai tư cách: nhà chính trị và nhà thơ. Hầu như các thế hệ
làm thơ bây
giờ không ai còn làm theo phong cách Tố Hữu nữa. ở khoa Văn Đại học Sư phạm Hà
Nội (có lẽ khoa Văn các trường Đại học khác cũng thế) có điều này, nếu Tố Hữu
sống lại chắc buồn lắm: hàng năm cán bộ giảng dạy phải hướng dẫn hàng trăm sinh
viên cao học, hàng chục nghiên cứu sinh làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ. Đề tài
ngày càng bí, quanh đi quẩn lại khai thác mãi những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu… hầu như đã cạn kiệt. Rất bí. Cả thầy lẫn trò đều bí. Vậy mà
không ai chịu làm về Tố Hữu, tuy Tố Hữu vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong
chương trình phổ thông và đại học như một tác gia lớn của nền văn học hiện đại
Việt Nam.
Kể cũng lạ! Tôi cho rằng hiện tượng này cần được giải thích, nhất là đối với
những thế hệ lớn lên sau 1975, đặc biệt là sau 1986, khi đất nước bước vào thời
kì đổi mới. Tất nhiên, giải thích theo quan điểm lịch sử.
Theo tôi tốt nhất là tôi thuật lại những lần được trò chuyện với Tố Hữu trước
1986. Chính những lời phát biểu của ông về chính trị, về thơ ca sẽ giải thích
cụ thể sự thăng trầm của số phận ông. Ngoài ra cũng phải hiểu ông đã quan niệm
về thơ như thế nào và làm thơ như thế nào. Vì vẫn phải giảng thơ ông trong nhà
trường, vì dù sao ông cũng là một nhà thơ tiêu biểu nhất, vẻ vang
nhất, có vị trí quan trọng trong nền thơ ca
Việt Nam hiện đại và trong chương trình môn văn ở các trường phổ thông và đại
học.
Tôi được gặp riêng Tố Hữu hai lần, không kể những lần được nghe ông nói chuyện
ở các hội nghị.
Qua hai lần tiếp xúc với Tố Hữu, tôi thấy ông là người thông minh, nói rất
giỏi. Một nhà hùng biện. Ông rất tin ở những điều mình nói như là những chân lý
tuyệt đối. Nói rất sôi nổi, say sưa, không cho ai cắt ngang dòng biện thuyết
của mình.
Cuộc tiếp xúc lần thứ nhất là năm 1967. Địa điểm: nhà riêng Tố Hữu, 76 Phan
Đình Phùng.
Hồi ấy gặp riêng Tố Hữu rất khó. Anh Huỳnh Lý, lúc ấy là chủ nhiệm khoa Văn Đại
học Sư phạm Vinh, đã liên hệ trước như thế nào đó mới xin phép được. Rất tiếc
cuốn sổ tay tôi ghi chép về cuộc tiếp xúc này tôi đã để thất lạc mất thành ra
chỉ còn lưu lại được trong óc một vài ấn tượng.
Tố Hữu nói về chính trị là chính. Ông say sưa ca tụng dân tộc mình trong chiến
tranh chống Mỹ vừa thông minh vừa anh hùng. Ông nói về Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn
Văn Bé. Ông rất lạc quan và hoàn toàn thoả mãn về Đảng, về cách mạng Việt Nam
chỉ có tiến lên theo đường thẳng. Con đường chỉ có toàn ánh sáng. Cách mạng
Việt Nam không hề có bi kịch.
Tố Hữu tỏ ra rất phục Lê Duẩn. Ông cho Lê Duẩn đúng là một penseur. ấn tượng
khó quên nhất của tôi là ông nói liên miên, nói rất nhiều. Tôi nhớ ông nói từ
khoảng hai ba giờ chiều. Nói rất bốc. Lúc đầu còn ngồi ngay ngắn, sau co chân
xếp bằng tròn trên salon. Tôi ngồi sát cạnh, thỉnh thoảng ông còn vỗ mạnh vào
đùi tôi, hỏi một câu gì đó. Hỏi không phải để nghe trả lời, mà là cách gây chú
ý, để nghe ông nói tiếp. Ông nói cho đến khoảng năm giờ chiều.
Anh thư kí riêng đi ra, xem đồng hồ, ý nhắc
ông nghỉ cho đỡ mệt. Ông không để ý, đứng dậy bật đèn, nói tiếp.
Thực tình lúc ấy tôi mót đi tiểu quá. Ngồi ngay cạnh ông, đứng lên không tiện.
Vả lại biết đi toalét ở chỗ nào! Mà cũng nghĩ ông sắp nghỉ rồi, vì trời đã
muộn. Nhưng ông cứ nói, nói liên miên, nói say sưa hào hứng. Lúc đó, thực bụng
tôi nghĩ: Trên đời không có gì nhảm nhí bằng chuyện văn chương, chỉ có đi tiểu
là quan trọng nhất.
Nhưng cuối cùng thì ông cũng nghỉ, có lẽ do cách nhắc khéo của anh Huỳnh Lý.
Ông bắt tay từng người. Đến lượt tôi, không hiểu sao, ông lại còn giữ tay, nói
tiếp mấy câu nữa. Sợ quá!
Cuộc tiếp xúc thứ hai. Địa điểm: ở ngôi nhà bát giác cạnh trường Chu Văn An bên
Hồ Tây, năm 1980.
Lần này do anh Đoàn Trọng Huy, phó chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội
liên hệ được. Lúc này tôi đã được chuyển ra công tác tại Hà Nội.
Cũng như lần trước, Tố Hữu vẫn nói nhiều, nói liên miên. Ông nói về chính trị,
về thơ, về việc giảng dạy văn trong nhà trường. Sau năm 1975, tình hình đất
nước đã ít nhiều đổi khác. Vì thế ông cũng nói đến chuyện mở cửa, đến chống chủ
nghĩa Mao, đến mở rộng đề tài thơ và phát triển phong cách thơ.
Nhưng tinh thần vẫn như cũ, vẫn Đảng ta là đúng nhất, sáng suốt nhất, nhân dân
ta, dân tộc ta là tuyệt vời, Mác Lênin là chân lý tuyệt đối, và văn học gắn với
chính trị, phục vụ chính trị là chân lý muôn thuở.
Dưới đây là lời độc thoại triền miên của Tố Hữu, tôi ghi lại được: “Vấn đề mối
quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, tưởng không còn chuyện gì nữa, hoá ra không
đơn giản. Vẫn còn có nhiều người chưa nhận ra cái
lẽ lớn ấy.
Văn học phải góp phần tạo ra con người mới, con người xã hội chủ nghĩa, để bảo
vệ và xây dựng đất nước. Với dân tộc ta, động viên hy sinh xương máu dường như
dễ hơn là động viên đổ mồ hôi, đổ trí óc để tăng năng suất lao động, cải thiện
đời sống cho mình.
Tiêu chuẩn đánh giá một nền văn học lớn là góp sức tạo ra con người mới. Đó là
thước đo, nói là cao nhất cũng được, nói là duy nhất cũng được.
Cũng có thể gọi đó là quan điểm thẩm mỹ của
ta.
Đúng là các vấn đề văn học nên đưa ra tranh luận, kể cả với quan điểm đối địch.
Nên làm quen với những cách suy nghĩ khác nhau. Nên học cả những vũ khí của
địch. Muốn hay không muốn, trái đất cũng có những cuộc giao lưu như thế. Không
nên bịt cửa. Trong thời đại này, không có dân tộc nào sống như thế. Chủ nghĩa
Mao nẩy sinh trong sự bịt cửa, tự bịt cửa trong ngu dốt và tàn bạo.
Phải mở cửa. Mở cửa để đón ánh sáng và gió mát chứ không phải để đón ma quỷ. Vì
đời có cả thiên thần và ma quỷ… Phải biết đóng cửa, mở cửa một cách khoa học.
Mở cửa cũng còn để trao đổi với ngoài. Có vay có trả, có góp cho đời. Ta rất tự
hào về văn học ta là văn học của một dân tộc tiên phong, có vẻ đẹp của nó.
Quy luật từ xưa đến nay là quy luật riêng
chung.
Xưa cái chung lấn át cái riêng.
Nay cái riêng lấn át cái chung.
Cần hoà hợp riêng chung.
Cái chung mà không phát huy cái riêng, cái
riêng nó sẽ quay lại chống lại cái chung.
Làm chính trị là l’art des possibités. Làm sao sử dụng được đến ngón tay út của
con người. Tập thể là vô cùng. Con người cũng là vô cùng. Nói vượt mình là
không đúng. Nên nói phát huy khả năng của mình. Làm sao vượt mình được! Chủ
nghĩa Mác ý thức được khả năng vô tận của con người. Con người là gì ? Cuộc
sống là gì?
Là vật chất, trí tuệ, tình cảm, là con – người
– mới.
Khổng Tử phủ nhận “con” là dối trá. Thực ra Khổng Tử coi con người là trâu chó.
Con người khác con vật là có trí tuệ và tình cảm. Có cái đầu pensant. Mao không
cần. Tư sản cần nhưng chỉ cần để phục vụ nó. Làm trái nó, nó chặt đầu. Mọi chế
độ bóc lột đều ngu dân ở những mức độ khác nhau, mức hạn chế khác nhau, do lợi
ích giai cấp. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản là parti de l’intelligence.
Cái “con” là nécessité. Nhưng trí tuệ, tình cảm mới là đặc trưng của người. Chủ
nghĩa xã hội là làm chủ tập thể cộng với công nghiệp hoá. Lênin thì nói: Chính
quyền Xô viết và điện khí hoá…
Bác Hồ thì nói độc lập tự do. Tự do là chuyện muôn đời. Nécessité comprise là
chuyện muôn đời. Vĩ nhân là làm chủ quy luật và chiến đấu cho tự do. Đúng thế.
Nhưng thực sự là người tự do, khó lắm! Hạnh phúc lớn nhất là tự do, là làm chủ.
Uống ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can.
Nước suối mà sao ngon? Vì đó là tự do, là nécessité, quy định bởi cái nécessité
cao hơn tức là cứu nước. Tôi chỉ nói tới nói lui những điều đã cũ, không có gì
mới. Vì không cần nói gì hơn.
“Bay vào vũ trụ” là nécessité. Dép lốp là
nécessité.
Tôi thừa nhận dép lốp, cơm khoai, vì đó là nécessité. Song tôi cũng có cái đầu
để mơ ước chứ! Cho nên tôi thấy bay vào vũ trụ cũng là nécessité.
Nói vị nghệ thuật là dối trá. Ai chả vì cuộc sống này khác. Chỉ có người cộng
sản là nói ouvertement. Phong kiến, tư sản không dám nói. Còn tiểu tư sản là tù
binh của mọi nguồn, bơi trong mọi dòng nước, tự lừa dối mình. Tiểu tư sản không
có đời sống độc lập. Ta nói ouvertement vì ta nói sự thật và chỉ có ta mới nói
được.
Thanh niên bây giờ có xu hướng “Tây loăng quăng hoá”, dễ mất tính dân tộc. Ông
cha ta bản lĩnh lắm, mãnh liệt lắm nên mới tránh được Tây hoá.
Nhưng dân tộc phải nhịp theo thời đại. Đó là sự thật khách quan. Thời đại là:
ba dòng thác cộng với cách mạng khoa học kỹ thuật. Nhật Bản đã trở thành 2 ème
puissance vì có ba yếu tố: 1. Tinh thần Đại Nhật Bản (Đảng Cộng sản lẽ ra phải
tranh lấy ngọn cờ dân tộc. De Gaulle và tư bản Nhật nắm dân tộc hơn đảng cộng
sản). 2. Cách mạng khoa học kỹ thuật
3. Quản lý xã hội, quản lý kinh tế rất khôn ngoan (quản lý theo lối tư bản cộng
với truyền thống gia trưởng)
Conscience và Science. Thời đại này có hai cái đó thì thắng. Trẻ con ta có
Conscience politique rất sớm. Nói phải có lý nó mới phục, nó mới nghe.
Tài nguyên thì ta có dầu, có sắt. Cho nên lắm kẻ đã ve vãn “xôn xao ngoài cửa
thiếu gì yến oanh”
Dân tộc ta có truyền thống rất mạnh. Tinh thần thời đại cũng mạnh. Hai cái đều
mạnh. Nhiều dân tộc phải xấu hổ vì ông cha của mình: ăn cướp, quân phiệt, hoặc
đầu hàng khiếp nhược.
Dân tộc ta, cái dominant là nhân dân. Không cần tư sản. Do chống ngoại xâm mà
hình thành dân tộc. Chống xâm lược trên quy mô lớn nên dân tộc lập tức gắn với
nhân dân.
Dân ta profondement – athée – vô thần – pratique. Lừa cả thần, lừa cả Phật
(Trạng Quỳnh). Bất chấp Khổng, Phật, Thiên Chúa. Rất matérialiste. Cái nôi dân
tộc ở chính Việt Nam. Nhân dân ta là miếng đất lí tưởng cho chủ nghĩa cộng sản.
Dân tộc – Nhân dân – pratique. Lại có tính nhân dân nữa. Thừa nhận giá trị con
người rộng rãi lắm “Thương người như thể thương thân”. Nhân ái lắm!
Không lấy mình làm chuẩn như Khổng Tử “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Tình làng
xóm, cha con, vợ chồng rất khác đạo Nho. Tầu nói trọng nghĩa khinh tài, đào
viên kết nghĩa mà dối nhau, giết nhau.
Thời đại ta có chủ nghĩa Mác nên tránh được tự phát, tuỳ tiện. Cái yếu nhất của
ta là khoa học kĩ thuật. Đảng đề ra cách mạng khoa học kĩ thuật là then chốt,
trúng quá!
Cuộc thắng Mỹ của Việt Nam lớn lắm. ảnh hưởng đến nhiều dân tộc trên thế giới.
Họ không sợ Mỹ nữa. Mỹ không dám gây sự, không dám có một Việt Nam thứ hai.
Tố Hữu ngừng lại một lát rồi tiếp: “Đấy là tất cả những gì tôi đã nghĩ và đã
nói bằng thơ.
Từ Từ ấy tôi vẫn nói thế thôi: lẽ phải, chân lý, tình cảm.
Chân lý chói qua tim. Chân lý phải qua tim mới dẫn tới hành động. Tình cảm lớn
phải có chân lý lớn chỉ đạo. Mao không có tim và chân lý. Tôi nói Mỵ Châu “Trái
tim lầm chỗ để lên đầu” làm mất nỏ thần. Mao thù. Tầu bay Việt Nam không cho
qua Trung Quốc.
Thơ Tố Hữu nói lẽ phải lớn của dân tộc và thời đại. Tôi viết bài “Một nhành
xuân”. Có lẽ người ta đã quên lẽ phải lớn chăng, nên phải nói lại. Người
ta nói tầm bậy về Đảng quá.
Apolitique nặng. Không biết lịch sử dân tộc do Đảng đem lại. Chủ nghĩa công
thần, tính công trạng mình nhiều quá mà không tính công Đảng . Hoàng Văn Hoan
tách Đảng, thành phản quốc. Còn gắn với Đảng là mùa xuân vĩnh viễn.
Nhà văn phải có message nhắn gửi cho đời. Vấn đề là có cái gì đáng nhắn gửi
thật không? Chuyện văn là chuyện đời, chuyện lẽ phải.
Nghệ thuật phải có hình thức adéquate 100%. Nhưng đó là chuyện dĩ nhiên. Art là
personnel, không phải individualiste. Rất riêng song không cá nhân chủ
nghĩa.Bên cạnh hoàng anh, hoạ mi, phải có sẻ sẻ, chim chích, thích chứ, vui
chứ! Nhưng cá tính là gì? Cá tính có ý nghĩa thực là góp một tiếng nói cho đời.
Hoạ mi hót mà đời insensible thì phục vụ ai, có ích gì, vô nghĩa. Có người chủ
trương viết cho mai sau, không cần đời chấp nhận. Vô lý. Mai sau ai sinh ra?
Trên trời rơi xuống à? Người mai sau là ai? Chẳng qua là trốn dư luận, ai biết
mai sau là gì!
Nghệ sĩ phải sống với thời đại của mình. Có convention, có giao ước của nó chứ!
Rút lại phải sao cho người đương thời chấp nhận.
Có nhà thơ chỉ nói tình yêu, tình bạn, hoa đẹp. Thích chứ! Có người nói thời
buổi chiến tranh không nên vẽ phong cảnh, vẽ hoa. Tầm bậy! Cảm thụ được cái đẹp
của thiên nhiên muôn hình muôn vẻ, lớn lắm chứ! Nhưng phải bàn thế nào là đẹp.
Rút cuộc là trở về hunanisme.
Rất mừng là thế hệ trẻ đang lên. Lê Thị Kim có
bài Cỏ. Tôi không viết được. Yêu thiên nhiên và yêu tình yêu. Khánh
Chi rất nên ủng hộ. Tuổi mình không còn là tuổi tình yêu, nói gì được nữa.
Rất may là thời đại ta cùng tồn tại bốn thế hệ: thế hệ già, thế hệ thời chống
Pháp, thời chống Mỹ, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội. Già có vẻ đẹp của già
(đừng có lẩm cẩm). Trẻ biết đâu mà nói. Mỗi thế hệ có vẻ đẹp riêng, có ưu thế
riêng. Hãy nói to lên những điều đẹp nhất của mình.
Tôi rất chú ý từ ngữ, âm điệu, nhạc điệu. Không dùng từ ẩu bao giờ. Thơ phải
tiết kiệm, không nói dài. Tôi không có khả năng sáng tạo từ mới. Từ vựng của
tôi nghèo lắm! Từ ít và không thông minh như của Chế Lan Viên. Phạm Tiến Duật,
Bằng Việt cũng lắm từ, chịu khó tìm tòi, sáng tạo ngôn ngữ. Chỗ yếu của tôi là
thường dùng từ ngữ quen thuộc. Không nói được điều
gì bất ngờ, làm nên sự giật mình về hình thức.
Nhạc điệu ngôn ngữ Việt Nam hay lắm. Âm thanh diễn đạt chính xác, cụ thể, nhiều
giọng điệu. Mỗi bài thơ phải tìm một giọng thích hợp: Emily con, Kính
gửi cụ Nguyễn Du, Theo chân Bác… Bác thích loại thơ rigoureux. Bác rất
Classique. Vì thế Theo chân Bác phải dùng thể thất ngôn mới
thích hợp. Nhịp sống thay đổi, cũng phải tạo nhạc điệu mới. Phải phá thể, phá
cách. Lục bát cũng thế:
“Thác, bao nhiêu thác cũng qua” . Các cụ xưa không làm thế.
Tôi rất nghiêm trong việc dùng chấm và phẩy. Học sinh bây giờ chấm phẩy bừa
quá. Phải học tính chính xác, khoa học, khẩn trương, hoạt bát. Ông bà ta không
làm được điều đó vì nhịp điệu nông nghiệp quen rồi. Tôi cố gắng phục vụ mọi
người. Xã hội ta có ba loại:
-Loại văn hoá thấp: Trình độ cấp I. Người lao
động phần lớn ở mức độ này.
-Loại trình độ cấp II, cấp III, tuổi 30, 40.
Loại này cũng có hàng triệu người
- Loại đại học. Trí thức.
Bài Emily,con… phục vụ độc giả từ trung học trở lên. Viết cho loại này,
tiện, vì cùng loại với tác giả. Có thể làm một cách tự nhiên, không mất công.
Viết cho loại một cực lắm. Đối tượng là dân gian. Bài Ba muơi năm đời
ta có Đảng viết cho hàng chục triệu người. Gọi là vè rất đúng, là
khen, vì dụng ý của tôi là làm vè.
Bài Mẹ Suốt viết cho chính mẹ Suốt. Nhưng không giữ mức vè. Đó
là bài thành công với nhiều tầng lớp.
Bài Theo chân Bác phải vừa hợp phong cách Bác, vừa phục vụ
toàn dân, cho cả trí thức. Dùng thất ngôn có thể giải quyết được. Bài Nước
non ngàn dặmchủ yếu nói cho miền Nam. Cần gợi cảm nên dùng lục bát là tiện.
Nhưng có savant hơn một chút. Cấu tứ không khó lắm! Khó là forme nào, giọng
nào. Năm ba câu đầu mà bắt được giọng rồi thì dễ lọt.
Câu đầu lợi hại lắm. Bài Một nhành xuân tôi đã làm năm năm
trước. “Năm 20 của thế kỉ XX”. Sau nghĩ làm lý lịch làm gì, anh là gì mà khai
lí lịch ! Tôi phải nghĩ hai câu mở đầu khác:
Vâng xin kể cùng Xuân đồng chí
Chuyện riêng chung một cuộc đời bình dị.
Thường khó làm câu đầu và câu cuối. Câu cuối phải gợi ra cái gì rộng hơn cái
mình nói trong thơ. Phải mở, không được đóng. Đóng lại là vô duyên. Đọc câu
cuối người ta còn nghĩ, còn vơ vơ vẩn vẩn, thế hay hơn. Còn từ câu đầu đến câu
cuối không biết trước, không tự giác. Trước khi viết nghĩ nhiều. Khi viết quên
đi và thả cho xúc cảm, cứ như tìm hoa trong đêm. Thơ kị nhất đọc câu trước
người ta đoán được câu sau. Chính mình cũng không biết, không ngờ. Phải cho thơ
tự nó sinh sôi, phát triển. Có ai đó nói rằng, nhà thơ hoàn toàn biết rõ tiến
trình sáng tác một bài thơ, hoàn toàn biết trước câu thơ cuối cùng của tác
phẩm. Tôi thì có khi làm xong bài thơ, cũng ngơ ngơ ngác ngác về tác phẩm của
mình. sáng tác là cảm xúc không luôn luôn tỉnh táo. Văn xuôi có tỉnh hơn chăng?
ở đây có những yếu tố ngẫu nhiên, tình cờ. Có khi cũng không biết là hay hay dở
nữa kia. Anh Xuân Diệu hỏi tôi, sao anh lại tạo ra được hai câu: “Nỗi niềm chi
rứa Huế ơi, Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên”? Tôi cũng không biết sao mình
lại tài thế!
Thơ có quy luật riêng của nó.
Phạm Tiến Duật là anh lính thì hay. Đến lúc luận là chết. Vòng trắng.
Sao đời lại tự tử! Hai lần tự tử! Giết anh và giết người chết rồi. Không hiểu
đời đã luận đời!
Trần Đăng Khoa đang dở dang, hết trẻ con, nhưng chưa thành người lớn. Nói giọng
ông già là trật.
Phải luôn đề cao thế giới quan, nhân sinh quan. Nhưng đối với lớp trẻ, nó thấy
khắc khổ quá. Phải nói đạo lý thế nào đấy không xa lạ với nó. Nên đề cập đến
tất cả những gì nó quan tâm. Đừng nói đại nghĩa trước mà phải đi từ tiểu nghĩa
trước (tình yêu, tình bạn). Từ bỏ tiểu nghĩa, nó không nghe đâu! Không chấp
nhận tình yêu và thơ tình là không đúng, là nihilisme. Thơ tình là loại thơ khó
nhất: nói được cái gì mới? Tôi không làm được. Nói thơ Tố Hữu không nói hết mọi
vấn đề là đúng. Nhưng cho rằng thơ Tố Hữu chỉ nói cái to không nói cái nhỏ thì
oan. Nhưng chuyện cụ thể chỉ là cái cớ để nói cái to. Cái tật quen của tôi nó
vậy. Tố Hữu có nói cả hoa và rác đấy chứ. Nhưng phải có trách nhiệm, phải làm
cách mạng, phải quét rác (Tiếng chổi tre)…
Bài Hồ Chí Minh. Khi viết bài này, tôi chưa được thấy Bác, chỉ biết qua về Bác,
chưa đọc gì của Bác. “Vung gươm lắp súng” là nghĩ thế, viết thế. Nhưng nói
“Người lính già” là bạo, thế mà đúng. Lúc bấy giờ nói thế là bạo, trái với xu
hướng quan niệm về lãnh tụ, về vĩ nhân, lúc đó. Đúng, Bác là người lính.
Bà má Hậu Giang. Có chuyện thật nghe nói ở Ban Mê Thuột: một bà má nấu nồi cơm
to, bị Tây chặt đầu. Còn phịa ra cả. Lúc đó Bắc Sơn thất bại, Nam kỳ thất bại.
Tư tưởng défaitisme, cần góp phần khôi phục lại niềm tin. Ly rượu thọ.
Có chuyện một viên tướng có bà mẹ yêu nước. Còn chuyện chúc thọ là bịa.
Mẹ
Suốt, có chuyện đẻ con bị xẩy, có chuyện vải màn nguỵ trang thật và cũng có
hỏi mẹ mấy câu. Nhưng đặt thêm ra lời hỏi và câu trả lời. “Cá tôm cũng sướng”
là bịa.
Nhân tiện thấy ông nói về những bài thơ cụ thể, tôi tranh thủ hỏi về bài Ân
hận tôi đọc trên báo thời Mặt trận dân chủ Đông Dương, đề tặng một
“nàng trinh nữ” nào đấy. Ông nói bài này làm trong nhà tù. Hồi ấy yêu một cô.
Cô ấy đi lấy chồng. Đơn giản thế thôi.
Nói mãi cũng mệt. Tố Hữu nghỉ, uống nước .
Qua ý kiến của Tố Hữu, thấy ông quả là một nhà thơ có kinh nghiệm. Và không
phải là không có tài.
Nhưng vì sao thơ ông không có giá trị lâu dài? Có lẽ vì ông chọn cho mình con
đường làm thơ chính trị. Ông đã đáp ứng xuất sắc tâm lý chính trị của dân tộc
một thời. Nhưng thời ấy đã qua rồi.
Thơ tuyên truyền chính trị nên phải đơn nghĩa. Và vì phải hướng chủ yếu về đối
tượng công nông binh, nên phải sử dụng những thể điệu truyền thống kể cả lối ca
vè và phải dùng những hình ảnh, những ngôn từ quen thuộc, tránh sáng tạo hình
ảnh và từ ngữ mới lạ.
Tố Hữu lại tiếp tục nói. Ông chuyển sang nói về giáo dục, về việc dạy văn. Ông
cho rằng muốn dạy tốt phải dựa trên nghiên cứu khoa học. Giáo viên không được
tiếp xúc với các công trình khoa học thì như người lính ra trận không có vũ
khí. Giáo viên văn học là giáo viên khổ nhất mà đáng lẽ sướng nhất. Học sinh
nộp bài như nộp thuế.
Ta còn thiếu những công trình khoa học có sức thuyết phục. Tôi chưa tin có ai
đã dạy Kiều, hiểu Kiều một cách đầy đủ. Và liệu đã có ai hiểu hết một bài Bình
ngô đại cáo. Bài văn lạ lùng trên nhiều mặt. Lượng thông tin ghê gớm.
Từng từ có giá trị xã hội, đại diện cho một thực thể xã hội. Trí tuệ, tư tưởng
ghê gớm lắm: “Lấy nhân nghĩa”, “lấy chí nhân”. “Chí nhân” thời ấy là gì? “Cường
bạo” nội dung thời ấy là gì? “Trúc chẻ ngói tan”phải là một chiến dịch ghê gớm
lắm. Bao nhiêu ý nghĩa nhận thức!
Thày giáo văn học là đắt nhất. Nghề này không chỉ đòi hỏi hiểu biết. Anh phải
sống đẹp. Thông tin văn học khác. Phải gây hiểu biết và xúc động thật sự. Không
cảm thụ được và truyền đạt được cảm xúc thì nghề dạy văn là vô nghĩa.
“Đau đớn thay phận đàn bà”, không có gì sáng tạo cả mà hay, vì là tiếng kêu
giữa trời cho ba trăm năm sau. Thiên tài là sự nhuần thấm máu thịt đến mức như
như là cảm quan ngẫu nhiên, tạo ra cái đẹp mà không biết. “Long lanh đáy nước
in trời”. “Long lanh” sau mới thấy “đáy nước” và thấy “trời”. Được nghe, hiểu
một câu thơ như thế, chết cũng sướng.
Nếu loài người hiểu hết vẻ đẹp của mình thì là thiên thần. Là thoát ra khỏi tấn
bi kịch lớn. Bi kịch của loài người là không ý thức được vẻ đẹp của mình, do
mình tạo ra, và tất cả thấy cần phải sống đẹp như thế. Làm sao một dân tộc rất
đẹp như Campuchia lại bị tiêu diệt có vẻ dễ dàng như thế? Tôi vẫn suy nghĩ mãi
về điều đó.
“Phải đặc biệt coi trọng giáo dục, coi trọng văn học. Chủ nghĩa xã hội đâu phải
chỉ cần cơ sở khoa học kỹ thuật. Con người còn cần tâm hồn nữa chứ.
Nếu không, chỉ là con thôi, một thứ con cao cấp thôi”.
Ý kiến của Tố Hữu về giáo dục, về dạy văn nói chung là đúng, tuy không có gì
mới mẻ đặc sắc. Sức hấp dẫn vẫn chỉ là ở nhiệt tình sôi nổi và niềm tin mãnh
liệt, đã trở thành phong cách riêng, khẩu khí riêng của ông. Lúc đó anh Đoàn
Trọng Huy vừa mua được cuốn Tuyển tập thơ Tố Hữu do Hà Minh Đức soạn. Anh xin chữ
kí của Tố Hữu. Tôi đọc bài Mẹ Tơm, thấy câu thơ “ Sống trên cát, chết vùi trong
cát” in là “ Sống trên cát, chết hoà trong cát”, bèn nhân tiện hỏi Tố Hữu: hoà
hay vùi? Tố Hữu nói “vùi chứ hoà thì còn văn chương gì nữa”. Ông tỏ ra tán
thành lời bình của Hoài Thanh về chữ vùi trong bài thơ này.
Tố Hữu trông người nhỏ nhắn, nhẹ nhõm như một thư sinh. Nhưng rất hách. Tôi đã
nghe Hoàng Cầm nói, ông đã từng ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác bằng sáu tiếng
ngắn gọn: “Gọi nó về, bắt lấy nó”. Tôi đã chứng kiến Nguyễn Đình Thi sợ ông như
thế nào, tôi ví như con cua co dúm người lại trước con ếch.
Tôi đã nghe Hoàng Ngọc Hiến thuật lại về Tố Hữu trong cuộc họp nhà văn đảng
viên hồi tháng Sáu năm 1979. Nguyên Ngọc trình bầy bản đề cương chống Mao-ít.
Tố Hữu đã quạt cho Nguyên Ngọc một trận, cho đây là hiện tượng “ngược dòng”,
ông có cách nói mỉa mai rất ác. Nhân thấy Nguyên Ngọc, người thấp, nhân làm đổ
cái micro trên bàn chủ tịch đoàn, ông nói: “Cái bục này đối với tôi hơi cao,
đối với anh Nguyên Ngọc thì cao quá!”. Ông còn đến vuốt râu Nguyên Hồng: “Để
râu sớm quá đấy, để trốn họp chi bộ chứ gì!”. Gần đây Kim Lân còn cho tôi biết,
hôm ấy, Tố Hữu đến chỗ Kim Lân, nói: “Dạo này viết ít quá đấy!”. Kim Lân buột
miệng nói: “Bác lại phê bình em rồi!”. Có vậy thôi mà nghĩ sợ quá. Kim Lân nói:
“Tôi nhớ trong truyện Tam quốc, có hai anh bạn thân, sau một anh làm to, anh
kia đến chơi, nói suồng sã về những kỉ niệm thuở hàn vi. Sau bị tay kia cho
người đuổi theo thủ tiêu – Sợ quá!”.
Tôi chắc Kim Lân sợ thì có sợ, nhưng làm gì đến nỗi thế. Bọn nhà văn là chúa
hay phóng đại.
Nguyễn Khải cũng kể lại, hôm ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một cậu nói nhỏ với
anh: “Ông Lành đang nói sao cậu lại cười?” Khải sợ quá, vội chối: “Không, răng
tôi nó hô đấy chứ, tôi có dám cười đâu!”.
Gần đây anh Hoàng Dũng cán bộ giảng dạy khoa Văn Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, học trò thân thiết của Nguyễn Tài Cẩn, cho biết, Tố Hữu có lần gọi
Huy Cận, bảo phải biên soạn cuốn “từ điển” về thơ Tố Hữu: “Puskine có từ điển,
sao Tố Hữu không có từ điển”. Huy Cận nhờ nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn giúp
cho việc này. Cẩn từ chối không được, bèn dùng mẹo, nhận nhưng không làm, tuy
thỉnh thoảng lại giả vờ đến Tố Hữu “xin” ý kiến về câu này, chữ khác của thơ ông.
Bây giờ Tố Hữu chết rồi, chẳng có trang từ điển nào cả. Anh đồ Nghệ láu thật!
Năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI. Tố Hữu mất hết mọi chức vụ. Tự tột đỉnh vinh
quang tụt xuống đất. Đau lắm! Từ Sơn đến chơi thấy nhà như có tang. Ông nói với
Từ Sơn: “ Chúng nó tiếc gì mà không cho mình làm cố vấn!”. Rồi kéo Từ Sơn ra
ngoài vườn như sợ có kẻ nào nghe trộm: “Có gan lên chiến khu làm cách mạng lại
không?” Đúng là cay cú đến mức điên rồ! Tố Hữu rất ghét thi hoa hậu. Ông nói
với Hoàng Điệp, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin: “Thi hoa hậu để khoe mông khoe
đùi chứ gì! Làm như thế những phụ nữ xấu người ta tủi. Sao không thi bắn súng?”
Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Gooc ba chốp. Chị Tố Nga, vợ Hoàng Ngọc Hiến, bắt
chước giọng Huế của ông rất vui: “Miềng có Hồ Chí Minh của miềng chứ! Thấy
người ta chốp chốp, cũng chóp chóp”.
Những năm cuối đời, ở Tố Hữu, có chuyện này cũng lạ: thường phủ nhận những điều
mình đã nói, đã làm. Trong cuốn Chân dung và đối thoại, Trần Đăng
Khoa nói đến chuyện Phù Thăng một thời bị qui chụp chính trị rất nặng. Khoa
cũng thuật lại cuộc phỏng vấn Tố Hữu về việc sáng tác bài Hoan hô chiến
thắng Điện Biên. Tố Hữu nói, không hề biết chuyện Phù Thăng, còn những điều
Trần Đăng Khoa hỏi ông về bài Chiến thắng Điện Biên là bịa. Thực ra Tố hữu từng
viét bài phê phán Phù Thăng, còn về cuộc phỏng vấn ông về bài Chiến thắng Điện
Biên thì Khoa nói với tôi: “Em có ghi băng hẳn hoi, đâu có bịa” Lại có chuyện
Nhật Hoa Khanh công bố một bài phỏng vấn Tố Hữu rất dài. Đọc bài phỏng vấn này,
thấy Tố Hữu nói ngược hẳn những điều ông nghĩ, ông viết và ông làm trước đây
đối với các nhà văn thuộc nhóm Nhân văn giai phẩm. Ngược hẳn lại như quay 180
độ, khiến rất khó tin là có thật. Trần Đăng Khoa cho rằng, Tố Hữu quả cũng hay
phủ nhận những điều mình đã nói, đã làm, nhưng không đến nỗi quá quắt như trong
bài phỏng vấn của Nhật Hoa Khanh. Tô Hoài thì nói, những sự kiện, những chi
tiết trong bài phỏng vấn đều có thật cả, chỉ có điều Tố Hữu nói ngược lại. Nhật
Hoa Khanh thì nói, anh có ghi âm, còn giữ băng ghi âm.
Hiện tượng này tôi vẫn thấy khó tin và cũng khó giải thích. Hay là giải thích
bằng tính cách của người Huế chăng: “Sơn bất cao, thuỷ bất thâm…” Tố Hữu ngay
khi đã mất hết chức vụ, vẫn rất hách. Trong một cuộc gặp mặt của các nhà văn lão
thành (Hữu Thỉnh hằng năm cứ vào đầu xuân lại mời các nhà văn ở Hà Nội từ 70
tuổi trở lên đến gặp mặt để chúc Tết và mừng tuổi),
người đã đến đông, Tố Hữu đến sau, ông nhìn
khẩu hiệu trên tường: “Hoan nghênh các nhà văn lão thành cách mạng”, nói thủng thẳng:
“Lão, nhưng liệu có thành không chứ!”
Tính cách Tố Hữu như thế nên nói chung văn
nghệ sĩ không ưa. Khi ông có chức có quyền, người ta sợ, người ta phải đến –
như xếp hàng chúc Tết ông chẳng hạn. Nay hết chức quyền rồi, người ta lảng hết.
Tôi nhớ đám tang Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh ở 51 Trần Hưng Đạo, người đến viếng
đông lắm. Viếng xong, mọi người sang phòng bên uống nước và trò chuyện. Tôi
thấy Tố Hữu ngồi một mình. Chả có ai đến nói chuyện. Ông ngồi một lúc rồi lẳng
lặng bỏ về.
Hết mọi quyền lực rồi, Tố Hữu vẫn có tật nói nhiều. Hôm báo Văn nghệ tổ chức
hội thảo về cuốn Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa,
ông có đến dự. Một mình ông nói hàng tiếng đồng hồ.
Lúc Tố Hữu đã mệt nặng, Nguyễn Khải có đến thăm. Khải nói, ông đã mệt lắm, nói
không ra tiếng, vậy mà miệng vẫn mấp máy, lắp bắp. Đúng là mắc
bệnh nói.
Hình như Gala cười (VTV 3)có diễn một tiết mục văn nghệ về một
anh chàng mắc bệnh nói nhiều thì phải.
Ca dao có câu:
Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cùng nhàm.
Láng Hạ, ngày 22 – 5 – 2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét