Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

TÔI ĐI TÌM TỰ DO - NGUYỄN HỮU CHÍ - KỲ 81 ĐẾN KỲ 95

KỲ 81
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, hỏi thăm đường đến nhà ông MN. Hỏi ba người trong ga, cả ba đều lắc đầu không biết. Đi ra ngoài sân ga, nhìn đường phố vắng vẻ, không có một ai, cả thị trấn giống như một thành phố đã chết. Băng sang bên kia đường, tôi gặp một cụ già, bị cụt mất một chân, mặc chiếc áo của người thiểu số, không hiểu là áo của người Nùng hay Mèo, nhưng lại mặc chiếc quần bộ đội cũ đã bạc mầu. Nghe tôi hỏi, cụ ngạc nhiên, nhìn tôi từ đầu đến cuối rồi nói, giọng lạnh lùng:
- Phố xá đây đi tản cư hết rồi. Chẳng còn ai ở đó đâu mà kiếm.
Chỉ tay một vòng chung quanh ga, cụ tiếp:

- Cả cái thị trấn Đồng Đăng này, cả cái huyện Cao Lộc này đều được lệnh tản cư hết rồi. Tất cả bây giờ là vườn không nhà trống để chống tụi Trung cộng bá quyền xâm lăng. Bộ anh không biết chuyện đó sao?
Nghe cụ nói đi nói lại hai lần chữ “tản cư” tôi ngạc nhiên. Thông thường, người ở Miền Bắc hay dùng chữ “sơ tán”. Còn “tản cư” là từ thông dụng thời trước 1954. Nghe cụ hỏi, tôi lúng túng:
- Thưa cụ, tôi từ xa tới, tìm kiếm người bà con, nên không biết…
Cụ nhìn tôi từ đầu đến chân một lần nữa, rồi gật gù:
- Anh không phải người Hoa. Tôi biết. Vậy làm sao anh lại có họ hàng với hắn. Anh đến tìm thằng MN làm gì? Hắn bị công an bắt cả tháng nay rồi. Bị bắt về tội buôn lậu trâu qua biên giới.
Tôi ngạc nhiên lẩm bẩm, “Bị bắt về tội buôn lậu trâu!”
Cụ già nhìn tôi lắc đầu, rồi thấp giọng thì thầm:
- Thì đó là tội mà mấy người dân ở đây họ nói như vậy, chứ lão biết hắn ta bị bắt vì tội làm gián điệp cho Trung cộng…
Tôi giật mình, nhưng cố giữ vẻ mặt bình tĩnh. Ông cụ tiếp:
- Nói đúng ra thì hắn cũng chẳng có làm gián điệp gì đâu. Đi buôn lậu trâu qua biên giới thì phải quen biết, quà cáp, kết thân cả hai bên. Chuyện đó lâu lắm rồi, cả chục năm trước lận, ai mà chả biết. Nhưng đến lúc lộn xộn, hai nước thành thù nghịch thì công an họ phải tóm cổ hắn trước để đề phòng làm nội gián cho địch đó mà.
Chỉ tay vào chiếc chân cụt, cụ già nói:
- Còn lão cũng may, vì cái chân cụt này nên tụi nó tha, chứ không thì lão cũng bị họ bắt rồi. Trước đây lão cũng bị bắt lên bắt xuống chỉ vì cái tội đi lính cho Pháp. Mà thời đó gia đình lão không đi lính cho Pháp thì lấy gì ăn. Vậy mà từ khi hoà bình lập lại (1954) cho đến nay, họ cũng bắt lão cả thẩy mấy lần rồi. Hễ tình hình rục rịch, an ninh bất ổn là họ lại bắt lão vài tháng, có khi cả năm. Đợt lâu nhất là cái năm máy bay Mỹ bắn phá Miền Bắc, lần đó lão cũng bị họ bắt giam 4 năm lận…
Sau khi nói chuyện với cụ, tôi hoàn toàn chán nản. Như vậy là việc đến gặp ông MN để nhờ ông giúp đỡ cho tôi vượt biên sang Trung quốc đã không thể được. Trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi chỉ có hai cách. Một là tiếp tục trốn tránh ở lại Đồng Đăng, chờ cơ hội khi nào Trung cộng mở cửa biên giới cho người Hoa về nước thì tôi sẽ trà trộn với họ qua biên giới. Hai là tôi phải tìm cách vượt biên giới một mình. Bằng không, tôi phải trở lại Hà Nội, tìm đến “lão Z” để nhờ lão giúp đỡ, vượt biên theo ngả Hải Phòng, Móng Cái.
Tối hôm đó, tôi nằm nghĩ miên man. Việc trốn tránh ở lại Đồng Đăng tôi thấy rất nguy hiểm, và không biết phải chờ đợi cho đến bao giờ. Mà mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày tôi có thể bị công an VC phát hiện. Đó là chưa kể những khó khăn khác như ăn ngủ, tiền bạc thiếu thốn… làm sao đủ sống để tôi có thê ăn dầm nằm dề ngày này qua ngày khác. Vì vậy, tôi thấy chỉ còn có cách vượt biên giới một mình. Bình thường,
chuyện này không có khó. Chỉ cần định phương hướng, rồi cắt rừng mà đi, gặp núi thì trèo, gặp sông suối thì lội, nhanh thì một vài giờ, lâu thì vài ngày đêm, tôi sẽ vượt qua được biên giới Việt Trung. Nhưng hiện tại, toàn bộ vùng biên giới ở các các cửa khẩu, việc canh gác vô cùng nghiêm mật, nên chuyện cắt rừng sẽ vô cùng nguy hiểm. Nếu chẳng may bị lọt vào tay bộ đội biên phòng VC thì dám mất mạng như chơi.
Giữa lúc đang lo lắng tìm cách vượt biên, tình cờ tôi quen được một anh chàng người Hoa, tên là A Coóng, ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. Anh cho tôi biết, cả gia đình họ hàng nhà anh đã trở về Trung quốc từ tháng trước. Riêng anh bị kẹt lại vì phải chờ lấy chiếu khán nhập cảnh của toà đại sứ Trung cộng ở Hà Nội. Anh bảo, nếu anh về nước có giấy nhập cảnh của toà đại sứ Trung cộng thì sẽ được đãi ngộ xứng đáng hơn, không phải đi về “nông xường” (công trường) sản xuất, mà được ở thành phố, thị xã, thị trấn làm ăn.
Sau một hồi trò chuyện, tôi mới biết A Coóng cũng là dân buôn dọc qua biên giới. Khi ga Đồng Đăng bị đóng cửa vì những xung đột giữa hai quốc gia, A Coóng vẫn tiếp tục buôn bán qua biên giới ở vùng Bản Tả, cách Đồng Đăng khoảng 60 cây số về phía bắc. Chuyện trò thân mật và tin tưởng ở quyết tâm vượt biên sang Trung quốc bằng mọi giá của tôi, A Coóng mới rủ tôi đi bộ đến Bản Tả, rồi từ đó sẽ vượt qua biên giới Việt Trung.
Sau một hồi suy nghĩ, tôi băn khoăn hỏi anh:
- Tại sao mình không vượt biên đâu đó gần Đồng Đăng mà phải đi lên Bản Tả mới vượt biên được?
A Coóng mỉm cười:
- Chung quanh Đồng Đăng bây giờ có cả chục ngàn người Hoa muốn về nước, nên cả Trung cộng lần Việt cộng đều canh phòng biên giới rất kỹ lưỡng. Cả một vùng hơn chục cây số từ đây lên đến tận Khuổi Po, Nà Mát bây giờ là một con chim cũng không bay qua lọt. Việt cộng thì sợ gián điệp Trung cộng thâm nhập, mà Trung cộng thì sợ gián điệp Việt cộng thâm nhập. Mình vượt biên ở đây dù cho có qua lọt đi nữa, cũng sẽ bị Trung cộng nghi mình là gián điệp Việt cộng đem bắn bỏ.
Ý kiến của A Coóng nghe có lý, nhưng tôi không hẳn đồng ý. Tôi hỏi:
- Làm sao Trung cộng chỉ nghi ngờ mình là gián điệp mà có thể đem mình bắn bỏ được?
A Coóng nhún vai:
- Chiến tranh mà! Nó đem nướng dân nó vài triệu còn được huống chi đem vài mạng cóc chết như mình đi bắn bỏ.
Tôi vẫn bảo thủ:
- Nếu họ tin mình là gián điệp Việt cộng thì ít nhất họ cũng phải giữ lại điều tra để khai thác, chứ dại gì đem mình bắn bỏ ngay.
A Coóng lại nhún vai:
- Thì trước sau gì, nếu chú mày đã lọt vào tay Trung cộng là bị họ bắn bỏ. Bắn ngay hay chờ khai thác rồi bắn thì có gì khác đâu. Tôi là người Việt gốc Hoa, tôi đã từng buôn bán với họ cả mấy chục năm, tôi đâu có lạ gì họ. Thời “cách mạng văn hoá” họ giết người của họ như ngoé mà đâu có cần phải nghi ngờ gì…
Tuy không đồng ý với A Coóng, nhưng cuối cùng tôi cũng đồng ý đi theo anh đến Bản Tả ngay tối hôm đó. Dù sao, trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, bất cứ cơ hội gì giúp tôi sang được bên Trung quốc, tôi cũng vội vàng ôm lấy, mà không được phép chọn lựa.
Vừa đi vừa nghỉ, chừng một đêm một ngày, chúng tôi đến Bản Tả vào chiều hôm sau. Dọc đường đi, tôi phải công nhận A Coóng rất thông thuộc địa hình, có tài đặt bẫy cầm thú và nấu nướng trong rừng.
Khoảng chập choạng tối, A Coóng dắt tôi rẽ vào một con đường nhỏ, đi tới một căn nhà sàn, anh nói đó là nhà của người yêu cũ của ảnh. Anh bắt tôi đứng đợi anh ở dưới chân nhà sàn, rồi anh lên nhà một mình.
Tôi mệt rũ rượi, hai chân mỏi nhừ, nên ngồi dựa vào cầu thang, thiu thiu ngủ lúc nào không hay. Đang ngủ thì giật mình vì có người lay lay vào vai. Mở mắt thì thấy A Coóng đứng bên cạnh cùng với một thiếu phụ, tay đang cầm bó đuốc bập bùng. Tuy ánh lửa không đủ sáng, nhưng tôi cũng thấy người thiếu phụ rất đẹp. A Coóng ra hiệu cho tôi đi theo anh lên nhà sàn. Tôi lẳng lặng đứng dậy đi theo.
Bước vào trong nhà sàn, tôi thấy có một cụ già đang ngồi ở góc nhà, mắt nhắm nghiền. Giữa nhà là một đống củi, lửa cháy bập bùng. Bên cạnh là một mâm cơm, chủ yếu là khoai mì, củ mài và thịt heo khô, rất nhạt nhẽo và khó nuốt. Vừa ăn, A Coóng vừa buồn rầu không nói gì. Nhìn vẻ mặt của A Coóng, tôi không biết vì sao anh buồn. Lâu lâu, anh lại nói tiếng thiểu số với người thiếu phụ, nhưng tôi không hiểu đó là tiếng Mường, tiếng Thái, hay tiếng Nùng. Vì không thấy A Coóng nói gì với tôi, nên tôi cũng im lặng trong suốt bữa ăn.
Ăn xong, người thiếu phụ dọn dẹp chén đũa rồi đi ra phía hiên sau. Chờ người thiếu phụ đi khuất, A Coóng thì thầm bảo tôi:
- Vượt biên ở đây không được rồi.
Tôi ngạc nhiên lo lắng nhìn A Coóng hỏi:
- Sao vậy?
- Họ rải mìn đầy khắp các con đường dọc theo biên giới. Trâu bò của dân đạp trúng mìn, chết ngổn ngang…
Tôi giật mình. Nếu chuyện gài mìn dọc biên giới ở Bản Tả là thật thì chuyện vượt biên của chúng tôi ở đây chắc chắn là vô cùng nguy hiểm. Hoàn cảnh của tôi khiến tôi phải liều lĩnh chấp nhận mọi rủi ro, nhưng còn A Coóng, chắc chắn anh chẳng dại gì phải liều lĩnh như tôi. Tôi ngần ngại hỏi:
- Bây giờ anh tính thế nào?
- Trở lại Đồng Đăng chứ còn thế nào nữa.
Tôi thở dài chán nản. Như vậy là tốn bao nhiêu công lao đi suốt từ Đồng Đăng tới Bản Tả, cuối cùng công cốc.
Ngay sáng hôm sau, tôi và A Coóng lên đường trở lại Đồng Đăng. Lần đi, chúng tôi hăng say, vui vẻ và hy vọng bao nhiêu thì lần về buồn bã, chán nản và thất vọng bấy nhiêu. Cũng may trên đường trở về, chúng tôi không gặp khó khăn trở ngại gì. Ngay khi đến Đồng Đăng, tôi chia tay A Coóng, vì anh chấp nhận ở lại, chờ ngày Trung cộng mở cửa biên giới cho người Hoa về nước. Còn tôi, tôi không thể ở đó chờ đợi trong vô hạn, khi mà nguy hiểm đang rình rập bủa vây. Tôi quyết định trở về Hà Nội, để tìm được vượt biên qua ngả Móng Cái. Tôi biết, thị trấn Móng Cái bên Việt Nam và thị trấn Đông Hưng (Tống Hếnh, theo tiếng Quảng) của Trung Quốc, đối diện nhau và chỉ cách nhau có con sông Ka Long. Vì vậy, dù Việt cộng có rải mìn dọc theo biên giới, chúng cũng không thể nào rải mìn ở ngay giữa một thị trấn đông dân khi nào ở đó dân còn đang sinh sống, và chiến tranh giữa hai nước chưa xảy ra. Tôi hy vọng, sẽ đặt chân đến thị trấn Móng Cái trước khi hai nước xảy ra xung đột võ trang.
Không may cho tôi, lúc đó, xe lửa từ Đồng Đăng đến Hà Nội không còn. Thì ra sau khi có lệnh đóng cửa biên giới của Trung cộng, nhà cầm quyền Việt Nam cũng ra lệnh ngưng không cho xe lửa chuyên chở người Hoa về Đồng Đăng. Do vậy, nếu tôi muốn về Hà Nội gấp, tôi phải đi đến Bắc Giang, mới có xe lửa về Hà Nội. Còn không, tôi phải đi bộ về Bản Thi, chờ ở đó nhiều tuần, mới có một chuyến xe lửa về Bắc Giang. Đường đi từ Đồng Đăng về Bắc Giang xa cả mấy trăm cây số, đi bộ phải mất cả chục ngày trời. Còn về Bản Thi thì gần, nhưng lại phải chờ nhiều tuần mới có xe lửa.
Sau khi suy nghĩ, cân nhắc thiệt hơn, cuối cùng tôi lên đường đi Bản Thi trước. Nếu đến Bản Thi tôi đáp được xe lửa về Bắc Giang thì may. Còn không, tôi sẽ đi bộ tiếp về Bắc Giang. Trên đường đi, tôi sẽ tìm cách quá giang bất cứ loại xe tải nào nếu thuận tiện.
KỲ 82
Trên đường trở lại Bản Thi, tôi thấy người Hoa vẫn lũ lượt đổ về Đồng Đăng. Thì ra, hay tin Trung Cộng đóng cửa biên giới, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tạm ngưng hoặc cho giảm số lượng các chuyến xe lửa từ Hà Nội đi Đồng Đăng. Nhìn cảnh các gia đình người Hoa buồn bã, khóc lóc, bồng bế, dắt díu nhau đi, trong đó có cả những cụ già lưng còng phải chống gậy, những người bệnh phải nằm võng, những em bé phải ngồi trong thúng để cha mẹ gánh, hoặc được cha mẹ địu sau lưng,… tôi mới thấy thấm thía thân phận muôn đời khốn khổ của người dân trong xã hội cộng sản. Và tôi cũng hiểu, những thân phận bất hạnh mà tôi gặp trên đường Hà Nội đi Lạng Sơn còn là những người may mắn so với hàng vạn người Hoa khác phải chết tức tưởi trong các trại cải tạo, các vùng kinh tế mới, cũng như trên đường vượt biển vượt biên. Ngoài ra cũng còn có những người Hoa ở khắp mọi miền của đất nước đã phải tự tử vì bị cộng sản o ép, cướp bóc của cải, tiền bạc…
Trong chuyến đi tàu chợ từ Hà Nội đến Đồng Đăng, tôi đã đóng giả người Hoa. Vì tàu chợ quá đông người Hoa, nên việc trà trộn của tôi không bị ai phát hiện. Nay một thân một mình trở lại Hà Nội, tôi bắt buộc phải thay đổi cách ăn mặc sao cho thích hợp. Sau khi ghé vô một quán nước bên đường, kín đáo quan sát người qua lại và lắng nghe mấy người khách trong quán trò chuyện, tôi thấy cách tốt nhất là đóng giả “thanh niên xung phong”. Khác với các đơn vị bộ đội thường kiểm soát chặt chẽ quân số, các đơn vị thanh niên xung phong bao giờ cũng lỏng lẻo hơn, khó kiểm soát hơn. Hơn nữa, với tôi lúc đó, đóng giả một thanh niên xung phong cũng dễ dàng hơn.
Để đóng giả thanh niên xung phong, đầu tiên tôi chỉ vô sạp bán quần áo cũ, mua một bộ đồ bộ đội cũ, một chiếc nón cối và một đôi dép râu. Tất cả những thứ này là đồ dùng hàng ngày của thanh niên xung phong, nhưng cũng được bầy bán nhan nhản ở Miền Bắc và bất cứ ai cũng có thể mua mặc. Thay bộ đồ thanh niên xung phong xong, tôi tìm đến một tiệm sách mua một tấm hình Hồ Chí Minh, cuộn tròn lại, và một cuốn sách “Ngục Trung Nhật Ký” của HCM. Hai vật này tuy chẳng phải là hành trang cần thiết cho người đi đường bình thường, nhưng tôi biết, với tôi lúc đó, nếu biết khai thác đúng lúc, đúng đối tượng, để tạo nên cái vẻ thật “tình cờ”, nhiều khi nó còn có giá trị hơn cả giấy thông hành. Quả nhiên, nhờ nó, tôi đã thoát chết ngay tối hôm đó…
Mặc bộ đồ thanh niên xung phong, tay cầm cuốn sách NTNK và bức hình HCM, tôi hỏi đường đến bưu điện địa phương để điều nghiên tình hình. Tới bưu điện, tôi đứng ở bên này đường, giả vờ chăm chú coi sách, nhưng thật sự là kín đáo quan sát người ra vô bưu điện. Quả nhiên, chờ không lâu, tôi thấy có một toán thanh niên xung phong ồn ào bước vô bưu điện. Tôi vội băng qua đường, bước vô theo họ.
Giống như hầu hết những bưu điện ở Miền Bắc, bưu điện ở đây cũng rất sơ sài và nghèo nàn. Một chiếc quầy bằng gỗ chạy dài suốt chiều ngang, phân chia giữa người bán và người mua. Ở góc phòng là một chiếc bàn gỗ ọp ẹp, cao ngang ngực, trên để một chén keo dùng để dán tem, nhưng keo khô cứng, ruồi bâu đầy. Chung quanh tường, ngoài mấy tầm hình lãnh tụ cộng sản Việt Nam như thường thấy ở bất cứ công sở, cửa tiệm quốc doanh nào trên Miền Bắc, còn có những khẩu hiệu chống đối Trung cộng và kêu gọi mọi người không ngừng nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền đánh phá của “bá quyền Trung cộng”.
Bước tới quầy, sát cạnh mấy người thanh niên xung phong, tôi hỏi mua mấy chục con tem, phong bì, trong khi nhanh chóng và kín đáo quan sát mấy phong thư của mấy người thanh niên xung phong để trên quầy. Trên mỗi phong thư bao giờ cũng có hai phần, người gửi và người nhận. Tôi chỉ quan tâm phần người gửi, nên cố gắng nhớ thật nhanh, tên họ người gửi, đơn vị, địa chỉ. Sau đó, giả vờ viết phong bì, tôi ghi vội những chi tiết mình vừa thu thập. Cứ như vậy, trong thời gian ngắn ngủi khoảng 5 phút đồng hồ, tôi đã biết được ba đơn vị thanh niên xung phong khác nhau quanh huyện Cao Lộc, Lạng Sơn.
Sau khi bỏ thư xong, tôi bước ra ngoài bưu điện, đứng hút thuốc chờ đợi. Khoảng mười phút sau, một toán thanh niên xung phong khác đi tới. Cầm cuốn NTNK cố ý để cho bìa sách quay ra phía ngoài, tôi bước tới đon đả mời thuốc và chào hỏi người thanh niên đi cuối cùng:
- Chào anh. Anh cho tôi hỏi chút được không?
Người thanh niên đứng lại, nhìn tôi ánh mắt có vẻ dò xét, nhưng tay vẫn nhậm lẹ rút điếu thuốc tôi mời. Tôi niềm nở bật quẹt. Anh châm lửa, kéo một hơi thuốc thật dài, rồi ém khói. Nhìn những ngón tay ám khói thuốc vàng khè và điệu bộ hút thuốc của anh, tôi biết anh là dân nghiện thuốc thứ thiệt. Tôi rút thêm một điếu thuốc, thản nhiên cài lên vành tai anh, rồi thân mật vỗ vai anh:
- Tôi có thằng em đi thanh niên xung phong, đóng ở quận Cao Lộc, mà sao tôi tìm hoài không ra nó…
Anh chàng rít thêm một hơi thuốc thật sâu, ánh mắt lờ đờ, vẻ dò xét đã biến mất sau khói thuốc:
- Thằng em anh ở đơn vị nào?
Tôi nhắc tên một đơn vị mà tôi vừa coi lén được trong bưu điện. Người thanh niên cười hềnh hệch, đưa tay cho tôi bắt, và nói:
- Vậy là thằng em anh ở cùng tiểu đoàn với tôi, nhưng khác đại đội. Tôi tên Q. Còn anh tên gì?
- Tôi tên Lương. Tôi nhận được thư thằng em, nên vội lên thăm. Nó cho biết đơn vị của nó ở quận Cao Lộc, nhưng không nói rõ làng xã, nên tìm khó quá.
Sau đó, tôi niềm nở mời anh Q vô trong quán nước bên kia đường vừa hút thuốc, uống nước, vừa trò chuyện. Trong thời gian trò chuyện khoảng mười phút đồng hồ, hút hết ba điếu thuốc, ăn hết mấy viên kẹo vừng, anh vui vẻ cho tôi biết khá tường tận về đơn vị thanh niên xung phong của anh. Từ tên tuổi tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng, trung đội trưởng, đến cả chủ tịch xã, bí thư xã uỷ, bạn bè của anh… anh đều nhất nhất cho tôi biết. Anh cũng cẩn thận chỉ cho tôi biết đường đi đến đại đội thanh niên xung phong có “thằng em” của tôi. Tôi cố gắng nhớ hết tất cả những chi tiết anh nói để trong những ngày tới, trên chặng đường từ đây về đến Hà Nội, tôi sẽ sử dụng tất cả những chi tiết đó để đóng vai một thanh niên xung phong đóng tại quận Cao Lộc, Lạng Sơn, nay được đi phép về thăm nhà.
Chiều hôm đó, trong vai một thanh niên xung phong đi công tác, tôi đi bộ từ Đồng Đăng theo quốc lộ 4A tới thị xã Lạng Sơn. Trước đây, qua điều nghiên trên bản đồ, tôi biết từ thị xã Lạng Sơn, nếu tôi tiếp tục đi bộ theo quốc lộ 4B, tôi sẽ tới được Tiên Yên, Hải Ninh, Móng Cái, để rồi tại Móng Cái, tôi có thể bơi qua sông Ka Long, vượt biên sang bên Đông Hưng của Trung Cộng. Nhưng tuyến đường 4B không có xe lửa, còn nếu đi bộ thì tôi sẽ không đủ sức, vả lại tôi cũng không biết đường xá ra sao. Vì vậy, thay vì rẽ trái theo quốc lộ 4B, tôi quyết định rẽ phải, theo quốc lộ 1A để đi về Bắc Giang. Một khi đến được Bắc Giang, tôi hy vọng sẽ có xe lửa về Hà Nội. Bằng không, tôi sẽ cố gắng đi bộ tiếp về Bắc Ninh, nơi này chắc chắn sẽ có xe lửa, hoặc xe đò về Hà Nội thường xuyên mỗi ngày. Tôi tính toán thì như vậy, nhưng thực tế có những chuyện bất ngờ xảy ra làm đảo lộn tất cả mọi chuyện… Đầu đuôi câu chuyện bất ngờ đó như sau.
Sau khi rời khỏi thị xã Lạng Sơn được hơn chục cây số, thấy thỉnh thoảng có xe dân sự cũng như quân sự chạy cùng chiều, mà lần nào vẫy xe xin quá giang cũng không được, nên tôi tìm đến một khúc đường cua, khuân vài hòn đá lớn vứt ra đường. Sau đó, tôi ẩn trong bìa rừng chờ đợi. Khoảng nửa tiếng sau, hai chiếc xe chạy tới. Trời lúc đó mới chập choạng tối, nên tôi vẫn nhìn rõ từ xa, cả hai không phải là xe nhà binh, mà là loại xe tải, phía sau không có mui, trống trơn. Yên tâm, tôi chờ đợi sẵn sàng. Quả nhiên, khi chạy đến khúc quanh, gặp mấy tảng đá nằm ngổn ngang giữa đường, hai chiếc xe đều bấm còi ầm ĩ, rồi chạy chậm hẳn lại, đủ cho tôi bám vô chiếc xe sau, nhảy lên xe an toàn.
Ngồi trên xe, tôi thở một hơi dài khoan khoái. Từ phía sau, tôi ghé mắt nhìn quá ô kiếng nhỏ của buồng lái, thấy chỉ có một người tài xế, mặc chiếc áo cộc tay. Tôi yên tâm phỏng đoán, xe này sẽ chạy theo quốc lộ 1A tới Bắc Giang, hoặc ít nhất cũng phải tới Kép là khu vực công nghiệp lớn trong vùng. Từ Kép, tôi sẽ đi bộ tiếp tới Bắc Giang không bao xa. Như vậy nếu mọi chuyện tốt đẹp, chỉ nội tối mai, tôi sẽ có mặt tại Hà Nội. Chỉ có điều khi xe chạy tôi phải luôn luôn chú ý theo dõi đường xá, để bất cứ lúc nào, nếu xe quẹo vô rừng bất tử, tôi phải biết ngay để tìm cách nhảy khỏi xe. Tuy trong bụng nghĩ vậy, nhưng vì quá mệt mỏi, trời lại tối, nên ngồi trong xe được một lúc, chẳng may tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay….
Đang ngủ mê man trên sàn xe, bỗng nhiên tôi giật mình vì những tiếng đập rầm rầm ngay sát bên tai. Vừa mới kịp mở mắt, tôi đã thấy mấy ánh đèn bấm loang loáng chiếu thẳng vào mặt. Hoảng hốt, tôi vội dơ tay che mặt thì một bàn tay cứng, nháp, rất khỏe và thô bạo chộp lấy bàn tay tôi, rồi kéo mạnh, khiến cả người tôi không tự chủ, bỗng đứng bật dậy, hai chân tôi loạng choạng, trong khi cả người tôi chúi về phía trước. Sức kéo của người đàn ông rất mạnh, nên cả bả vai lẫn khuỷu tay của tôi bỗng đau buốt rồi tê đi. Giữa lúc tôi còn đang lao đao, đứng chưa vững, thì bàn tay của người kia khẽ xoay nửa vòng, khiến cánh tay tôi bị vặn trái như vỏ đỗ, và cả thân thể tôi cũng bị vặn theo. Tôi chỉ kịp kêu lên một tiếng đau đớn, thì đã thấy cả hai cánh tay của mình bị bẻ quẹo ra sau lưng, và bị khoá chặt trong hai bàn tay cứng như thép nguội. Dưới sức ghì của gã đàn ông, người tôi gập lại vì đau đớn… Trong ánh đèn bấm, tôi loáng thoáng thấy có mấy người đứng trên sàn xe. Có tiếng quát lơ lớ giọng Nghệ An:
- Mày là ai?
Tiếng quát chưa dứt, tôi đã quặn người vì một quả đấm móc xoáy ngay vô bụng.
Tiếng quá thứ hai:
- Ai cho mày lên xe?
Tiếng quát chưa dứt, lại một quá đấm xoáy thứ hai. Tôi đau nghẹn cả họng. Một luồng hơi lạnh buốt xông lên tận óc. Tôi đã từng bị đòn thù nhiều lần, nhưng quả thật chưa bao giờ tôi bị người khác đấm vào bụng mà lại đau khủng khiếp đến như vậy…
Tiếng một người khác, có vẻ người Hải Phòng, làu nhàu:
- Hỏi “thằng chệt” chó chết này làm quái gì. Cứ đập chết mẹ nó đi, rồi vứt xác xuống hồ…
Tiếp theo y giáng vào mặt tôi hai cái tát nảy lửa… Mắt tôi hoa lên, miệng mặn mặn. Giọng Hải Phòng lại làu nhàu chửi:
- Đ.M. mày! Mày vứt đá chặn đường ông để đi xe không vé, phải không?!
Câu nói chưa dứt, y đã đấm vào bụng, vào ngực tôi bốn năm quả. Những trái đấm của y tuy không đau đớn và hiểm độc bằng quả đấm xoáy đầu tiên, nhưng cũng làm cho tôi nghẹn thở.
Từ phía dưới xe, một người khác hét lên, giọng có vẻ chỉ huy:
- Tụi bây đưa nó xuống đây!
Nghe lệnh, tên có bàn tay thép liền kéo mạnh hai cánh tay, khiến cả người tôi rướn cong trong đau đớn. Cùng lúc, y co giò đạp mạnh vào lưng tôi, và buông hai bàn tay. Cả người tôi như chiếc diều đứt dây, bay khỏi xe, rớt xuống cỏ, lộn đi hai vòng… Tất cả mọi chuyện, từ khi tôi bị gọi dậy, cho đến khi bị đá té lộn trên sân cỏ, nói thì lâu, nhưng xảy ra trong chớp nhoáng. Thấy thái độ hung hăng, liều mạng, coi mạng người như ngoé của đám tài xế công nhân xe tải, tôi hoảng hốt nghĩ, chắc phen này tôi sẽ bị họ đánh chết. Nghĩ vậy, nên tôi cố gượng đứng dậy, tính chạy trốn, nhưng cả sống lưng nhức buốt, và cặp giò thì tê cứng… nên tôi lại té rụi xuống mặt đất.
Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng người nhảy huỳnh huỵnh từ trên xe xuống đất, kèm theo tiếng la hét, reo hò đòi đánh tôi chết. Tôi vội lật ngửa người, nhìn lại, thì thấy trong ánh đèn bấm loang loáng, ba bốn bóng người lố nhố lao tới, trong đó có cả người cầm gậy… Tôi nhắm mắt tuyệt vọng, vội vàng dùng hai tay ôm kín lấy đầu, chờ trận đòn khủng khiếp giáng xuống người…
KỲ 83
Giữa lúc tôi đang hoảng hốt, tuyệt vọng, hay tay ôm đầu, hai chân co lại để che bụng, ngực, và cả người cong như con tôm, gồng mình chuẩn bị chịu đòn, thì bỗng từ trên xe, có người la thật to:
- Ê, dừng tay! Đừng đánh nó nữa! Nó không phải chệt đâu!
Tiếng người khác hỏi lại:
- Sao mày biết nó không phải chệt?
Rồi có tiếng người khác hét lên:
- Tao bảo đảm nó là chệt đó mà. Cứ đập chết nó rồi quẳng xuống hồ cho cá ăn là xong.
Một giọng khác, nói có vẻ chỉ huy:
- Khoan. Tụi bây làm gì mà vội vậy. Nó có chạy mất đâu mà lo.
Có tiếng chân người nhảy từ trên xe xuống. Lúc này tôi mới hé mắt nhìn. Trong ánh đèn bấm loang loáng và ánh đèn điện vàng vọt từ cổng trại, tôi thấy mấy tên đang đứng vây quanh tôi, dáng điệu hung dữ, nhưng tất cả đều quay đầu về phía người từ trên xe nhảy xuống. Lúc đó, cả người tôi đau tê tái, nhưng qua ánh đèn, tôi vẫn nhìn thấy tên đó cầm trên tay cuốn sách Ngục Trung Nhật Ký và tấm hình Hồ Chí Minh. Tên đó cầm cuốn sách trao cho tên cao to đeo xà cột đứng giữa và nói:
- Báo cáo thủ trưởng, em thấy anh này mang theo cuốn Ngục Trung Nhật Ký của Bác thì anh ta không thể nào là người Hoa được.
Tên “thủ trưởng” cầm cuốn sách coi phía trước, lật phía sau, hỏi giọng hoài nghi:
- Mày có chắc cuốn sách này của y không?
- Thì xe của em xưa nay chỉ chở gỗ, có bao giờ chở sách đâu, thưa thủ trưởng.
Tên “thủ trưởng” chỉ tay vào bức hình cuộn tròn trong tay tên tài xế rồi hất cằm hỏi:
- Còn cái đó là cái gì? Mở ra coi…
Tên tài xế vâng lời, tháo dây, mở tấm hình… Nhìn tấm hình, thấy đó là hình Hồ Chí Minh, tên thủ trưởng vội quay ra quát:
- Đ.M. chúng bây, đánh đấm gì mà chẳng hỏi người ta một tiếng. Cứ nhắm mắt mà đánh thôi…
Dứt lời, tên “thủ trưởng” bước tới chỗ tôi nằm, thân mật cúi xuống nâng tôi đứng dậy và nói:
- Đồng chí tha lỗi cho tụi nó, vì chúng nó cứ tưởng đồng chí là điệp vụ Trung cộng trá hình.
Rồi một tay vỗ vỗ vai tôi, một tay nắm lấy tay tôi lắc lắc, tên “thủ trưởng” hỏi giọng ngạc nhiên:
- Mà sao đồng chí không nói ngay từ đầu, để cho hai bên khỏi hiểu lầm?
Tôi méo miệng, đau đớn:
- Thì các đồng chí đâu có hỏi nếp tẻ gì. Tự dưng tôi đang ngủ là xúm vô đánh tôi liên tục, có hở lúc nào đâu mà tôi nói…
Tên “thủ trưởng” cười xuề xoà:
- Thôi thôi, đồng chí thông cảm bỏ qua đi nghe. Bây giờ là lúc chúng ta cần phải đoàn kết trên dưới một lòng để đối phó với tụi Trung cộng bá quyền…
Tôi mỉm cười chua chát:
- Dù sao trước khi ra tay hành động, các đồng chí cũng phải hỏi han cho ra đầu ra đuôi…
Tên “thủ trưởng” thấp giọng:
- Nói thiệt với đồng chí, tháng trước chúng tôi bị tụi Trung cộng chơi một vố đau điếng. Hai chiếc xe bị đốt, một đồng chí tài xế bị chết thiêu, để lại vợ goá, con côi ba đứa. Vì vậy, tối nay khi xe về đến doanh trại, thấy đồng chí nằm ngủ trên xe là anh em cứ ngỡ là gián điệp Trung cộng đột nhập… liền vội vàng ra tay xử lý tại chỗ… Thôi thôi, những chuyện đáng tiếc đã qua thì mình cho qua luôn đi. Bây giờ mời đồng chí vô trong doanh trại tụi tôi làm tô cháo gà rồi anh em mình nói chuyện…
Tôi cố nén tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vậy là tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Cuộc đời quả thật có nhiều chuyện may rủi không thể nào lường trước được. Thôi thì tôi chỉ biết một lòng một dạ thành tâm cầu nguyện với Thượng đế, với Thầy và chị Phúc; và tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình mà thôi. Thầy tôi mất lúc đó đã được hơn 4 năm. Tôi tin tưởng, Thầy tôi luôn luôn phù hộ cho tôi. Còn chị Phúc mất khi chị mới có 4 tuổi, tôi mới được 2 tuổi. Nhiều người thân của tôi vẫn nói chị Phúc của tôi mất khi còn bé như vậy nên rất thiêng. Những khi giỗ chạp, đốt hương trên mộ của chị, bao giờ cây nhang cũng cháy đỏ lừ dù trời thật lặng gió. Đã vậy, lần nào đốt nhang cũng có bướm trắng rất to xuất hiện, bay chập chờn trước mộ. Suốt thời gian mười mấy năm trời, kể từ khi biết nghĩ cho đến khi tôi phải lên đường đi bộ đội, năm nào Tết đến, dù lạnh lẽo, mưa phùn gió bấc đến thế nào đi nữa, tôi cũng lẽo đẽo theo Thầy về quê thăm mộ. Trong khi mộ Tổ bên nội cũng như bên ngoại và mộ Bà nội đều quây quần ở một chỗ cao ráo, được xây cất bề thế, đàng hoàng, thì không hiểu sao mộ chị Phúc của tôi lại cô đơn, lạnh lẽo ở mãi gần đền Xăng Ti, cách xa mộ Tổ tới 300 thước. Vì thế, lần nào đến thăm mộ chị Phúc, Thầy cũng bảo tôi đi kiếm gạch, đá, đất để đắp lại mộ cho chị. Và lần nào cũng vậy, khi đọc kinh cầu nguyện trước mộ chị Phúc xong, Thầy tôi cũng kể lại câu chuyện, mỗi khi chị Phúc uống thuốc khóc thảm thiết là tôi cũng khóc gào theo, nhất định không chịu để người lớn cho chị uống thuốc… Sau này, trải qua nhiều hiểm nguy trong cuộc đời, hay mỗi khi nghe người khác nói tôi được quý nhân phù hộ, chẳng hiểu sao bao giờ tôi cũng nghĩ tới chị Phúc của tôi!… Vì tôi chẳng hề biết mặt chị Phúc, nên mỗi khi nghĩ tới chị, trong óc tôi luôn luôn hiện lên hình ảnh một người con gái, mờ mờ ảo ảo, trong tà áo trắng tinh khiết và mái tóc đen dài buông xoã… Chỉ có vậy thôi!…
Trời lúc đó tuy tối, nhưng nhờ ánh đèn điện vàng vọt chung quanh trại tôi cũng thấy được hai chữ “Quyết Thắng” ở ngay trên cổng. Doanh trại là ba dẫy lán tập thể song song, dài khoảng hai chục thước, dẫy nọ cách dẫy kia khoảng mười thước. Tất cả đều giống nhau, làm bằng gỗ, vách nứa, mái lợp tranh, nền bằng đất nện lồi lõm. Hai đầu của doanh trại đều có bãi đậu xe, với khoảng vài chục chiếc đủ loại.
Bước vào dẫy lán ở giữa, tôi thấy có chiếc bàn gỗ sơ sài nhưng chắc chắn chạy dài cùng với hai hàng ghế làm bằng thân tre ghép chạy dọc hai bên. Trên bàn là nồi cháo thiệt to, bốc khói nghi ngút. Tên “thủ trưởng” cầm cuốn Ngục Trung Nhật Ký và bức hình Hồ Chí Minh đã cuộn lại, trịnh trọng đặt trước mặt tôi, rồi đích thân múc cháo ra chiếc bát sắt sơn xanh màu lá cây, trao cho tôi.
Trong lúc ăn, tên “thủ trưởng” cũng hỏi tên tuổi của tôi, làm gì, đi đâu, tại sao lại liều mạng nhảy xe quá giang… Với tất cả những tin tức tôi đã thâu lượm về các đơn vị thanh niên xung phong hiện đang đóng tại quận Cao Lộc, Lạng Sơn, tôi trả lời trôi chảy những câu hỏi của y. Qua thái độ thân thiện của tên “thủ trưởng”, tôi hiểu y hỏi cho qua chuyện, chứ y không hề mảy may nghi ngờ gì tôi. Tôi không ngờ cuốn Ngục Trung Nhật Ký và bức hình Hồ Chí Minh trong tay tôi lại có thể có giá trị to lớn xua tan mọi nghi ngờ của y đến như vậy. Cũng nhờ kinh nghiệm quý báu này mà sau đó, trên đường từ Hải Phòng đi Móng Cái, tôi tiếp tục dùng cuốn Ngục Trung Nhật Ký và bức hình Hồ Chí Minh để vượt qua nhiều trạm gác nguy hiểm của cộng sản. Thậm chí ngay cả khi thị trấn Móng Cái đã nằm trong tình trạng quân quản, trên mọi đường phố, các cửa tiệm của thị trấn đều kín đặc bộ đội các binh chủng, tôi vẫn lọt vô thị trấn một cách dễ dàng, đàng hoàng ngồi ăn ngay tại tiệm ăn của thị trấn, mà không một ai tra vấn giấy tờ. Lý do là trên bàn ăn, tôi đã để sẵn cuốn Ngục Trung Nhật Ký và tấm hình Hồ Chí Minh!
Ngay tối hôm đó, sau khi ăn cháo gà xong, mặc dù bả vai bên phải của tôi còn bị nhức buốt, tôi vẫn xin quá giang xe của đơn vị vận tải Quyết Thắng đi Bắc Giang. Khi chia tay, tên “thủ trưởng” còn dúi vào tay tôi gói thuốc lá và mấy viên kẹo dừa. Cả hai đều mang nhãn hiệu Trung quốc!
Người tài xế lái xe đi Bắc Giang là một thanh niên tuổi mới ngoài 20, tên là Hải. Tuổi tôi lúc đó cũng chỉ 26, nhưng không hiểu sao Hải cứ gọi tôi là chú, xưng con ngọt xớt. Tôi cũng không mất thì giờ cải chính. Hải người Hải Phòng, nhưng nói năng lễ phép, cử chỉ rụt rè, khác hẳn phần đông những tài xế gốc Hải Phòng thường ngang tàng, coi trời bằng vung, mở miệng là chửi thề.
Trên chặng đường từ Đông Sơn đến Bắc Giang, Hải kể cho tôi nghe những câu chuyện kinh tâm động phách của công ty lái xe Quyết Thắng. Thì ra ngay cạnh doanh trại của công ty có một cái hồ rất lớn. Ở đó, trong mấy tháng gần đây, các tài xế của công ty Quyết Thắng đã đánh chết rồi vứt xác xuống hồ rất nhiều người Hoa đi buôn lậu, khi họ đi quá giang xe của công ty. Tôi không biết chuyện của Hải đúng sai đến mức độ nào, nhưng quả thật tôi đã rùng mình khi nhớ lại lúc tôi bị đánh, đã có người hô to, đập tôi chết rồi vứt xác xuống hồ cho cá ăn! Nếu tôi không khôn ngoan mua cuốn Ngục Trung Nhật Ký và bức hình Hồ Chí Minh, có lẽ giờ này, tôi đã chìm sâu dưới hồ làm mồi cho cá…
Gia đình Hải cũng là cả một bi kịch, nạn nhân của chế độ cộng sản. Bố Hải trước 1954, đi lính cho Pháp. Đến khi Pháp và Việt Minh ký hiệp đình Geneva, cả gia đình đã định di cư vào Nam, nhưng vì bố Hải lo đi bán ngôi nhà ở Hà Nội, nên cả nhà bị kẹt lại. Sau đó, bố Hải bị đi cải tạo ở vùng rừng thiêng nước độc rồi bị chết vì sốt rét. Mẹ Hải là giáo viên dậy toán nên được chế độ cộng sản dùng một thời gian với đồng lương “thu dung”, sau đó bị sa thải. Em trai của Hải là Phòng mới 16 tuổi, đã bị chết vì đắp ụ pháo cao xạ chống máy bay Mỹ năm 1967. Hải là người con trai duy nhất còn lại nên được miễn “nghĩa vụ quân sự” không phải đi xâm lăng Miền Nam. Đến gần đây, trước nguy cơ bị Trung cộng bá quyền xâm lăng, công ty của Hải bị nhà nước trưng dụng thành lực lượng giao thông vận tải bán quân sự, nên phải chuyển từ Hải Phòng đến Lạng Sơn.
Xe chạy suốt đêm cho đến sáng hôm sau, tôi đến được thị xã Bắc Giang. Sau khi chia tay Hải, tôi hỏi thăm đường đến ga xe lửa, và chờ đến trưa hôm đó, tôi đáp chuyến tàu chợ về Hà Nội.
Xuống ga Hàng Cỏ, tôi định về nhà Mẹ, nhưng không hiểu sao, tôi thấy trong người nôn nóng bồn chồn lạ lùng. Tôi linh cảm có chuyện gì đó chẳng hay sắp xảy ra cho tôi. Cảm giác kỳ lạ này đã xảy ra với tôi vài lần, và lần nào cũng đúng, nên suy nghĩ một hồi, chẳng hiểu sao tôi quyết định đi bộ đến nhà “lão Z” để hỏi xin địa chỉ người quen của lão ở Hải Phòng. Để có thể quan sát từ xa nơi định đến có an toàn không, bao giờ tôi cũng có thói quen đi ở bên dẫy phố đối diện. Nhờ vậy hôm đó thật may mắn, khi cách nhà “lão Z” khoảng hơn 100 thước, tôi đã thấy một đám đông công an áo vàng và bộ đội tụ tập trước nhà lão…
Cặp cuốn sách Ngục Trung Nhật Ký trong nách, tay cầm bức hình Hồ Chí Minh, tôi cố giữ vẻ mặt thản nhiên đi qua nhà “lão Z” ở phía bên này đường. Qua được khoảng 200 thước, tôi tìm cách băng qua đường, để có thể đứng lại nhìn về phía nhà “lão Z” theo dõi động tĩnh. Sau vài phút, tôi thấy từ trong nhà lão một toán công an đi ra, cùng với hai bố con “lão Z” và một thiếu phụ. Cả ba đều bị còng tay và bị bịt mắt. Tất cả đều bị giải lên xe bít bùng. Không đầy 5 phút sau, xe tù chuyển bánh. Đám công an lên xe máy hai bánh hoặc ba bánh. Riêng đám bộ đội thì nhảy lên một xe tải quân sự có hai hàng ghế ở hai bên. Còn lại hai tên công an khác lặng lẽ đi vào trong nhà “lão Z” đóng kín cửa lại. Tôi đoán ngay, hai tên công an đó ở lại với mục đích âm thầm theo dõi và thộp cổ tất cả những ai đến thăm “lão Z” sau đó. Thấy vậy tôi sợ rợn cả người. Nếu tôi không tình cờ trở lại nhà “lão Z” đúng giờ phút đó, làm sao tôi nhìn thấy tận mắt cuộc bắt giữ hai bố con “lão Z”? Và nếu tôi trở lại gõ cửa nhà “lão Z” dù bất cứ lúc nào sau khi “lão Z” bị bắt, chắc chắn tôi cũng sẽ bị công an tóm cổ. Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy cải rủi ro bị đám tài xế của công ty Quyết Thắng hành hung, rồi được tha, được đi quá giang xe đến Bắc Giang,… là cả một loạt những diễn tiến trong cái rủi có cái may, để cuối cùng, cái may mắn lớn nhất của tôi là thoát khỏi còng sắt của công an đang chờ sẵn ở nhà “lão Z”.
Lững thững bước trở lại ga Hàng Cỏ, tôi quyết định, ghé thăm Mẹ vài tiếng đồng hồ rồi lên đường đi Hải Phòng ngay đêm hôm đó. Lúc ấy, tôi cảm thấy chung quanh tôi những nguy hiểm đang bủa vây, móng vuốt của kẻ thù đang rình rập, và nếu tôi lần khân ở lại Hà Nội thêm một hai ngày, chắc chắn tôi sẽ bị bắt.
Rất tiếc, tối hôm đó Mẹ tôi không có ở nhà. Căn nhà trong ngõ hẻm vẫn âm u. Ánh đèn điện vàng vọt từ ngọn đèn đường không đủ xua tan bóng đêm và những mảng tối đen thẫm của những toà nhà cao to chung quanh. Đẩy chiếc cổng gỗ, tôi bước vào trong sân, rồi tần ngần đứng trước cửa. Thò tay lên chiếc hộc quen thuộc, tôi vẫn thấy chiếc chìa khoá cửa Mẹ tôi giấu trên đó. Cầm chiếc chìa khoá trên tay lúc ấy, tôi rất muốn mở cửa, bước vô nhà nằm ngủ một giấc trên chiếc giường của Mẹ, để rồi giật mình xúc động khi được Mẹ tôi về nhà đánh thức dậy… Nhưng tôi hiểu, đằng sau mọi sự bịn rịn vì hạnh phúc luôn tiềm ẩn những nguy cơ. Nhất là trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, dù có được hạnh phúc gặp lại Mẹ trong chốc lát thì rồi khi chia tay, tôi cũng chỉ mang lại cho Mẹ những khổ đau của biệt ly mà thôi…
Nghĩ ngợi một hồi, cuối cùng tôi thở dài đau đớn, bỏ lại chiếc chìa khoá vô hộc, rồi bước ra vườn. Tôi muốn tìm một bông hoa, nhưng không thấy nên tôi ngắt một cành lá chỗ gần ngọn không biết là của cây gì, đem nhét vào dưới khe cửa. Tôi hy vọng, khi trở về nhìn thấy cành lá, Mẹ tôi sẽ đoán biết, tôi đã trở lại thăm Mẹ!… Xong xuôi, tôi áp má vào cánh cửa, nói mấy lời thì thầm, tạm biệt Mẹ, mà nghe lòng rưng rưng, đớn đau, và nước mắt lã chã rơi, mặn đắng trong miệng của tôi…
KỲ 84
Tối hôm đó cuối mùa thu, đầu mùa đông, trời mưa phùn lất phất, gió lạnh buốt. Lúc ấy trong nỗi lạnh lẽo cô đơn, tôi muốn ở lại với Mẹ vô cùng. Tôi muốn đêm hôm đó, được gục đầu vào vai Mẹ, nghe Mẹ kể lại những câu chuyện vui buồn của cuộc đời mà Mẹ đã đi qua, để được lần cuối cùng, thu vào trong tâm trí tôi hình ảnh của Mẹ, trước khi tôi ra đi… Nhưng nhìn những mảng sáng tối bủa vây chung quanh, tôi linh cảm như có muôn vàn nguy hiểm đang bủa vây rình rập. Tôi thực sự hoảng hốt, nghĩ không sớm thì muộn, cuối cùng tôi sẽ bị cộng sản bắt giữ. Tôi lo sợ, nếu tôi còn chần chừ ở Hà Nội, tôi sẽ bị chúng bắt và sẽ làm liên luỵ đến những người thân yêu, trong đó có Mẹ của tôi… Đã từ lâu, tôi luôn luôn thầm nhủ với lòng, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi đắng cay, chịu đựng mọi nguy hiểm cho mình, nhưng không bao giờ làm cho những người thân yêu của mình bị liên luỵ. Mẹ tôi đã già yếu, nếu bị cộng sản bắt giữ hành hạ, và đau khổ khi chứng kiến tôi bị bắt, Mẹ sẽ đau khổ và tổn thọ vô cùng… Không, tôi không thể nào để Mẹ chứng kiến hay biết tin tôi bị bắt. Muốn vậy, tôi phải ra đi, để nếu có bị cộng sản bắt, giết, tôi sẽ bị bắt, bị giết ở một nơi nào đó, mà Mẹ không thể chứng kiến, không thể biết… Nghĩ vậy, tôi âm thầm gạt lệ, đi ra cửa. Đưa tay kéo cánh cổng gỗ, cài chốt cổng, tôi thấy bàn tay của mình run lên, và trong lòng nghẹn ngào, xúc động. Tôi lo ngại ra đi lần này là mãi mãi vĩnh biệt. Vĩnh biệt căn nhà! Vĩnh biệt Mẹ! Cho dù tôi có vượt biên thành công, để rồi tôi được sống sót ở một nơi nào đó trên thế giới, thì Việt Nam sống trong sự kìm kẹp của cộng sản, tôi cũng không thể nào trở về đoàn tụ với Mẹ hay về thăm Mẹ…
Như bị một sức mạnh vô hình níu kéo lần cuối, tôi vịn tay vào cánh cổng gỗ, ngửa mặt nhìn vào bầu trời đen kịt, mặc cho những giọt mưa phùn lạnh lẽo hoà cùng nước mắt, để thấy lòng mình thật đau đớn, cuộc đời mình thật bất lực, ngay cả những giấc mộng cỏn con, bình thường trong cuộc sống, được sống với Mẹ, tôi cũng không làm nổi…
Từ ngoài đầu hẻm có tiếng chân người đang đi tới… Tôi thở dài, nhìn lần cuối cùng căn nhà của Mẹ, rồi quay lưng, bước đi lầm lũi trong con hẻm đầy bóng tối. Mưa mỗi lúc một nặng hạt, gió lạnh hú từng cơn vật vã, nhưng tôi vẫn lầm lũi bước đi trong niềm tuyệt vọng và nỗi nhớ nhung chất ngất. Chẳng hiểu sao, trong tâm trạng đó, tôi chỉ muốn đầy đoạ thân xác tôi, đầy đoạ cuộc đời tôi chìm ngập trong giông tố bão bùng và đau đớn…
Sự thực sau này mọi chuyện diễn ra đúng như những gì tôi đã lo ngại. Sau khi ghé thăm Mẹ lần cuối vào buổi tối hôm đó, tôi ra đi, và đi mãi… suốt thời gian ngót ba chục năm trời, để rồi cuối cùng, tôi bàng hoàng đau đớn khi nghe tin Mẹ tôi vĩnh viễn giã biệt cõi đời vào một ngày cuối năm âm lịch, cách đây không lâu. Em tôi nói với tôi qua tiếng khóc nức nở, cho đến những ngày hấp hối sắp qua đời ở tuổi ngoài chín mươi, trên giường bệnh, Mẹ tôi vẫn cứ nhắc đến tôi bằng những lời thều thào ứa nước mắt, “Thằng Chí đâu rồi?! Sao nó bảo đi một lúc, mà nó đi mãi không thấy về?!…”
Khi nhận được tin Mẹ qua đời, tôi vô cùng đau đớn. Ngay buổi tối, tôi ngồi kể chuyện cuộc đời vô cùng đau khổ của Mẹ cùng những nỗi trái ngang trong tình mẫu tử giữa Mẹ và tôi cho các con của tôi nghe, để rồi tất cả mấy bố con chúng tôi cùng ôm nhau khóc… Những lời kể đầy xúc động, đứt nối trong sự nghẹn ngào của tôi, những câu hỏi ngây thơ của các con tôi, cùng những giọt nước mắt của các con và của tôi tối hôm đó đã thắt chặt hơn nữa sợi dây tình cảm thiêng liêng của tình Bà cháu, tình Mẫu tử, tình phụ tử, cùng tình yêu quê hương đất nước của các con tôi và tôi…
* * *
Đúng nửa đêm hôm đó, tôi đáp chuyến tàu tốc hành Hà Nội đi Hải Phòng. Cũng giống như những lần trước, tôi không mua vé và không vô ga Hà Nội bằng cổng chính. Trời khuya, tối đen như mực, cộng với mưa phùn, gió bấc lạnh như cắt da, đã giúp tôi lọt vào sân ga một cách dễ dàng. Nhờ đã có kinh nghiệm thường xuyên đi tàu trốn vé, nên tôi nhanh chóng qua mắt được nhân viên kiểm soát vé và an ninh của “cục đường sắt Việt Nam”.
Tôi cũng xin nói thêm một chút ở đây để quý bạn đọc hiểu được, vì sao tôi phải trốn vé. Sau lần vượt biên lần thứ nhất, bị bắt tại Đông Hà, Quảng Trị, tôi không còn một đồng xu dính túi, và cũng không thể nhờ vả được ai. Tất cả thân nhân của tôi ở trong Nam ngoài Bắc đều vô cùng thiếu thốn. Trong Nam thì trải qua cuộc đổi đời, đổi tiền, cộng với hoàn cảnh phải nuôi chồng con trong các trại cải tạo, nên không một ai còn có đủ điều kiện giúp đỡ tôi. Thêm vào đó, khi hay tin sau 1975, tôi không chịu trốn ra ngoại quốc cùng với bằng hữu, đã vậy tôi còn ra Bắc vô Nam, nên ngay cả một số người thân yêu ruột thịt của tôi cũng nghi ngờ tôi là hồi chánh giả. Trong hoàn cảnh đó, làm sao tôi dám nhờ vả. Vì vậy, khi quyết định vượt biên bằng đường bộ từ Sàigòn đi Hà Nội, tôi chỉ có được 76 đồng bạc do một người bạn thân rút hụi trao cho. Đó là tất cả số tiền tôi có, dùng để chi tiêu cho chặng đường vượt biên mấy ngàn cây số. Ra đến Hà Nội, thấy cuộc sống muôn phần cơ cực túng thiếu của Mẹ, tôi cũng đâu dám nhờ vả. Tôi phải nói dối với Mẹ là có người bạn ở Hải Phòng giúp đỡ mọi chuyện vượt biên để Mẹ yên tâm. Trong hoàn cảnh eo hẹp tiền bạc như vậy, nếu tôi không trốn vé, thì chỉ một chiếc vé tàu Sàigòn đi Hà Nội là tôi hết tiền, lấy đâu tiền cho tôi ăn uống dọc đường.
Đề phòng có thể bị xét hỏi giấy tờ, rồi bị tịch thu bóp và bị bắt bất ngờ, tôi phải giấu số vốn 76 đồng cùng giấy tờ giả lưu không ở dưới vớ. Trong bóp, tôi chỉ để mấy hào lẻ, giấy tờ giả đang dùng, và một hai trang báo của cộng sản được gấp làm tám. Những trang báo này đều là những bản tin thời sự hay bài viết có nội dung “tích cực” thể hiện đúng đường lối chính trị của đảng cộng sản. Bỏ nó vô bóp để nếu chẳng may công an bộ đội khi xét giấy tờ, chúng có nghi ngờ bắt giữ tôi, thì những trang báo đó sẽ có công dụng gián tiếp “chứng minh” tôi là người có “lập trường cách mạng”. Điều này sẽ khiến cho chúng phần nào thiếu cảnh giác. Và trong thời gian 24 tiếng đồng hồ đầu tiên kể từ khi bị bắt giữ, sự lơ là thiếu cảnh giác của chúng sẽ là điều vô cùng quý giá giúp tôi có thể trốn thoát.
Lợi ích thứ hai là những trang báo bỏ vô bóp sẽ khiến cho bóp thêm dầy. Nhờ vâäy, những tên công an, bộ đội một khi giữ bóp, chúng sẽ đinh ninh chúng giữ trong bóp đủ loại giấy tờ, tiền bạc, cùng cả sinh mạng của tôi. Vì thế, chúng tin là tôi sẽ không dám trốn một khi chúng đã giữ được bóp. Dĩ nhiên, khi chúng đã đinh ninh như vậy thì chúng chẳng để ý khám xét thân thể của tôi, và chúng cũng không canh gác tôi quá chặt chẽ. Khi đó, tôi sẽ lợi dụng lúc lộn xộn trong đồn công an, trong trạm gác, xin đi tiểu để trốn, hoặc nếu gặp cơ hội thuận tiện, tôi sẽ bỏ chạy ngay trước mắt bọn chúng.
Có điều khi đáp chuyến tàu tốc hành từ Hà Nội đi Hải Phòng tôi gặp một khó khăn bất ngờ. Trước đây, khi đáp các chuyến tàu chợ từ Sàigòn ra Hà Nội, tôi đã đi theo kiểu sâu đo từ Sàigòn ra Đà Nẵng, rồi ra Huế, Vinh, Nam Định, và cuối cùng là Hà Nội. Những chuyền tàu chợ đó bao giờ cũng đông đặc khách buôn thúng bán bưng, ngồi chật ních các toa, nên việc kiểm soát vé vô cùng khó khăn. Trái lại, tàu tốc hành thì lại ít khách, nên việc kiểm xoát vé rất chặt chẽ. Thêm vào đó, tàu tốc hành không dừng lại các ga xép, nên việc nhảy lên nhảy xuống để lánh mặt nhân viên xoát vé là chuyện không tưởng.
Đặc biệt, nhân viên soát vé tàu tốc hành bao giờ cũng đi hai người. Một người thuộc “cục đường sắt”. Một người thuộc “cục công an đường sắt”. Qua quan sát tôi thấy, ngay cả một số người có vé xe lửa đàng hoàng, cũng bị tên công an hỏi giấy tờ. Điều đáng lo hơn là sau mỗi lần tàu dừng lại ở ga chính để đón khách mới lên, việc soát vé ở các toa lại tái diễn rất kỹ lưỡng.
Sau mấy lần suýt bị nhân viên soát vé chộp được, tôi phải lùi dần đến mấy toa nằm hạng nhất. Trong lòng đang lo lắng, không biết còn phải lùi đến đâu trước khi bị bắt, thì tình cờ tôi trông thấy mấy người ở toa nằm hạng nhất đang đứng ngoài hành lang nói chuyện, hút thuốc, cãi lộn cười đùa ầm ĩ. Điều lạ lùng là khi nhân viên soát vé cùng tên công an đi qua những toa nằm, chúng đều không hề hỏi vé những hành khách ở các toa nằm, và những người ở toa nằm cũng thản nhiên không thèm để ý gì đến nhân viên soát vé và tên công an…
Sau một hồi quan sát tôi hiểu tại sao. Thì ra, ở những quốc gia tự do, những người đi tàu tốc hành mà ở toa nằm có thể là những người giầu có. Nhưng trong xã hội cộng sản vào thời điểm lúc bấy giờ, những người ở toa nằm đều là những người có vai vế thế lực trong xã hội. Dù cho họ có giầu có đi nữa, thì sự giầu có đó cũng phát xuất từ thế lực chính trị. Vì vậy, nhân viên soát vé và công an không bao giờ để ý đến việc xoát vé và hỏi giấy tờ những người ở toa nằm.
Biết được như vậy, tôi nhanh chóng đi dọc theo hành lang của mấy toa nằm để kiếm người làm quen, tán gẫu. Gặp hai người đầu, tôi chỉ lân la hỏi chuyện để biết được số toa, loại giường nằm, giá vé… Nhờ những dữ kiện này, khi gặp người thứ ba tên Quốc, là một cán bộ lương thực đi từ Hà Nội đến Hải Phòng, tôi dễ dàng đóng vai một hành khách cũng đi tàu loại toa nằm, nhưng ở một toa nằm khác, đi dạo chơi và tình cờ gặp Quốc trò chuyện làm quen.
Quốc còn rất trẻ, xấp xỉ tuổi tôi, nhưng nhờ ông bố là uỷ viên đảng uỷ phòng lương thực Hà Nội, nên anh nhanh chóng được cất nhắc lên địa vị then chốt. Gia đình vợ của Quốc ở Hải Phòng, nên anh thường xuyên đi lại để mang lương thực anh “chôm chĩa” được về “tiếp tế” cho gia đình vợ.
Sau vài câu chuyện làm quen, tôi khéo léo lái sang đề tài truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Quả nhiên, chỉ trong thời gian ngắn ngủi không đầy năm phút đồng hồ, Quốc bị cuốn hút vào câu truyện… Thì ra Quốc cũng là một người mê đọc truyện kiếm hiệp. Nhưng vì lúc đó, tất cả sách vở ở Miền Nam đều bị chụp cho cái mũ là “văn hoá đồi truỵ” và bị thiêu huỷ, nên truyện kiếm hiệp được đưa về Bắc rất lén lút, ít ỏi và thường là không đủ bộ. Tuy là cán bộ lương thực, một nghề ngon lành nhất trong chế độ cộng sản, Quốc tốn kém rất nhiều tiền bạc, “tem phiếu” để mua chác, đánh đổi hoặc mượn những bộ truyện kiếm hiệp về coi, nhưng không bao giờ được đọc đủ bộ. Một người mê kiếm hiệp mà đọc không đủ bộ thì đủ biết người đó ấm ức đến như thế nào. Vì vậy, sau khi hỏi tôi mấy câu, nghe tôi trả lời đâu vào đấy, Quốc khoái quá, đưa hai tay cầm lấy tay tôi lắc lấy lắc để và reo lên:
- Thú quá, thú quá. Anh đúng là ông bạn vàng của tôi. Tôi vẫn ước ao vào Nam một chuyến để lùng kiếm bằng được mấy chục bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung rồi về nhà xin nghỉ hưu, để đọc truyện cho đã…
Nghe anh nói “mấy chục bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung”, tôi biết ngay anh hiểu rất lơ mơ về những pho kiếm hiệp mà Kim Dung đã trước tác nên đinh ninh cả những tác phẩm “hậu Kim Dung”, “nguỵ Kim Dung” cũng là của Kim Dung. Tôi liền thong thả giải thích cho anh hiểu, truyện kiếm hiệp của Kim Dung không phải là mấy chục bộ, mà ông chỉ sáng tác có 14 bộ cộng với truyện Việt Nữ Kiếm sáng tác đầu tiên không kể. Sau này nhà văn Nghê Khuông lấy tên đầu của mỗi bộ hợp lại thành hai câu thơ “Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc. Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên”. Tôi cũng nêu tên từng bộ kiếm hiệp theo thứ tự của hai câu thơ…. Anh nghe thích quá, vội kéo tôi vô trong toa của anh, lấy nước trà, bánh kẹo mời tôi rất trịnh trọng, rồi vội lấy giấy bút, ghi chép cẩn thật tên từng tác phẩm. Chép xong, anh đưa cho tôi coi lại cẩn thận. Anh hí hửng nói:
- Trong số 14 bộ này, tôi chỉ mới đọc được có ba bộ là Cô Gái Đồ Long, Tiếu Ngạo Giang Hồ và Anh Hùng Xạ Điêu. Mà cả ba bộ này tôi cũng chỉ đọc lõm bõm một vài tập, chẳng bộ nào đủ cả. Đọc lõm bõm vậy mà tôi đã thấy thật là hay, thật là tuyệt vời. Càng đọc tôi càng thấy tụi “nguỵ” ở Miền Nam chúng nó sướng thật. Chỉ nguyên cái khoản được đọc truyện kiếm hiệp thôi, chúng cũng sướng gấp vạn mình đứt đuôi nòng nọc rồi, đừng nói đến những thứ khác. Giá mà ngày xưa tôi biết ở Miền Nam có truyện kiếm hiệp hay như vầy thì tôi đã theo ông chú vượt tuyến vô Nam theo “nguỵ” rồi…
Nói chuyện với anh, tôi cũng rất ngạc nhiên và buồn cười khi anh nói trong ba bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung anh đã đọc, anh khoái nhất nhân vật Điền Bá Quang. Vì anh đọc lõm bõm, hiểu biết chắp vá, nên tôi phải kể cho anh nghe về nhân vật quái kiệt Khoái Đao Điền Bá Quang có biệt danh “Giang Dương Đại Đạo, Vạn Lý Độc Hành, Thái Hoa Dâm Tặc” này. Câu chuyện của tôi khiến cả mấy người cùng toa với anh đều nhỏm dậy say sưa nghe, quên cả ngủ… Và quả nhiên, trong suốt chặng đường từ Hà Nội đi Hải Phòng, nhân viên soát vé và công an tuy đi qua toa nằm nơi chúng tôi trò chuyện nhiều lần, nhưng không một lần nào dừng lại hỏi vé và giấy tờ của tôi.
KỲ 85
Vì nghiền kiếm hiệp và thấy tôi “thuộc” kiếm hiệp như “cháo chảy”, Quốc tỏ ra hào phóng và chân tình mời tôi ghé nhà chơi vài tuần. Quốc hí hửng cho tôi biết, nhà của anh ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, là “tụ nghĩa quán” có đầy đủ “sơn hào hải vị” để khoản đãi “khách giang hồ diệt gian trừ bạo”… Thấy Quốc chân tình và có những ngôn ngữ pha màu sắc kiếm hiệp như vậy tôi cũng phì cười muốn nhận lời. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy không nên. Dù sao Quốc cũng là một cán bộ được chế độ cộng sản ưu đãi, gia đình Quốc chắc chắn có nhiều người là đảng viên. Tôi lại mới quen Quốc, chưa hiểu rõ tính nết của Quốc thế nào. Hơn nữa, tôi cũng biết rằng, một cán bộ cộng sản khi nói chuyện về những đam mê thơ văn nghệ thuật hay những cơn nghiền truyện kiếm hiệp, họ thường dễ dàng giấu kín được bản chất gian manh và sự xảo quyệt của họ, khiến mình dễ mắc bẫy, coi thường. Tuy nhiên, khi điều kiện đòi hỏi, bản chất này sẽ nổi lên và sẽ trở thành “tư tưởng chủ đạo” điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của họ. Biết vậy, tôi cảm ơn Quốc và chỉ xin địa chỉ của Quốc, rồi hứa sẽ ghé chơi khi thuận tiện.
Tại Hải Phòng, tôi có quen hai gia đình. Một là gia đình của QM, người bạn tù với tôi ở quân lao Gò Vấp. Gia đình của anh trước ở An Lão, sau dọn về Kiến An. Gia đình thứ hai là gia đình TP, chị ruột của NK, bạn học cũ của tôi. Gia đình chị TP ở gần sông Kinh Môn, An Huy, ngay cạnh quốc lộ 10 là đường đi Thuỷ Nguyên. Qua tâm tình với QM và bạn học NK, tôi rất tin tưởng, hai gia đình này sẽ giúp đỡ tôi vượt biên bằng đường bộ qua ngả Móng Cái.
Nhờ thuộc lòng địa chỉ cả hai gia đình, nên ngay khi tàu dừng tại ga Hải Phòng, tôi đã gọi xích lô đạp, đến nhà QM trước vì nhà của anh ở khu Kiến An. Còn nhà của chị TP ở khu An Huy, tôi sẽ đến sau, vì từ nhà chị TP tôi sẽ theo quốc lộ 10 đi Thuỷ Nguyên rồi đi Yên Hưng. Từ Yên Hưng tôi sẽ theo quốc lộ 18 để đi Hồng Gai, Cẩm Phả, Tiên Yên. Cuối cùng, từ Tiên Yên tôi theo quốc lộ 4B để đi Móng Cái, Hải Ninh. Tất cả những địa danh và đường đi này, tôi đều dựa vào bản đồ chi tiết do một người bạn thân mua được ngay tại Hà Nội.
Nhà của QM nhỏ, hẹp, chạy dài, xây bằng gạch theo lối cổ từ thời Pháp thuộc. Cả tường gạch lẫn mái ngói đều phủ rêu, trông rất cũ kỹ và u ám. Tuy Hải Phòng là thành phố cảng nổi tiếng từ thời Pháp, nhưng sau khi cộng sản tiếp quản, Hải Phòng đã thành thành phố chết. Khi tôi đặt chân đến nhà QM, điện nước vẫn không có, nhà vẫn thắp bằng đèn dầu và vẫn phải có người xếp hàng để lấy nước từ những vòi nước công cộng ở ngoài đường phố chính, vào mỗi buổi sáng tinh mơ mờ đất.
Tôi đến nhà QM vào một buổi chiều cuối tháng 8 năm 1978. Thời tiết lúc đó đã rất lạnh vì mưa phùn, gió bấc. Tôi co ro chậy vội từ chiếc xích lô vào hàng hiên. Đưa tay áo lau qua mặt mũi, rồi xoa hai tay vào nhau một hồi cho đỡ cóng vì lạnh, trước khi tôi đưa tay gõ vô cánh cửa bằng gỗ lim đen và dầy. Gõ cửa đến lần thứ hai, cửa mới hé mở. Người mở cửa là một cô bé tuổi mới 14, 15, tóc cột thành hai bím nhỏ, hai mắt đen láy, nhưng đầy vẻ tò mò, e ngại. Cô bé hỏi tôi, giọng lễ phép nhưng rụt rè:
- Thưa chú hỏi ai ạ?
Tôi hơi ngần ngừ không biết có nên nói đến tên của QM hay không. Nếu nói, liệu cô bé này có biết QM là ai? Nếu không, làm sao cô bé biết tôi là ai. Sau một thoáng suy nghĩ, tôi nói ngay:
- Chú là bạn của chú QM. Ông con có nhà không?
Cô bé nhíu mày, trông có vẻ chững chạc như người lớn, nhưng đầu hơi nghiêng nghiêng, vẻ ngây thơ như một con chim non:
- Chú QM? Cháu chỉ nghe ba cháu nói về bác QM thôi. Nhưng bác QM cháu không có nhà. Chỉ có ông nội cháu…
Tôi chợt nhớ, trong tù QM đã nói với tôi anh là con trai cả. Như vậy đáng lẽ tôi phải nói mình là bạn của bác QM thì cô bé bớt bỡ ngỡ. Tôi định lên tiếng, thì cô bé nói luôn, giọng líu lo rất dễ thương:
- Chú chờ cháu một chút, để cháu vô thưa với ông nội.
Dứt lời, cô bé cẩn thật đóng cửa, cài then. Tôi nghe tiếng chân cô bé chạy vô trong nhà, lòng ngạc nhiên không thể ngờ được cô bé lại ăn nói lễ độ đến như vậy….
Không đầy mấy phút sau, có tiếng chân đi dép lẹp xẹp, tiếng kéo then cửa lạch cạch, rồi cánh cửa mở rộng….
Trước mặt tôi là một cụ già tuổi khoảng 70, đậm người, râu dài, lông mày rậm, tóc dài tới vai, da dẻ hồng hào. Cả râu, tóc, lông mày đều bạc trắng như cước. Cụ khoác một tấm mền màu cứt ngựa, khoét lỗ ở giữa để cụ chui qua cổ, thêm vào đó, cụ còn quấn quanh cổ một chiếc khăn bằng vải đen. Tuy cụ đã lớn tuổi nhưng mắt rất sáng và tiếng nói sang sảng:
- Anh là bạn của thằng M phải không? Mời anh vô, mời vô…
Tôi kính cẩn:
- Thưa cụ…
Cụ già cười ha hả:
- Tôi là bố của nó đây. Tôi cũng tên là M. Nó là con cả, khi đẻ nó tôi không có nhà, nên mẹ nó nhớ tôi quá, mới lấy tên của tôi đặt cho nó. Mời anh vô đi… Mà anh đừng có gọi tôi là cụ, già chết. Cứ gọi tôi là chú được rồi… Tụi trẻ quanh đây chúng vẫn gọi tôi là chú M đó… Tôi năm nay gần 80 rồi nhưng còn trẻ khoẻ lắm. Đàn ông con trai ở đây đấu vật vẫn còn thua tôi đó… Cũng nhờ tôi lấy vợ muộn, rất muộn nên khoẻ mạnh vậy đó. Tôi có bốn bà vợ cả thẩy, nhưng chỉ có bốn thằng con trai, hai đứa con gái…
Chỉ vào cô bé gái đang đứng nép sau lưng, cụ nói tiếp:
- Con bé này là con út của thằng hai. Thằng đó được bốn đứa con, hai trai hai gái. [cụ thở dài] Nếu thằng QM nó chẳng tù tội thì giờ này tôi đã có cháu đích tôn rồi…
Theo chân cụ tôi đi dọc theo một hành lang hẹp, treo đầy quần áo đang phơi. qua một căn phòng nhỏ âm u làm nhà bếp, đi hết một khoảnh sân nhỏ lót gạch bát tràng, trước khi bước vô căn phòng vừa là phòng khách vừa là phòng ngủ.
Trong phòng lúc ấy có hai người đàn ông tuổi khoảng 40 đang trò chuyện. Thấy cụ và tôi bước vô, hai người vội vã đứng dậy khoanh tay kính cẩn cúi chào cụ, quay sang chào tôi, rồi đi vào phòng trong. Cụ mời tôi ngồi xuống chiếc sập bằng gỗ lim và thong thả pha trà mời tôi uống. Tôi vừa uống trà, vừa kể cho cụ nghe về tình bạn giữa tôi và QM. Cụ im lặng lắng nghe, phong thái bình tĩnh, nét mặt thản nhiên, nhưng ánh mắt cuả cụ rất buồn và xúc động….
Hút một điếu thuốc lào, cụ nhìn tôi mơ màng:
- Tôi hỏi câu này nếu không nên không phải mong anh bỏ qua. Theo anh thì thằng QM nhà tôi còn bị tù bao lâu nữa?
Tôi ngần ngừ một chút rồi thành thật:
- Thưa chú, cũng tuỳ theo tình hình. Nhưng cháu nghĩ nhanh nhất cũng phải 3 năm nữa…
- Còn lâu nhất?
- Dạ lâu thì cháu nghĩ, phải… 10 năm.
Cụ thắc mắc:
- Anh nói tuỳ tình hình là thế nào?
- Dạ thưa, tình hình ở đây là xã hội ở bên ngoài có ổn định hay không. Nếu ổn định thì tù chính trị sẽ được thả sớm. Còn không thì có khi bị tù dài dài…
Cụ buồn bã gật gù:
- Tôi biết, tôi biết. Nói vậy cũng giống như mấy người mình đi lính cho Pháp ngày xưa vậy. Bị tụi nó bắt tù cả chục năm mới được thả cho về. Về không bao lâu, đến khi Mỹ ném bom Miền Bắc là họ lại bị bắt vô tù. Mà tù tội ở cái chế độ này là vậy đó, chả ai có án tù bao giờ cả. Thích là họ cứ giam. Giam cho đến khi nào họ muốn thả thì họ thả. Thiệt là khổ…
Nói chuyện đến đó thì cô bé lúc nãy khệ nệ bưng vô một cái mâm trên có hai đĩa bánh cuốn thật lớn, một đĩa chả quế, một đĩa đậu hũ và rau sống, nước mắm. Đi theo sau là một cô bé tuổi khoảng 12, bê một cái khay nhỏ, trên có một nậm rượu, hai chiếc chén, hai đôi đũa và hai cái ly nhỏ.
Cụ mời tôi cầm đũa, rồi gắp bánh cuốn, chả quế, đậu hũ cho tôi thật hậu hĩ. Vì đói và lạnh, bánh cuốn lại nóng hổi, chả quế lại rất thơm ngon, nên tôi tận tình thưởng thức. Còn cụ không ăn, chỉ nhâm nhi uống rượu, ngồi nhìn tôi ăn. Chờ tôi ăn đến chén thứ ba, cụ mới thong thả nói, giọng rất xúc động:
- Anh quen thân với thằng M ở trong tù, nên tôi coi anh như con. Trước đây, đọc những lá thư anh viết hộ cho nó khi anh còn ở trong tù, tôi rất quý anh, vì ngôn ngữ của thằng M nhà tôi nó không đằm thắm tình nghĩa như vậy bao giờ. Thằng M nó lêu lôång, đàn đúm với bạn bè, chẳng chịu học hành gì cả, nhưng tôi không giận nó chút nào. Tôi nói thiệt với anh, gia đình tôi ngần đó đứa con, đứa cháu, không đứa nào tôi cho chúng nó đi học. Đi học mà làm gì. Thời đại này, chúng nó đi học chỉ thêm hư hỏng thôi. Vì thế, để chúng nó ở nhà, tôi trực tiếp dậy dỗ, nên anh thấy đó, mấy đứa con, đứa cháu của tôi chúng nói rất lễ phép, khác hẳn trẻ con thiên hạ. Bây giờ, anh đã đến thăm gia đình tôi là điều rất quý. Vì vậy, nếu anh thấy tôi có thể giúp được điều gì, anh đừng có ngại, cứ cho tôi biết…
Tôi trầm ngâm một lúc rồi thưa thực hoàn cảnh vượt ngục của tôi. Cụ ngồi im lặng nghe tôi nói. Tôi nói xong, cụ hỏi:
- Bây giờ anh có giấy tờ gì trong người không?
Tôi thưa có, rồi lấy giấy tờ đưa cho cụ coi. Coi kỹ càng xong, cụ hỏi:
- Những giấy tờ này tuy là giả, nhưng tôi thấy thật 100%. Vì thế, anh cứ yên tâm nghỉ ngơi ở đây. Tôi sai thằng hai mang giấy tờ của anh sang bên công an khu phố trình giấy cho đúng thủ tục. Vì ở đây bất cứ người nào lạ mặt ra vô là có người đi báo công an liền. Mình không đi báo, thế nào tụi nó cũng đến tận nơi gõ cửa, đòi coi giấy tờ rồi tra vấn rất phiền phức. Anh thấy như vậy có được không?
Tôi hơi ngần ngại. Đúng như cụ nói, giấy tờ là giấy tờ thật, do “cơ quan chủ quản cấp cục” ở Sàigòn cấp phát có chữ ký, con dấu đàng hoàng, nhưng tên tôi thì lại là giả. Vì thế, trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, càng tránh không dính dáng đến công an, cửa quyền của cộng sản chừng nào thì càng tốt chừng ấy.
Hiểu được những lo ngại của tôi, cụ M nói:
- Anh cứ yên tâm đi. Gia đình của tôi tuy có thằng M đi tù, nhưng ở đất này, tụi công an khu phố cũng có phần nể nang nhà này. Thằng trưởng đồn công an khu phố đây lại đang muốn làm con rể của tôi. Vì thế, thằng hai nó mang giấy tờ của anh sang trình cho hợp lệ thôi. Tôi bảo đảm là nó không có tra hỏi gì anh đâu.
Nghe vậy tôi yên tâm:
- Dạ chú đã nói vậy thì cháu chẳng có gì phải lo ngại…
Sau khi anh hai đem giấy tờ của tôi đi, cụ quay sang tôi hỏi tiếp:
- Bây giờ anh tính trà trộn với người Hoa, vượt biên theo ngả Móng Cái, Đông Hưng có phải không?
Tôi ngạc nhiên không thể ngờ cụ biết trước và biết rõ được như vậy. Cụ mỉm cười:
- Tôi nói vậy anh ngạc nhiên lắm phải không? Nói thiệt với anh, cho đến nay, người Việt trà trộn với người Hoa để vượt biên có cả ngàn vạn người. Vì vậy thấy anh đến đây là tôi đoán ra ngay, chứ chẳng phải tôi tài cán gì cả… Có điều, tôi phải nói thiệt, trông thấy anh đi đôi dép râu là tôi thấy rất nguy hiểm cho anh.
Tôi giật mình cúi nhìn đôi dép râu để dưới nền nhà, rồi hỏi cụ:
- Chú nói cháu đi đôi dép râu này là rất nguy hiểm?
Cụ vuốt râu cười:
- Tôi nhìn anh thì thấy anh là người tháo vát, tính tình quyết đoán. Tướng mạo anh lại có quý nhân phù trợ nên tiền hung hậu kiết, dù gặp nguy hiểm đến thế nào, anh cũng sẽ vượt qua. Nhưng đôi dép râu anh đi thì mới tinh, da chân của anh lại trắng đều, chẳng có dấu vết gì của quai dép râu cả. Cởi dép râu ra là thấy ngay anh mới đi dép râu được vài tuần lễ là cùng. Vì vậy, tụi công an bộ đội xét giấy tờ anh, chỉ cần tinh ý một chút là nghi ngờ anh ngay. Một thanh niên xung phong từ Sàigòn ra tận Miền Bắc đi công tác, mà lại mới đi dép râu không lâu, dép lại còn mới tinh như vậy thì có đúng là anh đang “lậy ông tôi ở bụi này” hay không?
KỲ 86
Nghe cụ M nói, tôi cúi xuống nhìn đôi dép râu mình đang đi và nhận ra ngay sự hớ hênh nguy hiểm của mình. Thì ra, trong quá khứ tôi đã có cả hai chục năm đi dép râu nhưng tôi vẫn vô tình không để ý đến những dấu hiệu quan trọng của một người đi dép râu lâu năm. Sự thực ở Miền Bắc trong suốt những năm dài sau 1954, hầu như mọi người đều phải đi dép râu, vì đó là một phương tiện đơn giản, rẻ tiền, hữu dụng và lâu bền cho những người nghèo khổ. Dép râu làm bằng vỏ xe cũ phế thải, cắt theo hình bàn chân để làm đế, phía trên dùng ruột xe cắt thành quai, ở mu bàn chân thì có hai quai vắt chéo hình chữ X, ở cổ chân có hai quai ôm khít phía trước và phía sau. Vì các quai dép đều làm bằng cao su, ôm chặt bàn chân người đi nên người nào đi dép râu lâu, bao giờ trên da hai bàn chân cũng có những dấu quai dép hằn sâu và khác hẳn mầu da còn lại. Còn tôi, vì sau thời gian dài 7, 8 năm không đi dép râu, nay mới đi dép râu trở lại, nên hai bàn chân của tôi không có những dấu vết của người đi dép râu lâu năm. Người nào tinh ý, chỉ nhìn thoáng qua là biết.
Tôi lo ngại hỏi:
- Thưa cụ, bây giờ cháu phải làm thế nào? Hay là cháu… đi giầy?
Cụ M lắc đầu:
- Không, anh đi giầy không được. Từ đây đi đến cửa khẩu Móng Cái cả mấy trăm cây số, lúc thì đi bộ, lúc đi xe, thì giầy nào, chân nào chịu cho thấu. Tốt nhất là anh cứ đi dép râu. Nhưng để tôi chọn cho anh một đôi dép râu cũ cũ, chứ đi đôi dép này mới quá, chân anh lại trắng quá, nên dễ bị để ý. Mình đã là người sống ngoài vòng pháp luật thì đừng làm cái gì, đừng dùng cái gì, để cho người khác để ý…
Ngay buổi tối hôm đó, cụ sai đứa cháu chọn cho tôi một đôi dép râu cũ trong thùng dép cũ của gia đình. Đôi dép vừa vặn chân của tôi nên không phải sửa đổi gì. Cụ bảo tôi đi đôi dép đó rồi lấy đất bùn trộn với ít than bột đắp lên hai bàn chân tôi. Sau đó, cụ lấy vải quấn cả dép lẫn bàn chân tôi lại. Tối hôm đó, tôi lên giường ngủ với cả đôi bàn chân nặng trĩu than đất như vậy.
Sáng hôm sau, cụ M lấy nước tưới vô hai bàn chân của tôi rồi gỡ vải, gỡ bùn. Nhìn xuống hai bàn chân, tôi ngạc nhiên thấy chúng đen đủi. Khi cởi đôi dép râu, tôi thấy những dấu quai cao su hằn sâu trên da hai bàn chân. Như vậy là tôi đã có được đôi bàn chân của người đi dép râu lâu năm.
Cụ M cười bảo tôi:
- Bàn chân của anh bây giờ đi dép râu là rất hợp. Nhìn vô không ai biết là anh mới đi đâu. Vì da của anh trắng, nên tôi chỉ làm cho chân anh ngăm ngăm đen thôi, chứ không muốn làm đen quá, người ta lại để ý. Bây giờ, tôi với anh đi ăn phở rồi về bàn đường đi nước bước từ đây đi Móng Cái…
Tôi ngủ lại nhà cụ M hai đêm, rồi tạm biệt cụ lên đường đi Móng Cái. Đây là chặng đường gian khổ và nguy hiểm nhất cho tôi. Xe đò trên chặng đường này rất hiếm, hầu hết đều là xe nhà binh, hoặc xe của các công sở, chở hàng hóa di tản. Không khí trên các chặng đường từ Hải Phòng đi Móng Cái rất sôi sục khí thế chống Trung Cộng. Đâu đâu cũng đầy cờ xí, khẩu hiệu, loa phóng thanh và những đoàn người hô to các khẩu hiệu chống Trung Cộng, hoặc hát các bài hát khích động lòng căm thù cộng sản Tàu, kêu gọi mọi người sẵn sàng hy sinh bảo vệ tổ quốc.
Chờ đợi xe ở các bến xe khách rất nguy hiểm, vì các nơi này lúc nào cũng dầy đặc công an, bộ đội. Trên đường đi, các đoàn xe quân sự chở đầy bộ đội, vũ khí, hoặc kéo theo các khẩu đại pháo to nhỏ đủ cỡ tiến về phía biên giới. Ngoài ra, còn có những đoàn xe do bò kéo, hoặc người kéo, chở đầy dây kẽm gai, các bàn chông thép, tiến về biên giới. Coi kỹ các bàn chông thép và hỏi những người kéo xe, tôi được biết, những chông thép này là do các đoàn thể ngoại vi của cộng sản như thanh niên, phụ nữ, học sinh, bô lão… tại các địa phương làm dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản. Chông có đủ loại, to nhỏ khác nhau, nhưng nhìn chung điều giống nhau ở cách thức làm. Chông chỉ có hai bộ phận chính là đế làm bằng xi măng, nhỏ thì bằng chiếc chén ăn cơm, to thì bằng tô canh. Ở giữa có từ ba đến 5 chiếc chông thép có ngạnh, cao thấp khác nhau, cắm sâu vô đế xi măng.
Trưa hôm đó, tôi thấy một cụ già kéo một chiếc xe bò đầy các bàn chông thép, đang ngồi nghỉ ăn cơm nắm ở dưới gốc cây bên vệ đường. Cụ khoảng ngoài 60, râu tóc bạc phơ, mặc bộ đồ bộ đội đã bạc màu, rách như tổ đỉa. Cụ ngồi phệt thoải mái ngay trên mặt đất ăn cơm. Trước mặt cụ là một tầu lá chuối non, chặt vội bên đường. Trên tàu lá chuối là nắm cơm, vài củ khoai, một gói muối nhỏ và bi đông nước. Nói là “ăn cơm nắm”, sự thực bữa cơm của cụ chỉ có một nắm cơm nhỏ bằng quả chanh, còn lại là khoai lang chấm muối. Cụ ăn khoai mà không hề bóc vỏ, cứ thản nhiên cầm cả củ khoai để nguyên vỏ, chấm muối, ăn ngon lành. Ăn khoai xong, cụ mới cầm “nắm cơm chim” bằng cả hai bàn tay đưa lên trước mắt ngắm nghía hồi lâu, rồi cụ nhắm mắt lại, đưa nắm cơm lên mũi hít hà một cách say sưa…. Chòm râu của cụ rung rung không ngớt. Hít hà một lúc lâu, cụ mới từ từ cắn từng miếng cơm nhỏ, nhai một cách chậm rãi, tận hưởng cái hương vị tuyệt vời của miếng cơm trắng… Từ lúc cắn miếng cơm nắm đầu tiên cho đến khi nuốt miếng cơm nắm cuối cùng, cụ đều ăn một cách chậm rãi, và mắt luôn luôn nhắm, mũi hếch lên, hai cánh mũi phập phồng… như đang tận hưởng cái hạnh phúc được ăn miếng cơm trắng.
Tôi ngồi cách cụ không xa, ngắm cụ ăn bữa cơm trưa mà thấy xúc động…. nhớ tới không biết bao nhiêu thảm cảnh trong các bữa ăn độn khoai, độn sắn, độn mì, độn củ chuối… dưới hàng triệu mái gia đình Miền Bắc trong suốt mấy chục năm kể từ sau 1954. Tôi biết trong suốt mấy chục năm đó, hàng triệu em bé ở Miền Bắc đã khóc vì thiếu sữa, thiếu cơm, vì không nuốt nổi những miếng khoai hà, sắn thối, hay những cục mì luộc đầy mối mọt, mà nhà nước cộng sản phân phối nhỏ giọt cho mọi người qua chế độ tem phiếu. Quanh những “bữa cơm” thiếu cơm, thậm chí không có cơm, lại luôn luôn vắng mặt chồng, con và những người thân, hàng triệu người mẹ, người vợ đã phải khóc trong âm thầm đau đớn… Rồi tôi nhớ lại ở Miền Bắc sau năm 1954, có một nhà văn, nhà thơ nào đó đã nói, sống ở trên đời được ăn một bữa cơm không độn có chết cũng sướng… Sau 1975, cùng với gót dép râu xâm lăng của cộng sản, thảm cảnh ở Miền Bắc lại lan tràn trên lãnh thổ Miền Nam, và cả hai miền của đất nước cùng chịu chung số phận bị cộng sản đầy đọa, thiếu thốn mất mát đủ mọi thứ, kể cả nhân phẩm.
Ngoài đường phố lúc đó, xe cộ các loại, người già, người trẻ đi lại lũ lượt, bụi bặm đầy trời, nhưng cụ già vẫn thản nhiên ngồi ăn, coi như một mình cụ là cả một thế giới. Cụ biết tôi ngồi cách cụ không xa, đang chăm chú quan sát cụ, nhưng cụ bất cần.
Chờ cụ ăn uống xong xuôi, tôi bước lại mời cụ điếu thuốc. Cụ cầm điếu thuốc, nhìn tôi, mắt hấp háy, vẻ ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Tôi ngồi xuống bên cạnh cụ, lễ phép giới thiệu:
- Thưa cụ, con tên là Lai… Còn cụ, quý danh…
Cụ cười ha hả, cắt ngang lời tôi:
- Quý danh!… Tôi từ bé đến lớn nghèo hèn khốn khổ, chả có cái gì là quý thì làm gì có quý danh. Cậu cứ gọi lão là Bò Giếng đi… Lão làm con bò kéo xe cả mấy chục năm nay rồi… Còn Giếng hả? À nhà lão có cái giếng, cả làng đến xin nước, nên họ cứ gọi lão là Bò Giếng. Tên thật của lão thì cũng có chớ, nhưng bà con gọi mãi là Bò Giếng thì mình nghe hoài cũng quên luôn cả tên thật của mình. Hà… hà… Vậy cũng vui. Cậu ở quanh đây hả?
Tôi thưa:
- Con ở Hải Phòng.
Cụ ngạc nhiên:
- Ở Hải Phòng? Từ đó đến đây cũng cả vài trăm cây số. Sau cậu đi xa vậy mà chẳng có hành lý gì là thế nào?
- Con đi thăm người bạn ở Móng Cái.
- Thăm ai thì cũng vậy. Đi xa thì mình phải có hành lý chớ. Nghèo giầu gì cũng phải mang theo bộ quần áo, chớ đi tay không như cậu thì cũng hơi lạ. Vậy nên tôi mới ngạc nhiên tưởng cậu người ở đây…
Nói đến đó, cụ quay nhìn tôi vẻ thăm dò. Tôi tảng lờ như không biết, hỏi tiếp:
- Cụ cho con hỏi, cụ kéo xe chông này đi đâu vậy?
- Tôi kéo lên trên Tịnh Xá. Cậu không biết là bây giờ nhà nước đang lo tụi Tàu cộng nó xâm lăng, nên mình phải lo phòng thủ biên giới, rải chông thép dọc theo sông Ka Long, để lỡ tụi nó chơi trò biển người tràn qua, thì vướng chông nằm đó…
Nghe cụ nói đến đó, tôi lạnh người. Mục đích của tôi trong chuyến đi này là vượt biên giới Việt Trung. Tôi không biết chính xác sẽ vượt biên giới ở chỗ nào. Nhưng nếu như dọc theo biên giới hai nước được rải đầy loại chông thép, đế xi măng này, thì điều đó rõ ràng là một trở ngại đầy nguy hiểm cho tôi.
Tôi lo ngại thăm dò:
- Thưa cụ, biên giới mình với Tàu dài cả mấy ngàn cây số như vậy thì lấy đâu chông thép mà rải cho hết được?
Cụ Bò Giếng lắc đầu:
- Cái chuyện đó nhà nước họ lo. Mình là dân thì chỉ biết thiên lôi chỉ đâu đánh đó thôi. Trên trung ương họ bảo tỉnh, tỉnh bảo huyện, huyện bảo xã, xã bảo làng, làng họp dân lại giao khoán cho từng nhà phải nhận 2000 cụm chông thép đem về đổ xi măng rồi cắm chông vào, chờ khô thì đem lên Tịnh Xá nộp… Đó là nhà ít người. Còn nhà nào đông người thì phải lấy hơn, có khi phải lấy gấp đôi. Nghe đâu cả mấy tỉnh từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Móng Cái cho đến cả Lạng Sơn, Lai Châu, nghĩa là các tỉnh dọc theo biên giới Việt Trung, phải làm mấy chục triệu chông thép để đưa về rải…
- Thưa cụ, vậy xi măng là do dân tự túc?
- Xi măng, cát, chông thép thì do xã cung cấp. Mình thì lo nước và công làm. Mỗi nhà lấy 10 bao xi măng, 10 bao cát, làm 2000 cái chông xi măng, mỗi cái nặng nửa kí lô. Bổn phận chống xâm lăng thì như vậy, nhà nào cũng phải làm. Nhưng ai tình nguyện làm hơn thì nhà nước sẽ phát cho cái giấy khen. Cứ làm thêm 1000 cái thì được một cái giấy khen to bằng bàn tay. Tôi thì tôi chả ham những thứ nấy. Mà của đáng tội, trong làng tôi cũng chẳng có ai ham giấy khen. Thấy kêu gọi mãi cũng chẳng có ai làm, bây giờ trên tỉnh họ giảm xuống còn có 100 cái cũng cho giấy khen.
Tôi hỏi tiếp:
- Tại sao sau khi làm xong, cụ phải chở đến Tịnh Xá? Bộ nhà nước không cho xe hơi đến chở chông đi cho cụ sao?
- Nhà nước họ lo chở từ huyện lên tỉnh. Còn trong huyện thì dân chúng khắp các xã phải lo nhà nào nhà nấy chở đến mấy địa điểm do huyện phân phối, bố trí. Tôi đi chuyến này là chuyến thứ ba rồi. Còn hai chuyến nữa thì hết.
- Khi đó cụ sẽ được nghỉ?
- Làm sao mà nghỉ được. Hết chuyện này thì lại có chuyện khác. Đất nước mình đang sắp có chiến tranh mà. Hết chuyện làm chông thì làm dây kẽm gai, lo biểu tình chống Trung cộng, rồi đi dân công lên biên giới lo rải chông, lo giúp các công ty nhà nước đi sơ tán…
Cụ xin tôi điếu thuốc nữa. Tôi đưa gói thuốc cho cụ, rồi hỏi:
- Vậy dọc theo biên giới mình chỉ rải chông, chăng kẽm gai thôi sao?
Cụ cười ha hả:
- Cậu này sao mà ngây thơ quá vậy. Rải chông, chăng kẽm gai là ngăn cản tụi Tàu cộng nó dùng biển người. Còn xe tăng, đại pháo nó tràn sang thì mình phải lo rải mìn chống tăng nữa chớ. Nghe đâu nhà nước đã cho rải cả mấy triệu trái mìn chống tăng rồi đó. Chỉ rải ở những chỗ xe tăng nó có thể tràn qua thôi. Còn những vùng rừng núi hiểm trở thì chỉ rải mìn cá nhân và chông là đủ rồi. Nhưng đó là những bí mật quân sự nên tôi chỉ biết đại khái vậy thôi…
KỲ 87
Chia tay cụ Ba Giếng ở Cẩm Phả, tôi đi bộ được một đoạn vài cây số thì may mắn, quá giang được một chiếc xe tải chở than đá đi Nà Peo, qua thị trấn Tiên Yên. Tài xế là một thanh niên chịu chơi, gốc Hải Phòng, tuổi khoảng trên dưới 30, mắt xếch, lông mày rậm hình lưỡi mác, râu quai nón, tóc xoăn để từng lọn dài tới ngang vai. Hai cánh tay của anh gân guốc, xâm hình rồng, cọp và mấy chữ Tàu. Anh cho tôi biết tên của anh là H và do một mình lái xe đi Nà Peo, nên anh hào hiệp cho tôi ngồi ngay trong phòng lái. Nhờ vậy tôi cũng đỡ mệt mỏi và thoát khỏi ướt át, lạnh lẽo khi gặp trận mưa thiệt lớn vào chiều hôm đó.
Dọc đường, anh kể cho tôi nghe những câu chuyện vô cùng thương tâm của những gia đình người Hoa từng sinh sống ở Hải Phòng cả mấy đời, nhưng vì đường lối thù nghịch giữa Trung Cộng và Việt Cộng, nên họ đã trở thành nạn nhân, phải bỏ lại tất cả nhà cửa, ruộng vườn, lên đường chạy về Trung Hoa. Anh cũng tâm tình về tình hàng xóm láng giềng giữa người Hoa và người Việt thắm thiết bao nhiêu đời, nay do nhà nước VC tuyên truyền nhồi sọ, bỗng một sớm một chiều người Việt trở nên thù nghịch, căm ghét người Hoa đến độ có thể đâm chém họ, đốt nhà của họ. Nọc độc tuyên truyền của VC đã thổi bùng “lòng yêu nước mù quáng” trong lòng người Việt khiến họ dám làm cả những hành vi tồi tệ nhất như ném phân, ném xác thú vật chết vào nhà hay giếng nước của người Hoa, đánh đập ông bà già hay trẻ em người Hoa. Thậm chí có cả những người Hoa bị giết, nhà của người Hoa bị đốt cháy, cửa tiệm của người Hoa bị đập phá, những cuộc tình Việt Hoa phải bị huỷ bỏ… Vào thời điểm đó, ở Miền Bắc, tại những nơi có người Hoa, rất nhiều người Việt đã làm những hành động man rợ đó chỉ vì “ngọn lửa yêu nước mù quáng” mà cộng sản đã cố tình đốt lên một cách ác ý.
Khuya hôm đó, xe đến thị trấn Tiên Yên. Anh H lái xe chở tôi đến tận bến xe của thị trấn và cẩn thận dặn tôi ngủ ngay tại bến chờ xe đi Quảng Hà, vì xe khách bấy giờ rất hiếm.
Thị trấn Tiên Yên là nơi cuối cùng của quốc lộ 18 khi nó đụng quốc lộ 4B. Tại ngã ba Tiên Yên, rẽ trái vô quốc lộ 4B sẽ đi Nà Peo rồi tới Lạng Sơn. Còn rẽ tay phải cũng vô quốc lộ 4B đi Quảng Hà, Móng Cái. Trước đây, khi tình hình biên giới Việt Trung không căng thẳng, xe hành khách qua lại Tiên Yên thường xuyên. Nhưng từ khi xung đột biên giới ngày càng leo thang, viễn ảnh cuộc xâm lăng của Trung Cộng ngày càng cận kề thì xe khách qua Tiên Yên hầu như vắng bóng. Riêng xe nhà binh thì từng đoàn, từng đoàn đi suốt ngày đêm… Không khí chiến tranh ở đây được hâm nóng hơn nhiều so với Hải Phòng, Cẩm Phả. Thị trấn Tiên Yên cũng tiêu điều giống như một thành phố chết, vì đại đa số dân chúng lo sợ trước viễn ảnh Trung Cộng xâm lăng, đã “sơ tán” đi các nơi khác.
Tối hôm đó nằm ở bến xe Tiên Yên tôi trằn trọc không ngủ được. Từ Tiên Yên đi Móng Cái chỉ có khoảng 90 cây số, đủ ngắn để tôi có thể cuốc bộ trong hai ngày đêm, nếu tôi không quá giang được xe. Nhưng tôi biết, đoạn đường càng gần tới đích thì nguy hiểm rình rập càng nhiều. Suốt thời gian ngót một năm qua, kể từ khi vượt ngục, tôi đã gặp không biết bao nhiêu may mắn. Và càng gặp may mắn, tôi lại càng lo ngại cho những nỗi bất hạnh đang chờ đợi. Điều nguy hiểm hơn là đoạn đường từ Tiên Yên đi Móng Cái hầu hết là bộ đội, dân quân, du kích hoặc công nhân quốc phòng. Thành phần dân sự và thanh niên xung phong rất ít. Thêm vào đó, trước nguy cơ bị Trung Cộng xâm lăng, đường từ Tiên Yên đi Móng Cái có rất nhiều trạm gác của các đơn vị bộ đội chủ lực, của tỉnh đội, huyện đội, xã đội… Tất cả những trạm gác này có nhiệm vụ ngăn chặn gián điệp Trung Cộng xâm nhập. Vì thế, việc tôi đóng vai một thanh niên xung phong đi thăm thân nhân ở Móng Cái là điều rất dễ bị nghi ngờ nếu bị các trạm gác này xét hỏi giấy tờ.
Qua nghiên cứu bản đồ và hỏi thăm đường xá kỹ càng, tôi biết được quốc lộ 4B chạy từ Tiên Yên đến Móng Cái dài khoảng 90 cây số. Trong tình huống cực kỳ khó khăn, không thể đi ban ngày qua các trạm gác dọc đường, tôi sẽ phải đi ban đêm. Thời tiết lúc đó đã bước vào mùa đông, nên lạnh giá, cộng với trời tốt, sẽ là những điều kiện gây khó khăn cho tôi không ít, nhưng trái lại cũng tạo thuận tiện giúp tôi vượt qua các trạm gác.
Ở bến xe Tiên Yên đêm hôm đó cũng có khoảng hơn chục hành khách chờ xe. Một nhóm bốn người bộ đội có mang theo súng ống đầy đủ. Qua trò chuyện giữa họ và những người trong bến xe, tôi biết biết họ được đi phép đặc biệt, nay phải trở về đơn vị đóng ở Hải Ninh, gần Móng Cái. Cả bốn người bộ đội đều trẻ măng và đều hăng say chửi Trung cộng. Còn lại là ba người công an biên phòng đóng ở Hải Hoà thì ít nói, khi nói, chỉ rì rầm nói với nhau; hai vợ chồng công nhân ở Hải Đông thì mắc võng ngủ li bì không hề trò chuyện với ai. Người cuối cùng, nằm ngay cạnh tôi, là một cụ già tuổi khoảng 70 ở Trà Cổ, cách Móng Cái khoảng 7, 8 cây số. Cụ là người vui vẻ trò chuyện với tất cả mọi người, nhất là với tôi vì cụ ngủ ngay cạnh tôi.
Cụ cho tôi biết, cụ là người gốc Nùng, tổ tiên của cụ là Nùng Trí Cao, trước từng đánh nhau với Tàu khiến Tàu thua nhiều trận, phải cắt đất phong vương cho người Nùng tự trị. Cụ cũng tự hào nói khi quận He Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa, tổ tiên của cụ cũng đã từng là tướng tiên phong của quận He. Tôi không biết chuyện của cụ kể thực hư bao nhiêu phần trăm, nhưng tướng mạo của cụ rất quắc thước, vừa có vẻ phong trần lại có vẻ ngang tàng, uy dũng, tuy cụ đã ngoài 70 tuổi.
Chờ xe đến trưa hôm đó, toán bộ đội và toán công an biên phòng đi quá giang được một đoàn quân xa, còn lại có mấy người dân thường, nên tôi và cụ mạnh dạn trò chuyện. Nhân dịp này tôi cũng khéo léo hỏi dò cụ về địa hình địa vật thị xã Móng Cái.
Theo lời kể của cụ thì Móng Cái ngày xưa có tên là Múng Cỏi, (?) nhưng khi nào đổi tên thành Móng Cái thì cụ không biết. Chỉ biết khi lớn lên cụ đã biết Móng Cái là thị xã của tỉnh Hải Ninh. Sau này, thị xã Móng Cái lại đổi thành thị trấn vì tỉnh Hải Ninh bị xuống cấp từ tỉnh thành huyện. Cụ tự hào kể cho tôi nghe về những danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Trà Cổ mà lâu ngày tôi chẳng còn nhớ, chỉ nhớ có mỗi mũi Sa Vĩ ở gần Cồn Mang, Trà Cổ là địa danh rất nổi tiếng vì đó là chỗ khởi đầu cho hình thể chữ S của tổ quốc Việt Nam.
Cụ bảo ngày xưa khi còn bé cụ vẫn lội qua sông Ka Long vào mùa nước cạn, để sang bên Đông Hưng, Trung Quốc mua đồ lậu về bên Móng Cái bán. Nghe cụ nói vậy, tôi mừng húm, vội hỏi:
- Thưa cụ, như vậy giữa Móng Cái và Đông Hưng chỉ cách nhau có con sông Ka Long?
Cụ gật đầu:
- Thì Móng Cái mình ở bờ bên này sông Ka Long. Còn Đông Hưng, Trung Quốc thì ở bờ bên kia sông Ka Long…
- Sông Ka Long có rộng không cụ?
- Mùa nước lớn thì khoảng 200 mét còn mùa này thì chỉ hơn 100 mét. Như sức tôi ngày còn trẻ chỉ nhắm mắt sải vài sải là qua sông dễ dàng…
Tôi mừng quá. Vì thú thực cho đến lúc đó, tôi chỉ thấy sông Ka Long trên bản đồ và nghe nói, chứ chưa hề biết nó rộng hẹp, nông sâu như thế nào. Tôi hỏi tiếp:
- Cụ nói ngày xưa mùa nước cạn, cụ lội được qua sông Ka Long?
Cụ cười, mắt lấp lánh vẻ tinh nghịch. Trông cụ như trẻ lại cả chục tuổi:
- Thì hồi đó có ngày nào mà tôi chẳng lội bộ qua sông Ka Long. Hồi đó nước sông mùa cạn chỉ ngang đầu gối… tôi vừa lội vừa cúi xuống nhặt sỏi chọi nhau mà. Nhưng đó là cái thời tôi mới lên 10, cũng cách đây cả 5 con giáp rồi còn gì. Bây giờ chả hiểu sao nước sông càng ngày càng sâu. Mùa nước cạn cũng phải một đầu một với… Mà nước sông bây giờ cũng chảy xiết lắm. Mùa nước lũ, con sông nó réo lên ầm ầm, đứng trên cầu ném miếng gỗ xuống, chỉ thoáng chốc đã trôi mất tăm hơi…
Nghe cụ nói “đứng trên cầu” tôi mừng quá, hỏi ngay:
- Thưa cụ, sông Ka Long có cầu?
Cụ gật đầu, nhìn tôi vẻ ngạc nhiên:
- Cậu không biết chuyện đó sao? Cầu Ka Long có cả mấy chục năm nay rồi. Nó là chiếc cầu biên giới bắc qua sông Ka Long. Mà sông Ka Long là biên giới tự nhiên giữa mình với Tàu…
Tôi cố giữ vẻ tự nhiên:
- Thưa cụ, con ở Hải Phòng, lên Móng Cái thăm người em lần này là lần đầu…
Cụ gật gù:
- Cậu người Hải Phòng à? Thế cậu có biết 6 vị người Đồ Sơn, Hải Phòng là người đã có công lập nên làng Trà Cổ cách đây mấy trăm năm không?
Tôi luống cuống:
- Thưa cụ, con mang tiếng người Hải Phòng nhưng là dân ngụ cư…
Cụ cười ha hả:
- Cậu còn trẻ mà cũng biết dùng cái chữ “ngụ cư” là khá lắm đấy. Nói để cậu biết, cái cầu Ka Long được dựng lên từ thời Pháp thuộc, thay thế cái cầu treo hồi đó rất nguy hiểm… lâu lâu lại có người bị rớt xuống sông Ka Long chết mất xác.
- Thưa bây giờ mình có còn đi lại qua cầu Ka Long được không?
Cụ lắc đầu:
- Tôi không biết bây giờ thế nào. Nhưng cách đây khoảng hai tháng khi tôi còn ở đó thì bộ đội biên phòng mình chỉ cho qua cầu những người Hoa nào có giấy xuất cảnh của Việt Nam và giấy nhập cảnh do tòa đại sứ của Trung Cộng ở Hà Nội cấp.
Cụ vừa nói đến đó thì người công nhân mắc võng ngủ li bì bỗng lên tiếng, giọng ồm ồm:
- Bây giờ nội bất xuất ngoại bất nhập rồi cụ ơi. – Y nói nhưng vẫn trùm mền nằm trên võng.
Cụ già ngạc nhiên:
- Ủa ai nói với ông vậy?
- Giời đất. Chuyện đó ai mà chả biết, đâu cần phải ai nói.
- Ông nói hay nhỉ? Tôi ngồi sờ sờ ra đây mà tôi đâu có biết.
- Thì cụ đi đâu cả hai tháng trời, nay mới trở lại thì làm sao cụ biết. Thời đại chiến tranh chống chủ nghĩa bá quyền của Trung Cộng, tình hình mỗi ngày mỗi khác, nói gì tới hai tháng.
- Ông nói vậy thì cả mấy chục ngàn người Hoa bị nhà nước mình trục xuất, đang lũ lượt đổ về Móng Cái làm sao họ sang bên Đông Hưng được?
Đến đây thì người đàn ông ngồi dậy, lột mền, để lộ gương mặt râu ria, tóc tai xồm xoàm. Y liếc mắt nhìn tôi, cặp mắt sắc lẻm, đầy vẻ soi mói. Tôi né tránh cặp mắt của y. Tiếng ồm ồm của y lại cất lên:
- Cụ phải hiểu, trục xuất người Hoa là chuyện của mình. Còn tiếp nhận người Hoa hay không là chuyện của họ. Bây giờ bên Trung Cộng họ đóng cửa biên giới không chịu cho người Hoa vô nước của họ thì mình đâu có làm cách nào đẩy người Hoa họ vô được…
Cụ già gật gù:
- Ừ ừ, ông nói vậy thì có lý. Bên họ đã không nhận thì mình đâu có bắt ép họ qua cầu được.
Người đàn ông có vẻ hứng chí:
- Thằng em của tôi là trung tá bộ đội biên phòng nên nó hiểu rất rõ tình hình trên đó. Nó bảo đây là âm mưu quỷ kế của tụi Tàu cộng chơi cái trò “gậy ông đập lưng ông” để chơi mình đó cụ ạ…
Cụ già thắc mắc:
- Ông tha lỗi cho tôi, ông nói đây là cái trò “gậy ông đập lưng ông” là thế nào? Ông nói rõ hơn được không?
- Thì cụ thấy rồi đó, nhà nước mình chơi trò trục xuất người Hoa để làm cho tụi Tàu cộng nói bối rối, phải đối phó với hàng trăm ngàn Hoa kiều khi về nước. Tụi Tàu cộng nó dư sức biết đó là trò phá đám của mình nên nó mới tương kế tựu kế, ra lệnh đóng cửa biên giới, không cho người Hoa về nước. Kết cục là mấy trăm ngàn người Hoa bị kẹt bên nước mình, gây khốn khó cho mình. Cụ thấy đó, bây giờ suốt dọc theo biên giới toàn người Hoa là người Hoa…
KỲ 88
Chờ ở bến xe Tiên Yên suốt cả ngày hôm sau không có xe, tôi đành phải đi bộ. Hoàn cảnh của tôi lúc đó không cho phép tôi nấn ná ở bến xe Tiên Yên vì ở lại thêm ngày nào là nguy hiểm thêm ngày ấy. Đoạn đường từ Tiên Yên đi Quảng Hà tương đối yên ổn, có nhiều người qua lại, nên tôi có thể đi ban ngày. Nhưng từ Quảng Hà trở đi, tình hình vô cùng căng thẳng, các trạm gác mọc lên san sát, thường dân, thanh niên xung phong đi lại cũng rất ít, nên tôi đành phải đi ban đêm, còn ban ngày thì chui vào rừng rậm ngủ. Có những đoạn đường, thấy nguy hiểm quá, tôi đã phải cắt rừng để tránh những trạm gác dọc đường.
Như tôi đã kể, suốt chặng đường vượt biên từ Hà Nội trở đi, tôi không hề mang theo quần áo, đồ đạc gì. Ngoài bộ quần áo mặc trên người, ít giấy tờ giấu trong người, tôi chỉ mang có tầm hình Hồ Chí Minh và cuốn Ngục Trung Nhật Ký để đánh lừa công an, bộ đội ở các trạm gác dọc đường đi. Vì chỉ mặc có một bộ quần áo, nên trước khi ngủ trong rừng, tôi phải lộn trái ra mặc cho quần áo khỏi dơ, kẻo không sẽ bị công an, bộ đội hay người đi đường để ý.
Tôi nhớ thời điểm đó đã cuối thu chuẩn bị sang đông, nên thời tiết rất lạnh. Tôi chỉ mặc phong phanh có một bộ quần áo, với chiếc áo lót, nên lạnh lẽo vô cùng, đêm nào cũng chỉ ngủ chập chờn khi tôi đã quá mệt.
Cuối tháng 9, tôi đến một làng nhỏ, lâu ngày tôi quên mất tên. Làng này nằm ngay cạnh đường quốc lộ 4B và cách biển không xa. Đứng ở trên ngọn đồi đầu làng, tôi có thể nghe tiếng sóng biển rì rào. Trèo lên ngọn đồi cao, tôi có thể trông thấy biển cả về phía đông, núi non trùng điệp về phía tây, và nhìn lên phía bắc, tôi đã thấy cả một quầng ánh sát ở chân trời. Tôi biết đó là thị trấn Đông Hưng bên Trung Cộng, vì khi ấy, thị xã Móng Cái có lệnh không được thắp đèn, bật điện… nên cả thị xã tối om.
Hầu hết những làng tôi gặp trên đường đi ở vùng từ Đầm Hà đổ lên đều vườn hoang nhà trống, vì dân chúng được lệnh “sơ tán” chuẩn bị đối phó với nguy cơ “bành trướng xâm lăng của bá quyền Trung Cộng”. Riêng làng này, từ trên đồi cao, tôi vẫn nhìn thấy có ánh đèn le lói thấp thoáng dưới một vài mái nhà.
Lúc đó khoảng 7 giờ tối, nhưng trời đã tối mịt. Suốt hai ngày trời đi bộ, ngủ trong rừng, ăn uống thiếu thốn, không một hạt cơm nóng, một ngụm canh, ngọn rau, nên tôi thấy mệt mỏi vô cùng. Thêm vào đó, vì luôn luôn sống trong tâm trạng của một người bị săn lùng, có thể bị bắt, bị bắn bất cứ lúc nào, nên tinh thần của tôi rất bạc nhược. Sau một hồi tính toán, tôi quyết định đi vô làng, tìm một nhà dân nào có thể tin cậy hoặc mua chuộc, để mua hoặc xin đồ ăn.
Theo con đường mòn từ trên đồi cao đi xuống làng, tôi thấy căn nhà đầu tiên cửa đóng, không có đèn đóm gì. Đoán không có ai ở nhà nên tôi không vô. Căn nhà thứ hai cách đó khoảng 20 thước, cũng cửa đóng im ỉm. Đi tiếp khoảng trăm thước, đến căn nhà thứ ba, tôi thấy có ánh đèn và tiếng người trò chuyện.
Đứng ngoài xa quan sát, tôi thấy có hai ông bà già cùng với 3 người con đang ngồi ăn cơm ngoài sân, bên cạnh ánh đèn dầu tù mù. Thấy đông người, tôi hơi ngại, định bỏ đi, thì bỗng nhiên, một con chó khá to từ trong nhà chạy về phía tôi, sủa vang… Tôi lúng túng, chưa kịp tính thế nào thì có ánh đèn bấm rọi về phía tôi…. Biết bỏ đi sẽ bị gia đình nghi ngờ, tôi liền liều lĩnh, chân bước thẳng vô trong sân, miệng lớn tiếng chào hỏi, giọng thân mật:
- Chào bố mẹ. Sao gia đình mình ăn cơm muộn vậy, bố mẹ?
Mấy người đang ăn cơm đều lố nhố đứng hết lên nhìn tôi, nhưng không một ai lên tiếng trả lời. Tôi hiểu ngay, trong hoàn cảnh dân làng vùng gần biên giới Việt Trung đang sống trong sự phập phồng lo sợ về một cuộc xâm lăng của Trung Cộng, bỗng dưng thấy người lạ đột ngột bước vô nhà, họ không thể không nghi ngại. Vì vậy, tôi vội đon đả nói tiếp:
- Cháu là thanh niên xung phong trên đường đi công tác ở Móng Cái. Đơn vị cháu đóng ở Đầm Hà, ngay quê ông Tùng, bí thư huyện uỷ, chắc bố mẹ biết ông Tùng chứ nhỉ?
Địa danh Đầm Hà và tên ông Tùng đều là những tin tức tôi đã thu lượm được trên đường đi. Để có thể đóng vai người địa phương, qua mặt được các trạm kiểm soát trên đường, tôi đã thu thập các tin tức địa phương bằng phương pháp “sâu đo”, dùng những dữ kiện đã khai thác được ở xã A, nơi vừa đi qua, để dò hỏi nắm bắt những dữ kiện cần thiết ở xã B, nơi mình sắp tới. Rồi sau đó dùng dữ kiện của xã B để khai thác xã C…. Một khi đã biết được địa danh, tên, cá tính của chủ tịch, bí thư xã… nơi vừa đi
qua, tôi dễ dàng đóng vai người địa phương, làm quen với người này người nọ, để dò hỏi địa danh, tên tuổi của chủ tịch, bí thư xã, hoặc chủ tịch, bí thư huyện, là nơi tôi sắp tới. Tôi biết, trong hoàn cảnh lúc đó, nếu tôi nhắc đến tên chủ tịch, bí thư xã Đầm Hà, chưa chắc gì mọi người trong gia đình đã biết vì hai xã cách nhau tương đối xa. Vì vậy, chắc ăn nhất là nêu tên Tùng, bí thư huyện uỷ, vì từ Đầm Hà lên đến Móng Cái đều cùng chung một huyện, dân chúng chắc chắn phải biết tên bí thư huyện uỷ.
Quả nhiên, ngay khi tôi nhắc đến tên Tùng, mọi người trong gia đình đều vui vẻ coi tôi như người làng, không khí căng thẳng lúc ban đầu đột nhiên biến mất. Ba người con, tuổi khoảng trên dưới 20, đều đon đả chào tôi rồi ngồi xuống mâm, tiếp tục ăn cơm. Bà cụ cũng chào tôi vui vẻ, rồi vặn to ngọn đèn dầu. Còn ông cụ thì kéo tôi lại chiếc chõng tre, vừa đi vừa oang oang nói:
- Biết ông Tùng chủ tịch huyện chớ. Ở cái huyện này thì ai mà chả biết ông Tùng. Tôi nói anh bỏ qua đi cho, ông Tùng là rể của làng tôi đấy.
Chuyện này thì quả thực tôi không biết. Nhưng qua những chuyện tôi đã thu thập được trên đường đi thì tôi biết, vợ Tùng là Loan, bí thư xã Đầm Hà. Vì vậy tôi giả vờ ngạc nhiên, nhưng thân mật hỏi ông:
- Ủa như vậy bà Loan vợ của ông Tùng là con ai ở làng mình bố nhỉ?
Ông cụ thích thú, giọng nói có vẻ “ta đây”:
- Anh cũng biết con Loan nữa à. Nó là con cô Quyền bán bánh đúc cuối xóm đấy. Mà cô Quyền còn là em họ của vợ tôi nữa đấy…
Tôi vui vẻ:
- Một người làm quan cả họ được nhờ. Như vậy làng mình cũng ít nhiều được hưởng bổng lộc của ông huyện Tùng, bố nhỉ.
Ông cụ gật gù:
- Bổng lộc thì xưa nay chẳng có gì rõ ràng đâu. Chỉ được cái thuế má, thiên hạ phải nộp đủ nộp đúng ngày giờ. Còn làng mình thì chậm lại một hai tuần. Nhưng được cái may là bây giờ các làng trong huyện chung quanh đây ai cũng phải sơ tán hết cả. Chỉ riêng làng mình thì được ở lại cho đến cuối tháng 10… Nhờ vậy nên chúng tôi cũng thư thả thu dọn đồ đạc mang đi từ từ, chứ bỏ lại hết thì xót xa lắm…
Bà cụ đi tới cầm ngọn đèn dầu để lên chõng và hỏi tôi:
- Anh đã cơm nước gì chưa?
Tôi thú thực:
- Dạ thú thực với bố mẹ là con chưa ăn tối. Con đi công tác ở Móng Cái, nhưng lỡ xe, đến đây thì đêm tối, đi nữa sợ nguy hiểm, nên vào đây quấy quả bố mẹ…
Bà cụ vui vẻ:
- Chả dám, chả dám… Có gì đâu mà quấy quả.
Biết cuộc sống của gia đình nghèo túng, thiếu thốn, nên tôi nói ngay:
- Thưa bố mẹ, con đi công tác có tiêu chuẩn nhà nước cấp. Vì vậy dù có vào ăn tiệm hay ăn nhà dân, con vẫn phải có bổn phận đóng góp, gọi là chút đỉnh với bố mẹ…
Nói xong, tôi lấy ra hai tờ giấy bạc (tôi nhớ không chính xác là bao nhiêu) trao cho bà cụ. Bà cụ cầm một tờ, còn trả lại tôi một tờ, và nói:
- Giời đất ơi, anh ngồi ăn cơm với chúng tôi chỉ thêm đũa thêm bát chứ có tốn kém gì nhiều đâu mà anh đưa lắm tiền thế này. Thôi chúng tôi cầm một tờ này là đủ rồi…
Bà cụ đẩy đi, tôi đẩy lại một hồi, cuối cùng tôi nói:
- Mẹ cứ cầm lấy đi. Đó là tiêu chuẩn nhà nước cấp cho con một ngày. Nếu bây giờ con ăn không hết, thì mẹ cho con xin một nắm cơm với ít muối mè để ngày mai con mang đi ăn đường.
Nghe vậy, bà cụ gật đầu, cẩn thận bỏ cả hai tờ giấy bạc vào cái ruột tượng ở thắt lưng, rồi quay ra bảo mấy người con lo dọn cơm cho tôi ăn.
Bữa cơm rất thanh đạm, nhưng lạ lùng, lại có một món ăn rất sang. Những món thanh đạm là một tô cơm độn khoai nấu hơi nhão, một đĩa rau lang luộc, một đĩa tép và một chén mắm hến mặn chát. Món rất sang là thịt trâu rang muối. Thấy món thịt trâu, tôi rất ngạc nhiên, nhưng không tiện hỏi. Tôi ăn bữa cơm rất ngon lành. Chỉ trong chớp mắt tôi ăn hết tô cơm độn và cả đĩa rau lang luộc. Vừa ăn tôi vừa nghe ông cụ nói chuyện về tình hình chính trị quân sự giữa hai nước và những vụ lộn xộn xảy ra dọc theo biên giới Việt Trung.
Vừa ăn cơm xong, thì có tiếng đàn bà gọi vọng từ ngoài ngõ:
- Bà Lương ơi, sang mà chia thịt.
Gọi xong, không cần nghe bà Lương trả lời, người đàn bà bỏ đi ngay. Tôi ngạc nhiên:
- Làng mình có hội hè đình đám gì hay sao mà chia thịt, bố mẹ?
Ông cụ thở dài:
- Hội hè đình đám gì đâu anh. Đi chia thịt trâu đó.
Ủa tại sao được đi chia thịt trâu mà lại thở dài? Tôi nghĩ bụng và sực nhớ đến chén thịt trâu rang muối, một món ăn sang trọng trong một bữa cơm độn khoai, thật là trái ngược. Đã vậy, bây giờ lại có người gọi đi chia thịt trâu nữa. Tại sao trâu chết nhiều vậy nhỉ?
Tôi thắc mắc:
- Ủa, làng mình trâu bị chết dịch hở bố?
Ông cụ lắc đầu:
- Dịch gì đâu, trâu chết vì mìn chống tăng đó.
Thấy tôi có vẻ ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ nói tiếp:
- Nhà nước họ gài mìn chống tăng ở khắp mọi nơi để phòng khi tụi Tàu nó xâm lăng, anh hiểu không. Nào ngờ đâu, xe tăng của tụi Tàu đâu chưa thấy, chỉ thấy trâu của mình thi nhau chết vì dẵm phải mìn… Chỉ nội từ đầu tháng đến giờ làng này đã chết mất 4 con rồi… Cứ cái đà này độ vài tháng nữa, Tàu nó không xâm lăng thì trâu chết hết, mình cũng chết, cả làng phải đi kéo cầy thay trâu mất thôi… Đó, tối này anh ngủ ở đây thế nào anh cũng nghe tiếng mìn nổ. Trâu mình dẫm phải mìn cũng có mà thú dữ dẫm phải mìn cũng có…
Tôi lo ngại:
- Bố bảo là nhà nước gài mìn chống tăng ở khắp mọi nơi?
- Khắp mọi nơi. Mìn chống tăng có, mìn chống người có. Đủ loại, đủ kiểu.
Tôi phịa chuyện để thăm dò:
- Con nghe ông Tùng nói là mình chỉ gài mìn dọc theo biên giới Việt Trung….
Ông Lương cười như mếu:
- Chỉ gài dọc theo biên giới thì ngăn chặn tụi Tàu cộng làm sao được. Chúng dùng biển người thì người nó đổ vô cứ như thác như lũ ấy chớ. Tui nói anh nghe, suốt cả một vùng đất từ Quang Thắng đổ lên đến biên giới bây giờ là toàn mìn, toàn chông. Mìn của mình phải thiên la địa võng như vậy thì mới chống được tụi Tàu…
Tối hôm đó tôi nằm trên chiếc chõng tre, nhưng dù mệt mỏi vô cùng, tôi vẫn trằn trọc không ngủ được, phần vì muỗi đốt, phần bị những bãi mìn mênh mông ám ảnh…. Thú thực, tôi đinh ninh, nếu không vượt biên qua Trung cộng theo ngả thị xã Móng Cái được, tôi sẽ chui vào rừng, cắt đường để bơi qua sông Ka Long, vượt qua biên giới. Nhưng nay đứng trước tình trạng mìn chống tăng, mìn cá nhân gài khắp nơi dọc theo biên giới hai nước, làm sao tôi có thể vượt qua những bãi mìn đó để đến bờ sông Ka Long an toàn???
KỲ 89
Mặc dù tối hôm đó rất mệt mỏi, nhưng vì tâm sự rối bời như canh hẹ, nên tôi chẳng ngủ được nhiều. Trằn trọc, chập chờn mãi, đến khoảng bốn, năm giờ sáng, muỗi đốt nhiều quá, nên tôi dậy tập thể dục, hít thở thật sâu khí trời thanh tịnh buổi sáng cho tâm hồn bớt căng thẳng, sẵn sàng cho một ngày quyết định, tự do hay là chết của tôi.
Kể từ ngày ở tù tại Quân Lao Gò Vấp, tôi có duyên được gặp một vị cao tăng đắc đạo. Tuy chỉ được sống chung với Thầy có vỏn vẹn hai tuần lễ, nhưng nhờ Thầy chỉ dậy, tôi đã học được những điều, mà sau này, càng sống, càng trải qua những phúc họa của cuộc đời, tôi càng nhận ra những triết lý mới lạ của những điều Thầy đã dậy.
Một điều may mắn nữa là thời gian đó, Thầy đã chỉ dậy cho tôi cách thở thật đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả cho sức khỏe. Nhờ tập luyện theo sự chỉ dẫn của Thầy nên sau lần tôi bị hơn chục tên vệ binh đánh hội đồng tại nhà ăn của Quân Lao, không đầy 3 tháng sau tôi đã hồi phục sức khỏe.
Thầy bảo tôi, với người tập luyện võ thuật hay tập thiền, luyện thở là bước căn bản đầu tiên, nhưng phức tạp. Với những người bình thường, luyện thở chỉ cần luyện có 3 bước: Trước hết là nhắm mắt, gạt bỏ mọi tạp niệm, giữ cho thân thể và tâm hồn thật thư thái, rồi từ từ hít thở thật sâu cho không khí vô đầy lồng ngực. Tiếp theo là nín thở một lúc cho dưỡng khí ngấm vào máu huyết trong cơ thể. Cuối cùng là từ từ thở ra cho thật hết thán khí. Cả 3 bước đơn giản này đều có thể làm ở bất cứ đâu, khi tập luyện, đi dạo, lúc ngồi chơi, làm việc hay ngay cả khi nằm ngủ. Từ ngày ấy, tôi làm theo lời chỉ dẫn của Thầy, và dần dần tôi nhận ra, không khí, nhất là vào buổi sáng, có một hương vị và năng lượng lạ lùng, làm cho sức khỏe của mình hồi sinh. Nhất là trong những lúc bối rối, lo lắng, sợ hãi, tôi chỉ nhẹ nhàng và kín đáo hít thở thật sâu, nín thở một lát, rồi thở ra thật hết, độ vài lần là thấy lòng bình tĩnh, tâm hồn thanh thản hẳn lại.
Quả nhiên lần này cũng vậy, sau khoảng mươi phút hít thở bầu không khí thanh tịnh của buổi sáng ở một miền thôn quê gần biển, tôi thấy lòng mình thư thái hẳn lại. Tôi đi ngược trở lại con đường mòn dẫn lên đồi cao. Từ trên đồi cao, tôi quan sát thấy thị trấn Móng Cái trong tầm nhìn của tôi. Thời tiết lúc đó lạnh lẽo vì cuối Thu đầu Đông. Khoảng cách giữa tôi và thị trấn Móng Cái khoảng 5, 7 cây số đường chim bay. Bình thường đi bộ vượt qua được khoảng cách này chỉ mất hai, ba tiếng đồng hồ, nếu đi đường quốc lộ. Cắt rừng thì mất khoảng 5 tiếng. Nhưng khó khăn là tình trạng canh gác vô cùng cẩn mật suốt dọc đường quốc lộ. Vượt qua được những trạm gác này là chuyện không có dễ. Còn nếu cắt rừng mà đi thì tránh được các trạm gác nhưng lại gặp phải mìn, chông và cạm bẫy. Với công an, bộ đội biên phòng, tôi có thể tìm cách qua mặt họ. Trong trường hợp bị nghi ngờ và bị bắt, tôi cũng sẽ tìm mọi cách thoát thân. Tuy như vậy sẽ thập phần khó khăn, nguy hiểm, nhưng còn có phần hy vọng sống sót. Còn đối với mìn chông cạm bẫy là những vật vô tri, không tai mắt, nếu tôi chẳng may vướng phải, đời tôi sẽ tàn tức khắc. Sau khi suy nghĩ thiệt kỹ, tôi quyết định đi theo đường quốc lộ để lọt vô thị trấn Móng Cái. Vì thị trấn nằm ngay cạnh sông Ka Long, nên một khi vô được thị trấn, tôi sẽ tìm cách bơi qua sông để sang bên Trung Quốc.
Quyết định như vậy, tôi liền quay trở lại nhà lấy cuốn sách thơ và tấm hình Hồ Chí Minh, định lặng lẽ ra đi, sau khi viết mấy lời cảm ơn gia đình ông cụ vào một cuốn vở học trò để trên bàn. Không ngờ khi tôi đang cắm cúi viết, bỗng nghe có tiếng ho. Quay lại, tôi thấy cụ ông từ trong buồng đi ra. Cụ hỏi:
- Anh định đi phải không?
Tôi thưa:
- Dạ thưa bố, con phải đi sớm vì trưa nay con phải có mặt ở Móng Cái.
Cụ ngồi xuống chiếc ghế duy nhất cạnh bàn, với tay lấy chiếc điếu bát, chậm rãi vê thuốc cho vào nõ điếu. Vừa vê thuốc, cụ vừa nói:
- Đây đến Móng Cái đi bộ chỉ khoảng hơn hai tiếng. Nhưng giấy tờ khám xét dọc đường thì phiền phức lôi thôi, mất thì giờ lắm. Để tôi xem xem nào, từ đây đến đó, dễ phải hơn 20 trạm gác là ít nhất. Mỗi trạm nhanh cũng phải 10 phút, chậm thì phải nửa tiếng. Vị chi là anh phải 4, 5 tiếng khám xét giấy tờ, cộng với hai tiếng đi bộ là 6, 7 tiếng đồng hồ. Anh đi bây giờ thì phải chiều mới tới được Móng Cái.
Tôi bật lửa, châm vào đóm, đưa cho cụ. Hút thuốc, nhả khói, cụ nói tiếp:
- Anh có giấy tờ đi đường đầy đủ thì nên chọn lúc trạm gác vắng người. Còn giấy tờ của anh không đầy đủ, thì tốt nhất chờ lúc đông người, đến gần trưa hay đi. Đông người thì vô hồi vô phèng, tụi nó cũng làm phiên phiến cho xong. Thói đời xưa nay là vậy… Còn đi bây giờ thì sớm quá, mà trời lại lạnh buốt như thế này… Điệu này năm nay sợ lạnh hơn năm ngoái…
Tôi thoáng nhìn cụ. Thấy nét mặt của cụ vẫn dửng dưng khi nói câu đó. Tôi thầm nghĩ, có lẽ cụ chỉ tình cờ nói, chứ không nghi ngờ gì tôi. Dù sao, tôi cũng thầm cảm ơn cụ. Có điều, tôi dù có giấy tờ tùy thân “hợp pháp” do một cơ quan cấp bộ của cộng sản ở Sàigòn cấp, nhưng tôi đã có cách đi riêng của tôi khi qua các trạm gác, thay vì phải trình giấy tờ. Nghĩ vậy, tôi ngỏ lời cảm ơn cụ và xin tạm biệt.
Khi bắt bàn tay già nua nhăn nheo của cụ, tôi cũng đưa cho cụ 10 đồng. Đây là số tiền đầu tiên tôi tiêu trong số tiền 82 đồng hốt hụi của một người bạn đã trao cho tôi ở ga xe lửa Bình Triệu trước khi tôi lên tàu ra Bắc. Số tiền đó tuy ít ỏi, nhưng đó là tất cả vốn liếng của người bạn rất nghèo đó có thể có được. Vì vậy tôi vô cùng cảm động và biết ơn người bạn đó không biết để đâu cho hết. Thú thực, ngay khi viết những dòng chữ này, lòng tôi vẫn bồi hồi xúc động, nhớ lại những ngày tháng sóng gió, tôi bị săn đuổi như một con thú trên chính quê hương của tôi. Trong suốt những ngày tháng bị săn đuổi đó, đã có những người thân ruột thịt, những bạn hữu, những ông bà, cô bác, chú dì, anh chị em,… đã tận tình giúp đỡ tôi, bất chấp khó khăn nguy hiểm… Trong số đó, có những người tôi quen biết, sau này tôi có được cơ hội đền đáp một trong muôn phần ơn nghĩa. Nhưng cũng có không biết bao nhiêu ân nhân, với tấm lòng vàng, đã giúp đỡ tôi, nhưng vì hoàn cảnh éo le lúc đó, tôi đã vĩnh viễn không bao giờ biết được họ là ai, ở đâu… Nhưng trong suốt thời gian ba mươi năm qua, mỗi khi bồi hồi xúc động nghĩ tới những kỷ niệm xưa, tôi luôn luôn tâm niệm, nếu không có được những tấm lòng vàng của những con người vô danh đó, chắc chắn tôi không thể nào còn sống đến hôm nay, hay ít nhất, tôi cũng không thể nào có được cuộc sống tự do như hôm nay….
Hôm đó, vào buổi sáng tinh mơ của một ngày cuối tháng 9 năm 1978, tôi chia tay ông cụ, lên đường trực chỉ thị trấn Móng Cái. Đoạn đường không đầy 10 cây số với khoảng 20 trạm gác đang chờ đợi tôi. Trước đây, ngược xuôi đi lại ở Miền Nam, tôi không lo ngại khi thấy trạm gác của bộ đội, công an. Như tôi đã nói, ở Miền Nam, tuy cũng bị cộng sản săn lùng, nhưng tấm lòng yêu thương đùm bọc của người dân Miền Nam dành cho những nạn nhân cộng sản, trong đó có tôi, đã khiến tôi yên tâm đi lại như cá bơi trong nước. Còn ở Miền Bắc, người dân đã sống trong sự kìm kẹp tuyên truyền của chế độ cộng sản cả mấy chục năm, nên khi trở lại đất Bắc trong thân phận của một người tù vượt ngục đang bị săn đuổi, ngay cả khi gặp người thân ruột thịt ở nơi chôn nhau cắt rốn, tôi cũng không dám thổ lộ hoàn cảnh thật của mình. Nói như vậy, quý độc giả thấy được nọc độc của cộng sản lợi hại đến là nhường nào. Và nhiều lúc tôi tự hỏi, nếu bây giờ tôi trở lại Miền Nam trong thân phận của một người bị chế độ CS săn đuổi, liệu tôi có còn được người dân Miền Nam, sau 30 năm bị CS tuyên truyền, đầu độc, sẽ tiếp tục đùm bọc, yêu thương, che chở để cho tôi được hạnh phúc sống trong cảm giác như cá bơi trong nước của ngày xưa hay không?
Từ con đường mòn trên triền đồi, bước xuống đường quốc lộ, tôi cảm thấy ngay bầu không khí sôi sục chiến tranh. Trời lúc đó còn rất sớm, cây cỏ còn đẫm sương, và khí
lạnh còn dàn dụa trong không gian, nhưng những đoàn quân xa, những đơn vị bộ đội dài dằng dặc, cùng dân quân, du kích, dân công chiến trường… đã lũ lượt đổ về Móng Cái.
Trạm gác đầu tiên tôi thấy trên đường quốc lộ là một túp lều tranh dựng tạm bên đường. Phía đằng trước lều, có mấy tên công an áo vàng, súng ngắn đeo ở hông, đang xét giấy tờ người qua lại. Quanh quẩn bên cạnh là mấy tên bộ đội biên phòng, đeo súng AK, dáng điệu uể oải, thờ ơ, với vẻ ngái ngủ còn đọng trên gương mặt.
Quan sát một lúc, tôi thấy ngay, trạm gác không xét giấy tờ các đơn vị bộ đội và những người dân ăn mặc lam lũ, có vẻ là người địa phương. Riêng xe cộ qua lại bị kiểm soát rất kỹ. Không những tài xế xe phải xuống xe xuất trình giấy tờ, mà công an, bộ đội biên phòng còn bắt mở cửa xe, khám xét, thậm chí còn nhảy lên cả phía sau xe tìm kiếm lục lọi… Nhìn cách thức kiểm soát xe cộ của trạm gác, tôi thở phào hú hồn, vì trước đó tôi đã có ý định nhảy xe quá giang vô thị trấn, giống như trước đây ở Quảng Trị, tôi đã từng làm và may mắn thoát.
Sau một hồi quan sát, tôi liền nghĩ ra một kế. Tôi vội cởi chiếc áo bộ đội đã bạc màu, thắt ngang hông, để hai tay áo lủng lẳng hai bên, còn trên người chỉ mặc chiếc áo may ô màu vàng khè, ống quần thì sắn móng lợn, bên cao bên thấp. Nách tôi cắp cuốn sách Ngục Trung Nhật Ký, tay cầm bức hình Hồ Chí Minh đã cuộn tròn. Tôi biết, với ngoại hình như vậy mà mang hai vật này thì quả là hơi kệch cỡm, nhưng tôi không có cách nào khác. Tôi phải mang theo nó, vì sau này lỡ gặp lúc hiểm nguy, rơi vào tay bộ đội, công an, sự hiện diện của nó sẽ có giá trị hơn bất cứ thứ giấy tờ nào. Nó sẽ gián tiếp chứng minh một cách trung thực và ngay tình tôi là người “ái mộ HCM”. Điều đó sẽ xóa tan ngay những nghi ngờ trong đầu óc của bất cứ tên cán bộ, công an, bộ đội nào khi bắt giữ tôi…
Trạm gác nằm về phía bên phải đường, nhưng ngay phía bên trái, đối diện với trạm gác cũng có hai tên công an áo vàng đứng cạnh mấy tên bộ đội biên phòng xét giấy tờ người qua lại. Lúc đó trời còn sớm, số người qua lại phải xét giấy tờ chưa đông, nên bộ điệu của mấy tên này rất thờ ơ, thiếu cảnh giác. Chúng đứng cụm lại một chỗ lo tán gẫu, không để ý gì những người dân lam lũ đi qua đi lại…
Thấy được chỗ sơ hở đó, tôi quyết định đi về phía bên trái. Vừa đi, tôi vừa huýt sáo một bài hát của cộng sản, mà lâu ngày tôi đã quên mất tên. Trong lòng tôi lúc đó rất lo lắng, sợ hãi, trống ngực đập thình thịch, nhưng bề ngoài tôi vẫn cố giữ vẻ mặt bình tĩnh, bước đi thật ung dung qua trạm gác…
Quả nhiên, không một tên công an, bộ đội nào để ý đến tôi. Chắc nhìn bộ điệu của tôi, dép râu, nón cối, ống quần sắn móng lợn chân cao chân thấp, lại mặc chiếc áo may ô ố vàng, người không mang theo hành lý gì, nên chúng đinh ninh tôi là một người dân địa phương bình thường, chẳng cần phải xét hỏi giấy tờ.
Qua được trạm gác một quãng xa, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Giả vờ băng ngang đường, tôi ngoái đầu nhìn lại phía sau, thấy mấy tên công an bộ đội vẫn đang xét hỏi giấy tờ một hàng dài những người Việt gốc Hoa, gồng gánh đủ thứ đồ đạc trên vai, trên xe đạp, xe bò, xe ba gác… Theo lời của một người Hoa tôi tình cờ gặp trên đường, cộng sản đã bắt tất cả những người Hoa trên đường trở về nước phải đến trại tập trung ở cách Móng Cái 5 cây số về phía tây, để chờ đợi Trung Cộng mở cửa biên giới cho họ hồi cư…
Như vậy là tôi đã may mắn qua được trạm gác thứ nhất. Trước mặt tôi còn khoảng 20 trạm gác nữa phải vượt qua. Tuy lo lắng, sợ hãi, nhưng tôi yên tâm, vì trong lòng tôi đã có kế hoạch, bằng mọi cách thật cẩn thận và an toàn, qua được trạm gác nào thì qua, đến chiều tối, tôi sẽ tìm vô rừng ngủ, chờ ngày mai đi tiếp….
KỲ 90
Sau khi qua được trạm gác thứ nhất, đi được khoảng 500 thước, tôi đến trạm gác thứ hai. Vì đây là trạm gác của du kích địa phương, nên tôi qua dễ dàng. Cả trạm gác chỉ có 2 người du kích tuổi chưa đầy 20. Thì ra, số trạm gác từ đây đến Móng Cái tuy trên dưới 20 trạm, nhưng chỉ có những trạm gác có công an áo vàng và bộ đội biên phòng là canh gác nghiêm ngặt. Còn lại, đa số canh gác cho có lệ, nên việc qua lại cũng không đến nỗi khó khăn. Nhất là khi tôi không mang theo hành lý, quần ống thấp ống cao, áo may ô lại ố vàng, nên những tên lính gác đều không để ý đến tôi. Hơn nữa, số người qua lại trên đường quốc lộ 4B thời điểm đó rất đông, nên các trạm gác chỉ chú trọng đến việc xét hỏi giấy tờ của những người Hoa gồng gánh đồ đạc từ các nơi đổ về Móng Cái, chẳng có thì giờ xét hỏi một người có bề ngoài bẩn thỉu tầm thường như tôi.
Ngày hôm đó, tôi qua được gần chục trạm gác, thì trời tối, số người qua lại ngày càng vắng vẻ, nên ngay khi mặt trời lặn, tôi phải lẻn vào rừng, chui lên một ngọn đồi ngủ qua đêm. Cũng may thời gian đó, trời chỉ lạnh khan chứ không có mưa, nên tôi chỉ việc kiếm gốc cây to, khuất gió, sau đó cởi quần áo, lộn trái, rồi mặc vô ngủ. Làm như vậy để sáng hôm sau, khi mặc tôi chỉ việc lộn phải, khỏi dơ quần áo, để khi đi đường không bị ai nghi ngờ.
Lúc đó, khoảng cánh từ chỗ tôi ngủ đến thị trấn Móng Cái chỉ vài cây số đường chim bay, nên tôi nghe rất rõ tiếng loa phóng thanh của bên Trung Cộng ra rả chửi Việt Cộng. Bên phía VC thì loa chõ về phía bên Đông Hưng, nói rặt tiếng Quảng rồi tiếng Quan thoại nghe không rõ lắm. Còn loa của Trung Cộng thì chõ về phía Móng Cái và nói rặt tiếng Việt. Cả hai hệ thống đánh võ mồm này làm việc liên tục suốt ngày đêm, và công suất của hệ thống loa phát thanh của cả hai bên đều rất lớn, vang vọng cả một vùng. Ngoài ra, mạng lưới đèn rọi của cả hai bên dọc theo sông Ka Long cũng bao phủ cả một vùng rộng lớn tận cùng tầm mắt của tôi. Thỉnh thoảng, trong đêm đen, đột nhiên vang lên tiếng nổ của vài loạt đạn, lúc xa lúc gần… Tối hôm đó, trằn trọc đến gần sáng tôi mới ngủ thiếp đi trong giấc ngủ đầy ác mộng.
Sáng hôm sau, dậy sớm, tôi kiếm một vũng nước nhỏ, rửa mặt mũi qua loa, rồi lộn phải quần áo và mặc vô đàng hoàng. Từ trên đồi cao tôi quan sát thấy đường quốc lộ 4B đã tấp nập xe cộ và người qua lại. Yên tâm, tôi cắt đường đi xuống và nhanh chóng hoà vào đoàn người đi về Móng Cái.
Đến trưa hôm đó, tôi qua được thêm ba trạm gác nữa. Tuy dễ dàng và càng ngày càng gần thị trấn Móng Cái, tôi vẫn không quên thu thập tất cả những dữ kiện cần thiết về hành chánh, địa danh, tên tuổi của các tên chủ tịch, bí thư đảng các xã, huyện trong những vùng lân cận, mỗi khi có dịp trò chuyện với người dân địa phương, hoặc khi ghé vô bưu điện bên đường. Chính nhờ những dữ kiện này, tôi dễ dàng qua mắt bộ đội công an cộng sản, khi đóng vai một người dân ở địa phương.
Chiều hôm đó, tôi ghé vô một quán nước bên đường, tính mua chút gì ăn lót dạ. Giống như hầu hết những quán ăn bên đường ở Miền Bắc, quán rất nghèo nàn, chỉ có chiếc bàn gỗ nhỏ, bẩn thỉu, run rẩy trên 4 chiếc chân xiêu vẹo bằng tre. Quanh bàn là ba “dẫy ghế” mỗi dẫy làm bằng hai, ba thân tre đặt lên trên hai ba cái bục bằng đất. Trên bàn chỉ có một chiếc lọ thuỷ tinh cáu bẩn, bên trong có vài chiếc kẹo vừng, kẹo lạc. Trên chiếc đĩa sành có một gói thuốc lá đã bóc, có một điếu thò ra ngoài như mời gọi người mua lẻ. Vài chiếc chén sứt mẻ úp xuống mặt bàn. Chủ quán là một người đàn bà không rõ tuổi tác, vì trời lạnh, khăn trùm kín mặt, và cả một đống quần áo và chằng vá đụp choàng lên người bà.
Tôi mua một chiếc bánh mì luộc ăn với muối, vài chiếc kẹo vừng bỏ túi để dành sau này ăn dần lấy sức đi đường. Bánh mì luộc đã lâu, vừa cứng vừa hôi và thật nhạt nhẽo. Nhưng vì trong quán ngoài món mì luộc, chẳng còn món nào ngoài món cháo nấu cũng bằng bột mì và vài củ khoai mì, khoai lang luộc bầy trên chiếc mẹt rách, đầy ruồi.
Trong quán lúc tôi vô chỉ có một người khách. Ông đã lớn tuổi, ngồi xổm bó gối, vừa hút thuốc vừa ho sù sụ. Trông thấy tôi, ông dửng dưng không một chút để ý, tiếp tục vừa hút thuốc vừa ho. Suốt thời gian tôi ngồi ăn mì luộc, ông cũng chẳng buồn ngó ngàng gì đến tôi nên tôi cũng yên tâm ngồi ăn.
Khi tôi ăn gần xong, bỗng thấy có một cô bé dắt chiếc xe Phượng hoàng đen dựa vào chiếc cột bên cạnh quán. Đây là loại xe đạp sản xuất tại Trung Cộng nhưng rất phổ thông ở Miền Bắc. Xe này cao, chắc chắn, có bộ khung rất cứng, thường để cho đàn ông đi hay thồ hàng hóa. Vì vậy, khi thấy cô bé dắt chiếc xe Phượng hoàng, tôi cũng ngạc nhiên. Cô bé cẩn thận khoá xe bằng một sợi dây xích làm bằng xích xe đạp. Khóa xong cô bước vô quán, ngồi xuống ghế, chọn mua một củ khoai lang thật to và một chén nước chè tươi nóng. Vì trong quán nhỏ hẹp, nên ngay khi ngồi xuống ghế, cô đã nhìn thấy tôi. Tôi không biết cô bao nhiêu tuổi, vì cả gương mặt của cô được bọc kín bằng chiếc khăn vuông màu đen, chỉ để lộ có hai con mắt. Khi ăn uống, cô cũng chỉ kéo vạt khăn vuông ở miệng xuống một chút vừa đủ. Nhưng qua cặp mắt đen láy, hàm răng trắng muốt, và dáng người nhỏ nhắn, tôi đoán cô chỉ 16, 17 tuổi là cùng. Nghe giọng nói, tôi đoán cô người Hải Phòng. Đôi ba lần, thấy trong ánh mắt của cô nhìn tôi, có vẻ tò mò, nên tôi lúng túng né tránh, ngại trò chuyện không khéo, sẽ vô tình để lộ thân thế của mình. Vì thế, tôi ăn vội cho xong, rồi trả tiền, và nhanh chóng rời khỏi quán.
Ra khỏi quán, đi bộ được khoảng 15 phút, tôi thấy cô gái đạp chiếc xe Phượng hoàng chạy qua. Chạy được một quãng, không hiểu sao cô ngừng xe, nhảy xuống đứng chờ. Chờ ai không biết, nhưng thấy cô nhìn tôi, tôi đoán cô chờ tôi. Tôi lúng túng không hiểu cô gái có ý gì, nhưng vẫn phải có giữ bình tĩnh bước tới. Khi tôi tới gần, cô gái kéo chiếc khăn bịt mặt xuống, hỏi giọng thân mật, gần gũi:
- Chú đi Móng Cái phải không chú?
Tôi ngạc nhiên:
- Sao cô biết?
Cô bé mỉm cười:
- Cháu còn biết chú là người Hoa nữa.
Tôi đang ngần ngừ không biết có nên nhận mình là người Hoa hay không thì cô gái đã nói tiếp:
- Nhìn chú cháu biết ngay chú là người Hoa, nên cháu đoán chú đi Móng Cái. Cháu tên Liên. Còn chú, tên gì?
Dứt lời, không chờ tôi trả lời, Liên đẩy chiếc xe đạp về phía tôi:
- Cháu cũng đi Móng Cái. Chú đạp xe đèo cháu đi cho nhanh…
Nhìn dáng điệu của Liên hồn nhiên, cặp mắt trong vắt, tôi thấy tin tưởng. Tôi nghĩ rất nhanh, từ đây đến Móng Cái chỉ còn vài cây số. Đi bộ cũng không lâu, nhưng nếu đi xe đạp thì nhanh hơn, thoải mái hơn. Vả lại, trong bầu không khí ngột ngạt tại Móng Cái hiện nay, hầu như không có ai đi một mình như tôi. Vì vậy, nếu tôi đi vô Móng Cái với một cô gái thì cũng ít bị để ý hơn là đi một mình. Nghĩ vậy, tôi cảm ơn Liên, đón ghidong xe rồi tôi và Liên cùng ngồi trên chiếc xe Phượng hoàng, bon bon chạy về thị trấn Móng Cái.
Vừa đạp xe vừa trò chuyện, tôi mới biết, bố mẹ của Liên là người Hoa, sinh sống ở Hải Phòng không biết bao nhiêu đời. Ông nội của Liên, thời Pháp thuộc, có tàu biển chở hàng đi Hồng Kông, Ma Cao, đã cùng với các chú các bác vô Nam năm ngay 1954. Riêng bố của Liên vì đi buôn ở bên Trung Quốc, không về kịp nên bị kẹt phải ở lại sống với cộng sản. Đến năm 1978, vì hai nước Việt, Hoa mâu thuẫn, nên cũng giống như tất cả những người Hoa ở Hải Phòng, nhà cửa của gia đình Liên bị đập phá, bố mẹ Liên cùng với các em buộc phải về Trung Quốc từ trước Tết. Riêng Liên là con gái lớn, đang học lớp 10, phải trọ học ở nhà dì ở Hà Nội. Khi xung đột xảy ra, gia đình Liên về Trung Quốc thì Liên phải ở lại cùng gia đình người dì đi về Trung Quốc theo ngả Lạng Sơn. Chẳng may vì lý do gì đó, gia đình dì bị công an biên phòng bắt giam mấy tháng trời. Rốt cuộc, cả nhà bà dì và Liên bị kẹt lại cho đến nay. Sau thời gian mấy tháng trời bị kẹt ở Hà Nội, Liên đành phải đạp xe từ Hà Nội đi Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng đi Móng Cái, để đến nhà bà ngoại, tìm được sang bên Trung Quốc đoàn tụ với gia đình.
Nghe chuyện của Liên tôi thật xúc động. Thì ra, sống trong chế độ cộng sản, nỗi đau khổ của người dân hiện ra muôn hình vạn trạng. Và tôi cũng biết, những cuộc đời đau khổ mà tôi đã gặp chỉ là một phần rất nhỏ trong số muôn vạn phần khổ đau xảy ra cùng khắp trên đất nước tôi trong suốt nửa thế kỷ kể từ khi bóng ma CS xuất hiện ở VN.
Để tránh cho Liên bị liên luỵ, khi đến gần các trạm gác, tôi xuống xe, trả xe cho Liên, còn tôi đi bộ trong hình hài và bộ điệu như cũ. Qua khỏi trạm gác một đoạn xa, Liên xuống xe đứng chờ tôi. Tuy tin tưởng và quý mến Liên, tôi không trò chuyện nhiều về tôi, vì thấy đó là những chuyện không cần thiết, nếu nói ra, có thể tạo nguy hiểm cho Liên.
Chúng tôi vô được thị trấn Móng Cái vào lúc 5 giờ chiều. Cả thị trấn tràn ngập công an, bộ đội, thanh niên xung phong. Bóng dáng người dân chỉ lác đác. Toàn bộ hệ thống hành chánh và sinh hoạt dân sự trong thị trấn hoàn toàn bị tê liệt. Thay vào đó là cả thị trấn bị quân sự hóa. Hỏi thăm đường xá mãi, chúng tôi mới ghé vô được một tiệm ăn mang tên “Cửa hàng Ăn uống Tổng hợp” (!?). Tiệm ăn đông nghẹt toàn bộ đội là bộ đội. Tôi xếp hàng đợi mua đồ ăn, còn Liên xếp hàng chờ giữ bàn ăn. Khi tôi mua được hai chiếc bánh bao chay (không có nhân) và hai ly nước chanh đường (không có đá) đem ra thì Liên vẫn chưa kiếm được một chỗ ngồi. Tôi và Liên đành vừa đứng vừa ăn uống. Nhìn ra chung quanh thấy phần đông bộ đội, công an, súng ống đầy người8, cũng đứng ăn giống như chúng tôi.
Lúc đó, trong tiệm ăn, chỉ có mình Liên là con gái, còn toàn đàn ông con trai. Vì vậy, khi nhìn thấy những ánh mắt tò mò của những người chung quanh, tôi bồn chồn nói nhỏ với Liên, ăn nhanh rồi đi ra ngoài.
Qua trò chuyện, tôi chỉ cho Liên biết, cũng giống như hoàn cảnh của Liên, tôi là người Hoa, gia đình đã về Trung Quốc, còn tôi bị kẹt lại, hiện đang có ý định trốn sang Trung Quốc. Cũng giống phần đông những người Hoa ở Miền Bắc, phải sống trong chế độ cộng sản, bị chúng áp dụng chính sách đồng hóa không cho nói, viết, đọc tiếng Hoa, nên Liên không hề biết tiếng Hoa. Nhờ vậy, khi tôi nói tôi là người Hoa, dù tôi không biết nói tiếng Hoa, Liên không hề mảy may nghi ngờ.
Lúc đó Liên có ý định muốn tôi về ở nhà bà ngoại của Liên rồi tìm cách vượt biên chung với tôi, nhưng tôi khéo léo từ chối. Hoàn cảnh của tôi lúc đó rất nguy hiểm, nếu bị bắt tôi có thể bị tử hình hoặc bị tù chung thân. Còn Liên chỉ là một cô bé người Hoa mới 15 tuổi, tìm đường vượt biên sang Trung Quốc đoàn tụ với gia đình, đúng theo sách lược xua đuổi người Hoa về nước của cộng sản Việt Nam, nếu chẳng may bị bắt, cộng sản Việt Nam cũng chỉ giam giữ Liên ít tháng rồi thả, trả về Trung Quốc. Vì vậy, tôi không thể để Liên bị liên luỵ. Tôi cảm ơn Liên đã có lòng tốt cho tôi quá giang, nhưng tôi khéo léo từ chối. Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau, sau khi trao cho nhau lời chúc bình an và niềm hy vọng tương lai sẽ gặp lại nhau ở Trung Quốc.
Dĩ nhiên, khi trao gửi niềm hy vọng đó, tôi đâu có thể ngờ được, không đầy mấy tháng sau, tôi gặp lại Liên ở Trung Quốc. Tôi càng không thể ngờ được, sau đó mấy chục năm, một ngày nọ, đang vô internet, bỗng nhiên tôi nhận được email của Liên, trong đó Liên cho biết, Liên đã có gia đình, hiện định cư ở Anh quốc và có một người chú có tiệm bán bánh mì ở Sydney…
Trở lại buổi chiều hôm đó, sau khi chia tay Liên, suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi đi lại ngược xuôi trong thị trấn Móng Cái, để tìm đường đến bên sông Ka Long, nhưng không được. Tất cả các ngả đường trong thị trấn dẫn đến bờ sông Ka Long đề bị canh gác nghiêm mật, hoặc bị rào bằng kẽm gai kiên cố với những bảng hiệu “Nguy hiểm! Có Mìn!”
Khoảng 10 giờ tối hôm đó, không thành công với kế hoạch vượt biên qua sông Ka Long, tôi bắt buộc phải tìm đường trốn ra khỏi thị trấn vì lệnh giới nghiêm sẽ có hiệu lực trên toàn thị trấn từ 12 giờ đêm.
Đi bộ ra khỏi thị trấn được khoảng 2 cây số, tôi tạt vào rừng, tìm lên một ngọn đồi rậm rạp trước là ngủ, sau là tính kế vượt biên. Rõ ràng cho đến lúc đó, số phận của tôi đã vô cùng may mắn. Tôi đã vượt qua không biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm, và bây giờ, chỉ còn cách biên giới Việt Hoa có không đầy 2 cây số đường chim bay. Tôi biết chắc, trong tình hình căng thẳng đầy xung đột giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Quốc, nếu tôi vượt biên sang được bên Trung Quốc, tôi sẽ được an toàn định cư, và nếu may mắn, tôi sẽ được đoàn tụ với gia đình ở Úc. Tôi cũng biết, tôi không phải là người Hoa, không biết nói tiếng Hoa, một khi vượt biên sang Trung Quốc, tôi sẽ bị Trung Quốc nghi ngờ tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam, sẽ bị tra vấn, giam giữ… Nhưng chắc chắn, với tất cả sự thật của cuộc đời tôi, cùng với sự giúp đỡ của thân nhân ở Úc, tôi sẽ thuyết phục được giới chức Trung Cộng tin tưởng tôi là một nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Trong niềm tin vững vàng đó, khuya hôm đó, tôi thiếp đi trong một giấc ngủ ngon lành….
KỲ 91
Buổi tối hôm đó, nằm trên ngọn đồi cao, tôi trằn trọc không ngủ được. Thao thức nghĩ hoài, tôi vẫn không tìm được cách nào có thể vượt biên an toàn sang Trung Quốc. Nếu vượt biên theo ngả đường rừng thì sợ mìn bẫy. Còn vượt biên qua ngả thị trấn thì các dẫy phố dọc theo sông Ka Long đều bị các đơn vị bộ đội, công an canh gác, phong tỏa. Ngoài ra, những chỗ này cũng có thể bị gài mìn rất nguy hiểm. Trong lúc bế tắc như vậy, đã có lúc tôi nghĩ đến chuyện đi ra phía Trà Cổ rồi bơi vòng ở ngoài biển để sang Trung Quốc. Tôi dám nghĩ đến con đường này vì tôi rất tự tin vào khả năng bơi lội của mình. Lớn lên bên dòng sông Châu, tôi mê bơi lội từ bé. Tôi đã từng được phong tặng là con ếch vàng khi bơi ếch và khi bơi dai sức, tôi có thể bơi 5, 7 cây số không biết mệt. Điều tôi lo ngại là cả chục năm qua tôi rất ít bơi, không biết sức bơi của mình bây giờ còn được bao nhiêu. Nhất là bây giờ thời tiết giá lạnh, bơi lâu dưới nước, tôi có thể bị cảm lạnh, chuột rút, chết đuối bất ngờ… Thêm vào đó, bơi ở biển ngang qua cửa sông là điều không dễ dàng, tôi có thể bị thuỷ lưu của dòng sông lôi đi xa cả chục cây số, và trong trường hợp nguy hiểm, tôi có thể bị chết đuối khi bị cuốn chìm vào những vùng nước xoáy…
Tôi cũng nghĩ đến giải pháp chờ đợi một thời gian nữa, khi Trung Quốc mở cửa cho phép người Hoa về nước, tôi sẽ trà trộn để vượt biên. Tôi biết, điều đó chưa dễ gì thành công, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, làm sao tôi có thể sống trong lúc chờ đợi với số tiền vỏn vẹn có 10 đồng bạc. Số tiền còn lại gần 100 đồng, tôi đã ghé bưu điện Móng Cái, gửi hết về cho Mẹ của tôi ở Hà Nội. Tôi làm vậy phần vì thương Mẹ già, phần để tăng quyết tâm vượt biên của tôi bằng mọi giá. Một khi trong túi hết tiền, không thể trở lại Hà Nội, tôi chỉ còn có một con đường là vượt biên sang Trung Quốc mà thôi. Tôi biết, nếu không vượt biên được ở Móng Cái, tôi sẽ không còn đủ can đảm trải qua những khó khăn đó một lần nữa để có thể vượt biên ở bất cứ đâu.
Gần sáng, tôi đang thiu thiu ngủ thì giật mình tỉnh giấc vì nghe những tiếng hô thật to, nhịp nhàng của hàng trăm người, “một, hai, ba bốn”… “một, hai, ba bốn”… Từ trên đồi cao nhìn xuống, tôi thấy dưới ánh sáng bình minh, những đoàn bộ đội, chỉ mặc có quần đùi và áo may ô, đang chạy ngược xuôi trên đường lộ 4B. Thì ra đó là các đơn vị bộ đội phải chạy thể dục vào mỗi buổi sáng sớm. Họ vừa chạy vừa hô vang dội cả khu vực. Có đơn vị chạy từ trong thị trấn Móng Cái ra ngoại ô, và cũng có những đơn vị chạy từ ngoại ô vô trong thị trấn. Ngoài ra, tôi cũng thấy có nhiều người chạy thể dục thành từng nhóm, bốn năm người có, hai ba người có, và một người cũng có….
Quan sát một hồi, tôi đoán, những người chạy lẻ tẻ này có thể là những người bị rơi rớt lại vì sức yếu, nhưng cũng có thể là những cá nhân, do hoàn cảnh khác nhau, chỉ có một vài người phải canh giữ một trạm gác, chiếm đóng một địa điểm, nên phải chạy thể dục riêng lẻ. Nhìn quần áo họ mặc, tôi thấy tuy có khác biệt về màu sắc, nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ quần đùi, áo may ô và dép râu… Nhìn thấy những người bộ đội trong bộ quần áo như vậy, tôi mừng rỡ phát hiện ra một chi tiết vô cùng quan trọng: Tất cả không một ai mang theo giấy tờ!
Rõ ràng, chạy thể dục buổi sáng, trên người chỉ có quần đùi, áo may ô, đâu có ai mang theo giấy tờ. Và như vậy, tôi tin chắc không có một trạm gác nào xét hỏi giấy tờ những người đang chạy thể dục buổi sáng. Nghĩ đến đó, tôi bỗng giật mình ngồi dậy vì nghĩ ngay ra một kế: Tại sao tôi không mặc quần đùi, áo may ô chạy thể dục như những người bộ đội? Rõ ràng, dép râu, quần đùi, áo may ô là những thứ tôi đang có. Tuy chúng không giống hẳn của bộ đội, nhưng cũng chẳng khác là bao, và xem ra chẳng có ai để ý đến sự khác biệt, vì tôi thấy có rất nhiều người đang chạy cũng mặc đủ loại quần đùi, áo may ô khác nhau. Vả lại, nếu cẩn thận, tôi có thể chờ đến tối nay, chui vô một nhà dân nào đó có bộ đội đóng quân, lấy trộm một bộ quần đùi áo may ô của bộ đội là điều không có khó. Sau đó, chờ đến sáng, trong bộ đồ quần đùi, áo may ô và dép râu, tôi cũng sẽ vừa miệng hô to “một, hai, ba bốn”, vừa chạy thẳng từ ngoại ô vào thị trấn Móng Cái. Một khi vào đến thị trấn, tôi sẽ chạy thẳng tới hướng cầu Ka Long, rồi tuỳ theo tình thế và địa hình, tôi sẽ tiến đến sát bờ sông Ka Long. Tôi hiểu, dọc theo bờ sông Ka Long lúc đó đều có các đơn vị bộ đội đóng chốt. Và ở đâu có bộ đội thì ở đó đều có bộ đội mặc quần đùi, áo may ô, đi dép râu chạy thể dục buổi sáng. Như vậy, tôi, trong bộ đồ quần đùi, dép râu, áo may ô, cũng sẽ dễ dàng chạy thể dục tới sát chỗ đóng quân của những đơn vị đó…
Nghĩ đến đó tôi mừng quá. Tôi không biết mình có thành công hay không, nhưng tôi tin chắc về đại thể, với kế đó, chắc chắn tôi sẽ dễ dàng đến sát bờ sông Ka Long. Vào buổi sáng tinh mơ, trong không khí chạy thể dục buổi sáng của hàng chục ngàn bộ đội trong ngoài thành phố, tất cả các trạm gác nếu có người gác, cũng sẽ uể oải, ngái ngủ, không một ai để ý hay nghi ngờ có sự hiện diện của tôi trong số hàng ngàn bộ đội chạy thể dục. Thiệt không ngờ, đối phó với cả một tình huống phức tạp nguy hiểm, đầy cạm bẫy với hàng trăm ngàn bộ đội đóng kín cả một thị trấn, tôi lại tìm ra một kế đơn giản và dễ dàng như vậy… Tôi chắc chắn sẽ thành công, sẽ vượt qua tất cả các trạm gác, các khu canh phòng cẩn mật, trên con đường thâm nhập vô thị trấn Móng Cái, để rồi tôi sẽ đến sát bờ sông Ka Long. Sau đó, trong khoảng cách còn lại vài chục thước tới bờ sông, trong một đêm, tôi sẽ có đủ thì giờ thận trọng mầy mò từng tấc đất để phát hiện và gỡ mìn, trước khi tôi phóng mình xuống sông Ka Long, bơi sang phía Trung Quốc….
Để bảo đảm cho cuộc chạy thể dục của tôi thành công, sáng hôm đó, tôi leo lên một ngọn đồi rậm rạp, ngay bên ngoài thị trấn Móng Cái, tính chờ tới mười hai giờ tối hôm đó, tôi chui vào nhà dân lấy trộm một bộ quần đùi áo lót bộ đội. Ngọn đồi này gần hơn ngọn đồi tôi ngủ đêm hôm trước, nên tôi thấy rõ quang cảnh của thành phố Đông Hưng hơn. Bên đó, dân chúng vẫn sống đời sống bình thường. Người dân vẫn
ra sông gánh nước, tắm rửa, giặt giũ quần áo. Trẻ em vẫn bơi lội vùng vẫy dưới sông. Trên bờ, dân chúng vẫn chợ búa bình thường… Thỉnh thoảng, tôi lại thấy từng đoàn người rất đông, cỡ vài ngàn người là ít, mang theo cờ xí, khẩu hiệu, đi ngược đi xuôi, dọc theo bờ sông. Lúc đó, tôi đoán họ là những đoàn biểu tình do Trung Cộng điều khiển để chống lại Việt Cộng. Nhưng sau này, khi sang được đến Trung Cộng tôi mới biết là mình đoán sai.
Trong khi đời sống bên Đông Hưng, Trung Cộng huyên náo, tấp nập như vậy thì trái lại, bên thị trấn Móng Cái đúng là một thành phố chết, hoàn toàn bỏ hoang, không có một chút sinh khí nào của đời sống dân sự. Cả thành phố chỉ thấy bộ đội và súng ống….
Tối hôm đó, sau khi lấy được bộ đồ quần đùi áo lót của bộ đội, tôi đi ngủ sớm… Tôi làm một giấc ngon lành cho đến gần sáng thì thức giấc. Lúc đó, vì còn quá sớm nên chưa thấy ai chạy thể dục, nhưng tôi đã sẵn sàng. Chiếc quần đùi, áo may ô của bộ đội, tôi đã mặc sẵn từ tối hôm qua. Miếng giấy mỏng dính, cuộn tròn bằng đầu đũa, ngoài bọc nylong, đã được tôi giấu kín luồn sâu trong gấu quần đùi. Trong tờ giấy này tôi ghi tất cả những địa chỉ quan trọng của người thân và bạn bè ở Việt Nam cũng như hải ngoại. Để bảo đảm bí mật, tôi đã viết tất cả những địa chỉ này theo lối mã hóa của riêng tôi. Khác với lối mã hóa bình thường, nhìn vô là biết mã hóa, như vậy sẽ nguy hiểm, nếu chẳng may lọt vào tay bộ đội công an, chúng sẽ tra khảo, truy bức tôi; lối mã hóa của tôi rất đơn giản, dù có bị phát hiện cũng chỉ thấy đó là những dòng địa chỉ bình thường, mà không hề biết, chúng đã được đánh tráo một cách khéo léo. Sợ thất lạc, cũng như đề phòng khi bị bắt, bị lục soát, tôi đã giấu những địa chỉ này ở ba nơi trên người tôi. Bây giờ, chuẩn bị cho chuyến đi cuối cùng, rời khỏi quê hương Việt Nam, tôi chỉ giữ lại có một miếng giấu trong quần đùi và một miếng giấu trong dép râu.
Thức chờ được khoảng mười lăm phút, tôi nghe thấy những tiếng hô “một, hai, ba bốn” vọng lại từ xa. Không đầy 5 phút sau, những tiếng hô như vậy nổi lên ở nhiều nơi… Nhìn xuống quốc lộ 4 B, tôi thấy xa xa có một đoàn bộ đội đang chạy vô thị trấn… Yên tâm, tôi trút bỏ bộ quần áo dài, chạy khởi động khoảng 5 phút cho máu huyết lưu thông, cơ thể nóng bừng, rồi từ trên đồi, tôi chạy xuống đường quốc lộ. Tới gần đường quốc lộ, tôi ẩn mình vào trong bụi rậm bên đường, chờ đoàn bộ đội chạy qua khoảng 30 giây, tôi mới chạy ra đường lộ….
Ra tới đường lộ, nhìn về phía tay phải, tôi yên tâm, chỉ có một toán bộ đội đang chạy tới, nhưng còn xa tới mấy trăm thước. Trời lúc đó sương mù lãng đãng và khí lạnh tràn ngập nên không một ai nhìn thấy tôi… Hít một hơi thở thật sâu, tôi chạy theo toán bộ độ phía trước, nhưng giữ một khoảng cách vài chục thước… Chạy được một lúc, có thêm một toán bộ đội khác từ trong hẻm nhập cuộc… Toán này có vẻ sung sức, nên qua mặt tôi vù vù. Họ vừa chạy vừa hô “một, hai, ba bốn”, “một, hai, ba bốn”… Tôi cũng hô to như họ. Hầu hết khi chạy qua đều có vẻ mặt thản nhiên, chẳng một ai để ý đến tôi… Chỉ có một người chạy cuối cùng, nhìn tôi một thoáng rồi mỉm cười… Tôi cũng mỉm cười “đáp lễ”…
Chạy được một đoạn, qua mấy trạm gác, tôi thấy có trạm gác trống trơn, có trạm chỉ có một người gác. Nhưng quả nhiên như tôi đoán, chẳng có người lính gác nào bận tâm chuyện xét hỏi giấy tờ… Tôi thản nhiên chạy qua trạm gác, miệng hô to, “một, hai, ba bốn” giống hệt như một tên bộ đội, mà trong lòng vừa mừng vừa buồn cười…
Chạy được khoảng mười lăm phút, tôi thấy trên đường có quá nhiều người chạy thể dục. Bên cạnh số đông là bộ đội, công an biên phòng, nam nữ thanh niên xung phong,… còn có cả những người dân mặc nguyên quần dài, áo bông, cùng chạy. Ngoài ra, cũng có nhiều người, chẳng hiểu có phải là bộ đội hay không, chạy lẻ tẻ một mình như tôi, nên tôi rất an tâm…
Nhờ đã nghiên cứu kỹ bản đồ và quan sát kỹ từ trên đồi cao, nên tôi đã biết được cầu sông Ka Long nằm về hướng nào. Vì vậy, chạy theo toán bộ đội đến khi vô thị trấn, tôi rẽ trái vô ngay một con lộ lớn. Dọc theo con lộ này cũng có hai toán bộ đội chạy ngược chiều nhau, mỗi toán khoảng 20 người. Tôi nhanh chóng chạy theo toán đang chạy về hướng tây bắc… Đây là hướng đi về phía cầu Ka Long.
Chạy được khoảng một cây số, qua cả chục trạm gác an toàn, không một ai chặn hỏi, tôi mừng quá. Tôi thầm ước lượng, bây giờ tôi chỉ còn cách sông Ka Long khoảng hai trăm thước là cùng. Tôi định hướng rất nhanh và đoán con đường này vì chạy dọc theo bờ sông Ka Long, nên tôi không thể chạy hoài theo toán bộ đội phía trước được. Khổ nỗi, vì nhà cửa dọc theo con lộ san sát, nên tôi không biết là mình đã chạy qua cầu sông Ka Long chưa. Đang lo nghĩ như vậy thì may quá, tôi thấy ở bên phải có một khu đất trống khá rộng, không có nhà cửa, cây cối gì. Nhờ vậy, tôi có thể phóng tầm mắt quan sát và tôi nhìn thấy ngay cầu sông Ka Long nằm phía trước, cách chỗ tôi đang chạy khoảng năm, bảy trăm thước. Ở phía đầu cầu bên này có một trạm gác rất lớn. Phía bên ngoài, tôi nhìn thấy có mấy ánh đèn pha chiếu rọi ngang dọc về phía bờ sông… mặc dù lúc đó trời đã sáng. Từ đây, tôi cũng nhìn thấy cả mấy ngọn đồi ở bờ bên này sông, và con đường nho nhỏ ở phía bên kia bờ sông Ka Long. Như vậy, tôi chỉ cách bờ sông có vài trăm mét… Thấy địa hình địa vật như vậy tôi quyết định tôi phải tìm đường rẽ về phía sông Ka Long ngay bây giờ, vì nếu để đến gần cầu sông Ka Long mới rẽ, tôi sẽ bị lọt vô tầm quan sát của đám bộ đội công an biên phòng ở đầu cầu. Khác với các trạm gác ở trong thị trấn Móng Cái dửng dưng với cảnh bộ đội chạy thể dục buổi sáng, trạm gác ở cầu Ka Long có trách nhiệm đối phó với Trung Cộng từng giây từng phút nên họ rất cảnh giác. Vì vậy, từ trên cao, nếu họ phát hiện thấy tôi, trong bộ đồ chạy thể dục, một mình chạy về phía chân cầu Ka Long, chắc chắn họ sẽ nghi ngờ, theo dõi…
Quyết định như vậy nên đang chạy phía bên trái, tôi vội băng qua đường, sang phía bên phải. Trong khi chạy băng qua đường, tôi liếc nhanh về phía sau quan sát…. và yên tâm khi chỉ thấy có một toán bộ đội chạy cách xa vài trăm thước.
Chạy được không đầy 100 thước, tôi thấy con hẻm nhỏ phía tay phải. Lập tức tôi rẽ phải. Lúc này chân của tôi thì vẫn chạy bình thường như một người chạy thể dục, nhưng miệng thì không còn hô, và mắt thì láo liêng, vì trong con hẻm này vắng lặng, nhà cửa bỏ hoang siêu vẹo, không có bóng người nào ngoài tôi…
KỲ 92
Chạy được khoảng 100 thước, tôi vô cùng lo sợ và hoảng hốt. Nhìn xuốt chặng đường dài đến cuối tầm mắt, tôi không thấy một bóng người. Khung cảnh hai bên đường hoang vu, trống trải. Tình huống lúc đó cho tôi thấy, đây không phải là khu vực có bộ đội chạy thể dục vào mỗi buổi sáng. Nghĩ vậy, tuy không biết con đường sẽ đi về đâu, nhưng tôi biết nếu cứ tiếp tục chạy theo con đường này trong mươi phút nữa, tôi sẽ lọt vô khu vực kiểm soát của đồn biên phòng trên cầu Ka Long. Đúng ra, từ chỗ tôi đang chạy, tôi đã nhìn thấy cả đồng biên phòng lẫn cầu Ka Long cách khoảng bốn, năm trăm thước. Trong khoảng cách đó, nếu một tên bộ đội biên phòng trên đồn chiếu ống nhòm về phía tôi, hắn sẽ dễ dàng phát hiện ra tôi. Và nếu quả thực đoạn đường này từ xưa đến nay không có một tên bộ đội nào chạy thể dục vào buổi sáng, cũng như dọc theo con đường này không có một đơn vị bộ đội nào đóng, chắc chắn chúng sẽ nghi ngờ tôi…
Trong tâm trạng hoảng hốt như vậy, nên ngay khi thấy con hẻm nhỏ phía tay phải, tôi chẳng kịp suy nghĩ, liền vội vàng rẽ ngay vô. Con hẻm này nhỏ hơn, chiều ngang chỉ khoảng 4 thước, cỏ hoang mọc đầy trên đường, cao tới gần đầu gối, chứng tỏ cả mấy tháng trời không có người qua lại. Chạy được vài chục bước đến chỗ quẹo phải. Tôi vừa quẹo vô thì đột nhiên giật mình khi thấy hiện ra trước mắt một tấm biển bằng ván đen, trên có vỏn vẻn bốn chữ viết nguệch ngoạc bằng vôi trắng: “Cấm vào! Có Mìn!”…
Tôi rụng rời tay chân, đứng khựng lại, trong lòng phân vân không biết nên đi tiếp hay quay trở lại. Đi tiếp, tôi phải chấp nhận nguy cơ đụng phải mìn, chết tan xác. Quay trở lại, tôi sẽ bị bắt. Và cho dù chưa bị bắt, thì tương lai tôi cũng không thể nào có được cơ hội tiến sát đến bờ sông Ka Long như lần này… Nhìn theo con hẻm, tôi thấy con hẻm ngoằn ngoèo khoảng hơn trăm thước, dẫn đến ngọn đồi nhỏ, trên là một căn nhà lợp ngói thiệt lớn, nhưng đầy vẻ hoang phế, tiêu điều. Tôi đoán, đó là một nhà kho chứa hàng hay trại chế biến thức ăn cho gia súc… Sau một thoáng suy nghĩ, tôi đánh liều đi tiếp. Dấu hiệu “Cấm vào! Có Mìn!” tuy làm cho tôi lo sợ đụng phải mìn, nhưng nó cũng giúp tôi an tâm, trong khu vực này chắc chắn không có bộ đội, công an, du kích…. Tôi chỉ cần thật cẩn thận, tránh đụng phải mìn là được.
Bước qua mấy khúc tre, gỗ, dựng sơ sài làm chỗ treo tấm biển “Cấm vào! Có Mìn!” tôi thận trọng bước từng bước. Được vài bước, tôi nhìn thấy ngay những cụm cỏ héo khô rải rác hai bên hẻm. Cúi xuống quan sát, tôi thấy ngay dấu hiệu mìn cá nhân được chôn bên dưới. Thì ra, những trái mìn đã được gài một cách vội vàng nên chỗ nào có mìn, chỗ đó cây cỏ bị héo úa, trông khác hẳn những vùng không có mìn, cây cỏ tươi tốt. Nhận ra được điều đó, tôi mừng rỡ, nên đi nhanh hơn, mặc dù tôi vẫn rất thận trọng chọn chỗ đặt từng bước chân của mình. Cũng may mắn cho tôi, ở khu vực này, ngọn đồi đã che khuất đồn biên phòng trên cầu Ka Long, nên tôi không phải lo ngại bị những ánh mắt cú vọ từ đó phát hiện.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, tôi chui được vô căn nhà trên đỉnh đồi. Thì ra đó là không phải là nhà kho hay trại chế biến gia súc như tôi đoán mà là nhà máy làm chén đã bỏ hoang. Nhà hình tròn, chu vi khoảng ba, bốn chục thước. Phía dưới là khu vực chất than đá đã cháy hết, phía trên là hàng chục ngàn chén, đĩa các loại được xếp thành từng dẫy ngang dọc, trong khi ở trên sàn, chén đĩa, cái lành cái vỡ, nằm ngổn ngang. Tất cả đều bị cháy đen thành sành và cả nhà máy đều lạnh lẽo, hoang tàn, đổ nát, im lìm không một tiếng động. Tôi đoán, nhà máy đã được lệnh “sơ tán” gấp rút, chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lăng của Trung Cộng, nên công nhân đã không kịp “thu hoạnh” sản phẩm. Kết quả lửa than vẫn cháy cho đến khi tàn, khiến chén đĩa cháy đen thành than…
Vô được bên trong nhà máy chén an toàn tôi mừng quá. Đi quanh một vòng, quan sát qua các khe giữa các bức tường gạch, tôi vô cùng mừng rỡ khi thấy về hướng bắc, là dòng sông Ka Long chảy cách nhà máy chén không đầy 200 thước. Phía bên tay trái (tức là phía tây) của nhà máy chén, cách khoảng 200 thước là đồn biên phòng trên cầu sông Ka Long. Từ nhà máy chén, tôi cũng nhìn thấy rõ cầu sông Ka Long, ở giữa cầu có dựng một hàng rào. Hai bên cầu đều có lính bồng súng đi lại. Bên VN tôi thấy có ba, bốn người lính. Còn Trung Quốc, tôi chỉ thấy có một người lính. Riêng phía bên tay phải (tức là phía đông) của nhà máy chén, tôi thấy có mấy đơn vị bộ đội phòng không đóng liền liền như bát úp, cách nhà máy chén khoảng hơn 100 thước.
Sau khi tìm hiểu thật kỹ địa hình địa vật, tôi thấy rất khó có thể vượt qua sông Ka Long giữa ban ngày. Chỉ cần tôi xuất hiện tiến về bờ sông Ka Long, tôi sẽ bị lọt vô tầm kiểm soát của đồn biên phòng cầu Ka Long nếu tôi chọn hướng bên trái; hoặc tôi sẽ đụng phải các đơn vị bộ đội phòng không nếu tôi chọn hướng bên phải. Còn nếu chọn vượt qua sông Ka Long vào lúc tối, tôi sẽ gặp nguy hiểm bị bên Trung Cộng bắn chết trước khi tới được bờ bên kia. Tôi hiểu, khi hai quốc gia trong tình trạng thù nghịch, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, việc tôi bơi qua sông vào ban ngày sẽ bớt nguy hiểm rất nhiều. Còn bơi qua sông lúc đêm tối sẽ rất nguy hiểm. Cho dù tôi có trốn thoát được phía cộng sản Việt Nam, tôi cũng sẽ dễ dàng bị bên Trung Cộng bắn chết vì họ nghi ngờ tôi là gián điệp, đặc công của VC xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc.
Suy nghĩ mãi cuối cùng tôi thấy chỉ có hai cách. Một, đợi đến lúc hoàng hôn, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, tôi sẽ liều mạng bơi qua sông Ka Long. Khi đó, trời chưa tối hẳn, dân chúng Trung Cộng vẫn còn tắm rửa giặt giũ bên bờ sông Ka Long rất đông, nên khi tôi bơi qua sông tôi sẽ dễ dàng bị mọi người phát hiện. Nhờ vậy, hành động bơi qua sông của tôi không bị binh lính và công an Trung Cộng coi là hành động lén lút để có thể bị họ “xử lý” bắn chết tại chỗ.
Cách thứ hai, tôi chịu khó chờ thật khuya, bơi qua sông Ka Long, để cho nước trôi xuống hạ nguồn, rồi tìm chỗ ẩn nấp an toàn, đợi đến sáng hôm sau, giữa ban ngày, ra nộp mạng cho nhà cầm quyền Trung Cộng. Cách này có vẻ an toàn hơn, nhưng nghĩ kỹ, tôi thấy có mấy nguy cơ. Thứ nhất, sau khi bơi qua sông, tôi không thể đủ sức chịu đựng suốt một đêm trong lạnh lẽo để chờ trời sáng. Nhất là từ sáng đến giờ, tôi không có một chút gì trong bụng. Khi chạy được vô nhà máy chén, tôi cũng sơ ý và cũng không thể mang theo được bất cứ thứ gì có thể ăn được. Kiểu này cho đến khi bơi qua sông Ka Long và chờ đợi đến sáng mai, tôi vẫn phải nhịn đói. Như vậy là điều rất nguy hiểm cho tôi. Nguy cơ thứ hai, dù cho tôi có bơi qua sông Ka Long an toàn, khi tôi ẩn nấp ở bên kia bờ sông trong đêm tối để chờ trời sáng, tôi vẫn có thể bị bộ đội biên phòng, công an của Trung Cộng phát giác, bắn chết bất cứ lúc nào.
Cân nhắc hồi lâu, tôi thấy cách hay nhất là chờ trời chập choạng tối, tôi sẽ bò từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long và bơi qua sông khi bờ sông bên Trung Cộng, dân chúng vẫn còn nhộn nhịp sinh hoạt. Tôi tin chắc, bơi qua sông khi đó, mọi người sẽ dễ dàng phát hiện ra tôi và như vậy tôi chỉ có thể bị bên Trung Cộng bắt sống. Đoạn đường nguy hiểm nhất là đoạn đường từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long, làm sao tôi có thể qua mắt được bộ đội biên phòng và công an VC. Nếu VC phát hiện ra tôi đang đào tẩu về phía Trung Cộng, trong khu vực đã gài mìn, chắc chắn VC sẽ bắn chết tôi ngay.
Lúc đó tôi cũng đã nghĩ đến cách liều mạng chạy thẳng từ nhà máy chén đến sông Ka Long. Với khoảng cách 200 thước, tôi chạy thật nhanh chỉ mất khoảng 3 phút. Trong thời gian 3 phút ngắn ngủi đó, dù cho bộ đội biên phòng hay công an VC có phát hiện, chắc gì chúng đã kịp đối phó? Nhưng điều tôi lo ngại là những trái mìn cá nhân được gài rải rác suốt cả một khu vực mênh mông từ đây tới bờ sông. Nếu tôi đi hoặc bò thật chậm rãi trong lúc ánh nắng chưa tắt hẳn, tôi có thể phát hiện ra được những bụi cỏ héo để tránh né. Còn nếu phải chạy thật nhanh, làm sao tôi có thể tránh thoát được những trái mìn cá nhân? Đáng lo hơn nữa là đoạn đường từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long không hề có đường mà chỉ là một bãi cát mênh mông, với những bụi cây dại mọc lác đác. Tôi không biết, dưới bãi cát đó, VC có gài mìn cá nhân hay không? Nếu có, tôi rất khó phát hiện ra chúng. Càng nghĩ, tôi càng điên cả người. Bây giờ tôi giống như một cá bị mắc cạn. Chạy đường nào tôi cũng 9 phần chết một phần sống. Mà nếu không đủ can đảm chạy thì tôi cũng đành chịu chết đói trong nhà máy chén!
Tôi không có đồng hồ, nhưng đoán chừng khi vô được nhà máy chén khoảng 8 giờ sáng. Từ đó cho đến chiều, tôi không có một thứ gì ăn, uống. Sau mấy tiếng đồng hồ chịu đói chịu khát, tôi phải đi tiểu vào một cái chén để uống chút chút cho đỡ khát. Nhìn ra phía ngoài, tôi thấy ngay cạnh sườn đồi về phía cầu sông Ka Long cách nhà máy chén khoảng 10 thước, có mấy dây khoai lang bò ngổn ngang trên mặt đất. Tôi không biết những dây khoai lang đó đã có củ hay chưa, nhưng dù cho không có củ, nếu tôi lấy được một nắm lá khoai lang ăn sống cũng đỡ mệt rất nhiều. Tôi muốn bò ra ngoài hái ít rau khoai lang, hay tìm kiếm thêm ít trái cây để ăn cầm lòng, nhưng dưới ánh sáng mặt trời, tôi thấy rất rõ những người lính đóng trên đồn biên phòng ở cầu sông Ka Long đang đi lại. Ngoài ra, tôi cũng thấy cả những đơn vị bộ đội đóng chung quanh nhà máy chén, tiếng hò hét, la ó, cười đùa vang lên rõ mồn một. Ngay cả con hẻm có tấm bảng đen “Cấm vào! Có Mìn!” bây giờ cũng có một đơn vị bộ đội đi tuần tiễu. Như vậy là tôi đã bị bộ đội, công an, và mình bẫy bao vây tứ bề. May mắn, tôi đã chui vào ở trong một nhà máy chén nằm giữa khu vực có gài mìn, nên được tạm thời an toàn.
Đến xế trưa, mệt quá, tôi nằm ngủ thiếp đi một lúc. Không biết ngủ được bao lâu, khi giật mình tỉnh giấc, ngó ra ngoài, tôi thấy trời đã hoàng hôn. Tôi ngồi dậy tập thở khoảng 15 phút cho đầu óc tỉnh táo, khí lực hồi phục. Sau đó tôi cố gắng tập trung mọi suy nghĩ của mình sao cho thật lạc quan để có ý chí, có quyết tâm vượt biên bằng mọi giá…
Tôi hiểu, cho đến lúc này tôi đã trải qua không biết bao nhiêu gian truân khổ ải, nhưng cũng gặp không biết bao nhiêu may mắn. Trong suốt cuộc đời, tôi đã được hưởng bao nhiêu ơn nghĩa, ân huệ của những người đã rộng lòng đùm bọc, yêu thương tôi với cả tấm lòng. Từ những người thân yêu ruột thịt đã có công sinh thành ra tôi, đến bè bạn, hàng xóm láng giềng ở những vùng đất nghèo khổ của Miền Bắc; từ những người thân ruột thịt ở Miền Nam đến những ông bà, chú bác, cô dì, bằng hữu đã chăm lo cho tôi từ khi tôi đặt chân đến Miền Nam… Rồi trên đường vượt ngục, đào tẩu, vượt biên, tôi đã được bao nhiêu người giúp đỡ, đùm bọc, bất chấp hiểm nguy, liên luỵ, có thể tan cửa nát nhà. Trong số những người đó, có những người tôi biết tên, biết địa chỉ, để sau này tôi có thể đền đáp phần nào ơn nghĩa, một trong muôn một. Nhưng cũng có không biết bao nhiêu người, trong hoàn cảnh éo le, bất ngờ, đã giúp đỡ tôi, đã có ơn cứu tử đối với tôi, nhưng tôi vĩnh viễn không biết họ là ai, ở đâu…. Tất cả những may mắn đó, tất cả những ân tình đó,… chỉ có ý nghĩa nếu tôi chấp nhận can đảm đi tiếp con đường tôi định đi: Tìm Tự Do!
Gần mười năm trước, nhờ được gia đình giáo dục và nhờ những cuốn sách cấm, tôi đã vượt thoát khỏi thân phận của một người bộ đội phải cầm súng xâm lăng Miền Nam, để lên đường tìm tự do, và tôi đã may mắn được tự do. Dù chỉ được sống vỏn vẻn có mấy năm trời ở Miền Nam, nhưng cuộc sống tự do và những tấm lòng nhân nghĩa, đôn hậu đầy tình người trên lãnh thổ Miền Nam đã giúp tôi hiểu được giá trị của tự do đối với tương lai thịnh vượng của một đất nước, một dân tộc, cũng như đối với tương lai của mỗi gia đình, mỗi con người. Sau 30-4-1975, cùng với tang thương của đất nước, của dân tộc khi Miền Nam tự do bị mất vào tay cộng sản, tôi lại có dịp hiểu rõ hơn bản chất dã man, phi nghĩa của chủ nghĩa cộng sản. Tôi tin tưởng mãnh liệt, không sớm thì muộn, chủ nghĩa cộng sản cũng sẽ bị sụp đổ trên quê hương Việt Nam. Đó là quy luật của lịch sử và cũng là chân lý của tự nhiên.
Tôi cũng hiểu rằng, đời người chỉ sống có một lần. Tôi không thể sống lại lần thứ hai và cũng không thể nào đi lại quãng đời mà tôi đã đi qua. Điều quan trọng là nếu tôi đã chẳng thể thay đổi được hoàn cảnh khi tôi phải sinh ra và lớn lên trong một chế độ cộng sản, thì tôi đã may mắn thoát khỏi hoàn cảnh đó, chế độ đó. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi đã bị chế độ CS bắt cầm súng xâm lăng Miền Nam, để tàn sát dân tộc tôi, trong đó có những người chị, người cháu ruột thịt của tôi, thì may mắn hơn hàng triệu thanh niên Miền Bắc, tôi đã can đảm trốn thoát. Và cho đến giờ phút này, tôi tự hào và thấy lòng mình thật thanh thản vì hai bàn tay của tôi chưa hề dính một giọt máu của người Việt Nam….
Trong suốt thời gian ngót 10 năm qua, tôi đã tìm tự do, đã được tự do, rồi lại mất tự do! Hôm nay, trước thảm họa cộng sản bao trùm trên quê hương, cùng với hàng triệu người Việt Nam trên khắp mọi miền của đất nước, tôi lại tiếp tục con đường vượt biên Tìm Tự Do! Ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của tôi. Nhưng tôi chấp nhận, thà được chết trên đường tìm tự do, để thấy cuộc sống của tôi còn hạnh phúc và có ý nghĩa, hơn là tôi phải sống mất tự do trong ngục tù CS. Nghĩ đến đó, tôi thấy lòng mình thật thanh thản, tâm trí thật sáng suốt. Tôi đứng dậy vươn vai, hít thở vài lần thật sâu, nhịn thở thật lâu, cho dưỡng khí thấm sâu vào từng đường gân thớ thịt, huyết mạch trên cơ thể…. Sau đó, tôi uống chút nước tiểu rồi cởi chiếc áo may ô, lấy nước tiểu xoa bóp thật kỹ các bắp thịt, trước khi tập chạy khởi động tại chỗ khoảng 20 phút cho cơ thể nóng bừng, máu huyết lưu thông. Làm như vậy để khi lao vào dòng sông Ka Long lạnh cóng của mùa đông, tôi không bị chuột rút, hay bị cảm lạnh…
Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, ngó ra bên ngoài, thấy mặt trời đã khuất bóng, ánh nắng hoàng hôn đã gần tắt… Nhìn mấy sợi dây lang ngoằn ngoèo cách chân tường khoảng chục thước, tự dưng tôi thấy thèm thuồng quá… Bỗng chẳng hiểu sao, tôi vội lách người qua khe hở giữa hai bức tường gạch, bước vội mấy bước xuống triền đồi… Trong thâm tâm lúc đó, tôi chỉ có ý định giật vội lấy mấy ngọn khoai lang rồi chạy trở lại ngay nhà máy chén… Chẳng may, phần vì sườn đồi hơi giốc, đất cát lại lún, tôi thì vừa đói vừa hoảng hốt, không kịp giữ thăng bằng, nên bị trượt chân, té lộn hai ba vòng liền…
Kinh hoàng, tôi vội lồm cồm bò dậy, chưa kịp đứng vững thì bỗng nghe có tiếng hét từ xa vọng lại: Ai??? Đứng lại!!!
Chớp nhoáng, tôi nhận ra ngay tiếng hét từ phía đồn biên phòng trên cầu Ka Long. Trong ánh hoàng hôn, tôi vẫn còn nhìn rõ lố nhố mấy tên bộ đội biên phòng đang cầm súng chỉ chỏ về phía tôi. Khoảng cách trên dưới 200 mét thật ngắn ngủi và lý tưởng cho những tràng đạn AK-47. Chạy trở lại nhà máy chén bây giờ là điều vô cùng nguy hiểm. Chúng sẽ bao vây, bắt sống hoặc bắn chết tôi dễ dàng. Còn chậy thẳng xuống sông Ka Long, tôi cũng bị chúng đốn ngã bằng những tràng AK ác nghiệt, hoặc chết banh xác vì mìn… Còn đứng lại theo lệnh của chúng, tôi sẽ bị chúng bắt!
Trong vài tích tắc phân vân, bỗng có tiếng loa phát thanh vang lên thật lớn:
- Đồng chí… đơn vị nào???
Nghe chúng hỏi vậy tôi hy vọng mình còn có thể đánh lừa được chúng. Tôi há miệng hét lớn tên một đơn vị mà tôi đã coi được trên bì thư của một tên bộ đội ở bưu điện Móng Cái. Khổ nỗi dù tôi hét lớn, nhưng tiếng nói của tôi khè khè như người hết hơi. Thì ra, từ sáng đến giờ tôi không ăn, không uống, nên cổ tôi bị khô và tôi không còn sức để hét… Vả lại, cho dù tôi có hét to đi nữa, đã chắc gì những tên bộ đội trên đồn biên phòng nghe thấy, và dù có nghe đã chắc gì chúng tin…
Tiếng loa lại vang lên, và lần này thì thật khủng khiếp: Đồng chí… đứng im, dơ tay lên!
KỲ 93
Nghe tiếng thét, tôi giật mình hoảng hốt vô cùng. Nếu tôi chấp nhận đứng im, dơ tay, tôi sẽ bị tụi VC bắt sống và cầm chắc cái chết. Còn nếu tôi liều mạng bỏ chạy, tôi sẽ bị chúng bắn, nhưng tôi vẫn còn hy vọng thoát chết. Điều tôi lo ngại là trong tình huống như thế này, nếu bỏ chạy tôi sẽ phải chạy bán sống bán chết, làm sao tôi có thể tránh được mìn bẫy? Nhưng bây giờ tôi không còn cách nào chọn lựa ngoài cách bỏ chạy. Thôi thì chỉ biết cầu nguyện Đấng Tối Cao cùng vong linh thầy tôi và vong linh chị Phúc, người chị ruột sinh trước tôi khoảng 2 năm, mất khi tôi mới lên 2 tuổi, mà suốt cuộc đời tôi luôn luôn tin tưởng chị rất linh thiêng phù hộ cho tôi…. Nghĩ vậy, tôi đột nhiên xoay người chạy thục mạng xuống triền đồi, thẳng về phía sông Ka Long…
Vừa chạy được vài bước thì tôi bị vấp, té lộn nhiều vòng dọc theo triền đồi. Nhưng tôi chẳng hề thấy đau đớn, vội đứng dậy chạy tiếp… Ngay khi đó từ loa phóng thanh vang lên tiếng hét gay gắt: “Đứng lại! Đứng lại!” Kèm theo là một tràng đạn súng AK nổ vang. Tôi biết đó là tràng đạn bắn chỉ thiên. Tôi vẫn chạy. Khoảng cách từ chỗ tôi đứng lúc đó đến bờ sông Ka Long không đầy 200 thước. Người chạy nhanh nhất thế giới chạy mất khoảng 22 giây. Tôi không biết chạy nhanh như thế nào, nhưng vì từ trên đồi chạy xuống, nên tôi chạy nhanh lắm… Ngay khi đó, tràng đạn thứ hai lại nổ vang, và lần này tôi nghe thấy tiếng đạn xé gió ngay bên cạnh. Nhưng tôi bất chấp, tôi liều mạng, và tôi cũng chẳng còn thì giờ để ẩn nấp, né tránh hay chạy theo hình chữ chi để tránh đạn như sách vở đã dậy… Tiếp theo, mấy tràng đạn nữa nổ vang, nhưng thật may mắn và cũng thật kỳ lạ, không một viên đạn nào bắn trúng tôi…
Chạy được khoảng vài chục thước, bỗng dưng tôi giật mình khi thấy trước mặt có mấy cụm chông thép ló lên khỏi mặt đất, mỗi cụm khoảng 2, 3 mũi chông, cụm nọ cách cụm kia khoảng nửa thước… Tôi sợ quá, vội đứng ngay lại nhìn xuống chung quanh chỗ mình đứng thì thấy thật may mắn, cả hai bàn chân của tôi đều cách những cụm chông thép có hơn một gang tay… Tôi vội ngoái nhìn lại phía sau… và những gì nhìn thấy khiến tôi rùng mình sợ hãi thật sự. Dưới ánh nắng chiều sắp tắt, cả một bãi chông thép mênh mông trải dài suốt cả bãi cát… Những mũi chông thép phản chiếu ánh mặt trời, lấp lánh ánh sáng, trông thật là ghê rợn. Thì ra, dưới làn đạn truy đuổi, tôi đã chạy thục mạng, chạy bán sống bán chết, chạy vào giữa một bãi chông thép mà không hề dẵm phải một mũi chông nào!!! Nhìn những mũi chông đó tôi biết, đế của chúng làm bằng xi măng, có đường kính khoảng 20 phân, trên cắm ba mũi chông thép có cựa, dài ngắn khác nhau. Tôi chỉ cần dẵm phải một mũi là đủ bị ghim cứng tại chỗ, chờ cho cộng sản đến bắt sống… Nhìn bãi chông trải ra mênh mông đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải, tôi đứng chết lặng cả người vì sợ hãi, hú hồn vì thoát chết, và cũng vô cùng mừng rỡ vì may mắn… Ngay giây phút đó, vượt lên trên tất cả mọi chuyện, tôi chợt thức ngộ được một điều vô cùng thiêng liêng: Phép lạ của Đức Tin!!! Phép lạ của sự Nguyện Cầu!!!… Quý bạn đọc thử nghĩ coi, lúc đó làm sao tôi không tin có Phép lạ được khi tôi cắm đầu cắm cổ chạy vào giữa một bãi chông mà không hề dẵm phải một mũi chông nào???
Tôi cũng ngạc nhiên, khi thấy lúc này tiếng súng, tiếng loa phóng thanh không hiểu sao bỗng cùng im bặt. Nhìn về phía đồn biên phòng trên cầu sông Ka Long, tôi chợt hiểu. Thì ra, tôi đã chạy khuất vào một chân đồi, nên lính canh gác trên đồn biên phòng không còn nhìn thấy tôi. Điều may mắn nữa, vì khu vực tôi chạy vô đã được gài đầy chông và mìn, nên bộ đội biên phòng và công an VC chẳng thể truy đuổi tôi. Trái lại, họ chỉ có thể bắn chết tôi hoặc chờ đợi tôi bị giết bằng chông mìn. Thì ra tôi đã chạy vô chỗ chết để được may mắn tìm ra đường sống. Tuy nhiên, tôi phải nhanh chóng chạy xuống dòng sông Ka Long, phải bơi nhanh sang bờ bên kia… Lúc đó tôi chỉ còn cách bờ sông có vài chục thước. Tôi vội cẩn thận quan sát và rón rén đặt chân xuống những chỗ không có chông. Tới sát bờ sông, sợ đụng phải mìn gài ở ven bờ, tôi vội bám vào một cây tre, đu người ra tới gần ngọn, rồi thả người xuống dòng sông và bơi vội sang bờ bên kia…
Sông Ka Long không rộng. Bề ngang chỉ khoảng 200 thước, nước trong xanh và không chảy xiết. Tuy đầu mùa đông nhưng nước lại ấm. Trái với sự lo sợ của tôi, không hiểu vì sao bộ đội biên phòng trên cầu sông Ka Long không bắn đuổi theo tôi khi tôi bơi qua sông? Có thể VC sợ không muốn có những hành động để Trung Cộng hiểu lầm là gây hấn chăng? Tuy vậy, tôi vẫn cắm đầu cắm đầu cắm cổ bơi. Không đầy 5 phút sau, tôi sang được bờ sông Ka Long phía Trung Quốc.
Khi ấy mặt trời đã gần lặn, nắng đã gần tắt, nên vẫn còn nhìn rõ mặt người. Dọc theo bờ sông vẫn còn rất đông người tắm giặt, gánh nước, trẻ em nô đùa, và trên bờ người qua lại vẫn tấp nập. Bỗng dưng khi thấy tôi bơi từ bên bờ Việt Nam bơi sang, nhiều người ngạc nhiên, chỉ trỏ. Khi tôi từ dưới nước đi lên, họ la hét bằng tiếng Hoa nhưng tôi không hiểu họ nói gì. Trong chốc lát, một đám đông bu quanh tôi, tiếng la hét, cười đùa trêu chọc ầm ĩ…
Giữa lúc tôi đang run rẩy, không biết nói gì, làm gì, đi về đâu… thì bỗng có tiếng hét lanh lảnh, rồi đám đông bỗng rẽ ra hai bên. Bước vô là một nữ dân quân, mặc quần áo dân sự nhưng đeo súng AK, cánh tay có đeo băng đỏ, gương mặt tròn trĩnh, trẻ măng, hai má phúng phính nhưng nghiêm nghị. Cô chĩa khẩu súng AK vào người tôi rồi lanh lảnh nói một hồi. Tôi nghe nhưng lắc đầu không hiểu. Cô lại nói một hồi nữa, tôi cũng lắc đầu, rồi tôi nói thật chậm rãi bằng tiếng Việt: “Tôi tỵ nạn”. Nghe tôi nói, cả đám đông cười ồ lên rồi la hét “Vziệt nàm nhần” (người Việt Nam), nhưng người nữ dân quân mím môi nhất định không cười. Cô thúc mũi súng vào người tôi, rồi chỉ tay về phía dòng sông Ka Long ra hiệu, miệng kêu “pằng pằng”. Tôi hiểu ý cô bảo tôi phải bơi trở về phía bên kia bờ, nếu không sẽ bị cô bắn. Tôi lắc đầu cương quyết không chịu. Cô tức giận lên đạn rồi hét lên “pằng pằng” giọng tức giận. Tôi hiểu ý cô muốn nói, nếu tôi không chịu bơi trở lại Việt Nam, cô sẽ bắn chết. Nhưng tôi hiểu đó chỉ là sự hăm dọa. Trước mặt bao nhiêu người Hoa, tôi chỉ có hai bàn tay trắng, lại chẳng gây nên tội lỗi gì trên đất nước Trung Hoa, tôi chẳng đe dọa một ai, làm sao cô dám tự dưng bắn tôi? Hiểu vậy, tôi vẫn cương quyết lắc đầu, không chịu nhúc nhích…
Ngay lúc đó có một người đàn ông cao to, rẽ đám đông bước vô. Ông khoảng 40 tuổi, râu quai nón xồm xoàm, tiếng nói sang sảng. Câu nói đầu tiên của ông là câu ông hỏi tôi, bằng tiếng Việt:
- Anh người Việt?
Tôi mừng rỡ:
- Vâng, tôi người Việt.
- Không phải người Việt gốc Hoa?
- Không, tôi người Việt thuần tuý.
Người đàn ông quay sang người nữ dân quân nói líu lô một hồi rồi quay sang hỏi tôi:
- Anh không phải người Việt gốc Hoa thì bơi sang Trung Quốc này làm gì?
Tôi nói ngắn gọn:
- Tôi xin được tỵ nạn chính trị.
Người đàn ông ngạc nhiên không hiểu:
- Anh nói gì? Tỵ nạn chính trị là thế nào?
Tôi nghĩ ngay, có lẽ người đàn ông chỉ là một người thông ngôn bình thường, không hiểu gì về luật pháp. Vì vậy tôi nói một cách dễ hiểu hơn:
- Tôi bị cộng sản Việt Nam truy sát, nên tôi phải chạy sang đây ẩn tránh.
Người đàn ông ồ lên một tiếng, gật gù ra vẻ hiểu, rồi quay sang người nữ dân quân líu lô một hồi bằng tiếng Hoa. Cả đám đông nghe ông nói xong đều ồ lên tỏ vẻ reo vui, đồng cảm. Mũi súng AK chĩa vào người tôi bây giờ cũng được chúc xuống dưới. Thái độ của người nữ dân quân không còn gay gắt như trước. Nhưng người nữ dân quân vẫn líu lô nói với người thông ngôn, tay chỉ về phía bên kia sông. Người đàn ông gật đầu, quay sang tôi nói tiếp:
- Đảng và nhà nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã đóng cửa biên giới từ ngày…. tháng… năm. Kể từ ngày đó không một người Việt gốc Hoa nào được phép đặt chân lên lãnh thổ Trung Hoa. Vì vậy, cô này ra lệnh cho anh anh phải bơi trở lại Việt Nam ngay, nếu không anh sẽ bị xử lý tại chỗ.
Tôi lắc đầu, cương quyết:
- Tôi không phải là người Việt gốc Hoa. Tôi là người Việt chạy trốn cộng sản Việt Nam.
Người thông ngôn líu lô nói với cô dân quân một hồi. Trời lúc này đã tối, gió lạnh thổi, người tôi lạnh run cầm cập… May mắn ngay lúc đó, một người đàn bà từ trong đám đông quẳng cho tôi một chiếc áo. Tôi cảm động cầm chiếc áo khoác vội lên người, định nói hai chữ “tố chề” (cảm ơn), thì người đàn bà đã biến mất trong bóng tối…
Thấy người nữ dân quân Trung Cộng tuổi còn trẻ măng, người thông ngôn có vẻ thiếu hiểu biết, mà tình thế có vẻ bế tắc, tôi liền đánh nước liều. Tôi lên tiếng, giọng dõng dạc, rõ ràng:
- Tôi có thù không đội trời chung với cộng sản Việt Nam. Vì vậy tôi phải vượt qua không biết bao nhiêu nguy hiểm, phải bơi qua sông Ka Long, để sang đây gặp lãnh tụ Hoa Quốc Phong, “chủ tịch quốc vụ viện, chủ tịch hội đồng quân uỷ và chủ tịch nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa”….
Nghe tôi nói một hơi dài, người thông ngôn nhìn tôi, ngạc nhiên không nói gì. Tôi dục ông:
- Ông nói với cô ấy, cho tôi gặp cán bộ, công an cao cấp ở đây để giải quyết nguyện vọng quan trọng của tôi. Còn cô ấy bảo tôi bơi về bên Việt Nam, tôi cương quyết không. Ông nói cho cô ấy biết, thà tôi bị cô ấy bắn chết trên đất nước Trung Hoa còn hơn tôi phải bơi về để bị cộng sản Việt Nam cầm tù.
Người thông ngôn quay sang người nữ dân quân nói một hồi. Cả đám đông nghe xong vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Tôi đoán có lẽ họ đã hoan hô câu tôi nói, “Thà tôi bị cô ấy bắn chết trên đất nước Trung Hoa còn hơn tôi phải bơi về để bị cộng sản Việt Nam cầm tù”.
Nghe người thông ngôn nói xong, và thấy đám đông hoan hô ủng hộ tôi, người nữ dân quân ngúng nguẩy không nói gì, quay đầu bước đi. Người thông ngôn bảo tôi đi theo cô về đồn công an, rồi ông ta đi sau tôi. Cả đám đông người Hoa cũng ồn ào và lũ lượt đi theo…
Tôi bước theo người nữ dân quân, lòng mừng khôn tả. Tôi không biết chính quyền Trung Cộng sẽ đối xử với tôi như thế nào, tin tưởng câu chuyện của tôi đến mức độ nào, nhưng tôi biết chắc một điều, nếu tôi một lòng cương quyết không chịu trở lại Việt Nam, cuộc sống của tôi trên đất Trung Quốc cũng sẽ không nguy hiểm. Dĩ nhiên, lúc đầu, công an, tình báo của Trung Cộng sẽ nghi ngờ những lời khai của tôi. Nhưng cùng với thời gian, sự thật sẽ được chứng minh, họ sẽ hiểu tấm lòng ngay thật của tôi. Hơn nữa, cùng với sự giúp đỡ của các thân nhân và bè bạn ở ngoại quốc, chính quyền Trung Cộng sẽ hiểu rõ tôi hơn. Vả lại, tôi không hề có ý định ở lại Trung Quốc, mà chỉ muốn xin tỵ nạn tạm thời ở Trung Quốc một thời gian trước khi lên đường đoàn tụ với gia đình ở Úc, hoặc ở Mỹ. Như vậy, mọi giả thuyết họ cho rằng tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam muốn xâm nhập vào Trung Quốc sẽ không đứng vững.
Đi được khoảng 15 phút qua những con đường lát đá ngoằn nghèo và nhỏ hẹp, thì đến một đồn công an sau này tôi biết đó là đồn công biên phòng Tống Hếnh (Đông Hưng). Ngay ở cổng đồn có một trạm gác, trong có một ngọn đèn điện tù mù tỏa sáng. Người nữ dân quân bước tới nói với người công an trong trạm gác một lúc. Sau đó, có hai người công an từ trong đồn bước ra, dẫn chúng tôi vô trong sân đồn. Riêng tôi, khi vào tới sân đồn, người thông ngôn dẫn tôi vô một phòng nhỏ, mỗi chiều khoảng 3 thước, trong có duy nhất chiếc bàn gỗ, mấy chiếc ghế và một ngọn đèn điện. Sau khi bảo tôi ngồi chờ, người thông ngôn đóng cửa, khóa trái.
Tôi rất ngạc nhiên trước thái độ lơ là, thiếu cảnh giác của công an, bộ đội biên phòng Trung Cộng. Tôi nhớ khi giải tôi từ bờ sông về đồn công an, người nữ dân quân đeo súng AK lại đi trước, để tôi đi sau, trong khi hay tay tôi không hề bị còng, bị trói gì. Cho đến khi tôi về đến đồn công an, cũng chẳng có ai còng tay trói chân tôi. Thái độ của mọi người công an khi thấy tôi cũng dửng dưng, chẳng thấy ai có thái độ thù nghịch, cảnh giác, trông chừng…
Đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng dưng cửa bật mở. Bước vô là một người đàn ông cao to, trắng trẻo, đẹp trai, mặc đồ công an 4 túi, nhưng không đeo quân hàm. Người đàn ông niềm nở bắt tay tôi và tự giới thiệu bằng tiếng Việt rất lưu loát:
- Tôi là Ngô, đặc trách công tác chăm lo đời sống cho Hoa kiều hồi hương. Còn “đồng chí” tên gì?
Tôi trả lời ngay:
- Thưa, tôi là Phạm Thái Lai…
Cán bộ Ngô gật gù, nói tiếp, giọng vui vẻ, bặt thiệp:
- Tôi tin là “đồng chí” hiện đang rất đói… Vì vậy, trước khi chúng ta có thể làm việc với nhau, tôi nghĩ “đồng chí” nên làm một tô mì cho ấm bụng đã nghe.
Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên. Mừng vì quả thực lúc đó tôi đang đói đến bủn rủn chân tay, mà chưa tiện mở miệng xin ăn. Ngạc nhiên, vì không ngờ một cán bộ Trung Cộng lại nói tiếng Việt rất sõi, lại xưng hô “đồng chí” với tôi, một người Việt mới chân ướt chân ráo đặt chân lên đất Trung Hoa, trên người chỉ có một chiếc quần đùi và chiếc áo vá chằng vá đụp của một người Hoa tốt bụng vừa cho. Mặc dù chẳng ưa gì hai chữ “đồng chí” trên miệng những người cộng sản, nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi nghĩ thái độ của cán bộ Ngô quả là điềm lành cho tôi.
Tôi chưa kịp lên tiếng, cán bộ Ngô lại tiếp:
- Bây giờ “đồng chí” ngồi đây chờ một chút. Tôi cho người mang vô một bộ đồ “đồng chí” mặc tạm. Sau đó, sẽ có người mang vô cho đồng chí một tô mì. Đồng chí ăn xong, chúng ta sẽ nói chuyện vui vẻ…
Dứt lời, cán bộ Ngô đứng dậy bắt tay tôi rất chặt rồi bước ra. Cánh cửa duy nhất vẫn để nguyên không khóa.
Vài phút sau, một người công an bước vô, đưa cho tôi một bộ đồ và một đôi dép. Mở bộ đồ ra coi, thì thấy đó là một bộ đồ công an hơi cũ. Thay đồ xong, thì cũng vừa lúc một người đàn bà luống tuổi bước vô, tay bưng tô mì nóng hổi, khói bốc nghi ngút… Tối hôm ấy tôi ngồi ăn ngấu nghiến tô mì mà không hề biết, hôm đó là ngày 1 tháng 10, ngày quốc khánh của nước “cộng hòa nhân dân Trung Hoa”…
KỲ 94
Khoảng nửa tiếng sau, cửa mở. Trông ra, tôi thấy hai người công an nhưng không thấy cán bộ Ngô. Cả hai đều có gương mặt khó coi, ánh mắt lạnh lùng và đều nói tiếng Việt rất sõi. Một người đến giờ tôi vẫn còn nhớ, mắt hình tam giác, mặt dài như mặt ngựa và bị rỗ, hút thuốc liên tục. Còn người thứ hai thì thấp, có một chiếc sẹo rất to ở cổ.
Đặt trên bàn một xấp giấy trắng, một cây viết, tên công an mặt rỗ nói với tôi giọng sắc lạnh:
- Tôi là Trung. Còn đây là đồng chí X (tôi không nhớ tên). Chúng tôi được lệnh làm việc với anh trong 1 tiếng. Sau đó, anh có bổn phận viết lại thật đầy đủ cuộc đời của anh từ khi còn nhỏ cho đến khi đặt chân lên đất nước Trung Hoa. Trước khi làm việc, chúng tôi yêu cầu anh phải thành thật trả lời mọi câu hỏi, phải thành thật khai báo. Chúng tôi cũng báo để anh biết, chúng tôi có tai mắt ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam các anh, nên nếu anh man khai, ngụy tạo, anh sẽ bị chúng tôi phát hiện dễ dàng và anh sẽ bị trừng trị đích đáng.
Nghe tên Trung nói tôi vô cùng ngao ngán. Đúng là cộng sản, ở đâu cũng cùng một giọng lưỡi như vậy. Điệu này dám tôi tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, chạy Việt Cộng lại gặp Trung Cộng! Nhưng dù sao, tôi cũng chẳng hề có ý định ở lại Trung Cộng. Tôi chỉ đến Trung Cộng tạm trú một thời gian để rồi sau đó, một khi liên lạc với thân nhân lo được giấy tờ bảo lãnh cho tôi định cư tại Úc hoặc Mỹ… là tôi chuồn. Có điều tôi ngạc nhiên, tại sao nửa tiếng đồng hồ trước, Ngô “cán bộ” lại có vẻ niềm nở, thân mật, gọi tôi bằng “đồng chí” rồi lo đồ ăn thức uống cho tôi. Bây giờ thái độ của Trung và X lại lạnh lùng, coi tôi như một tên tội phạm.
Tôi hỏi Trung, giọng lễ phép:
- Thưa ông, cán bộ Ngô đâu ạ?
Trung sẵng giọng:
- Anh không được quyền hỏi bất cứ điều gì khi chưa được phép của tôi. Hiện giờ anh là một tù nhân của chúng tôi. Anh nghe rõ chưa?
- Thưa ông, tôi bị tù về tội gì?
- Tôi xâm nhập lãnh thổ nước “cộng hòa nhân dân Trung Hoa” bất hợp pháp.
- Tôi là một người tỵ nạn bị cộng sản Việt Nam truy đuổi…
- Đó là anh nói. Sự thật có đúng như lời anh nói hay không phải chờ chúng tôi điều tra. Trong thời gian điều tra, anh phải hiểu cương vị của anh là một tù nhân. Khi nào mọi chuyện minh bạch, anh đúng là người bị cộng sản Việt Nam truy lùng, chúng tôi sẽ thả anh. Anh nghe rõ chưa?
Tuy không ưa gì giọng nói lạnh lùng vô cảm của tên Trung, nhưng tôi phải thừa nhận y nói vậy là hợp lý. Trong lúc hai nước đang căng thẳng sắp chiến tranh, bỗng dưng tôi từ Việt Nam trốn sang Trung Hoa rồi tự nhận mình bị cộng sản Việt Nam truy lùng, làm sao bảo họ có thể tin tôi được. Tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của họ, tôi hiểu sự nghi ngờ của họ là hợp lý. Điều quan trọng bây giờ, tôi phải làm sao chinh phục được niềm tin của công an Trung Cộng, bằng không, tôi có thể bị tra tấn, bị thủ tiêu, hoặc bị trục xuất về Việt Nam. Tôi tin tưởng, sự thật về cuộc đời của tôi đủ thuyết phục được công an Trung Cộng tin tôi là nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Nhưng làm sao để công an Trung Cộng tin những gì tôi nói là sự thật, không phải là ngụy tạo? Hơn nữa, Việt Cộng và Trung Cộng cũng đều là cộng sản. Làm sao tôi có thể hoàn toàn tin tưởng để khai tất cả mọi sự thật? Nhất là trong số mấy chục ngàn người Hoa đang sống tại vùng Đông Hưng, tôi biết chắc chắn có gián điệp Việt Cộng. Vì vậy, tôi nghĩ, cách tốt nhất tôi chỉ khai những sự thật nào cần thiết chung quanh cái tên giả Phạm Thái Lai, chứ không khai thật, khai hết những sự thật quanh cái tên thật Nguyễn Hữu Chí. Và để có thể đánh tan những nghi ngờ cho rằng tôi là một gián điệp được cộng sản Việt Nam cài vô Trung Cộng, tôi phải thẳng thắn và minh bạch cho họ biết, tôi chẳng hề có ý đinh cư ở Trung Quốc. Tôi chỉ đến Trung Quốc tạm trú thời gian ngắn, và sẵn sàng đi khỏi Trung Quốc ngay khi tôi được thân nhân ở Mỹ, Úc bảo lãnh.
Sau đó, trong thời gian một tiếng đồng hồ “làm việc”, tôi khai báo đầy đủ lý lịch của tôi, một Phạm Thái Lai, làm nghề xướng ngôn viên, Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa; sau 1975 bị cộng sản VN bắt đi tù cải tạo, rồi vượt ngục, vượt biên,… cho đến khi tôi bơi qua sông Ka Long đặt chân lên lãnh thổ Trung Hoa. Tôi cũng khai báo đầy đủ tên tuổi, địa chỉ của thân nhân hiện đang sống ở Mỹ, Úc và nguyện vọng thiết tha của tôi là được đoàn tụ với gia đình ở ngoại quốc càng sớm càng tốt.
Suốt thời gian “làm việc”, chỉ có Trung hỏi tôi, còn X thì cắm cúi ghi chép. Trước khi chấm dứt buổi “lấy cung”, Trung hỏi tôi:
- Anh bị cộng sản Việt Nam đầy đọa khổ sở như vậy, anh có căm thù chúng không?
Tôi trả lời ngay:
- Tôi căm thù chứ.
Trung hỏi tiếp:
- Vậy anh có đủ can đảm chiến đấu chống lại cộng sản Việt Nam?
Tôi gậy đầu kiên quyết:
- Tôi đủ can đảm.
Trung tiếp lời, giọng chậm rãi, nhấn mạnh từng chữ:
- Vậy nếu chính phủ và nhân dân Trung Quốc thành lập một lực lượng chí nguyện quân, giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của cộng sản Việt Nam và cộng sản Liên Xô, anh có chịu tham gia hay không?
Tôi giật mình. Trong thâm tâm, quả thực tôi rất muốn lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam. Nhưng tôi không tin cộng sản Tàu có thực tâm muốn và dám lật đổ cộng sản Việt Nam. Và cho dù cộng sản Tàu có muốn và dám làm điều đó, tương lai dân tộc Việt Nam dưới chế độ cộng sản Tàu e cũng thê thảm chẳng khác gì dưới chế độ cộng sản Hà Nội. Không, tôi chẳng thể nào làm hành động cõng rắn Tàu cắn rắn Việt… dù đó là rắn cộng sản.
Thấy tôi im lặng, Trung hỏi gặng:
- Sao, anh không đủ can đảm hay anh sợ hai chữ Việt gian? Anh yên tâm, nếu anh có tham gia lực lượng chí nguyện quên giải phóng Việt Nam do chúng tôi thành lập, thì cũng do người Việt của các anh lãnh đạo và anh cũng không phải cầm súng đâu mà lo. Anh chỉ cần làm công tác tuyên truyền, như xướng ngôn viên trên đài phát thanh chẳng hạn. Nghề đó đúng là nghề của anh mà?
Tôi ngần ngừ một chút rồi hỏi:
- Anh muốn tôi phải trả lời thành thực?
Trung nhìn tôi dò xét rồi gật đầu, nói giọng dễ dãi:
- Anh có quyền không trả lời, nhưng nếu trả lời anh phải trả lời thành thực. Anh cũng biết lực lượng mà anh tham gia có tên là “chí nguyện quân giải phóng Việt Nam” gồm toàn những người tình nguyện trong các đơn vị tinh nhuệ của quân đội nhân dân Trung Hoa, những người Hoa kiều từng sinh sống tại Việt Nam và những người Việt yêu nước như các anh…
Tôi thở phào, trả lời ngay:
- Nếu vậy anh cho tôi suy nghĩ vài ngày nữa tôi sẽ trả lời.
Trung nhìn tôi nhíu mày, định nói, nhưng không hiểu nghĩ sao, y gật đầu:
- Tốt, anh thành thực như vậy là rất đáng hoan nghênh.
Sau đó, Trung đưa mấy tờ giấy do tên X ghi chép toàn bộ cuộc hỏi cung cho tôi ký. Quá mệt nhọc, tôi chẳng hề đọc lại, ký vội tên vào từng tờ giấy. Ký xong, Trung đưa cho tôi xấp giấy, bảo tôi viết lại thật chi tiết cuộc đời và hành trình trốn thoát khỏi ngục tù cộng sản. Y cho tôi 3 ngày làm việc.
Tối hôm đó, tôi nằm co ro, lạnh lẽo ngay trên sàn gạch của một căn phòng nhỏ, mỗi chiều khoảng 3 thước, đầu gối lên một hòn gạch. Tuy đã yên tâm thoát chết, nhưng tương lai của tôi xem ra cũng chưa có dấu hiệu gì sáng sủa.
* * *
Sáng hôm sau, tôi đang say ngủ thì một người công an Trung Cộng vô đánh thức. Tên này không biết nói tiếng Việt. Y chỉ ra hiệu cho tôi ra phòng bên ngoài ngồi viết lời khai. Tôi ngạc nhiên khi thấy tôi không được cho ăn sáng, không được đánh răng rửa mặt. Nhưng tôi hỏi gì y cũng chỉ lắc đầu, và một mực ra hiệu cho tôi ngồi viết. Tôi thở dài, đành phải ngồi vào bàn và bắt đầu viết với bộ mặt ngái ngủ, đói ăn….
Cặm cụi viết đến trưa, tôi cũng vẫn không được ăn uống gì. Chân tay bủn rủn, bụng đói vô cùng. Suốt cả buổi sáng cho đến trưa tôi chỉ được uống có nước lạnh trừ cơm. Mãi đến gần 2 giờ chiều, công an ăn trưa xong mới có một người công an mang còng tới còng hai tay tôi lại rồi dắt tôi ra phố Đông Hưng. Tôi rất ngạc nhiên, không hiểu tên công an dắt tôi đi đâu. Thú thực lúc đó, điều tôi sợ nhất là công an Trung Cộng trả tôi về Việt Nam.
Dắt quanh co một hồi, người công an đưa tôi vô một tiệm ăn Tàu. Một người Tàu từ trong quầy vừa chùi tay vào tạp dề vừa chạy vội ra, miệng líu lo nói với tên công an, bộ điệu khúm núm, sợ sệt. Tên công an nói gì đó một hồi. Người Tàu gật đầu lia lịa, rồi dẫn tên công an và tôi đến một chiếc bàn kê ở góc quán phía trong cùng.
Tên công an tháo còng tay cho tôi, rồi còng một cổ chân tôi vô chiếc bàn ăn. Xong, y thản nhiên bỏ ra ngoài, chẳng hề nói với tôi một tiếng. Ngồi trong quán, mùi đồ ăn thức uống thơm ngào ngạt làm tôi cồn cào cả ruột gan. Được khoảng mươi phút, một người đàn bà tuổi ngoài 40 có nét mặt u uất, rười rượi buồn, bưng ra một chiếc khay gỗ, trên có một tô cơm bự, một tô canh xu hào, một đĩa tôm rim, một đĩa thịt ninh nhừ có mùi thuốc bắc và một chiếc chén, một đôi đũa.
Vừa mừng vừa ngạc nhiên trước bữa cơm hậu hĩ, tôi đang định nói hai chữ “tố chề” là hai tiếng Quảng duy nhất tôi biết, thì bỗng giật mình khi nghe người đàn bà hỏi tôi bằng tiếng Việt:
- Cậu là người Việt phải không?
Tôi ấp úng chưa kịp trả lời thì người đàn bà đã nói tiếp, rất nhanh:
- Tôi cũng là người Việt nè. Tôi bị mẹ mìn bắt bán sang đây lâu lắm rồi. Thôi cậu ăn đi cho nóng…
Nói xong, người đàn bà vội vã quầy quả bỏ đi trước sự bâng khuâng của tôi. Nhìn theo người đàn bà Việt Nam lam lũ, vất vả trên đất khách tôi thấy có sự bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn và không biết bao nhiêu điều muốn hỏi…
Thực khách của mấy bàn chung quanh toàn là người Hoa. Họ kín đáo nhìn tôi, ánh mắt đầy vẻ tò mò mà không hề có sắc căm thù oán hận.
Tôi lặng lẽ ngồi ăn bữa cơm nóng sốt, ngon lành nhất sau mấy tháng trời bôn ba trong đói khát, lạnh lẽo và hoảng hốt. Trong khi ăn, người đàn bà Việt Nam đi ra đi vô, miệng mỉm cười rất phúc hậu. Tôi biết, nụ cười của bà dành cho tôi, nhưng tuyệt nhiên, bà không hề nhìn về phía tôi. Khi tôi ăn xong, bà lại bàn tôi dọn dẹp, lau chùi và nói nhỏ, nhanh:
- Tôi tên là Thìn. Tôi có đứa con, giờ còn sống thì nó cũng chạc tuổi cậu… Nhưng nó chết rồi. Nó chết vì bệnh lao… Tôi chỉ có một mình nó…
Nói đến đó, bà Thìn khóc… Tôi rất xúc động. Không thể ngờ nơi đất khách, tôi lại gặp một thiếu phụ Việt Nam bị mẹ mìn bắt cóc đem bán sang Tàu từ mấy chục năm về trước… Tôi nhớ đến những câu chuyện, những bài thơ của các nhà văn nhà thơ Việt Nam mô tả nỗi khổ chồng chất của những người con gái phải lên xe hoa về nhà chồng ở một phương trời xa xăm nào đó trên quê hương tôi. Nhưng bà Thìn, một người con gái thơ ngây bị bắt, bị bán rồi phải làm vợ một người đàn ông Tàu ở một vùng đất dị biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán… chắc chắn bà còn phải khốn khổ gấp bội phần… bà phải khóc không biết nhiêu đêm, và không biết bao nhiêu là nước mắt…
Ăn xong, tôi ngồi trong quán thẫn thờ, lòng buồn rười rượi, đầu óc cứ quẩn quanh về hình ảnh bà Thìn, về nụ cười phúc hậu cùng những giọt nước mắt lã chã của bà khi bà nhắc đến đứa con bất hạnh đã qua đời…
Nửa tiếng đồng hồ sau, tên công an quay trở lại, mở còng chân, rồi còng hai tay tôi ra phía sau. Y đẩy tôi đi ra cửa. Ra tới cửa, tự dưng linh cảm, khiến tôi khẽ ngoái cổ và thấy bà Thìn đang đứng dựa vào cửa bếp nhìn theo tôi, nét mặt đầy ái ngại….
KỲ 95
Trở về đến đồn công an, tôi được nằm nghỉ khoảng 1 tiếng, sau đó phải ra phòng làm việc viết bản tường thuật thật “tỉ mỉ” về cuộc đời của mình. Đến chiều, khoảng 6 giờ tối, một công an Trung Cộng khác lại áp giải tôi đi ăn tối cũng tại tiệm ăn buổi trưa. Lần này, không hiểu sao, tôi không thấy bóng dáng bà Thìn đâu cả. Tôi nghĩ có thể bà không làm buổi tối, nhưng cũng có thể chủ tiệm hay công an cấm không cho bà tiếp xúc, trò chuyện với tôi.
Ngày hôm sau, trước giờ đi ăn trưa, công an Trung đến mở cửa phòng hỏi tôi:
- Anh đã viết xong bản tường thuật về cuộc đời của anh chưa?
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa ông, hôm trước ông cho phép tôi viết trong 3 ngày.
Trung gật đầu:
- Tôi nhớ chứ. Vì vậy tôi chỉ hỏi anh viết xong chưa?
- Thưa ông, chưa.
Trung gật đầu:
- Tốt, vậy anh viết đến đâu, đưa hết cho tôi coi.
Tôi lặng lẽ lấy ra một xấp giấy đã viết đưa cho Trung. Trung không hề xem qua, bảo tôi:
- Anh đưa hết chỗ giấy trắng còn lại cho tôi. Cả cây viết nữa.
Tôi băn khoăn:
- Thưa tôi còn phải viết tiếp…
Trung lắc đầu, nói sẵng:
- Khỏi cần. Anh viết vầy là đủ rồi. Đưa hết chỗ giấy còn lại cho tôi.
Thấy thái độ của Trung như vậy, tôi đoán lành ít dữ nhiều. Nhưng dữ như thế nào thì tôi không đoán ra. Tôi nghĩ, thông thường, nếu công an Trung Cộng nghi ngờ tôi là gián điệp, bao giờ họ cũng phải tìm cách khai thác, điều tra, phỏng vấn. Vì vậy, việc tôi đang viết tự thuật lại cuộc đời mình, bỗng dưng bị ngưng ngang là điềm nguy hiểm cho thấy, họ chẳng muốn khai thác, điều tra tôi nữa. Điệu này, dám họ đem tôi ra xử bắn lắm!… Đoán vậy, nhưng tôi không biết làm thế nào. Nếu ở Việt Nam, tôi sẽ trốn bằng mọi giá. Nhưng ở đây, ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có, dù có trốn ra được khỏi đồn công an, tôi cũng chẳng thể đi đâu xa. Nhất là xã hội Trung Quốc, “muôn người như một” dưới sự tuyên truyền và kìm kẹp của Trung Cộng, làm sao tôi có thể trà trộn trốn tránh hoặc có được những người với tấm lòng vàng sẵn sàng giúp đỡ tôi như ở Việt Nam?
Ngày hôm đó, tôi vẫn được công an áp giải đi ăn trưa và ăn tối tại cùng tiệm ăn, nhưng tôi vẫn không thấy bà Thìn. Khi ngồi ăn, chân tôi vẫn bị xích vô bàn ăn, và những người Hoa trong tiệm ăn vẫn xa lánh tôi, và nhìn tôi đầy vẻ nghi kỵ. Tôi phớt tỉnh vì nghĩ đã đến hoàn cảnh này, tôi chẳng thể làm gì hơn thì đành chấp nhận chết là cùng.
Tối hôm đó, nằm trên sàn gạch, gối đầu lên hòn gạch, tôi co ro vì lạnh lẽo và sợ hãi nên trằn trọc không ngủ được. Mãi đến khuya, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Đang ngủ chập chờn, tôi nghe có tiếng mở khóa, cửa mở, rồi có tiếng chân người đi vô. Lúc đó tôi nằm quay mặt vào tường nên làm như không hay biết, tôi vẫn giả vờ nhắm mắt ngủ say, nhưng trong lòng tôi hoảng hốt vô cùng.
Có người đá nhẹ vào người tôi hai cái, rồi nghe tiếng đánh thức của Trung công an:
- Dậy, A Phàm, dậy!…
Tôi quay trở ra, thấy trong phòng, ngoài Trung còn có một người công an đeo súng AK cầm chiếc còng số 8, và một người khác đeo súng ngắn. Tôi vừa ngồi dậy, người công an đeo súng AK đã nhanh nhẹn cúi xuống, còng hai tay tôi ra phía sau. Trong lòng tôi bấn loạn vô cùng. Tôi nghĩ chắc phen này họ đem tôi ra xử bắn mất thôi. Tôi định hỏi mà miệng khô ran, cổ họng bị nghẹn lại, chỉ lắp bắp được có hai tiếng:
- Sao… giết?….
Nhìn nét mặt hoảng hốt cuả tôi lúc đó, Trung trấn an:
- Anh yên tâm, nhà nước Trung Hoa vĩ đại chúng tôi không giết anh làm gì.
Nghe Trung nói, tôi không tin. Đang đêm hôm khuya khoắt thế này, dựng tôi dậy, còng tay tôi rồi đem đi thì chỉ có hành quyết tôi thôi… Cộng sản nói thì làm sao mà tin được. Cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Cộng thì cũng rứa mà thôi…
Ra đến chiếc xe comangca, tôi bị tống vô băng sau. Trong ánh đèn xe mờ mờ tôi thấy, bên trái tôi là người lính cầm khẩu AK, bên phải tôi là công an Trung, phía trước có một công an ngồi ghế tài xế, còn tên công an đeo súng ngắn thì ngồi ghế bên tay phải của tài xế. Tôi chỉ kịp nhìn vội vàng được như vậy thì đã có một miếng vải bịt kín cả hai mắt tôi lại. Thoạt đầu bị bịt kín mắt như vậy, tôi càng thêm kinh hoàng lo sợ. Nhưng một thoáng sau, nghĩ lại, tôi bớt lo. Vì tôi nghĩ, nếu quả thực họ đem tôi đi xử bắn, thì họ đâu cần phải bịt mắt tôi làm gì. Một người đã bị bắn chết, thì đâu còn gì phải đề phòng mà bịt mắt. Còn nếu như họ đã đề phòng bằng cách bịt mắt tôi như vậy, chắc là họ giải giao tôi đến một địa điểm bí mật nào khác mà không muốn cho tôi biết đường chăng? Nếu vậy thì tôi vẫn còn có cơ hội sống sót.
Yên tâm với ý nghĩ đó một hồi, tôi bỗng giật mình khi nghĩ tới những người bị xử bắn bao giờ cũng bị bịt mắt. Bịt mắt trong những trường hợp đó là nhằm để cho người bị xử bắn khỏi sợ hãi một phần, phần khác là những người bắn súng khỏi bị ám ảnh bởi ánh mắt vĩnh biệt thế gian của người bị bắn. Nếu vậy, tôi bị công an Trung Cộng bịt mắt không phải vì họ muốn bảo đảm bí mật mà chỉ vì không muốn cho tôi khỏi sợ hãi khi bị hành quyết… Nghĩ đến đó tôi thấy lạnh gáy. Chẳng lẽ trải qua bao nhiêu may mắn trên đường vượt biên, cuối cùng, tôi lại lãnh cái chết hay sao? Không khí trong xe lúc này cũng thật nặng nề. Không một ai nói với ai tiếng nào. Chỉ nghe tiếng máy xe nổ đều đều và tiếng gió ào ào thổi bên ngoài khi xe chạy lắc lư nghiêng ngả trên những con đường nhỏ, lát đá xanh lởm chởm…
Xe chạy quanh co một hồi rồi dừng lại. Tôi bị lôi ra khỏi xe một cách phũ phàng. Hành động phũ phàng kiểu này chỉ dành cho người bị xử bắn thôi. Tôi nghĩ. Tôi thấy gió thổi lồng lộng, rồi nghe thấy tiếng sóng vỗ vào bờ. Tôi đoán chắc tôi đang đứng bên bờ sông Ka Long, và bên kia là tổ quốc của tôi, nơi có tất cả những người thân yêu ruột thịt, bạn bè bằng hữu của tôi và không biết bao nhiêu ân nhân đã giúp đỡ cưu mang tôi. Trên những chặng đường của tổ quốc hình chữ S, tôi đã có không biết bao nhiêu kỷ niệm trong suốt cuộc đời 25 năm trời… dù đó là những kỷ niệm vui hay buồn, may mắn hay bất hạnh, bây giờ đối với tôi đều thật là lung linh vô giá, đáng nhớ đến ứa nước mắt…. Tôi nhớ đến dòng sông Châu nước lúc nào cũng trong xanh, những cánh đồng mía bạt ngàn nổi tiếng ngọt, mềm và ròn của Vĩnh Trụ quê tôi… Thoang thoảng trong không khí thanh tịnh của đêm khuya như có mùi thơm của hoa, nhưng tôi không rõ là mùi của hoa gì. Rồi có tiếng quạ kêu, vài hai tiếng lẻ loi cô đơn trên trời cao… Ngửa mặt lên trời, tôi hít một hơi thở thật sâu cho căng lồng ngực rồi nín thở khoảng mươi mười lăm giây… Tự nhiên, tôi thấy lòng mình trở nên bình tĩnh lạ lùng….
Tôi bước những bước chập choạng vì bị người công an kéo đi, trong khi mắt bị bịt kín, và bờ sông thì lồi lõm, sỏi đá khắp nơi. Đi được một đoạn khoảng hai mươi phút, tôi thấy mình phải leo dốc. Mười phút sau, tôi bước lên những bậc thang cao dần, cao dần. Leo được khoảng hai chục bậc như vậy thì thấy bước chân của mình bước trên mặt phẳng, có lẽ là của sàn gỗ, vì tôi nghe rõ tiếng giầy nện cộp cộp của mấy tên công an. Đi được khoảng 10 bước thì tôi bị giữ lại. Lúc này gió thổi lồng lộng và tôi nghe rõ tiếng nước chảy ở dưới chân… Chẳng hiểu sao ngay lúc đó tôi đoán mình đang đứng trên cầu sông Ka Long…
Mấy tên công an nói xì xồ tiếng Quan thoại một hồi, rồi Trung nói với tôi bằng tiếng Việt:
- Chúng tôi biết anh là gián điệp của tụi Việt cộng, xâm nhập nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa để phá hoại. Tội của anh đáng lẽ phải bị xử bắn. Nhưng đảng và nhà nước Trung Hoa luôn luôn khoan hồng, nên cho anh cơ hội sống sót cuối cùng…
Nói đến đó, tên Trung im lặng, nghe tên công an xì xồ nói tiếp tiếng Quan Thoại. Tôi mấp máy môi định nói, nhưng không biết nói gì, vì thấy có nói gì đi nữa cũng chẳng thể thuyết phục được họ, nên tôi lại lặng im. Trung công an lại nói tiếp:
- Bây giờ anh đang đứng trên cầu biên giới sông Ka Long. Trước mặt anh là đồn biên phòng của cộng sản VN. Chúng tôi sẽ tháo còng cho anh, để anh tự do đi thẳng về bên kia, cho các “đồng chí” của anh đón tiếp. Còn nếu anh từ chối không chịu đi, chúng tôi sẽ xử bắn anh tại chỗ. Anh nghe rõ chưa?
Nghe công an Trung nói vậy tôi vô cùng buồn bã và ngao ngán. Như vậy là trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm để trốn khỏi cái chế độ bất nhân độc tài cộng sản Việt Nam, bây giờ tôi lại phải trở lại cái chế độ đó, để bước chân vào lao tù, kìm kẹp và thậm chí có thể chết. Không, tôi không thể nào làm như vậy. Thà tôi bị bắn chết, chứ nhất định tôi không thể nào sống trong chế độ cộng sản Việt Nam.
Công an Trung gằn giọng, nhắc lại câu hỏi:
- Anh nghe rõ chưa?
Tôi đứng im lặng bất động. Có bàn tay nào đó tháo mảnh vải bịt mắt cho tôi. Tôi chớp mắt liền mấy cái, nhìn vẫn chỉ thấy lờ mờ, nhưng tôi nhận ra, đúng là mình đang đứng trên cầu sông Ka Long. Có bàn tay sờ vào chiếc còng tay sau lưng tôi có lẽ định mở khóa. Tôi khẽ xoay người quay về phía tên công an đeo súng ngắn. Tưởng tôi có hành động gì, lập tức có tiếng hô rít lên bằng tiếng Hoa, rồi đầu súng AK thúc vào lưng tôi đau điếng. Lúc đó tuy không nhìn rõ mặt ai trong bóng tối, tôi vẫn nghiến răng chịu đau, nhìn thẳng vào mặt tên công an đeo súng ngắn và nói, giọng rõ ràng, dứt khoát:
- Không, tôi không về. Dù các ông có bắn chết, tôi cũng không về. Tôi đã nói với các ông, tôi là nạn nhân của cộng sản Việt Nam, chứ không phải là gián điệp. Nếu tôi về bên đó, cộng sản Việt Nam cũng sẽ bắt và giết tôi. Thà tôi bị các ông bắn chết ngay bây giờ ở đây, còn hơn về bên Việt Nam tôi bị cộng sản Việt Nam bắt và giết chết. Tôi tìm đến với các ông vì tôi đinh ninh các ông là bạn. Vì vậy thà tôi bị chết trong tay các ông, những người tôi coi là bạn; còn hơn tôi bị chết trong tay cộng sản Việt Nam, những kẻ tôi coi là thù.
Tôi nói liền một hơi, nói trong nỗi niềm xúc động khôn cùng, nên tôi vừa nói vừa thở hổn hển, vừa khóc nghẹn ngào… Nói xong, tôi vẫn còn xụt xịt khóc… Chẳng hiểu sao sau khi tôi nói xong, cả ba tên công an đều im lặng, kể cả tên Trung là người có trách nhiệm dịch lại tiếng Hoa cho tên chỉ huy nghe cũng đứng như phỗng…
Hai, ba phút sau, tên công an đeo súng ngắn quay sang Trung hỏi bằng tiếng Hoa. Trung vội vã nói lại bằng tiếng Hoa. Tôi không biết Trung dịch lại có trung thực và đầy đủ lời tôi nói hay không, nhưng giọng nói của Trung cũng có vẻ xúc động…
Trung nói xong, cả ba tên công an Trung Cộng đều đứng im lặng. Tôi cũng im lặng không nói, nhưng trong lòng tôi đã quyết, trừ khi chúng trói gô tôi lại như khúc giò rồi lăn về bên kia cầu, hay chúng bắn chết tôi rồi quẳng xác về bên kia, còn không, tôi cương quyết không về với cộng sản Việt Nam.
Mấy phút im lặng trôi qua, tên công an đeo súng ngắn xì xồ nói gì một hồi rồi quay lưng đi trước. Kế đến là tên đeo súng AK. Còn tên Trung đặt nhẹ bàn tay lên vai, đẩy tôi đi trở lại phiá bờ Trung Cộng. Tôi run rẩy, thở phào sung sướng… Bước đi được mấy bước, tự nhiên tôi tối tăm mặt mũi, chân bước loạng choạng rồi té rụi xuống mặt cầu.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đã ngồi trong xe. Tay tôi không còn bị còng, và cả 3 người công an trong xe đều nói cười vui vẻ. Không khí trong xe lúc về khác hẳn lúc đi, không còn nặng nề, nghẹt thở như trước. Đây là một dấu hiệu vui mừng cho tôi.
Trở về đến đồn công an, tôi vẫn bị dắt vô trong phòng giam cũ, nhưng lần này, tôi được một người công an quẳng vô cho chiếc mền cá nhân. Quá mệt mỏi và căng thẳng, cộng với cơn hú viá vừa thoát chết, tôi nằm xuống là ngủ liền một giấc cho đến 10 giờ sáng hôm sau….

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét