Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Tầng Đầu
Địa Ngục (3)
Luật
giang hồ
Tù hình sự
có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh em, người
ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết vì nhau,
cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể ngồi chung
mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng phục bề
trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới. Kẻ
thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù
hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ
con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc
biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc
diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.
Nhóm Bình
Thanh tới được vài ngày thì có một anh tên là Thụ ở buồng phía sau có gia đình
vào tiếp tế. Anh này còn gọi là Thụ Con vì người nhỏ thó. Sau khi thăm gặp về,
Thụ phạm một lỗi lầm quá nghiêm trọng, đó là quy luật về sự phục tùng của kẻ bề
dưới. Có lẽ nó còn quá khờ hoặc là quá khinh suất nên thay vì làm theo nguyên tắc
là mang tất cả quà gia đình mới tiếp tế tới chỗ Bình Thanh và nói: “Anh Bình,
gia đình em vừa vào thăm cho ít quà, xin anh dùng chút quà mọn của gia đình
em.” Chắc chắn là Bình Thanh sẽ cười và nói:“ĐM, người nhà mày mang vào thì mày
liếm đi! Có thuốc lào không, cho anh em tao vài bi được rồi!”[1] Và mọi việc sẽ
tốt đẹp. Đàng này, mãi tới chiều hôm đó, Thụ Con mới nắm một ít thức ăn, một ít
ruốc và mấy ấm chè tới biếu. Tôi nghe Bình Thanh quát:
-ĐM mày, tao đâu có chết đói mà mày làm thế. Mày làm nhục tao đấy à? Mang về
ngay!
Thụ còn đang đứng, Bình Thanh nổi nóng:
-ĐM, tao bảo mày cút ngay!
Thụ
sợ quá, cầm gói thức ăn về. Mấy hôm liền, mặt mày Thụ tái mét vì sợ. Rủi cho
anh ta, vài ngày sau đổi buồng và cán bộ đưa Thụ vào buồng Bình Thanh. Thụ đứng
ngoài khóc rống lên và nhất định không vào, nhưng cuối cùng cán bộ đẩy anh ta
vào khóa cửa lại. Có thể dùng hình ảnh con nai tơ bị nhốt vào chuồng sư tử để
diễn ta nỗi sợ hãi của Thụ Con lúc bấy giờ. Biết như vậy, nên từ bên này, tôi gọi
qua cho Bình Thanh bảo đừng đánh thằng Thụ, tội nghiệp nó. Bình Thanh trả lời:
- Vâng, em nghe anh, em chẳng làm gì nó đâu!
Và Bình
Thanh để cho Thụ được yên, chẳng đá động gì tới chuyện mấy hôm trước. Nhưng có
lẽ vì quá sức khiếp sợ, nên chiều hôm đó khi trật tự vừa mở cửa buồng cho ăn,
Thụ vụt chạy như bay xuống cổng trại báo cáo cán bộ trực xin cho đổi buồng, lấy
lý do là Bình Thanh cướp cơm của nó ăn! Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để mong được
đổi buồng. Nhưng nó không ngờ là nó đang đọc bản án cho chính mình. Cán bộ dẫn
nó lên và bắt nó vào buồng trở lại.
Khi cán bộ
khóa cửa và đi xuống rồi, từ bên này tôi còn nghe được cơn thịnh nộ của Bình
Thanh. Khi cơn thịnh nộ nổi lên, Bình Thanh định giết chết thằng Thụ Con vì lần
đầu tiên trong đời bị nó làm nhục là nói anh ta cướp cơm của tù để ăn. Một sự hạ
nhục quá sức chịu đựng của Bình Thanh. Bên kia Bình Thanh vừa chửi vừa “chưởng”,
trong khi Thụ khóc lóc van lạy xin tha mạng. Tôi lại phải gọi sang nói chữa là
vì nó sợ quá nên nói bậy, đánh như thế nó biết tội rồi. Có tiếng Bình Thanh trả
lời:
-Anh coi đó, dám bảo em chấn cơm! Anh bảo thì em tha mạng cho nó, nhưng em phải
xin nó bộ ngà!
-Nói xong, tôi nghe tiếng Bình Thanh:
-ĐM mầy!Anh tao bảo, tao mới tha tội chết cho mày. Nhưng hòn đá đây, mày phải
ghè cho hết bộ ngà, không chừa một chiếc nào. Mày tự làm hay muốn tao làm?
Không còn
cách gì hơn, Thụ Con phải tự tay dùng hòn đá đập gãy không còn sót một chiếc
răng nào! Chừng đó, Bình Thanh mới chịu tha cho. Lạ một điều là từ đó về sau,
Thụ Con theo hầu Bình Thanh như hình với bóng!
Nhân vật
Sửu Què
Sau khi
trật tự Đạt được tha về và trật tự Bảy Chà lên thay, cuộc sống chúng tôi trên
khu kỷ luật thoải mái hơn. Anh Bảy Chà còn lén cán bộ mở cửa cho chúng tôi chạy
ra sân chơi và còn giúp chuyển quà cáp từ buồng này qua buồng kia, hoặc từ dưới
làng lên kỷ luật. Đó là ân huệ mà lúc Bùi Đình Thi còn làm trật tự, chúng tôi nằm
mơ cũng không thấy. Khi tôi bị chuyển ra buồng 4 phía sau, Bình Thanh vẫn ở buồng
3 phía trước chung với Tiến Ngựa và Sửu Què cùng nhóm với nhau.
Một
buổi trưa, cán bộ dẫn lên một người tù miền Nam là anh Nguyễn Đức Khuân vì tội
gửi thư chui bị bại lộ, trong thư lại có bản nhạc gọi Hồ Chí Minh là “con quỷ đỏ”.
Khuân bị một trận đòn trên bờ dưới ruộng, bị đi cùm và đẩy vô buồng của Bình
Thanh. Khuân là bạn rất thân của tôi, nên tôi gọi Bình Thanh và nói:
- Bình Thanh! Anh Khuân là bạn thân của anh đó. Hãy coi anh Khuân như chính anh
nhé!
Bình Thanh đáp vọng lại:
-Vâng! Em biết rồi anh Út!
Khuân là
người vui vẻ, ăn nói có duyên và rất giỏi nhạc. Gặp Bình Thanh là người thích
tìm tòi học hỏi, nhất là các chuyện về miền Nam, nên hai người cũng tương đắc
và quý nhau. Bình Thanh kính Khuân như người anh, điều này, vô tình lại làm Sửu
Què khó chịu. Sửu bị ai đó đâm trúng gân chân nên đi hơi lệch, vì thế có tên là
Sửu Què. Anh ta có ân oán gì đó với Bình Thanh từ ở trại nào trước kia, nhưng
vào đây, Bình Thanh bỏ qua không muốn nhắc lại nữa. Một buổi trưa, trong lúc
Khuân đang kể chuyện và Bình Thanh đang hứng thú lắng nghe, Sửu Què không dằn
được cơn bực tức, đã chửi Khuân:
-ĐM, toàn nói phét!
Khuân
nghe Sửu Què chửi, dừng lại không kể chuyện nữa, trong khi Bình Thanh đùng đùng
nổi giận. Thứ nhất, Sửu Què dám hỗn với Khuân là người tôi dặn Bình Thanh hãy đối
xử như với tôi. Do đó, khi chửi Khuân thì cũng như chửi tôi. Tội này rất nặng!
Điều thứ hai là Bình Thanh và Tiến Ngựa đang hứng thú nghe các chuyện về miền
Nam. Bị cụt hứng bất thần, Bình Thanh vùng dậy, rút con dao làm bằng thanh sắt
đập dẹp mà lúc nào cũng giấu trong gối, đè Sửu Què xuống, dí dao vào cổ chửi và
đòi đâm. Khuân phải can ngăn mãi mới xong. Nhưng từ lúc đó, bầu khí trong buồng
nặng nề, câm lặng và bực dọc. Sau đó, có lẽ vì số chết của Sửu Què đã tới nên mới
khiến anh ta đến bên Bình Thanh đang ngồi thở hồng hộc vì bực tức, xin lỗi và
nói:
- Anh Bình Thanh hãy nhìn vào cặp mắt tôi coi. Tôi có phải là con người gian ác
gì đâu mà anh nói tôi như thế!
Đang lúc
bực tức và lại nghe Sửu Què biện bạch, Bình Thanh nhìn vào mắt nó và nhớ lại ân
oán năm xưa. Bình Thanh bèn đè cổ Sửu Què xuống, dùng con dao ngoáy móc mắt Sửu
Què làm anh ta kêu la vang dội cả khu kỷ luật. Khi cán bộ lên tới nơi và mở được
của buồng ra thì một con mắt của Sửu Què đã nằm dưới đất và Bình Thanh đang đè
ngoáy dao vào con mắt thứ hai. Nhờ Sửu Què giãy giụa quá nên con mắt thứ hai
chưa kịp móc thì cán bộ đã vào tới buồng và giải thoát cho anh ta. Khi thấy cán
bộ vừa chạy lên, Bình Thanh dùng con dao rạch một đường trên cánh tay mình cho
máu chảy ra. Lúc cán bộ bước vào buồng, Bình Thanh cầm con dao đưa cho cán bộ
coi và nói:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu vào dây còn dấu được con dao trong ống điếu. Lúc nãy,
tôi đang ngủ say, không hiểu nguyên do gì anh ta đâm tôi. May mà tôi đỡ kịp nên
chỉ thương ở cánh tay, máu còn đang chảy, cán bộ xem này!
Tiến Ngựa vội thêm:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu hăm dọa giết anh Bình từ lâu rồi. Lúc nãy, nếu tôi
không la lên kịp thì nó đã đâm anh Bình thủng tim rồi!
Đúng là
miệng lưỡi của lưu manh có khác! Cán bộ nghe thế mắng cho Sửu Què một trận, tịch
thu con dao và đưa anh xuống trạm xá băng bó vết thương. Cán bộ không nói gì
Bình Thanh vì anh ta là “nạn nhân” chỉ tự vệ! Câu chuyện này chưa chấm dứt ở
đây.
Khi Sửu
Què đang nằm bênh xá thì Bình Thanh nhắn đàn em dưới làng “cất” giùm Sửu Què.
Quãng nửa tháng sau, Sửu mang một mắt trở về làng, ở chung với đàn em của Bình
Thanh.[1] Ngay đêm đầu tiên, khi Sửu đang ngồi uống chè trên sàn bên kia, thì
bên này, Tuấn Béo cầm con dao rừng nhảy phắt qua, chém một phát chẻ đầu Sửu Què
ra làm đôi, chết không kịp trối. Tuấn béo bị đưa lên kỷ luật ngay đêm đó, nằm một
mình một phòng riêng. Sau này, có tòa án lập ngay trong trại, xử Tuấn Béo 18
năm tù.
Cuộc
tương phùng
Sau vụ Sửu
Què bị chém chết một thời gian, khu kỷ luật lại đổi buồng và cán bộ chỉ định
tôi vào buồng 5, nơi có ba anh Trung Quốc là Lý Đức Nghĩa, Chu Vạn Hồi và Lưu
Tùng đang ở. Nhưng tôi xin với cán bộ cho đi buồng khác. Trước đó mấy ngày, tôi
cũng biết vụ mấy anh Trung Quốc trong buồng này đánh một anh tù hình sự tét đầu
chảy máu. Anh ta đã la ầm lên trong đêm và cán bộ phải lên đưa anh đi bệnh xá.
Nhưng không phải vì chuyện đó mà tôi xin đổi buồng khác, vì lúc đó tôi đâu có
biết hết tính cách nghiêm trọng của vụ đánh người này. Tôi xin đi nơi khác là
vì mới vừa trừng trị Lý Đức Nghĩa khi nó cướp bánh chưng của một người tù già.
Sau vụ đó, chúng tôi bị đổi đi mỗi người một nơi, bây giờ mà gặp lại trong một
buồng chắc chắn sẽ có vấn đề lớn. Cán bộ nghe qua có lý và cho tôi ra phía trước,
vào buồng 2 với Bình Thanh và đưa Phi Tàu vào buồng 5 thay tôi.
Được vào
buồng 2 với Bình Thanh, tôi vô cùng sung sướng. Từ khi Bình Thanh về đây đã hơn
một tháng rồi, nhưng anh em tôi chỉ gặp được nhau trong các giờ mở cửa cho ăn
và lúc đi tắm dưới sông Mã. Lúc khác thì gọi nhau từ buồng này qua buồng khác
nói chuyện mà chưa bao giờ được sống chung buồng như anh em tôi mong muốn.
Khi
thấy tôi ôm chăn chiếu theo cán bộ từ phía sau đi vòng ra phía trước và đứng
trước của buồng 2, Bình Thanh đứng bên trong nhìn ra mừng quá nói to:
- Bình Bưởi đâu? Đưa đôi giày vải đây cho anh! Anh phải ‘tả’cho anh Út một trận
trước khi vào buồng này![1]
Bình
Thanh nó trêu tôi như thế.
Trong lúc
đứng chờ cán bộ mở cửa buồng, tôi nhớ lại trong sáu buồng của khu kỷ luật này,
không có buồng nào mà tôi chưa ở qua. Mỗi buồng đều có một kỷ niệm riêng, nhưng
chưa bao giờ tôi bước vào buồng nào với tâm trạng vui mừng và sung sướng như
lúc đang chờ để vào buồng 2 với người em kết nghĩa của tôi như lúc này.
Tôi vừa
bước vào, chưa kịp để đồ đạc xuống thì Bình Thanh đã ôm chầm lấy tôi và hôn lấy
hôn để lên tóc, lên trán, lên mặt tôi và anh em tôi ôm nhau một hồi lâu. Sau
đó, Bình Bưởi cũng tới ôm lấy tôi để nhận anh nhận em, trong khi Bình Thanh
quay lại bảo hai anh kia;
- Thằng
Thịnh với thằng Trọng Loe, đây là anh tao! Chúng mày phải biết sống sao cho phải.
Khi nghe
Bình Thanh nói thế, tôi nghĩ đây chỉ là sự giới thiệu thôi. Tôi không ngờ đó là
một cái lệnh và lệnh rất nghiêm như tôi sẽ kể dưới đây.
Trong buồng
lúc đó đã 4 người, tôi vào là 5, nên một người được cán bộ cho khỏi phải cùm là
Trọng, còn gọi là Trọng Loe vì mồm anh rất rộng. Trọng Loe lớn hơn Bình Thanh
chừng vài ba tuổi nhưng thuộc dạng bề dưới và không được ngồi ăn chung. Còn anh
kia tên Thịnh, mệnh danh là Thịnh Capitaine. Tôi không hiểu tại sao anh có tên
đệm tiếng Tây như vậy. Anh này cỡ tuổi với Bình Thanh nhưng người ốm yếu hơn so
với Bình Thanh. Thịnh thuộc diện người ngoài, được ngồi chung mâm nhưng chẳng
có liên hệ gì với nhau. Tôi nằm chung thớt cùm với Bình Thanh và nằm bên trong.
Tôi cảm
thấy mệt mỏi, vì mỗi lần chuyển buồng là phải khám xét đồ đạc, phải khuân vác
và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác. Mặc dù lúc đó người tôi đã khá hơn rất nhiều,
nhưng vì cùm lâu quá nên một chân tôi gần như bại liệt và điều kiện sống trong
kỷ luật đã làm thân thể tôi hao mòn. Tôi nằm xuống nghỉ ngơi và tự nhiên cảm thấy
lạ lùng cho cuộc đời tù của tôi. Lúc này, tôi là một Linh mục đang bị nhốt
chung buồng với một tướng cướp khét tiếng của miền Bắc và vài tên lưu manh
khác. Nhưng lạ lùng thay, đây là con người mà tôi yêu thương một cách đặc biệt.
Tôi thấy
trong lòng dâng lên niềm vui khó tả khi nhìn thấy Bình Thanh đang ngồi thu xếp
các thứ đồ đạc của tôi cho gọn trong lúc tôi nằm nghỉ. Lần đầu tiên tôi mới thấy
Bình Thanh cởi trần, để lộ cái lưng rộng bè bè và bộ ngực nở nang, bụng thon và
cặp chân rắc chắc. Bình Thanh xâm trổ nhiều hơn tôi tưởng, cả trước ngực và sau
lưng. Phía trước là hình “lưỡng Long tranh Châu”, hai con rồng thật to tranh
nhau trái châu. Phía sau là hình Phật Bà Quan Âm chiếm trọn cái lưng. Bên dưới
có hình lư hương đang tỏa khói và bên dưới nữa là hai hàng chữ:
Khi tôi
chết ai là người xây nấm mộ
Cỗ quan
tài ai khóc tiễn đưa tôi?
Hai bên
cánh tay cũng xâm hình ngọn đuốc tự do, bên kia là cây kiếm báu. Sống lâu với
tù hình sự, tôi nghiệm ra hai thứ để làm thành một anh tù thuộc diện lưu manh.
Đó là xâm trổ và chửi thề hai tiếng ĐM! Thiếu một trong hai thứ đó không thể là
một “lưu manh toàn diện” được.
Tư cách một
đàn anh
Lúc mở cửa
cho ăn, chúng tôi được ra ngoài chạy chơi, phơi áo quần và rửa buồng. Những việc
này chỉ có được từ khi anh Bảy Chà làm trật tự. Khi mang thức ăn vào buồng,
chính Bình Thanh đứng ra chia thức ăn. Trong buồng có 5 người nên Bình Thanh
chia ra làm 5 phần bằng nhau. Sau khi chia, anh gạt ngay 2 phần cho Trọng Loe,
nói:
- Mày làm nhiều, mày ăn nhiều!
Bốn người còn lại chỉ có 3 phần ăn để chung vào nhau và lúc nào Bình Thanh cũng
nói:
- Anh với Bình Bưởi 'liếm' đi! Em chết thế nào được!
Và Bình
Thanh nhường phần ăn của mình cho anh và cho em, còn anh ta chỉ ăn một chút để
đừng chết đói. Sau này khi có ai cho thứ gì, nếu nhiều thì Bình Thanh ăn một
tí, còn ít thì Bình Thanh nói:
- Thôi anh với Bình Bưởi liếm đi!
Có lần,
chị tôi từ miền Nam ra thăm trong khi tôi đang sống chung buồng với Bình Thanh,
khi trở vào buồng, tôi có mang theo một ít thức ăn. Bình Thanh chỉ để lại một
phần vừa đủ cho 5 người trong buồng ăn một bữa, còn lại bao nhiêu phân chia từng
gói nhỏ và đem phân phát cho tất cả các buồng trong khu kỷ luật. Tới buồng nào
anh cũng nói:
- Đây là quà của anh tao cho. Chị tao từ miền Nam mang ra, chúng mày ăn lấy thảo
với anh em tao!
Dĩ nhiên,
chúng tôi cũng dành ra một chút quà để gửi qua cho các Linh mục đang ở khu kiên
giam Nhà Bằng, chỉ cách một bức tường với khu kỷ luật. Tôi rất hài lòng với việc
làm này của Bình Thanh, vì anh em tôi vẫn nói với nhau, kiếp tù là khổ chung,
làm gì để an ủi và cho nhau một chút niềm vui cũng là điều nên làm. Khi làm như
vậy, chính Bình Thanh cũng muốn mua nhân nghĩa và để mọi người quý mến tôi.
Trong
lần chị ra thăm đó, tôi được gặp chị 15 phút. Tôi đã nói với chị thật nhiều về
Bình Thanh là người em kết nghĩa. Tôi cũng nói là sẽ có ngày Bình Thanh tìm tới
thăm chị dưới một hình thức ngụy trang nào đó. Vì từ khi gặp nhau, chúng tôi đã
hoạch định một kế hoạch vượt ngục rồi.
Trong buồng,
Trọng Loe thuộc diện bề dưới nên anh phải làm tất cả mọi việc như quét lau sàn,
lấy nước, giặt giũ ở giếng cạn phía sau, lấy áo quần phơi vào buồng v.v... Nói
chung, anh ta phải làm tất cả mọi việc trong buồng và lúc nào cũng để mắt nhìn
Bình Thanh coi có điều gì anh làm cho Bình Thanh bực mình hoặc trái ý không. Mỗi
lần Bình Thanh nói gì với anh, tôi thấy Trọng Loe mặt mày tái mét và run rẩy.
Tôi không ngờ anh ta sợ Bình Thanh đến độ như vậy.
Tôi
cũng không ngờ Bình Thanh lại quá khắt khe đối với Trọng Loe nên có lần tôi đã
vô tình gây ra một việc làm tôi hối hận. Vì Trọng Loe biết Bình Thanh rất quý
và tôn trọng tôi nên anh ta cũng biết phải đối xử với tôi như thế nào rồi.
Nhưng một ngày kia, trong giờ mở cửa lấy thức ăn, tôi ra bể cạn phía sau giặt
áo. Nửa chừng, Bình Thanh gọi tôi vì có một đàn em dưới làng leo qua tường vào
khu kỷ luật và muốn chào tôi. Tôi nói với Trọng Loe đang xách nước kế bên:
-Trọng Loe, giặt giúp anh cái áo rồi phơi trên tường rào nhá!
Tôi không
nghe anh ta đáp lại nên nghĩ là anh đã nhận lời nên để áo đó và chạy ra phía
trước. Việc Trọng Loe có vẻ lầm lì và không trả lời tôi làm tôi suy nghĩ. Hay
là tôi đã làm gì cho anh ta buồn chăng? Nhưng thấy chẳng có chuyện gì, vì tôi đối
với anh ta rất tốt. Chợt tôi nhớ lại trường hợp Sửu Què. Lúc đó, vì Bình Thanh
coi trọng Khuân làm cho Sửu Què tức bực mới sanh chuyện. Bây giờ, có thể Trọng
Loe bực tức vì Bình Thanh quý mến tôi chăng? Tôi cứ suy nghĩ điều đó cho tới
lúc vào buồng. Trong lúc Bình Thanh đang chia thức ăn, tôi nhìn ra không thấy
áo phơi đâu cả, mới hỏi Trọng:
-Trọng, áo anh nhờ giặt, em phơi đâu không thấy?
Trọng Loe trả lời với vẻ mặt đanh lại, tôi chẳng hiểu anh ta bực chuyện gì:
-Anh không thấy em bận, lấy nước còn không kịp sao?
Câu trả lời
móc họng quá bất ngờ của Trọng Loe làm tôi nổi giận. Vì trên nguyên tắc, trong
buồng này anh ta phải làm mọi việc cho tất cả mọi người, và bù lại Bình Thanh
cho anh ta hai phần ăn mỗi bữa. Nhưng tôi không bao giờ cậy thế anh em hoặc
dùng miếng ăn để sai khiến anh ta. Tôi đã hiểu và đau khổ quá nhiều với tâm trạng
của một người tù thất thế. Tôi thương cho thân phận của Trọng Loe, một vợ 2
con, chẳng qua vào tù vì yếu đuối mà phải chịu lép vế dưới luật tôn ti trật tự
của giới lưu manh. Những việc có thể làm tôi đều làm và không sai khiến Trọng
như các anh khác trong buồng. Tôi nói với Trọng:
-Trọng, sao em trả lời với anh như thế? Anh biết em bận lấy nước chớ. Nhưng nếu
em không giặt áo giúp anh được em phải nói cho anh biết. Đàng này, em không nói
gì cả, anh tưởng em đã nhận lời. Nếu em bận, anh sẽ giặt lúc khác có sao đâu!
Nãy giờ
Bình Thanh đang chia thức ăn, vụt bật dậy như một cái lò xo, bước tới chụp cái
gối bó bằng chiếu, rút con dao dấu trong đó ra. Con dao này chỉ bé bằng đầu
ngón tay, làm bằng thanh sắt dài đập dẹp một đầu. Cầm dao trong tay, Bình Thanh
quát:
- ĐM mầy Trọng Loe, mầy quá đáng, mầy quá đáng! ĐM mầy, anh tao mà mầy còn coi
không ra gì thì tao mầy coi ra gì? Cái loại chó như mầy không đáng sống trên đời.
Vừa nói,
Bình Thanh vừa chụp ngực áo của Trong Loe quật nằm ngửa xuống bệ nằm, tay phải
giơ cao con dao định đâm xuống. Thấy vậy, cả ba người chúng tôi vôi lao tới chụp
lấy cánh tay Bình Thanh, nhưng anh ta quá khỏe, vung một phát hai anh kia văng
ra. Tôi vẫn nắm lấy cánh tay Bình Thanh, cố gỡ con dao ra, miệng quát thật to:
-Bình Thanh! Bình Thanh! Tha cho nó. Em nghe anh, em làm như thế anh mang tiếng
ác!
Mặc dù
trong cơn điên tiết nhưng nghe tôi nói thế, Bình Thanh chịu để cho tôi gỡ lấy
con dao ra khỏi tay và dùng hai bàn tay chụp cổ Trọng Loe dựng đứng lên. Lần đầu
tiên tôi thấy được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Đôi mắt Bình Thanh trở nên
hoang dại như đôi mắt hổ. Hàm răng rít lại, cằm dưới đưa ra xa. Các bắp thịt
trên người được vận dụng nổi lên cuồn cuộn. Hai tay nắm cổ Trọng Loe, lúc này
như một hình nộm, nhấc lên cao và quát vào mặt:
- ĐM mầy, nếu không vì anh tao, tao đã giết chết đồ chó đẻ mầy rồi! Mầy hiểu
chưa? Mầy hiểu chưa?
Vừa hỏi,
Bình Thanh vừa lắc thân thể Trọng Loe lúc này như một cây sậy. Sau đó, Bình
Thanh xô anh ta ra xa, rồi chụp tay kéo thật mạnh lại trong lúc co cùi chỏ lên
kê đúng giữa ngực. Tôi nghe một tiếng “ự” và thấy máu tươi từ miệng Trọng Loe
trào ra, chảy lênh láng dưới sàn. Tiện tay, Bình Thanh xô Trọng Loe nằm sấp lên
vũng máu. Một cảnh tượng thật kinh hoàng diễn ra trước mắt tôi. Cái cảnh lưu
manh trị nhau trong tù!
Tôi đỡ Trọng
Loe nằm lên bệ, lau chùi máu trên người và xức dầu cao cho anh ta. Qua cơn kinh
hoàng, Trọng Loe gượng mở mắt ra, nhìn tôi và nói nhỏ:
- Em cám ơn anh!
Tôi ngồi
nhìn người bạn tù, cảm thấy hối hận và xót xa trong lòng, đáp lại:
-Trọng, anh xin lỗi em, em dừng oán trách!
Trọng Loe lắc đầu nhè nhẹ và nhắm nghiền đôi mắt.
Đêm đó,
tôi trách Bình Thanh quá nặng tay với Trọng Loe khi tội nó không đáng bị như thế,
và việc nó bị đòn nặng làm tôi cảm thấy buồn và hối hận. Bình Thanh trả lời:
- Anh là một nhà tu nên lúc nào cũng nói tới chuyện thương người. Bọn lưu manh
chúng em nó khác. Không thế, không trị được chúng nó đâu anh ạ! Anh biết không,
chưa bao giờ em rút “gươm ra khỏi vỏ” mà xỏ trở vào nếu chưa dính máu. Chỉ trừ
lần này vì anh mà em lỗi quy luật!
Sau đó, Bình Thanh nhắc lại chuyện của Bùi Đình Thi mà tôi đã kể chi tiết cho
Bình Thanh nghe. Cũng trong đêm đó, Bình Thanh nói:
-Anh thấy đó, thằng Trọng Loe nó chỉ hỗn với anh thôi, em đã trừng trị nó như
thế nào. Còn thằng Bùi Đình Thi, ĐM nó, cái số nó còn lớn! Nếu lúc này nó còn ở
tù, trại này hay bất cứ trại nào khác, thì thật là cái phúc cho em! Nhưng em
không giết loại người như nó, giết bẩn tay lắm. Em chỉ muốn xin nó cặp pha và
đôi đũa.[1] Còn cất nó là mình vô tình làm phúc cho nó!
Tôi trả lời:
- Chuyện của Bùi Đình Thi đã ba năm qua. Lúc mới bị đòn, anh cũng điên tiết lắm
nhưng bây giờ anh đã nguôi ngoai rồi. Anh đã tha thứ cho nó, vì tha thứ làm tâm
hồn anh được thảnh thơi...
Bình Thanh cướp lời tôi:
-Sao anh lại nói thế? Tội nó làm sao tha thứ được anh?
Tôi đáp:
- Anh là một Linh mục. Anh là người rao giảng tình thương và sự tha thứ mà Chúa
Giêsu đã dạy và làm gương!
Bình Thanh nghe tôi nói thế cười bên tai:
- Anh à! Ông Chúa của anh buồn cười thật. Chắc chắn là ông ta không thể là Chúa
của em rồi!
Tôi nghiêm giọng:
- Bình Thanh! Anh không muốn em diễu cợt trong vấn đề này. Tôn giáo là vấn đề lớn
của con người trên mặt đất. Anh muốn em phải có thái độ tôn kính khi nói đến
tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào mình cũng phải tôn trọng cả. Em nói là em tôn
trọng anh, tại sao em lại xúc phạm tới Thiên Chúa là Đấng anh tôn thờ! Em làm
anh buồn.
Bình Thanh nghe tôi nói thế, quay sang ôm vai tôi nói:
- Anh Út! Em nói đùa thôi, em nói đùa cho vui. Em không có ý xúc phạm Đấng Bề
Trên đâu. Có điều anh nói tới việc tha thứ cho thằng Bùi Đình Thi làm em khó hiểu
quá. Khi nghe kể về hành động ác nhân của nó trong trại này và việc nó hành hạ
anh, nghe qua em đã nổi điên lên rồi. Hôm anh vào buồng, khi em ôm thân thể chỉ
còn bộ xương của anh làm em nhớ lại cảnh thằng Thi nó quần thảo anh làm máu em
sôi lên. Bây giờ, anh lại nói chuyện tha thứ cho tên sát nhân đó. Thực em khó
hiểu quá. Em là một thằng lưu manh, em không phải là một cha đạo như anh!
-Nhưng em là em của anh.
- Anh nói đúng, vì là em của anh nên em phải làm nhiệm vụ của em.
Tôi hỏi lại:
- Nhiệm vụ gì?
-Nhiệm vụ báo thù cho anh.
Tôi thấy Bình Thanh cứ loanh quanh vấn đề này nên nói:
-Anh đã nói là anh tha thứ rồi thì còn thù gì nữa mà báo. Vả lại, báo thù thì
chuốc oán thôi, ích lợi gì?
Bình Thanh cãi lại:
-Anh tha là chuyện của anh, còn ân oán giang hồ là luật của cuộc đời, của bọn
lưu manh chúng em.
- Thế em không nghĩ là tình thương và sự tha thứ mang lại hạnh phúc cho con người,
còn ân oán giang hồ chỉ tạo thêm hận thù, ghen ghét làm khổ con người sao?
Bình Thanh mỉa mai:
-Anh Út! Anh đang giảng đạo cho em đấy à?
-Đúng, anh đang giảng đạo cho em đây. Nếu anh không giảng cho em thì còn giảng
cho ai, vì anh thương em quá là thương!
Bình Thanh suy tư một lúc rồi nói:
- Anh Út ơi! Lúc này anh chưa giảng đạo cho em được đâu. Em sanh ra để làm thằng
lưu manh chứ đâu phải để làm con Chúa. Làm con Chúa mà bắt em tha thứ thì em
không thể nào làm con Chúa được.
Tôi nói rất nghiêm túc:
- Bình Thanh à! Có rất nhiều người lúc đầu cũng nói như em, nhưng có một ngày rồi
ơn Chúa đến để cải đổi tâm hồn họ và họ đã thành con Chúa.
Bình Thanh nói nghiêm trang:
- Em mong ngày đó đến với em.
Tôi nắm lấy bàn tay đứa em tướng cướp nói nhỏ:
-Anh cầu nguyện cho em.
Bình Thanh để tay trong tay tôi rất lâu, rồi nở nụ cười thật hồn nhiên, nói:
- Em không ngờ đời em lại có người anh là một Linh mục!
Tôi đáp ngay:
-Anh cũng không ngờ đời anh lại có người em là một tướng cướp. Tướng cướp Bình
Thanh.
Hai anh em yên lặng một lúc, Bình Thanh thở dài nói:
- Đời, c'est la vie!
Tôi cười:
- Em học ở đâu được câu tiếng Pháp đó?
Bình Thanh trả lời:
-Thế anh không thấy câu đó xâm trên lưng em à?
Tôi nhớ lại
trên lưng của Bình Thanh có xâm hình Phật Bà Quan âm rất to, bên dưới là lư
hương tỏa khói, kế đó là câu 'Đời, c'est la vie!' và bên dưới cùng là câu:“Khi
tôi chết ai là người xây nấm mộ? Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?”
Trọng Loe
nằm liệt mấy ngày rồi trỗi dậy lo các việc thường ngày. Trong thời gian anh nằm
thì Bình Thanh quan tâm cho anh ta thức ăn, mà anh em dưới làng đã gửi
lên.
Kiếp sống
giang hồ
Những
ngày tháng cùm chung này là dịp để anh em tâm tình với nhau về cuộc đời mình.
Bình Thanh tên thật là Đỗ Thanh Bình, năm đó 33 tuổi, quê ở Hưng Yên, gia đình
khá giả. Bố là một Thiếu tá công an, mẹ là giáo viên. Lớn lên, Bình học rất thông
minh, văn hay chữ tốt và rất khéo tay. Lúc trưởng thành, Bình rất khỏe mạnh,
thân hình rắn chắc.
Về
tâm tính, ngay từ bé đã bày tỏ chí khí hiên ngang, đôi lúc tới chỗ bạo động.
Trong một lần, lúc chưa được 20 tuổi, Bình đã can thiệp cho một người bị công
an chặn xe làm tiền trái phép. Cậu đánh anh công an máu me lênh láng nên bị bắt
nhốt vào đồn. Bố nghe tin, tới xin lãnh về. Nhưng bố vừa tới nơi đã thấy mọi
người rầm rộ đổ xô đi tìm, vì anh lợi dụng lúc người lích gác dẫn đi đại tiện
bên ngoài, đã đánh gục anh lính gác và chuồn khỏi nhà giam của đồn công an. Từ
đó, Bình không trở về nhà nữa, phiêu bạt khắp nơi, kết nạp băng đảng. Với tính
khí bạo động và chống lại sự đè nén bất công của xã hội, triệt tiêu giới cầm
quyền áp bức, bênh vực người cô thế, cộng với thân hình vạm vỡ và diện mạo khôi
ngô, Bình được nhiều anh em nể phục và sớm trở thành khuôn mặt có tên tuổi
trong giới giang hồ miền Bắc.
Vốn
khéo tay và mưu lược, Bình tổ chức băng đảng, khi giả dạng bộ đội, khi giả dạng
công an với tất cả mọi thứ giấy tờ, chứng minh thư còn “thật hơn là giấy thật!”
Nhiều anh bộ đội, cả sĩ quan nữa, “nhảy dù” đi phép, đã phải chết cay chết đắng
vì bị “Thượng úy Bình Thanh” xét giấy tờ và tóm được giải vào đơn vị nhốt. Có
năn nỉ kiểu gì “Thượng úy Bình Thanh” cũng không tha!
Bình
Thanh đứng đầu băng đảng cướp khi mới 26 tuổi và chuyên “mượn” các kho hàng, xe
vận tải của quân đội, các hợp tác xã, kho hàng của xí nghiệp quốc doanh. Khi
nào kẹt lắm hoặc vào mùa “giáp hạt”[1], mới phải hoạt động trên “bè dài”.[1]
Cũng trong thời gian đóng giả làm trung úy chỉ huy một tốp lính lái xe vận tải
mà Bình Thanh gặp và yêu một cô gái trong đoàn văn công tên là Hường. Bình
Thanh kể lại tôi nghe câu chuyện tình bắt đầu rất nhẹ nhàng nhưng rồi càng lúc
càng sâu, và cũng vì lụy với giai nhân mà cuộc đời của một tướng cướp lẫy lừng
phải chịu đầy gian truân.
Câu chuyện
bắt đầu vào buổi sáng kia, trong một lần “Trung úy bộ đội” Bình Thanh và một
anh bộ đội đi qua phố ở Hà Tĩnh và vào quán gọi thức ăn. Bàn bên kia có mấy
cô gái đẹp đang uống nước, trong đó có một cô chừng 20 tuổi, xinh nhất đám. Bên
này, Bình Thanh gọi với sang tán tỉnh và làm quen. Trong khi đó, có năm anh bộ
đội khác bước vào, kéo ghế ngồi bên cạnh bàn mấy cô gái. Có lẽ mấy anh bộ đội
này người địa phương nên quen biết mấy cô. Hơn nữa, có lẽ ỷ vào số đông nên chặn
ngang giữa đường và quay sang nói chuyện với các người đẹp, không coi ông
“Trung úy” mặt còn non choẹt và anh bộ đội lạ mặt kia ra gì. Tướng cướp Bình
Thanh và tên lưu manh đàn em, không nói một tiếng nào, bước qua túm cổ mấy anh
bộ đội đánh luôn.
Vì
bị tấn công bất ngờ, không kịp chống đỡ, nên ngay trong giây phút đầu, hai
trong năm anh bộ đội đã bị Bình Thanh đánh gục xuống bàn. Còn lại ba chọi với
hai. Cuộc ẩu đả bất ngờ làm bàn ghế trong quán vỡ tan tành. Mấy cô gái vội rút
vào trong đứng nhìn ra. Chỉ một lúc sau, ba anh bộ đội còn lại cũng nằm gục
trong quán dưới những cú đòn ác hiểm của một tướng cướp mà lúc đó ai cũng tưởng
là Trung úy bộ đội này. Bình Thanh bị tét môi, máu chảy khá nhiều, đưa cánh tay
lên quệt máu. Xong xuôi, anh móc túi lấy một số tiền lớn đặt lên bàn, có ý thường
sự hư hại bàn ghế trong quán, cúi nhặt nón cối đang nằm lăn lóc dưới sàn, bước
tới nghiêng mình chào người đẹp đang giương đôi mắt bồ câu ra nhìn, rồi đội nón
ra đi, trong lúc đó người đệ tử đứng ngoài cửa quán canh chừng. Chợt người đẹp
có đôi mắt chim câu lên tiếng:
- Ông sao ngược!
Bình Thanh nghe nói quay lại, không hiểu cô gái muốn nói gì. Lúc đó cô gái cười
thật nhí nhảnh và chỉ vào cái mũ cối trên đầu Bình Thanh nói:
- Ông sao ngược! Anh đội mũ ngược rồi. Ông sao quay về phía sau kìa! Ông sao
ngược kìa!
Thì ra
trong lúc vội vã, hoặc là bị người đẹp “hớp hồn” khiến Bình Thanh không còn để
ý gì chung quanh nên đội mũ lộn ngược ra sau mà không hay biết! Ba tiếng “Ông
sao ngược” của người đẹp có đôi mắt chim câu trong một quán ăn buổi sáng hôm
đó, đã trở thành những nốt nhạc đầu tiên trong bản tình ca vô cùng thắm thiết
nhưng đầy nước mắt và đau thương giữa một giai nhân xứ Hà Tĩnh và một tướng cướp
hào hoa.
Giai nhân
và tướng cướp
Cuộc tình
của hai người càng ngày càng thắm thiết mặn nồng. Bình Thanh nhiều lần đưa Hường
ra thăm Hà Nội, nơi mà Hường chưa có dịp ra. Những lần đi xem phim, xem kịch,
xem xiếc với người tình sĩ quan đẹp trai và hào hoa đã làm Hường vô cùng hãnh
diện. Các loại quà cáp, áo quần, nữ trang mà Bình Thanh sắm sửa cho đã làm cho
Hường vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn.
Từ
đó, cuộc đời người con gái trong ban múa của đoàn Văn Công xứ Hà Tĩnh chỉ toàn
là màu hồng. Nhiều lần, bố mẹ nàng có đề cập tới việc tổ chức đám cưới cho Hường
và Bình, nhưng Bình cứ tìm cách nói khéo là chờ thêm một thời gian. Thực ra, Hường
chưa thấy cần thiết phải có đám cưới, một phần vì nghề nghiệp của nàng, phần
khác, cuộc sống mặn nồng của một người tình đối với nàng đã quá hạnh phúc. Việc
tổ chức đám cưới tất nhiên sẽ tới, nhưng còn phải một thời gian.
Thương
cho Hường sống với người yêu gần hai năm trời mà không hề biết Bình Thanh là
người sống ngoài vòng pháp luật, cứ tưởng là một sĩ quan trong ngành vận chuyển.
Lúc nào cũng thấy có lính tráng đi theo, súng ống đầy người và lái những xe tải
chở đầy hàng hóa, nhưng thường là chở về đêm.
Cho
tới một đêm nọ, trăng sáng thật tỏ, sau khi lái xe về nhà Hường xong, Bình và cả
bọn ra sông tắm trong lúc Hường làm cơm. Bữa cơm đã sẵn sàng nhưng chưa thấy
Bình trở lên nên Hường ra bờ sông gọi Bình và lính tráng về ăn cơm. Bình đang tắm,
nghe Hường gọi, cứ thế lội lên bờ, trong khi chỉ bận chiếc quần đùi và áo thun
trắng mà chẳng để ý gì. Vì áo thun trắng ướt, dính sát vào người nên dưới ánh
trăng, người Bình để lộ ra toàn bộ hình xâm trổ trên thân thể, cả trước ngực lẫn
sau lưng đều xâm kín hết. Đây là sự vô ý rất tai hại vì trong suốt thời gian
qua Bình đã chủ ý che giấu việc này bằng mọi cách và không bao giờ để cho Hường
thấy lúc anh đang cởi trần.
Hường vô
cùng kinh ngạc với sự phát hiện bất ngờ này, khi nhìn thấy thân thể Bình dưới
ánh trăng sáng tỏ. Chừng đó, Hường mới té ngửa ra. Gạn hỏi mãi, cuối cùng, Bình
đành phải thú nhận tất cả sự thật. Bình là một tướng cướp giả dạng sĩ quan
ngành lái xe, vì bộ đội đâu được quyền xâm trổ như vậy. Hường khóc hết nước mắt
về chuyện này! Bình Thanh đã quỳ xuống trước mặt Hường, xin Hường tha thứ:
- Vì quá yêu em, anh không dám nói sự thật. Anh sợ mất em!
Hường đau
khổ vô cùng khi biết Bình Thanh là con người sống ngoài vòng pháp luật, nhưng
vì tình yêu đã quá mặn nồng nên từ đó, Hường đành phải chấp nhận là người tình
của tướng cướp Bình Thanh. Một chuyện mà chỉ có mình nàng biết.
Hai năm
sau, lúc Bình Thanh 28 tuổi, bị “bể” trong vụ đánh cướp cửa hàng lương thực tỉnh
Hải Dương, anh bị bắt và bị kêu án 10 năm, giam ở một trại trong tỉnh Quảng
Ninh. Hường từ miền Trung lặn lội ra thăm Bình trong tù ở tận vùng cực Bắc. Vào
tù chưa đầy một năm, Bình Thanh vượt ngục. Công an theo dõi và biết anh có người
yêu ở Hà Tĩnh, nên cử người kiên nhẫn theo dõi Hường và cuối cùng đã vây bắt được
Bình Thanh ở Hà Tĩnh.
Lúc
bị bắt, anh chống cự, bị người công an đánh nên anh tức khí, giật súng tháo chạy,
công an đuổi theo nhắm bắn, anh quay súng lại bắn chết công an, nhưng chạy
không thoát vì bị dân quân bắt được. Ra tòa, Bình Thanh bị kêu án mới 15
năm, hủy án cũ. Từ đó tới nay, 6 năm qua, Bình Thanh đã vượt ngục tất cả 5 lần.
Lần nào cũng thành công, nhưng rồi bị bắt lại vì tay anh hùng hảo hán này là
người rất nặng nghĩa tình và lụy sắc đẹp của giai nhân! Khi chuyển về Thanh Cẩm,
Bình Thanh còn mang bản án 15 năm vì mỗi lần vượt ngục lại bị tăng án. Nhưng
Bình Thanh nói với tôi:“Án thì án thế thôi, có nhà tù nào giam hãm được em đâu
anh”!
Nằm chung
một thớt, cùng chung một cùm và nghe Bình Thanh kể lại chuyện cuộc đời mình và
Hường, tôi quá thương cho người con gái. Mặc dù chưa biết mặt, nhưng lúc này,
Hường đã là em dâu của tôi. Định mệnh đã đưa cô vào chiếc quán ăn năm nào và
cũng định mệnh đã khiến cô phát ra ba tiếng “Ông sao ngược” trong lần đó để rồi
đời người con gái đẹp phải dở dang vì yêu say đắm một tướng cướp. Và nếu như
sau nầy, Hường biết được đoạn cuối cuộc đời của Bình Thanh như tôi đã biết thì
nàng sẽ đau khổ tới đâu?[1]
Anh Hùng
Náo
Khi tôi từ
chối vào buồng 5 với mấy anh Trung Quốc để vào buồng 2 với Bình Thanh thì Phi
Tàu, một anh Trung Quốc to lớn như đô vật, vào buồng đó thay tôi, và anh này
cũng không phải là tay vừa. Có điều là anh ta thâm trầm và mưu lược, không quá
lưu manh lộ liễu như Lý Đức Nghĩa. Có thêm Phi Tàu vào, số phận của anh tù ốm yếu
Lưu Tùng càng bi thảm hơn. Tôi có nói tình trạng này với trật tự Bảy Chà, không
biết anh Bảy có báo cáo lại cho cán bộ không vì vẫn chưa thấy đổi buồng cho Lưu
Tùng đi nơi khác.
Càng ngày
tôi càng thấy Lưu Tùng xiêu vẹo hơn và tôi biết là đã tới tình trạng báo động.
Mấy anh Tàu kia kèm Lưu Tùng rất kỹ, sợ anh ta mách với cán bộ. Một bữa nọ,
trong giờ mở cửa cho ăn, thấy Lưu Tùng ngồi phơi nắng một mình ở góc sân và
chung quanh không có ai, vì mấy anh Tàu kia người thì lấy nước, người thì giặt
giũ đàng xa, tôi bước tới chỗ Lưu Tùng ngồi và hỏi bằng tiếng Phổ Thông:
-Lưu Tùng, có bị chấn cơm không?
Anh ta nói nhanh:
-Lỳ cớ, chiêu min! (Anh Lễ ơi, cứu mạng tôi!)
Tôi hỏi
nhanh là cướp thế nào, anh cho biết hai ngày ăn được một bữa, còn 3 bữa kia bị
cướp. Tôi nói lại việc này với anh Bảy Chà, anh nói đã báo cáo cho cán bộ rồi
nhưng chưa được giải quyết. Thật ra thì cán bộ chẳng quan tâm gì tới việc những
người tù với nhau.
Tôi
về buồng nói với Bình Thanh và mấy anh em khác là nếu cán bộ không can thiệp
thì mình phải ra tay cứu Lưu Tùng, nếu chờ cán bộ, chắc anh ta sẽ chết trước
khi được giải quyết. Trong gần ba năm qua, tôi đã biết rõ về sự dã man, độc ác
của ba anh tù Trung Quốc kia. Hơn nữa, hôm nay, chính tai tôi còn được nghe rõ
là hai ngày Lưu Tùng mới được một bữa ăn, trong khi người khác ăn mỗi ngày hai
bữa còn thấy đói.
Chúng tôi
nói trước với anh trật tự Bảy là chiều hôm đó, để tránh rắc rối cho anh,
chỉ cần anh mở cửa các buồng xong, anh lánh mặt đi nơi khác chừng 15 phút. Trước
đó, vào buổi trưa, tôi thấy Bình Thanh và 3 anh nữa, Bình Bưởi, Tiến Ngựa, Thịnh
Capitaine ăn mặc chỉnh tề. Riêng Bình Thanh mang giày vải vào và chuẩn bị những
chiếc vớ cẩn thận để làm “chưởng”. Trước giờ cho ăn chiều hôm đó, khi anh Bảy vừa
mở cửa buồng, 5 phía sau, thì nhóm 4 anh nầy chạy bay về phía sau như toán lính
đột kích, xông vô buồng 5. Một anh chận cửa, ba anh nhào vô đánh Phi Tàu, Lý Đức
Nghĩa và Chu Vạn Hồi tơi bời hoa lá. Bình Thanh dùng “chưởng” quật cho Phi và
Nghĩa nhừ cả người, máu me văng đầy tường. Chừng 15 phút sau, trật tự Bảy “biết
được” chạy tới thì Phi Tàu và Nghĩa nằm như thây ma bất động! Chu Vạn Hồi bị
đánh ít hơn còn gượng đứng dậy đi được. Ngay chiều hôm đó, buồng 5 được giải
tán mỗi người một nơi, nhờ đó, Lưu Tùng kéo dài sự sống được vài năm nữa.
Bình
Thanh và tôi ở chung buồng khá lâu cho tới đầu năm 1982. Lúc gần Tết, chúng tôi
chuyển qua buồng 1 ở góc nhà. Buồng này chỉ có một cánh cửa thay vì hai cánh
như các buồng khác. Trong buồng, ngoài tôi và Bình Thanh ra còn có Thịnh
Capitaine và Minh Lùn.
Khi qua
buồng 1, chúng tôi đã nghiên cứu hết mọi chi tiết và sẽ tổ chức vượt ngục trong
dịp trước Tết. Nếu ra ngoài thành công, tôi sẽ ở miền Bắc với Bình Thanh một thời
gian rồi xuôi Nam trước khi tìm đường ra nước ngoài. Nếu lần vượt ngục trước thất
bại vì toàn là người miền Nam, lần này với Bình Thanh, người đã vượt ngục thành
công 5 lần tại các trại miền Bắc, tôi cảm thấy rất yên tâm. Vả lại, Bình Thanh
rất khỏe và rành rẽ đường đi nước bước ở miền Bắc.
Trong buồng,
chúng tôi đã chuẩn bị hết mọi thứ cần thiết, nhất là giấy đi đường có đóng dấu
ký tên hẳn hoi, chứng nhận là người của hợp tác xã đi lấy lá dong để gói bánh
chưng cho hợp tác xã. Tôi phải khâm phục tài khéo của Bình Thanh trong việc tạo
giấy tờ và con dấu giả. Trong buồng thì Bình Thanh đã làm một cái móng cùm giả,
còn giống hơn móng cùm thật. Bình Thanh luôn miệng nói với tôi:
- Ở những trại giam khác, kiên cố bằng mấy ở đây, em còn ra đi dễ dàng. Trại
này chỉ là đồ chơi!
Bình Thanh còn nói với tôi:
-Ra khỏi đây rỗi đi với em, anh không phải bận tâm một điều gì cả.
Tôi đang
vui mừng về viễn ảnh sẽ vượt ngục ra ngoài và sống phiêu bạt ở miền Bắc với
Bình Thanh một thời gian, thì một buổi sáng kia, đúng 10 hôm trước khi chúng
tôi hành động, tôi được gọi ra khỏi nhà kỷ luật trước sự bàng hoàng của hai anh
em tôi.
Phút chia
tay
Tôi được
tha ra khỏi nhà kỷ luật sau gần ba năm cùm chân, từ tháng 5 năm 1979 tới tháng
2 năm 1982. Tôi từ giã Bình Thanh ra đi mà trong lòng buồn vời vợi. Cán bộ đưa
tôi qua buồng 4 khu Kiên Giam “Nhà Bằng” sống với một số Linh mục. Tôi còn nhớ ở
buồng 4 đó, có cha Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu, Khổng Năng Bao. Khi tôi rời buồng
kỷ luật ra đi, Bình Thanh nhớ tôi nên lúc nào mở cửa cho ăn là Bình Thanh cũng
nhảy tót và leo qua hàng rào vào buồng kiên giam thăm tôi. Trật tự Bảy chỉ đứng
nhìn mà không cản vì anh biết là có cản cũng không được, nên Bảy đành phải đứng
canh cán bộ cho Bình Thanh nhảy rào qua với tôi.
Các Linh
mục khác trong buồng 4 khu kiên giam lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về tình cảm đặc
biệt giữa tôi và Bình Thanh. Khi qua đây, tôi mới biết là trong dịp trước Tết
năm đó, cha Nguyễn Huy Chương, một Linh mục lớn tuổi nhất mà chúng tôi gọi là Bố
Chương, có cô cháu từ Sài Gòn ra thăm cho khá nhiều quà. Vì rất thương tôi, Bố
Chương biếu cho cán bộ một ít quà và nói:“Báo cáo cán bộ! Tôi nghiệp anh Lễ bị
cùm chân 3 năm rồi. Nhân dịp Tết xin cán bộ tha cùm cho anh Lễ được qua sống với
anh em chúng tôi!”.
Cũng
vì lời xin đó mà cán bộ tha cho tôi. Bố Chương cứ nghĩ là đã làm một việc rất tốt
giúp tôi. Thực sự, đó là việc vô cùng tốt đẹp nếu lúc đó chúng tôi không có kế
hoạch vượt ngục từ khu kỷ luật, và ngày thực hiện kế hoạch đã gần kề. Tôi tiếc
vô cùng, nhưng cho đây cũng là ý Chúa.
Gạt lệ ra
đi
Mười ngày
sau, trong giờ cho ăn chiều, Bình Thanh leo rào qua ôm hôn tôi tha thiết và
nói:“Đêm nay em đi, anh cầu nguyện cho em. Em đến chào tạm biệt, và có thể là
vĩnh biệt anh!” Nói xong, anh em tôi ôm nhau khóc như mưa. Các người khác trong
buồng ngồi nhìn ngạc nhiên không biết nguyên nhân tại sao. Nhưng làm sao tôi
nói được lý do.
Trước đó,
tôi đã cẩn thận dặn Bình Thanh, chuyến này về đừng bao giờ tìm cách liên lạc với
Hường, kẻo lại bị sa lưới như những lần trước. Hãy vào Nam gặp chị Hai của tôi
trước và các việc liên hệ với Hường về sau này chị Hai sẽ cho ý kiến và thu xếp
giúp cho. Tôi cũng giao cho Bình Thanh giữ một tấm hình gia đình của chị dâu và
các cháu mà chị Hai mang ra trong lần thăm nuôi vừa qua. Đây là bằng chứng để nếu
Bình Thanh có tới thăm, chị sẽ biết Bình Thanh là ai, vì mặc dù tôi đã nói với
chị về Bình Thanh nhưng chị chưa biết mặt người em này bao giờ.
Tôi cũng
cẩn thận dặn mật mã để Bình Thanh viết thư vào trại cho tôi, nhưng chỉ viết khi
vào miền Nam, vì viết từ miền Bắc rất dễ bị nghi ngờ. Tôi dặn là trong vòng ba
tháng mà chưa vào Nam được thì phải viết thư vào cho tôi biết. Nếu sau ba tháng
mà không có tin gì từ miền Nam hoặc miền Bắc thì coi như Bình Thanh đã chết.
Tôi cũng đã đặn dò tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để giúp Bình Thanh về cuộc
sống trong Sài Gòn mà Bình Thanh chưa bao giờ vào. Cuộc chia tay này cảm động
nói không nên lời.
Đêm đó, tôi
nằm trong buồng 4 khu kiên giam, không chợp mắt một chút nào. Có lúc tôi ngồi đọc
kinh lần chuỗi, kêu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho Bình Thanh. Tới nửa đêm vẫn
chưa nghe tiếng súng báo động, tôi rất mừng vì biết giờ nào Bình Thanh sẽ ra
đi. Thời gian trôi qua đã lâu nhưng vẫn chưa nghe tiếng súng. Tới gần sáng, vẫn
chưa nghe. Tới giờ điểm danh cũng chưa nghe tiếng súng. Tôi thầm thì tạ ơn Chúa
và biết là Bình Thanh đã thoát. Tới giờ điểm danh sáng, tôi ngồi trong buồng
nhìn ra, thấy trật tự Bảy hớt hải chạy và báo cáo cán bộ có tù vượt ngục. Có tiếng
cán bộ chạy lên rần rật, sau đó là 3 tiếng súng báo động. Bấy giờ trời đã sáng
tỏ. Tôi nói ra thành tiếng “Tạ ơn Chúa!”
Chiều
tối hôm đó, tôi thất kinh khi nghe tiếng ồn ào bên khu kỷ luật, tiếng đánh đập,
tiếng la hét. Sau đó, anh Bảy cho biết là Minh Lùn, trong nhóm vượt ngục với
Bình Thanh, bị bắt lại, đưa về trại và bị đánh đập tàn nhẩn và chết trong khu kỷ
luật. Còn Bình Thanh và Thịnh chưa nghe tin tức, chắc là thoát rồi!
Quãng hơn
tháng sau, tôi được thư chị Hai tôi. Sau khi kể chuyện nhà cửa, chị viết: “Chị
quên nói với em là tuần trước cháu Hường trên đường đi công tác ghé qua nhà
thăm chị. Thấy ba người lạ mang súng vô nhà chị sợ! Chừng nhận ra Hường chị mừng
lắm! Bây giờ nó là trung úy rồi. Nó bảo lâu quá mới trở lại nên không còn nhớ
đường. Phải hỏi người ta chỉ vào nhà mình. Ba người ở lại ăn cơm rồi đi. Hường
nói tuần sau nó sẽ lên Thành Phố tìm thăm Thu. Nghe nói bây giờ Thu đã dời
nhà về Hố Nai.” Đọc thư chị, tôi mừng suýt nữa la lên. Tôi mừng vô hạn, như vậy
là Bình Thanh đã thoát vô Nam, đã gặp chị tôi và sẽ lên Hố Nai tìm người quen
mà chỉ có chúng tôi mới biết.
Chừng vài
tháng sau, tôi nhận một thư của người cháu đi bộ đội tên Bùi Thanh Hường ở Sài
Gòn gửi ra thăm. Hường có nhắc lại lần xuống thăm chị tôi ở Vĩnh Long. Hường kể
lúc đầu chị Hai không nhận ra, chị tôi sợ mất hồn! Nhất là khi thấy súng ống, đạn
dược. Hường cho biết sau đó lên tìm người bạn ở Hố Nai và có cho ít quà lưu niệm.
Hường nói tiếp trong thư là:“Có lẽ cháu sẽ qua Campuchia một thời gian, và sẽ
viết cho chú khi thuận tiện”. Tôi đọc thư mừng lắm, nhưng chữ viết không phải của
Hường, vì tôi còn lạ gì nét chữ đẹp như rồng bay phương múa của Bình Thanh.
Đó
là thư đầu tiên và cũng là thư cuối cùng, vì từ đó, tôi không còn nghe thêm gì
về Bình Thanh nữa. Điều này làm tôi rất hoang mang. Nếu không liên lạc với tôi,
ít ra Bình Thanh cũng sẽ liên lạc với chị tôi, nhưng tuyệt nhiên không hề có
tin tức gì. Sáu năm sau, tức là năm 1988, khi rời trại Thanh Cẩm về lại
trại Nam Hà, tôi vẫn không nghe thêm một chút gì về Bình Thanh, một tướng cướp
ngang trời dọc biển trở thành người em kết nghĩa của tôi, và tôi vô cùng thương
mến.
Trại
tù Thanh Cẩm nằm sâu trong vùng rừng núi âm u của tỉnh Thanh Hóa, mà tôi đã sống
ở đó 10 năm, đã dệt thành phần lớn kỷ niệm đời tù của tôi, trong đó, tướng cướp
Bình Thanh là một dây tơ thật đẹp.[1]
TÔI PHẢI SỐNG (44)
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Ngày Trở
Về (1)
Tính tới
tháng Giêng năm 1988, tôi đã bước vào năm tù thứ 12, trong đó có 11 năm lê lết
qua các trại tù khắc nghiệt miền Bắc.
Cho tới
thời gian này, số tù nhân miền Nam ở rải rác trong các trại miền Bắc không còn
bao nhiêu. Ngoại trừ những người đã bỏ mình vì khổ ải, một số đông đã được tha
về và một số khác đã chuyển vào các trại trong miền Nam. Có những người được về
khá sớm ngay từ năm 1980. Từ đó, mỗi năm đều có những đợt phóng thích, khi nhiều
khi ít, năm nào cũng có. Ngoài những trường hợp được tha lẻ tẻ và bất ngờ, mỗi
năm thường có những mốc thời gian để các tù nhân chúng tôi mong đợi và bàn tán.
Những dịp để hy vọng đó là Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, lễ Lao Động 1 tháng 5
và ngày Quốc Khánh 2 tháng 9. Trong năm còn có đợt tha nhân dịp sơ kết và tổng
kết, nhưng không nhiều lắm.
Hát lâu
chầu mỏi
Thời
điểm đó tôi đang ở trại Thanh Cẩm. Trại này cũng đã có một số rất đông được về
và một số chuyển vào trại Hàm Tân trong Nam. Con số tù miền Nam còn lại trong
trại Thanh Cẩm không tới 200 người, trong đó có 29 Linh mục. Nếu so sánh với
lúc đông nhất vào năm 1979 thì lúc này còn lại không tới một phần ba. Các Linh
mục ở khu kiên giam mới xây, cũng nhà nóc bằng rất kiên cố, nằm hướng ra cổng
trại. Khu nhà này chia ra 6 buồng liền nhau, có tường cao ngăn cách và có cổng
vào riêng biệt. Trước mỗi buồng có khoảng sân nhỏ tráng xi-măng sạch sẽ và có bể
nước dùng chung cho 2 buồng giáp nhau.
Bên
trong cửa sắt của mỗi buồng là lối đi rộng 1 thước từ cửa cái dẫn vào tới vách
bên trong, chia ra một bên là nhà cầu có cửa vào và một bên là bệ nằm bằng
xi-măng cao khoảng 60 phân, đủ chỗ cho 6 người nằm sát cạnh nhau. Mỗi buồng có
một cửa sổ khá rộng chắn song sắt to, nhưng không to bằng song sắt nhà kỷ luật.
Cửa sổ này đủ rộng để cho buồng thoáng khí và cũng dễ dàng cho cán bộ nhìn vào
kiểm soát. Trên nguyên tắc, khu vực này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhưng
trên thực tế không quá khắt khe như vậy.
Về
phần mấy người tù Trung Quốc đang ở trong khu Nhà Bằng, tức là khu Kiên Giam
cũ. Những người tù ngoại quốc này đã bị giam hơn 15 năm rồi. Lúc đầu, nhóm của
họ khá đông, nhưng dần dần một số chết bệnh, một số chết đói, có mấy anh vượt
ngục bị bắn chết và bây giờ chỉ còn lại 10 người
Khi
tôi rời khu kỷ luật qua sống bên kiên giam, và Bình Thanh vượt ngục di rồi, trại
Thanh Cẩm còn xảy ra hai vụ án mạng khác nữa, nhưng toàn là bên hình sự.
Vụ thứ nhất xảy ra ở khu kỷ luật khi Yên Con dùng tảng đá to đập đầu Chiến Chàm
chết ngay tại chỗ trong giờ phát thức ăn trưa, lúc Chiến Chàm đang ngồi săn sóc
đám rau muống anh trồng trước sân khu kỷ luật. Sau đó, Yên Con bị kêu án tử
hình, nhưng một thời gian sau giảm xuống còn chung thân.
Vụ
khác xảy ra dưới làng sau đó ít lâu, khi Minh Con đâm Toản Quảng một nhát thấu
tim, chết không kịp trối. Anh Toản chết oan chỉ vì gia đình mới tiếp tế cho ít
lạc nên để trong hòm khóa lại. Đêm đó, Minh Con mò tới lấy trộm, cầm con
dao nhọn đang nạy hòm. Toản Quảng nghe động thức dậy, ôm chầm lấy Minh Con từ
phía sau. Minh Con bị tóm bất ngờ nên đâm ngược ra sau để giải vây, không ngờ
thọc mũi dao nhọn đúng ngay vào tim Toản làm anh ta chết ngay tức khắc! Sau đó,
Minh Con bị xử trong một phiên tòa thiết lập ngay trong trại, kêu án 18 năm. Cả
ba anh Chiến Chàm, Yên Con và Minh Con đều có ở chung buồng với tôi một thời
gian trên khu kỷ luật, trong đó Minh Con sống chung buồng với tôi lâu nhất.
Minh Con người nhỏ bé, lúc đó khoảng 18 tuổi, nhưng đã là lưu manh chuyên nghiệp
từ năm 12, ăn cắp lẹ như sóc và đi Trường Bộ, tức nhà tù Thiếu niên phạm pháp,
từ năm 13 tuổi.
Luật lệ
trong tù tới lúc này cũng khá co giãn, không còn khắt khe như những năm đầu.
Người đời thường nói“hát lâu thì chầu mỏi”. Hoàn cảnh trong tù cũng vậy, lúc
đó, chúng tôi nhận thấy rõ tâm trạng mỏi mệt bao trùm trại Thanh Cẩm. Không phải
chỉ những người tù cảm thấy mỏi mệt mà ngay cả những cán bộ làm việc trong tù
cũng vậy.
Bầu
khí căng thẳng, sắt máu, giáo điều và đầy hận thù của những năm đầu khi chúng tôi
mới được chuyển ra Bắc không còn nữa và cơn sốt thời cuộc sau khi cộng sản chiếm
miền Nam đã giảm cường độ một cách rõ rệt. Một điều ai cũng thấy là bầu khí
trong trại tù lúc này dễ thở hơn rất nhiều so với cái thời hắc ám của 10 năm về
trước.
Cỏ dại được
mùa
Nhớ lại
thời gian mới tới trại này 10 năm về trước, tôi vẫn còn cảm thấy lạnh người và
khó hiểu. Tại sao vào thời kỳ đó, lòng dạ con người trở nên kinh khủng như vậy?
Hay là lòng hận thù giữa người với người giống như một thứ dịch dễ lây và nhiều
người bị nhiễm? Tại sao vào những năm đó, trại Thanh Cẩm lại hội tụ nhiều
con người hắc ám như thế? Những người có nhiệm vụ áp đảo và trừng trị tù như
cán bộ trực trại, cán bộ an ninh, cán bộ võ trang, hoặc những người thay mặt
cán bộ để áp đảo tù nhân như các anh trật tự thì không nói làm gì. Đàng này những
anh tù được chỉ định làm các việc chuyên môn cũng hắc ám không kém, như anh văn
hóa, và cả anh y tá nữa!
Thời Bùi
Đình Thi và Trương Văn Phát làm trật tự, trong trại có một anh tù làm y
tá tên Hiền. Vai trò y tá phải hiểu là để xoa dịu sự đau khổ thể xác cho tù
nhân, nhưng anh y tá tên Hiền này lại chẳng “hiền” chút nào. Anh thật là ‘‘dữ
’’ và ác đức nên được anh em tặng cho danh hiệu “lương y như đao phủ’’ thay vì
‘‘lương y như từ mẫu’’ như người đời thường hay nói! Riêng anh tù làm văn
hóa tên là Thuật thì phải nói là quá quắt.
Chức
vụ gọi là văn hóa tức là lo việc phát báo chí, thư từ, quà cáp, giúp cán bộ
trong các buổi học tập, nhưng anh văn hóa Thuật này là một biệt lệ. Lúc bấy giờ,
Thuật còn rất trẻ, có lẽ chừng 26 tuổi (năm 1979) là cùng. Nghe nói anh là một
sinh viên bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Người Thuật thấp bé con con,
mặt thỏn, mũi nhọn, đi chân chữ bát, nói năng sắc bén. Thời kỳ đó tôi đang bị
cùm chân trong nhà kỷ luật sau vụ vượt ngục bất thành. Tôi ở trong buồng kỷ luật
cùng với 4 người khác. Ban ngày chúng tôi được tháo cùm.
Một buổi
sáng nọ, trước giờ cho ăn, tôi đứng bên trong cửa sổ với một anh bạn khác. Hai
người chúng tôi trao đổi câu chuyện có mùi “phản động”. Trước lúc nói chuyện,
tôi đã cẩn thận nhìn ra ngoài cửa sổ, thường thì cán bộ và trật tự chỉ lên
trong giờ cho ăn, và lúc này chưa tới giờ ăn. Khi đang mải mê câu chuyện, tự
nhiên tôi có linh tính như có người bên ngoài đang nghe lóm, nên dí mặt vào
song sắt nhìn ra ngoài lần nữa cho yên tâm. Vì tường nhà kỷ luật rất dầy và cửa
sổ lại hẹp, chừng 50 phân vuông nên tầm nhìn ra ngoài rất hạn hẹp.
Khi tôi
dí sát mặt vào song sắt nhìn ra thì vừa thấy Thuật đang đứng yên, dựa lưng vào
tường. Anh ta đứng nép sát lưng vào vách tường, sát bên cửa sổ. Anh ta đã đứng
đó tự bao giờ và nghe tất cả những gì chúng tôi nói. Bị bắt quả tang, tôi ngượng
ngùng làm sao! Khi vừa trông thấy tôi, Thuật tiến lại đứng ngay bên ngoài, chỉ
cách tôi bằng một song sắt. Trong lúc tôi đang bối rối và ngượng ngùng, chưa biết
phải làm gì thì Thuật lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và sắc bén:
- Hai anh nãy giờ nói cái gì?
Chúng tôi yên lặng, chưa biết trả lời sao thì Thuật lên tiếng nói tiếp:
-Anh Lễ, nãy giờ anh nói cái gì? Tiếp tục nói đi. Tôi nghe anh nói nhiều lắm,
mà sao bây giờ anh câm? Nói đi! Nói nữa đi!
Tôi thấy tình thế này quái đản và trơ trẽn quá, nên rời chỗ đứng, định bước vào
phía trong, nhưng Thuật lên giọng gọi lại:
- Anh Lễ, đứng đây, anh không được đi! Anh bước lại đây, tôi muốn nghe anh nói!
Lúc đó, vừa xấu hổ, vừa bực mình, vừa điên tiết trước thái độ quá
quắt của anh tù trẻ con này, nên tôi bước lại cái thớt nằm bằng xi măng
và ngồi xuống, không thèm quay lại cửa sổ. Thái độ này của tôi làm Thuật nổi giận
nên nói to vọng vào:
-Anh Lễ, lại đây! Hay anh muốn tôi xuống gọi cán bộ lên?
Tôi chợt
suy nghĩ rất nhanh, nếu không trở lại cửa, anh ta sẽ bực tức xuống gọi cán bộ
hoặc trật tự lên, chắc chắn tôi lại bị một trận đòn nữa, trong khi lần hành hạ
vừa rồi làm tôi chưa đi đứng vững. Nghĩ như vậy, tôi bước trở lại cửa và đối diện
với Thuật. Anh ta từ bên ngoài chỉ ngón tay gần đụng vào trán tôi, nghiêm mặt
nói:
- Các anh hãy liệu thần hồn! Vào đây rồi hãy bỏ tư tưởng phản động đi nhá. Anh
ăn đòn như thế vẫn chưa đủ hả anh Lễ?
Tôi ngượng
ngùng đứng lặng yên như trời trồng. Sau câu đó, Thuật dừng lại một chút, đoạn
tiếp tục:
- Lần này tôi tha cho, nhưng hãy liệu thần hồn, tôi bắt được mấy anh nói chuyện
phản động một lần nữa thì đừng có trách.
Nói xong,
anh ta bỏ di. Chúng tôi quay lại chỗ nằm, nhìn nhau thinh lặng. Riêng tôi cảm
thấy như máu đang sôi sùng sục lên trong quyết quản làm mặt tôi nóng bừng.
Nhưng trong hoàn cảnh đó đành phải cắn răng chịu đựng.
Tình thế
đổi thay
Những năm
về sau này cuộc sống chúng tôi trong trại Thanh Cẩm dễ thở hơn. Sau những đợt
tù chính trị miền Nam được tha về hoặc được chuyển vào Nam, có một số tù hình sự
được bổ sung vào và con số tù nhân trong trại lúc nào cũng ở con số chừng 400
người. Khi trật tự Bảy Chà được tha về, thì một anh tù hình sự tên là Tơ lên
thay thế làm trật tự. Anh trật tự hình sự này cao to và rất khỏe. Đám tù hình sự
rất kiêng nể anh. Mặc dù vậy anh đối xử với số tù chính trị còn lại và nhất là
đối với các tù nhân Linh mục rất tử tế và kính nể. Ngược lại chúng tôi cũng
giúp anh về nhiều mặt vì lúc đó chúng tôi nhận được quà tiếp tế từ miền Nam
tương đối dễ dàng.
Chúng tôi
gọi anh trật tự Tơ bằng cái tên thân mật là“Jimmy” theo cách thức trong báo viết
tên của vị tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Jimmy “Ca-Tơ “. Điều đáng nói
là suốt thời gian 4 năm từ 1977 tới 1981, ông Jimmy” Ca-Tơ “ làm tổng thống Mỹ,
tôi chỉ biết tên ông trên mặt báo nhưng chưa bao giờ được trông thấy hình của
ông nên cũng chẳng hình dung được con người ông ra sao!
Tính từ
năm 1979, hai năm sau ngày tôi ra Bắc, đến nay đã gần 10 năm qua, tình thế lúc
nầy đã khác đi rất nhiều. Tù nhân chúng tôi được liên lạc với gia đình, được có
người nhà trong Nam ra thăm nuôi và được nhận quà gửi ra theo đường bưu diện.
Cuộc sống trong tù khá hơn và những người có gia đình khá giả hay có bà con nước
ngoài tiếp tế thì dư thừa, sống xa hoa trong trại. Trong khi đó, các cán bộ vẫn
thiếu thốn, nghèo xơ nghèo xác. Dần dần, họ hiểu ra những công thức chính trị rỗng
tuếch không làm cho bao tử người ta đầy, không mang lại cơm hai bữa, không mang
lại áo quần, thuốc men cho cuộc sống hàng ngày.
Nếu cả nước
lúc đó đang lâm vào tình trạng đói khổ, thì các các bộ làm việc trong các nhà
tù là những người thiệt thòi nhất. Trong tình thế đó, đồng tiền lại ngoi lên
chiếm vị trí cố hữu ngàn đời của nó, như lối định nghĩa đồng tiền của mấy anh
tù hình sự bằng mấy câu có vần như sau:“Đồng tiền là tiên là phật,là sức
bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là đà danh vọng, là lọng che thân,
là cân công lý. Đồng tiền hết ý!”
Và đồng
tiền “hết ý” thật! Chính đồng tiền đã trở thành cây cầu bắc ngang lằn ranh giữa
cán bộ và tù nhân để tạo nên mối tương quan hai chiều. Trong mối tương quan
này, cả hai cùng có lợi. Vào những năm cuối cùng ở trại Thanh Cẩm, các anh em
Linh mục chúng tôi sống chung nhau trong một khu vực ngăn cách với số tù nhân
khác. Lúc bấy giờ có một số giáo dân xứ Bắc Hải ở khu vực Ngã Ba Ông Tạ trong
Nam vì thương hoàn cảnh các Linh mục bị tù quá lâu nên đã tự động quyên góp và
tổ chức gởi quà cho chúng tôi theo đường bưu điện. Nhờ đó cuộc sống của nhóm
Linh mục không còn phải thiếu thốn như các năm đầu.
Chúng tôi
không hề biết mặt những ân nhân hiếm có này, chỉ biết họ qua các tên đề ngoài
những gói quà và các thư ngắn kèm theo. Dần dần chúng tôi trở nên thân thiết với
các bà các cô trong nhóm ân nhân đó. Trong hoàn cảnh ấy chỉ có các phụ nữ mới
có thể làm các việc như thế mà không sợ bị dòm ngó, theo dõi. Tôi vẫn nhớ và biết
ơn những chị em trong nhóm này như các chị Đinh Thị Thập, Nguyễn Thị Đương, Cát
Thị Kim Chi, hai chị em Trần Thị Nhị và Trần Thị Kim Loan, Ông Bà Kim Tâm và một
số người khác nữa mà tôi không nhớ tên.
Ngoài ra
lúc đó anh em Linh mục trong tù cũng nhận được quà tiếp tế của Thầy Chiểu, Cha
Vũ Khoa Cử, Cha Phạm Hữu Nam tù Sài Gòn và của cha Mai, thay mặt đức Hồng Y Trịnh
Văn Căn ở Hà Nội gởi giúp chúng tôi. Cha Phạm Hữu Nam ở tù chung với chúng tôi
nhưng được về sớm. Khi về Sài Gòn, cha Nam đã cùng với người cháu là cô Nguyễn
Thị Hải rất tận tình lo gởi quà giúp cho số Linh mục còn lại trong tù.
Các Linh
mục, tuy là ở khu kiên giam nhưng nhờ sự giao tế quà cáp với cán bộ, nên thỉnh
thoảng chúng tôi cũng tiếp xúc được với anh em trong các buồng khác. Nhờ đó,
chúng tôi có thể giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho một số người cần giúp, nhất
là những người sống trong trại lâu năm mà không có thân nhân, đặc biệt là nhóm
tù hình sự. Vì sự giúp đỡ rộng rãi đó mà anh em trong trại lúc bấy giờ, mỗi khi
nhận được quà, thường gọi đùa là “Vatican viện trợ!”
Lúc đó
chúng tôi cũng được phát báo để đọc hàng ngày, tiếng trong tù gọi đọc báo la “học
tập báo chí” . Chỉ có hai tờ báo là tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Tôi để ý
thấy lúc bấy giờ người ta dùng hai chữ nhân dân khá nhiều. Cái gì cũng nhân
dân, tòa án Nhân Dân, Công an Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân
Dân. Có điều tôi không hiểu và vẫn còn thắc mắc hoài là tại làm sao người ta lại
không gọi Ngân Hàng Nhân Dân mà lại gọi là Ngân Hàng Nhà Nước!
Tin
tức báo chí thật ra chẳng có gì đáng chú ý. Vì là cơ quan tuyên truyền của đảng
nên các bài báo phần nhiều nặng nề chính trị đầy những lý luận khô khan và nặng
nề. Báo Quân Đội Nhân Dân thì thỉnh thoảng còn có các bài viết về khoa học, lịch
sử, y học...Còn báo Nhân Dân thì toàn chính trị là chính trị. Cầm tờ
báo lên chẳng biết đọc cái gì!
Nơi
trang nhất của báo Nhân Dân bao giờ cũng đăng tin tức về thành quả nông nghiệp.
Thành tích thu hoạch các vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân của hợp tác xã này hoặc hợp
tác xã nọ là bao nhiêu tấn thóc. Bao giờ các vụ thu hoạch này cũng vượt chỉ
tiêu. Có những hợp tác xã vượt chỉ tiêu thấy mà phát sợ. Đọc tin tức nông nghiệp
trên báo Nhân Dân nhiều lúc tôi đâm ra lo. Nếu tình trạng bội thu này kéo dài
mà nhà nước ta không lo xuất khẩu gạo cho nhanh thì đất nước ta lấy kho lẫm
đâu mà chứa cho hết số thóc vượt chỉ tiêu! Có lần chia sẻ sự lo lắng này với một
anh bạn tù, anh mỉm cười nói nhỏ vào tai tôi:“Anh đừng có lo, trong tờ báo Nhân
Dân này chỉ có cái ...địa chỉ tòa soạn là in đúng thôi!”
Điểm đặc
biệt của báo Nhân Dân là rất ít đăng hình ảnh. Chỉ trừ một bức hình nho nhỏ nơi
trang nhất, hoặc cùng lắm là có thêm một hình nhỏ hơn ở cuối trang, còn lại kín
cả tờ báo toàn chữ là chữ! Bình thường cầm tờ báo lên đã chóng mặt với
cái rừng chữ, nhưng nếu vào các dịp đại hội đảng thì chữ nghĩa càng nhiều và nhỏ
hơn! Tôi nhớ những lần tờ báo đăng nguyên văn bản báo cáo chính trị của Tổng Bí
Thư đảng. Nhìn bản báo cáo chính trị trải dài hết trang này qua trang
khác của tờ báo làm tôi rợn người.
Có
lần tôi cũng quyết tâm đọc thử một lần coi người ta nói cái gì trong bản báo
cáo chính trị đó mà chữ nghĩa tràng giang đại hải như vậy. Sau khi đọc mỏi cả mắt
tôi mới thấy người ta viết thật nhiều nhưng ý chẳng được bao nhiêu. Tôi chợt
nghĩ thương cho các đại biểu ngồi trong hội trường phải nghe cho hết bản báo
cáo chính trị này, thỉnh thoảng còn những chỗ dừng lại để vỗ tay theo người đọc
nữa, chắc cũng mệt không kém gì tôi đang ngồi đập đá dưới nắng mùa hè trong trại
tù Thanh Cẩm trong ngày có gió lào!
Báo Quân
Đội Nhân Dân dễ đọc hơn, vì còn có những bài thuộc phạm vi nghiên cứu hoặc tin
tức thời sự kèm theo, với khá nhiều hình ảnh. Qua đó chúng tôi biết một phần
nào tín tức bên ngoài. Cũng trong báo Quân Đôi Nhân Dân này có lần tôi đọc loạt
bài đăng làm nhiều kỳ về “tên phản động Võ Đại Tôn” từ nước ngoài về cố ý xâm
nhập biên giới để chống phá chánh quyền cách mạng đã bị “quân đội Nhân Dân ta “
bắt giam và xét xử tại Hà Nội” vào năm 1982. Bài báo kèm theo khá nhiều hình ảnh
của “tên phản động Võ Đại Tôn” lúc bị xét xử và đưa ra trình diện với báo chí
trong và ngoài nước tại Hà Nội. Dĩ nhiên lúc đọc tin đó tôi rất quý mến và cảm
phục tinh thần bất khuất của Đại tá Võ Đại Tôn.
Cũng
có thời gian tôi đọc loạt bài rất dài nói về cái chết của ”tên phản động Hoàng
Cơ Minh” kèm theo với nhiều hình ảnh về “tội ác phản cách mạng” của nhóm Mặt Trận
do Hoàng Cơ Minh cầm đầu xâm nhập phá hoại...Dĩ nhiên là tôi phải đọc ...giữa
hai hàng chữ. Khi đọc các tin tức liên quan tới các ông Võ Đại Tôn và
Hoàng Cơ Minh đó, tôi cảm thấy vui và nghĩ rằng ít ra trong thời buổi lúc bấy
giờ còn có được những con người như vậy.
Cũng nhớ
lần tôi đọc thấy trong báo Quân Đội Nhân Dân đăng bức hình của ông Nguyễn Cao Kỳ,
mang kính đen, đang chen chúc giữa đám đông cố ôm càng máy bay trực thăng ở tòa
Đại Sứ Mỹ để di tản khỏi Sài Gòn trong một ngày cuối tháng tư năm 1975. Tôi
không biết đây là hình thật hay người ta dũng kỹ thuật ghép hình để cố ý bêu xấu
ông. Bên dưới tấm hình in những lời lẽ có tính cách sỉ nhục ông Kỳ khá nặng nề.
Tù nhân
trại Thanh Cẩm, năm nào chúng tôi cũng có một đợt học tập chính trị trên hội
trường nằm tận ngoài cơ quan. Những lớp này được tổ chức chung cho cả hình sự lẫn
tù chính trị, có một cán bộ tuyên huấn từ trung ương về nói chuyện và thường
thì năm nào cũng một cán bộ đó. Vì cứ bổn cũ soạn lại nên chúng tôi thuộc gần
như nằm lòng những gì ông sắp nói. Trong các bài học tập chính trị, năm nào ông
ta cũng kể lại câu chuyện ông đi thăm nước Kuwait, là nước có nhiều dầu hỏa, và
thấy trẻ con xứ đó chơi đánh đáo bằng những đồng tiền vàng. Ông nói mỏ dầu nước
ta còn lớn hơn mỏ dầu ở Kuwait, và sẽ có lúc trẻ con Việt Nam sẽ chơi đánh đáo
bằng tiền vàng.
Vì
năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện đó nên mỗi lần được thông báo có đợt học
tập chính trị, chúng tôi bảo nhau:“Chuẩn bị sắp có đợt...đánh đáo!” Và đúng y
như vậy, ông cán bộ này nói một thôi một hồi rồi thì bắt đầu...đánh đáo bằng tiền
vàng. Cho tới một lần kia, trong lúc ông ta đang say sưa...đánh đáo thì giữa hội
trường vang lên một giọng nói thật to, át cả tiếng cán bộ tuyên huấn:
- ĐM!Ăn sắn mà nói phét!
Nghe
câu đó, cả hội trường cười rần, nhưng chỉ có tù hình sự dám cười, còn tù chính
trị chúng tôi cứ phải giả vờ như không nghe! Người cán bộ tuyên huấn
đang...đánh đáo bị mất hứng, dừng lại, trong khi cán bộ quản giáo đội hình sự đứng
lên quát to:
-Anh nào ăn nói bố láo thế hả? Anh nào? Anh nào?
Khi
biết là một anh tù thuộc diện lưu manh đã nói, cán bộ chỉ mắng qua loa rồi bỏ
qua. Nếu là tù chính trị chúng tôi, chắc là hậu quả không lường được.
Cây đa
cũ, bến đò xưa
Ngày 27
tháng Giêng năm 1988, bất thần chúng tôi được lệnh chuyển trại! Như vậy, tính
ra tôi đã ở trại Thanh Cẩm còn thiếu 6 tháng nữa là đúng 10 năm. Trong lần chuyển
trại này, tất cả tù chính trị miền Nam cùng với nhóm tù Trung Quốc đều rời trại
Thanh Cẩm và được đưa về trại Nam Hà, trong tỉnh Hà Nam Ninh. Trại Nam Hà đối với
những người khác là chỗ mới, nhưng riêng với tôi, đây là cuộc tái ngộ, vì tôi
đã sống ở trại này 11 năm về trước, khi được chuyển từ trong Nam ra vào tháng
Tư, 1977.
Tôi quay
trở lại trại Nam Hà với tâm trạng chán chường và buồn nản của con người đang đi
trong một vòng tròn khép kín. Mười một năm qua với bao đổi thay trong số những
anh em bạn bè đã ở đây với tôi trước kia. Có người đã chết, có người đã được về,
một số chuyển vào các trại trong miền Nam và một số nhỏ vẫn đang còn ở đây.
Riêng tôi, bị gọi ra trong đêm Giáng sinh 1977 để đưa lên trại trừng giới “Cổng
Trời”, rồi 8 tháng sau được chuyển về “đáy địa ngục” Thanh Cẩm và bây giờ lại lộn
trở về trại Nam Hà. Lúc từ giã ra đi, tôi là một thanh niên khỏe mạnh 34 tuổi.
Hôm nay trở lại, tôi đã là một người trung niên 45 tuổi, thương tật đầy người
và tóc đã trổ màu muối tiêu. Thật là ngán ngẩm và trớ trêu cho cuộc đời!
Trại Nam
Hà không thay đổi nhiều trong thập niên qua, chỉ có thêm một số dãy nhà cạnh
bên nhà bếp nằm sát bờ tường hướng ra cổng trại. Nhưng điều đập vào mắt tôi mạnh
nhất là sự bừa bãi, lộn xộn và bệ rạc của các buồng giam. Ngày tôi còn ở đây,
phía sau các buồng là đường đi rộng rãi. Bây giờ, nơi đó được che thêm những tấm
vải bạt, vải nhựa chi chít như các sạp cá chợ Cầu Ông Lãnh! Ngày trước, chung
quanh các buồng sạch sẽ, thoáng mát, bây giờ chất cao ngất nào hòm rương, nào
thùng thau, nào xoong chảo, chén bát, bao bì, túi cói... không thiếu một thứ gì
trên cõi đời này. Thật chẳng khác nào khu chợ chó đường Hàm Nghi trong những
năm cộng sản chưa chiếm miền Nam.
Khi tới
nơi, tôi mới biết là cũng có nhiều tốp tù nhân miền Nam từ các trại khác rải
rác ở miền Bắc cũng được đưa hết về đây, biến trại Nam Hà thành một kho chứa
hàng. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, con số tù nhân trong trại trở nên
đông đúc một cách khác thường, nhưng tôi không biết rõ là bao nhiêu.
Về
đây, tôi gặp lại một số người ở chung với tôi trước kia. Tất cả đã thay đổi rất
nhiều qua năm tháng vì sự lao nhọc, vì thiếu thốn và đói khát trong tù. Có những
người đã từng ở chung đội với tôi trước kia, gặp lại nhau vô cùng mừng rỡ. Khi
hỏi thăm mới biết đa số đã chết, phần nhiều là chết đói, và được chôn ở nghĩa địa
nằm sát bờ rào trại mà ngày tôi ra đi, nghĩa địa này chưa có. Hỏi thăm kỹ mới
biết phần lớn những người chết là thành phần trẻ. Trong lúc đói quá và không tự
kềm chế được, họ đã ăn các loại rau rừng dơ bẩn và phần đông chết vì bị kiết lỵ.
Lần
này tôi về đây, trong trại có một số tướng lãnh miền Nam. Những người này tới
trại sau khi tôi đã được chuyển đi. Tôi không biết nhiều các vị tướng này, duy
chỉ có Tướng Trần Bá Di là tôi quen, vì lúc ông làm Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng ở
Vĩnh Long, cũng là lúc tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa. Tướng Di là người
Công giáo và thường hay đi lễ nhà thờ đó, nên chúng tôi biết nhau. Tôi cũng gặp
một số Linh mục Tuyên úy từ các trại khác về đây. Trong số đó có mấy người là bạn
học với tôi trong Đại Chủng viện Sài Gòn, một số khác tôi chỉ nghe tên nhưng chưa
biết nhau bao giờ.
Vòng tròn
khép kín
Sáng hôm
sau, số tù trại Thanh Cẩm chúng tôi được phân phối vào các đội và các buồng.
Tình cờ tôi được trở lại buồng cũ trước kia, buồng 6, nơi tôi bị gọi ra trong
đêm Giáng Sinh 1977. Chẳng phải hạnh phúc gì khi được trở lại buồng cũ, vì buồng
nào cũng chỉ là nhốt tù! Nhưng dầu sao nó cũng để lại những dấu ấn kỷ niệm quen
quen của đời tù.
Vào buồng
cũ, tôi lại cố ý chiếm cái chỗ cũ trước kia của tôi trong góc phía trên. Nhìn
lên bờ tường, tôi vẫn còn thấy cây đinh mà chính tay tôi đã đóng 11 năm về trước
để treo lon nước. Cây đinh vẫn còn đó nhưng đầu đã mòn bóng láng.
Đêm đầu
tiên, chập chờn trong giấc ngủ, tôi nằm nhắm mắt nhưng cứ tưởng như mình đang nằm
ở đây vào đêm 23 tháng 12 năm 1977. Trong phút chốc, quãng thời gian 11 năm của
đời lao tù lướt qua như không hiện hữu.
Tôi tưởng
chừng như có nghe kể một câu chuyện về một người tù nào đó bị gọi ra khỏi buồng
6 này trong đêm Giáng Sinh 11 năm về trước. Người đó vô tình lại trùng tên và
trùng họ với tôi. Số phận người đó ra sao kể từ đêm Giáng Sinh năm đó tôi không
biết được. Còn tôi đang nằm đây, ngủ một giấc ngủ thật dài đúng 11 năm, một giấc
ngủ thật nhiều mộng mị và hôm nay chợt giật mình thức giấc. Khi tỉnh dậy mở mắt
ra nhìn lên tường vẫn còn thấy cái lon Guigoz đựng nước uống treo lủng lẳng
trên cây đinh tôi đóng trên tường. Có khác chăng là bạn bè nằm kế bên bây giờ
là những người mới, già nua và mệt mỏi.
Ngày hôm
sau và những ngày kế tiếp, chúng tôi vẫn chưa đi lao động. Khi tới một trại mới,
tù nhân còn phải lo làm các thủ tục hành chánh, khám xét đồ đạc, lo khám bệnh,
lo việc lưu ký tiền và đồ vật... Cán bộ trong trại toàn là những người lạ, chỉ
có một người tôi đã gặp 11 năm về trước, đó là Thượng úy Thịnh. Khi chúng tôi mới
tới trại Nam Hà năm 1977, anh này mới là Thượng sĩ trực trại. Tôi nhớ rất rõ vì
anh có những nét đặc biệt khó quên. Người anh cao to, nước da đen, chân mày rậm
và xước. Khi bước đi, lưng anh hơi khum và khuỳnh hai cánh tay cho oai vệ hơn.
Thời đó, Thượng sĩ Thịnh là một thứ hung thần và được chúng tôi tặng cho biệt
hiệu là “Quận Hách”. Bây giờ, sau 11 năm, gặp lại “Quận Hách” đã là Thượng úy,
nhưng có lẽ bị thất sủng nên chỉ là quản giáo coi một đội hình sự làm thủy lợi.
Cán bộ trực
trại bây giờ là Trung úy Lực, khoảng ngoài 30 tuổi, nước da ngăm đen. Mặc dù
còn trẻ, nhưng tóc anh đã bạc khá nhiều. Trung úy Lực không mấy khi cười nói,
nhưng anh em ở đây lâu cho biết, anh ta rất tốt và dễ dàng. Sau này, tôi được
biết đa số tù nhân ở đây là người có của, họ đã giúp cán bộ trực trại và các
cán bộ khác rất nhiều và điều này đã tạo nên sự thân thiện, gần gũi giữa cán bộ
và tù nhân. Qua ngày thứ hai, chúng tôi lo làm thủ tục gửi tiền lưu ký.
Vào những
năm sau cùng ở trại Thanh Cẩm, tù nhân được liên lạc với gia đình khá dễ dàng
nên nhiều người được gia đình gửi tiền ra cho. Nhưng với luật lệ trong tù,
chúng tôi không được giữ tiền mặt mà phải gửi lưu ký, giống như mở trương mục
trong ngân hàng. Tiền bạc và sổ sách do cán bộ tài vụ của trại cất giữ. Khi cần
mua bán gì, cán bộ sẽ ghi vào sổ riêng của từng người. Lúc còn ở trại Thanh Cẩm,
chúng tôi cũng nhờ cán bộ giúp mua nhiều thứ hàng, nhưng khi về trại này, chúng
tôi mới ngạc nhiên về tình trạng mua bán công khai và nhộn nhịp như một siêu thị!
Thậm chí trong trại Nam Hà này có vài người chuyên nghề buôn bán để gửi tiền về
gia đình, những người này được tặng danh hiệu là “Chành”. Có vài anh “Chành”
buôn bán phát đạt bằng mấy lần người dân bên ngoài! Điều này càng xác định hơn
nữa cho sức mạnh của đồng tiền.
Gió thoảng
trưa hè
Cán bộ
tài vụ trại Nam Hà lúc bấy giờ là một phụ nữ. Hôm đó, trong khi chúng tôi đang
chộn rộn thu xếp đồ đạc trước cửa buồng thì cô ta bước vô sân, tay cầm quyển sổ
bìa cứng, màu đen khá dầy. Khác với thái độ cách ngăn và hách dịch của nhiều
cán bộ lo phần hành chuyên môn mà tôi từng gặp ở các trại, cô cán bộ tài vụ này
rất duyên dáng, bước vào sân với nụ cười thật tươi trên môi. Khi chúng tôi quay
lại chào, cô cười đáp:
- Gớm! Sao mà các anh lắm đồ đạc thế!
Đó là câu
nói đáp lại lời chào. Sau đó, cô tự giới thiệu là cán bộ tài vụ và nói anh đội
trưởng cho anh em tới để xác nhận tiền lưu ký của trại Thanh Cẩm chuyển đến. Cô
nói khi cô gọi tên ai thì tới xác nhận, nếu đúng thì ký tên vào sổ. Nói xong,
cô ngồi ngay xuống bậc thềm cao khoảng 5 tấc của buồng giam, trong khi chúng
tôi đứng vây quanh chờ đợi.
Trong khi
chờ gọi tên mình, tôi để ý quan sát người nữ cán bộ khoảng 30 tuổi này. Cô đã
gây ấn tượng tốt ngay từ phút đầu. Vóc người cô nhỏ nhắn và gọn gàng, nước da
trắng ngần, khuôn mặt trái xoan và có sự hài hòa cân đối giữa mũi, miệng và đôi
mắt. Cô mặc áo sơ mi trắng, quần đen, chân mang dép nhựa đen có gót khá cao.
Tôi đoán là cô muốn cho mình cao hơn một chút với đôi dép này. Đầu để trần, mái
tóc được kẹp và vắt ngược lên đỉnh đầu một cách đơn giản, nhưng làn tóc mây dài
lại được nhẹ nhàng thả hờ xuống hai bên má. Cô không trang điểm, không chải chuốt,
tất cả đều bình dị và tự nhiên.
Mới
nhìn qua, cô không phải là người phụ nữ đẹp sắc sảo, nhưng cô có cái đẹp bình dị
và rất duyên dáng trong cách gợi chuyện và nói cười với những người đang tiếp
xúc. Người nữ cán bộ này nói năng chậm rãi, nhẹ nhàng và khi cười để lộ hàm
răng trắng có 2 chiếc răng khểnh. Khi nói chuyện, cô có thói quen kéo dài tiếng
sau cùng tạo nên vẻ độc đáo. Cô hay dùng chữ “gớm” một cách khéo léo để diễn tả
thật nhiều ý nghĩa trong nhiều trường hợp. Có một anh, có lẽ vì chữ ký có vẻ
tài tử, sau khi kiểm lại số tiền và ký tên vào sổ, được cô chiếu cố với nụ cười
hồn nhiên khi nhìn anh ký, với câu:
- Ối giời ơi! Chữ ký của anh sao mà ‘‘gớm’’ thế!
Sau khi
hoàn tất công việc, cô ở nán lại trong sân, hỏi thăm chúng tôi một lúc rồi từ
giã ra đi. Có mấy người bàn tán sau khi cô bước ra khỏi sân.
Những
ngày tiếp theo, tôi tìm dịp thăm lại các bạn đã ở với tôi tại trại này
trước kia. Trong số đó, có Mục sư người Thượng là Điểu Huynh. Ngày trước, chúng
tôi chơi rất thân và thường để giờ chia sẻ Kinh Thánh với nhau. Từ 11 năm qua,
anh Điểu Huynh vẫn ở trại này, nên qua anh, tôi có thể biết tất cả những diễn
biến trong trại. Những biến cố gì quan trọng đã xảy ra, những nhóm nào tới, những
ai đã được về, ai đã chết và chết bằng cách nào, những ai được chuyển về Nam
v.v...Về lại chốn xưa, nhìn khung cảnh trại và cảnh vật chung quanh, tự nhiên
tôi nhớ rất nhiều những người bạn ở cùng phòng, mà bây giờ đã nằm yên dưới lòng
đất. Tôi nhớ từng người, từng tên, từng khuôn mặt, cả tính tình và cách ăn nói,
cũng như lối pha trò đùa vui của họ.
Giờ thứ
hai mươi lăm
Chúng tôi
về đây không bao lâu thì có đợt tha thật đông và thật linh đình trong dịp Tết Mậu
Thìn 1988 . Thì ra, sở dĩ tù nhân chính trị miền Nam các trại khác được tập
trung về đây là để Nhà nước biểu diễn trong đợt tha ngoạn mục này. Đây là đợt
phóng thích được tổ chức một cách rầm rộ nhất từ trước tới nay. Trong lễ phóng
thích, có rất đông cán bộ trung ương cùng với phái đoàn báo chí và các hãng
thông tấn trong và ngoài nước. Số tù chính trị miền Nam được tha trong đợt này
lên gần tới con số ngàn người.
Cũng
trong lần tha đó, tất cả tù nhân Linh mục đều được về chỉ còn sót lại hai người
là cha Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột và tôi. Cũng vì có các
phóng viên nhà báo nên trong ngày lễ phóng thích đó, những người nào không được
tha đã bị đưa đi giấu ngoài đồng. Một số khác, có tôi ở trong đó, bị nhốt trong
các buồng nằm tận bìa rào của trại, cửa bị khóa, cửa sổ bịt kín và cổng vào buồng
cũng khóa. Điều tệ hại hơn nữa là những người bị giấu này lại “quên” cho ăn, tới
khi lễ phóng thích xong và phái đoàn báo chí rời trại rồi mới được ăn bữa sáng,
lúc bấy giờ đã gần 4 giờ chiều! Hôm đó, những ai được tha về thì hí hửng như
lên mây, còn người ở lại đói mờ con mắt!
Sáng hôm
sau, trại tù Nam Hà trở nên tưng bừng náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng ngàn con
người đi lại rộn ràng giữa các buồng và trong sân. Chỗ nào cũng vang dậy tiếng
cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ơi ới. Tôi buồn bã ngồi một chỗ, tựa lưng vào
tường, khoanh tay trước ngực và theo dõi cảnh người ta bắt tay từ giã, nhắn gửi,
dặn dò nhau, trông chẳng khác nào một đàn ong vỡ tổ.
Những
thứ đồ đạc, hòm rương, bao bì, túi cói, nồi niêu, xoong chảo mà hàng chục năm
nay cố xếp gọn vào một nơi nào đó, bây giờ được vỡ tung ra nằm la liệt khắp
nơi. Đồ ăn, thức uống, gạo thóc, củi đuốc được lôi ra. Thứ gì có thể mang theo
được thì mang, cái gì trối cho người ở lại thì cho, còn cái gì không cần thì vất
đi. Hàng mấy trăm con người được tha về, bày biện đồ đạc đầy ngập cả phòng, ra
tới ngoài sân. Trông họ như những người đang sống trên mây. Họ cứ phải di chuyển
liên tục.
Hình
như sự vui mừng quá độ lúc đó bắt buộc miệng họ phải nói, chân họ phải bước đi.
Họ lăng xăng bắt tay người này, vỗ vai người nọ, mừng mừng tủi tủi, chúc nhau
muôn điều may mắn trong cuộc sống tương lai màu hồng trước mắt. Lúc đó, tự
nhiên tôi nhớ lại hình ảnh trong phim “Ten Commandments”(Mười Điều Răn), đoạn
diễn tả cảnh người Do Thái nhộn nhịp trong ngày ông Moses dẫn họ ra khỏi nước
Ai cập, chấm dứt thời kỳ nô lệ.
Khi nhìn
cảnh anh em bắt tay từ giã ra về, lòng tôi buồn vô hạn. Nhất là khi thấy các
anh em Linh mục đã từng chung sống với tôi trong nhiều năm qua, bây giờ ra đi,
khiến tôi bị hụt hẫng và cảm thấy bị mất mát quá lớn. Những năm tháng dài anh
em sống chung với nhau, tôi không nhận thấy hết được ý nghĩa của một thứ tình
gia đình. Giờ đây, qua giây phút chia tay, tôi chợt thấy trống vắng và mất đi sự
hỗ trợ rất cần cho cuộc sống trong tù. Lúc đó, hai hàng nước mắt tôi chảy dài một
cách tự nhiên và tôi không sao kềm hãm được. Không hiểu tại sao tôi đã khóc! Về
sau này, có thì giờ suy nghĩ, tôi biết lúc đó tôi khóc vì phải chia tay với những
người quá thân ái, quá gần gũi và giúp tôi rất nhiều trong những năm chung sống.
Nhất là giai đoạn tôi vừa ở nhà kỷ luật mới ra, với thân tàn ma dại và tinh thần
sa sút.
Sự
nâng đỡ về tinh thần và vật chất của các anh em Linh mục thật quý báu đối với
tôi lúc bấy giờ. Một lý do khác làm nước mắt tôi chảy dài là tôi cảm thấy quá
xót xa cho thân phận mình. Tôi thật sự bị hụt hẫng vì đã đặt hy vọng quá nhiều
sẽ có tên trong đợt tha này. Sáng hôm đó, có nhiều anh em Linh mục đi ngang chỗ
tôi nằm nhưng chỉ dám liếc nhìn mà không dám tới. Tôi biết là các anh em rất
thương và cảm thông với tâm trạng đau buồn của tôi nên không tới bắt tay từ
giã, sợ nỗi buồn của tôi sẽ tăng thêm.
Nhớ lại
thời gian 30 anh em Linh mục chúng tôi ở riêng biệt trong khu kiên giam trại
Thanh Cẩm, tôi coi đó như một hồng ân cho riêng đời tù của tôi. Mặc dù sống
chung lâu ngày trong phòng giam chật hẹp và thiếu thốn mọi tiện nghi, đôi khi
giữa các anh em Linh mục cũng có những va chạm, xích mích và cãi vã nhau, có
lúc cũng nặng lời to tiếng, nhưng không bao giờ chúng tôi để các sự va chạm ấy
kéo dài qua đêm.
Vì ở
trong khu vực riêng biệt, có tường rào bao bọc, nên chúng tôi có điều kiện thuận
tiện để dâng Thánh Lễ với nhau hằng ngày, sau giờ điểm danh vào buồng. Trước
khi cùng dâng Thánh Lễ, nếu ai có điều gì buồn phiền và xích mích nhau trong
ngày, anh em xin lỗi và tha thứ cho nhau để mọi người trở nên hòa thuận tốt đẹp,
như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên, đã là con người thì ai cũng có bản
tính khác nhau, dù họ là Linh mục hay người thường. Hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã
có khi đã đẩy con người xuống đáy tầng địa ngục. Lúc đó, bản tính bất toàn của
con người muốn tìm một chút thoải mái riêng tư cũng bộc lộ qua cách hành sử của
vài anh em Linh mục, kể cả tôi.
Dầu vậy,
xét chung, tôi phải ghi nhận là tập thể Linh mục trong tù lúc đó là một tập thể
rất tốt. Đại đa số là những con người hiền hậu, rộng lượng và đầy tình bác ái.
Không phải chỉ đối xử tốt trong tình thương yêu với nhau mà thôi, mà còn tốt với
tất cả mọi tù nhân khác, khi điều kiện có thể giúp đỡ họ được. Tôi rất hãnh diện
có mặt giữa tập thể Linh mục đó. Họ như là những chứng nhân đích thực của tình
yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù và cả về phía cán bộ nữa.
Lúc bấy
giờ, tôi là người trẻ tuổi nhất trong số Linh mục mà phần đông là những Tuyên
úy Quân đội trình diện đi học tập, chỉ có chừng 5 hoặc 7 người bị bắt vì lý do
khác như tôi. Một điều tôi ghi nhớ mãi và hứa là khi nào có dịp kể lại giai đoạn
tù tội, tôi phải nói lên sự kính mến của tôi và của anh em đối với một vị Linh
mục trong nhóm là cha Đinh Trọng Tự, Tuyên úy Quân đội thuộc Giáo phận Cần Thơ.
Cha Tự học trên tôi 3 năm trong Đại Chủng viện Thánh Giuse tại Sài Gòn. Mặc dù
trên tôi 3 lớp, nhưng cha Tự đã khá lớn tuổi vì cha đã có thời động viên đi
quân dịch và mang cấp bậc Thiếu úy. Sau khi giải ngũ, ngài trở lại đi tu tiếp.
Cha
Đinh Trọng Tự lúc ở Thanh Cẩm quãng 45 tuổi, người gầy ốm và cao lêu khêu như
cây tre miễu, nói năng nhỏ nhẹ và ôn tồn. Sống giữa tập thể anh em Linh mục, có
kẻ lớn người nhỏ, cha Tự đã tỏ ra là một người hiền hòa thân ái và được tất cả
anh em kính mến. Đặc biệt là nếu có sự va chạm cãi vã nhau giữa anh em, thì
chính cha Tự là người làm hết mọi cánh để mang lại hòa khí giữa anh em. Thông
thường, vai trò trung gian hòa giải của cha Tự đều được anh em nghe theo. Nhưng
cũng có mấy lần gặp trường hợp căng thẳng quá, tôi thấy cha Tự đã phải khóc khi
năn nỉ hai người đang bất hòa tha thứ cho nhau.
Tính tình
nhân hậu và ôn hòa đó của cha Đinh Trọng Tự đã đóng góp rất nhiều trong sự mang
lại đoàn kết và thân ái giữa tập thể anh em Linh mục trong tù. Lúc bấy giờ, anh
em chúng tôi thường nói với nhau, nếu Tòa Thánh cho chúng tôi chọn một Giám mục
để hướng dẫn cộng đồng dân Chúa trong tù, chúng tôi sẽ chọn cha Đinh Trọng Tự.
Ngoài ra, giữa chúng tôi cũng có những Linh mục lớn tuổi và đáng kính. Các ngài
để lại trong tôi sự thương mến và kính phục về tư cách, sự hiền từ và tinh thần
bác ái cao độ như các cha Đinh Cao Thuấn, Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu (nhạc sĩ
Hoài Đức), Phạm Ngọc Lan. Những Linh mục cao niên này thường được chúng tôi gọi
là “Bố” để bày tỏ sự tôn kính.
Khi những
người được phóng thích đã ra về, trại Nam Hà trở nên xác xơ, buồn tẻ và trống vắng
khác thường. Chỉ còn lại một ít tù chính trị miền Bắc và 350 người miền Nam.
Sau đợt tha đó, tôi được chuyển qua một đội tạp dịch, lo dọn dẹp vệ sinh và các
việc linh tinh khác bên trong trại. Đội này do anh Của, trước kia là Đại tá Tỉnh
trưởng Châu Đốc, làm đội trưởng.
Lúc
bấy giờ, trong trại cũng còn lại 9 vị tướng, sống trong một buồng riêng và
không đi lao động bên ngoài. Về phía Linh mục, còn lại 7 người của cả miền Bắc
lẫn miền Nam. Miền Bắc có các Linh mục Thi, Hiểu và Vĩnh. Miền Nam có cha Nguyễn
Bình Tĩnh và tôi, cộng thêm hai Linh mục, Nguyễn văn Lý và Lê Văn Nghiêm, thuộc
Tổng giáo phận Huế, mới bị bắt 2 năm, đưa ra trại Thanh Cẩm với chúng tôi và
cùng chuyển lên đây.
Anh em
chia lìa
Đêm đầu
tiên, sau khi các Linh mục được tha đã rời trại ra về, tôi nằm trằn trọc không
sao ngủ được. Sự thất vọng ê chề đã làm tôi đau đớn. Phải nói là từ lúc bị bắt,
không một lúc nào sự ước muốn tự do không hành hạ tôi. Những năm đầu, nhận biết
thân phận mình nên tôi chưa dám mơ tưởng tới việc được tha về. Lúc đó, tư tưởng
vượt ngục lại ám ảnh tôi rất mãnh liệt. Cho dù thời gian nào, trại nào, hoàn cảnh
nào tôi cũng đều tìm cách vượt ngục, nếu không bằng cách này thì bằng cách
khác, kể cả những cách nguy hiểm và liều lĩnh nhất.[1] Sau vụ vượt ngục bất
thành năm 1979 tại trại Thanh Cẩm, tôi đã phải trả một giá quá đắt và sau vụ đó
một thời gian rất lâu, tôi không còn hy vọng được tha như những tù nhân khác.
Tới năm
1986, tức là 8 năm sau ngày vượt ngục bất thành, tôi lại bắt đầu có hy vọng vì
trong thời gian đó có rất nhiều người được tha. Mỗi năm, số người được tha càng
nhiều và những dịp cứu xét tha càng thường xuyên hơn. Lúc đó, ngồi nhìn những
anh em được thơ thới hân hoan ra về, trong đó cũng có vài Linh mục, lòng tôi đầy
những ước mơ, cho dù là một thứ hy vọng khá mong manh.
Bắt đầu
năm tù thứ 10, tôi càng hy vọng nhiều hơn, vì nghe nói mỗi lệnh tập trung cải tạo
là 3 năm, mà tôi đã ở tù 10 năm, tức là được 3 lệnh rồi. Thông thường, những
người đã ở tù 3 “lệnh”, sẽ dễ dàng được cứu xét hơn. Như tôi đã nói, mặc dù đây
chỉ là thứ hy vọng mong manh, nhưng con người sống phải có cái gì để hy vọng, nếu
không còn hy vọng thì còn gì là cuộc sống? Tâm trạng tôi lúc đó cũng như người
mơ trúng số độc đắc. Mỗi tuần đều mua một tờ vé số để nuôi hy vọng có ngày
trúng lô độc đắc, mặc dù biết là rất mong manh. Riêng tôi, giống như người mơ
trúng số mà không có tiền mua vé số!
Bước qua
năm thứ 11, tôi càng hy vọng nhiều hơn. Mặc dù lúc bấy giờ tôi vẫn còn ở khu
kiên giam, nhưng ngay cả trong khu kiên giam và kỷ luật cũng có người bất thần
được gọi tên ra về như trường hợp cha Phạm Hữu Nam, được gọi ra về từ trong nhà
kỷ luật trại Thanh Cẩm! Biết đâu có ngày sẽ có tên mình? Niềm ước mơ thầm kín
này thường ám ảnh tôi một cách mãnh liệt về đêm. Vì ban ngày còn phải đi lao động
và biết bao nhiêu việc phải làm của kiếp tù, nên không có thì giờ để mơ mộng.
Sau vụ vượt
ngục bất thành năm 1979, tôi bị đánh đập quá tàn nhẫn và sau đó bị cùm 3 năm
làm cơ thể tôi quá suy nhược, nên lúc này, tôi không dám nghĩ tới chuyện vượt
ngục nữa mà dành tất cả nghị lực cho những giấc mơ đẹp về viễn ảnh một ngày nào
đó được trả tự do. Rất nhiều đêm, tôi nằm suy nghĩ và thử tưởng tượng xem lúc
nghe có tên mình trong danh sách được tha, tôi sẽ mừng biết là chừng nào! Đây
là một giấc mộng thật thích thú.
Để
trả lời câu hỏi đó, tôi cố nhớ lại tất cả những dịp vui của đời mình để so sánh
với tin vui được trả tự do như thế nào. Thật ra, đời tôi không có có nhiều dịp
vui lớn ngoài những lần như thi đậu tiểu học, đậu trung học đệ nhất cấp, đậu tú
tài, tốt nghiệp chương trình Đại Chủng viện và được thụ phong Linh mục. Những dịp
đó cũng rất vui nhưng nếu được nghe tin trả tự do chắc là tôi sẽ mừng nhất!
Qua năm
thứ 12, niềm hy vọng lại càng thúc bách tôi khi gần như toàn bộ số anh em trong
nhóm 48 Quyết Tiến của tôi đã được tha về gần hết. Qua năm thứ 13, tôi càng nôn
nóng hơn vì sau đợt tha dịp đầu năm Dương lịch, con số tù chính trị trại Thanh
Cẩm chỉ còn lại không tới 100 người cùng với 10 người Trung quốc đã bị giam ở
đây hơn 15 năm rồi. Trong lúc tôi hy vọng và chờ đợi niềm vui lớn thì bất thần
có lệnh chuyển trại vào cuối tháng Giêng năm 1988. Tất cả tù chính trị, kể cả
các anh Trung Quốc đều phải chuyển đi. Và tôi trở về trại Nam Hà này như đã nói
ở trên!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét