TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 45
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Ngày Trở Về (2)
Nhận ra ý Chúa
Đêm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi
trong màn cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã
tù 13 năm và chịu bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh
khốn khổ như con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh
này. Xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng,
và lúc đó tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục
ở đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và
chia xẻ đời con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây
trong môi trường lao lý này.”
Thật là bất ngờ như một phép la!
Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt
cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui của người được chọn và trao cho
một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người
tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải riêng tư của Chúa đối với tôi. Bỗng chốc
tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi không còn mong được ra về, cho dù một chút
cũng không. Từ nay nhà tù là nơi tôi sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi
để tôi yêu thương và an ủi họ, các cán bộ là những người tôi phải cảm hóa và chỉ
cho họ con đường đức tin và hy vọng.
Qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đả trở
nên một con người khác, một con người được giao sứ mạng làm chứng cho tình yêu
Thiên Chúa giữa anh em. Việc đầu tiên tôi làm trong buổi sáng hôm đó là ngồi xuống
viết một lá thư cho chị tôi ở miền Nam. Trong suốt 13 năm qua chị tôi đã lo lắng
cho tôi. Những năm về sau này, chị đã 2 lần lặn lội ra trại Thanh Cẩm thăm nuôi
tôi. Nhưng vì lúc đó tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật, nên lần đầu chị không
được gặp tôi và lần sau được gặp 15 phút trong chuyến đi từ khi rời nhà đến lúc
trở về vừa đúng 33 ngày! Trong thơ tôi bảo chị từ nay đừng gửi quà cho tôi nữa,
vì trong 13 năm qua gia đình chẳng còn gì. Tôi cho biết lúc này tôi rất hạnh
phúc và đầy đủ, chị không phải lo nghĩ gì về tôi nữa.
Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc
sống hạnh phúc trong tù. Trước hết, tôi để ý chọn một số anh em để cho
thành hình một nhóm nhỏ mà tôi tạm gọi là “Cộng đoàn tình thương”. Mục đích của
nhóm là an ủi và giúp đỡ những anh em khốn khổ, đặc biệt là những người không
có thân nhân gia đình thăm nuôi tiếp tế. Lúc đó các anh em được tha về có để lại
cho tôi khá nhiều thức ăn, đồ dùng, quần áo. Tôi giao cho anh em trong nhóm đem
phân phát giúp những người thực sự cần giúp đỡ.
Lúc này nhóm anh em gần gũi với
tôi nhất là những anh tù Trung Quốc, những người đã sống chung với tôi thật lâu
trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Giữa chúng tôi có mối liên hệ tình cảm sâu
xa. Lợi dụng lúc sống chung, tôi đã học tiếng Quan Thoại với họ. Tôi đã cố gắng
học không ngừng trong 2 năm và sau đó sống chung với mấy anh Trung Quốc nên có
thể thực tập mỗi ngày và khi lên tới trại Nam Hà tôi đã nói rất thông thạo tiếng
Quan Thoại. Tôi đã dùng ngôn ngữ này để dạy giáo lý cho họ. Trong những ngày
nghỉ, tôi thường tới các buồng thăm viếng anh em, nhất là những người mới được
Rửa tội trong tù. Riêng buồng 9 là buồng các vị tướng lãnh ở, không ai được vào
ra tiếp xúc. Nhưng lúc bấy giờ qua sự liên lạc khéo léo với cán bộ trực trại,
tôi lấy lý do xin qua học đàn Ghi-ta với bác Lê Minh Đảo, nhưng thật ra là để
giúp về mặt tinh thần cho các tướng lãnh này.
Ngày 28 tháng Năm 1988, tức là hai
tháng sau đợt tha rầm rộ vào dịp Tết, trại Nam Hà lại có biến cố lớn. Tất cả tù
nhân miền Nam được đưa vô trại Hàm Tân trong Nam, chỉ có 3 người còn lọt sổ ở lại.
Ngoài tôi ra còn có Linh mục Nguyễn Bình Tĩnh, Giáo phận Ban Mê Thuột, bị tình
nghi dính líu tới nhóm Fulro và anh Nguyễn Đức Khuân bị bắt vì tham gia phong
trào Phục Quốc. Lúc ở trại Thanh Cẩm anh sáng tác bản nhạc có đoạn gọi Hồ Chí
Minh là con quỉ đỏ. Chẳng may bản nhạc bị bại lộ, anh bị đánh tơi bời và sau đó
đưa lên cùm trên kỷ luật chung với tôi một thời gian khá lâu.
Nếu trại Nam Hà bắt đầu xác xơ kể từ
sau đợt tha gần như “xóa sổ” hôm Tết, thì bây giờ trở nên tê liệt khi tù chính
trị miền Nam không còn nữa. Tình thế bất ngờ tạo cho tôi thành một thứ “đại tư
bản” trong tù. Số anh em được tha và số vừa chuyển về Nam để lại cho tôi tất cả
“tài sản” của họ. Nếu trước đây có thời kỳ tôi không có cái quần để mặc, cái
bát đựng thức ăn, cái lon Guigoz đựng nước uống thì bây giờ tôi có hàng mấy
trăm cái hòm, thùng thau, chén bát, bao bị, áo quần, thuốc men v.v... không biết
cơ man nào mà kể. Lúc này nhóm “Cộng đoàn tình thương” của chúng tôi cũng đã bắt
đầu lớn mạnh và số đồ dùng anh em để lại thật đúng lúc. Anh em trong nhóm tôi
thực tập cuộc sống chia sẻ với những người cùng khổ, một điều mà họ không bao
giờ nghĩ là có thể có trong môi trường này.
Sau khi trơ trọi một mình ở lại, tôi
càng nhận rõ được sứ mệnh của mình hơn. Lúc đó tôi được nhập vào đội chính trị
miền Bắc với công tác đi đào thủy lợi. Trong buồng tôi cũng có những anh Trung
Quốc, tuy không cùng đội nhưng sống chung buồng. Những anh Trung Quốc chỉ lao động
bên trong trại, không được ra ngoài. Từ đó, hàng đêm tôi dạy giáo lý và dâng
Thánh Lễ trong buồng.
Một hôm, tôi Rửa tội cho 2 anh Trung
Quốc và quyết định dâng Lễ công khai. Tối hôm đó sau khi vào buồng, anh em nhộn
nhịp cười nói, uống chè, hút thuốc lào như thường lệ. Đúng giờ, tôi đứng lên vỗ
tay mấy tiếng làm mọi người ngỡ ngàng, sau đó tôi nói thật to để cả buồng cùng
nghe:“Tôi xin anh em làm ơn giữ thinh lặng trong chốc lát, tôi sắp sửa Rửa tội
cho hai người bạn, và đây là một nghi lễ tôn giáo rất quan trọng. Mặc dù anh em
không phải là Thiên Chúa Giáo nhưng tôi cũng xin anh em tôn trọng nghi lễ này.
Tôi cũng nói với các anh em là khỏi báo cáo với cán bộ vì việc tôi làm lễ công
khai, ban giám thị đã biết.”
Điều rất lạ lùng, sau khi nghe tôi
nói, cả buồng lặng yên và tôi cử hành nghi thức Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc một
cách thật trang nghiêm, cảm động.
Sau đó, tôi sống chung một buồng
với 10 anh tù Trung Quốc. Những anh Trung Quốc này, trong những năm sau cùng ở
Thanh Cẩm, đã được các Linh mục giúp rất nhiều, cả về tinh thần lẫn vật chất,
nên họ rất thân thiện và gần gũi với các Linh mục. Riêng đối với cá nhân tôi,
còn thân thiết với họ hơn vì đã sống chung với nhau mấy năm trong kỷ luật và
hơn nữa tôi còn nói được tiếng của họ. Đó cũng là yếu tố nối kết tình thân. Khi
lên trại Nam Hà và sống chung buồng, tôi dạy Giáo lý cho một số anh Trung Quốc,
trong đó có anh Chu Vạn Hồi.
Cho tới lúc đó, Chu Vạn Hồi vẫn chưa
nói được tiếng Việt, chỉ bặp bẹ ít câu. Những năm qua, khi sống gần các Linh mục,
Chu Vạn Hồi đã tỏ ra thân ái, ngoan ngoãn và biến đổi như một con người mới.
Anh ta thường hay tâm sự với tôi và hối hận vì các việc làm sai trái cướp bóc
trước kia. Anh ta xin tôi giúp anh có niềm hy vọng để sống vì lúc đó anh còn
quá trẻ, mới vừa ngoài ba mươi tuổi.
Ngay từ ở Thanh Cẩm và sau này lên Nam
Ha, tôi đã dành nhiều thời giờ để hướng dẫn Chu Vạn Hồi và vài anh Trung Quốc
khác. Tôi dùng nhiều gương các vị thánh cũng đã có thời lầm lạc như Thánh
Phaolô để nói với anh là Thiên Chúa sẽ thương những con người lầm lạc biết hồi
tâm thống hối. Sau thời gian tìm hiểu và thử thách, tôi Rửa tội cho Chu Vạn Hồi
trong một nghi lễ khá long trọng tại trại tù Nam Hà. Anh chọn Tên Thánh là
Phaolô, một vị Tông đồ của dân ngoại mà anh rất sùng kính. Tôi cũng nhận Hồi
làm đứa con tinh thần của tôi và Hồi rất sung sướng về điều này.
Câu chuyện hãi hùng
Nếu việc Rửa tội cho Chu Vạn Hồi làm
tôi cảm thấy hạnh phúc trong sứ mệnh Linh mục, thì thái độ rất lạ lùng của Hồi
trong đêm vừa Rửa tội xong đó đã làm tôi ngạc nhiên. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, Hồi
tới chỗ tôi, nằm xuống bên cạnh, quay sang ôm lấy vai tôi, gục đầu vào ngực tôi
và bắt đầu khóc nức nở. Cử chỉ này của Hồi làm tôi cảm động và ngạc nhiên. Tôi
thắc mắc không hiểu nguyên nhân nào đã khiến một tên cướp trước kia bây giờ lai
có thái độ như vậy? Hay là anh khóc vì quá vui mừng sau khi chịu phép Rửa tội?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Chu Vạn Hồi, con
làm sao vậy?
Nghe tôi hỏi, Hồi càng khóc to hơn. Nước
mắt chảy ướt cả vai tôi và vai anh ta run rẩy trong bàn tay tôi. Biết là Hồi có
điều gì cảm động mãnh liệt nên tôi không hỏi nữa nhưng dùng bàn tay phải xoa nhẹ
trên đôi vai rất gầy của người bạn tù ngoại quốc vốn là tên cướp mà bây giờ đã
tìm thấy con đường Đức tin và lại là con tinh thần của tôi. Sau cơn xúc động, Hồi
ngước mặt lên nói trong nước mắt:
- Bố ơi! Có lần con
đã sắp giết bố để ăn thịt rồi!
Nói xong được câu đó, Hồi khóc rống
lên làm những anh em kế bên kinh ngạc, nhưng không ai biết chúng tôi nói gì.
Hình như cảm thấy nhẹ người sau câu đó, Hồi trở nên khá bình tĩnh sau khi nước
mắt đã chảy xuống nhiều. Tôi vẫn ôm vai nó hỏi:
-Chu Vạn Hồi, con
nói gì? Sao lại giết bố? Bố không hiểu chuyện gì cả?
Hồi trả lời
tôi cách rành rọt từng tiếng một. Lúc đó, tôi đã nói tiếng Quan Thoại rất sõi,
nên hiểu hết những gì Hồi nói:
- Làm sao bố hiểu
được chuyện này khi con và Lý Đức Nghĩa giữ kín trong lòng từ nhiều năm qua.
Bây giờ Lưu Tùng chết rồi, chỉ còn lại con và Lý Đức Nghĩa. Con gọi nó lại đây
để xin lỗi bố sau khi con kể lại đầu đuôi câu chuyện mà bố đã biết qua một phần.
Nói xong, Hồi bước xuống đi gọi Nghĩa
nằm tận cuối buồng. Tôi ngồi một mình phân vân không hiểu Hồi muốn nói tới chuyện
gì. Chuyện gì mà nó nói là tôi đã biết một phần. Chu Vạn Hồi làm tôi rất thắc mắc.
Khi cả hai trở lại, Hồi nói:
-Lý Đức Nghĩa, anh
ngồi xuống đây. Đêm nay tôi đã là con của Chúa, và người mà chúng ta vẫn gọi là
Anh Lễ ngày trước bây giờ là bố của tôi. Tôi phải kể lại câu chuyện của buồng 5
ở kỷ luật Thanh Cẩm năm xưa để xin bố tôi tha thứ cho chúng mình.
Nghe nhắc tới
đó, Nghĩa hiểu ngay câu chuyện nên có vẻ bối rối, nói nhỏ với Hồi bằng tiếng
Quan Thoại mà chính nó đã dạy cho tôi:
- Anh Hồi à, chuyện
đã qua từ lâu rồi còn nhắc lại làm gì?
-Mặc dù là đã lâu,
nhưng tôi không an tâm khi chưa thú tội với người mà bây giờ tôi gọi là bố. Anh
hãy ngồi xuống đây với tôi.
Nói xong, Hồi
ngồi dịch sang một bên và kéo Nghĩa ngồi xuống. Cả ba người chúng tôi ngồi dựa
lưng vào tường, tôi ngồi giữa hai người. Chu Vạn Hồi bắt đầu kể:
- Câu chuyện đã 8
năm qua rồi, nhưng con nhắc lại và tin chắc là bố còn nhớ. Bố còn nhớ cái đêm
thằng 'lưu manh' bị tụi con đập trong buồng 5, nó la hét và cán bộ phải lên
mang đi bệnh xá?
- Có, bố còn nhớ rõ
lắm, chuyện đó xảy ra trong buồng 5 và bố ở buồng 4 kế bên nghe nó la hét thất
thanh trong đêm và cán bộ lên đưa nó ra khỏi buồng trong đêm.
-Đúng rồi, như vậy
là bố còn nhớ.
Tôi ngạc
nhiên hỏi:
- Nhưng tại sao con
muốn nhắc lại chuyện đó? Có gì đặc biệt không?
- Vì chuyện này có
liên quan tới bố. Nếu lúc này bố không là bố của con thì con không nhắc lại làm
gì, nhưng bây giờ bố là cha mẹ con, con không thể giữ trong lòng, nhưng phải
nói ra, mặc dù đã nhiều năm qua rồi.
Tự nãy giờ
Nghĩa chỉ ngồi yên cúi đầu, lúc biết là Hồi sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện,
Nghĩa quay sang tôi, nói:
-Anh Lễ, tôi xin lỗi!
Tôi nói với cả
hai:
- Tôi chẳng hiểu gì
cả. Hãy kể tôi nghe đi!
Chu Vạn Hồi
khoanh tay, mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu câu chuyện một cách chậm rãi, dĩ
nhiên là bằng tiếng Quan Thoại:
-Lúc đó, con và Lý
Đức Nghĩa vì quá tuyệt vọng và khổ sở đói khát sau hơn chục năm tù, và lúc nào,
ở đâu cũng bị nhốt trong kỷ luật. Chúng con muốn chết, nhưng phải chết cách nào
để cho mọi người biết là vì sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam mà chúng con
phải làm như vậy. Chúng con quyết định gây tiếng vang bằng cách giết và ăn thịt
bất cứ một người tù Việt Nam nào bước vào buồng 5 lúc bấy giờ.
Chúng con đã định, sau khi giết chết, sẽ moi bộ đồ lòng ăn trước, vẫn để xác chết
nằm đắp chăn, cán bộ điểm danh nhìn vào vẫn thấy đủ số và một người đang ngủ.
Sau đó chúng con sẽ lóc thịt và ăn dần cho tới khi bị phát hiện. Dĩ nhiên là tụi
con sẽ bị bắn, nhưng chúng con muốn dùng hành động man rợ này để tố cáo sự dã
man của chế độ Cộng sản Việt Nam. Vì thực tình lúc đó chúng con không còn thiết
sống nữa. Trong buồng có Lưu Tùng, nhưng dù sao nó cũng là người Trung Quốc nên
chúng con không giết nó. Nó ốm yếu như một cây sậy, giết lúc nào cũng được!
Chúng con chỉ lấy phần ăn của nó đi và chỉ cho nó ăn vừa đủ sống.
Hồi dừng lại, với tay lấy lon nước thấm
giọng. Tôi ngồi yên lặng và rùng mình khi nghe Hồi chầm chậm kể lại câu chuyện
mà tôi đã biết được một phần, vì chính tôi lúc đó đã can thiệp để cứu Lưu Tùng.
Hồi tiếp:
-Chiều hôm đó, cán
bộ đưa một thằng ‘lưu manh’ vào buồng con và cơ hội đã tới. Vừa xỏ chân vào cùm
xong là nó lăn ra ngủ. Điều này càng dễ dàng cho chúng con thực hiện kế hoạch
và chúng con nói tiếng Phổ thông với nhau nó chẳng hiểu gì. Nó bị cùm với Lưu
Tùng thớt bên kia và nằm phía ngoài. Thớt bên này con nằm bên ngoài, Nghĩa nằm
bên trong.
Chờ cho
đèn điện trong buồng tắt, trong lúc nó đang ngủ mê, con bước một chân xuống sàn
lấy cái ống bẩu nước tiểu và đổ hết nước tiểu ra. Cái ống bẩu đó dài và nặng,
con dùng hết sức lực của hai cánh tay giáng một phát cực mạnh vào đầu nó. Con
nghĩ là nó sẽ chết ngay vì cú đập đầu bất ngờ này, nhưng cái thằng nó khỏe. Ống
bẩu vỡ tan tành, máu văng tung tóe nhưng nó không chết mà lại hét to lên: “Báo
cáo cán bộ! Báo cáo cán bộ!” Lúc đó con chồm qua dùng hai tay bóp cổ nó như thế
này... Con làm bố coi!
Anh ta dùng hai bàn tay bọc lấy phía
sau cổ tôi. Hai ngón tay cái như thép của nó ấn nhẹ vào dưới cổ phía trước của
tôi. Nó chỉ ấn nhẹ, mà tôi có cảm tưởng là cổ họng tôi đã vỡ ra. Tôi phải
kéo tay nó . Hồi nói tiếp:
-Bố thấy đó, con chỉ
ấn nhẹ mà bố không chịu nổi nhưng không hiểu sao đêm đó con dùng hết sức lực ấn
xuống mà nó không chết. Rõ ràng là ý Chúa còn thương con, nếu nó chết thì con
đâu có ngày hôm nay. Đây là điều lạ lùng. Nhưng còn một việc lạ lùng khác mà
con biết là Chúa cứu con, đó là khi cán bộ nghe tiếng la hét chạy lên. Lúc đó,
con chồm xuống đứng áng ngang cửa sổ cố ý che đèn bấm cán bộ rọi vào buồng quan
sát. Bất thần có một cán bộ võ trang chọc thật mạnh lưỡi lê ở đầu súng vào buồng,
đúng vào giữa thanh sắt song cửa sổ tóe lửa. Theo phản xạ, con né sang một bên,
và lưỡi lê chệch sang phía bên kia. Đúng là phép lạ Chúa cứu con, vì nếu con né
phía ngược lại thì lưỡi lê sẽ chọc đúng vào tim! Bây giờ con mới hiểu là Chúa
đã cứu con.
Hồi dừng lại, khoanh tay trước
ngực ngước mắt lên trong thái độ tạ ơn. Xong anh kể tiếp:
- Cán bộ mở cửa buồng
đưa thằng ‘lưu manh’ đi xuống bệnh xá vì bị vỡ đầu máu me lênh láng. Khi cán bộ
xuống rồi, con và Nghĩa bèn vắt máu từ cái chăn của nó được gần đầy bát máu. Tụi
con dùng đóm tre đun bát máu thằng ‘lưu manh’ cho nóng lên và chia nhau uống!
Lưu Tùng nhìn thấy cảnh đó run sợ nói không ra lời. Lúc bấy giờ đói quá con uống
máu người mà không thấy tanh gì cả. Lạ một điều là uống máu người xong tụi con
giống như bị nghiện, càng mong có dịp được uống nữa!
Tôi cảm thấy lạnh người khi nghe Chu Vạn
Hồi và Lý Đức Nghĩa, hai người mà tôi rất thương mến trong những năm qua, lại
là những kẻ đã từng uống máu người. Lúc này tôi mới lên tiếng:
-Lúc nãy, con nói
là con định giết bố, lúc nào?
-Bố có nhớ lần đổi
buồng ngay sau đó và cán bộ Thanh định đưa bố vào buồng 5 của con không?
Tôi nhớ rất
rõ việc đó, nên nói:
- Có, nhưng bố
không vào và xin cán bộ cho đi buồng khác vì bố và ông Khương mới đánh Lý Đức
Nghĩa trước đó, nếu bố vào....
Hồi cướp lời
tôi:
-Bố ơi! Đây
là một phép lạ khác, phép lạ này còn lớn hơn nữa. Bố biết không, sau lần giết hụt
anh tù hình sự mà không bị phát hiện, tụi con đã bàn lại kế hoạch và nạn nhân
thứ hai không thể nào sống sót được. Chúng con đang mong đợi thì trưa hôm đó
cán bộ đưa bố vào. Lúc bấy giờ, chúng con đã trở thành loài thú say máu người
và sẽ giết để ăn thịt bất cứ người tù Việt Nam nào. Khi biết người đó là bố
chúng con càng mừng hơn, vì giết và ăn thịt một người tù chính trị miền Nam có
tên tuổi như bố thì cái chết của chúng con sẽ được thế giới biết tới nhiều hơn.
Vả lại, Lý Đức Nghĩa rất mừng vì có dịp báo thù. Nó nói bố và ông Khương đánh
nó hôm Tết vì nó cướp bánh chưng.
Lúc bố đứng ngoài sân, trong buồng con và Nghĩa đã bàn kế hoạch với nhau thật
nhanh, không thể bàn khi bố vào buồng vì bố biết tiếng Phổ Thông. Chúng con
cũng đe Lưu Tùng, nếu nó làm một ám hiệu gì với bố nó sẽ chết ngay. Nhưng sau
đó bố lại xin cán bộ không vào buồng con và cán bộ đưa Phi Tàu thay vào đó! Nếu
bố vào buồng 5, tụi con đã giết bố rồi!
Khi Phi Tàu vào nhập bọn, chúng con càng có sức mạnh và quyết tâm giết người ăn
thịt hơn. Nhưng chưa có dịp ra tay thì một hôm bị thằng đại ‘‘lưu manh’’ Bình
Thanh xông vào buồng đánh Phi Tàu và Nghĩa nằm liệt hàng tháng trời. Con cũng bị
đánh, nhưng nhẹ hơn, và ngay chiều hôm đó bị đổi buồng mỗi đứa một nơi!
Hồi dừng lại,
nắm lấy bàn tay tôi hôn và nói:
- Xin bố tha thứ
cho con!
Nãy giờ,
Nghĩa ngồi yên cúi đầu, lúc này mới lên tiếng lần thứ hai:
- Anh Lễ, tôi xin lỗi
anh!
Tôi ngồi yên nhắm mắt và lạnh người
khi hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua trong 3 năm tôi lăn lộn trong kỷ luật
Thanh Cẩm. Thật tôi không thể ngờ có những chuyện như vậy đã xảy ra.
Tôi nắm lấy tay hai người bạn tù Trung
Quốc, những con người khốn cùng đã chia xẻ một phần cuộc đời của họ với tôi.
Tôi nắm lấy bàn tay họ thật lâu và ngồi yên, để cho hai hàng nước mắt tôi
tuôn rơi. Thấy tôi ngồi yên, nước mắt chảy dài, Chu Vạn Hồi quay sang ôm lấy
tôi và cả hai cùng khóc. Lúc đó, Nghĩa cúi đầu, miệng lẩm bẩm mấy câu tiếng Phổ
Thông, một ngôn ngữ mà chính nó đã dạy cho tôi:
-Lỳ cớ! Tui pủ xì!(
Xin lỗi anh Lễ, xin lỗi!)
Chúa nói trong con
Hôm sau, tôi bị gọi lên gặp trại trưởng
vì dâng Thánh Lễ công khai. Ông ta nạt nộ quát tháo, bảo tôi phải “câm miệng” lại,
và còn dọa sẽ tống tôi vào cùm. Tôi trả lời rất khiêm tốn nhưng thẳng thắn:
- Báo cáo cán bộ,
tôi là một Linh mục, thì cho dù ở đâu tôi cũng phải làm nhiệm vụ Linh mục của
tôi và việc làm của tôi không ảnh hưởng gì tới sự an ninh của trại. Cán bộ khỏi
phải dọa nạt tôi. Việc cùm kẹp đánh đập tôi đã chịu quá quen trong tù rồi. Bây
giờ còn lại hai điều tôi xin với cán bộ. Một là bắn tôi chết, hai là để tôi làm
nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài
người.
Thấy không thể lay chuyển được tôi, họ
giao tôi lại cho cán bộ quản giáo. Hôm sau, cán bộ quản giáo gọi tôi tới, trách
móc tôi việc dâng Lễ và giảng dạy công khai làm ban giám thị khiển trách anh.
Cuối cùng anh nói:
-Anh Lễ này, nếu
anh không còn thương anh nữa thì xin anh thương tôi và vợ con tôi. Anh tiếp tục
làm như thế, tôi là người gặp rắc rối trước tiên.
Tôi trả lời:
- Tôi cám ơn cán bộ
đã thông cảm với tôi, cán bộ đã nói thế thì từ nay tôi sẽ không dâng Thánh Lễ
công khai nữa, nhưng sẽ dâng Lễ âm thầm.
Các ngày Chúa Nhật và ngày nghỉ,
nhóm chúng tôi ngồi quây quần ngoài sân và chia sẻ Lời Chúa với nhau. Lúc đầu,
nhóm chỉ có những anh Trung Quốc nên tôi dùng tiếng Quan Thoại trong việc này,
về sau có những người Việt nên tôi phải dùng hai thứ tiếng. Nhóm của chúng tôi
càng ngày càng có nhiều người tham gia. Tôi dạy giáo lý và chuẩn bị Rửa tội cho
3 người trong thời gian sắp tới.
Lúc đó, đội của tôi do một anh thanh
niên người Dân Tộc làm đội trưởng. Cũng nên biết trong tù chúng tôi gọi tất cả
những người không phải là người Kinh bằng một tên chung là người “Dân Tộc”, ý
nói là dân tộc thiểu số. Có thể họ mà người Mường, người Mán, người Thượng, người
Nùng... Công việc của đội chúng tôi là đào kinh dẫn nước vùng đầm lầy chung
quanh trại Nam Hà để cố biến vùng này thành khu vực có thể canh tác được. Một
thời gian sau, cán bộ chỉ định tôi thay thế anh người Dân Tộc làm đội trưởng vì
anh này viết chữ không rành! Chính trong thời gian này, khi không còn những tù
chính trị miền Nam, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với những cán bộ có phần hành
chuyên môn trong trại.
Đội khai thác đá
Đội tôi làm thủy lợi một thời gian thì
chuyển qua khai thác đá để bán cho các hợp tác xã xây dựng các nơi, nhất là ở
Hà Nội. Trại Nam Hà nằm trong một thung lũng, chung quanh núi non bao bọc. Con
đường từ Phủ Lý vào trại hai bên là núi đá cao, và đội chúng tôi khai thác đá
trong các dãy núi cao lởm chởm này. Đánh đá là một công việc nặng nhọc và đầy
nguy hiểm. Tôi nghe kể lại trước đây có mấy tù nhân đã bỏ mạng hoặc thương tật
khi làm công việc này. Vì thế, khi lãnh trách nhiệm cho đội đánh mìn khai thác
đá, tôi đã phải hết sức cẩn thận để bảo vệ cho anh em. Công việc của đội chúng
tôi gồm các khâu như sau:
1. Chọn địa điểm đánh mìn: Việc này do
chính tôi lựa chọn. Tôi phải tìm chỗ nào cho nổ mìn để có nhiều đá vỡ ra từ nhiều
góc cạnh khác nhau, nhưng phải là nơi thuận tiện để người châm ngòi nổ có thể
chạy nấp được.
2. Đục lỗ vào đá để nhét thuốc nổ: Mỗi
ngày tôi chọn từ 8 tới 10 chỗ tùy theo số người lao động trong đội. Sau đó tôi
phân công từng đôi một để họ đục lỗ trong đá bằng cái búa nặng chừng 1 ký lô và
một cây sắt đầu dẹp, gọi là cây “choàng”. Một người cầm búa, một người cầm
choàng. Làm sao trong ngày mỗi cặp phải đục một lỗ sâu 1 thước vào trong đá.
3. Nhét thuốc nổ và châm mìn: Đây là
công việc nhẹ nhàng nhất nhưng lại là công việc nguy hiểm nhất. Tôi chọn một
anh tù lanh lẹ và tháo vát làm công việc này. Trong khi cả đội lao động vất vả
thì anh này lo dọn đường trên núi để chạy tới chỗ nấp an toàn sau khi châm mìn.
Buổi chiều, sau khi các lỗ đục xong, anh lo việc nhồi thuốc nổ vào lỗ và phân
chia dây cháy chậm tùy theo số lỗ và khoảng cách giữa các lỗ mìn cho hợp lý. Vì
tiêu chuẩn dây cháy chậm chỉ có chừng ấy, anh phải phân ra để đốt và bảo đảm quả
mìn đầu tiên không nổ trước khi anh chạy vào chỗ nấp đã chuẩn bị sẵn. Có
trường hợp anh tù bị nổ banh thây trước khi chạy tới chỗ nấp vì chia dây cháy
chậm không hợp lý.
4. Khâu dọn đá: Sau khi nổ mìn làm vỡ
ra các tảng đá thật to, một nhóm tù sẽ lên vần cho rơi xuống bãi và dùng búa tạ
5 ký đập cho vỡ ra thành những tảng đá nhỏ bằng quả dưa.
5. Khâu vác đá: Sau khi đá được đập ra
thành cỡ vừa phải, những anh tù vác đá chất thành đống hình chữ nhật để đo
thành từng khối giao cho các xe tải của hợp tác xã.
Phần tôi, trong vai trò đội trưởng, có
nhiệm vụ phân công cho anh em và theo dõi quan sát, đốc thúc anh em làm việc,
cũng như cố gắng đừng để tai nạn xảy ra. Chính tôi là người quyết định giờ cho
nổ mìn, nên trước đó tôi và anh đội phó ra đường cái gần bên báo hiệu cho xe cộ
và người đi bộ. Mỗi ngày chúng tôi cho nổ mìn buổi chiều trước khi các xe tải lấy
đá và chừng một tiếng đồng hồ trước khi thu quân. Sau khi nổ mìn xong, toán dọn
đá phải lên lăn những tảng đá to xuống để sáng ngày đội có việc làm.
Trong thời gian tôi làm đội trưởng, mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không xảy ra một
ai nạn nào. Chỉ có một lần duy nhất bị trục trặc và gây ra sự cãi vã gay gắt giữa
cán bộ quản giáo và tôi.
Chiều hôm ấy, chúng tôi châm 10
lỗ mìn, nhưng chỉ nổ 9 tiếng và một quả bị lép. Đây là điều chúng tôi e ngại nhất,
vì quả mìn lép có thể sẽ thúi luôn, hoặc có thể nổ lại bất cứ lúc nào, nhất là
khi có sự chuyển động gần đó. Sau khi mìn nổ một lúc, cán bộ bảo tôi cho toán dọn
đá lên. Tôi trả lời là còn một quả chưa nổ, nếu đội lên lúc này rất nguy hiểm,
hẳn đợi lúc nữa.
Khoảng chừng 15 phút sau, cán bộ
quản giáo lại giục tôi cho đội lên dọn đá, tôi cũng nói chưa an toàn, vả lại chỉ
còn nửa giờ nữa là thu quân nên tôi xin cho đội ngồi nghỉ sáng mai hãy dọn đá.
Cán bộ không nghe, cho là tôi muốn chống đối, anh nói rằng làm như thế đội sẽ
không đạt được mức khoán của ban giám thị. Tôi trả lời đây là sự trục trặc
ngoài ý muốn, không phải vì đội lười biếng hoặc chống đối lao động. Mấy anh tù
trong đội xanh mặt ngồi theo dõi cuộc cãi vã. Cuối cùng, cán bộ dọa sẽ đưa tôi
lên ban giám thị, cho là tôi cãi lệnh cán bộ và có ý chống đối lao động. Dọa nạt
tôi xong, anh ta trực tiếp ra lệnh cho đội lên dọn đá. Trong khi các anh tù còn
đang do dự chưa biết nghe ai, tôi tới bên cán bộ nói thật bình tĩnh:
- Báo cáo cán bộ,
trước khi cán bộ trực tiếp ra lệnh cho đội, xin hãy cách chức đội trưởng của
tôi. Nếu không tôi vẫn không đồng ý cho đội lên núi.
Trong khi anh
ta ngần ngừ và giận tím gan, nhưng không biết trả lời sao thì tôi nói thêm:
- Nếu đội lên mà quả
mìn lép phát nổ làm chết người, ai chịu trách nhiệm?
Trong
khi anh cán bộ trẻ tuổi nhưng rất hung hăng này định phản công, tôi đành phải
chưng “kinh thánh” của họ ra, tôi nói tiếp:
-Tôi còn nhớ bác Hồ
có nói ‘Con người vốn quý’. Trong trường hợp này mạng sống con người phải quý
hơn chỉ tiêu làm đá. Nếu cán bộ cho câu nói của bác Hồ là sai thì xin ký tên
vào đây, rồi tôi cho đội lên!
Nói xong, tôi đưa cuốn sổ ghi
công của đội và cây bút. Nhưng anh đã bỏ đi. Tôi cho đội ngồi nghỉ cho tới giờ
thâu quân. Trong thời gian làm đội trưởng, tôi tìm hết cách để bảo vệ anh em
trong đội, vì tôi nghĩ nếu tù mà không thương tù thì đợi ai vào đây thương
mình?
Biểu lộ tình người
Đi lao động một thời gian, tôi bị một
trận kiết lỵ thập tử nhất sinh. Cũng may có thuốc anh em vô Nam để lại nên tôi
qua khỏi nhưng còn yếu chưa có thể theo đội đi lao động. Lúc đó cha Hiểu là đội
phó thay tôi coi đội, còn tôi nghỉ ở nhà lo giúp anh trực sinh buồng làm vệ
sinh khu vực chung quanh. Một buổi sáng rảnh rỗi, tôi ngồi trong nhà ăn, đọc
tác phẩm “Chiến tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi. Bộ sách giá trị này của một
người bạn vô Nam để lại cho tôi.
Trong khi đang đọc thì Trung úy T., Sĩ
quan an ninh của trại bước vào. Sẵn có óc cầu tiến và thích tìm hiểu, anh ta ngồi
xuống với tôi và nói về tác phẩm này vì anh cũng đã đọc qua. Sau đó chúng tôi
bàn về những tác phẩm hay mà anh ta đã đọc hoặc muốn đọc. Phần nhiều những sách
anh nói tới, tôi đều đọc qua và chúng tôi bàn với nhau về chuyện văn chương rất
tương đắc. Điều tôi nhận xét đầu tiên về người cán bộ này là anh thích văn
chương, đọc sách nhiều, thích tìm hiểu nhưng chưa “tiêu hóa” được, đúng hơn là
anh không đủ trình độ tiêu hóa những tư tưởng trong các tác phẩm anh đã đọc.
Sau lần nói chuyện, thỉnh thoảng anh lại
vào chỗ tôi chơi và câu chuyện thường là xoay quanh những vấn đề trong một vài
quyển sách mà anh đọc. Chúng tôi cùng bàn với nhau rất tương đắc. Anh đọc khá
nhiều loại sách của các tác giả Tây phương và cả Tam Quốc Chí, Thủy Hử và nhiều
sách khác nữa.
Thời gian sau, tôi khỏe lại và theo đội
ra ngoài lao động nên ít khi gặp lại người cán bộ an ninh thích tìm hiểu về
sách vở này. Một hôm, anh gọi tôi lên làm việc. Cũng nên biết qua, cán bộ an
ninh trong trại quyền hạn rất lớn và khi gọi ai đi “làm việc” thì hiểu là
người đó không phải đi lao động. Sau khi xuất trại lao động xong, anh cho một
cán bộ vào đưa tôi ra văn phòng của anh, nằm khá xa bên ngoài cổng trại.
Khi tôi bước vào, anh đón tôi bằng
một nụ cười, mặc dù đó không phải là nụ cười hoàn toàn thân ái, nhưng cũng
không phải là nụ cười giả tạo. Phải nói là nụ cười của hai người đã có những lần
nói chuyện với nhau về một vấn đề không nằm trong phạm vi giữa cán bộ và tù
nhân, đó là vấn đề văn chương. Hôm đó, anh mặc quần màu vàng của công an, áo sơ
mi trắng ngắn tay. Phòng làm việc này khá nhỏ và đơn sơ, chỉ có một tủ nhỏ có lẽ
chứa hồ sơ, một cái bàn nhỏ bên trên có bộ chén trà và bao thuốc lá thơm. Bên cạnh
bao thuốc lá có một bìa đựng hồ sơ mà tôi đoán là hồ sơ của tôi.
Từ khi về lại trại Nam Hà tới giờ
đã 5 tháng, nhưng tôi chưa bao giờ được gọi đi làm việc. Thật ra, cũng chẳng
còn gì để mà họ khai thác. Những gì đã xảy ra trong 13 năm qua, họ đã biết quá
rõ về tôi. Vả lại lúc này gần như tất cả những người tù miền Nam đã được về hết
rồi, còn khai thác gì nơi tôi nữa. Nghĩ như vậy nên tôi rất bình thản, và nhất
là tôi đã nhiều lần tiếp xúc với người cán bộ an ninh của trại này rồi. Sau khi
pha trà và mời thuốc tôi một cách khá thân mật, anh ta nhẹ nhàng bảo tôi là những
lần trước nói chuyện với tôi, anh thấy rất thích và hôm nay muốn để tôi ở nhà để
nói chuyện tiếp.
Lối mở đầu câu chuyện của anh
làm bầu khí giữa hai người trở nên nhẹ nhàng và tự nhiên. Chúng tôi ngồi uống
trà nói chuyện. Phần đầu câu chuyện liên quan tới sách vở, sau đó bàn qua về
các trào lưu tư tưởng Âu Châu. Anh hỏi tôi về ngày tàn của đế quốc La Mã, về cuộc
cách mạng Pháp năm 1789, những điều này anh có đọc nhưng không hiểu hết. Sau một
lúc nói chuyện rất tự nhiên, anh hạ giọng hỏi tôi:
- Anh Lễ, một phần
nào anh đã hiểu tôi, vậy tôi muốn nghe anh nói thật ý nghĩ của mình. Anh nghĩ
thế nào về chủ nghĩa cộng sản?
Câu hỏi này của người Sĩ quan an ninh
của trại làm tôi hơi đắn đo. Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy cả. Anh ta
nói đúng, một phần nào tôi đã hiểu được tư tưởng của người cán bộ có cái nhìn
phóng khoáng này. Suy nghĩ một lúc, tôi nói rất thân ái:
- Ông T. à, tôi
không nghĩ là ông thăm dò tư tưởng tôi.
Anh ta cười
nhẹ, một cái cười có vẽ khổ tâm vì người đối thoại chưa tin nơi sự thành thật của
mình, trong khi đã giãi bày cặn kẽ. Anh trả lời:
- Anh Lễ, tôi đã đọc
hồ sơ anh thật kỹ, và chính cũng vì hiểu anh nên tôi mời anh lên để nói chuyện
riêng tư. Tôi còn phải thăm dò anh làm gì nữa.
Nói xong, anh ta lật bề kia của bìa đựng
hồ sơ của tôi, cho tôi thấy hàng chữ nằm ngang:“Thành phần không thể cải tạo được”,
đóng bằng nét mực đen. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái bìa hồ sơ cá
nhân của tôi. Tôi buồn bã đáp lời:
-Ông T. à! Ông hỏi
thì tôi phải nói, cho dù sau đó ông có cùm tôi, tôi cũng vẫn nói.
Tôi dừng lại
một chập rồi nói tiếp:
-Mà nói cho cùng,
tôi đã quen với cảnh bị cùm rồi, còn gì phải sợ nữa! Tôi nói thật lòng, tôi vẫn
nghĩ là chế độ cộng sản không thể tồn tại được ông ạ!
Nói xong, tôi
nhìn cán bộ T.. Anh ngồi yên, gật đầu nhè nhẹ và hỏi:
-Anh căn cứ vào đâu
mà nghĩ như thế?
- Câu hỏi của ông
quá rộng, tôi không thể kể hết nguyên nhân. Nhưng chỉ nguyên một việc chủ nghĩa
cộng-sản chủ trương đi ngược lại với bản chất tự nhiên của con người là
nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định. Quyền tư hữu là một quyền
căn bản thiết thân của con người, nó đi liền với bản năng của con người. Ai cố
gắng tước bỏ điều đó là chống lại với khuynh hướng tự nhiên, mà hễ điều gì đi
ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thì không thể nào tồn tại được. Thực tế,
quyền tư hữu con người có bị tước đoạt được hay không, ông là một đảng viên,
ông hiểu rõ hơn tôi!
Anh ta ngồi
trầm ngâm sau câu trả lời khá dài của tôi. Một lúc sau anh ta nói, nói thật nhỏ
chỉ vừa đủ hai người nghe:
- Anh Lễ, anh hãy
giữ suy nghĩ ấy trong lòng và đừng nói ra, không có lợi. Tôi cũng có suy nghĩ
như anh. Nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ. Anh
Lễ, tôi quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về anh hãy tìm
cách ra khỏi nước mà sống. Phần tôi, không làm gì khác hơn được. Vả lại, còn miếng
cơm manh áo của gia đình vợ con tôi nữa!
Nghe anh nói, tôi rất cảm động. Vô
tình tôi định cầm lấy bàn tay anh, nhưng chợt nhớ lại dù sao cũng còn bức tường
ngăn cách giữa hai người mà lúc này chưa có thể vượt qua được, nên tôi dừng tay
lại. Trong thâm tâm, tôi quý mến người cán bộ này hết sức và thương cho hoàn cảnh
của anh. Từ đó, chúng tôi rất quý nhau. Bên ngoài chúng tôi bị hoàn cảnh ngăn
cách nhưng bên trong chúng tôi đã coi nhau như bạn. Đúng hơn, anh ta coi tôi
như một người anh.
TÔI PHẢI SỐNG (46)
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Ngày Trở
Về (3)
Cộng đoàn
tình thương
Trong thời
gian này nhóm “Cộng đoàn tình thương” chúng tôi đang trên đà phát triển mạnh.
Những anh tù tôi vừa Rửa tội xong đã trở nên những chiến sĩ đức tin rất nhiệt
thành. Qua việc thực tập cuộc sống chia sẻ trong tù, các anh thấy có một lý tưởng
để sống vì đây là một kinh nghiệm lạ lùng. Đối với các anh em đó, làm gì có cuộc
sống chia sẻ trong môi trường chỉ biết có bắt nạt, lừa đảo, tranh giành, chém
giết nhau vì miếng ăn như trong nhà tù này. Các anh em đã tìm thấy được niềm
vui trong khi thực hiện các lời trong bài hát “Kinh Hòa Bình” của Thánh
Phanxicô Assisiô mà tôi tập cho anh em hát. Cả những anh Trung Quốc cũng hát tiếng
Việt, nhưng tôi dịch nghĩa sang tiếng Tàu cho họ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp
lại bản thân.”
Đây là
lúc tôi nhận thấy rõ rệt nhất những hoạt động của chức vụ Linh mục đạt được nhiều
kết quả và Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu đối với đám tù nhân khốn khổ của
chúng tôi. Càng ngày tôi càng thấy yêu thích cuộc sống của tôi lúc bấy giờ. Một
cuộc sống rất hạnh phúc mà trước kia lòng ước vọng tự do thúc đẩy quá mãnh liệt
đã che lấp không cho tôi nhận ra đâu là ý Chúa muốn tôi phải làm.
Có
những đêm tôi dạy giáo lý cho một số anh em, kể chuyện Kinh Thánh cho một số
khác. Anh em vui vẻ, ngồi lắng tai nghe. Có nhiều người cảm động nói từ trước tới
nay chưa bao giờ được nghe những lời như thế. Từ lâu nay, cứ tưởng Công Giáo là
một cái gì ghê gớm và độc ác và nhơ bẩn như được diễn tả trong phim “Ngày Lễ
Thánh” được nhà nước cho chiếu khắp nơi, hoặc trong cuốn sách “Gia-Tô Tây Dương
Bí Lục” mà đảng cộng-sản phổ biến rộng rãi để nói về “nguồn gốc” và cách hành đạo
của Thiên Chúa Giáo! Có những anh thành thật nói, nếu con không gặp cha làm gì
con hiểu được con người phải có tình thương và sự tha thứ! Những nhận xét đơn
sơ của các anh tù đó đã an ủi tôi và tôi cám ơn Chúa đã cho tôi được sống trong
hoàn cảnh này. Điều làm tôi mừng và cảm thấy hạnh phúc là Chúa đã gọi tôi làm
chứng nhân cho tình yêu Chúa ngay trong môi trường đầy hận thù này.
Lúc đó,
có một số giáo dân ở xứ Bắc Hải trong Nam quyên góp gửi quà cho các Linh mục.
Bây giờ tất cả được về, họ vẫn tiếp tục gửi quà cho tôi. Mỗi lần nhận được quà,
tôi dành một phần, giao cho anh em trong nhóm “Tình thương” phân phát, bắt đầu
từ những anh em túng thiếu nhất. Nói về phần nhân loại thì thực sự lúc đó tôi
đang sống trong ngục tù, nhưng về phần tinh thần thì tôi phải nói thẳng là chưa
bao giờ tôi thấy hiệu quả trong chức vụ Linh mục như lúc bấy giờ. Khi tôi ý thức
và chọn con đường làm Linh mục lúc 20 tuổi là chính vì lý tưởng phục vụ tha
nhân, và lúc này tôi đang được sống trọn vẹn cho lý tưởng mà tôi đã chọn.
Tôi
vẫn biết không có gì là bền vững trong nhà tù. Di chuyển và thay đổi là chuyện
thường xảy ra. Dù vậy, tôi vẫn mong cuộc sống như hiện tại kéo dài, vì tôi coi
đây là chỗ mà tôi phải sống. Nếu ý Chúa muốn tôi phải chết ở đây, trong khi tôi
đang thi hành chức vụ Linh mục như thế này, thì cũng là điều tôi mong muốn.
Về phía
cán bộ, dần dần tôi không còn thấy họ là những con người đáng sợ và xa lạ nữa.
Ngược lại, họ cũng chỉ là những người vì hoàn cảnh, vì cuộc sống mà khép mình
vào một khuôn khổ, mà chính họ cũng không thấy thoải mái trong khuôn khổ này. Nếu
những năm đầu, một số cán bộ đã hành sử quyền hạn thái quá làm cho tôi đôi lúc
có ý tưởng ghét bỏ con người, thì giờ đây, sau hơn chục năm giao tiếp, tôi thấy
các cán bộ là những người đáng thương hơn là đáng trách.
Có đáng
trách chăng là một thể chế chính trị, chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của đảng
mà đã trói buộc cả một dân tộc vào trong guồng máy đó. Cơ chế đảng cộng sản như
một con quái vật do con người sanh đẻ ra nó, nhưng khi sanh nó ra rồi, thì
không cách gì có thể kềm chế được sự hung hãn của nó. Nó quay ra ăn thịt bất cứ
ai, ngay cả người sanh đẻ ra nó.
Đối với
tôi, điều quan trọng không phải là chúng ta tiêu diệt con người, ngay cả những
con người đang phục vụ trong chế độ cộng sản. Điều chúng ta phải làm là bằng mọi
cách loại bỏ cơ cấu chính quyền vô nhân được xây dựng trên một ý thức hệ ngoại
lai lỗi thời. Chính ý thức hệ đó đã làm tan nát tình dân tộc của chúng ta. Ngay
chính những người đang phục vụ đảng, cũng có người biết là họ đang đi sai con
đường, nhưng khi đã dính chân vào tròng, họ không còn đường trở lui.
Trừ ra những
kẻ chủ trương duy trì cơ cấu đảng để trục lợi, để đè đầu cỡi cổ dân tộc, để hối
lộ, tham nhũng, vơ vét tài nguyên đất nước, những kẻ đó là tội đồ của dân tộc.
Trong khi đó, đa số cán bộ ở cấp thấp là nạn nhân hơn là tội phạm. Tư tưởng này
đã làm tôi thoải mái trong cuộc sống lúc bấy giờ và tôi nhìn tất cả đều là những
người anh em. Cho dù là họ có thể không chấp nhận tôi, nhưng tôi vẫn nhận họ là
những người anh em với tôi trong đại gia đình dân tộc.
Cũng
trong thời gian này lại có một hiện tượng lạ xảy ra trong trại. Lúc đó, một anh
Trung Quốc trong số con cái tôi tên Trịnh Minh Hoa, nguyên trước kia là một y
sĩ bên Tàu, tự nhiên anh nổi tiếng về việc chẩn bệnh. Anh bắt mạch và đoán đúng
những chứng bệnh mà không ai tìm ra. Các bệnh nhân sau đó đi bệnh viện kiểm chứng,
các bác sĩ cũng nói y như vậy. Anh dùng cách bắt mạch, coi mắt, coi lưỡi và các
móng tay của bệnh nhân và nói thật chính xác người đó mắc chứng bệnh gì. Bệnh
nhân mua thuốc uống thì khỏi.
Tin
lành đồn xa. Bắt đầu có nhiều cán bộ và gia đình họ vào nhờ anh Minh Hoa xem mạch
bốc thuốc. Lúc đầu chỉ trong phạm vi trại Nam Hà, về sau này có những người từ
các nơi xa cũng tới tìm anh. Anh Minh Hoa lại không nói được tiếng Việt nên tôi
đóng vai trò người thông dịch. Lúc này Trung úy T. cũng có ý muốn nhờ tôi dạy
Anh văn, nên nhân cơ hội tôi lo thông dịch giúp tiếng Quan Thoại, anh xin với
cán bộ quản giáo cho tôi khỏi đi lao động. Từ đó tôi giao đội lại cho đội phó
và ở nhà dạy tiếng Anh vào các buổi chiều cho Trung úy T.
Thời gian
đó, Trung úy T. thường hay vào chỗ tôi chơi vào các giờ ban sáng. Thường là tôi
pha chè (nước trà) mời và chúng tôi cùng ngồi uống chè bàn việc học Anh văn.
Anh rất thích học nhưng vì thiếu căn bản nên không tiến bộ nhiều, nhất là việc
luyện giọng buổi ban đầu rất khó khăn. Trung úy T. lúc đó quảng 35 tuổi, khổ
người rắn chắc, da trắng, mắt hơi nâu và có nhiều râu như người lai Tây. Anh là
người hay nói cười, tánh tình cởi mở, phóng khoáng. Gia đình anh ở Hà Nội, vợ
là cô giáo và có một cháu gái 4 tuổi, đang ở với mẹ. Thỉnh thoảng anh đưa cháu
xuống trại chơi vài hôm. Cháu rất xinh trong bộ đồ đầm màu trắng. Sự quan hệ giữa
chúng tôi càng ngày càng mật thiết qua các lớp học tiếng Anh này.
Có những
cán bộ làm việc lâu trong trại đã khá thân thiện với những người tù miền Nam ở
đây trước tôi, trong đó có Trung úy Lực là cán bộ trực trại. Anh quen biết tôi
nhiều trong thời gian tôi hay qua lại buồng 9 của các tướng lãnh trước kia. Thời
gian đó, anh hay vào buồng ngồi đánh cờ tướng. Ngoài ra, người nữ cán bộ tài vụ
mà tôi gặp ngay từ ngày đầu, sau này tôi biết tên là KT, thỉnh thoảng cũng vào
chỗ tôi chơi. Nhất là sau ngày cô đi Nam trong dịp chuyển tù về trại Hàm Tân. Sự
đi lại và tiếp xúc đó dần dần tạo nên sự cảm thông giữa người với người. Lúc
đó, điều tôi nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo ra càng
lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của tôi, chỉ
vì một chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam chúng tôi bị phân rẽ và nhìn
nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc chúng tôi là một, chẳng có vì lý do gì
phải chia rẽ, hận thù hoặc chém giết nhau.
Tư tưởng
này ám ảnh tôi từ những ngày tôi mới bị bắt vào tù qua các câu chuyện tôi không
sao quên được. Khi đó, tôi đang ở trại Gia Ray, tỉnh Long Khánh. Hàng ngày, đội
chúng tôi đi lao động khai hoang dọn đất chung quanh trại cho những đội trồng
trọt canh tác. Thường thì chúng tôi lao động không xa khu vực nhà khách, tức là
chỗ để thân nhân tù nhân lên thăm gặp. Như thế mặc dù không được tiếp xúc nhưng
người nhà có thể thấy chúng tôi đang cuốc đất khai hoang gần bên.
Có một lần,
tôi không nhớ vì chuyện gì mà một anh cán bộ võ trang rất trẻ, chừng 18 tuổi, tập
trung cả đội lại đứng dọc theo vách sau nhà khách và chửi mắng chúng tôi thậm tệ
trước mặt bao nhiêu thân nhân của tù đang đứng chờ trong nhà khách. Khi chửi,
có lúc cao hứng anh gọi chúng tôi là “những con rận sống trong cạp quần của đàn
bà! Cách mạng không bắn các anh vì sợ tốn một viên đạn của nhân dân!” Chúng tôi
đứng yên trong hàng và cúi đầu nghe anh ta chửi, trong khi đó tôi thấy một số
các bà các cô đứng trong nhà khách gần đó đưa tay gạt nước mắt.
Lúc đứng
trong hàng, lòng tôi vô cùng đau xót vì thương anh cán bộ còn trẻ này được huấn
huyện để chửi những con người đáng tuổi cha chú mình. Tôi chợt nghĩ nếu tôi có
con thì anh ta đáng tuổi con trai lớn của tôi, và nếu anh ta sanh ra trong xứ đạo
tôi có thể anh là một trong những học trò giúp lễ của tôi! Bỗng dưng tôi thương
anh hết sức, và qua anh, tôi thương cho một thế hệ trẻ Việt Nam sanh ra và lớn
lên trong chiến tranh tương tàn đã hành sử theo cái nhìn của những con người vì
một chủ nghĩa ngoại lai mà quên đi tất cả tình dân tộc. Anh đang phục vụ
cho một thể chế chính trị đang chiến thắng, nhưng anh đâu có hiểu rằng thể chế
nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
Cánh hoa
đồng nội
Lúc này,
tôi thường có dịp tiếp xúc với cô KT, người cán bộ tài vụ. Sau chuyến vô
miền Nam, cô có nhiều chuyện để nói với tôi. Tôi phải nhận là chuyến vào Nam lần
đầu tiên đó đã làm cô thích thú. Cô đã thay đổi cái nhìn và lối suy nghĩ
rất nhiều. Một hôm, cô vào trại tìm tôi có việc liên quan tới tài chánh, sau đó
cô hỏi trong Nam tôi ở tỉnh nào. Tôi nói ở Vĩnh Long, thuộc miền đồng bằng sông
Cửu Long. Tôi kể với cô sơ qua về phong cảnh và sự trù phú của miền Tây. Cô rất
chăm chú nghe nhưng có vẻ không hiểu lắm vì chuyến đi Nam vừa rồi của cô ít giờ
quá, không có dịp đi thăm nhiều nơi, và nhất là không quen ai trong Nam. Cô vui
vẻ hỏi tôi:
- Anh ở Vĩnh Long nhưng có biết nhiều về thành phố Hồ Chí Minh không?
Tôi bị dị ứng khi nghe ai gọi Sài Gòn bằng cái tên chính trị của nó. Mặc dù cô
gọi tên đó một cách rất tự nhiên, tôi trả lời:
-Cái thành phố mà cô vừa hỏi thì tôi không biết, nhưng tôi biết Sài Gòn rất rõ
vì tôi học ở đó 7 năm.
Người nữ
cán bộ tỏ ra bất ngờ trước câu trả lời của tôi. Cô nhìn tôi bằng đôi mắt mở to
dưới hàng mi cong, nhưng liền đó cô tỏ ra nhạy cảm với tâm trạng tôi nên yên lặng,
mỉm cười:
-Anh Lễ này! Sao mà anh “gớm” thế? Thôi, đừng để những việc đó làm chúng ta mất
vui. Tôi chẳng có ý gì đâu, tôi chỉ muốn nghe anh nói thêm về thành phố Hồ...thành
phố Sài Gòn, mà phải nói là tôi rất thích trong lần vào đó. Lần đó, có mấy anh ở
đây nhờ tôi tới thăm gia đình. Người nhà tiếp tôi nồng hậu lắm anh ạ. Tôi được
tặng nhiều quà lắm. Lúc trở ra, cháu trai rất thích vì mẹ mang về nhiều đồ
chơi.
Nói xong
nàng nở nụ cười thật hồn nhiên của một cô gái quê Việt Nam thuần túy. Sau đó,
nàng nói qua các nơi nàng đã có dịp ghé như Thủ Đức, Nhà Bè v.v... Những đêm ở
Sài Gòn, cô ở và làm việc tại An Ninh Nội Chính, và hỏi tôi có biết nơi đó
không. Tôi nói đã bị giam ở đó khi vừa bị bắt và tôi có bà cô ở đối diện bên
kia đường.
Từ đó, KT
hay vào thăm tôi vào buổi sáng trong giờ cả trại đi lao động, vì cô biết tôi bận
lớp Anh văn ban chiều. Khi vào, trên tay nàng lúc nào cũng có quyển sổ tài
chánh, nhưng có rất nhiều lần cuốn sổ ấy không được dùng vào việc gì. Những lần
vào chơi, cô thích kể chuyện về chuyến đi Nam cho tôi nghe, nói là cho tôi đỡ
nhớ nhà! Giọng nói rất nhẹ nhàng, dí dỏm, phù hợp với vóc dáng mảnh mai của
nàng.
Lúc
nào KT cũng mang tính cách đơn sơ và e lệ của một cô gái mới lớn, điều này trái
ngược với tuổi đời trên dưới ba mươi của nàng. Mái tóc dài che phủ bờ vai. Về
sau này, mái tóc được quấn ngược lên cao, vì buổi trưa hè hôm ấy, KT vào thăm
và tôi khen quấn như thế đẹp. Cũng không mấy khi thấy nàng mặc sắc phục, vì có
lần nàng mặc sắc phục , lúc vui miệng tôi nói:
-Không hiểu tại sao, khi thấy cô mặc sắc phục công an tôi sợ lắm.
Nàng làm ra vẻ nghiêm trang, hỏi tôi:
-Tại sao anh lại sợ?
- Tôi cũng chẳng biết tại sao! Có lẽ tại máu tôi không hợp với màu sắc này!
KT không nói gì, yên lặng trong giây lát và nhìn tôi tỏ vẻ cảm thông vì nàng đã
biết lịch sử đau thương của cuộc đời tù tội của tôi. Lúc sau nàng hỏi:
- Anh Lễ này, nghe nói lúc ở trại Thanh Cẩm anh trốn trại và bị hành hạ kinh lắm
phải không? Anh ở trại đó bao lâu nhỉ?
-Vâng, lần đó tôi bị đánh nhiều và bị cùm 3 năm!
- Kinh thế! Anh ở trại đó trong bao lâu?
- Đúng mười năm cô ạ, từ 1978 tới 1988. Khi mới từ Nam ra năm 1977, tôi vào trại
Nam Hà này. Sau đó, chuyển lên “Cổng Trời” mất một năm. Chừng chiến tranh biên
giới xảy ra, tôi được đưa về Thanh Cẩm 1978, rồi lại về đây! Lúc tôi ở đây lần
đầu, ông Thịnh mới là Thượng sĩ trực trại. Bây giờ gặp lại, ông ta đã là Thượng
úy rồi. Cô KT này, mười một năm về trước, khi tôi ở trại này, lúc bấy giờ cô
làm gì và ở đâu?
-Năm đó tôi chưa vào ngành, còn ở nhà quê tại Vũ Lễ, Thái Bình.
Cô nói tiếp
giọng nói thật buồn:
- Anh Lễ, sau thời gian tiếp xúc với các anh miền Nam và nhất là sau chuyến đi
này, tôi đã hiểu được các anh nhiều hơn. Sau khi có dịp nói chuyện nhiều với
anh, tôi thật kính phục những con người như anh.
Đã từ
lâu, tôi nhận thấy tình cảm đặc biệt của nàng đối với tôi qua cử chỉ, thái độ
và cách nói năng. Càng ngày, tôi càng hiểu điều đó qua ánh mắt, nụ cười trong
các câu chuyện nàng kể, nhất là qua sự ân cần giúp đỡ tôi trong các việc liên
quan tới phần vụ của nàng, mặc dù trong tư thế quá khác biệt. KT là một cán bộ
và đã có chồng con, nàng có một đứa con trai độ 6 tuổi. Còn tôi là một tù nhân,
lại là một Linh mục và là kẻ đã gây ra quá nhiều sóng gió trong trại. Nhưng các
thứ đó hình như không là trở ngại đối với tình cảm dạt dào của nàng.
Khoảng đầu
tháng 6 năm 1988, lại có biến chuyển khác. Tất cả những người tù Trung Quốc được
chuyển hết đi nơi khác. Tôi rất buồn khi phải chia tay với họ. Tôi đã ở chung
và chia sẻ bao nhiêu đau khổ với họ trong những năm ở nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm.
Những người tù ngoại quốc này thường sống dựa vào sự giúp đỡ tinh thần và vật
chất của chúng tôi. Ngược lại, họ đã giúp tôi học và nói thông thạo tiếng Quan
Thoại.
Tất cả những
người Trung Quốc này đã bị giam 16 năm rồi. Về trại này, tôi đã Rửa tội cho 5
người và tôi coi họ như những người con tinh thần của tôi. Tôi đã giúp họ tìm
thấy niềm vui trong cuộc đời khổ ải qua các việc bác ái trong nhóm “Cộng đoàn
tình thương”. Trước đó, tôi cũng thường nói với họ, cuộc sống trong nhà tù thay
đổi lúc nào không hay, tôi muốn gửi nơi anh em đức tin mà anh em đã lãnh nhận
qua Bí tích Rửa tội. Sau này, hãy mang đức tin đó gieo rắc nơi nào các anh em sẽ
tới, nhất là có dịp mang về quê hương Trung Quốc của anh em. Việc ra đi của
nhóm tù Trung Quốc làm tôi u sầu trong một thời gian rất lâu. Từ đó về sau, tôi
không còn bao giờ nghe biết gì về họ nữa!
Sau khi
nhóm tù Trung Quốc chuyển đi rồi, tôi cảm thấy rất trống vắng. Tôi vẫn ở nhà dạy
tiếng Anh cho Trung úy T. Những buổi sáng rảnh rỗi, tôi thường giúp anh trực
sinh buồng lo quét dọn vệ sinh, lấy nước sôi cho buồng, sau đó ngồi trong nhà
ăn soạn bài vở cho giờ lớp ban chiều. Thường thì chỉ có mình Trung úy T. học,
nhưng có mấy lần vài cán bộ khác cũng vào dự thính lớp tiếng Anh của tôi. Lúc bấy
giờ đã cuối chầu, trại Nam Hà sao thật buồn tẻ. Số tù hình sự đông hơn tù chính
trị miền Bắc.
Cuối chặng
đường
Một buổi
sáng giữa tháng 7 năm 1988, Trung Úy T. vào thăm tôi. Hồi này trình độ tiếng
Anh của anh đã tương đối khá nên mỗi khi anh vào, chúng tôi tập chào nhau bằng
tiếng Anh và đàm thoại vài câu ngắn và dễ. Anh tỏ ra rất thích thú khi bặp bẹ
được vài câu tiếng Anh trong khi tất cả mọi cán bộ khác chẳng ai biết chút gì.
Anh rất siêng học, chỗ nào không hiểu thường mang vào hỏi tôi và tỏ ra rất hứng
thú khi có dịp thực tập với tôi.
Khác hơn
mọi lần, sáng hôm đó, vừa ngồi với tôi một lúc, anh đứng lên từ giã, nói là
đang chuẩn bị đi phép một thời gian và chúc tôi ở lại mạnh giỏi. Anh cũng không
nhắc gì tới việc học tiếng Anh đang dở dang. Khi tôi nhắc việc này, anh yên lặng
một lúc rồi nói cứ tạm thời nghỉ, khi anh về hẵng hay. Nhưng sau đó anh nói tiếp,
nếu vì lý do gì không gặp lại thì tôi hãy nhớ lời anh dặn. Tôi hơi ngạc nhiên
vì thấy có cái gì hơi khác trong lối nói của anh. Nếu chỉ đi phép vài ngày như
những lần trước thì sao anh lại dặn dò tôi như thế. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Ông T., ông nói gì vậy? Bộ ông chuyển đi nơi khác à?
Anh ta đáp tự nhiên:
-Không hẳn đâu anh ạ! Nhưng làm sao biết được chuyện ngày mai!
Nói xong anh đứng lên và nhìn tôi mỉm cười. Tôi nói tiếp:
-Cho tôi gửi lời thăm gia đình ông, thăm cháu bé và cô.
Anh ta gật đầu:
- Cám ơn anh Lễ. Anh ở lại mạnh giỏi, tôi đi đây.
Nói xong,
anh bước ra cửa khá nhanh, tôi theo sau tiễn chân. Trước khi khuất dạng vào
hành lang dẫn ra sân trại, anh còn quay lại nhìn tôi mỉm cười và đưa bàn tay
trái lên làm dấu hiệu từ giã rất nhẹ nhàng.
Khi cán bộ
T. đi rồi, tôi quay vào buồng, vừa đi vừa thắc mắc về lối chào tạm biệt của
anh. Những lần trước, khi về Hà Nội hoặc đi phép vài ngày anh cũng vào chào từ
giã tôi và nói nghỉ học một vài hôm. Nhưng cách nói úp mở hôm nay của anh làm
tôi đoán anh sẽ chuyển đi nơi khác. Ý nghĩ này làm tôi chợt buồn, rất buồn. Thì
ra tôi quý mến người cán bộ này sâu đậm hơn là tôi tưởng! Nếu thực sự anh đi
nơi khác thì tôi mất một người bạn quá tốt trong hoàn cảnh đặc biệt này. Tôi đã
mất các anh em Linh mục, tôi đã mất những người bạn trong đợt chuyển vào Nam, tôi
vừa mất những anh Trung Quốc mà tôi coi là con tinh thần của tôi, bây giờ nếu
tôi mất Trung úy T. nữa, chắc chắn là tôi sẽ rất buồn. Tôi thầm cầu mong cho việc
đó đừng xảy ra.
Trở vào
nhà ăn, tôi ngồi xuống ghế vì cảm thấy hơi choáng váng khó chịu trong người.
Quyển vở tôi soạn bài Anh văn chiều nay đang nằm trên mặt bàn. Tôi với tay gấp
lại vì chiều nay không có lớp. Tôi ngồi thừ ra một hồi lâu và ôn lại kỷ niệm về
người cán bộ an ninh mà tôi quý mến. Tôi hồi tưởng lại từ lần đầu gặp gỡ tới những
ngày tháng chúng tôi gặp nhau trong lớp tiếng Anh. Tôi vẫn nhớ lời anh thường
nói:“Anh Lễ, tôi cám ơn anh đã giúp tôi biết về tiếng Anh.”
Thời gian
trước đó trong trại lại kháo láo nguồn tin,“sắp có đợt tha”! Cá nhân tôi chẳng
mong được về và cũng chẳng để ý tới những diễn biến có dấu chỉ sẽ được phóng
thích. Lần đầu tiên tôi nghe nói tới vấn đề này khi được thư của người bạn gửi
vào cho biết đang có cuộc thương thuyết Mỹ-Việt. Phía Hoa Kỳ đại diện bởi Tướng
hồi hưu John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống Reagan, bàn về vấn đề bình
thường hóa ngoại giao giữa hai nước. Một trong các điều kiện phía Mỹ đưa ra là
yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải thả hết những lãnh đạo tôn giáo còn trong tù.
Anh em cho biết là tôi có hy vọng được về nhờ yếu tố này.
Ngoài
ra, một số người về trước, qua Mỹ, cũng đã nhờ Tổ chức Ân Xá Quốc Tế can thiệp
giúp để tôi được phóng thích. Tôi nghe chỉ để mà nghe, chẳng mong mỏi và cũng
chẳng hy vọng, nhất là tôi không coi đó là điều cần thiết nữa. Lúc đó, tôi đang
bận tâm củng cố lại nhóm “Cộng đoàn tình thương”, sau khi số anh em Trung Quốc
nhiệt tình đã ra đi. Nhóm tù chính trị miền Bắc cũng rất hăng say trong hoạt động
của nhóm trong lúc này.
Bấy giờ lại
có một dấu hiệu khác. Khoảng tháng 6 năm 1988, có phái đoàn y tế của bộ về làm
việc trong trại. Khi phái đoàn y tế vào trại, tôi được gọi lên và hỏi qua về bệnh
tình, về thời gian cải tạo. Có điều rất buồn cười là anh cán bộ y tế lại méo mó
nghề nghiệp. Khi biết tôi là một Linh mục anh hỏi tôi nghĩ gì về vụ phong thánh
cho 117 Thánh Tử Đạo sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 6. Lúc đó, vấn đề phong thánh
đang gây tranh luận. Trong tù, có báo Nhân Dân và qua đó, tôi được biết Nhà nước
Việt Nam phản đối vụ này ghê lắm. Tôi trả lời với ông ta:
- Tôi ở trong này không có đầy đủ thông tin nên tôi không có ý kiến gì, nhưng
tôi cũng xin trả lời. Với tư cách là người Việt Nam, thân xác tôi thuộc quyền
Chính phủ Việt Nam, nhưng với tư cách là một Linh mục, linh hồn tôi thuộc về
Tòa Thánh. Bất cứ điều gì Tòa Thánh quyết định, tôi vâng theo.
Nghe tôi nói thế, anh ta không hỏi thêm nữa.
Khi tôi về
buồng, các anh em tới thăm và cho biết, khi phái đoàn y tế vào trại gọi ai là
người đó được về. Nghe xong tôi chỉ cười nói:“Chừng nào dê đực đẻ con tôi mới
được về! Trong tù không có tin gì làm mọi người háo hức và săn đón cho bằng
tin có đợt phóng thích, vì thế mấy ngày nay cả trại cứ bàn tán xôn xao về tin
này.
Khi cán bộ
T. đi phép được một ngày thì anh văn hóa tên Quỳnh, người Hải Phòng, có biệt
danh là “Quỳnh Ngựa” vì mặt anh dài, nói với tôi sau khi từ cơ quan trở về:“Tôi
nghe nói anh có tên trong đợt tha lần này.”
Đó
là lần đầu tiên sau 13 năm tôi được nghe nói tôi có thể được tha về. Nhưng khổ
nỗi, tin này đến với tôi trong lúc tôi không còn mong đợi nữa, nếu không muốn
nói là thất vọng khi nghe tin đó. Vì nếu có về đi nữa thì cũng chỉ là chuyển từ
một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước ra khỏi đây để trở về xã hội bên
ngoài, chưa chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích
thực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây.
Sáng hôm
sau, trại xuất quân lao động nhưng tôi vẫn được nghỉ vì chưa bình phục hẳn sau
trận kiết lỵ và cán bộ y tế cho tôi nghỉ dưỡng bệnh một thời gian dài. Buổi
sáng trong trại rất vắng lặng, thỉnh thoảng thấy trực sinh các buồng đi lại dọn
dẹp hoặc lấy nước sôi. Trong lúc tôi đang giúp anh trực sinh buồng quét sân thì
cô KT bước vào.
Hôm
nay cô vào sớm hơn thường lệ, trên tay không cầm quyển sổ quen thuộc, chỉ có một
tờ giấy trắng được cuộn tròn lại như ống tre. Mỗi lần cô vào chơi đều mang lại
cho tôi niềm vui với nụ cười rất tự nhiên và cách nói chuyện thật duyên dáng của
cô. Thấy cô bước vào sân, tôi dừng tay và tiến ra tới đầu hồi nhà ăn của đội gần
bên cửa ra vào sân, tiếp chuyện:
- Sao mấy hôm nay không thấy cô đâu cả?
KT trả lời có vẻ kín đáo:
- Mấy hôm rồi tôi bận quá anh ạ!
Tôi đùa lại bằng một câu có vẻ triết lý...vụn:
-Có lần tôi đọc được câu:‘‘Người bận việc là người hạnh phúc!’’ Cô đang hạnh
phúc đấy!
Cô cười, đáp lại:
- Gớm thật! Anh thì lúc nào cũng chữ với nghĩa! Tôi xin nhường cái hạnh phúc đó
cho anh, tôi chỉ muốn được nghỉ ngơi thôi!
-Cô không nhường thì tôi cũng đã có rồi, lúc nào tôi chẳng bận.
KT tấn công:
- Anh nói thế! Như hôm nay không lao động, anh bận gì nói tôi nghe nào?
- Tôi bận mà cô không biết đó thôi.
Cô trợn mắt nhìn tôi:
- Anh bận gì?
-Tôi bận suy nghĩ đến cô đi đâu từ mấy ngày nay!
Cô cười bẽn lẽn :
- Gớm! Anh nói thế!
-Tôi biết ngay là cô không tin, đúng không?
Nàng yên lặng một chút, khẽ e lệ, gật đầu:
- Tôi tin!
Tôi đùa vui:
- Cô thấy chưa? Tôi đang bận nên lúc nào tôi cũng hạnh phúc!
Sau câu nói đùa của tôi, cả hai cùng cười. Cô bước lại gần tôi và nói nhỏ nhẹ
cách bí mật:
- Anh Lễ này, anh khao đi!
Tôi đoán
biết có cái gì khác thường trong thái độ của KT sáng nay. Nhất là sau những tin
đồn “có đợt tha” trong mấy ngày qua và đặc biệt là anh “Quỳnh Ngựa” đã nói với
tôi. Mặc dù đoán biết một phần nhưng tôi cũng giả vờ bình thản:
-Thì lúc nào cô vào chơi mà tôi chẳng khao, khi thì uống chè, khi thi ăn kẹo...!
Thấy tôi có vẽ không hiểu, cô hạ giọng nói nhỏ:
-Anh Lễ này, anh có tên được về đấy!
Như vậy
là chắc rồi. Cái tin đó cuối cùng đã đến với tôi. Cái tin mà cả chục năm trời
qua, tôi mong đợi ngày đêm. Cái tin mà trước đây tôi cứ tưởng tượng nó rất ghê
gớm và không có một biến cố vui mừng nào trong đời tôi có thể so sánh được!
Nhưng lúc này khi nó đến, tôi lại đón nhận nó hết sức hững hờ và lạnh nhạt. Tôi
hiểu điều đó nên cố không làm phật ý người đưa tin, người cán bộ mà tôi quý mến.
Tôi yên lặng, lấy lại vẻ trang nghiêm:
- Tôi không tin.
Nghe tôi
nói thế, KT tỏ vẻ cảm thông vì có lần tôi cũng nói cho cô biết là ngoài bìa hồ
sơ tôi có hàng chữ:“Thành phần không thể cải tạo được”. Nàng mỉm cười kín
đáo:
-Anh Lễ, tôi cho anh coi cái này.
Vừa nói cô vừa mở tờ giấy cuộn tròn trong tay ra trao cho tôi:
-Anh coi nhưng không được tiết lộ cho tới khi công bố. Nếu anh nói ra thì tôi
và anh chung một cùm đấy.
Tôi đáp:
-Như thế thì càng thích chứ sao!
- Anh Lễ này! Lúc nào anh cũng đùa!
Vừa nói
nàng vừa giả vờ giật lại không trao tờ giấy cho tôi. Đó là một phụ bản giấy
đánh máy của Quyết Định tha. Có lẽ là bản thứ 3 hay thứ 4 gì đó, nét chữ không
rõ nhưng đọc được dễ dàng. Trong danh sách có tên 14 người và tên tôi nằm ở sau
cùng. Có cả tên cha Nguyễn Bình Tĩnh, anh Nguyễn Đức Khuân và một tu sĩ miền Bắc.
Tôi chăm
chú đọc mảnh giấy khá lâu, không phải để coi có những ai nhưng vì lúc đó tôi
đang ở trong một tâm trạng hết sức lạ lùng. Tôi đọc đi đọc lại tên của
tôi, nhưng tôi lại có cảm tưởng không phải là tôi mà là một cái tên rất quen
thuộc. Tên trong tờ giấy này không thể là của tôi, vì chẳng bao giờ tôi nghĩ là
tên tôi có thể nằm trong một mảnh giấy bắt đầu bằng hàng chữ “Quyết Định Tha”
được. Thấy tôi cầm tờ giấy khá lâu, KT đưa tay đón lấy. Tôi trả lại nàng với
tâm trạng bàng hoàng khiến nàng phải kêu lên:
-Anh Lễ! Được tha mà trông anh sao lại buồn thế?
Tôi chỉ
thinh lặng lắc đầu, vì nói sao cho nàng hiểu được tâm trạng tôi. Lúc đó tôi chợt
nhớ tới Trung úy T. và những lời úp mở của anh khi từ giã tôi ngày hôm qua. Anh
biết tôi được về nhưng không thể nói ra được và tôi đã đoán sai. Thay vì anh đổi
đi thì tôi sẽ ra về trong thời gian anh đi vắng. Tôi đoán là anh cũng buồn như
tôi.
Kẻ ở người
đi
Đêm cuối
cùng ấy, khi tôi đến từ giã anh em, nhất là những người con tinh thần tôi sinh
họ lại trong đức tin, nước mắt chúng tôi chảy ra khá nhiều. Tôi ôm lấy từng người
con vào lòng, như muốn truyền sức mạnh cho những người tôi đã Rửa tội và đức
tin họ còn non nớt. Lúc ban chiều, tôi cũng đã đi các buồng để từ giã anh em
trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Tôi trao lại tất cả những gì tôi có cho người
tôi chỉ định thay thế tôi điều khiển Cộng đoàn. Tâm trạng chúng tôi đêm ấy đau
buồn vì biết là cha con sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại nhau nữa!
Hôm sau,
trại công bố chính thức, sau đó, những người được tha về ra cơ quan để lăn tay
và ký tên vào giấy ra trại. Trong giấy ra trại có ghi:“Đương sự phải về trình
diện chánh quyền địa phương trong thời hạn một tháng kể từ ngày ký”. Xếp tờ giấy
làm tư, tôi cho vào túi áo trước ngực được may phía bên trong, cài kim băng cẩn
thận để ngăn ngừa trộm cắp.
Tôi
bước sang phòng KT kế bên làm các thủ tục về tiền nong. Còn một số tiền ở nhà mới
gởi ra cho tôi, KT chưa kịp ra bưu điện lãnh, tôi gửi lại cô làm quà cho cháu.
Tôi là người cuối cùng lên cơ quan làm thủ tục, vì trước khi bước ra khỏi cổng
trại, tôi phải dừng lại khá lâu để bắt tay từ giã quá nhiều anh em còn ở lại. Họ
tiễn đưa tôi tới cổng trại và mỗi người cố nói với tôi một vài lời trước giờ
chia ly. Riêng các anh em ở chung buồng, đêm qua chúng tôi đã thức với nhau gần
suốt đêm.
Sau khi
hoàn tất mọi việc, tôi khoác chiếc ba-lô nhẹ hẫng lên vai và bước ra khỏi phòng
tài vụ. KT xếp sổ sách giấy tờ trên bàn, đứng lên đi vòng ra phía sau chiếc ghế
dài bằng gỗ nặng chắc chắn, bước theo ra, tiễn chân tôi. Chúng tôi đi
song song bên nhau trong một hành lang dài và hẹp dẫn ra phía mặt tiền nhà nằm
dọc theo đường cái.
Chúng
tôi yên lặng bước đi, chẳng ai nói với ai câu gì, nhưng tôi có cảm tưởng chính
sự thinh lặng trong lúc này lại nói lên nhiều hơn. Tự nhiên tôi chợt nhận ra,
người con gái đang bước đi bên cạnh tôi lúc này không còn là người cán bộ tài vụ
nữa, mà là người thân thiết của tôi. Nàng đã trở lại thành một người phụ nữ
bình thường như bao nhiêu người phụ nữ khác với những xúc cảm tự nhiên trước
lúc chia tay người thân và không còn hy vọng gặp lại.
Khi cả
hai ra gần tới ngõ, tôi bất chợt dừng lại, quay sang nhìn KT và bắt gặp đôi mắt
màu đen đang mở thật to nhìn tôi, hai hàng mi dài và cong. Nàng đang chớp mắt để
che giấu sự xúc động. Tôi nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhanh mấy câu giã từ:
- Thôi giã biệt KT! Chúc cô và gia đình ở lại gặp nhiều may mắn. Xin cám ơn sự
lo lắng và giúp đỡ của cô trong thời gian qua.
-Anh Lễ! Đừng nói lời cám ơn! Những gì tôi làm là do lòng quý mến của tôi đối với
anh. Cháu trai sẽ mừng khi nhận quà của anh. Anh được ra về tôi mừng lắm. Tôi
thật không biết phải nói gì trong lúc này. Chúc anh lên đường bình yên, nhớ bảo
trọng thân thể và cầu mong anh xây dựng một tương lai tốt đẹp. Về Nam, có gặp
các anh ở trại này cho tôi hỏi thăm.
Vừa nói,
nàng vừa tiến lại sát bên tôi trong một cung cách rất tự nhiên của người em gái
trong lúc tiễn biệt người anh. Tôi nắm lấy và bóp nhẹ bàn tay bé nhỏ có các
ngón thon dài của K.T. Nàng để yên bàn tay trong tay tôi. Tôi nghe tay nàng
nóng, đang run nhẹ. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cầm lấy bàn tay
nàng, mặc dù trong thời gian mấy tháng qua, đã nhiều lần gặp nhau. KT từ tốn
quay lại trong tư thế mặt đối mặt và đặt bàn tay còn lại lên tay tôi, nắm chặt
lấy và nâng thật chậm lên cao tới cằm. Mắt nàng ướt long lanh, chớp thật nhanh
và đang ngước nhìn tôi trong lúc lập lại lời từ biệt. Giọng nàng nhẹ như hơi thở:
- Anh đi bằng yên.
Tôi buông
tay nàng ra. Chẳng nói thêm lời nào, tôi quay đi, xốc lại chiếc ba-lô trên vai
và bước vội mấy bậc tam cấp lên đường cái. Vừa bước lên mặt đường, tôi nghe tiếng
KT gọi với theo:
-Anh Lễ, tôi nói cái này!
Tôi dừng
bước, quay lại và đã thấy nàng đứng ngay sau lưng. Trong lúc hai người đứng giữa
vùng ánh sáng của nắng ấm ban mai, tôi thấy nàng đẹp một cách thật hồn nhiên. Một
vẻ đẹp kín đáo và đơn sơ của loài hoa dại trong đồng nội.
Thời gian
qua, tôi vẫn nhận thấy nơi nàng sự duyên dáng qua thái độ đối xử và cách nói
năng, nhưng hôm nay, tôi thấy nàng còn có một cái gì khác biệt hơn. KT mặc áo sơ-mi
màu hoa cà, quần đen, tóc quấn ngược lên cao để lộ cái ót trắng ngần. Hình ảnh
này tôi đã thấy nhiều trong những lần nàng vào khu giam thăm tôi trước đây.
Nhưng sao hôm nay, tôi thấy nàng như một con người khác. Có lẽ nhờ vị thế ngăn
cách giữa hai người không còn nữa, hay vì vẻ thân thương và gần gũi đã làm nàng
xinh đẹp hơn mọi ngày? Tôi bỗng buột miệng nói lên ý nghĩ trong đầu:
-Hôm nay tôi trông KT như một người khác!
Nàng mở thật to đôi mắt đen láy, nhìn tôi cách ngạc nhiên hỏi lại:
- Khác thế nào hở anh?
Tôi đáp gọn:
- Trông xinh hơn mọi ngày!
Mặt nàng
tự nhiên đỏ ửng. Nàng vội ngoái đầu theo phản ứng tự nhiên, tỏ vẻ e thẹn và lắc
lư người như để từ chối lời khen của tôi. Nàng bước tới gần, nói thật nhỏ, mặc
dù gần đó chẳng có ai:
- Sau này anh ở đâu và làm gì, anh nhớ thư cho biết nhé!
-Viết thư từ, tôi sợ trở ngại cho công tác của cô.
Nàng đáp nhanh:
-Anh cứ viết thẳng về địa chỉ ở Thái Bình ấy, chẳng hề gì đâu!
Tôi ngần
ngừ một lúc và gật đầu, trong lúc vẫy tay từ giã nàng và quay gót bước đi. Bên
tai còn nghe vọng tiếng nói cuối cùng của nàng:
-Anh đi bằng yên, nhớ nhá.
Quãng đường
trước mặt
Tôi bước
nhanh theo dọc con đường lớn chạy trước mặt dãy nhà dài dùng làm khu hành chánh
của cơ quan, hướng về phía khu nhà của gia đình cán bộ nằm cách xa cổng trại khoảng
vài trăm thước, để ra đường cái đón xe khách đi Phủ Lý, để từ đó lên Hà Nội.
Ánh nắng chói chang và khung cảnh mới lạ làm tôi choáng ngộp. Tôi lầm lũi bước
đi như người trong cơn mộng du đang lâng lâng giữa thực và mộng.
Tới chỗ
chờ xe tôi dừng lại, quay nhìn trại Nam Hà lần cuối. Trại trông sao thật vắng lặng
và buồn tênh, không ngờ nơi đó lại chôn giữ một phần lớn kỷ niệm của đời tôi.
Lúc đứng đó tôi chợt nhận ra, trong số không biết là bao nhiêu chục ngàn tù
nhân trong Nam bị đưa ra Bắc cách nay đã hơn một thập niên, tôi là người tù miền
Nam cuối cùng bước ra khỏi trại giam miền Bắc! Tôi bỗng buột miệng nói:“Thời
gian qua mau! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe ca từ Hải Phòng đến
đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm! Đời người như một giấc
chiêm bao....”
Có chiếc
xe khách đang từ xa chạy tới. Tôi giơ tay lên đón.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét