TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 29
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAI: Chiếc
Lá Giữa Dòng
"Đêm
Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên
Tôi còn
nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt trên
chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt ngày
hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người bạn
tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược chiều
với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và đủ điều
lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác, tôi quay
sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh ngộ.
Anh bạn
cũng trạc tuổi tôi, vừa ngoài 30. Nước da sạm nắng, gương mặt rắn rỏi và khắc
khổ, làm anh trông già đi trước tuổi. Sáng nay, khi tập trung tại đồn công-an Đức
Lập để làm thủ tục trước lúc lên xe giải giao lên Ban Mê Thuột, tình cờ anh đứng
gần tôi thành hàng đôi, và cán bộ cứ thế mà còng tay hai người dính trùm vào
nhau. Đây là sự “ráp nối” thật ngẫu nhiên, cũng như sự gặp gỡ với bao nhiêu con
người xa lạ khác trong suốt cuộc đời của mỗi người, phần nhiều là do tình cờ
đưa đẩy, để rồi trước lạ sau quen.
Lợi dụng
lúc đứng chờ lên xe, chúng tôi chào hỏi nhau và trao đổi vài câu ngắn gọn. Qua
đó tôi được biết, anh là một cựu sĩ quan trốn trình diện, nhà ở Sài Gòn, có vợ
và hai con thơ, một trai, một gái. Anh tham gia tổ chức Dân Quân Phục Quốc và bị
bắt cách đây năm ngày. Anh cũng bi bắt trong vùng biên giới âm u giáp ranh
Campuchia như tôi. Anh còn cho biết, nhóm của anh có sáu người, bị bắn chết
hai, một anh trốn thoát và ba người bị bắt cũng có mặt trong chuyến xe này.
Người bạn
đồng hành
Anh bạn
ngồi sát thành xe phía trái, yên lặng hướng cặp mắt lờ đờ vô định nhìn ra
ngoài. Có lúc trông anh bất động và câm nín như một pho tượng đá được đặt ngay
ngắn trên ghế xe hướng về phía trước, nhưng cổ và đầu quay hẳn sang một góc 45
độ nhìn ra đường. Liếc mắt nhìn sang, tôi thấy mái tóc anh phủ dài cuốn úp vào
gáy che kín cổ áo, tạo nên nét đẹp hào hùng của những con người dày dạn gió
sương. Tay trái anh co lại, gác cùi chỏ lên thành xe, trong khi tay phải của
anh để lên đùi vì bị còng dính vào tay trái tôi.
Nhìn tư
thế của anh, tôi có thể đoán biết hệ thống thần kinh của anh lúc này đang làm
việc bận rộn hơn bao giờ hết. Tự nhiên, tôi đâm ra tò mò và thử cố gắng hội nhập
vào dòng suy tư của người bạn đường không hẹn mà gặp này.
Có lẽ tâm
trạng anh cũng giống như tôi lúc bấy giờ, đang nghĩ xem làm cách nào vượt thoát
ra khỏi cảnh này, và cũng thử đoán coi sự gì đang chờ đợi ở phía trước, và
tương lai cuộc đời rồi đây sẽ ra sao? Phần chắc hơn, tôi nghĩ là anh đang bị
dày vò bởi tình cảm riêng tư và thiêng liêng của gia đình. Có lẽ giờ này, trong
hình hài tượng đá của anh, tất cả tâm trí đang quay về mái ấm gia đình có hình ảnh
thân yêu của người vợ hiền, và gương mặt ngây thơ của đứa con nhỏ vừa lên bốn
lên năm đang hỏi mẹ: “Sao bố chưa về hả mẹ?”
Chiếc xe
đang ngon trớn, bất ngờ bị sụp ổ gà xốc thật mạnh đã kéo tôi quay về với thực tại.
Cùng lúc đó, anh bạn ngồi bên cũng quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn; có lẽ
hai người chúng tôi cùng tỉnh cơn mơ một lúc. Tôi tự nghĩ: “Hay là anh bạn biết
mình đang lẻn vào đời tư của gia đình anh, nên quay sang nhìn tôi!” Tôi tự
nhiên đâm ra ngượng và có cảm giác xấu hổ như đang lúc lom khom cúi mình nhòm
qua lỗ khóa bị kẻ khác bắt gặp!
Tôi nở một
nụ cười gượng gạo và quay đi tránh cái nhìn của anh, trong một thứ mặc cảm tội
lỗi được hiểu theo một nghĩa rất nhẹ. Nhưng ngay sau đó tôi tự an ủi: “Biết đâu
từ nãy giờ anh bạn có vẻ mặt lầm lì này cũng đã ‘nhảy xổm’ vào đời tư của mình
không chừng, vì trước khi lên xe, mình có kể với anh hoàn cảnh gia đình, mẹ già
đang ốm nặng và không biết chết lúc nào”. Thực tình tôi mong anh ta đã làm chuyện
đó để coi như hòa, vì cả hai đều có lỗi.
Sau khi bị
sụp ổ gà, chiếc xe khựng lại và bắt đầu đi chậm vì tới đoạn đường đất đỏ gồ ghề
và đầy cát bụi. Chiếc xe đang cố trườn mình trên con đường ngoằn ngoèo giữa khu
rừng tối tăm u ám, giống như một con rắn khổng lồ đang bị săn đuổi, cố lủi trốn
thoát thân vào khu rừng già của miền Cao Nguyên huyền bí. Đây chính là chuyến
xe định mệnh đưa tôi vào một tương lai mờ mịt. Mặc dù chưa biết tương lai đó sẽ
ra sao, nhưng hiểu là nó u ám chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Nguyên đang bao
trùm lấy nhóm tù nhân chúng tôi, với tâm trạng rối bời.
Đi về
đâu?
“Cuộc đời
mình rồi sẽ ra sao?”
Câu hỏi
khó trả lời ấy và nhiều câu hỏi khác đang thi nhau nhảy múa trong đầu tôi.
Chúng giống như những đốm sáng khi ẩn khi hiện của đàn đom đóm trên những lùm
cây dại mọc hai bên bờ sông rạch của miền đồng bằng sông Cửu Long, mà thời tuổi
trẻ tôi thường trông thấy khi cùng với anh tôi chống xuồng giăng câu, thả lưới
về đêm. Tôi cố xua đuổi những câu hỏi ấy ra khỏi đầu óc mình, nhưng rồi chúng
cũng trở lại như một bầy muỗi đói đang kêu vo ve tranh nhau rúc đầu vào chiếc
mùng lưới, cố chui vào hút máu con người đang nằm bên trong.
Lần đầu
tiên trong đời, tôi có cảm giác mất an toàn khi nhìn về tương lai, chả biết rồi
sẽ trôi giạt về phương nào! Mặc dù tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, nhưng qua những
gì tôi biết, những người khi phải bước chân vào con đường tôi đang đi trong lúc
này, không mấy khi được nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Với 33 tuổi
đời và bước qua năm thứ sáu của đời Linh mục, tôi đang đi vào ngả rẽ mà tôi
đoán biết là đầy nghiệt ngã và trắc trở. Nhớ lại tuần trước, lúc từ giã nhà người
bạn tại Hưng Phú để ra đi, tôi cần phải ra đi để tránh cho gia đình người bạn
khỏi bị rắc rối vì có người khách lạ mặt trong nhà trong thời gian khá lâu.
Trong hoàn cảnh lúc đó không ai muốn trở thành mục tiêu chú ý của hàng xóm và của
những cặp mắt lúc nào cũng muốn tìm dịp lập công trong cơn sốt thời cuộc đang
dâng cao. Trong thời gian một tháng sống lẩn lút ở Sài Gòn đó, tôi đã phải
di chuyển hết nơi này tới nơi khác, không dám ở lại nơi nào quá vài ba ngày mặc
dù lúc đó trong mình tôi có giấy chứng minh là nhân viên lâm
nghiệp tỉnh Lâm Đồng, do người bạn tôi trốn trình diện và đang mai danh ẩn tích
ở Sài Gòn làm giúp cho. Tờ giấy photocopy như lá bùa hộ mệnh này đã chứng tỏ có
công hiệu trong một lần tôi đi xe gắn máy bị chặn lại để kiểm tra giấy tờ. Khi
người bộ đội cầm tờ giấy bằng chữ in, có đóng dấu tôi thấy gương mặt anh ta rất
thoải mái và mỉm cười trả lại cho tôi đang đứng bên, trong lòng hồi hộp cầu
mong cho anh ta đừng hỏi gì thêm về tờ giấy chứng minh này. Mặc dù biết là
trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng đó, chẳng ai có công sức đâu để truy
nguyên các loại giấy tờ và bất cứ loại giấy gì bằng chữ in và có con dấu được
coi như “cứng” khi bước ra đường. Nhưng khổ nỗi vì không quen dùng giấy tờ giả
nên lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy, biết đâu sẽ có lúc nào lại gặp phải anh bộ đội
hiểu chuyện hơn, dẫn tôi về đồn và đòi coi bản chánh thì sao? Mặc dù lá bùa dỏm
này đã giúp tôi sống yên thân tạm gần một tháng ở Sài Gòn nhưng tôi biết không
thể kéo dài tình trạng này lâu hơn được.
Lúc bấy
giờ tôi đã có lập trường dứt khoát đối với chế độ cộng sản, nhất là sau kinh
nghiệm cay đắng của thời gian tôi sống tại họ đạo La Mã ở Bến Tre.
Tôi không
chấp nhận và không bao giờ sống trong chế độ cộng sản. Tôi không chấp nhận chế
độ đó không phải vì cái tên “cộng sản” của nó, nhưng vì chủ trương vô thần và sự
cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của người dân. Nếu có điều
kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn tôi sẽ trốn chạy nhưng dứt khoát không
đầu hàng chế độ này.
Sự hiểu
biết cũng như kinh nghiệm mà tôi đã trải qua khi phải sống trong sự kềm chế tàn
bạo của chế độ càng giúp tôi xác tín chế độ này không thể mang lại lợi ích và hạnh
phúc cho dân tộc.
Lúc đó
tôi vô cùng hoang mang, thứ hoang mang của con người bé nhỏ yếu đuối dứng trước
ngã ba đường. Tâm trạng tôi là tâm trạng của con người tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa!
Một chế độ vừa sụp đổ vì thiếu phương hướng, dựa vào sức mạnh của ngoại bang để
tồn tại và mang nhiều tai tiếng vì nạn tham nhũng bất công, vừa được thay thế bằng
một chế độ càng tệ hại hơn, gây kinh hoàng cho dân chúng ngay khi họ vừa cướp
được quyền bính. Tôi trở thành người bơ vơ! Trong lòng tôi lúc bấy giờ không
thương tiếc gì về chế độ vừa sụp đổ, lại kinh hãi chế độ mới!
Tôi quyết
tâm dấn thân vào con đường chống lại sự tàn ác của chế độ bất công đang nắm quyền
không phải để khôi phục lại chế độ vừa sụp đổ nhưng muốn cùng với toàn thể dân
tộc xây dựng thể chế tốt đẹp hơn, có thể mang lại phúc lợi cho dân tộc. Mặc dù
trong hoàn cảnh đó thân phận tôi chỉ giống như loài côn trùng bé nhỏ đứng trước
vấn đề bao la vĩ đại của dân tộc. Nhưng loài côn trùng bé nhỏ đó vẫn có bộ
óc biết suy tư và cảm giác biết rung động của nó.
Trong
bầu khí hoang mang và đầy bất mãn đó lại có những tin đồn nào là ông Thiệu đang
mộ quân kéo về biên giới, nào là ông Kỳ đang ém quân trong rừng lá. Lúc bấy giờ
có nhiều người lại tin vào các chuyện nhảm nhí đó và sự nhẹ dạ của họ làm tôi
ngạc nhiên. Tôi tự hỏi sao lại có người ngây thơ tới độ tin tưởng là những con
người có thời giữ chức vụ chóp bu trong chánh quyền, nhưng khi hoạn nạn tới thì
đào tẩu cách hèn nhát. Họ dẫn vợ con và ôm theo tài sản thoát thân, bỏ mặc cho
số phận dân tộc muốn ra sao thì ra.
Bây giờ
những con người đó biết “thương dân” và từ bỏ vùng đất yên hàn ở một phương trời
nào đó quay trở về cứu dân độ thế! Lúc đầu tôi rất thắc mắc nhưng về sau này hiểu
ra. Lý do là dân chúng lúc bấy giờ rơi vào tình trạng tuyệt vọng như hành khách
của con tàu chìm, cố bám vào bất cứ vật gì trôi ngang để hy vọng khỏi chết đuối,
cho dù vật họ cố bám vào chỉ là cái bọt biển.
Về phần
tôi, ngay sau khi lên Sài Gòn, tôi đã gặp lại người bạn thân trốn trình diện và
đang sống lẩn lút bằng giấy tờ giả. Sau khi gặp lại nhau, chúng tôi tìm
cách liên lạc với mấy người bạn cũng trong tình trạng bất an toàn như chúng tôi
để tìm hiểu về các nhóm phản kháng đang hoạt động chung quanh khu vực Sài
Gòn mà chúng tôi nghe tin đồn.
Sau thời
gian cố bắt liên lạc, tôi biết phần nhiều chỉ toàn là tin đồn truyền miệng,
trong thực tế chẳng có gì, hoặc nếu có thì không có gì đáng kể. Trong khi đó
tôi được giới thiệu với vị mục sư người Thượng và qua vị mục sư này, tôi tìm hiểu
sâu hơn về lực lượng Fulro mà theo lời vị mục sư là đang hoạt động tích cực và
hữu hiệu trong vùng núi rừng tây nguyên.
Từ thời
chế độ Cộng Hòa, tôi đã biết về phong trào Fulro là phong trào của đồng bào sắc
tộc tranh đấu đòi quyền tự trị. Chủ yếu là những đồng bào sắc tộc chống lại người
Kinh đòi tự trị. Khi cộng sản chiếm miền Nam thì phong trào Fulro càng hoạt
động tích cực hơn để chống lại những người cộng sản.
Trong
hoàn cảnh lúc bấy giờ nhóm chúng tôi cố gắng bắt liên lạc với những người lãnh
đạo Fulro tại Gia Nghĩa thuộc quận Đức Lập tỉnh Ban Mê Thuột để tìm hiểu
và nếu có thể cùng phối hợp hoạt động trong khi chúng tôi không thể sống mãi ở
Sài Gòn. Chúng tôi đã rời Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 5 năm 1976, đi vào
khu vực núi rừng vùng biên giới Việt - Campuchia với tư cách nhân viên lâm sản
tỉnh Lâm Đồng. Chúng tôi cũng dự trù nếu công việc không thành sẽ tìm đường vượt
biên qua biên giới Campuchia để tới Thái Lan.
Một buổi
sáng cuối tháng 5 năm 1976, nhóm chúng tôi bị lực lượng công an biên phòng khá
đông bao vây trong phần đất Campuchia. Tôi không bao giờ quên cảm giác kinh
hoàng khi những người công an tay cầm súng AK, đầu đội mũ cối đang la hét vang
dội cả núi rừng Tây nguyên trong buổi sáng có nhiều sương và lạnh buốt của núi
rừng. Khi nhìn cảnh 4 người công an chỉa thẳng mũi súng đen ngòm vào, tôi thấy
hiện ra trước mặt cái hố to và đen ngòm. Kể từ giây phút đó đời tôi đi vào phần
số mà định mệnh đã dành cho tôi trong kiếp sống lao tù.
Lúc đang
ngồi trên xe tôi nhớ tới số phần của nhân vật chánh trong cuốn truyện “Giờ thứ
hai mươi lăm” của tác giả Virgil Gheorghiu mà tôi đọc từ ngày còn ở trung học.
Vì đọc đã lâu, tôi không còn nhớ rõ chi tiết đầu đuôi câu chuyện, nhưng điều
tôi nhớ mãi đó là tác giả viết về số phận bi đát của anh chàng Iohann Moritz,
người Roumanie bị ngộ nhận là Do Thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Anh chàng
trai trẻ này là người chân chất, đang làm ăn sinh sống yên hàn với vợ con thì một
ngày nọ, anh nhận được giấy báo của chính quyền đòi lên cơ quan vì một vấn đề
chính trị gì đó. Đây là một sự lầm lẫn, cũng như bao nhiêu thứ lầm lẫn khác
trong thời kỳ chiến tranh. Tự cảm thấy mình vô tội nên anh nghĩ một cách đơn giản
là chỉ cần ra cơ quan điều chỉnh giấy tờ để xác nhận lý lịch của anh là xong.
Nhưng rồi từ lúc anh bước ra khỏi nhà, định mệnh đen tối đã vồ lấy anh. Gặp hết
trở ngại này tới trở ngại khác, và nhiều chuyện rắc rối xảy ra đẩy anh vào cuộc
đời tù tội một cách oan uổng.
Khi vô tù
anh bị giải giao hết trại khổ sai này tới trại tập trung khác. Người Hung Gia Lợi
hành hạ anh chán chê lại bán cho người Đức. Anh trải qua sự tra tấn dã man của
bọn lính Đức Quốc Xã, cứ thế mà đưa đẩy trong suốt 13 năm trời. Số phần anh
chàng Iohann Moritz như một thứ côn trùng bé nhỏ bị vướng mắc vào mạng nhện khổng
lồ, càng cố gắng vùng vẫy lại càng bị dính chặt hơn. Rồi không hiểu tại sao,
người Đức lại ngộ nhận anh là người trong bọn họ, nên anh được “phục hồi danh dự”
và được mặc sắc phục của SS trong lực lượng an ninh của họ.
Khi gần
tàn cuộc chiến, Iohann Moritz bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh, anh bị đưa ra xét
xử trước Tòa án quốc tế Nurumberg và bị kết án là tội phạm chiến tranh. Nhưng
sau cùng anh được minh oan và được sum họp với vợ con. Lúc anh sắp ra về, viên
sĩ quan Mỹ Lewis muốn chụp một tấm hình cả gia đình Iohann Moritz. Trước khi bấm
máy, Lewis luôn miệng bảo Moritz: “Cười lên đi, cười đi, cười đi...!”
Tác giả
Virgil Gheorghiu dùng câu đó để chấm đứt câu chuyện, nhưng anh chàng Moritz
đáng thương vẫn cứ trơ ra không thể cười được. Thực ra anh ta rất muốn nở một nụ
cười, nhưng không làm được vì anh đã quên không còn biết cười ra làm sao nữa!
Tôi không
chắc mình có nhớ đúng chi tiết câu chuyện hay không, nhưng về số phận đen tối của
nhân vật chánh Iohann Moritz như cánh bèo trôi giữa vùng nước xoáy, lăn lộn
trong ngục tù và câu cuối cùng trong cuốn truyện thì tôi nhớ rất rõ.
Ngày đó, ở
cái tuổi vừa lớn lên, khi đọc truyện này tôi bị xúc cảm mạnh và thương cho kiếp
sống đọa đày của anh chàng Moritz. Quay về thực tại, lúc này tôi đang bị còng
tay trên chuyến xe chở tù của cộng-sản, tôi tự hỏi số phận tôi rồi đây sẽ ra
sao, có thể giống như anh chàng Iohann Moritz trong “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” hay
không? Đó là một câu hỏi thật ngán ngẩm, nhưng nó cứ lởn vởn trong đầu, mặc dù
tôi cố gắng xua đuổi nó ra khỏi dòng suy tư.
Người bạn
bất đắc dĩ
Tôi thở
dài ngao ngán khi nhìn xuống cổ tay đang bị chiếc còng số 8 ngoạm chặt. Chiếc
còng làm bằng inox, tuy mỏng manh nhưng chắc cứng mà lần đầu tiên trong đời tôi
phải mang nó vào cổ tay. Tôi đã nhiều lần trông thấy loại còng này. Thấy nhưng
chưa sờ đụng nó bao giờ vì tôi nghĩ là có cái gì “xúi quẩy” trong món đồ vật mà
người ta thường gọi cách bóng gió là “đồng hồ Omega”. Chiếc còng còn mới
nguyên, nước xi bóng láng, có lẽ vừa được lấy trong kho ra và biết đâu tôi được
“hân hạnh” là người dùng nó đầu tiên (dĩ nhiên là tôi phải chia sẻ 50% cái vinh
dự này với anh bạn ngồi bên!).
Tôi tò
mò, lấy tay phải sờ nhẹ chiếc còng và thấy nó thật lạnh. Tôi biết cảm giác lạnh
lúc bấy giờ phần lớn là do yếu tố tâm lý tạo nên. Tôi mân mê chiếc còng trên cổ
tay, xoay đi xoay lại và thấy có hàng chữ “Made in USA” và tên của hãng sản xuất
“Smith & Wesson”. Cái tên này tôi đã thấy qua và hãng này cũng sản xuất
súng lục mà có một thời tôi sưu tầm. Công dụng của chiếc còng không có gì là
thích thú, nhưng hình dạng của nó trắng trẻo, đường nét tinh xảo, mảnh mai và
xinh xắn trông rất dễ thương!
Tôi nghĩ
thầm: “Đúng là đồ Mỹ có khác!” Lúc mới tra tay vào, tôi cảm thấy vướng víu và bực
dọc khó chịu, nhưng một lúc sau tôi cố làm quen với chiếc còng và không thèm để
ý tới cảm giác khó chịu nữa. Tôi chấp nhận thực tại là từ nay chiếc còng trở
thành bạn đường của tôi, một thứ bạn đường hoàn toàn bất đắc dĩ.
Từ cái ý
nghĩ có chiếc còng làm người bạn đường này, tự nhiên tôi thấy tình cảnh mình giống
như thân phận người con gái lỡ bước sang ngang, “gái có chồng như gông đeo cổ!”
Tôi chợt nhớ lại mấy câu ca dao mà tôi thuộc nằm lòng từ ngày còn học lớp đệ thất
tại trường trung học ở xứ đạo quê tôi. Ngày ấy, khi mới bước vào tuổi mộng mơ,
tôi rất thích mấy câu ca dao đồng quê trữ tình, thật nhẹ nhàng duyên dáng nhưng
đượm vẻ u buồn man mác:
Lời người
con trai:
“Trèo lên
cây bưởi hái hoa,
Bước xuống
vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm
xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng,
anh tiếc lắm thay!”
Người con
gái buồn bã đáp lời:
“Ba đồng
một mớ trầu cay,
Sao anh
không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ
em đã có chồng
Như chim
vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn
câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào
lồng biết thủa nào ra?”
Tôi ngồi
yên và nhẩm đi nhẩm lại bài ca dao này, nhất là bốn câu cuối cùng vì thấy có một
sự trùng hợp nào đó giữa hoàn cảnh của cô thôn nữ ngày xưa (chắc là nàng phải
xinh đẹp!) và thân phận của tôi trong lúc này. Tự nhiên tôi thấy gần gũi và
thương “nàng” hết sức.
Chiều cao
nguyên
Chiếc xe
chạy vào khu dân cư của thị xã Ban Mê Thuột, nơi phần đông dân chúng là người
Thượng. Rất dễ phân biệt họ với người Kinh, vì nước da đen sạm và cách ăn mặc
trang sức cũng rất khác biệt. Trời đã bắt đầu về chiều, cảnh vật hai bên đường
trông thê lương buồn thảm của một tỉnh nhỏ cao nguyên, cộng với tâm trạng ngổn
ngang trăm mối, khiến tôi có cảm tưởng mình đang băng qua một thành phố chết.
Trước mắt
tôi, cảnh một số người đội nón cối đi xe đạp. Đó đây mấy người Thượng đóng khố,
tay cầm dao rựa, vai mang gùi đầy củi, đang yên lặng cúi đầu đi thành hàng dọc
hai bên đường. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mình đang bị lạc vào một thế giới khác,
một thế giới hoàn toàn xa lạ, mặc dù tôi cố gắng tự thuyết phục mình rằng những
con người mang dép râu, đội nón cối và những người Thượng đóng khố, nước da đen
sạm kia, chính là những đồng bào của tôi.
Các hành
khách tù nhân bắt đầu nhốn nháo khi xe chạy qua phố khiến các anh lính mang
súng dài áp tải trên xe quát tháo, bắt ai nấy ngồi yên. Anh bạn bị còng chung với
tôi quay sang nhìn tôi với cặp mắt lộ một chút lo âu, và đánh tan bầu không khí
yên lặng tự nãy giờ bằng vài câu nói bâng quơ cho có lệ, những câu đối đáp hiếm
hoi từ lúc chúng tôi bị cùm dính tay nhau.
- Hình như
sắp đến nơi rồi thì phải?
Tôi hướng
mắt nhìn ra ngoài đáp lại :
- Vâng,
hình như sắp đến rồi.
Đáp xong,
tôi ngồi yên, anh bạn lại quay cổ nhìn ra ngoài như trước. Lúc sau, cảm thấy
câu đối đáp quá ngắn, tôi bèn gợi chuyện đáp lễ. Phần khác, tôi cũng cảm thấy
phải nói một câu gì đó trong lúc này để đánh tan nỗi băn khoăn trong lòng:
-Anh đã tới
Ban Mê Thuột bao giờ chưa?
- Chưa,
đây là lần đầu tiên tôi tới xứ này.
- Tôi
cũng vậy, trông cảnh vật xơ xác quá!
Anh bạn
khẽ gật đầu và đáp lại bằng một lời giải thích:
- Trước
lúc tụi nó vô Sài Gòn, có trận đánh lớn ở đây mà!
Tôi lại
ngồi yên và qua câu nói của anh bạn, tôi hồi tưởng lại hơn một năm trước đây,
chiến cuộc vùng cao nguyên thật ác liệt, sau đó quân đội có lệnh “rút lui chiến
thuật” khiến đồng bào hoảng sợ chạy tán loạn lánh nạn, tràn ngập xuống các tỉnh
phía Nam.
Thời gian
đó, tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long và đã cùng với cha Phạm Hồng
Sơn, Tuyên úy Tiểu Khu, tổ chức cuộc lạc quyên để cứu trợ làn sóng người trốn
chạy giặc cộng từ vùng ngoài đổ về. Vừa ra khỏi thị xã một đỗi, chiếc xe chạy
giữa con đường mà hai bên là rừng cao su, một số cây lớn gãy đổ vì chiến tranh
tàn phá và một số khá nhiều cây nhỏ đang được trồng lại, mới cao chừng quá đầu
người.
Qua rừng
cao su, tới một khoảng đất trống khá rộng với một số nhà cửa thưa thớt. Nhìn về
bên trái ở xa phía trước, tôi thấy mấy dãy nhà dài bằng gỗ lợp tôn nằm san sát
bên nhau và đoán là khu trại giam, nơi mà chúng tôi sẽ tới. Sở dĩ tôi đoán như
vậy vì hình thù các dãy nhà này trông khác hẳn với số nhà nằm rải rác hai bên
đường cái.
|
Điểm hẹn
Tôi đoán
không lầm, chiếc xe đang ngon trớn từ từ giảm tốc độ, ra hiệu rẽ trái và bò vào
con đường đất đỏ đầy cát bụi, nằm giữa hai ao nước to và đục ngầu, cuối cùng dừng
lại giữa cái sân khá rộng. Bên một góc sân về phía trong, có vài căn nhà thấp
lè tè bằng gỗ lợp tôn mà tôi đoán là khu văn phòng, kế bên là cái chòi canh nằm
phía dưới chiếc cổng bằng gỗ được dựng lên một cách sơ sài. Một anh lính Thượng,
mặt mày đen đúa, đội mũ tai bèo ôm súng ngồi trong chòi gác đang nhìn chòng chọc
vào xe chúng tôi đậu cách đó không xa. Chừng mươi anh công-an, cả Thượng lẫn
Kinh, đứng lố nhố trước cửa khu nhà, nói năng chỉ trỏ trong một tư thế sẵn sàng
bắt tay vào việc.
Tôi cảm
thấy tim mình đập nhanh từ lúc xe rẽ vào trại, mặc dù tôi đã từng tập cho mình
sự bình tĩnh trước mọi trường hợp. Dù trong hoàn cảnh tệ hại nhất tôi vẫn nói:
“Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo lắng làm gì khi không thể xoay chuyển được
tình thế!” Dù vậy, trong lúc này tôi vẫn thấy hồi hộp, lo lắng. Sau khi xe tắt
máy, chúng tôi được lệnh ngồi yên trong khi mấy anh công-an áp tải bước xuống
mang giấy tờ vào văn phòng.
Một lúc
sau, họ trở ra với hai người lạ mặt khác, một Kinh và một Thượng. Anh người
Kinh khá đứng tuổi, chỉ huy toán công-an trong sân. Anh ta mặt xương, dáng gầy
và cao, nói rặt giọng Bắc, mặc đồ công-an màu cứt ngựa cài cả nút cổ, đầu đội
mũ có lưỡi trai nhỏ y như kiểu cách của Mao Trạch Đông mà tôi thấy hình trong
cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Chính anh này ra lệnh chúng tôi xuống xe và ngồi vào
một góc sân.
Bầu không
khí lúc bấy giờ thật căng thẳng, nhất là khi nhìn thấy những cặp mắt trắng dã
và láo liên của những anh lính Thượng mặt mày còn non choẹt, đứng bồng súng AK
ngang trên tay trong tư thế chiến đấu, nòng súng chĩa thẳng vào đám người chúng
tôi một cách đầy ác cảm và đe dọa. Bộ dạng mấy anh Thượng cộng này toát ra một
thứ gì đầy vẻ chết chóc. Khi nhìn họ, tôi chợt nhớ lại mấy cuốn phim cao bồi Mỹ
nói về các tay mạo hiểm da trắng đi khai phá vùng viễn tây Hoa Kỳ bị rơi vào
tay thổ dân da đỏ. Đám thổ dân này mình quấn lá cây, đầu đội mũ có vắt lông
chim, tay cầm cung lắp sẵn những mũi tên tẩm thuốc độc lúc nào cũng chực bay ra
khỏi dây cung đang căng. Thật ra, những mũi tên tẩm thuốc độc của dân da đỏ
không có vẻ “lạnh người” như những họng súng AK đen ngòm đang chỉa thẳng vào
nhóm chúng tôi.
Sau khi tất
cả đã xuống xe, họ ra lệnh cho chúng tôi để yên đồ đoàn tại một góc sân và “tay
trong tay” bước ra ngồi thành hàng đôi cách đó vài ba thước. Cuộc khám xét bắt
đầu, lúc ấy vào quãng năm giờ chiều. Trời cao nguyên đã bắt đầu xám xịt và có
gió lạnh.
Tôi hướng
mắt nhìn vào trại, không thấy ai nhưng có tiếng hát tập thể thật to vọng ra từ
các dãy nhà: “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng, vùng lên xông pha vượt qua
bão bùng, thề cứu lấy nước nhà, thề...” Về sau này tôi biết lúc đó là giờ sinh
hoạt ban chiều của các tù nhân trong trại và họ đang hát bài “Giải phóng miền
Nam” mà lần đầu tôi được nghe.
Thêm một
số cán bộ trong trại kéo ra, đa số là người Thượng, có vài ba cán bộ nữ, tiếp
tay với số công-an có sẵn trong sân kiểm tra đồ đoàn của chúng tôi. Khi một cán
bộ tới bên túi xách của ai, người đó được tháo cùm bước tới đứng kế bên để làm
thủ tục khám xét.
Trong lúc
ngồi chờ tới lượt mình, tôi nhìn trời nhìn đất chán rồi quay ra quan sát mấy
chú Thượng cộng mặt mày búng còn ra sữa đang bồng súng đứng vây quanh. Tên đứng
gần tôi nhất coi bộ ngứa ngáy tay chân. Thỉnh thoảng anh ta di động ngón tay trỏ
nhỏ xíu và đen mốc như con giun đất, sờ vào cò súng, rà lên rà xuống theo chiều
cong phía trong một cách nghịch ngợm quái ác. Tay trái anh nắm chặt cổ cây AK
quét qua quét lại hết dãy tù nhân đang ngồi chồm hổm thành hai hàng dài trước mặt.
Có lẽ
trong cái đầu xẹp lép như trái dừa điếc của anh ta, giờ này đang ôn lại bài học
tác xạ “chiến thuật chống biển người” và đang mong có ai trong chúng tôi tỏ một
vẻ gì khác lạ để anh ta có dịp “thực tập” bài học đó. Nhìn thái độ đó, tôi đâm
ra ngán và nghĩ thầm: “Cái thằng ôn con này, không biết nó sử dụng súng ống có
rành không đây? Không khéo rồi súng bị cướp cò mình lại chết oan lãng xẹt!”
Nghĩ bụng
như vậy, nên mỗi lần anh ta rà họng súng đúng tầm, tôi tìm cách nghiêng người
né tránh. Mặc dù tôi và mấy người chung vụ đã bị khám xét tả tơi chiều hôm qua,
khi vừa mới bị bắt trên phần đất Campuchia và dẫn về quận Đức Lập để khám xét
và tạm giam, nhưng cuộc khám xét hôm nay cũng gắt gao không kém, và họ tịch thu
thêm một số đồ đạc mà hôm qua còn chừa lại.
Quận lỵ
biên giới
Đức Lập
là một quận nhỏ của tỉnh Ban Mê Thuột, nằm cách biên giới Campuchia khoảng 30
cây số, và cách thị xã này gần một trăm cây. Từ sau ngày cộng-sản chiếm miền
Nam, có nhiều người lên Đức Lập tìm đường vượt biên. Các nhóm nổi lên chống đối
chế độ và lực lượng FULRO cũng dùng nơi này ẩn nấp để hoạt động. Nhóm anh
em chúng tôi cũng bị bắt trong trường hợp này khi chúng tôi đang ở trên phần đất
của Campuchia. Do đó số người bị công-an, bộ đội bắt giữ tại đây mang nhiều thứ
tội danh khác nhau như vượt biên, phản động, chống phá cách mạng, tàn dư FULRO.
Cũng có một
số tù hình sự, lưu manh trộm cắp và vài anh cán bộ hủ hóa cũng đang bị giam giữ
nơi này. Đồn công-an biên phòng ở quận này biến thành một trại tạm giam và khi
đủ một chuyến xe thì giải giao về tỉnh Ban Mê Thuột.
Thủ tục đầu
tiên khi mới bị đưa về đồn công-an Đức Lập là khai lý lịch và khám xét đồ đạc.
Tôi khai đúng lý lịch của mình và cho biết lý do tôi vào rừng là có ý định vượt
biên, mặc dù tôi biết với những bằng chứng khi bắt giữ chúng tôi, họ không tin
lời khai này.
Sau lần
khám xét sơ khởi, chúng tôi chỉ còn được giữ lại áo quần và một ít đồ dùng cần
thiết như kem đánh răng, bàn chải, thuốc lá... còn tiền bạc và các thứ có giá
trị như vàng, đồng hồ, nữ trang, thuốc men đều phải gửi lưu ký: “Không phải lo,
khi nào được tha về, cách mạng sẽ hoàn trả lại cho các anh”, nhóm công-an biên
phòng phụ trách việc khám xét họ nói như thế.
Khách
quan nhìn vào, ở Đức Lập họ làm ăn cũng cẩn thận và minh bạch, các đồ vật gửi
lưu ký cũng có biên nhận hẳn hoi và được đọc lại cho đương sự nghe trước khi ký
tên, nhưng nội dung của các tờ biên nhận đó mới là điều đáng nói. Trong số tù
nhân bị khám xét chiều hôm qua tại Đức Lập, có một số người vượt biên bị bắt lại.
Họ có khá nhiều đô-la, kim cương, vàng lá, nữ trang, đồng hồ, tất cả đều bị giữ
lại và được ghi vào biên nhận như sau:
- Kim
cương, trong giấy biên nhận ghi: “Có nhận (bao nhiêu) viên đá nhỏ màu trắng,
chiếu sáng, có nhiều góc cạnh, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ”.
- Vàng
lá, họ viết: “Có nhận (bao nhiêu) miếng kim loại màu vàng, chất lượng tốt xấu
ra sao không rõ.”
- Đồng hồ:
“Có nhận một đồng hồ đeo tay hiệu..., màu..., bộ máy bên trong tốt xấu ra sao
không rõ.”
- Tiền
đô-la: “Có nhận (bao nhiêu) tiền giấy của Mỹ, thật giả không rõ.”
Các thứ
khác cũng có đầy đủ biên nhận với lời lẽ như vậy. Riêng tôi cũng nhận được một
tờ biên nhận cho cái đồng hồ Citizen với hàng chữ ghi: “Bộ máy bên trong tốt xấu
ra sao không rõ!” Tôi giữ giấy đó và coi như một “vật kỷ niệm”, vì từ lúc tháo
đồng hồ ra khỏi cổ tay để trao cho anh công-an, tôi chẳng hề mong có ngày gặp lại
nó.
Lúc lên
Ban Mê Thuột chúng tôi cũng bị khám xét, phần tôi đã xong và chỉ còn vài người
nữa. Trời thật lạnh. Cái lạnh căm căm của núi rừng cao nguyên buổi chiều tà thấu
vào da thịt! Tôi kéo cao cổ chiếc áo 'treillis' đang mặc trên người, móc bao
thuốc lá 'President' nhèo nát trong túi ra mời anh bạn chung còng một điếu và
tôi rút ra điếu cuối cùng. Tôi vò bao thuốc rỗng trong tay thành một viên bi
tròn, búng về phía bờ ao, đánh diêm hút thuốc trong khi chờ đợi những màn tiếp
theo. Hơi thuốc lá làm tôi ấm và dễ chịu. Tôi rít thêm một hơi thuốc thật dài,
ngửa mặt nhả khói lên bầu trời bao la và tự nhiên tôi mỉm cười.
Cho tới
lúc này tôi cũng không có dịp tìm hiểu xem lúc bấy giờ tại sao tôi lại nở một nụ
cười thật tươi. Có lẽ một phần khói thuốc giúp tôi cảm thấy thư thái sau gần một
ngày đi đường mệt nhọc và đầu óc căng thẳng, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là một
nụ cười tự tin, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và quyết tâm lợi dụng tất cả mọi
trường hợp thuận tiện để hoán cải số phận của mình.
Hút chưa
tàn điếu thuốc, chúng tôi được lệnh xếp hàng đôi đi vào trại. Tôi búng mẫu thuốc
còn cháy dở ra xa, cúi xuống nhặt chiếc ba-lô nhẹ hẫng chỉ có một áo len, một bộ
quần áo, chút ít đồ dùng cá nhân và vài bao thuốc lá. Mang ba-lô lên vai, tôi
bước theo đoàn người và đi ở gần cuối hàng. Nhìn bóng dáng ẩn hiện của số người
trước mặt đang mệt nhọc lê bước trong màn đêm vừa chụp xuống, lòng tôi dâng lên
một thứ cảm giác thật khó diễn tả bằng lời.
Trong số
tù nhân đang lầm lũi tiến bước này có cả đàn bà và trẻ con bị bắt vì tội vượt
biên. Họ bị bắt trước tôi và hôm nay cùng tôi di chuyển chung trên chuyến xe.
Thấy cảnh trẻ con kêu khóc đang bám vào tay mẹ lần bước vô tù, tôi đau xót nghĩ
thầm: “Thế là tai họa giặc cộng vồ lấy dân tộc Việt như chiếc lưới khổng lồ được
bổ xuống biển, chụp bắt cá lớn cá bé, không chừa loại nào.”
Chim rẽ
đàn
Vừa qua
khỏi cổng trại được mấy bước, đoàn người bị chặn lại và được lệnh ngồi xuống chờ
đợi trong khi một cán bộ nữ cầm quyển vở học trò ghi chép cái gì đó mà tôi đoán
là họ phân chia chúng tôi vào các buồng. Trong khi chờ đợi, tôi nhìn vào trại
trong bóng đêm chập chờn và một khung cảnh quái lạ hiện ra trước mắt, một khung
cảnh chẳng có gì là hấp dẫn để diễn tả lại, nhưng là một hình ảnh tôi không sao
quên được.
Trong
bóng đêm, các dãy nhà giam đen lù lù nằm chấu đầu vào khoảng sân khá rộng chính
giữa, trông như những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm ngay hàng thẳng lối trong một
nghĩa trang thật rộng, có hàng rào kẽm gai vây quanh. Xa xa ở các góc nhà, một
vài bóng điện tròn leo lét đang tỏa ánh sáng mờ nhạt trong màn sương đêm của
núi rừng, trông như những nén hương được ai đó thắp lên để tưởng nhớ những con
người xấu số đang nằm trong nhà mồ tập thể trải dài trước mắt tôi.
Một
lúc sau, khi cô cán bộ đã ghi chép xong, chúng tôi được lệnh đứng lên và vẫn giữ
hàng đôi tiếp tục đi dần vào trại. Thời tiết lạnh lúc bấy giờ làm tôi cảm thấy
đói và mệt. Cả ngày nay chúng tôi chỉ được phát cho mỗi người một vắt cơm có rắc
muối sẵn. Từ lúc lên xe cho tới giờ trời đã tối và chưa được ăn uống nghỉ ngơi
gì, tôi chỉ mong vô rại cho nhanh để ngả lưng một chút và tìm gì ăn cho đỡ
đói, và nếu được thì ngủ một giấc cho lại sức rồi mọi chuyện muốn ra sao thì
ra.
Chỉ mới
có mấy ngày qua mà bao nhiêu biến cố đã xảy ra làm thay đổi dòng đời và đưa dẫn
tôi vào một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đời tôi đang bắt đầu một khúc quanh quan
trọng. Tôi tự nhủ : “Chuyện gì phải đến, nó đã đến”, và tôi chuẩn bị tinh thần
để sống quãng đời trước mắt, kiếp sống của một người tù. Tôi quyết tâm và tự hứa
với lòng: “Mặc dù dòng đời đang thay đổi, môi trường sống thay đổi, nhưng con
người Linh mục của tôi thì không.”
Sáu năm
qua trong chức vụ Linh mục, năm năm tôi làm bổn phận trong chế độ Cộng-hòa và một
năm dưới chế độ Cộng-sản, dù hoàn cảnh hay thể chế nào, tôi cũng hết lòng làm
tròn nhiệm vụ. Kể từ hôm nay tôi có dịp sống đời Linh mục trong ngục tù cộng-sản.
Tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc, mặc dù suốt hơn mười năm được huấn luyện
trong chủng viện, tôi chưa bao giờ có được loại hành trang cho môi trường lao
lý này. Biết rằng những thử thách lớn đang chờ đợi, nhưng tôi không lo lắng nhiều
vì vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tin vào sự nâng đỡ và soi sáng của
Đấng Thánh Linh. Ngài chính là sức mạnh của tôi.
Trong lúc
đang lầm lũi bước vào trại giam, tôi âm thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nâng đỡ
sự yếu hèn của con và dạy cho con biết phải sống như thế nào để xứng đáng là một
chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em trong cuộc sống tù đày”. Lúc ấy
tôi nhớ lại một câu trong Kinh Thánh: “Ơn Cha đủ cho con!” (2 Cor 12: 9). Tự
nhiên tôi cảm thấy vững tin và hăng hái như tâm trạng của một nhà thám hiểm
đang dấn thân vào một chân trời xa lạ và đầy bất trắc. Tôi ngẩng đầu lên cao
nhìn trời, hít một hơi thật dài và lạ lùng thay, lúc này làn khí mát lạnh lùa
vào buồng phổi lại làm tôi khoan khoái dễ chịu.
Màn đêm
không còn mang vẻ u ám nặng nề như tôi thấy khi vừa bước qua cổng trại. Tôi lắc
đôi vai, xốc lại chiếc ba-lô trên lưng và mạnh dạn bước đi bằng những bước đầy
tự tin. Thình lình, tôi nghe một giọng nói khá to từ phía sau:
- Anh
mang kính đó đứng lại!
Không biết
chắc có phải gọi mình, vì tôi cũng không biết trong nhóm còn có ai mang kính
ngoài tôi ra hay không. Dù vậy tôi cũng dừng bước quay lại hỏi:
- Anh muốn
gọi tôi?
Anh
công-an mặc đồ kiểu ‘Mao Trạch Đông’ lúc nãy, tay đang cầm quyển sổ trả lời:
- Phải,
anh đứng lại, vào đây.
Vừa nói,
anh ta vừa chỉ vào trại mộc ngổn ngang những gỗ lạc nằm bên cánh trái sát ngay
trong cổng trại, kế bên chòi gác. Tôi dừng chân, bước ra khỏi hàng và dưới ánh
sáng lờ mờ của bóng đèn điện ở góc nhà, tôi còn kịp thấy nét mặt đầy lo lắng của
các anh em chung vụ đang ngoái lại nhìn tôi một cách ái ngại. Theo lệnh anh
công-an, tôi vào trại mộc và ngồi hờ trên một cái ghế bào. Anh ta đến bên bảo
tôi:
- Anh ngồi
đây đợi, không được ra khỏi nơi này, có cần gì thì báo cáo với cán bộ gác.
Nói xong
anh ta bước ra theo đoàn người đi vào trại.
Hạnh ngộ
bất ngờ
Tôi ngồi
trong láng mộc chờ khá lâu, có khi hàng tiếng đồng hồ rồi cũng nên. Cảm thấy lạnh,
tôi mở ba-lô lấy áo len ra mặc vào người, móc bao thuốc lá mới ra, rút một điếu
và liếc nhìn sang anh lính gác, thấy anh ta cũng đang theo dõi quan sát từng cử
chỉ của tôi. Khi cho tay vào túi tìm bao diêm, tôi chợt nhớ lúc nãy tôi đã dùng
que diêm cuối cùng. Ngậm điếu thuốc trên môi, tôi nhìn anh Thượng đang ngồi
trong chòi gác, ra hiệu xin mồi lửa, anh ta ra hiệu trở lại là không có. Tôi
đành kẹp điếu thuốc trong tay và chờ coi có ai đi qua để xin lửa.
Cũng may,
có anh cán bộ người Kinh đi vào, tôi bước ra xin mồi thuốc, sẵn dịp nói là tôi
đang đói vì cả ngày nay chưa được ăn gì. Nghe vậy, anh hơi ngạc nhiên và dẫn
tôi vào một dãy nhà giam nằm khá sâu về bên trong. Khi anh ta mở cửa buồng
giam, một cảnh tượng thật ồn ào hiện ra trước mắt tôi. Một số chừng năm, sáu chục
tù nhân, người ngồi, người đứng, kẻ đi lại trong hành lang dài giữa buồng, hai
bên là sạp nằm bằng gỗ có hai tầng.
Người cán
bộ hỏi buồng trưởng phần ăn của tôi, sau đó anh ta bỏ đi và bảo sau khi tôi ăn
xong anh sẽ trở lại. Khi thấy có phần ăn để dành sẵn (một chén cơm và một bát
nước canh), tôi hiểu ngay là đáng lẽ tôi vào buồng này, nhưng không hiểu vì lý
do gì họ lại giữ tôi riêng, bảo chờ bên ngoài.
Lúc tôi
đang ăn, các anh em tù vây quanh hỏi thăm và tôi không biết phải trả lời ai trước
ai sau vì mọi người thi nhau hỏi! Sau khi trao đổi câu chuyện, tôi được biết
đây là số sĩ quan cấp Úy trong tỉnh Ban Mê Thuột trình diện học tập. Họ hỏi tôi
đủ mọi thứ chuyện, nhất là tin tức bên ngoài về các lực lượng chống chế độ, về
phong trào vượt biên, về việc đánh tư sản v.v... Sau khi biết tôi là Linh mục,
các anh em càng vui vẻ và ăn nói tự nhiên hơn, một số anh em Công giáo trong buồng
tới ôm lấy tôi và xin chúc lành. Lợi dụng lúc cán bộ chưa trở lại, tôi nói mấy
lời khích lệ tinh thần anh em và ý thức rằng tôi đang bắt đầu thi hành sứ mạng
Linh mục trong tù. Cuộc gặp gỡ bất ngờ Thật ngắn ngủi nhưng cảm động và nhiều ý
nghĩa.
Một lúc
sau, cán bộ trở lại buồng tìm tôi, nhưng không phải người lúc nãy dẫn tôi vào
mà là anh mặc đồ “Mao Trạch Đông”. Anh ta đưa tôi trở lại trại mộc ngồi chờ một
lúc nữa, có lẽ còn chờ đợi một người nào khác. Ngồi một mình buồn, tôi huýt sáo
miệng theo điệu nhạc của bản thánh ca “ Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho
con...”
Lời cầu
nguyện trong bài thánh ca này làm tôi thấy an bình và tin tưởng. Tôi cứ nghiền
ngẫm bài hát này một lúc thì thấy anh cán bộ dẫn tôi vào buồng cho ăn lúc nãy
trở lại, có hai anh võ trang ôm súng AK theo sau.
Chợt
trông thấy họ tôi hơi lo ngại. Anh cán bộ ra hiệu bảo tôi trở ra ngoài cổng
trại. Ra tới nơi thấy có chiếc Land Rover chờ sẵn giữa sân, nơi mà chúng tôi bị
lục soát ban chiều, trên xe có chị đàn bà ngồi sẵn ở băng sau, tay ôm một sọt
rau muống khá to. Tôi được lệnh lên xe ngồi chung băng với chị đàn bà, nhưng về
phía trong, hai anh võ trang mang súng AK cũng lên xe, ngồi vào băng đối diện.
Khi đã ổn định phía sau, anh “Mao Trạch Đông” đi vòng ra trước, lên ngồi cạnh
tài xế và chiếc xe chuyển bánh chạy trở ra đường cái.
Tới đầu
đường xe rẽ phải hướng về thị xã, lúc đó tôi nhìn đồng hồ anh lính ngồi đối diện
thấy đã mười giờ đêm. Đang lúc xe chạy, tôi sốt ruột nghĩ thầm: “Đêm hôm mà họ
đưa mình đi đâu đây? Hay muốn thịt mình chăng?”
Nhưng rồi
nghĩ lại, nếu họ mang tôi đi bắn sao lại có chị đàn bà và sọt rau muống trên xe
làm gì?!
Cái đêm
hôm ấy đêm gì
Khi chiếc
Land Rover rẽ vào thị xã, tôi cảm thấy an tâm. Nếu giờ này mà xe rẽ phải và chạy
vào rừng cao su, có lẽ tôi phải ăn năn tội thêm một lần nữa! Chạy quanh co
trong phố vắng một hồi, xe rẽ vào một con đường nhỏ, hai bên là bờ tường đá
cao, cuối cùng quẹo trái và dừng lại trong sân một ngôi nhà gạch. Tôi biết đây
là nhà tù của tỉnh Ban Mê Thuột vì phía sau là một bờ tường cao có hàng rào dây
kẽm gai bên trên và hai cách cửa sắt đen lù lù chận lối ra vào. Anh “Mao Trạch
Đông” xuống xe vào nhà.
Một lúc
sau có người khác mặc thường phục, vẻ mặt lầm lì, xách một chùm chìa khóa khổng
lồ có tới mấy chục chiếc bước ra. Anh ta gọi tôi xuống xe và ra lệnh theo tới
bên cánh cửa sắt. Anh mở cổng bằng chiếc chìa khóa to tướng, đẩy tôi vào trước
và bước theo sau. Anh ta khóa cửa lại và dẫn tôi đi vào một sân rộng và dài có
hàng cây trồng chính giữa. Hai bên sân là những dãy nhà gạch thật kiên cố, nhà
nọ nối đầu với nhà kia.
Sau khi
qua hai dãy nhà thì tới một phòng khá sâu vào trong, anh bảo tôi đứng đợi trước
một phòng có cửa sắt được khóa bằng dây lòi tói thật to, bên ngoài có hai ống
khóa đồng nằm cạnh nhau. Anh ta soi đèn bấm lựa chìa khóa và bắt đầu mở cửa
trong lúc tôi đang đứng bên cạnh, hơi dịch về phía sau. Lòng tôi lúc bấy giờ hồi
hộp lo âu, không biết cái gì đang chờ đợi tôi đàng sau cánh cửa sắt đen sì ghê
rợn này.
Anh cai
ngục mở khóa bằng cử chỉ thật mạnh bạo, hung hãn làm tiếng khua rổn rẻn của dây
lòi tói chạm vào cánh cửa sắt trong đêm tạo nên một thứ âm thanh ghê rợn, chói
tai. Xong khóa thứ nhất, tới cái thứ hai, cuối cùng cánh cửa sắt được mở hé ra.
Nhìn nhanh vô trong, dưới ánh sáng đèn điện lờ mơ, tôi thấy một dãy màn mắc chằng
chịt ngay trên sàn, kín cả căn buồng. Tôi còn đang do dự chưa biết phải làm gì,
bất ngờ anh cai ngục quay lại túm cổ áo tôi, đẩy mạnh một phát chúi nhủi vào ngục!
Bị mất đà và không kịp phản ứng, tôi té sấp, làm đứt dây sập cái màn ngay lối
vào, tay tôi ôm chầm lấy con người đang nằm bên trong.
Lúc ấy
không biết nước ở đâu lại văng lên tung tóe làm ướt cả mặt mày tôi, đồng thời
có tiếng cánh cửa sắt dập lại đánh “rầm” ngay sau lưng! Bao nhiêu chuyện xảy ra
cùng một lúc, quá nhanh và quá bất ngờ, khiến tôi không thể định thần được mình
đang ở trong tư thế nào, làm đổ xô nước gì, của ai? Tiếng cánh cửa sắt bị xô mạnh
kêu ầm trong đêm khuya thanh vắng, vang to đến nỗi tôi nghĩ rằng tù nhân ở các
buồng bên cũng phải giật mình chớ đừng nói chi các anh đang ở buồng này. Đấy,
bước chân đầu tiên của tôi vô nhà tù cộng-sản tại tỉnh lẻ cao nguyên Ban Mê Thuột
nó “vang lừng” như thế đó!
Tôi lồm cồm
bò dậy. Mặt mũi và một bên người bị ướt đẫm. Mắt kiếng bị dính nước làm cảnh vật
trước mắt trở nên nhòe nhẹt. Tôi vội gỡ mắt kiếng ra và lau vào áo len đang mặc
trên người. Cảm giác đầu tiên và rõ rệt nhất là mùi khai của nước tiểu xông lên
nồng nặc. Thì ra tôi ngã làm đổ cái xô nước tiểu, ướt đẫm mình mẩy và làm nhầy
nhụa mùng mền chiếu gối của anh em nằm gần cửa.
Vì buồng
này không có sạp nằm, các tù nhân phải trải chiếu xuống sàn, mắc màn nằm ngủ và
tôi đã bị xô té, làm sập cái màn ngay cửa. Nhờ trên trần có một bóng đèn điện
tròn leo lét, tôi thấy đây là một buồng rất nhỏ, có hơn chục cái màn đủ màu
đang mắc chen chúc nhau một cách vô trật tự, ra đến tận cửa sắt. Chỗ tôi đang đứng
là vị trí của cái xô nước tiểu vừa bị tôi chụp đổ tung tóe. Cái xô nhựa màu
xanh đầy cáu ghét đang nằm há mồm một cách giễu cợt trên trốc cái màn tôi vừa
đè bẹp.
Lạ một điều
là tôi không thấy bóng dáng một anh tù nào, cũng chẳng nghe ai nói tiếng gì!
Không lẽ họ ngủ mê tới nỗi những “sự cố” như sấm sét vừa xảy ra ngay bên tai mà
họ không hay! Cả anh tù mà tôi ngã té sấp đè lên người mà cũng không hay biết
gì ư? Rồi còn cái mùi a-mô-nhắc khai nồng nặc của nước tiểu đang chảy lênh láng
trên sàn nhà? Không lẽ thần kinh khứu giác của mấy anh tù trong buồng này liệt
hết rồi sao?
Một phút
trôi qua, nhưng sao chẳng nghe động tĩnh gì! Dường như có cái gì bất thường
đáng lo ngại trong cái sự yên lặng giả tạo này, hay đây là thứ yên lặng chết
người của vùng trung tâm bão tố? Tôi đã từng nghe nói, và đọc thấy trong sách nữa,
về việc mấy anh tù mới, khi vừa bước vô buồng phải “làm lễ ra mắt” với đại ca
như thế nào, cảnh ma cũ bắt nạt ma mới trong tù ra sao!
Riêng tôi
lúc này chẳng những là “ma mới”, mà còn là một “ma-mới-làm-đổ-xô-nước-tiểu”,
như vậy cầm chắc cái “lễ ra mắt” của tôi sẽ diễn ra một cách long trọng hơn!
Tôi đang chờ đợi hậu quả tiếp theo, nhưng lạ quá, hơn một phút qua rồi mà mọi sự
vẫn yên tĩnh, tự nhiên tôi cảm thấy mình phải làm một cái gì đó trong lúc này.
Tôi nhẹ
nhàng cúi xuống, nhặt cái xô đặt vào sát góc phòng và lên tiếng nói to để cả buồng
nghe: “Xin chào các bạn trong buồng, tôi mới bị bắt vô, có gì sai sót xin các bạn
bỏ qua cho!” Nói xong tôi đứng chờ, vẫn không thấy động tĩnh gì, nhưng khi nhìn
xuống, tôi để ý thấy con người nằm trong màn bị tôi đè lúc nãy bắt đầu cử động.
Anh ta khẽ vén mí màn nhìn ra ngoài, nhưng không nhìn tôi mà lại nhìn lên phía
trên cánh cửa sắt, nơi có hàng chấn song thẳng đứng.
Tôi chợt
hiểu ngay là tự nãy giờ anh ta giả vờ nằm yên đợi cán bộ đi rồi mới ra tay! Tôi
định bụng lên tiếng xin lỗi vì đã làm sập màn và đổ nước tiểu tung tóe trên người
anh ta, nhưng chưa kịp mở miệng thì bất thần anh ta tung màn đứng bật dậy như
cái lò xo, đôi cánh tay khuỳnh ra, hai bàn tay nắm chặt, quát to:
- ĐM! Cởi
giày ra!
Tôi giật
mình khi bất ngờ chạm trán với cái hình hài vạm vỡ, mình trần trùn trục, đầu cạo
trọc nhẵn thín, có xâm trổ hình con rồng thật to trước ngực. Khi quát, anh ta
nhăn mặt nghiến răng, để lộ hàm răng có một chiếc răng cửa bị gãy, làm cho bộ mặt
anh ta trông thật “cô hồn”. Tôi biết mình đang lâm nguy với anh chàng này, nên
nhẹ nhàng trả lời:
- Xin lỗi
anh, tôi mới vô nên không biết.
Nói xong
tôi cúi xuống cởi đôi giày thể thao đang mang, vừa nghĩ thầm: “Cái số mình thật
chẳng ra gì! Té không đè ai khác lại đè ngay tên cốt đột này cho nó to chuyện
ra!”
Cởi giày
xong, tôi ngước lên đã thấy mấy người nữa, phần nhiều trẻ tuổi, vạch màn chui
ra đứng vây quanh, tất cả đều cởi trần, mặc quần đùi. Một anh lớn tuổi bò xuống
chùi chỗ nước tiểu nhòe nhoẹt dưới sàn. Nhìn các anh em này, tôi không thấy vẻ
gì hắc ám như tên trọc đầu, sún răng. Có lẽ họ vây quanh tôi vì hiếu kỳ muốn biết
mặt một bạn tù mới hơn là có ý gì khác. Tên trọc đầu có vẽ bực dọc. Hắn sửa lại
thế đứng thành chân trước chân sau. Một tay gác sau mông, bàn tay kia nắm lại,
giương ngón tay trỏ ra điểm mặt tôi và bắt đầu đầu hạch hỏi bằng một giọng điệu
đàn anh:
- Tội gì
mà vào đây?
Tôi biết
là “lễ ra mắt” đã tới giờ khai mạc!
Vì không
biết anh chàng cốt đột này thuộc dạng gì, nếu hắn là một cán bộ hủ hóa bị tù mà
tôi nói tội “chống chế độ” sẽ bị no đòn với hắn. Tôi chọn một tội danh vô thưởng
vô phạt nhưng rất phổ thông lúc bấy giờ:
- Tôi vượt
biên bị bắt.
- Bị bắt
bao lâu rồi?
- Mới
ngày hôm qua.
- Bị bắt ở
đâu?
- Ở quận
Đức Lập và mới bị giải lên đây chiều nay.
Một anh
khác, khá đứng tuổi hỏi chen vào:
- Anh quê
quán ở đâu?
Thấy anh
này hỏi thăm cách nhẹ nhàng và có cảm tình, tôi mừng thầm đáp lại:
- Tôi người
miền Tây, tỉnh Vĩnh Long anh ạ.
Anh chàng
trọc đầu nghe tôi nói thế vội chen vào, hai tay chống nạnh ngang hông:
- Ở miền
Tây mà lên tận đây vượt biên! Hay anh lên đây làm việc gì khác, nói thiệt đi? Ở
đây không có gì phải sợ! Nói thiệt đi, anh lên đây làm gì?
Cái giọng
anh chàng này y như của bọn công-an biên phòng Đức Lập làm tôi phát nghi. Tôi tự
nhủ hay là anh này gốc cán bộ như tôi có gặp một số ở Đức Lập hôm qua. Tôi liền
đáp:
- Tôi lên
đây vượt biên, chẳng làm gì khác.
Anh ta hỏi
tiếp:
- Anh đi
một mình à, còn vợ con anh đâu?
- Tôi
không có vợ con.
Nghe câu
này anh ta lộ vẽ bất bình và trợn mắt, trề môi nhe hàm răng sún ra, kề sát mặt
tôi, gằn giọng:
- Anh nói
cái gì? Từng tuổi này mà chưa có vợ con?! Vậy ngoài xã hội anh làm nghề gì?
- Tôi là
Linh mục Công giáo.
Vừa đáp
xong câu ấy, tôi chợt thấy anh ta há hốc mồm, trợn tròn mắt đầy vẻ ngạc nhiên.
Lùi lại một chút, anh vội chụp lấy hai vai tôi và nói nhanh:
- Vậy,
đây... đây... là cha hả?
- Vâng!
Tôi là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long.
Anh ta vội
ôm lấy tôi, kêu lớn:
- Trời
ơi, cha, con xin lỗi cha, con không biết, con là người Công giáo đây, con tên
là Long, giáo dân xứ Hà Lan, cha có biết cha xứ Hà Lan không?
- Không,
tôi không biết cha xứ Hà Lan, nhưng tôi biết Đức cha Nguyễn Huy Mai. Ở giáo phận
Ban Mê Thuột này tôi chỉ biết mỗi cha Nguyễn Tiến Khẩu, vì ngài học chung với
tôi mấy năm ở Đại chủng-viện Sài Gòn, cha Khẩu học sau tôi ba lớp.
Anh chàng
vừa xưng tên là Long vui mừng ra mặt, quay vô phía trong gọi lớn: “Có cha Lễ ở
Vĩnh Long mới vô tụi bây ơi”. Xong quay lại vui vẻ nói:
- Con biết
cha Khẩu lắm, đám vinh qui cha Khẩu con có đi dự mà!”
Chỉ trong
giây lát mà tình thế đã thay đổi 180 độ! Chính tôi cũng không ngờ được sự việc
lại xảy ra một cách may mắn như vậy! Các anh em khác bắt đầu xúm lại thăm tôi.
Có vài anh nãy giờ nằm im, lúc này cũng vạch màn chui ra.
Long trọc
đầu nhe răng sún cười khì khì, đỡ lấy cái ba lô trên vai tôi: “Tối nay cha ngủ
chung với con”. Nói xong anh ta lo thu xếp chỗ cho tôi và lấy nùi giẻ lau chỗ
nước tiểu trên chiếu, trên sàn. Tôi còn mấy bao thuốc lá trong ba-lô, lấy ra xé
mời các anh em trong buồng. Gặp ngày cuối tháng, cả buồng khô cạn thuốc lá vì ở
đây mỗi tháng được thăm nuôi tiếp tế vào ngày đầu tháng, rớ được mấy bao thuốc
lúc này chẳng khác chi trời đang hạn hán gặp cơn mưa rào.
Gần chục
anh em ngồi nấp sau màn, quây quần bên tôi vừa hút thuốc vừa rù rì nói chuyện,
hỏi thăm đủ thứ, vui như một ngày hội. Hỏi ra tôi biết trong buồng có 12 người
trong số đó bảy anh là Công giáo. Họ bị giam về đủ mọi thứ tội, chính trị cũng
như hình sự. Long trọc đầu tội uống rượu say đánh bộ đội, đã ở tù gần sáu tháng
rồi. Nằm sát vách bên trong còn có hai người Thượng chức vụ cao trong lực lượng
FULRO: anh Y Tư là Tổng Trưởng Quốc Phòng, lúc ấy đang bị liệt nằm một chỗ và
người kia trẻ hơn là Y Toái, Tham Mưu Trưởng Quân Đội của lực lượng FULRO. Hai
người không nói rành tiếng Việt.
Anh em kể,
phòng này trước kia là thư viện, nên không có sạp nằm và không có nhà cầu. Mỗi
ngày hai lần, sáng và chiều có mở cửa cho tù nhân ra bể cạn ở đầu nhà để tắm giặt,
rửa chén bát và lo việc vệ sinh tại cầu tiêu tập thể gần nhà tắm. Ban đêm phải
giải quyết tất cả mọi chuyện vệ sinh trong cái xô nhựa mà tôi làm đổ tung tóe
lúc nãy! Chúng tôi quây quần hút thuốc, ai nấy vui vẻ quên cả sự đời. Có lẽ đây
là trường hợp duy nhất mà tôi có thể khẳng định: Hút thuốc lá có lợi cho sức khỏe!
Chúng tôi
đang vui câu chuyện, chợt có tiếng cán bộ bên ngoài quát to bắt đi ngủ vì đã
quá nửa đêm. Nghe tiếng quát, mọi người nín thinh và khẽ bò về chỗ của mình.
Long nhẹ nhàng nằm xuống, tôi cũng nằm kế bên, chung trong một cái màn nhỏ và ướt
đẫm nước tiểu đã được Long vắt đi và lau chùi. Chúng tôi nằm yên và chờ lúc cán
bộ đi khỏi, tôi khẽ gọi Long ngồi lên đọc bài kinh ngắn trước khi ngủ. Đọc
chung với tôi vài câu kinh xong, Long ghé tai tôi nói nhỏ có vẻ bẽn lẽn: “Đêm
nay ngủ chung với cha, con đọc kinh, trước giờ con có kinh sách gì đâu!”
Nói xong
nhe răng cười và ngã người nằm xuống, nhưng không quên sửa lại cái ba-lô được
cuộn tròn làm thành cái gối cho tôi gối đầu và hỏi tôi nằm như vậy có thoải mái
không. Một lúc sau tôi đã nghe tiếng thở đều của Long. Phần tôi, cũng muốn dỗ
giấc ngủ sau một ngày quá mệt nhọc và nhiều biến cố, nhưng cứ trằn trọc mãi
không sao ngủ được. Bên tai tôi tiếng thở của Long càng lúc càng mạnh, và sau
cùng là tiếng ngáy đều đều. Tôi trở người, quay sang nhìn Long, tự nhiên tôi
thương nó hết sức và nhớ lại lúc nãy trước khi cha con ngồi lên đọc mấy câu
kinh, nó cứ luôn miệng xin lỗi tôi về thái độ của nó lúc chưa nhận biết tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét