KỲ 21
Trong
số những vũ khí tuyên truyền được cộng sản Hà Nội sử dụng để đầu độc người dân
Miền Bắc, có một vũ khí vô cùng quan trọng và hiệu quả là tên tuổi của những
nhân vật nổi tiếng ở Miền Nam cũng như thế giới, đi theo cộng sản hoặc có những
tuyên bố hậu thuẫn cộng sản. Bên cạnh đó, những cuộc biểu tình, đình công, tại
các quốc gia tây phương, thay vì chứng tỏ quyền tự do, dân chủ của người dân
được bảo đảm, dưới sự nhào nặn tuyên truyền của chế độ cộng sản, đã trở thành
những hình ảnh, tin tức quảng bá cho quan điểm, “xã hội tư bản là thối nát, bóc
lột tàn nhẫn; còn xã hội cộng sản là lý tưởng, là con đường tất yếu của nhân
loại”.
Khi
cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” được cộng sản Hà Nội dựng
lên, với những nhà trí thức tên tuổi nhưng đầy ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản
như Trịnh Đình Thảo, Phạm Ngọc Thu, Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ… trong thời
gian đầu, người dân Miền Bắc, nhất là thế hệ trẻ, đều tưởng rằng người dân ở
Miền Nam đã bị đàn áp dã man, nên họ phải đứng lên thành lập MTGP. Chỉ trong
thời gian ngắn, guồng máy tuyên truyền của Hà Nội đã thành công trong việc tung
hứng, vẽ lên một bức tranh: Những người trí thức, khoa bảng Miền Nam đã dám vứt
bỏ hạnh phúc gia đình, bổng lộc, tiền tài, danh vọng cá nhân, để đi theo con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, khi guồng máy tuyên truyền của
cộng sản Hà Nội đã vẽ lên hình ảnh người dân Miền Nam đã biết “hy sinh” như
vậy, thì guồng máy chiến tranh của cộng sản Hà Nội cũng đã khôn ngoan đẩy người
dân Miền Bắc vào những “hy sinh” tương tự cho cuộc chiến tranh “giải phóng Miền
Nam”. Nếu những nhà trí thức khoa bảng, lớn lên ở Miền Nam tự do, chỉ vì những
mâu thuẫn riêng tư, những hoạt động bè phái nhất thời, hay những bất mãn trước
sự tự do dân chủ nhưng chưa hoàn hảo của chế độ VNCH, để rồi chấp nhận làm công
cụ cho cộng sản, thì thử hỏi làm sao người dân Miền Bắc, lớn lên sau luỹ tre
làng, bị cộng sản kìm kẹp, cả đời chỉ nghe một đài phát thanh, đọc một tờ báo,…
có thể thoát khỏi sự tuyên truyền đầu độc của cộng sản?
Sau
này, tôi được biết, khi nhận rõ bộ mặt thật của cộng sản, nhiều nhà trí thức
khoa bảng đã bỏ cộng sản, người thì trốn ra ngoại quốc, người thì sống ẩn dật.
Đặc biệt, bà Dương Quỳnh Hoa đã có thái độ can đảm rút tên ra khỏi đảng cộng
sản. Cộng sản đồng ý cho bà rút tên, nhưng với điều kiện, bà chỉ được công khai
chuyện rút tên của mình 10 năm sau đó. Với uy tín tại VN cũng như ngoại quốc,
việc làm của bà Dương Quỳnh Hoa đã khiến cộng sản rất mất mặt. Tiếc là bà chấp
nhận điều kiện “10 năm sau mới công khai chuyện rút tên khỏi cộng sản”, bằng
không, việc rút tên khỏi đảng cộng sản của bà còn có ý nghĩa to lớn hơn, và
giúp cho nhiều người Việt hơn sớm tỉnh mộng, thoát khỏi ảo tưởng về cộng sản.
Chính
vì cộng sản Việt Nam đã biết dùng những cái ảo tưởng nhất thời của những nhà
trí thức khoa bảng Miền Nam, dựng nên hào quang “chính nghĩa” cho cuộc chiến
tranh xâm lăng Miền Nam, cộng với hàng loạt thủ đoạn tuyên truyền, bưng bít,
đàn áp, kìm kẹp “dạ dầy”, “nhỏ giọt” hạnh phúc,… cộng sản Hà Nội đã vắt kiệt
xương máu người dân Miền Bắc để dựng nên bi kịch lớn nhất của dân tộc Việt Nam:
Hy sinh xương máu của người Việt cho tham vọng bành trướng chủ nghĩa cộng sản.
Qua
guồng máy tuyên truyền của cộng sản, người dân Miền Bắc, nhất là thế hệ trẻ, đã
ngây thơ tin tưởng vào hào quang trí thức khoa bảng của những luật sư, bác sĩ,
dược sĩ Miền Nam, khi những người này đi theo cộng sản. Thêm vào đó, những
thành phần trí thức khoa bảng của Miền Bắc, trong đó có các nhà văn, nhà thơ,
nhà báo… cũng đều đồng lõa với cộng sản trong việc lừa bịp người dân, đầu độc
thế hệ trẻ qua những câu thơ: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới
dậy tương lai”; “Anh đi xuôi ngược tung hoành. Bước dài như gió lay thành
chuyển non. Mái chèo, một chiếc thuyền con. Mà sông nước dậy, sóng cồn đại dương”…
Sống trong một xã hội bưng bít, tư tưởng của con người chỉ thuần túy được nhào
nặng bằng những bài thơ, bài hát, bài báo hay những tác phẩm do chế độ cộng sản
xuất bản như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy, Hòn Đất… nên thế hệ trẻ Miền Bắc
đã sống trong sự mông muội và cuồng tín. Và chính sự mông muội và cuồng tín của
giới trẻ đã tạo nên những “thần tượng anh hùng”, những vần thơ “dũng sĩ diệt
Mỹ”, để rồi những “thần tượng” những vần thơ “dũng sĩ” đó lại tiếp tục đầu độc
những thanh thiếu niên khác. Vì thế, tôi có thể nói, con người sinh ra và lớn
lên trong chế độ cộng sản, bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn, một giai đoạn
sống bằng ảo tưởng, và một giai đoạn sống trong sự ân hận và xấu hổ.
Cộng
sản luôn luôn hiểu, thế hệ trẻ bao giờ cũng khao khát đi tìm những thần tượng
anh hùng. Nặn lên những thần tượng anh hùng để đầu độc thế hệ trẻ, trong một xã
hội độc tài chuyên chế là điều không có gì khó. Nhưng quan trọng hơn, dễ thuyết
phục hơn, vẫn là tạo nên những hành động, con người “anh hùng thật” bằng xương
bằng thịt, để đầu độc thế hệ trẻ. Vì vậy, nếu khi bắt đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp, cộng sản đã ngụy tạo nên thần tượng “cậu bé Lê Văn Tám” trên dưới
10 tuổi dám tẩm xăng vào người, rồi chạy vào kho vũ khí của Pháp, làm cho nó nổ
tung, thì trong cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, cộng sản đã có sẵn những
hình ảnh “anh hùng bằng xương bằng thịt” để tuyên truyền, trong đó có Nguyễn
Văn Trỗi.
Tôi
còn nhớ vào khoảng cuối năm 1964, lúc đó tôi đang học lớp 6 hay lớp 7, thì nghe
tin Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn về tội đặt bom toan ám sát tổng trưởng quốc phòng
Robert McNamara tại chân cầu Công Lý. Ngay trong những ngày tháng đó, và trong
suốt thời gian nhiều năm về sau, guồng máy tuyên truyền của cộng sản đã hoạt
động tối đa, để dùng cái chết của Nguyễn Văn Trỗi, khuấy động lòng căm thù và
cuồng tín trong lòng người dân Miền Bắc. Những bài thơ, bài báo, những tác
phẩm, ca ngợi Nguyễn Văn Trỗi xuất hiện ồ ạt trên đất nước Miền Bắc; những buổi
truy điệu Nguyễn Văn Trỗi được tổ chức nhan nhản ở khắp các trường học, nông
trường, hãng xưởng, hợp tác xã…; những cuộc thi bình giảng, viết luận văn, ca
ngợi và học tập tinh thần Nguyễn Văn Trỗi lan tràn khắp các trường tiểu, trung
và đại học ở Miền Bắc. Cả Miền Bắc trong những năm 1965, 1966… đi đến đâu cũng
thấy những hình ảnh, thơ văn, sách báo,… nhắc đến Nguyễn Văn Trỗi. Rồi phim
ảnh, ca kịch, tuồng, chèo… với nội dung ca ngợi Nguyễn Văn Trỗi cũng đua nhau
xuất hiện. Những con đường Nguyễn Văn Trỗi, hợp tác xã Nguyễn Văn Trỗi, nhà máy
Nguyễn Văn Trỗi, cánh đồng 5 tấn, 10 tấn Nguyễn Văn Trỗi cũng nhan nhản khắp
mọi nơi. Ngay cả bưu điện Miền Bắc cũng bị CS buộc phải cho phát hành con tem
có hình Nguyễn Văn Trỗi.
Thông
thường tâm lý của con người đứng trước một hành động được gọi là “anh hùng”,
người ta thường xúc động, khâm phục, ca ngợi và muốn noi theo hành động “anh
hùng” đó, mà ít khi nghĩ đến hành động “anh hùng” đó đã diễn ra như thế nào, đã
bắt nguồn từ đâu. Thực tế cho thấy, một hành động “anh hùng” có thể diễn ra một
cách vô cùng tàn nhẫn, vô nhân; và có thể xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân
tầm thường nếu không nói là bá đạo, như lòng căm giận, hận thù cá nhân, ảo
tưởng yêu nước, ảo tưởng giải phóng, hay lòng cuồng tín về một thứ chủ nghĩa vô
thần. Một hành động ngang ngược của một người lính Mỹ trên đường phố Sàigòn,
một cái chết oan uổng của một người phụ nữ trong cảnh bom rơi đạn lạc, hay cái
chết của một hài nhi giữa thành phố Hà Nội, khi bị máy bay Mỹ oanh tạc,… đều có
thể là nguyên nhân, tạo nên những hành động, những con người “anh hùng” chạy
theo ảo tưởng “chống Mỹ cứu nước” dưới bóng cờ cộng sản, mà quên mất, chính
cộng sản mới là kẻ thù lớn nhất của dân tộc Việt. Tôi được biết, ở Miền Nam, có
những người chạy vô bưng đi theo cộng sản, chỉ vì những lý do rất “Chí phèo”,
như bị một hai vị trong hội đồng hương xã o ép; hay người yêu bỏ mình chạy theo
một người có tiền tài địa vị trong chính phủ VNCH. Ở ngoài Miền Bắc cũng có
những thanh nam, thanh nữ, ký tên tình nguyện đi bộ đội, đi thanh niên xung
phong, chỉ vì xem một bộ phim tuyên truyền của cộng sản, hay chứng kiến một
cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ trên đường phố.
Khoảng
năm 1966, tôi có tham dự một kỳ thi tại trường cấp 2 Bắc Lý. Trường này được
mệnh danh là “lá cờ đầu giáo dục” tại Miền Bắc. Nghe đâu trường Bắc Lý có kết
nghĩa với một trường học nào đó tại Cuba, nên tại đây có nuôi những con ếch
Cuba, và đôi khi có phái đoàn chuyên gia Cuba viếng thăm. Tại văn phòng nhà
trường có treo một tấm hình rất lớn của Che Guevara. Lúc đó, còn bé, nên chúng
tôi không biết Che Guevara là ai, chỉ biết chung chung, ông ta là một “anh
hùng” của cộng sản Cuba. Nhưng dưới bức hình của Che Guevara có một dòng chữ bỏ
trong ngoặc kép, đại ý: “Che Guevara là con người hoàn thiện nhất trong thời
đại chúng ta”. Bên cạnh câu nói đó có ghi tên người nói là Giăng Pôn Sạc (Jean
Paul Sartre). Lâu ngày, tôi không còn nhớ chính xác, nhưng đại khái là như vậy.
Thời đó, chúng tôi cũng không biết “Giăng Pôn Sạc” là ai, chỉ biết hiệu trưởng
của trường Bắc Lý giới thiệu ông “là người từng được trao giải thưởng nobel văn
chương vào năm 1964 với số tiền thưởng cả triệu Mỹ kim nhưng ông từ chối lãnh
nhận tiền của tư bản”. Giai đoạn đó, tổng sản lượng kinh tế của cả Miền Bắc,
chỉ có khoảng 2 tỷ Mỹ kim, nên tin một nhà văn “từ chối cả triệu Mỹ kim tiền
thưởng của tư bản”, hẳn nhà văn đó phải rất đặc biệt. Vậy mà người đặc biệt đó
lại ca ngợi “anh hùng cộng sản” Che Guevara là “Con người hoàn thiện nhất trong
thời đại chúng ta”, thì rõ ràng, câu nói đó có một giá trị tuyên truyền, đầu độc
thanh niên Miền Bắc rất ghê gớm.
Trước
đó, một triết gia nổi tiếng thế giới, cũng từng đoạt giải Nobel văn chương năm
1950, là Bertrand Russell. Ông cũng đã công khai lên tiếng phản đối Mỹ, và ủng
hộ cộng sản trong cuộc chiến tranh cộng sản xâm lăng Miền Nam, nên cộng sản
Việt Nam đã tận dụng tối đa tiếng nói và uy tín của Bertrand Russell trong việc
xây dựng hào quang chính nghĩa cho cuộc chiến tranh “xâm lăng Miền Nam”.
Đặc
biệt, chuyến viếng thăm Hà Nội của nữ tài tử phản chiến Jane Fonda đã được
guồng máy tuyên truyền của cộng sản Việt Nam tận dụng, nguỵ tạo Jane Fonda trở
thành “tiếng nói của lương tâm thế giới” đối với cuộc chiến tranh Việt Nam.
Hình ảnh Jane Fonda đội nón cối, đi dép râu, mặc áo bà ba, xuất hiện tại những
ụ pháo phòng không ở Miền Bắc, được cộng sản Hà Nội phổ biến rùm beng, đã có
một tác động tâm lý rất mạnh vào giới trẻ, và là nguyên nhân, tạo nên nhiều bi
kịch cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội.
Vì
vậy, có thể nói, trong suốt thời gian xâm lăng Miền Nam, tất cả những ai, vì
bất cứ lý do gì, có những lời tuyên bố, hành động, hay thái độ, bất lợi cho Mỹ,
bất lợi cho VNCH, đều được cộng sản Việt Nam tận dụng, thao túng, đánh bóng cho
hào quang “giải phóng Miền Nam”, ngỏ hầu tạo ảnh hưởng đối với thế giới, đồng thời
bòn rút mồ hôi, xương máu của người dân Miền Bắc. Đó là thảm kịch đau đớn nhất,
bi phẫn nhất cho dân tộc Việt Nam, mà cộng sản Việt Nam là chánh phạm, cùng với
rất nhiều đồng phạm, vì lý do này hay lý do khác, đã tiếp tay cho cộng sản.
KỲ 22
Trước khi được đặt chân lên
những đường phố của Miền Nam Tự Do, tôi đã được thầy tôi và ông Tổng Tu (thông
gia với thầy tôi) nói về cuộc sống tự do, sung túc của Miền Nam. Qua những tấm
ảnh trên bưu thiếp, những tranh ảnh cũ từ thời Pháp thuộc, nhất là những tấm hình
lưu giữ trong tiệm hình của ông anh tôi, tôi ít nhiều hiểu được cái thế giới
Miền Nam, nơi các chị tôi đang sống, hạnh phúc gấp bội so với cuộc sống của
người dân Miền Bắc. Tuy biết trên lý thuyết là như vậy, nhưng phải đợi đến khi
được thực sự sống ở Miền Nam, tôi mới hiểu được cuộc sống tự do, hạnh phúc của
người dân Miền Nam. Và khi hiểu được như vậy, tôi mới thấy nỗi đau đớn của
những người dân Miền Bắc, sống trong tăm tối, ảo tưởng và lừa bịp của chế độ
cộng sản, thê thảm như thế nào. Ngay trong những ngày tháng còn sống trong
trung tâm chiêu hồi Thị Nghè, anh em hồi chánh chúng tôi vẫn nói với nhau, nếu
người dân Miền Bắc ai cũng được vô thăm quan Sàigòn một vài ngày rồi về, thì
chắc chắn, cuộc chiến xâm lăng Miền Nam của CS Hà Nội sẽ phải bị huỷ bỏ, vì
chẳng còn ai tin vào đường lối tuyên truyền lừa bịp của chúng. Cũng vì đã trải
qua tâm trạng đó, nên sau này, tôi đã tìm thấy sự đồng cảm sâu xa ở nhà văn
Dương Thu Hương khi nghe bà nói, sau 1975, vô Sàigòn, nhìn thấy những đường
phố, những tòa nhà và cuộc sống của người dân Miền Nam, bà đã khóc và đau xót
nhận ra, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, kẻ chiến thắng là những kẻ mọi rợ.
Điều phi lý của cuộc chiến
tranh Việt Nam là, trong khi Miền Bắc xâm lăng Miền Nam, theo đuổi một cuộc
chiến phi nghĩa đầy bẩn thỉu, thì người dân Miền Bắc lại sống trong hào quang
giả tạo, xuất phát từ ảo tưởng “chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam”. Trái
lại, trong khi Miền Nam phải chiến đấu trong cuộc chiến tranh chống cộng sản
xâm lăng, có đầy đủ hào quang chính nghĩa và lý tưởng cao quý, thì có nhiều
người sinh ra và lớn lên ở Miền Nam, lại không nhận ra được điều cao đẹp đó,
tìm đường vô bưng, đi theo cộng sản. Đó là do lỗi của ai? Lỗi của gia đình, nhà
trường, chính phủ, hay do hoàn cảnh ân oán, phe nhóm của mỗi cá nhân? Nhưng dù
cho đó có là lỗi của ai, bây giờ nhìn lại, đều thấy chua xót, vì trong cuộc
chiến, Miền Nam đã có chính nghĩa nhưng đã không làm sáng tỏ chính nghĩa đó,
hoặc có làm, nhưng chưa đến nơi đến chốn.
Bây giờ, nhìn trở lại cuộc
chiến tranh Việt Nam, nhiều khi tôi vẫn nghĩ, nếu ở Miền Nam có những văn nghệ
sĩ phản chiến, ít nhiều có tội, làm thiệt hại đến cuộc chiến tranh chống cộng
sản xâm lăng; thì ở Miền Bắc, những người có tội lỗi nhất đối với dân tộc, đất
nước, chính là những văn sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, nhà báo, nhà giáo… đã đóng vai
trò của những văn nô, ký nô cho chế độ. Một người cộng sản, dù có xảo quyệt đến
đâu, khi phun nọc độc tuyên truyền, người nghe bao giờ cũng cảnh giác, thận
trọng. Nhưng một người trí thức, một thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ,… khi dùng cái tài
năng thiên phú của họ, phụng sự cho qủy, thì sự khốc hại bao giờ cũng thê thảm
hơn rất nhiều. Trong suốt 20 năm sống ở Miền Bắc, và sau này suốt mấy chục năm,
theo dõi thơ văn của Việt Nam dưới chế độ cộng sản, tôi phải đau xót thú nhận, hầu
hết những người cầm viết được coi là “thần tượng” của người Việt trên đất Bắc,
đều là những người đã tôn thờ qủy, phục vụ cho qủy, để đánh đổi ơn mưa móc của
chế độ cộng sản, mà nhiều khi ơn mưa móc đó chỉ là vài lạng thịt, ít cần đường
phèn, hay một chiếc vỏ xe đẹp…. Và khi một nhà văn, nhà thơ đã được coi là
“thần tượng” mà lại đi tôn thờ qủy, đánh đổi những vật chất tầm thường, thì sự
tai hại thiệt là vô cùng cho chính họ, cũng như cho những ai tôn thờ họ.
Tôi xin đơn cử một thí dụ, nhà
thơ Chế Lan Viên. Tài thơ văn của nhà thơ Chế Lan Viên có thể nói tuyệt vời.
Tập thơ Điêu Tàn làm lúc ông mới mười mấy tuổi đã cho thấy tài năng thiên phú
của ông. Đáng tiếc và đáng giận, khi ông dùng tài năng của ông viết những vần
thơ ca ngợi chế độ cộng sản, khiến không biết nhiêu thanh thiếu niên, lao đầu
vào chỗ chết, hiến thân xác cho đảng cộng sản, chỉ vì đọc những vần thơ của
ông.
Để ca ngợi cuộc chiến tranh xâm
lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội, Chế Lan Viên viết những câu thơ xao xuyến
lòng người:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Hay khi kêu gọi tinh thần hy
sinh, sẵn sàng dâng hiến tất cả cho “lý tưởng giải phóng Miền Nam” của đảng
cộng sản, Chế Lan Viên đã viết những vần thơ có giá trị liên tưởng, đầy khích
lệ:
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng,
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng…
Đọc những câu thơ trên, quý vị
sẽ thấy, thi sĩ Chế Lan Viên đã đội vương miện, tắm hào quang cho cuộc chiến
tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản. Dĩ nhiên, khi viết những câu thơ đó, Chế
Lan Viên đã biết rõ sự thực của cuộc chiến tranh VN. Sau này, khi bước vào lúc
tuổi xế chiều, Chế Lan Viên đã tỏ ra ân hận rất nhiều, khi ông thú nhận trong
bài thơ “Ai? Tôi!”, trong đó có những câu:
Mậu Thân 2,000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2,000 người đó? Tôi!
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ.
Rất tiếc sự ân hận của ông cũng chỉ có thế.
Bên cạnh những thi nô như Chế
Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Thế Lữ, Phạm Tiến Duật… ở Miền Bắc còn có những cuốn
truyện đầu độc người đọc. Trong số những tác phẩm văn chương ảnh hưởng độc hại
đến trí tuệ, lửa nhiệt tình và quan niệm sống của thanh thiếu niên Miền Bắc, có
2 tác phẩm quan trọng hơn cả là cuốn Ruồi Trâu và cuốnThép
Đã Tôi Thế Đấy.
o O o
Trở lại chuyện tôi ở phủ đặc ủy
tình báo trung ương một thời gian rồi được chuyển về Trung tâm chiêu hồi Thị
Nghè học tập đường lối, chính sách của chính phủ VNCH. Thời đó, chính sách của
VNCH coi tất cả hồi chánh viên cũng bình đẳng như tất cả những công dân khác
của VNCH. Nghĩa là một người khi đã về hồi chánh, người đó sẽ được hưởng tất cả
mọi quyền lợi, cũng như bổn phận như công dân VNCH, trong đó có bổn phận đi
lính, cầm súng bảo vệ tổ quốc trước làn sóng xâm lăng của cộng sản Bắc Việt.
Trong thời gian ở tại Trung Tâm
Chiêu Hồi Thị Nghè, tôi có quen với một anh bạn cũng là hồi chánh viên, trước
quê ở Hải Phòng, tên là Tuấn. Tuấn hơn tôi 2 tuổi, nhưng vì to con, râu quai
nón rậm rạp, nên trông bề ngoài, anh già hơn tôi cả chục tuổi. Vì giường của
tôi và giường của anh ở cạnh nhau, nên chúng tôi thường tâm sự về đủ thứ chuyện
trên đời. Qua chuyện trò tôi được biết bố mẹ của Tuấn đều mất trong thời cải
cách ruộng đất. Vì vậy, Tuấn rất căm thù cộng sản. Cũng giống như tôi, ngay khi
đặt chân lên mảnh đất Miền Nam, Tuấn đã ra chiêu hồi ngay. Tuấn lại có công
giúp quân đội VNCH tìm được mấy hầm vũ khí của VC, nên anh được thưởng một số
tiền khá lớn đến mấy trăm ngàn tiền VNCH lúc đó.
Với người khác, khi có được số
tiền nhiều như vậy thì lo ăn chơi, mua sắm. Nhưng Tuấn thì không. Anh ta nhờ
ông Tài, nhân viên làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, gửi hết số tiền
thưởng vô ngân hàng, rồi anh tình nguyện đi lính đánh cộng sản. Sau này, tôi
được biết, anh bị thương, trở về làm cho tổ chức thiện nguyện là hội Hoàn Cầu
Khải Tượng (World Vision), ở ngay Sàigòn. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975,
anh có điều kiện di tản dễ dàng cùng với các trẻ em mồ côi, nên anh đã tha
thiết rủ tôi đi cùng với anh. Tôi từ chối, vì lúc đó, tôi đinh ninh ba tôi còn
sống, nên tôi nhất định phải ở lại, trở ra Miền Bắc, ghé thăm ba tôi lần cuối,
trước khi vượt biên ra ngoại quốc. Cũng vì tấm lòng tha thiết muốn gặp lại
người cha già, nên ngay ngày 3/5/1975, sau khi cộng sản vừa mới chiếm đóng
Sàigòn, tôi đã dùng giấy tờ giả, trở lại Miền Bắc. Đến khi tới Hà Nội, hay tin
cha tôi đã mất năm 1974, tôi chỉ biết âm thầm ghé thăm một cha, rồi vội vàng
trở vô Miền Nam. Việc tôi ra Bắc, vô Nam trong thời gian cộng sản mới chiếm
Miền Nam đã khiến chính chị ruột của tôi tại Võ Di Nguy Phú Nhuận, cũng nghi
ngờ, cho tôi là một tên hồi chánh giả, làm cho tôi dở khóc, dở cười… Nhưng đó
là chuyện rất dài, tôi sẽ kể hầu qúy vị khi có dịp….
KỲ 23
Được
chuyển về Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè, tôi thấy có rất nhiều chuyện vui mừng,
hạnh phúc và nhiều điều lạ lùng. Giống như một anh Mán từ núi xuống đồng bằng,
một thằng ngố từ rừng vô thành phố, tôi ngỡ ngàng trước cả một thế giới đầy mới
lạ, một cuộc sống náo nức, nhộn nhịp vô cùng. Điều tôi thấy lạ lùng nhất là sự
canh phòng hết sức chểnh mảng đối với tất cả mọi hồi chánh viên. Tôi không
biết, trong số những hồi chánh viên tìm tự do (bộ đội Miền Bắc), cũng như những
hồi chánh viên trở lại với chánh nghĩa quốc gia (bộ đội, du kích Miền Nam), có
ai là hồi chánh giả khiến chính phủ VNCH phải đề phòng hay không, nhưng tôi
thấy, ít nhất là bề ngoài, quân cán chính của chính phủ VNCH làm việc tại Trung
tâm, không hề có bất cứ sự nghi ngờ gì đối với bất cứ hồi chánh viên nào.
Tại
Trung Tâm thời đó cũng có hàng rào bao bọ chung quanh. Cổng ra vô luôn luôn có
lính gác. Cả Trung Tâm có một trung đội lính thay phiên nhau bảo vệ an ninh,
nhưng tất cả mọi hồi chánh viên đều được ra vô tự do, ai muốn đi đâu thì đi, và
đi bao lâu rồi về cũng được. Thậm chí, có nhiều người vào dịp cuối tuần đi luôn
mấy đêm rồi về cũng không thấy ai trong ban Giám Đốc Trung tâm chất vấn, hỏi
han, hay thắc mắc gì. Đối với anh em hồi chánh viên Miền Nam, thường họ có thân
nhân họ hàng tại Sàigòn, hay tỉnh lẻ, nên họ hay đi ra ngoài. Riêng chúng tôi,
những hồi chánh viên Miền Bắc, thì lại rất ngại đi ra ngoài. Phần không biết
đường xá, lại không quen phong tục, tập quán của Miền Nam, phần sợ cộng sản trả
thù, nên chúng tôi chỉ tụ tập chơi bài, đọc sách hoặc xem TV trong một quán ăn
nhỏ nằm cạnh thư viện của Trung tâm.
Trung
tâm chiêu hồi Thị Nghè nằm ngay cạnh sông Sàigòn. Bên kia sông là sở thú, nên
ngày ngày, trông sang sở thú, chúng tôi thấy không biết bao nhiêu trai thanh
gái lịch đi lại tha thướt. Cuộc sống thật vô cùng êm đềm và hạnh phúc. Thấy như
vậy, chúng tôi lại càng thương xót cho những người dân khốn khổ ở Miền Bắc, đã
sống vật lộn từng ngày từng giờ, lại đói khát, thiếu thốn trăm bề, hạnh phúc
gia đình chẳng có, lại phải luôn luôn giả dối đối từ người ngoài, đến người
trong nhà, thậm chí giả dối với ngay cả bản thân.
Một
trong những hình ảnh tạo cho chúng tôi nhiều xao xuyến, thao thức nhất khi mới
đặt chân lên mảnh đất Miền Nam là hình ảnh tà áo dài trắng của nữ sinh Miền
Nam. Sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, chúng tôi chỉ nghe, chỉ đọc và chỉ thấy
những tà áo dài trong sách vở, tranh ảnh, thì làm sao hiểu được “tà áo dài đẹp
nhờ nó có gió”. Còn ở ngoài đời thì cả năm, may mắn trong ngày tết, ngày lễ,
chúng tôi mới có dịp trông thấy tà áo dài…. loại áo tứ thân của mấy bà già,
cùng với chiếc ruột tượng quấn ngang thắt lưng. Những chiếc áo dài đó, không
nói quý vị cũng đủ hiểu, là những chiếc áo vá chằng và đụp, đủ màu sắc khác
nhau. Ngay cả cả những chiếc áo dài lành lặn, thì màu sắc héo úa, cùng tà áo
nhăn nhúm, không một lần được giặt ủi, dù có “quấn quít” theo bước chân của
những bà già, thì làm sao có thể tạo cho chúng tôi được những rung động chân
thành, những thao thức trăn trở như những tà áo dài trắng….
Tôi
không biết có lẩn thẩn hay đần độn gì không, nhưng kể từ khi đặt chân vô Miền
Nam, nhìn thấy tà áo dài trắng của nữ sinh Miền Nam, tôi dám chắc một điều,
suốt 20 năm ở Miền Bắc, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy tà áo dài trắng.
Ngay
bên hông Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè lúc đó có một dẫy phố nho nhỏ. Cứ mỗi
buổi sáng, chúng tôi đứng trong sân, chiêm ngưỡng những cô nữ sinh Miền Nam e
thẹn trong tà áo dài trắng, cắp cặp đi học, người đi bộ, người đi xe đạp, có
người đi Honda… là chúng tôi đủ thấy hạnh phúc tuyệt vời. Ngày đó, tôi nhớ mình
đã ngoài 20 tuổi, đã hết ngây thơ, hết hồn nhiên của tuổi mộng mơ, vậy mà khi
nhìn những cô nữ sinh mặc áo dài trắng đi học, tôi cứ ngây ngây ngô ngô nghĩ
những cô nữ sinh đó không thể nào là “người trần gian”.
Tôi
còn nhớ một kỷ niệm tuyệt vời về một tà áo dài trắng, trong những ngày tháng
khi mới đặt chân lên vùng đất tự do. Khi tôi còn ở trong Phủ Đặc Ủy Tình Báo
Trung Ương, có một cô làm việc trong đó vốn là người Hà Nam, Phủ Lý, nên cô
quen biết với gia đình bà chị của tôi. Nhờ cô giúp đỡ, nên tôi đã nhanh chóng
tìm gặp được tất cả 4 bà chị ở Miền Nam, trong đó có một bà ở Võ Di Nguy, Phú
Nhuận, hai bà ở Vũng Tàu, một bà ở Biên Hòa. Mỗi tuần, vào chiều thứ sáu, hoặc
chiều thứ bảy, tôi lại đi xe lam từ Thị Nghè về Võ Di Nguy qua ngả Bà Chiểu để
thăm bà chị. Trong một chuyến xe lam về Võ Di Nguy thăm chị vào một buổi chiều
thứ bảy, tôi được cái may mắn ngồi đối diện một cô nữ sinh mặc áo dài trắng…
trên suốt chặng đường từ Thị Nghè đến Lăng Ông, Bà Chiểu. Trong chiếc xe lam
chật chội, tối tăm vào buổi chiều hôm đó, nhờ tà áo dài trắng nên tôi thấy
trong xe sáng hẳn lên. Tuy kỷ niệm chỉ đơn sơ và vỏn vẹn có bấy nhiêu thôi,
nhưng chẳng hiểu sao suốt bao nhiêu năm trôi qua, trải qua bao nhiêu sóng gió,
hiểm nguy sinh tử của một đời người, cho đến nay tôi vẫn nhớ đến hình ảnh tà áo
dài trắng vào buổi chiều hôm đó trong những rung động thanh cao, tinh khiết…
Thế
mới biết, trong cuộc sống thường nhật của mỗi chúng ta, nhiều khi chỉ một nụ
cười, một ánh mắt, một tà áo dài, một mái tóc, một bờ vai gầy hay có khi chỉ là
một nhân dáng khi đứng, khi đi, khi ngồi,… cũng để lại cho lòng mình một niềm
hạnh phúc mãi mãi ngân nga, để rồi kỷ niệm đó mãi mãi tươi trẻ xuyên suốt cùng
năm tháng, bất kể thời gian, bất chấp không gian và sự chìm nổi, sướng khổ của
mỗi đời người…
Nhưng
kỷ niệm về tà áo trắng trên mảnh đất Miền Nam đối với tôi chẳng phải chỉ có bấy
nhiêu. Sau này, được đọc những vần thơ trong bài thơ Áo Lụa Hà Đông của Nguyên
Sa; Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư; rồi được nghe những bài hát của
Trịnh Công Sơn, của Phạm Duy,… tôi mới thấy chính cuộc sống tự do, giầu tình
cảm, đậm đà văn hiến của người dân Miền Nam đã giúp cho ngôn ngữ Việt Nam, giá
trị thẩm Mỹ của người Việt Nam, cùng tâm hồn của người Việt Nam vươn tới những
chân trời mới, khiến cuộc sống của mỗi người trở nên hạnh phúc hơn, thi vị hơn,
đáng sống hơn.
Tiếc
rằng, nếu cái tâm hồn đậm đà thi vị, bát ngát tình người của người Hà Nội cách
đây nửa thế kỷ đã bị mai một cùng với bước chân “tiếp quản thủ đô” của người bộ
đội vào năm 1954, thì từ năm 1975 cho đến nay, tại Miền Nam, cái đằm thắm tình
người ấy, cái đậm đà văn hiến ấy của người dân Miền Nam cũng đã bị tàn phá cùng
với xích sắt xe tăng của người bộ đội Miền Bắc khi CS chiếm được Miền Nam.
Cũng
giống như không biết bao nhiêu thi sĩ tài hoa trên đất Bắc, sau khi cộng sản
cưỡng chiếm được một nửa nước vào năm 1954, bỗng một sớm một chiều thấy cạn
dòng cảm hứng, thấy mình hết thành tiên, thành thánh; sau 1975, không biết bao
nhiêu thi sĩ, văn nhân tài hoa của Miền Nam, cũng dần dần chìm sâu vào cuộc
sống tem phiếu, vật chất, bon chen, kèn cựa lừa lọc giữa dòng đời, để rồi một
ngày nào đó, bỗng nhiên nhận ra, những vần thơ, bản nhạc tuyệt vời do mình sáng
tác ngày nào, bây giờ chỉ còn là những phút giây xuất thần mãi mãi chìm trong
quá khứ. Sự thực, cùng với sự chiếm đóng của cộng sản, rất ít những bài thơ
hay, những bản nhạc hay được sáng tác tại Miền Bắc sau năm 1954, cũng như tại
miền Nam sau 1975. Đó là sự thực đau lòng cho dân tộc Việt Nam…
Vào
một buổi chiều, đang thơ thản chơi ở sân Trung tâm Chiêu hồi Thị Nghè, thì anh
Lộc, một người gốc Hà Nội, đã về chiêu hồi trước tôi mấy năm, đang làm thuyết
trình viên cho Bộ Chiêu Hồi, ghé chơi và giới thiệu tôi với ông Đại uý Hiệu,
người phụ trách một số chương trình phát thanh tình báo, địch vận của VNCH
trong đó có đài Gươm Thiêng ở bên Cư Xá Thành Tín, ngay góc đường Hồng Thập Tự
và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì phải. Vì đã lâu, nên tôi không còn nhớ chính xác. Nếu
có sai sót, mong quý vị bỏ qua.
Trong
dịp trò chuyện với Đại uý Hiệu, ông yêu cầu tôi viết bài rồi chính tôi đọc bài
mình viết trên đài phát thanh. Tôi vui vẻ nhận lời, vì trong thâm tâm, tôi muốn
nói cho tất cả bạn bè, thân nhân của tôi ở Miền Bắc biết về bộ mặt thật của
cộng sản, biết về sự thật đời sống sung túc, tự do hạnh phúc của người dân Miền
Nam, biết họ đã bị cộng sản lừa bịp một cách trắng trợn. Thấy tôi vui vẻ nhận
lời, ông Hiệu rất mừng. Ông cũng cho tôi biết, tốt nhất, khi viết bài, tôi nên
dùng tên thật. Ông hỏi tôi có ngại ngùng gì khi dùng tên thật của mình lúc viết
bài, cũng như khi đọc bài trên đài phát thanh hay không. Tôi trả lời, tôi sẵn
lòng dùng tên thật, Nguyễn Hữu Chí, có vậy, bạn bè, thân nhân mới biết tôi là
ai và như vậy, họ mới tin vào những điều tôi nói….
KỲ 24
Sau
khi nhận lời Đại uý Hiệu, suốt thời gian kế tiếp nhiều năm trời, tôi đã liên
tục viết bài và trực tiếp đọc những bài viết đó trong những chương trình phát
thanh hướng về Miền Bắc. Tôi nói rõ họ và tên thật của tôi, quê quán của tôi,
những kỷ niệm kinh hoàng tôi đã trải qua trên đường xâm lăng Miền Nam, những sự
thực tôi đã chứng kiến, những luận điệu tuyên truyền của cộng sản đã bịp bợm
như thế nào. Tôi cũng mô tả tất cả những niềm xúc động của tôi khi được chứng
kiến cuộc sống tự do, sung túc của người dân Miền Nam….
Tôi
không biết những bài viết của tôi kết quả như thế nào, nhưng tôi biết chắc một
điều, những chương trình phát thanh đó đã đến tai nhiều người trên đất Bắc. Có
hai bằng chứng rõ ràng để tôi nói như vậy. Bằng chứng thứ nhất là vào tháng 5 năm
1975, khi trở lại Miền Bắc, tôi đã nghe bạn bè kể về những chương trình phát
thanh có bài viết của tôi. Bằng chứng thứ hai, sau 30-4-1975, trong một lớp học
“cải tạo” tại Vũng Tàu, chính cán bộ cộng sản đã đích danh mang tên của tôi,
Nguyễn Hữu Chí, cùng quê quán của tôi, ra nguyền rủa. Trong số những người phải
ngồi học tập “cải tạo” hôm đó, có người cháu ruột gọi tôi bằng cậu, trước ở
Vũng Tàu, và hiện đang sống ở Úc. Lúc đó, tôi đã bị cộng sản bắt vô tù, đến khi
tôi vượt ngục được thì cả gia đình người chị cùng với người cháu đã vượt biên
thành công và định cư ở Úc. Câu chuyện này mãi đến khi tôi vượt biên sang Úc,
gặp lại người cháu, mới được nghe kể.
Trong
những ngày tháng ở Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, qua một số người bạn, tôi được
biết, bên Bộ Chiêu Hồi cần tuyển dụng những người về chiêu hồi làm thuyết trình
viên. Mục đích là để chính những người chiêu hồi từng là bộ đội Miền Bắc, hoặc
là những người vô bưng theo “Mặt Trận Giải Phóng”, kể lại những sự thực mắt
thấy tai nghe bên phía cộng sản. Qua đó, quân dân cán chính của Miền Nam hiểu
rõ kẻ thù cộng sản như thế nào, và biết rõ cuộc chiến đấu của người dân Miền
Nam nhằm chống cộng sản xâm lăng, có hào quang chính nghĩa ra sao.
Biết
được tin này, lập tức tôi nộp đơn xin làm thuyết trình viên. Vì ông anh rể tôi
lúc đó làm cảnh sát, phòng căn cước, từng thường xuyên ra vô Trung Tâm Chiêu
Hồi chở tôi về nhà ở Võ Di Nguy Phú Nhuận, nên ông thường khuyên tôi cố gắng
thi vô thuyết trình viên. Theo yêu cầu của ban tuyển dụng thuyết trình viên lúc
bấy giờ, mỗi ứng viên phải thuyết trình một đề tài, trước một ban giám khảo.
Tôi nhớ ngày ấy tôi chọn đề tài “Nhân Văn Giai Phẩm trên đất Bắc”. Trong số
những vị giám khảo ngồi nghe tôi thuyết trình hôm đó có ông Võ Đại Tôn, một
người đàn ông tôi thấy có phong độ hào hoa như một tài tử xi nê. Thời điểm đó,
tôi không ngờ, trong cuộc đời trôi dạt của tôi suốt mấy chục năm về sau, lại có
nhiều duyên hạnh ngộ với ông Võ Đại Tôn. Và tôi có thể nói, kể từ khi đặt chân
lên Miền Nam tự do, trong số những người để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, nhiều
ảnh hưởng, trên nhiều phương diện, ông Võ Đại Tôn là người đầu tiên tôi được
tiếp xúc, được học hỏi, và cho đến nay, ông vẫn có những ảnh hưởng to lớn và âm
thầm đối với đời sống tinh thần và lý tưởng của tôi.
Hôm
đó, tôi nhớ là tôi trình bầy trong khoảng nửa tiếng đồng hồ, và sau đó, tôi
được chấm đậu. Tôi đinh ninh với nghề thuyết trình viên, tôi sẽ được đi đây đó
trên 4 vùng chiến thuật. Nhưng không ngờ, trong buổi lễ mãn khóa chiêu hồi, tôi
được yêu cầu đọc một bài cảm tưởng trước mặt quan khách, trong đó có ông Trần
Trường Khanh, Trưởng phòng Thông tin Quốc nội thuộc Nha Công Tác. Khi nghe tôi
đọc, thấy tôi có giọng Bắc đặc, nên ông Trần Trường Khanh xin cho tôi chuyển
sang Phòng Thông Tin Quốc Nội để làm xướng ngôn viên.
Tuy
thích làm nghề thuyết trình, những phần tôi rất kính trọng ông Trần Trường
Khanh, phần thấy điều kiện làm xướng ngôn viên quá thoải mái, nên tôi ưng
thuận. Ông Khanh cho tôi biết, mỗi tuần tôi chỉ cần đến Đài Phát Thanh Sàigòn 2
lần và Đài Quân Đội 2 lần để thu âm, một lần 4 chương trình và một lần 3 chương
trình. Mỗi chương trình khoảng 1 tiếng, nhưng phần việc của xướng ngôn viên chỉ
khoảng 10 đến 15 phút. Còn lại là ca nhạc, kịch, truyện truyền thanh… Ngoài ra,
tôi cũng phải đến Đài Truyền Hình VN một, hay hai lần (tôi không nhớ rõ) để thu
chương trình cho Bộ Chiêu Hồi. Sau này, Nha Công Tác chuyển về 172 Hiền Vương,
mỗi tháng, vào Thứ Hai đầu tháng, tôi phải ghé lại để chào cờ.
Thời
gian đó, tôi còn quá trẻ nên sống rất ngây ngô, không có một định hướng gì rõ
ràng cho cuộc đời. Mặc dù giờ làm việc có không đầy 10 tiếng đồng hồ trong suốt
một tuần lễ, nhưng phần lớn thời gian còn lại của tôi đều dành để “ngốn” sách.
Hầu hết tại các thư viện của Bộ Thông Tin ở đường Phan Đình Phùng, Thư viện của
các đài phát thanh, Thư viện Quốc gia, rồi nhà sách Khai Trí, các tiệm sách cho
thuê… tôi đều tìm cách làm quen để được mượn sách hay coi cọp.
Cũng
vì sống ngây ngô và đam mê đọc sách như vậy, rồi một phần cũng do làm xướng
ngôn viên quá thoải mái, không có đòi hỏi gì nhiều, lại không có điều kiện tiếp
xúc, gặp gỡ với nhân viên của Bộ, nên tuy làm việc ở Bộ Chiêu Hồi, tôi hiểu
biết rất ít về cơ cấu tổ chức và các hoạt động của Bộ. Vì vậy, khi viết đến Bộ
Chiêu Hồi, nơi tôi làm việc gần 3 năm trời tính đến ngày 30-4-1975, tôi đã
email cho ông Võ Đại Tôn, để nhờ ông giúp đỡ. Sau đây là những ý kiến đóng góp
quý báu của ông Võ Đại Tôn, tôi xin được đăng nguyên văn để quý độc giả thấy rõ
sự sáng suốt và lòng nhân đạo của chính phủ VNCH, cùng sự thành công đặc biệt
của Bộ Chiêu Hồi, trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm ban hành quyết định thành lập Chương Trình Chiêu Hồi vào
ngày 17 tháng 4 năm 1963, theo đề nghị của Cơ Quan Nghiên Cứu Việt Mỹ và Viện
Trợ Mỹ (USOM). Ý kiến tiên khởi do Sir Robert Thompson, chuyên viên Tâm Lý
Chiến của cơ quan Anh quốc viện trợ cho VNCH đề xướng. Chương trình được phát
triển mạnh, đạt kết quả tốt, và được nâng cấp thành một Bộ trong chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa từ năm 1968. Ngân sách dùng cho Bộ Chiêu Hồi do ngân sách Viện Trợ
Mỹ đài thọ.
-
Bộ Chiêu Hồi phối hợp hoạt động với Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Bộ Quốc Phòng, các
Quân Binh Chủng, Bộ Thông Tin, Cơ Quan Thông Tin Mỹ (JUSPAO), Cơ Quan Viện Trợ
Mỹ (USOM), Cố Vấn Mỹ, Tổng Cục Chíến Tranh Chính Trị QLVNCH, Cục Trung Ương
Tình Báo, Cục An Ninh Quân Đội, Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Sở Công Tác thuộc
Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu, Chiến Dịch Phượng Hoàng, các Đài Phát Thanh/Truyền
Hình Quân Đội và Quốc Gia, Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, Đài Mẹ Việt Nam, Báo Chí……
-
Bản nhạc “Tung Cánh Chim Tìm Về Tổ Ấm…” được dùng làm nhạc hiệu cho các Chương
Trình Chiêu Hồi.
-
Nhiều loại Truyền Đơn đã được thực hiện để rải xuống các vùng VC, kể luôn cả
loại Giấy Thông Hành, có in quốc kỳ VNCH và quốc kỳ Đồng Minh. Có cả loại
Truyền Đơn kêu gọi giao nạp vũ khí có thưởng tiền mặt khi cán binh VC ra hồi
chánh, mang theo vũ khí. Ngay cả quân đội Úc Đại Lợi tham chiến tại VN cũng có
một mẫu truyền đơn riêng dùng trong các chiến dịch Tâm Lý Chiến để kêu gọi Hồi
Chánh trong các cuộc hành quân (Xuân Đoàn Tụ)…
-
Tính theo Tổng Chi Phí Chiến Tranh VN, thì tổng chi phí để kêu gọi một cán binh
VC ra hồi chánh là: 14 Mỹ kim vào năm 1963, 250 Mỹ kim năm 1967, 350 Mỹ kim năm
1969 và 500 Mỹ kim năm 1970. Tính trung bình là chi phí 125 Mỹ kim cho chương
trình kêu gọi một cán binh VC ra hồi chánh trong chiến tranh VN, so với hàng
trăm ngàn Mỹ kim để tiêu diệt một cán binh VC trong các cuộc hành quân.
-
Tính cho đến tháng Tư năm 1975, đã có gần 200,000 cán binh VC (kể cả Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam và quân chính quy Bắc Việt) ra hồi chánh, trong số này có
15,000 là bộ đội miền Bắc. Tổng Nha Bưu Điện, phối hợp với Bộ Chiêu Hồi phát
hành tem thư kỷ niệm 200,000 hồi chánh viên quay về với phía Quốc Gia, vào năm
1974.
-
Trong tổng số hồi chánh viên này, đã có một số đông tham dự vào các cuộc hành
quân với quân đội Đồng Minh và QLVNCH, có hơn 700 hồi chánh viên được tuyển mộ
đặc biệt để thành lập những trung đội tác chiên phối hợp với quân đội Đồng
Minh, gọi là các Toán Vũ Trang Tiền Đạo “Kit Carson”, chuyên về Tình Báo, chỉ
điểm mục tiêu quân sự, đặc biệt là các mục tiêu tại miền Bắc và đường mòn Hồ
Chí Minh, kết quả rất cao về mặt quân sự, tình báo.
-
Ngoài Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương tại Thị Nghè, Gia Định, còn có tổng côïng
47 trung tâm tỉnh. Bên cạnh các trung tâm Chiêu Hồi lớn như tại Đà Nẵng,
Pleiku, Biên Hòa, Cần Thơ…. còn có các Làng Hồi Chánh tại các tỉnh lớn miền Nam
và miền Trung.
BỘ
CHIÊU HỒI: Bộ Chiêu Hồi đặt tại đường Lê
Thánh Tôn, Saigon, trước mặt Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH. Nha Công
Tác, Bộ Chiêu Hồi, có cơ sở riêng đặt bên cạnh Bộ Chiêu Hồi. Bộ Chiêu Hồi gồm
có: 1) – Nha Quản Trị (hành chánh và ngân sách). 2) – Nha An Ninh Tình Báo. 3)
– Nha Công Tác. 4) Các Trung Tâm Hồi Chánh Trung Ương và Tỉnh.
NHA
CÔNG TÁC BỘ CHIÊU HỒI: Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, có
thể coi là Nha lớn nhất thuộc Bộ Chiêu Hồi, gồm có các Sở- Phòng: – Sở Huấn
Chính – Sở Tuyên Vận – Sở Huấn Nghệ – Các Biệt Đoàn Vũ Trang Tuyên Truyền – Các
Đoàn Chuyên Viên Huấn Chính (Thuyết Trình Viên) – Các Chương Trình Phát Thanh
và Truyền Hình Chiêu Hồi – Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương Chiêu Hồi – Quản Trị
mọi công tác Chiêu Hồi trong các Ty và Chi Chiêu Hồi toàn quốc – Các Làng Hồi
Chánh – Phối Hợp Tình Báo – Quân Sự – Huấn Luyện Vũ Trang / Hành Quân – với các
Bộ/Cục QLVNCH và Đồng Minh, Cơ Quan Quân Sự Hoa Kỳ, Viện Trợ Mỹ và Phòng Thông
Tin Hoa Kỳ (JUSPAO).
Các
vị Giám Đốc Nha Công Tác Bộ Chiêu Hồi đều được biệt phái từ Bộ Tổng Tham Mưu
QLVNCH qua đảm nhiệm chức vụ, đa số đều là Sĩ Quan Cấp Tá, thuộc ngành Tình
Báo, Quân Báo. Vì lẽ, ngoài các công tác chuyên môn về mặt Tuyên Vận công khai
(ấn loát các loại truyền đơn, báo chí như nguyệt san QUÊ MẸ), các chiến dịch
tuyên vận, các chương trình văn nghệ, truyền hình, phát thanh (hàng tuần trên
Đài Truyền Hình Quốc Gia và trên Đài Phát Thanh Saigon), các chương trình hội
nhập Đời Sống Mới, tuyển dụng nghề nghiệp…, còn có các công tác Mật về quân sự
và Tình Báo, xâm nhập các vùng mật khu Việt Cộng, phối hợp hành quân, địch vận.
Vào
năm 1972, Trung Tá Võ Đại Tôn biệt phái từ Quân Đội sang Bộ Chiêu Hồi và được
cử đảm nhiệm Giám Đốc Nha Công Tác, thay thế Đại Tá Phạm Đăng Tấn (Đại Tá Phạm
Đăng Tấn hiện nay ở Virginia, đang bệnh nặng). Cuối năm 1972, Trung Tá Võ Đại
Tôn, Giám Đốc Nha Công Tác, hướng dẫn phái đoàn Hồi Chánh Viên (10 người) sang
công du Thái Lan trong 2 tuần lễ để thuyết trình về Thành Quả Chương Trình
Chiêu Hồi do Chính Phủ Thái Lan mời.
Trong
Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, một số đông các Hồi Chánh Viên cao cấp đã được
tuyển dụng giữ những chực vụ quan trọng, trong đó có cựu Trung Tá Bộ Đội Bắc
Việt là Lê Xuân Chuyên (bị CS tử hình vào ngàyu 30.4.1975), nhà văn Xuân Vũ
(tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến – Vượt Trường Sơn – đã qua đời tại Texas năm
2002), các ca sĩ Đoàn Chính, Bùi Thiện, và Bùi Công Tương làm Chánh Sở Tuyên
Vận.
Tôi và đứa con trai đầu lòng
sanh năm 1974 tại Sàigòn
KỲ 25
Ngay
khi được đặt chân lên Miền Nam Tự Do, cảm tưởng đầu tiên của tôi là Miền Nam
nhất định sẽ thắng Miền Bắc. Nhìn vào sức mạnh quân sự của VNCH và những căn cứ
quân sự khổng lồ của Mỹ để lại ở Đà Nẵng lúc đó, tôi tin tưởng mãnh liệt, cộng
sản Bắc Việt sẽ thảm bại. Nhưng trong những năm tiếp theo, tôi dần dần cảm thấy
chính sự tự do của Miền Nam khiến cho sức chiến đấu chống cộng sản xâm lăng,
của Miền Nam bị suy giảm. Quyền tự do cá nhân của người dân Miền Nam quá lớn so
với người dân Miền Bắc. Trong một xã hội dân chủ thời bình, đó là một đặc tính
ưu việt. Nhưng trong chiến tranh, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự đoàn kết
của quân dân đằng sau vị nguyên thủ quốc gia. Đúng ra, nếu đem so sánh đời sống
tinh thần, vật chất, tính nhân bản, cùng những giá trị văn hóa của người dân
hai miền Nam Bắc, nhiều người đã có lý khi cho rằng, trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, thà thua trận mà được làm người dân Miền Nam, còn sung sướng hạnh
phúc hơn là thắng trận mà phải làm người dân Miền Bắc.
Quả
thực, sống ở Miền Nam tôi nhận ra, một xã hội có văn hiến, mọi người sống có
tình nghĩa, biết yêu thương đồng loại, trân trọng những giá trị tinh thần, một
khi phải đối diện với một kẻ thù tàn nhẫn, xảo quyệt, bất lương, chỉ biết tôn
thờ sức mạnh, và coi nòng súng là lẽ phải, làm sao xã hội có văn hiến đó có thể
chiến thắng?
Trong
suốt thời gian chiến tranh cũng như sau chiến tranh, phải vô các trại cải tạo,
phải chứng kiến những tội ác man rợ của cộng sản, những sự tàn nhẫn bất lương,
thủ đoạn lường gạt, đầy tráo trở của cán bộ, quản giáo, từ người già đến người
trẻ, từ cấp cao đến cấp thấp trong chế độ cộng sản, nhiều người Miền Nam đã
thẳng thắn thừa nhận: Người cộng sản đểu giả quá. Mình không thể nào thắng họ
được. Thà chấp nhận thua họ, chứ đểu như họ để có thể thắng họ thì mình không
làm được.
Trong
chiến tranh Việt Nam, một trong những điều bạc ác, bất nhân, thất đức nhất của
người cộng sản là chiến tranh du kích. Sự thực, chiến tranh du kích là đường
lối chiến thuật được kẻ yếu áp dụng để đối phó với kẻ thù mạnh. Đặc tính của
một cuộc chiến tranh du kích thuần túy là người du kích tấn công đối phương vào
lúc bất ngờ để giành tối đa hiệu quả chiến đấu, giết được nhiều kẻ thù nhất, ít
thiệt hại về nhân mạng và vũ khí, đạn dược nhất. Trong lịch sử chiến tranh thế
giới cũng như Việt Nam, chiến tranh du kích được áp dụng tại nhiều nơi, nhiều
lúc và không ai đặt câu hỏi về sự phi nhân của chiến tranh du kích. Tuy nhiên,
đối với cộng sản Việt Nam, chiến tranh du kích không phải là đường lối chiến
thuật thuần tuý mà là cả một hình thức vận động chiến tàn ác, với thủ đoạn,
khai thác tối đa sự hiện diện của thường dân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và ông
bà già, vào cuộc chiến để làm bia đỡ đạn. Bằng cách trà trộn với thường dân,
tấn công đối phương, cộng sản Việt Nam đạt được ba mục tiêu. Thứ nhất, tiếp cận
và tấn công đối phương nhanh chóng bất ngờ. Thứ hai, qua những thương vong
không tránh khỏi cho thường dân, CS thổi bùng lòng hận thù trong lòng họ. Thứ
ba, mỗi khi thường dân bị chết, cộng sản sẽ dùng xác thường dân để tuyên
truyền, quy chụp tội ác chiến tranh cho đối phương. Thứ tư, gây ác mộng và
khủng hoảng tâm lý triền miên cho đối phương.
Tham
chiến tại Việt Nam, một người lính VNCH, hay người lính Mỹ, lính đồng minh nói
chung, đều mang vô cuộc chiến tinh thần thượng võ, cùng những giá trị nhân bản
và văn hóa mà họ đã thu thập được trong nhà trường, ngoài xã hội… Nhưng một khi
trận chiến bùng nổ, trong cảnh súng đạn tơi bời, tính mạng bị nguy hiểm, đồng
đội chiến hữu thân yêu nhất bên cạnh lần lượt bị hy sinh, trong khi kẻ thù lại
ẩn nấp trong dân, không chịu lộ diện, thì sự bình tĩnh, tỉnh táo của người lính
luôn luôn có giới hạn. Hậu quả, một khi có những thảm kịch như thảm kịch Mỹ Lai
xảy ra, mọi người đều dí tay vào trán những người lính Mỹ, mà quên mất, chính
những người cộng sản Việt Nam mới là chánh phạm cố tình cố ý sắp đặt để tạo nên
những thảm kịch đó một cách có hệ thống và chủ trương.
TÔI
MẤT TỰ DO!
Được
sống dưới vùng trời tự do không đầy 4 năm, thì cả Miền Nam bước vào biến cố
30-4-1975. Thời gian đó, tôi đang sống trong một căn phòng nhỏ thuộc Bộ Thông
Tin Chiêu Hồi ở 272 Hiền Vương. Trong những tuần lễ cuối cùng của tháng 4, ông
Trần Trường Khanh có cho tôi một địa chỉ ở Cần Thơ và lời nhắn nhủ, hãy về đó
cố thủ!
Trước
những tin tức ngày càng bất lợi, hầu hết anh em thuộc thành phần chiêu hồi đều
lo lắng. Ai cũng biết, một khi Sàigòn thất thủ, thành phần chiêu hồi sẽ bị cộng
sản trả thù khủng khiếp nhất, nếu không bị xử bắn thì cũng bị tù chung thân. Vì
vậy, những anh em có gia đình đều lần lượt tìm cách ra đi. Riêng tôi, trong
suốt những năm tháng sống ở Miền Nam Tự Do, hình ảnh người cha già lưng còng,
râu tóc bạc phơ, lúc nào cũng nhường cơm xẻ áo, thương yêu đùm bọc tôi trong
muôn vàn nỗi cơ cực thiếu thốn, luôn luôn hiện về như một ám ảnh thường trực…
Cùng với hình ảnh người cha già, tôi còn không biết bao nhiêu niềm ân hận, nỗi
xót xa, về những tội lỗi của tôi khi tôi đối xử với cha tôi như một người “địa
chủ tàn ác có tội với nông dân”. Chính trong niềm ân hận sâu xa đó, tôi muốn
được trở về Miền Bắc, được gục vào lòng cha già để được khóc, được thổn thức
nói: “Con Xin Lỗi Cha!”
Tôi
cũng muốn về Hà Nội, để được gặp lại người mẹ muôn vàn đau khổ của tôi. Trong
suốt thời gian 20 năm sống ở Miền Bắc, tôi chỉ ghé thăm mẹ tôi hơn chục lần vào
dịp tết nhất hay nghỉ hè. Những lần gặp gỡ đó, tôi ít có khi nào chịu ngồi hàn
huyên tâm sự với mẹ. Tôi có một tính xấu trong suốt cuộc đời là mê đọc sách.
Bất cứ khi nào, hễ rảnh một chút là cầm quyển sách, tờ báo. Vì vậy, mỗi khi lên
thăm mẹ, tôi bao giờ cũng mang theo một vài quyển sách, hay ra tiệm cho thuê
sách, mướn sách về coi. Sách vở mang đến cho tôi kiến thức, niềm vui, nhưng
sách vở cũng khiến cho cuộc đời tôi thêm cô độc. Buông quyển sách đang coi,
trong vài chục phút, có khi vài tiếng đồng hồ sau, tâm trí của tôi vẫn còn luẩn
quẩn bên cạnh cuộc đời của các nhân vật trong sách. Tôi biết mẹ tôi thương tôi
lắm. Tôi cũng thương mẹ tôi vô cùng vì tôi biết, trong thâm tâm, mẹ tôi vẫn
buồn buồn với mặc cảm lỗi lầm, đã đẻ tôi ra mà không chịu nuôi tôi… Nhưng qua
câu chuyện của thầy tôi sau này, tôi hiểu, mẹ tôi không hề có lỗi gì. Không
những thế, trong hoàn cảnh mới sanh ra tôi, mẹ tôi đã trải qua những nỗi đau
khổ chất ngất của một người mẹ bị cướp mất con ngay tại bệnh viện Bạch Mai, và
bị đuổi khỏi nhà sau đó…
Thời
gian sau này, sau khi được gặp lại mẹ, tôi có ghé thăm mẹ, có cùng mẹ đi chùa,
và về quê ngoại ở núi Đọi Đệp ngay cạnh sông Châu. Trong những lần đó, tôi vừa
muốn nũng nịu để được mẹ nuông chiều, lại vừa ngại ngùng xa cách. Một người con
trai 15, 16 tuổi, xa mẹ suốt cả thời gian 15, 16 năm, làm sao có thể ôm ấp mẹ
một cách thân mật, đằm thắm trong tình mẫu tử như mẹ con của những người khác…
Ngày xưa, khi sống gần mẹ lúc tôi chưa đầy 20, nên còn ngây thơ, ham vui và cư
xử thiếu suy nghĩ. Nhưng trong những năm tháng được sống ở Miền Nam, qua sách
vở, phim ảnh, và tình người, tâm hồn tôi được bồi đắp, tình cảm tôi được vui
xới, nên dần dần tôi nhận ra những tình cảm thiêng liêng con người cần phải ấp
ủ, trong đó có tình mẹ con, tình cha con. Tôi biết, trên chặng đường trở về
Bắc, tôi sẽ đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất
cả, để đánh đổi những giây phút hạnh phúc được gặp cha gặp mẹ.
Tại
Trung Tâm Hiền Vương lúc đó có anh bạn cũng chiêu hồi, lái xe cho ông Bùi Công
Tương, Chánh Sở Tuyên Vận. Chiều 28, hay 29 tháng 4 năm 1975, tôi không nhớ rõ,
anh ghé phòng tôi, rủ tôi ra bến Bạch Đằng để tìm được đi. Tôi từ chối, nhưng
không nói rõ lý do tôi sẽ về Bắc. Sau đó, anh về phòng của anh mang sang cho
tôi một bọc tiền, không hiểu anh lấy từ đâu. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi chia
tay. Từ đó đến nay, tôi không nghe được tin tức gì về anh.
Hai
hôm trước đó, chị Tuyên, cũng là xướng ngôn viên cho Bộ Chiêu Hồi, có ghé thăm
tôi và dục tôi tìm đường đi, đừng dại dột ở lại để cộng sản bắt. Trước đó, ngày
25, anh Hải, người Hải Dương, làm cho hội từ thiện Hoàn Cầu Khải Tượng cũng đến
nhà ông anh rể ở Võ Di Nguy Phú Nhuận rủ tôi đi, nhưng tôi từ chối. Với anh
Hải, tôi nói thật ý định sẽ về Bắc của mình.
Vì
sống với cộng sản 20 năm, quá đủ để tôi hiểu về con người cùng chế độ cộng sản.
Vì vậy, ngay khi cộng sản chiếm đóng Sàigòn ngày 30-4-1975, thì ngày 3-5-1975,
tôi lên đường trở lại Miền Bắc cùng với người bạn tên Bình. Để có thể qua mặt
các trạm kiểm soát trên đường về Bắc, cả hai chúng tôi đều đóng vai bộ đội với
đầy đủ quân phục, nón cối, dép râu và giấy tờ. Tất cả những thứ này do Bình mua
lại từ một tay bộ đội thuộc loại “lao công đào binh” gốc Hải Phòng.
Sàigòn
lúc đó, tuy vừa trải qua cơn ác mộng binh lửa do người cộng sản mang lại, nhưng
cùng với viễn ảnh đất nước từ nay không còn chiến tranh, nên người dân Sàigòn
vẫn còn rất thích giúp đỡ bộ đội. Thêm vào đó, trong những ngày đầu tiên mới
đặt chân lên đường phố Sàigòn, những người bộ đội vẫn còn ngây ngô, ngốc nghếch
trước những tòa cao ốc, những đường phố nhộn nhịp xe cộ, và đời sống sầm uất
của Sàigòn. Vì vậy, trong bộ quần áo bộ đội, với kinh nghiệm và vốn sống của
những người đã sống ở Sàigòn mấy năm, chúng tôi dễ dàng qua mắt tất cả những
người bộ đội của đoàn quân viễn chinh cộng sản Miền Bắc.
Chặng
đường đầu tiên của chúng tôi từ Sàigòn đi Nha Trang bằng xe đò thật êm ả. Từ lơ
xe, đến tài xế, hành khách trên xe, đều có thái độ vừa vui vẻ lại vừa có chút
ngại ngùng đối với dân nón cối dép râu. Trên đường đi, tuy có các trạm kiểm
soát của bộ đội, nhưng chúng tôi đều qua mặt dễ dàng. Đến Nha Trang, chúng tôi
ghé vô một tiệm ăn, tính ăn uống xong, sẽ kiếm khách sạn ngủ tạm một đêm, chờ
hôm sau đáp xe đò đi tiếp chặng đường ra tới Quảng Trị. Đoạn đường gay go là từ
Quảng Trị ra Đồng Hới lúc đó chưa có xe đò. Chúng tôi hy vọng, sẽ quá giang xe
quân sự trên chặng đường này….
Trong
lúc chúng tôi đang ngồi ăn trong một tiệm ăn ở Nha Trang, bỗng dưng trước cửa
tiệm, hai chiếc xe jeep của quân đội Mỹ thắng lại. Từ hai chiếc xe một toán bộ
đội khoảng hơn chục người ào xuống, bước vô tiệm, khí thế rất hùng hổ. Hai
người đi đầu tuổi ngoài 50, nhưng dáng dấp lanh lẹ, chủ động, tự tin. Cả hai
đều chống gậy trúc bóng lưỡng, nhưng không hề đeo ba lô hay súng ống gì. Người
đi bên trái, mặt vuông chữ điền, quai hàm bạnh, da mặt trắng xanh, râu quai nón
tua tủa, ánh mắt thâm trầm. Người đi bên phải, cao hơn nửa cái đầu, mặt dài như
mặt ngựa, da đen, tóc rễ tre. Những người còn lại đều ở lứa tuổi trên dưới 30,
quần áo nai nịt gọn gàng, súng dài súng ngắn, dao găm, lựu đạn… trang bị đầy
đủ. Vào thời điểm đó, bộ đội VC vẫn chưa hề có lon lá đầy đủ. Nhưng nhìn qua
phong độ, xe cộ xử dụng, và cách ăn mặc, tôi đoán ngay, hai người đi đầu phải
là cán bộ trưởng cấp trung đoàn trở lên. Còn toán đi theo rõ ràng là vệ sĩ,
trinh sát, thám báo, liên lạc và loong toong sai vặt…
Toán
bộ đội vô quán, ngồi kín hai bàn ăn cách bàn chúng tôi không xa. Lắng nghe họ
trò chuyện, chúng tôi biết, người bộ đội da mặt trắng là chính ủy sư đoàn, còn
người mặt đen là sư đoàn trưởng. Tất cả đang trên đường về thẳng Hà Nội để tham
dự một phiên họp nào đó với trung ương. Vì chuyện xảy ra đã gần 30 năm nên tôi
không còn nhớ rõ tên của hai người bộ đội cũng như số hiệu của sư đoàn. Tôi chỉ
nhớ lúc đó, tôi, Bình và Dưỡng có bàn với nhau, nếu tìm cách làm quen rồi quá
giang xe của họ ra thẳng Hà Nội thì rất tốt. Được họ cho quá giang, chúng tôi
có mấy điều lợi. Thứ nhất, chúng tôi không phải đi bộ đoạn đường từ Quảng Trị
ra Đồng Hới, Quảng Bình. Đoạn đường này vào lúc đó chưa có xe đò, vì VC mới
chiếm được Miền Nam nên khu này vẫn còn hoang vu, tiêu điều vô cùng. Lợi thứ
hai là không phải tốn tiền xe đò, xe lửa. Lợi thứ ba là chúng tôi có thể dễ
dàng vượt qua được các trạm kiểm soát dọc đường. Tuy chúng tôi lúc đó ai cũng
có giấy tờ đầy đủ, nhưng tất cả đều là giấy tờ giả. Mã đã giả thì luôn luôn có
nguy cơ bị phát hiện bất cứ lúc nào. Sống trong chế độ cộng sản mấy chục năm,
chúng tôi biết, ngay cả những người có đầy đủ giấy tờ thật trong người, họ vẫn
có thể bất ngờ bị công an lôi cổ vô đồn ngồi cả tuần lễ là chuyện thường tình,
huống chi chúng tôi chỉ có giấy tờ giả.
Sau
khi bàn bạc, Bình đồng ý lôi ra mấy bao thuốc 3 số 5 rồi nhào sang làm quen
thẳng với hai người bộ đội cấp trưởng. Đó là nước cờ táo bạo nhưng rất đúng, vì
chỉ có hai người cấp trưởng mới có thẩm quyền cho chúng tôi quá giang hay
không. Bình dân gốc Hà Nội, đẹp trai, tháo vát, tự tin, dễ hoà nhập với bất cứ
ai trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bình thường ba hoa đủ thứ thành tích mà Bình đã
làm kể từ khi ra chiêu hồi. Nghe chuyện Bình kể, tôi không tin lắm, nhưng phải
thừa nhận là Bình đã từng được đi sang Đài Loan tham dự một đại hội chống cộng
do chính tổng thống thống chế Tưởng Giới Thạch tổ chức. Năm đó là năm 1973 hay
1974 thì phải. Đi về, Bình có cho tôi xem cả xấp hình, trong đó có những tấm
Bình đứng giang hai tay giữa một khán đài cao vòi vọi, trên đầu và đằng sau là
cả một bầu trời xanh bát ngát…
Ngồi
bàn bên này nhìn sang, tôi thấy bộ điệu của Bình rất “ăn khách”, vì tuy không
biết rõ Bình nói chuyện gì, nhưng chỉ nhìn bộ điệu say sưa hút thuốc 3 số 5 và
say sưa há miệng ra nghe của hai người bộ đội cấp trưởng, tôi biết Bình có
nhiều triển vọng thành công.
Khoảng
10 phút sau, Bình trở về bàn, nét mặt tươi rói, miệng cưới toét đến tận mang
tai. Bình nói:
-
“Thủ trưởng” đồng ý 100% cho chúng ta quá giang, với 3 điều kiện. Thứ nhất,
suốt chặng đường từ đây ra Hà Nội, mình phải gọi họ là “thủ trưởng”. Thứ hai,
phải cho họ coi giấy tờ “sự vụ lệnh” xem có hợp lệ hay không. Thứ ba… mỗi người
phải “biếu thủ trưởng” một kí lô “mì chính” (bột ngọt).
Chúng
tôi từng sống ở Miền Bắc, hiểu rõ giá trị của “mì chính” như thế nào, nên mỗi
người đều nhét vô ba lô khoảng 5 kí lô để làm quà cho người thân. Nay chấp nhận
chi một kí lô cho “thủ trưởng” để quá giang xe là điều tuy tiếc, nhưng có thể
chấp nhận được. Chuyện gọi họ là “thủ trưởng” cũng là chuyện quá dễ dàng. Chỉ
riêng khoản trình giấy tờ, tôi thấy hơi bất an. Bình thản nhiên chìa tay, vừa
nói vừa nháy mắt:
-
Rồi hai ông đưa giấy tờ đây để tôi trình “thủ trưởng”…
Chúng
tôi lặng lẽ rút giấy tờ trao cho Bình. Thời buổi đó, giấy tờ không có hình ảnh
gì, chỉ có vài dòng chữ đánh bằng máy chữ, rồi điền vô bằng bút mực, kèm theo
con dấu. Vì thế, chúng tôi tin là không có gì trục trặc, sẽ qua mắt được hai
“thủ trưởng” dễ dàng. Sau khi cầm hai tờ giấy “sự vụ lệnh”, Bình nói tiếp:
-
Bây giờ điều kiện 3, mỗi người một ký “mì chính”…
Tôi
thở dài, cúi xuống ba lô lôi ra hai gói bột ngọt, mỗi gói 500gr (lâu ngày tôi
nhớ không rõ là gói một kí, hay gói 500gr, 450gr). Trước khi trao gói bột ngọt
cho Bình, tôi hỏi:
-
“Thủ trưởng” có 3 điều kiện, mình chấp nhận hết. Nhưng mày không nghĩ là cả họ
cả mình, 15, 16 người mà chui vô hai chiếc xe jeep đi từ đây ra tận Hà Nội thì
chịu sao nổi?
Bình
gật đầu tỏ vẻ thích thú:
-
Cái đó mày khỏi lo. Hai chiếc xe jeep này là xe hai “thủ trưởng” xé lẻ đi ăn
quán. Phái đoàn người ta đi hơn 100 mạng, trên hai chiếc xe buýt dài thoòng
loại xe chở nhân viên của sở Mỹ. Nếu mình đồng ý, “thủ trưởng” sẽ nhét mình lên
hai chiếc xe đó…
Nghe
vậy, tôi an tâm. Bình cầm mấy gói bột ngọt và giấy tờ, bước sang bàn hai “thủ
trưởng” ngồi. Trong nháy mắt, hai “thủ trưởng” nhận mấy gói bột ngọt, rồi liếc
mắt ngó qua ba tờ “sự vụ lệnh” của chúng tôi rồi trả lại ngay.
Không
đầy 15 phút sau, chúng tôi đứng dậy, bước ra khỏi quán, và bám vào một trong
hai chiếc xe jeep chạy khỏi thị xã Nha Trang. Xe chạy khoảng 10 phút thì dừng
lại đằng sau hai chiếc buýt dài thườn thượt. Gã “thủ trưởng” chính ủy bảo chúng
tôi đứng cạnh chiếc xe jeep chờ, rồi đi tới gặp một người bộ đội lớn tuổi đang
ngồi ở bậc lên xuống của chiếc xe buýt. Gã này có gương mặt lầm lì và cặp lông
mày sâu róm đen sì. Khi viên chính ủy nói chuyện với gã, chúng tôi ngạc nhiên
khi thấy gã có thái độ lạnh lùng, bất cần đời. Nhìn thoáng qua, tôi biết gã chỉ
là một anh chàng trung sĩ, hạ sĩ. Nhưng cái thái độ coi thường thượng cấp của
gã, cho chúng tôi biết, có lẽ gã là người thiểu số.
Viên
chính uỷ nói gì đó một hồi xong thì bước đi. Gã sâu róm uể oải đi lại chỗ chúng
tôi đứng rồi hỏi trổng:
-
Có hành lý gì không?
Tôi
lắc đầu. Dưỡng chỉ chiếc ba lô ra hiệu chỉ có vậy. Bình thì đon đả mồm mép:
-
Chào “thủ trưởng”. Đàn em chỉ có mỗi cái ba lô này thôi, nhưng bên trong “chất
lượng” đáo để lắm. À mà “thủ trưởng” tên gọi là gì nhỉ….
Gã
sâu róm nhìn Bình trừng trừng vẻ không thân thiện ra mặt, khiến Bình cụt hứng,
đang ba hoa, liền tịt ngòi, hết nói. Gã sâu róm gầm gừ:
-
Ai “thủ trưởng” với mày?!
Trước
cặp mắt như thiêu như đốt của gã, cộng với lối ăn nói cục cằn, thô lỗ toàn “mày
tao”, Bình đứng im, không biết nói làm sao. Sau khoảng mấy chục giây im lìm, gã
sâu róm quay lưng bước đi kèm theo một tiếng cộc lốc:
-
Theo tao…
Chúng
tôi đưa mắt nhìn nhau tìm một quyết định. Trong ba đứa cùng đi về Bắc ngày ấy,
chỉ có Dưỡng là to con, gốc du đãng Hải Phòng. Dưỡng tình nguyện đi bộ đội,
nhưng ngay khi VC chiếm được Đà Nẵng, Dưỡng đã đào ngũ, gây đủ thứ chuyện động
trời, kể cả cướp tiệm vàng. Mãi sau này, khi vô trại cải tạo Kàtum, gặp lại
Dưỡng bên khu hình sự, y mới kể cho tôi nghe về cuộc đời của y, tôi mới biết
cuộc đời của Dưỡng rất đáng thương, nhưng cũng rất tội lỗi, gây nên không biết
bao nhiêu chuyện thương tâm cho người khác. Vì Bình có bà chị trước bán ở cửa
hàng bách hóa tổng hợp tại Hải Phòng nên qua trò chuyện, mua bán giấy tờ từ
Dưỡng, Bình mới rủ Dưỡng cùng trốn về Hà Nội trong thời gian tranh tối tranh
sáng để đi buôn thuốc phiện. Chuyện này, mãi về sau tôi nghe chính bạn gái của
Bình nói, tôi mới biết. Biết ra thì Bình đã cao chạy xa bay ở tận Lai Châu,
Điện Biên gì đó. Từ đó cho đến nay, đã gần 30 năm, tôi không hề gặp lại Bình
lần nào và cũng không nghe được bất cứ tin tức gì của Bình.
Trở
lại chuyện, khi ấy nghe gã sâu róm nói năng cộc lốc, chúng tôi nhìn nhau một
thoáng lưỡng lự, rồi Dưỡng nhún vai, không nói không rằng, bước theo. Tiếp đến
là Bình. Cuối cùng là tôi. Gã sâu róm bước lên xe buýt, chúng tôi bước theo.
Ngoài trời lúc đó đã nóng, trong xe còn nóng hơn. Vậy mà tôi thấy trên xe có
tới hơn hai chục người bộ đội đang ngủ gục, ngủ ngồi, ngủ nằm, đủ kiểu. Gã sâu
róm đi dần xuống tận cuối xe, rồi chỉ vô khu ghế còn trống khoảng hơn chục chỗ,
gã nói cộc lốc:
-
Chúng mày ngồi đó.
Nói
xong, không thèm nghe chúng tôi trả lời, gã quay người đi về phía đầu xe. Chúng
tôi nhanh chóng nhét ba lô vô giá để đồ thật cẩn thận rồi vội vàng nhào ra
ngoài, vì trong xe lúc đó quá nóng.
Khoảng
tiếng đồng hồ sau, gã sâu róm thổi còi, mọi người vội vã lên xe. 5 phút sau, xe
chuyển bánh, chạy đằng sau 2 chiếc xe jeep, và một chiếc xe buýt khác chạy đằng
sau xe chúng tôi. Cả đoàn xe chạy thẳng quốc lộ 1, tiến về Miền Bắc….
KỲ 26
Trước
khi viết tiếp câu chuyện kỳ trước, tôi xin chân thành kính mong quý độc giả tha
lỗi cho tôi vì trong hai tuần qua tôi đã không thể viết tiếp được phần hồi ký
dang dở. Biết như vậy là điều không nên không phải với bạn đọc, nên từ nay, tôi
sẽ cố gắng thu xếp thời gian hợp lý hơn, để khỏi phụ lòng tri kỷ của quý vị.
Trở
lại câu chuyện, trên chặng đường trở lại Miền Bắc trong những ngày đầu tiên sau
30 tháng 4, 1975, qua gặp gỡ đồng bào suốt dọc đường đi, tôi đau xót cảm nhận
được những suy tư thật trái ngược của dân chúng hai miền. Tại Miền Nam, có
những người không hiểu rõ cộng sản, nên họ dễ dàng có thái độ vui mừng đón chào
người lính “giải phóng”. Có những người vì trước đây sống dưới chế độ VNCH, có
những va chạm, hoặc có những mâu thuẫn, xung đột với chính quyền, hoặc do không
hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, nên ít nhiều cảm thấy gai mắt
khi chứng kiến cảnh người lính Mỹ trên đường phố của quê hương,… họ dễ dàng coi
sự chiếm đóng của người lính cộng sản là cơ hội để họ đổi đời, để họ tìm thấy
“thiên đường xã hội chủ nghĩa”. Ngoài ra, cũng có những người đã từng có kinh
nghiệm về tội ác cộng sản, nhưng đinh ninh từ nay trở đi, với sự chiến thắng
của người cộng sản, đất nước sẽ hết chiến tranh, chồng con sẽ không còn phải đi
lính, thôi thì đói khổ thế nào đi nữa, mà gia đình được đoàn tụ thì cũng là
điều hạnh phúc. Chính những ước mơ mong manh, những hạnh phúc trước mắt như vậy
đã khiến nhiều người không nhận ra thảm họa mà người cộng sản sẽ gieo rắc trên
quê hương Việt Nam trong những năm tháng tới.
Dĩ
nhiên, bên cạnh đó, cũng có những người thực sự hiểu rõ về người cộng sản, thì
âm thầm tìm mọi cách để ra đi. Đối với họ, những thảm kịch cải cách ruộng đất
thời 1952, 1953, những cuộc thảm sát dành cho những người “dinh T” là những
người từ vùng Việt Minh trốn về thành phố trong giai đoạn 9 năm kháng chiến,
cùng những vụ Việt Minh thanh toán các đảng phái trong quá khứ, chắc chắn không
sớm thì muộn sẽ tái diễn trên lãnh thổ Miền Nam. Với những người này, trong
thời gian chờ đợi cơ hội trốn thoát cộng sản, họ chỉ biết sống gượng, vui giả
cho qua ngày.
Trái
lại, ở Miền Bắc, bên cạnh những người say men “chiến thắng” cũng có không thiếu
những người hiểu biết, coi “chiến thắng” của cộng sản là nhát búa cuối cùng
trên nóc quan tài, khâm liệm tất cả những hy vọng mà họ đã ấp ủ suốt mấy chục
năm. Tôi có thể nói, ở Miền Bắc, trong suốt những năm dài kể từ 1954, hầu hết
những người theo đạo Công giáo, Phật giáo, những thành phần trí thức, tư sản,
buôn bán làm ăn, và tất cả những ai đã từng hít thở bầu không khí “thuộc địa
thời Pháp”, đều ao ước thiết tha, sẽ có một ngày Miền Nam giải phóng Miền Bắc.
Như
tôi đã có lần kể cho quý vị nghe về hình ảnh thầy tôi và ông thông gia, cả hai
người đều dí tai vào chiếc radio để theo dõi tin tức từ Miền Nam với niềm hy
vọng lực lượng của Cụ Diệm ở Miền Nam sẽ có ngày “Bắc Tiến”. Tôi nhớ những ngày
tháng đó là năm 1957, 1958… Thời đó, người Miền Bắc còn thỉnh thoảng nhận được
những tấm bưu thiếp của thân nhân di cư vô Nam. Gia đình của ông thông gia với
thày tôi ở Hà Nội có ba người con trai, thì hai người đều vô Nam. Người con cả
lấy chị thứ hai của tôi, cả gia đình di cư sống ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận, là nơi
sau này tôi về sống chung cho đến ngày cộng sản chiếm Sàigòn. Người con trai
thứ hai của ông thông gia đang học y khoa ở Hà Nội vào năm 1954, cũng lên đường
vượt tuyến vô Nam vào năm 1957. Anh này sau được trao quyền đại đội trưởng hay
trung đội trưởng, chỉ huy lực lượng an ninh bảo vệ Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè.
Hồi
đó, tôi tuy còn bé, chỉ mới 8, 9 tuổi là cùng, nhưng hình ảnh ông thông gia, và
thầy tôi ngồi bên cạnh chiếc radio với vẻ mặt gay cấn, ánh mắt lấm lét nhìn về
phía cầu thang, như đang làm điều gì vụng trộm, cùng những tiếng thì thầm của
hai ông, đã khắc sâu vào trí óc của tôi. Chắc quý vị đã biết trong những số báo
trước, tôi đã kể về thầy tôi là một người cha rất nghiêm khắc. Thầy tôi thương
yêu tôi lắm, vì ngoài tình cảm của một người cha dành cho con trong cảnh gá
trống nuôi con, thầy tôi còn thương tôi hơn, vì tôi chào đời trong cảnh loạn
lạc, lớn lên trong sự túng thiếu, cơm không có ăn, áo không có mặc, của cải gia
đình đều mất hết trong thời cải cách. Thương yêu tôi như vậy, nhưng thầy tôi
dậy dỗ tôi như dậy một người lính, quyết uốn nắn tôi trở thành một cây trúc
theo tinh thần “trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Chính nhờ sự dậy dỗ của
thầy tôi, mà tôi đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm, để sống sót đến
hôm nay. Nhưng cũng vì sự dậy dỗ đó, tôi lớn lên không có được sự khôn ngoan
biết cân nhắc thiệt hơn của người cầu lợi, biết mềm mỏng thỏa hiệp với đời, nên
cuộc đời tôi gặp không biết bao nhiêu khốn khó. Bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu,
dù là trên ghế nhà trường, hay sau này đi bộ đội, tôi luôn luôn là cái gai
trong con mắt của thầy cô giáo và của “thủ trưởng”, nên thường xuyên bị trù
dập, bị đì, bị nhiều thiệt thòi, oan ức, đau khổ. Vậy mà tôi vẫn tự hào với
những đau khổ, thiệt thòi đó… thế mới “ngu dại”!
Một
trong những kỷ niệm vừa hãi hùng vừa tự hào, đến giờ tôi còn nhớ, đó là chuyện
thầy tôi dậy tôi tập bơi. Người khác học bơi thì học có bài bản, được ôm cây
chuối hay phao bơi đàng hoàng. Còn tôi học bơi rất đơn giản. Một buổi chiều mùa
hè, tôi lúc đó mới 5, 6 tuổi. Thầy tôi mang theo một cuộn dây thừng rồi dắt tôi
ra bờ sông Châu. Đến bờ sông, thầy tôi lấy dây thừng quấn giẻ trước khi quấn
hai vòng vào thắt lưng của tôi rồi thắt nút lại. Tôi chưa kịp hiểu thầy tôi làm
vậy để làm gì, thì thầy tôi đã nhấc bổng tôi trên tay, rồi ném thẳng tôi xuống
sông. Kinh hoàng quá, tôi vừa khóc vừa la hét, vừa uống nước sặc sụa, chân tay
thì đập loạn xạ. Được một chút, thầy tôi kéo dây thừng, lôi tôi lên khỏi mặt
nước cho tôi thở một hồi, rồi lại vứt tôi xuống nước tiếp, mặc cho tôi khóc
lóc, lậy van, vang cả một góc sông. Cứ như vậy, chỉ trong có một buổi chiều hôm
đó, tôi đã biết bơi, và sau này tôi bơi rất giỏi, vừa nhanh lại vừa dai sức.
Nhưng vì ngay thuở ban đầu không được học bơi đàng hoàng, nên tôi chỉ biết bơi
kiểu “bơi chó”. Sau này lớn lên, đi học, thấy tôi bơi nhanh, lại bơi xa cả vài
cây số, nên nhà trường chọn tôi vào đội bơi và huấn luyện thật kỹ càng. Nhưng
vì đã quen “bơi chó” ngay từ đầu, và “bơi chó” trong lúc tâm thần hoảng hốt,
nên dù học thế nào thì học, tôi vẫn không tài nào bơi sải đúng kiểu. Cặp giò
của tôi không tài nào đập theo chiều thẳng đứng lên xuống theo kiểu bơi sải, mà
chỉ co vào duỗi ra giống hệt chân chó. Kết quả, tôi chỉ có thể học được kiểu
bơi ếch, và bơi rất nhanh, nên thời đó, sau cuộc thi bơi của tỉnh, tôi đã được
bạn bè tặng cho cái biệt hiệu là “con ếch vàng”.
Tôi
hơi dài dòng kể lại kỷ niệm trên đây để quý vị thấy, thầy tôi là một người cha
nghiêm khắc, dậy dỗ con để đối phó với sóng gió đường đời. Quả nhiên, sau này,
trên đường đi chiêu hồi, hay khi vượt ngục, vượt biên, tôi lúc nào cũng tự tin
vào khả năng của mình, gặp tường cao thì trèo, gặp sông biển thì lội, lúc thì
nhảy tàu, nhảy xe; khi nào bị dồn vào đường cùng, thập phần nguy hiểm, thì tôi
quyết lào vào chỗ chết để tìm ra cái sống. Trải qua không biết bao nhiêu khó
khăn, lúc nào tôi cũng thấy có sự hiện diện vô hình của thầy tôi ở trên cao. Và
tôi nghiệm ra một chân lý, khó khăn dù có lớn lao đến đâu, nếu quyết chí và can
đảm lao về phía trước, tôi cũng sẽ vượt qua.
Trong
suốt những năm dài, sống bên cạnh người cha nghiêm khắc, bỗng dưng một ngày nọ,
tại nhà ông thông gia ở Hà Nội, từ dưới cầu thang chạy lên lầu, tôi giật mình
trông thấy thầy tôi và ông thông gia đang lén lút nghe radio. Chuyện lén lút
không làm tôi để ý, nhưng vì khi thấy tôi đột ngột xuất hiện, cả thầy tôi lẫn
ông thông gia đều hoảng hốt. Lần đầu tiên, tôi thấy sự sợ hãi của thầy tôi. Lúc
đó, làm sao tôi hiểu được lý do khiến thầy tôi sợ hãi. Mãi sau này, tôi mới
hiểu, thì ra thầy tôi và ông thông gia đang nghe lén radio trong niềm kỳ vọng,
“lính của Cụ Diệm sẽ Bắc tiến”…
Từ
ngày đó cho đến mấy chục năm sau này, cái hình ảnh thầy tôi và ông thông gia
lén lút nghe radio cứ ăn sâu vào trong tâm trí của tôi, khiến tôi bứt rứt không
yên. Tại sao những người tôi kính trọng, và có thể nói lúc nào tôi cũng sợ hãi,
lại có những lúc làm những việc lén lút, để rồi sợ hãi một đứa con nít khi bị
phát hiện? Và tôi nghiệm ra một điều rất đơn giản, một người khi đã lén lút làm
một chuyện gì, thì người đó rất dễ trở nên mong manh, yếu đuối.
Khi
đi quá giang xe trên chặng đường ra Hà Nội, chúng tôi không ngờ bị chính người
tài xế gốc thiểu số bán đứng cho một đơn vị tuần tiễu tại thị xã Đồng Hới. Lúc
đoàn xe dừng lại tại trạm kiểm soát, mọi người được lệnh mang tất cả hành lý ra
khỏi xe để lực lượng vệ binh lên xe kiểm soát. Vào thời điểm đó, lực lượng công
an của cộng sản chưa được điều động vô các tuyến đường ở Miền Trung và Miền
Nam. Vì vậy, mọi kiểm soát giao thông, quan thuế, dân sự cũng như quân sự tại
các tỉnh từ Bố Trạch, Đồng Hới, Quảng Trị, vô đến Miền Nam đều thuộc quyền hạn
của các đơn vị vệ binh, trực thuộc ban quân pháp của bộ quốc phòng Hà Nội.
Vừa
xuống xe, chúng tôi còn đang xếp hàng, thì một tay vệ binh đeo súng ngắn cùng
một tên khác đeo khẩu AK-47 ngang ngực, tiến về phía chúng tôi. Nhìn cách thức
tên vệ binh đeo khẩu AK, tôi có linh cảm điềm không lành. Quả nhiên, tên vệ
binh đeo súng ngắn, nói giọng trọ trẻ Quảng Bình:
-
Ba đồng chí này mang ba lô theo tôi.
Nói
xong, tên vệ binh quay lưng đi về phía trạm kiểm soát thứ hai ở bên kia đường,
cách nơi xe đậu khoảng 200 thước. Tên vệ binh đeo khẩu AK đứng đó, lạnh lùng
nhìn chúng tôi, không nói một tiếng. Ba đứa chúng tôi chẳng nói chẳng rằng, thở
dài, khoác ba lô, rồi lần lượt đi theo tên vệ binh. Tuy không quay đầu lại,
chúng tôi biết, tên vệ binh AK cũng đi theo, khoảng cách vừa đủ xa. Trông kiểu
cách đề phòng chúng tôi một cách lộ liễu của hai tên vệ binh, tôi lo ngại nghĩ,
chẳng lẽ tụi này đã phăng ra tung tích của chúng tôi rồi hay sao?
KỲ 27
Bên
kia đường là một dẫy nhà cất vội, vừa dùng làm chỗ ăn ở tạm bợ cho vệ binh, vừa
làm văn phòng, nhà kho, trạm kiểm soát… Tất cả có khoảng hơn chục căn, siêu vẹo
dựa vào nhau. Trời nóng hừng hực như đổ lửa, nhưng trước cửa dẫy nhà vẫn có hơn
chục đứa con nít, đen cháy, tồng ngồng đuổi nhau trong cát bụi và nắng gió. Mái
nhà khá thấp, khiến cả ba đứa chúng tôi phải cúi đầu chui vô. Từ ngoài trời
nắng chói chang, đột nhiên bước vào trong nhà kín như bưng, chúng tôi gần như
không thấy gì. Khoảng gần một phút sau, tôi mới thấy rõ dần người, vật trong
căn phòng. Trước mặt tôi là một chiếc bàn làm bằng cây, bề dài khoảng hai sải
tay. Chung quanh là những chiếc ghế băng dài, cũng bằng cây, sần sùi nhưng chắc
chắn. Tất cả chân bàn, chân ghế đều cắm sâu xuống đất. Trên bàn, một chiếc đèn
bão, ánh sáng đủ tỏa một khoảng hẹp cho tôi thấy một người bộ đội đang cặm cụi
viết gì đó trên một cuốn vở học trò, có kẻ nhiều đường dọc ngang. Cả hai tên vệ
binh cùng theo vô, nhưng đều đứng im lìm bất động ở góc nhà.
Tên
bộ đội ngồi ở bàn lặng lẽ làm việc coi như không biết đến sự hiện diện của
chúng tôi. Ba đứa chúng tôi cũng đứng im, với ba lô trên vai. Khoảng mấy phút
sau, tên bộ đội ngồi bàn ngưng viết, ngẩng mặt nhìn chúng tôi một thoáng rồi
lạnh lùng:
-
Xuất trình giấy tờ công tác.
Chúng
tôi lần lượt lấy giấy tờ để trên bàn. Tên bộ đội cầm xấp giấy tờ, không thèm
coi một chữ, thản nhiên bỏ tất cả vô trong ngăn kéo. Sau đó, y lôi ngăn kéo bên
trái, lấy ra một xấp giấy trắng đưa cho chúng tôi, nói trỏng:
-
Cấm mấy tờ giấy này sang bàn bên kia, lôi hết đồ đạc trong ba lô ra, rồi kê
khai từng món vô tờ giấy này. Món nào có giấy phép cho mang thì đánh dấu vô,
rồi để sang bên phải. Món nào không có giấy phép thì để sang bên trái. Mỗi
người mỗi bàn, làm mau lên cho kịp xe, không là phải chờ đến mai, mất thêm mấy
đồng tiền nhà trọ.
Quay
sang hai tên vệ binh, y tiếp:
-
Đồng chí Huy (lâu ngày tôi không nhớ rõ, nên tạm gọi như vậy) ra gọi thêm một
người nữa vô đây giúp ba đồng chí này kiểm tra hành lý, hàng hóa.
Nghe
tên bộ đội hết nói đến “kiểm tra hành lý”, lại nói tới “giấy phép” cho từng món
đồ, tôi biết ngay, tất cả những món hàng chúng tôi có trong ba lô sẽ bị tụi bộ
đội này trấn lột một cách hợp pháp. Cả ba đứa chúng tôi đều dùng giấy tờ giả,
thì làm sao có được giấy phép mang hàng từ Miền Nam ra Miền Bắc. Biết vậy, nên
tôi bực bội vứt chiếc ba lô lên bàn, rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế băng bằng
tre ở góc nhà.
Thấy
tôi như vậy, tên bộ đội nhìn tôi trừng trừng một hồi rồi hất cằm:
-
Bộ bất mãn, muốn chống đối hả?
Tôi
trả lời:
-
Tất cả mọi thứ trong ba lô của tôi đều không có giấy phép, thì lôi ra đặt bên
trái, bên phải làm gì cho mất công.
Tên
bộ đội nói chậm rãi, giọng gằn từng tiếng:
-
Tất cả không có giấy tờ cũng phải khai để lập biên bản cho rõ ràng minh bạch,
chí công vô tư.
Nghe
mấy chữ “rõ ràng, minh bạch, chí công vô tư” tôi muốn phì cười. Sống với chế độ
cộng sản 20 năm, tôi đã hiểu rõ tất cả những mánh khóe bịp bợm của người cộng
sản từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Biết vậy, nhưng lúc đó trong thân
phận cá chậu chim lồng, giấy tờ tùy thân cũng toàn là giấy giả, nên trong một
thoáng, tôi chọn ngay thái độ hợp tác, ngoan ngoãn chấp hành mệnh lệnh của y,
chấp nhận mất tất cả, để được tự do trở lại quê nhà, gặp gỡ thầy mẹ và những
người thân…
Trong
ba chiếc ba lô, ba lô của tôi là nhẹ nhất, ít thứ đồ quý giá nhất. Ngoài mấy kí
bột ngọt, mấy chục thước vải mua cho mẹ, chiếc radio mua cho anh trai, mấy
quyển sách quý cho tôi, và một bộ tẩu (pipe collection) tôi mua cho thầy tôi,
còn lại trong ba lô của tôi không có một thứ gì đáng giá. Tôi mua chiếc radio
vì trong suốt những năm tháng xa quê hương, mỗi khi nhớ đến người anh cùng cha
khác mẹ là tôi lại nhớ đến cảnh anh tối ngày loay hoay bên cạnh chiếc radio tự
chế bằng gỗ, dùng dây thép chăng ngang sân nhà làm ăng ten. Tôi mua bộ tẩu
Dunhill cho thầy tôi vì trong tất cả những đồ đạc mà thầy tôi có thuở xưa, đều
mất hết sau cải cách ruộng đất, chỉ còn lại có tấm hoành phi “Thừa Thiên Ưu”
sau phải chẻ ra để làm củi; và chiếc tẩu hút thuốc. Thầy tôi có thói quen mỗi
khi hút thuốc, thường cọ cọ chiếc tẩu lên mũi, nên nó bóng lưỡng và đẹp lạ
lùng. Thầy tôi vẫn bảo, bộ tẩu có tất cả 3 chiếc, bỏ gọn trong một chiếc hộp
rất đẹp xuất xứ từ bên Anh. Sau này loạn ly, hoạn nạn suốt hơn chục năm, thầy
tôi chỉ còn giữ được có một chiếc, nên ông cụ quý nó vô cùng, đi đâu cũng mang
nó kè kè bên mình. Vì dùng nó cả mấy chục năm trời, nhựa thuốc đã đóng keo hết
lớp này đến lớp khác, nên dù không có thuốc, thầy tôi vẫn mang tẩu ra hút
“không người lái” (hút tẩu không) để thấy phảng phất hương vị của thuốc cho đỡ
thèm, cùng những kỷ niệm của một thuở vàng son trong quá khứ hiện về…
Khi
tôi tình cờ qua một người bạn, mua được bộ tẩu Apples & Dublins cũng của
Dunhill nhưng có tới 5 chiếc (nghe đâu nguyên bộ này có tới hơn một chục chiếc
lận), tôi biết chắc thầy tôi sẽ thích lắm. Vậy mà bây giờ, trong cái đồn kiểm
soát này, tôi đành phải chấp nhận, chịu mất bộ tẩu quý giá đó hay sao? Lòng
thương yêu người cha già, khiến tôi mềm lòng, chấp nhận nhũn như con chi chi…
Sau
khi lấy hết mấy món đồ lặt vặt, kê khai đầy đủ trên giấy, tôi quay sang tên bộ
đội năn nỉ:
-
Thưa đồng chí, tất cả những gì tôi có tôi đã kê khai đầy đủ trên giấy này để
nhờ đồng chí giữ hộ. Riêng cái hộp tẩu này là kỷ vật của một người bạn già của
thân phụ tôi ngày xưa. Ông cụ gửi tặng cái hộp tẩu này cho thầy tôi, nên tôi
mong đồng chí thông cảm, cho phép tôi không khai báo hộp tẩu này…
Tên
bộ đội lắc đầu phán những câu rất đúng đường lối chủ trương của cách mạng:
-
Đồng chí này hay nhỉ? Tại sao đồng chí phải bận tâm xin xỏ như thế nhỉ? Đồng
chí phải biết, tất cả những gì đồng chí khai báo trên giấy tờ này là của ai?
Đâu có phải của tôi đâu mà đồng chí phải xin. Tất cả là của đồng chí, có đúng
không nào? Có thể đồng chí đã bỏ tiền túi ra mua, có thể có người tặng đồng
chí, hay tặng bố đồng chí như đồng chí vừa nói. Nhưng dù đồng chí mua hay đồng
chí được tặng, hay đồng chí xin xỏ ai đi nữa, thì tất cả cũng là của đồng chí.
Chỉ có điều là hiện giờ đồng chí không xin giấy phép của đơn vị khi mang những
thứ đó ra Miền Bắc, thì tạm thời chúng tôi phải có bổn phận giữ hộ cho đồng
chí. Giữ hộ cho đến khi nào đồng chí trở về đơn vị, xin được giấy phép ra đây
thì chúng tôi sẽ gửi lại, nguyên vẹn, không một chút hư hao, sứt mẻ.
Nghe
hắn nói tràng giang đại hải, miệng thuộc làu làu như cháo chảy, tôi ngán quá.
Tôi biết, những câu đó, hắn đã nói cả ngàn lần với cả ngàn người, nên con người
của hắn đã trở thành một cỗ máy, đâu còn chỗ để cho tiếng nói của con tim, của
lý trí ngự trị.
Sau
khi làm biên bản ký giấy xác nhận các loại giấy tờ xong, chúng tôi được tự do
muốn đi đâu thì đi. Tên bộ đội còn ân cần dặn dò, chúng tôi phải giữ gìn giấy
tờ cẩn thận, để khi có giấy phép thì nhớ trở lại lấy hàng hoá.
Lúc
đầu, tôi tính ở lại thị xã Đồng Hới đêm đó, để tìm cách chui vô nhà kho lấy lại
hộp tẩu cho bằng được. Chỉ nghĩ đến gương mặt hạnh phúc của thầy tôi khi cầm
chiếc hộp tẩu trên tay, là tôi thấy tôi phải lấy lại hộp tẩu bằng mọi giá.
Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi thấy tôi không thể nào phiêu lưu mạng sống, sự tự do của
tôi để ở lại Đồng Hới lấy hộp tẩu. Tôi hiểu toàn bộ những trạm kiểm soát từ đây
ra Bắc là những nút chặn do cộng sản nặn lên với sứ mạng ăn chặn, ăn hớt, tất
cả những của cải mà bộ đội đã mua, đã xin, đã chiếm đoạt được ở Miền Nam.
Để
mạng lưới kiểm soát, ăn chặn, ăn hớt làm việc hiệu quả, ngoài những trạm kiểm
soát nổi chạy dọc theo quốc lộ 1, cộng sản còn thiết lập nhiều trạm kiểm soát
chìm, và cả một mạng lưới chỉ điểm rộng khắp, bao gồm các chủ quán, những người
bán hàng rong, các bác xích lô đạp, các tài xế xe đò, và ngay cả hàng ngũ con
nít. Tất cả những người này một khi thấy bộ đội từ Miền Nam ra, lập tức tìm cách
làm quen, thăm hỏi, rồi gạ mua bột ngọt, mua đài, mua đồng hồ, vải vóc…. Người
bộ đội nào không có thì cho qua, còn người nào có, lập tức họ sẽ mật báo cho
các trạm kiểm soát an ninh. Sau đó không đầy 24 tiếng đồng hồ, người bộ đội đó
sẽ được mời vô đồn, và bị trấn lột một cách hợp pháp, tất cả đồ đạc sẽ phải gửi
lại, để nhận một tờ biên nhận, bảo đảm sẽ hoàn lại khi người bộ đội mang đầy đủ
giấy phép tới lấy.
Trong
những ngày tháng đầu tiên của buổi giao thời đó, hàng trăm ngàn bộ đội từ Miền
Nam “đội đồ” ra Miền Bắc, đâu có ai xin giấy phép của đơn vị, và dù có xin, làm
sao xin được hay xin đủ cho không biết bao nhiêu những món đồ lỉnh kỉnh mà họ
đã thủ đắc bằng mưu mô, bằng cướp đoạt, trộm cắp, lừa gạt, cưỡng bức….
Chiều
hôm đó, sau khi bàn bạc với hai người bạn, tất cả chúng tôi đều đồng ý, thôi
thì hãy quên hết tất cả những gì đã mất mát, để lên đường trở lại Miền Bắc, nơi
đang có những người thân yêu nhất của mình đang chờ đợi. Riêng hai người bạn
của tôi thì trong đầu đang nghĩ đến những tảng thuốc phiện to như hòn gạch đang
chờ họ ở Điện biên Lai Châu…
KỲ 28
Hai
ngày sau khi rời thị xã Đồng Hới, chúng tôi đặt chân đến thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An. Đây là thành phố nổi tiếng trong thời máy bay Mỹ oanh tạc với cầu Hàm
Rồng đã đi vào những “huyền thoại” do guồng máy tuyên truyền của nhà nước Hà
Nội thêu dệt. Thành phố Vinh cũng còn là nơi thầy tôi làm việc tại sở lục lộ
thời Pháp, nên tôi đã được nghe thầy tôi kể những câu chuyện về sông Lam và
rừng núi Vạn Tượng ở bên Lào, vì từ Vinh có thể qua Lào tới mấy cửa khẩu. Vinh
cách Hà Nội không đầy 300 cây số. So với Hà Nội, Huế chỉ xa Vinh hơn khoảng 50
cây, nên có thể nói, thành phố Vinh là trung tâm giữa hai thành phố Huế và Hà
Nội. Trong những câu chuyện về thành phố Vinh, Nghệ An, tôi nghe thầy tôi kể đi
rồi kể lại với những người bạn khi ghé chơi, có câu chuyện thầy tôi suýt bị rắn
cắn tại cảng Bến Thuỷ; rồi chuyện vong linh của một người cô hiện hồn về báo
trước nạn lũ cuốn ở đường rừng vùng Rú Rum. Nhờ hồn người cô hiện về báo tin,
nên thầy tôi đã thoát chết trong trận lũ năm đó, mà bây giờ tôi không nhớ rõ là
năm nào. Đó là những câu chuyện nghe như cổ tích hồi tôi còn nhỏ, nên đến bây
giờ tôi vẫn còn nhớ như in trong óc, cùng với tất cả những rung động của tuổi
thơ ấu.
Thành
phố Vinh cũng còn được người cộng sản mệnh danh là thành phố Đỏ, vì nơi đây có
phong trào cộng sản khởi nghĩa đầu tiên được mệnh danh là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Cũng vì đây là thành phố Đỏ, nên khi chúng tôi đặt chân tới Vinh, thành phố này
đúng là đang lên cơn sốt “đại thắng giải phóng Miền Nam”. Đường phố đầy khẩu
hiệu, cờ đỏ, cùng những đoàn người đi lại rầm rập, với những tiếng hò hét, ca
hát triền miên những bài hát của cộng sản. Nhưng bên cạnh “niềm vui say sưa
trong men chiến thắng” của mọi người, chúng tôi rất ngạc nhiên khi chứng kiến
một gia đình thản nhiên quay lưng với “chiến thắng giải phóng Miền Nam” của
người cộng sản.
Chúng
tôi đi xe hơi đến Vinh vào lúc chiều tối. Bụng đói cồn cào, nên chúng tôi ghé
vô một cửa hàng ăn uống, xếp hàng mua mấy tô phở “không người lái” (phở không
có thịt) lót bụng. Giống như hầu hết tất cả các tiệm ăn trên đất Bắc của những
năm trong thập niên 1960, 1970, tiệm ăn ở thành phố Vinh lúc đó vẫn chật chội,
bẩn thỉu, đồ ăn vẫn khan hiếm, và thái độ của người bán hàng vẫn khinh khỉnh
coi thường khách. Vậy mà tiệm vẫn chật cứng những người là người. Không đông sao
được khi cả thành phố Vinh chỉ có vài tiệm ăn có tên “cửa hàng mậu dịch ăn
uống”. Tại những tiệm ăn này, đồ ăn thức uống tuy dở, nhưng bán rẻ hơn giá thị
trường. Người vô ăn thường phải có tem phiếu. Còn đi ăn ở những tiệm bên ngoài,
vừa hiếm hoi, lại vừa đắt.
Trong
tiệm có ba dẫy bàn ăn, mỗi dẫy khoảng 6 bàn. Bàn nào cũng bẩn, đồ ăn thức uống,
chén đũa vứt đầy, nhưng vẫn đông thực khách. Khách hàng tự đi mua đồ ăn, rồi
bưng đến bàn ngồi ăn. Nhiều người không kiếm nổi chỗ ngồi thì tự động kéo ra
ngoài hiên, kẻ đứng người ngồi, ăn uống xì xụp một cách thản nhiên, trong khi
bụi bặm từ ngoài đường, từ trên nóc quán, từ trong tiệm ăn, thi nhau đổ xuống
cùng với những cơn gió lộng.
Sau
khi mua xong đồ ăn, chúng tôi vẫn không tài nào kiếm nổi chỗ ngồi, nên cả ba
đều kéo ra ngoài hiên vừa ăn, vừa ngó những đoàn thanh thiếu niên, vác đuốc,
vác cờ quạt, khẩu hiệu, đi qua, miệng hò hét những câu khẩu hiệu, hoặc hát
những bài hát “cách mạng”, trong đó có bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại
thắng” là được hát nhiều nhất.
Nhìn
cảnh mọi người nô nức “mừng chiến thắng”, chúng tôi vừa thấy xót xa cho chính
đất nước, dân tộc mình, vừa thấy thương hại cho người dân Miền Bắc, những người
được mệnh danh là “phe chiến thắng”. Giữa lúc đang vừa ăn vừa trợn mắt thao láo
ngó thiên hạ, bỗng dưng tôi thấy có một người tướng mạo cao lớn đứng cách tôi
khoảng mấy bước, cứ nhìn chúng tôi chằm chặp.
Người
đàn ông đó chạc 50 ngoài, có gương mặt khắc khổ, lông mày rậm, tóc bù xù. Tuy
chiếc áo người đàn ông mặc là áo bộ đội, thêm chiếc nón cối đội trên đầu, nhưng
màu áo đã bạc phếch, cộng với chiếc quần màu chàm, sắn kiểu móng lợn, nên chúng
tôi biết ngay, người đàn ông đó là dân thường. Vì sài giấy tờ giả, lúc nào cũng
nơm nớp sợ bị phát hiện, nên khi bị người đàn ông lạ “chiếu tướng”, tôi ngại
ngùng, tìm cách chuồn càng sớm càng tốt. Để người đàn ông không chú ý, tôi giả
vờ vừa húp nước phở trong tô, mắt chúi vào tô phở, nhưng miệng nói nhỏ cho Bình
biết:
-
Bình, ăn lẹ lên rồi chẩu.
Bình
hơi ngạc nhiên, quay sang tôi định hỏi. Nhưng thấy tôi vẫn giả bộ húp phở, Bình
tinh ý hiểu ngay ý của tôi. Không đầy mấy phút sau, cả ba chúng tôi nhanh chóng
bước ra khỏi cửa tiệm ăn, đi thẳng về phía nhà ga Vinh. Đi được khoảng 100
thước, ngoái nhìn phía sau không thấy bóng dáng một ai, tôi thở phào nhẹ nhõm.
Còn Bình lúc đó có vẻ bực dọc với tôi:
-
Mày làm gì mà thỏ đế thế? Sợ cả thằng dân quèn!
Tôi
cố vớt vát: “Thì có phòng có hơn. Bộ dân quèn là coi thường sao? Mày cũng biết,
xã hội này mỗi người dân là một người công an”…
Tôi
vừa nói đến đó thì thấy ngay, phía trước mặt, dưới ngọn đèn đường, một người
đàn ông đang đứng, nhìn về phía chúng tôi trong vẻ chờ đợi. Khoảng cách giữa
ông với chúng tôi quá gần, nên tôi nhận ra ngay, ông ta chính là người đàn ông
chúng tôi đã phải né tránh ở trong quán ăn. Sự xuất hiện đột ngột của ông ta,
trong khi khoảng cách lại quá gần, nên chúng tôi thấy không còn cách nào khác,
ngoài cách phải thản nhiên đối diện với ông, rồi đến đâu tính đến đó.
Khi
đến gần, tôi thấy ông rõ hơn. Tay ông cầm một chiếc điều cầy ngoại cỡ, to hơn
bắp vế chân. Thông thường, điều cầy làm bằng ống nứa, nhỏ thì bằng cổ tay, to
thì bằng cổ chân. To quá, mình làm sao có đủ hơi mà rít, mà kéo. Vậy mà chiếc
điếu cầy của người đàn ông chắc phải làm bằng loại lồ ô, to bằng hai, bằng ba
loại điều cầy thường. Đã vậy, chiếc điều cầy này lại dài gấp hai loại thường.
Trong thời gian chúng tôi xuyên rừng Trường Sơn vô Nam, tại những buôn, bản của
người thiểu số, tôi đã từng thấy có những chiếc điếu cầy to ngoại cỡ, nhưng
chưa có chiếc điếu cầy nào to như chiếc điếu cầy người đàn ông đang cầm. Nhìn
chiếc điếu cầy, tôi nghĩ ngay, người đàn ông phải rất khoẻ, và chắc chắn ông
phải là người thiểu số thì mới có loại điếu cầy to quá cỡ như vậy.
Khoảng
cách hai bên rút ngắn lại trong khoảnh khắc. Ngay khi đó, người đàn ông cất
tiếng, giọng trọ trẹ Nghệ Tĩnh:
-
Các ông anh cho xin tí lửa hút thuốc!
Tôi
lúc đó không hút thuốc. Chỉ có Bình và Dưỡng. Bình thủ thế với người đàn ông
nên y lắc đầu, không nói. Chỉ còn Dưỡng. Sau một giây ngần ngừ, Dưỡng rút hộp
quẹt, trao cho người đàn ông. Người đàn ông dơ tay phải cầm hộp quẹt, mở nắp,
bật lửa, điệu bộ rất thành thạo, khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Chiếc quẹt
của Dưỡng là loại quẹt Zippo, một bên có hình mấy con chó, còn bên kia có mấy
chữ viết tắt lâu ngày tôi không nhớ. Từ trong tay trái của người đàn ông bỗng
xuất hiện một nắm bùi nhùi, không biết ông ta lấy từ đâu. Còn chiếc điếu cầy
dài thoòng thì lúc này lủng lẳng dưới cổ của ông bằng một sợi dây dù màu trắng.
Sau
khi chiếc bùi nhùi bừng sáng, người đàn ông vẫn không chịu trả lại chiếc hộp
quẹt cho Dưỡng. Ông đưa chiếc điếu cầy lên miệng hít nhẹ vài cái. Lập tức chiếc
điếu cầy kêu lên những tiếng ròn tan lanh lảnh. Dưới ánh đèn điện vàng vọt, tôi
nhìn thấy rõ ở đầu của nõ điếu to hơn ngón chân cái, một bi thuốc lào to như
quả quất nằm gọn thon lọn. Chờ cho chiếc điếu trả lời bằng những hồi ròn tan,
nghe thiệt đã tai, người đàn ông mới đưa miệng điếu cầy về một bên mép, tay dí
chiếc bùi nhùi vào nõ điếu, rồi hít nhịp nhịp vài hơi cho bi thuốc lào bén lửa…
Khi bi thuốc bén lửa vừa đủ, người đàn ông bắt đầu rít một hơi thật dài, làm
chiếc điếu kêu lên một hồi thiệt rõ to và ròn tan, nghe váng cả tai….
Nghe
chiếc điếu cầy kêu một hồi dài không dứt, nhìn người đàn ông ém khói một cách
ngon lành trong chiếc lồng ngực khổng lồ rộng như cánh phản, rồi thấy khói
thuốc cuồn cuộn bay ra từ miệng, từ hai lỗ mũi bao trùm cả một vùng dưới cột
đèn, chúng tôi biết rằng, người đàn ông trước mặt có hai lá phổi khổng lồ và
một sức mạnh kinh khủng. Tự dưng, lúc đó trong vùng khói thuốc mù mịt, không ai
bảo ai, cả ba đứa chúng tôi đứng đó, ngước mắt nhìn người đàn ông lạ mặt, và
tất cả đều thấy mình trở nên nhỏ bé lạ lùng…
KỲ 29
Buổi
chiều hôm đó, trong ánh sáng chập choạng của hoàng hôn, đứng trong khói thuốc,
hít mùi thuốc lào đậm đặc trong không khí, tôi bỗng nhớ thầy tôi vô cùng….
Hình
ảnh của hững năm tháng xa xưa, những lúc mùa đông gió rét, lạnh lẽo căm căm,
tôi được ngồi hóng chuyện bên cạnh chiếc điếu ống, có chiếc cần cong vút lại
hiện về. Chiếc điếu ông ngày đó là dấu ấn cuối cùng đánh thức một thuở vàng son
quá khứ để những người như thầy tôi tưởng nhớ, hoài niệm. Trong những ngày
tháng đó, mỗi khi có khách, anh của tôi vẫn không chịu cho thầy tôi mang chiếc
điếu ống ra ngoài nhà hút, vì sợ khách biết đến những “dấu vết phong kiến” còn
tồn đọng trong nhà, ảnh hưởng đến việc “phấn đấu” của ảnh. Nhưng đối với những
vị khách của thầy tôi như ông đồ Tường, ông lang An, thì chiếc điếu ống luôn
luôn là một kỷ vật gợi nhớ rất nhiều kỷ niệm cho cả chủ lẫn khách. Những ngày
tháng đó, mỗi khi thấy thầy tôi hút thuốc lào, là tôi vội chạy lại hít khói
thuốc, mặc cho ông cụ rầy la. Cuộc sống ở Miền Bắc thời ấy, thiếu thốn trăm bề,
ngay cả thuốc lào cũng không có đủ cho thầy tôi hút. Tôi nhớ có nhiều ngày,
không có thuốc, thầy tôi chỉ ngậm chiếc tẩu không, như thói quen của một người
nghiền, cho đỡ nhớ, đỡ thèm. Sau này, đọc hồi ký Bạn Tù Sơn La của nhà văn Phan
Lạc Phúc, đến đoạn ông mô tả cảnh thèm thuốc lào, điếu thuốc lào là một cái đích
để người tù vươn tới, rồi có những người tù chế “thuốc lào ngải cứu” hút đến
chảy máu mũi ròng ròng…. tôi rất xúc động, rưng rưng nước mắt. Nhưng người tù
trong hồi ký của nhà văn Phan Lạc Phúc dù nghiện thuốc lào, thèm thuốc, không
có thuốc, vẫn còn được tự do tìm đủ mọi cách xoay xở để giải quyết cơn nghiện
của riêng mình. Còn thầy tôi trong những ngày tháng thiếu thốn đó, phải một
mình cáng đáng mẹ già trên 90 tuổi, con thơ mới 5, 7 tuổi, trong hoàn cảnh của
một người bị quy tội “địa chủ”, không những hàng xóm láng giềng xa lánh, mà
ngay cả người thân cũng lánh xa, thì nếu thầy tôi có đi chợ bán thuốc, kiếm
được một vài hào bạc, thầy tôi cũng chỉ nghĩ đến chuyện mua khoai, mua gạo, nấu
cho mẹ, cho con ăn cho đỡ đói, chứ đâu có thể “xa xỉ” mà nghĩ đến chuyện mua
thuốc lào thỏa mãn cơn nghiện…
Người
đàn ông ngước mặt lên trời nhả khói một cách say sưa, như quên hẳn ba đứa chúng
tôi. Thấy người đàn ông say sưa, lại có bộ điệu ngang tàng, lạ lùng, nên dù
người đàn ông chưa chịu trả hộp quẹt Zippo, Dưỡng cũng không tiện hỏi và chúng
tôi cũng không ai dục. Bỗng nhiên người đàn ông hỏi trống, mặt vẫn ngửa lên
trời:
-
Trong Nam ra phải không?
Chúng
tôi giật mình, ngạc nhiên nhìn nhau, nhưng không ai trả lời. Sau một thoáng im
lặng, người đàn ông tiếp:
-
Tàu suốt từ Vinh ra Hà Nội phải đến trưa mai mới có. Chờ tàu ở ga buồn thấy mẹ.
Nếu rảnh thì kéo về nhà tớ chơi.
Tôi
đưa mắt nhìn Bình và Dưỡng. Trong một thoáng trao đổi, tôi biết Bình và Dưỡng
có vẻ ngại ngùng. Riêng tôi, không hiểu sao, chỉ ngửi mùi thuốc lào, và nhìn
phong dáng của người đàn ông, tôi thấy thân thiết và tin tưởng ông nhiều lắm,
nên tôi nhìn Bình và Dưỡng gật đầu, tỏ dấu đồng ý. Người đàn ông giáng thêm một
câu khiến Bình và Dưỡng thuận theo ý của tôi:
-
Ngủ ngoài ga công an thành phố hay hỏi giấy tờ phiền phức lôi thôi lắm…
Nói
đến đó, người đàn ông ném chiếc quẹt cho Dưỡng, rồi xoay lưng bước đi, sau khi
nói ba chữ gọn lọn:
-
Tớ tên Quy…
Tôi
quay sang Bình và Dưỡng hỏi:
-
Sao, đi theo lão hay ra ga?
Bình,
Dưỡng ngần ngừ một chút, rồi Bình gật đầu:
-
Theo thì theo, sợ quái thằng nào.
Cả
ba chúng tôi rảo cẳng đi kịp ông Quy. So về tuổi tác, lúc đó cả ba chúng tôi
chỉ đáng tuổi con ông ta. Nhưng thấy vóc dáng lè phè, ăn mặc lôi thôi, và lối
xử thế lạ
lùng,
vừa ngang tàng bất cần đời, lại vừa có vẻ thân mật kiểu “mày tao”, nên chúng
tôi không biết gọi ông như thế nào. Hình như ông Quy cũng đoán biết được điều
đó, nên nói ngay, và vẫn nói trống:
-
Cứ gọi tớ là Quy. Lính cả mà.
Khác
hẳn lúc trước ít nói, suốt đoạn đường từ đó về gần đến nhà, ông Quy nói chuyện
huyên thuyên đủ thứ. Thì ra, đúng như tôi đoán, ông là người thiểu số, nhưng
lâu ngày tôi không nhớ ông là người Thượng hay người Nùng. Gia đình ông trước
sống ở Lào rất giầu có, có buôn rẫy nhà rông rất to. Ông sinh ra và lớn lên ở
đó, nhưng vẫn thường xuyên qua đèo Lao Bảo sang Việt Nam buôn bán. Sau này, bố
mẹ ông ngây thơ nghe mấy người Thái cộng sản ở vùng bắc Thái Lan dụ dỗ về Việt
Nam “xây dựng đất nước”, nên bán tất cả của cải rồi hồi hương. Chỉ mấy tháng
sau đó, gia đình ông tỉnh ngộ thì đã muộn màng. Trong những năm máy bay Mỹ ném
bom Miền Bắc, bố mẹ ông bị trúng bom chết trong khi tải đạn cho một đơn vị
phòng không ở chân cầu Hàm Rồng. Ông có hai người anh, một “hy sinh” tại chiến
trường Lào, một mất tích ở chiến trường Miền Nam đã 5, 6 năm, vẫn không nhận
được tin tức gì. Ông còn có một người em gái, mới 16 tuổi đã “tình nguyện” đi
“thanh niên xung phong”, vì ở nhà “nó nhớ bố mẹ quá chịu không nổi, rồi nó
cũng…” Nói đến đó, giọng ông xúc động, đẫm nước mắt… Ông nói cố thêm mấy tiếng,
tôi nghe không rõ, chỉ nghe được có hai chữ “hy sinh”… Từ đó cho đến khi về đến
nhà, ông im lặng không nói. Chúng tôi cũng không ai hỏi. Đi đằng sau ông, tôi
thấy ông cúi đầu, hai vai run run. Thỉnh thoảng, ông lại hỉ mũi… Chắc ông xúc
động lắm, đau lòng lắm,… tôi nghĩ.
Sau
“vài tầm dao”, nguyên văn tiếng gọi của ông, chúng tôi tới nhà ông. Ông giải
thích, mỗi “tầm dao” là một đoạn đường tay cầm dao thấy mỏi, chuyển sang tay
kia. Tôi ước lượng từ ga đến nhà ông đi mất hơn một tiếng, dài khoảng 5 cây số.
Tốâi đó, trăng sáng như ban ngày, nên vạn vật tôi nhìn thấy rất rõ. Nói là nhà,
thực ra đó là một túp lều, lợp bằng tranh, làm bằng tre, nứa gỗ lấy từ rừng,
chung quanh có đắp những tảng đá. Ngay cạnh nhà là một chiếc hầm trú ẩn hình
chữ A, vài hố trú ẩn cá nhân, một đoạn giao thông hào chạy ngoằn nghèo hướng về
phía ngọn đồi xa xa. Phía bên trái căn nhà có năm nấm mồ tuy sơ sài cùng cây
cỏ, nhưng chắc chắn vì nấm mồ nào cũng được đắp kín bằng những tấm đá đẽo vuông
vắn.
Chỉ
mấy nấm mộ, ông Quy nói:
-
Đó, mộ bố mẹ tôi, hai ông anh và con em gái tôi đó. Mất tích mà đến giờ này
không được tin tức gì thì cũng phải có ngôi mộ để vong linh đỡ tủi…
Cạnh
mấy nấm mộ là những bụi chuối xúm xuê. Riêng nấm mộ cuối cùng được bao bọc kín
bằng hoa mười giờ. Tôi đoán, đó là mộ em gái ông. Đang tính hỏi, thì ông nói
ngay:
-
Em tôi nó thích hoa mười giờ. Đi đâu cũng phải có một bông cài lên tóc. Sau nó
chết đúng 10 giờ sáng. Nói không ai tin, nhưng hàng xóm láng giềng ở đây ai
cũng biết. Mà nó linh lắm, nó vẫn hiện về gặp tôi hoài đó, mấy anh tin không?
Chỉ
về phía ngọn đồi ở xa xa, nơi giao thông hào hướng tới, ông Quy nói:
-
Ngọn đồi đó trước là của một đơn vị bộ đội tên lửa phòng không. Chung quanh là
những ụ cao xạ. Chỉ có ụ tên lửa là có bộ đội thôi. Còn mấy ụ cao xạ là toàn
người trong làng. Phụ nữ, bô lão, thanh niên nam nữ, rồi cả thiếu nhi nữa, tất
cả đều phải chạy ra đó “chống Mỹ” mỗi khi có kẻng báo động. Cho có tinh thần
vậy mà. Chết một đống còn hơn sống một mống…
Trong
nhà không có bàn ghế gì. Chỉ có một chiếc chõng tre nằm gọn một góc. Chung
quanh nhà được ghép bằng những tấm gồ xù sì, được xẻ từ cây rừng, không bào
gọt, đục đẽo. Cửa chính là một tấm phên nứa. được chống lên bằng một khúc tre.
Trên tường gỗ có dán một tấm giấy to bằng tờ báo Nhân Dân. Tấm giấy đã ố vàng,
nhưng tôi vẫn còn đọc thấy rõ hàng chữ in lớn trên đầu tờ giấy “Một số hiểu
biết thông thường về phòng không nhân dân”. Phía dưới dòng chữ là những hình
ảnh hai chiều đơn giản hai loại máy bay Mỹ, một số loại bom thông thường, và
những chỉ dẫn cách thức dùng súng các loại, bắn máy bay Mỹ vào những điểm yếu…
Bên cạnh bức tranh, trên những tấm gỗ là những bức vẽ bằng phấn hình hai chiếc
máy bay đang bay, và đường đạn bắn từ dưới lên, trúng ngay bụng một chiếc phi
cơ, làm cho nó bốc cháy. Ở góc nhà, có một chiếc kệ bằng tre, trên đặt một
chiếc máy bay Mig bằng nhôm nhỏ, dài hơn một gang tay.
Sau
này, Quy kể cho chúng tôi biết, đó là vật kỷ niệm cuối cùng của người em gái
Quy. Chiếc máy bay đó là của một người bộ đội ở đơn vị tên lửa trên đồi tặng
cho em gái Quy trước khi anh ta chết. Mai (tên em gái Quy) khi lên đường đi
thanh niên xung phong đã gửi chiếc máy bay đó lại cho Quy. Tuy có rất muốn mang
kỷ vật của người bộ đội theo bên mình, nhưng vì sợ mất, nên cô đã gửi lại cho
người anh với lời dặn dò, nếu cô còn sống trở về thì thôi, còn nếu cô chết thì
phải chôn chiếc máy bay đó cùng với thân xác của cô…
Kể
đến đó, ông Quy run run nói:
-
Biết là nó đã chết, nhưng tôi không có xác nó mà chôn cùng, nên đành phải để
chiếc máy bay đó mà chờ… Chờ đã hơn 7 năm rồi…
KỲ 30
Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại
nhà của ông Quy và nghe ông kể về những bi kịch gia đình ông đã trải qua trong
suốt thời gian từ 1965 cho đến 1975. Từ những chết chóc của những người thân
trong gia đình ông cho đến những mất mát vô phương hàn gắn của làng xóm nơi ông
ở. Nghe chuyện của ông, tôi biết rằng, trong suốt thời gian mấy chục năm qua,
trên quê hương Việt Nam, những mất mát của ông cũng là mất mát chung của hàng
triệu gia đình Việt Nam. Và mất mát nào cũng đau khổ, bi thương, đầy máu và
nước mắt. Nhưng có điều lạ lùng, trước những mất mát tang thương đó, ông Quy
không hề “căm thù Mỹ ngụy” như phần đông những người dân Miền Bắc bị cộng sản
tuyên truyền. Có lẽ cuộc sống của ông ở Lào, cùng những chuyến đi buôn bán ở
bên kia biên giới và mối quan hệ với người Thái Lan đã giúp ông nhìn ra bản
chất của cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc xâm lăng của cộng sản Miền Bắc đối
với Miền Nam. Chúng tôi còn ngạc nhiên hơn khi ông cho biết, tương lai người
dân Việt Nam còn khốn khổ dài dài, vì cả nước sẽ phải “thắt lưng buộc bụng” để
lấy gạo trả nợ cho Trung cộng. Ông cũng kể cho chúng tôi nghe, trong thời gian
chiến tranh, khi Trung Cộng không còn viện trợ gạo cho Hà Nội, cả làng của ông
đã phải làm những vỏ bao gạo giả có in chữ Trung Cộng, để giữ cho lòng người
Miền Bắc khỏi hoang mang như thế nào. Ông Quy cũng tâm sự với chúng tôi về
những ân hận hối tiếc của cha mẹ của ông khi nghe lời tuyên truyền của cộng
sản, cho gia đình “hồi hương xây dựng đất nước”. Ông Quy sống không vợ con. Chỉ
một thân một mình lủi thủi cùng với một con chó mực và cả một quá khứ đau xót,
đầm đìa nước mắt và kỷ niệm lúc nào cũng trĩu nặng trên hai vai. Ông Quy chỉ là
người thiểu số, nhưng với sự từng trải và hiểu biết, ông đã đoán ra chúng tôi
là ai ngay khi gặp chúng tôi trong quán ăn.
Hôm nay, tôi viết những dòng
chữ này về ông Quy vì tôi muốn gửi gắm tới qúy độc giả một sự thực, ở Miền Bắc,
trong cuộc sống khốn khổ, thiếu thốn và đói khát, lại bị cộng sản tuyên truyền
nhồi sọ ngày đêm, nhưng vẫn có rất nhiều người, rất nhiều tấm lòng không hề bị
nhuộm đỏ. Những người đó vẫn hướng tới Miền Nam tự do với lòng hy vọng trong
suốt 20 năm. Rất tiếc, vì đất nước mình nhỏ bé, nên bị nhào nặn trong bàn tay
nghiệt ngã của định mệnh, nên sau 20 năm chiến tranh, cuối cùng cộng sản chiếm
được Miền Nam, khiến cho mọi hy vọng được người dân Miền Bắc âm thầm ấp ủ suốt
thời gian dài, cuối cùng đều tan vỡ…
Tuy thời gian nghỉ lại nhà ông
Quy chỉ có một đêm, nhưng không hiểu sao từ đó cho đến nay, suốt mấy chục năm
trôi qua, tôi vẫn nhớ đến ông, nhớ đến chiếc điếu cầy ông hút, nhớ những nấm mồ
bên cạnh nhà, trong đó có nấm mồ trồng đầy hoa mười giờ mà trong lòng một thì
trống không. Tôi không biết đến bây giờ, trong lòng ngôi một đó đã có được
chiếc quan tài, ấp ủ thân xác người em gái của ông hay chưa, hay chiếc máy bay
nhỏ kỷ vật xưa, vẫn còn cô đơn trên chiếc kệ tre ở góc nhà…
o O o
Khoảng trung tuần tháng 5,
chúng tôi đến Hà Nội an toàn. Mặc dù suốt chặng đường từ Vinh ra đến Hà Nội,
chúng tôi bị hỏi giấy tờ nhiều lần, nhưng lần nào cũng trót lọt. Với khoa học
kỹ thuật của Miền Nam, những giấy tờ giả mạo do Bình làm đã qua mắt dễ dàng
mạng lưới an ninh của Miền Bắc.
Khi chuyến tàu tiến vô ga Hàng
Cỏ, Hà Nội, tôi rất nôn nóng, muốn chắp cánh bay ngay về nhà của mẹ tôi. Tôi
không biết trong mấy năm qua, cuộc sống của mẹ tôi ra sao. Vì trong những năm
tháng ở Miền Nam tự do, tôi đã công khai viết bài tố cáo những tội ác của chế
độ cộng sản; đã lên đài kể lại những bi kịch do cộng sản gây ra trên quê hương
Miền Bắc; với tất cả tên tuổi thật, địa chỉ thật của mình, nên tôi biết, khi
tôi trở lại Miền Bắc, tôi sẽ phải đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Tôi biết,
tôi không thể về thẳng quê nhà và cũng không thể về ngay nhà của mẹ tôi.
Trải qua nhiều chục năm, chế độ
độc tài chuyên chế của cộng sản tại Hà Nội đã tạo nên cả một mạng lưới an ninh
bao trùm đời sống của người dân, thâm nhập vô mỗi gia đình, nên không một ai
dám tin ai, ngay cả bằng hữu, ruột thịt trong nhà. Thêm vào đó, cuộc sống thiếu
thốn trăm bề, đói khát kinh niên của người dân Miền Bắc phải thường xuyên và
vĩnh viễn tùy thuộc vào chế độ tem phiếu của nhà nước, đã khiến cho mỗi gia
đình, mỗi người lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không dám làm trái ý đảng, trái ý
nhà nước để rồi mang họa đến cho những người thân yêu. Vì vậy, có thể nói, sau
30 tháng 4 năm 1975, trong những năm tháng phải sống ngoài vòng pháp luật, bị
săn đuổi như một con thú, tôi luôn luôn thấy bình an, tự tin như cá bơi trong
nước, khi tôi được ở trên lãnh thổ của Miền Nam. Trái lại, trên đất Bắc, tôi
luôn cảm thấy lo sợ, hoảng hốt như cá bị mắc cạn.
Ngay cả sau này, khi trốn khỏi
trại cải tạo Kà Tum, trên đường trở về Sàigòn, tôi luôn luôn được gặp những tấm
lòng vàng của người dân Miền Nam. Mỗi khi gặp hoạn nạn, tôi nói thật tôi là tù
cải tạo trốn trại, lập tức tôi được mọi người giúp đỡ tận tình, không nề hà
nguy hiểm đến bản thân. Tôi còn nhớ, khi vừa trốn khỏi trại cải tạo, đi bộ suốt
đêm về đến thị trấn Dầu Tiếng vào buổi sáng sớm tôi có ghé một quán nước cách
bến xe khoảng vài trăm thước. Khi được tôi cho biết, tôi là tù cải tạo trốn
trại, cô chủ quán đã nhất định không chịu lấy tiền tô phở và ly cà phê. Không
những thế, cô còn cho tiền và chỉ cho tôi cách đón xe đò về Bình Dương, khỏi bị
công an xét hỏi. Cô khuyên tôi đừng có vô bến xe, mà nên đứng đợi ở dọc đường
rồi vẫy xe đò.
Rồi khi tôi lên được xe đò, vì
mới trốn trại, không có bất cứ giấy tờ gì, mà trạm kiểm soát ở Bến Cát thì vô
cùng nguy hiểm, nên trong nỗi lo sợ, tôi đánh liều nói thật cho mấy chị đi buôn
ngồi cạnh biết tôi là tù cải tạo vừa trốn trại. Nghe xong, các chị liền nói bô
bô cho tất cả mọi người trong xe biết. Lập tức cả chiếc xe đò nhốn nháo, mỗi
người mỗi ý, ai ai cũng muốn giúp đỡ tôi. Lúc đó tôi nhớ là vừa nghỉ hè, nên có
mấy nam nữ giáo viên, tuổi còn rất trẻ trên xe. Sau một hồi bàn bạc rôm rả, ầm
ĩ của tất cả mọi người, kể cả tài xế lẫn lơ xe, tôi được các bà đẩy vào tận
phía trong cùng ngồi, rồi các bà bắt tôi phải cởi áo ngoài, chỉ mặc có một
chiếc áo lót lấm lem dầu mỡ của người lơ xe. Kế đó, tôi được một chị trao cho
một em bé khoảng trên dưới một tuổi, bắt tôi phải bế, kèm theo một bình sữa.
Mọi người dặn tôi, khi đến Bến Cát, cứ ngồi nguyên trên xe, để các bà các cô lo
liệu. Sau đó, các chị còn chuẩn bị sẵn “tiền lì xì” để dúi tay mấy nhân viên an
ninh nếu chúng nó muốn làm khó dễ… Tôi ngoan ngoãn làm theo sự chỉ dẫn của mọi
người, và trong thời gian chớp nhoáng, tôi cảm thất thật an toàn và tự tin
trong tấm lòng của người dân Miền Nam. Quả nhiên, khi đến Bến Cát, cửa sau xe
mở ra, bóng vài người bộ đội đeo súng AK vừa thấp thoáng, đã bị các bà các cô
xúm xít “đon đả chào đón tận tình”, nên chẳng một tên bộ đội nào thèm hỏi giấy
tờ của tôi….
Ngồi sâu trong xe, một tay bồng
em bé khóc oe oe, tay kia cầm bình sữa cố nhét vô miệng để dỗ cho đứa bé nín,
tai nghe các bà các cô đưa mấy anh cán ngố vào xiếc một cách dễ dàng, tôi mới
nhận ra, người phụ nữ Việt Nam, bất kể họ là ai, già hay trẻ, cũng đều thông
minh tuyệt vời, và sẵn sàng hy sinh để cứu vớt những kẻ cô thế, đùm bọc những
người gặp hoạn nạn. Hãy nói thật với họ những nguy hiểm bạn đang đối diện,
những khó khăn bạn đang gặp phải, chắc chắn bạn sẽ được giúp đỡ tận tình, dù họ
là mẹ, là vợ, là chị em của bạn, hay chỉ là một người dưng tình cờ gặp gỡ ở một
nơi nào đó… Đối với người phụ nữ Việt Nam, bạn đừng bao giờ nói dối họ, thì bạn
sẽ không bao giờ gặp hoạn nạn, khó khăn, hay khổ đau…
Xế trưa hôm đó, khi xe về đến
thị xã Bình Dương, mấy thầy cô giáo còn mời tôi một bữa ăn ngon lành. Trong khi
tôi ăn, các cô giáo còn xách mấy bao gạo được nhà trường trả lương, đem đi bán,
lấy tiền đưa cho tôi. Cầm tiền của các cô, tôi ứa nước mắt vì xúc động… và tôi
không nói nên lời. Từ đó đến nay, trong suốt mấy chục năm trời, tôi vẫn nhớ mãi
những con người với tấm lòng vàng mười trên chuyến xe đó từ Dầu Tiếng về Bình
Dương. Tuy chẳng nhớ rõ được một gương mặt nào, một cái tên gọi nào, hay một
địa chỉ nào, nhưng mỗi khi nhớ đến những kỷ niệm của ngày đó, tôi vẫn thấy
trinh nguyên những bóng dáng ấy, những bàn tay ấy, thấp thoáng trong tâm trí,
cùng với những xúc động cũng trinh nguyên như thuở nào của 31 năm về trước….
KỲ 31
Mẹ
của tôi sống rất nghèo và cô đơn trong một căn nhà chật chội, nằm trong một căn
hẻm nhỏ ở Hà Nội. Như tôi đã thưa chuyện cùng các bạn, khi Mẹ của tôi ghé thăm
tôi năm tôi mới lên 7, lên 8 tuổi, tôi đã không chịu nhận Mẹ, không chịu gọi Mẹ
một tiếng “Mẹ ơi!”, chỉ vì tôi bị những người lớn sống trong cùng một gia đình
tiêm nhiễm vào đầu óc tôi đủ thứ chuyện, nên tôi tin Mẹ của tôi đã bỏ tôi khi
tôi còn đỏ hỏn…. Trong những năm tháng sau này, và ngay cả đến bây giờ, hình
ảnh Mẹ của tôi đi trong buổi trời chiều, khi gió lộng thổi, mặt nước sông sóng
vỗ từng đợt, vẫn còn để lại trong lòng tôi những nỗi xúc động trinh nguyên của
ngày nào. Cùng với thời gian, trải qua những va chạm trong cuộc sống, và nhất
là qua những lời kể của thầy, tôi dần dần hiểu được những hoàn cảnh éo le, đau
khổ đến quằn quại, ướt đẫm nước mắt mà Mẹ đã phải chịu đựng khi yêu thầy của
tôi, khi mang bầu tôi và khi sanh ra tôi. Chính trong nỗi niềm đầy ân hận và
xót xa thương cảm dành cho Mẹ, sau này tôi đã cố gắng tìm Mẹ, nhưng không thành
công. Cuộc sống thiếu thốn, đói khổ ở Miền Bắc, đối với một người con trai nhỏ
bé như tôi, ngay đến củ khoai hà, ngọn rau muống còn là sự khao khát, thèm
thuồng, thì làm sao tôi có đủ điều kiện và tiền bạc để đi tìm Mẹ.
May
mắn, đến năm 16 tuổi, tôi tình cờ quen một người bạn học, quê ở thị xã Phủ Lý.
Thân phụ của người bạn, từng trọ học ở nhà tôi trong những năm trước 1945, nên
qua câu chuyện với một số bạn bè ở quê ngoại của tôi, người bạn đó biết được Mẹ
ruột của tôi có một người con với cụ Xếp Văn là thầy của tôi. Từ những câu
chuyện tình cờ giăng mắc với những người bạn, con cháu của bên ngoại, những
buổi gặp gỡ xa gần xúc động đầy nước mắt, cuối cùng tôi biết Mẹ của tôi đang
sống ở Hà Nội. Trong những năm tháng đó, máy bay Mỹ thường xuyên ném bom Miền
Bắc, nên trường học của tôi phải “sơ tán” về vùng thôn quê ở gần Đọi Đệp, là quê
ngoại của tôi. Hà Nội lúc đó đang là mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ, nên tôi
không biết làm cách nào để kiếm ra tiền đi thăm Mẹ; và không biết Mẹ có còn
sống ở Hà Nội hay đã đi “sơ tán”… Biết được những khó khăn, thiếu thốn của tôi,
một số người bạn học đã gom góp tiền đưa cho tôi, rồi sẵn sàng cho tôi mượn xe
đạp để tôi đi thăm Mẹ. Ôi, những tấm lòng đầy ân nghĩa của tình bạn tuổi học
trò… khiến tôi nhớ mãi. Trong suốt những năm tháng sau này, mỗi khi nhớ đến
những nghĩa cử đó, tôi lại thấy bồi hồi rung cảm. Thì ra, trong cuộc sống, càng
thiếu thốn, khốn khó bao nhiêu, con người càng có cơ hội thể hiện lòng nhân ái
nhiều hơn, yêu thương nhau hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn.
Giữa
lúc tôi đang chuẩn bị đi thăm Mẹ, thì một ngày nọ, vào giữa buổi trưa hè nắng
oi ả, Mẹ của tôi đến trường thăm tôi. Phần ngại hoàn cảnh trọ học của tôi, phần
có lẽ Mẹ của tôi có những nỗi ngại ngùng riêng tư nào đó, tôi không biết, Mẹ từ
chối không chịu vào nhà trọ của tôi. Vì vậy, tôi theo Mẹ ra một bụi tre cạnh bờ
sông Châu, và tại đó, hai Mẹ con tôi tâm sự… Cho đến hôm nay, tôi vẫn không nhớ
rõ, trong buổi gặp gỡ đó, Mẹ của tôi đã nói những gì, tôi đã nói những gì,
nhưng tôi chỉ nhớ mãi có một điều, trong buổi tâm sự trưa hôm đó, Mẹ chỉ có
khóc…. Mẹ tôi khóc hoài, khóc không thành tiếng, nhưng nước mắt của Mẹ cứ ứa
ra, chảy dài trên hai gò má… Mẹ lấy khăn lau, nhưng lau vừa xong là nước mắt
lại giàn giụa… Bây giờ, khi ngồi viết những dòng chữ này, hình ảnh Mẹ của tôi
với những dòng nước mắt và cặp mắt giàn giụa nỗi thương đau vẫn hiện về rõ rệt
như ngày nào tôi đang ngồi trước mặt Mẹ… Lúc đó, tôi muốn được gục vào lòng Mẹ
của tôi mà thổn thức, tôi muốn ôm lấy Mẹ để khóc oà lên như những người con khi
gặp mẹ mà tôi vẫn thấy trong phim hay tôi thường tưởng tượng khi đọc truyện. Vậy
mà không hiểu sao, trong lòng thì muốn vậy, nhưng tôi không làm được như vậy…
Tôi ngồi đó, đau xót và bất lực nhìn Mẹ của tôi khóc… bằng cặp mắt ráo hoảnh
của mình, để rồi ngay tối hôm đó, và từ đó về sau, mỗi khi nhớ tới những giọt
nước mắt của Mẹ vào buổi trưa hè bên giòng sông Châu, tôi lại rưng rưng lệ…
trong niềm xúc cảm sâu lắng. Ngay cả bây giờ, khi ngồi đánh máy những dòng chữ
này vào buổi sáng của ngày Thứ Tư, sau một đêm dài thức trắng, nỗi niềm xúc
động trong lòng tôi dành cho Mẹ vẫn như ngày nào của ngót 40 năm về trước…
Trong
những năm tháng sau đó, tôi và bạn bè của tôi thường xuyên ghé thăm Mẹ vào dịp
nghỉ hè. Tuy những dịp thăm viếng Mẹ như vậy không nhiều, mỗi năm chỉ một, hoặc
hai lần, nhưng tôi được sống những giờ phút thật hạnh phúc của một người con có
Mẹ, được Mẹ chăm sóc. Tôi còn nhớ, có những buổi sáng sớm, tôi thức dậy, nhưng
vẫn nằm trong giường đọc sách. Khi Mẹ bước vô, sợ Mẹ la đọc sách trong mùng,
nên tôi giả vờ nằm ngủ… Khi đó, tôi thấy bóng dáng thấp thoáng của Mẹ, đi ra đi
vô, dọn dẹp đồ đạc trong phòng, hay chuẩn bị đồ ăn sáng cho tôi…
Tuy
được sống trong hạnh phúc của tình Mẫu Tử, tôi ít khi tâm sự với Mẹ, ít khi
ngồi nghe Mẹ kể chuyện… vì mỗi khi Mẹ tôi trò chuyện với tôi là Mẹ lại khóc.
Không hiểu từ bao giờ, bắt đầu từ lúc nào, nhưng đã lâu lắm, ngay từ khi mới
được đoàn tụ với Mẹ không lâu, tôi đã có ấn tượng, cuộc đời của Mẹ là cả một
giọt nước mắt khổng lồ, là những giòng nước mắt nối nhau chảy bất tận… Từ cuộc
đời khốn khó đầy đau thương và nước mắt của Mẹ, tôi đã trưởng thành, bước vào
đời với một tấm lòng đa sầu, đa cảm, dễ “thương vay, khóc mướn” trước những đau
khổ của người dưng, của nhân thế. Tôi hiểu được muôn vàn nỗi khó khăn chật vật,
cùng những khổ đau, hy sinh tận tụy của những người vợ, người mẹ Việt Nam dưới
muôn vạn mái nhà, trên muôn vạn nẻo đường của đất nước. Tôi xót xa trước những
đắn đo mua sắm từ bó rau, con cá, những thao thức giật gấu vá vai, thu vén gia
đình, cho chồng con hạnh phúc, của hàng triệu người mẹ, người vợ Việt Nam, sống
trong thiếu thốn đói khổ, chịu đựng muôn phần cơ cực tại hàng vạn vạn làng quê
Miền Bắc…
Qua
cuộc đời đầy éo le và nước mắt, cô đơn và xót xa của Mẹ, tôi hiểu được những
oan trái khổ đau người phụ nữ Việt Nam thường phải gánh chịu từ khi lớn lên cho
đến khi yêu đương, được làm vợ, làm mẹ. Thêm vào đó, văn hóa Việt Nam, đạo lý
vợ chồng của nền văn minh cửa Khổng sân Trình, quan niệm chồng chúa vợ tôi,
cộng với đời sống thiếu thốn trăm bề của gia đình Việt Nam, đã khiến người phụ
nữ Việt Nam phải gánh chịu thêm nhiều hy sinh, đau khổ… so với phụ nữ ở các
quốc gia khác. Qua những trang sách tả thực của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ
Trọng Phụng, Hồ Dzếnh, Mai Thảo, Nhã Ca, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ… tôi thấy lòng
mình thực sự rung động, trước những thân phận éo le của các nhân vật, điển hình
cho nỗi khổ đau chồng chất và muôn phần đa dạng của người phụ nữ Việt Nam…
Trong
những năm tháng sau 30-4-1975, cùng với sự chiếm đóng Miền Nam, người cộng sản
còn gieo rắc lên muôn vạn mái nhà, muôn vạn cuộc đời phụ nữ Miền Nam hàng triệu
nỗi khổ đau, trong đó có nỗi khổ đau chờ chồng, nuôi chồng trong trại tù cải
tạo. Sau này, khi đọc bài thơ Ta Về của nhà thơ Tô Thùy Yên, tôi đã vô cùng xúc
động khi đọc tới đoạn mô tả tình cảm của tác giả, một người đi tù cải tạo sau
10 năm trở lại nhà, dành cho người vợ thương yêu, đầu gối tay ấp, thủy chung
chờ chồng:
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy.
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
Ta về dầu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.
Mấy
năm trước, khi lần đầu được đọc bài thơ Ta Về, trong lòng tôi vừa xúc động, vừa
biết ơn thi sĩ Tô Thùy Yên vô cùng, vì những câu thơ của ông đã đánh thức trong
lòng tôi những xúc cảm kỳ diệu của tình yêu thương, lòng tri kỷ, sự hy sinh…
dành cho nhau trong tình vợ chồng khi ly biệt. Câu thơ “Nỗi mừng giàn giụa mắt
ai sâu” có một sức mạnh gợi tưởng huyền diệu, giúp người đọc thức ngộ được
những giao thoa kỳ diệu của nỗi đau với niềm vui, của ly biệt với đoàn tụ, của
khổ đau với hạnh phúc… Rồi trong khổ thơ sau, thi sĩ Tô Thuỳ Yên cũng giúp
người đọc, nhất là những người tù cải tạo, hiểu được những khổ đau chất ngất,
những thao thức, trăn trở bất tận của những người vợ có chồng đi tù cải tạo: “Đau khổ riêng gì nơi
gió cát. Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.”
KỲ 32
Ngồi
trên xe lửa, trên đoạn đường từ Nam Định, qua Phủ Lý, đến Hà Nội, lòng tôi ngổn
ngang trăm mối khi nhìn thấy những hình ảnh thân quen vùn vụt trôi qua cửa sổ.
Bao kỷ niệm được đánh thức, bao nhân dáng thấp thoáng hiện về, để rồi tôi đau
xót khi thấy quê hương, đất nước của tôi vẫn nghèo nàn, khốn khổ; thân nhân
bằng hữu của tôi vẫn mãi mãi chìm ngập trong cuộc đời giật gấu vá vai, khốn khó
về vật chất, đoạ đầy về tư cách, mỏi mòn về nhân phẩm. Bây giờ, cùng với chiến
thắng của người CS sau 30-4-1975, biết bao hy vọng mỏng manh của người dân Miền
Bắc sẽ bị dập tắt; bao tấm lòng thao thức hướng vô Miền Nam trong suốt bao
nhiêu năm qua, nay sẽ phải nghẹn ngào nhắm mắt… Lúc đó, tôi không hề biết,
trong suốt 31 năm sau 1975, tổ quốc của tôi, dân tộc của tôi sẽ phải chịu đựng
muôn vàn nỗi trầm luân, khổ cực, hàng trăm ngàn người sẽ bị đầy ải trong trại
cải tạo, hàng triệu người phải đi vùng kinh tế mới, hàng chục vạn người sẽ chết
biển cả, trong rừng sâu, những cô gái Miền Nam hồn nhiên, chất phác như hoa
rừng cỏ nội, sẽ phải bỏ cha mẹ, bỏ quê hương đi làm vợ những người đàn ông què
cụt, không cùng ngôn ngữ ở khắp các quốc gia trong vùng Á châu, những em bé sẽ
bị chế độ CS xuất cảng sang ngoại quốc làm điếm… Thời điểm tháng 5 năm 1975,
tất cả những chuyện đau khổ đó chưa xảy ra, nhưng tôi, một thanh niên mới 24
tuổi đầu, với kinh nghiệm cha truyền con nối về chế độ CS, cộng với những gì
tôi học hỏi được ở Miền Nam tự do, đã cho tôi biết, cùng với chiến thắng của CS
và cái gọi là “hào quang thống nhất đất nước” bao trùm lên cả nước, tổ quốc của
tôi, dân tộc của tôi đang bắt đầu bước vào một bóng đen dầy đặc của một đêm dài
thời trung cổ… Và cùng với nỗi bất hạnh của tổ quốc, của dân tộc, cuộc đời của
tôi cũng sẽ trải qua những nỗi đau đớn, nghẹn ngào, đầy máu và nước mắt…
Tôi
biết, với quá khứ của một người bộ đội hồi chánh, một tên “phản bội tổ quốc”,
tôi sẽ không thể nào sống nổi trong chế độ cộng sản. Tôi biết hình phạt duy
nhất dành cho tôi là nhà tù, trường bắn. Vì vậy, trong thâm tâm, ngay từ khi hiểu
rõ chế độ CS, tôi đã có một quyết tâm, bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải thoát
khỏi chế độ cộng sản vô nhân, cái chế độ chỉ biết dậy con người thù hận, căm
ghét, đập phá. Để thoát khỏi cái chế độ bất nhân cộng sản, tôi sẵn sàng chấp
nhận đánh đổi mạng sống của mình, vì thà tôi chết trên con đường chạy trốn cộng
sản, cái chết của tôi còn có ý nghĩa hơn là tôi tiếp tục sống kiếp nô lệ trong
chế độ cộng sản. Mang trong lòng quyết tâm ấy, cộng với những ảnh hưởng của tác
phẩm Ruồi Trâu, ngay từ những năm cuối thập niên 1960, tôi đã tìm đến cảng Hải
Phòng, tính chuyện chui xuống một chiếc tàu hàng nào đó, như Ruồi Trâu đã làm,
để trốn khỏi Việt Nam. Thực ra, chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm của tôi đáng lẽ
thành công, nếu không vì một bữa cơm với cá rô chiên tại nhà một người bạn tôi
quen ở bến cảng… Cũng vì mang trong lòng quyết tâm ấy, nên trước ngày vô Nam,
từ trong chỗ đóng quân ở sâu trong rừng thẳm của tỉnh Quảng Bình, tôi đã trốn
đơn vị để về thăm Thầy, Mẹ tôi lần cuối, để rồi sau đó, ngay khi đặt chân đến
lãnh thổ Miền Nam chưa đầy một tháng, từ động Ông Đô ở phía tây Quảng Trị, tôi
đã nhằm thẳng vùng ánh sáng của thị xã Quảng Trị, cắt một đường thẳng băng, trở
về hồi chánh với chính phủ VNCH… Và bây giờ, sau 1975, khi Miền Nam lọt vào tay
cộng sản, tôi cũng chỉ còn có một con đường duy nhất: Phải trốn khỏi chế độ CS
bằng bất cứ giá nào, cho dù tôi có chết trên đường trốn chạy. Nhưng trước khi
vĩnh biệt quê hương, tôi muốn một lần cuối gặp lại Thầy, Mẹ; lần cuối nhìn lại
quê hương cùng những người thân yêu của tôi. Đó là lý do khiến tôi trở lại Miền
Bắc trong chuyến đi vô cùng nguy hiểm này.
Như
tôi đã thưa với các bạn, trong thời gian sống trên vùng đất của Miền Nam tự do,
tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để người dân Miền Bắc, trong đó
có bằng hữu và những người thân của tôi, hiểu rõ sự thực cùng bản chất của cuộc
chiến tranh xâm lăng do CS Hà Nội chủ xướng. Để làm được điều đó, tôi đã viết
bài, với tên thật, địa chỉ thật; gửi những người thật, địa chỉ thật ở Miền Bắc;
và chính tôi đã đọc những bài viết đó trên đài VOA trong suốt thời gian dài mấy
năm trời. Vì vậy, ở quê hương của tôi, cả xã, huyện, tỉnh, đều biết tôi là một
tên “đầu hàng địch”, một thằng “phản bội tổ quốc”. Nay tôi phiêu lưu trở về
chắc chắn tôi sẽ phải đối diện với thật nhiều nguy hiểm, vì trong số những
người quen biết tôi, chỉ có rất ít là những người tôi có thể tin tưởng.
Ngay
khi xuống ga Hàng Cỏ, lòng tôi nôn nóng chỉ muốn về ngay nhà để thăm Mẹ. Tôi
biết, sau gần 5 năm trời xa cách, Mẹ tôi chắc đã già đi nhiều. Mái tóc của Mẹ
chắc có thêm nhiều sợi bạc, lưng của Mẹ cũng đã còng thêm… Trong suốt những năm
sống ở Miền Nam, mỗi khi nhớ Mẹ, tôi lại nhớ đến giàn mướp, giàn hoa thiên lý
mẹ trồng. Tôi nhớ cả chuồng heo, có con heo thiệt to, Mẹ tôi nuôi để sau này
bán lấy tiền cho tôi cưới vợ. Tôi nhớ cả bức tường loang lổ, con hẻm chật hẹp,
hôi hám mỗi khi đẩy chiếc cổng gỗ ọp ẹp bước vô nhà của Mẹ… Tôi không biết tất
cả những hình ảnh đó, những kỷ vật đó, cái nào còn cái nào mất. Thời gian và
cuộc sống khốn khó, đói khát trên đất Bắc, khiến tất cả đều bấp bênh, mờ ảo,
không có gì là thực.
Nhưng
dù tha thiết muốn về nhà, tôi vẫn lo ngại vì nhà của Mẹ tôi ở ngay cạnh nhà của
một tay công an. Đó là căn nhà khá lớn, đất rộng gấp bốn, gấp năm lần nhà tôi.
Giữa hai nhà chỉ có một hàng rào dâm bụt, thấp đến ngang ngực, nên ngồi chơi ở
sân nhà bên này, nhìn rõ mọi chuyện ở sân nhà bên kia. Trong những năm tháng
trước khi vô Nam, mỗi khi ghé thăm Mẹ, tôi đều thấy tay công an đi ra đi vô, và
có đôi lần, chúng tôi gặp nhau ngay cổng, thậm chí có khi còn chào hỏi nhau một
đôi câu. Tôi không biết, tay công an đó có biết gì đến việc tôi hồi chánh hay
không. Nhưng dù sao, tôi không thể vội vàng ghé thăm Mẹ tôi, lỡ chẳng may gặp
tay công an đó ngay cửa, và tay công an đó biết rõ lý lịch của tôi, thì sẽ vô
cùng nguy hiểm cho tôi và cả Mẹ của tôi nữa. Vì vậy, sau khi suy nghĩ thiệt kỹ,
tôi quyết định ghé thăm nhà bà chị ở phố Huế trước, tìm hiểu tình hình, thấy
thuận tiện thì sẽ ghé thăm Mẹ, sau đó sẽ về thăm Thầy.
Thầy
tôi có tất cả 5 người con gái đầu lòng. Vì không có con trai nên lấy thêm vợ
hai, được có một người con trai, thấy không đủ bảo đảm có người nối dòng dõi,
duy trì hương lửa sau này, nên Thầy tôi lấy thêm vợ ba, đẻ được ra tôi. Người
chị gái ở phố Huế là con dâu của ông Tổng Tu, người vẫn thường cùng với Thầy
tôi lén lút nghe đài BBC mỗi khi Thầy tôi ghé thăm. Ông Tổng Tu có 3 người con
trai và một người con gái. Người con trai cả cũng lấy một người chị của tôi, và
cả hai vợ chồng đã vô Nam năm 1954, sống ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Người con
trai thứ hai lấy người chị thứ ba của tôi, và cả hai vợ chồng đều ở lại Hà Nội.
Người con trai út cũng vượt tuyến vô Nam ngay từ năm 1957, 1958, và được chỉ
huy một trung đội lính bảo vệ Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè.
Người
chị ở phố Huế là một người rất tháo vát, can đảm và tự tin. Tuy ông Tổng Tu, bố
chồng của chị là người bị ghép tội “tư sản mại bản”, và bố ruột thì bị ghép tội
địa chủ, lại có các anh chị, bên chồng cũng như bên mình,”chạy vô Nam theo đế
quốc”, nhưng trong thế cùng đường của một người mẹ, người vợ phải gánh vác cả
gia đình chồng, chị coi tụi cán bộ cộng sản từ thằng to đến thằng nhỏ không ra
kí lô gì. Tôi đã từng nghe Thầy tôi kể rất nhiều chuyện can đảm và khôn ngoan
của chị khi chị đối đáp với cán bộ cộng sản. Sau này, khi đọc những bài viết
chửi cộng sản của bà Dương Thu Hương, không hiểu sao tôi cứ liên tưởng đến
người chị ở phố Huế của tôi. Trong số những câu chuyện Thầy tôi kể, tôi nhớ
nhất chuyện chị tôi chửi tụi cán bộ cải cách ruộng đất vào năm 1956, hay 1957,
tôi không còn nhớ rõ.
Thời
gian đó, gia đình tôi bị quy là gia đình địa chủ. Sau một thời gian, đội cải
cách đã thu vét tất cả mọi của cải chìm nổi của gia đình tôi, chúng vẫn tin là
Thầy tôi còn giấu rất nhiều của cải ở nhà con gái ở Hà Nội. Vì vậy, chúng quyết
định trói Thầy tôi rồi giải lên Hà Nội, đến tận nhà chị của tôi ở phố Huế để
moi tiền.
Sau
khi bị tra khảo nhiều lần, trong thân phận của một người địa chủ, Thầy tôi
không còn cách nào hơn, đành phải cho đội cải cách biết rõ địa chỉ của con gái,
và chấp nhận để cho đội cải cách giải Thầy tôi lên gặp con gái lấy tiền về trả
cho các “ông bà nông dân”….
KỲ 33
Dưới
ánh náng chang chang của mùa hè và hơi nóng hầm hập bốc lên từ con đường nhựa,
thầy tôi phải cởi trần, tay bị trói giật cánh khuỷu, đi chân đất suốt từ ga
Hàng Cỏ đến nhà chị tôi ở Phố Huế. Khi tới nhà của chị tôi, thầy cất tiếng gọi,
nhưng cả nhà chị tôi lúc đó đang ở trên gác, nên không một ai nghe thấy. Tên
đội cải cách liền lấy báng súng dộng vào cửa ầm ĩ. Chị tôi nghe thấy vội chạy
ra balcony ngó xuống.
Trong
mấy phút đầu tiên, chị không hiểu chuyện gì xảy ra. Đến khi thầy tôi ngước mặt
gọi tên tục của chị, “Châu con ơi!… Thầy đây!”, chị tôi mới sửng sốt thốt lên,
“Chúa ơi!…” Sau đó, chị vội chạy ngay xuống dưới nhà.
Vừa
mở cửa, nhìn thấy thầy tôi lam lũ, lếch thếch, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chị liền
nổi điên:
-
Các anh là ai? Tại sao các anh lại trói thầy tôi như thế này?…
Tên
đội cải cách ruộng đất liền to giọng nạt nộ:
-
Chúng tôi là ai hử? Chúng tôi là cán bộ cải cách ruộng đất. Bố của cô là địa
chủ có nợ máu với nhân dân nên chúng tôi phải trói ông ta lại…
Nghe
tên đội nói vậy, tình cha con nổi lên, khiến chị tôi không còn biết sợ hãi là
gì. Chị đưa tay chỉ thẳng vào mặt tên đội, rồi vừa hét vừa khóc:
-
Tôi ra lệnh cho anh cởi trói thày tôi ngay! Thầy tôi có là địa chủ nợ máu với
nhân dân hay với anh đi nữa, anh cũng không được quyền trói thày tôi đi nghênh
ngang ở đường phố Hà Nội. Anh có biết đây là đâu không? Đây là Hà Nội, thủ đô
của nước Việt Nam “dân chủ cộng hòa”. Ở đây có không biết bao nhiêu tòa đại sứ,
người ngoại quốc. Anh trói người rồi dong đi giữa ban ngày ban mặt thế này là
anh bêu riếu “đảng và nhà nước ta”, anh có biết không? Các anh là đồ phản động?
Tụi ngoại quốc mà nó chụp được hình các anh trói người dong đi giữa đường phố
Hà Nội rồi chúng gửi ra nước ngoài, là các anh sẽ bị tù rục xương! Các anh sẽ
bị xử bắn! Tôi sẽ cho người đi gọi công an khu phố lại đây ngay lập tức để họ
trói các anh lại!…
Rồi
vì quá xúc động, chị tôi vừa khóc, vừa túm lấy áo tên đội cải cách mà la lên:
“Cởi trói ngay! Anh có cởi trói cho thầy tôi ngay không thì bảo! Anh dám trói
người ngay giữa thủ đô Hà Nội? Hu… hu…”
Tiếng
khóc, tiếng la hét của chị tôi, cộng với cảnh một ông già râu tóc bạc phơ, cởi
trần, đứng run rẩy giữa trưa nắng, bên cạnh là hai người cán bộ cải cách ruộng
đất răng đen mã tấu, đã khiến những người đi lại trên đường phố tụ lại vây
quanh, rồi tiếng bàn tán nổi lên, xen lẫn tiếng la hét của đám con nít. Tất cả
sự ầm ĩ huyên náo này khiến cho hai tên đội cải cách lúng túng, hoảng hốt. Sau
đó, tên đội liền rút chiếc dao găm đeo ở hông, cắt dây trói cho thấy tôi…. Chị
tôi liền ôm lấy thầy tôi khóc ròng, rồi vừa khóc, chị vừa dìu thầy tôi đi vào
trong nhà…. để mặc cho hai tên đội đứng lớ rớ ở ngoài cửa, chúng không dám bước
vô nhà mà cũng không dám bỏ đi.
Sau
khi ngồi xuống ghế, trải qua phút giây thảng thốt, thầy tôi sực nhớ ra, vội
bảo: “Châu, con ra mời hai ông đội vào nhà!…”
Chị
tôi vâng lời, bước ra nói… Lúc đó, hai viên đội mới rón rén đi vô trong nhà.
….Sau
khi xuống ga Hàng Cỏ, tôi đáp xe điện tới phố Huế, và đẩy cửa vô nhà của chị
tôi vào một buổi trưa trung tuần tháng 5 năm 1975. Giống như tất cả những căn
nhà ở Hà Nội sau 1954, nhà của chị tôi cũng phải chia 5 xẻ 7 cho hàng chục gia
đình cán bộ của nhà nước cư ngụ miễn phí. Nguyên tầng dưới, có tới 4 gia đình,
sống chen chúc, được ngăn cách bằng những tấm cót, tấm màn bằng vải, hay bằng
nylon. Chị T. con gái út của ông tổng Tu, cũng chỉ được ở trong một căn phòng
chật hẹp, không đầy 6 thước vuông. Vì một căn nhà nhiều gia đình cư ngụ, nên
cửa chính lúc nào cũng không khóa. Trở lại nhà chị sau thời gian hơn 6 năm xa
cách, tôi thấy cảnh vật vẫn như xưa. Vẫn cánh cửa gỗ cũ kỹ, mở ra những hành
lang tối om, âm u, mùi ẩm mốc bốc lên; vẫn những con người bơ phờ, gầy gò ốm
yếu, hốc hác, những cặp mắt thờ ơ “ngoài miếng ăn, bất cần tất cả”… đang ngồi,
đứng rải rác, thản nhiên nhìn tôi bước vô…
Tôi
gật đầu nhẹ chào họ, rồi đi nhanh lên lầu. Chị tôi đang ở trong bếp, nghe tiếng
chân trên cầu thang, hỏi vọng ra, “Con Thư về rồi đấy hả?” Tôi vội chạy vô
nói:”Em đây chị! Em, Chí đây!…”
Chị
tôi quay ra, nhìn thấy tôi, sững sờ không nói… Tôi thoáng thấy rất nhanh trong
ánh mắt của chị sự xúc động, thêm vẻ hoảng hốt, phập phồng, giống như mắt của
một con thỏ đang bị săn đuổi… Chị không chào, không hỏi, không ôm chầm lấy tôi
mà hỏi han, khóc lóc, như tôi đoán. Trái lại, chị tôi hoàn toàn im lặng, bước
vội ra ngoài cửa bếp, lấy tay đẩy tôi vô trong bếp, rồi đứng đó im lìm bất
động, nhìn xuống cầu thang nghe ngóng động tĩnh. Sau vài phút trôi qua trong im
lặng, chị tôi quay vô hỏi tôi, giọng thì thầm:
-
Cậu vô đây có người nào thấy không?
Trong
tích tắc, tôi hiểu ngay thân phận của tôi, hoàn cảnh của chị, và cả một mạng
lưới an ninh nguy hiểm rình rập bủa vây với tiêu chuẩn, mỗi người dân phải là
một người công an. Tôi lắc đầu, cốt để trấn an chị. Ngay sau đó, chị tôi ra dấu
cho tôi đi theo chị vô trong phòng riêng của vợ chồng chị. Đóng cửa lại thật
nhẹ nhàng, chị quay lại hỏi, giọng hơi gắt, vẻ phật ý:
-
Sao cậu không đi đi, còn quay về đây làm gì?
Tôi
hơi bàng hoàng trước thái độ xa cách, lạnh lùng của chị. Có lẽ nhận ra được
điều đó, chị tôi hơi hối hận:
-
Cậu ngồi đây, tôi đi pha nước chanh cậu uống…
Tôi
cảm động. Thì ra, chị tôi vẫn còn nhớ sở thích uống nước chanh đường của tôi.
Tôi vội cản chị lại:
-
Cảm ơn chị, em không khát…
Chị
tôi lại nhắc lại câu hỏi:
-
Sao cậu không trốn đi ngoại quốc? Giờ này cậu còn về đây làm gì nữa?
Tôi
xúc động:
-
Em muốn về gặp thầy lần cuối trước khi em đi…
Chị
tôi trả lời, nghe như một tiếng than:
-
Thầy mất rồi em ơi!…
“Thầy
mất rồi!” Tôi bàng hoàng, không thể nào tin được lời chị tôi nói. Tôi đứng đó,
mở to mắt nhìn chị mà như không nhìn thấy một cái gì… Bao nhiêu nỗi ân hận,
nuối tiếc, yêu thương dành cho thầy tôi, trong suốt những năm dài xa cách, đã
thôi thúc tôi ở lại, chấp nhận tất cả mọi nguy hiểm, vượt cả ngàn cây số ra
ngoài Bắc để chỉ ấp ủ có một ước vọng cuối cùng: Được gặp thầy tôi lần cuối!
Nay ước vọng đó đã tan tành thành mây khói. Cuộc đời tôi từ khi sanh ra, lớn
lên ở Miền Bắc, tôi chỉ có một người gần gũi, thương yêu tôi nhất là thầy tôi.
Trong suốt những năm tháng đói khát và khổ ải triền miên, tôi sinh ra và lớn
lên trong tình thương của người cha già sống trong cảnh gà trống nuôi con, tôi
đã được chứng kiến, được hưởng biết bao hạnh phúc êm đềm, mà chỉ sau này, khi
được sống ở Miền Nam Tự Do, nhớ lại những điều đó, tôi mới hiểu được, tất cả
những hạnh phúc tôi được hưởng trong quá khứ, là nhờ những hy sinh, đau đớn,
nhịn đói, nhịn khát… của thầy tôi… “Thầy ơi!”
Phải
mất mấy phút đồng hồ sau, tôi mới cất tiếng hỏi:
-
Thầy mất bao giờ?
Tiếng
nói của chị tôi nghe như gió thoảng: “Thầy mất năm 1974…”
Năm
1974, tôi đang sống sung sướng, hạnh phúc và no đủ tại Miền Nam. Tôi hiểu,
trong hoàn cảnh đói khổ nơi đất Bắc, cộng với hoàn cảnh thiếu thốn của thầy tôi
lúc bấy giờ, và nhất là thân phận của tôi, một tên hồi chánh, “phản bội tổ
quốc”, đã mang đến cho thầy tôi nhiều nỗi khổ đau gấp bội… Và như vậy, trong
nỗi cô đơn tận cùng, thầy tôi đã sống trong sự sự thiếu thốn và đói khát cho
đến khi nhắm mắt xuôi tay. Tôi đứng đó, thấy nước mắt của mình ứa ra, chảy dài
hai bên má… Tôi khóc âm thầm trong nỗi đau đớn mất mát người thân vô cùng lớn
lao, lớn lao chưa bao giờ có trong cuộc đời của tôi…
Tôi
hỏi chị tôi: “Mộ của thầy ở đâu?”
Chị
tôi nói: “Thầy muốn đưa thầy về Đầm. Nhưng tiền bạc kiếm đâu ra. Thôi thì cứ
chôn tạm ở đó… mai sau có….”
Nước
mắt tôi lại thêm dàn dụa… Trong lòng tôi cảm thấy đau đớn quá. Như có một nhát
dao vô hình đâm vô thật xâu. Tình quê hương, làng xóm, họ hàng thân tộc trong
tâm hồn của thầy tôi lớn lao vô cùng. Xa làng Đầm hơn chục năm, nhưng mỗi năm,
cứ tết đến, dù lãnh lẽo mưa gió thế nào đi nữa, thầy tôi cũng cơm nắm, muối mè,
trái bầu đựng nước, rồi dắt tôi đi bộ cả mấy chục cây số, để về quê tảo mộ, vun
đắp mồ mả nội ngoại, rồi thăm hỏi họ hàng xa gần suốt từ làng Sui về làng Đầm…
KỲ 34
Nhìn
lại cuộc đời của tôi suốt hơn 50 năm qua, tôi thấy rõ một điều, tôi lớn lên
trong đói khát, khốn khổ, rách rưới, nhưng vẫn giữ được tấm lòng đôn hậu, biết
nhường cơm xẻ áo cho những người khốn khổ ránh rưới hơn mình, là nhờ ở tấm lòng
yêu thương vô bờ bến của thầy tôi. Sống trong cuộc sống khốn khổ, khi tất cả
những người chung quanh chỉ biết giành giật nhau mà sống, nếu mình không giành
giật mình sẽ chết đói, thiệt khó giữ được tư cách. Tôi sống với thầy tôi, càng
đói khát bao nhiêu, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của thầy tôi càng rực
sáng bấy nhiêu. Ngày xưa còn bé, khi sống với thầy, tôi không nhận ra hết tấm
lòng yêu thương bao la của thầy dành cho tôi. Nhưng sau này, trên đường hành
quân vô Nam, trong những ngày tháng vô cùng cô đơn giữa rừng sâu núi thẳm,
những giờ phút cực kỳ nguy hiểm khi bom rơi, pháo nổ; hay những ngày tháng được
sống hạnh phúc ở Miền Nam tự do, tôi mới bồi hồi và xúc động nhớ lại từng miếng
cơm độn, từng ngọn rau luộc, từng củ khoai hà, từng hạt đậu đen…. mà thầy tôi
đã chắt chiu nhường nhịn cho tôi… Tôi nhớ cả ánh mắt hạnh phúc của thầy tôi mỗi
khi nhìn tôi ăn uống một cái gì. Sau này, cùng với những đau thương, hạnh phúc
trên đường đời, cùng với những nguy hiểm cận kề cái chết, tôi mới thấm thía
nhận ra, sự khổ đau thiếu thốn bất hạnh và đầy nguy hiểm của cuộc đời tôi chính
là cơ hội quý giá giúp cho tôi nhìn thấy những tấm lòng vàng, những cử chỉ nghĩa
hiệp, những tấm lòng đôn hậu, mà trong đó, bao giờ hình ảnh của thầy tôi với
chòm râu bạc như cước, dài chấm ngực, cũng hiện lên thật gần gũi và phúc hậu vô
cùng. Cũng từ những nỗi niềm suy tư đầy thấm thía như vậy, tôi nghĩ nếu tôi
sinh ra và lớn lên trong giầu có, thì làm sao tôi có thể hiểu được thầy tôi đã
thương yêu tôi như thế nào? Và nếu cuộc đời tôi không trải qua những giờ phút
thập tử nhất sinh, làm sao tôi có thể biết được, trên cuộc đời này, có những
người sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để cứu giúp một người không hề quen
biết như tôi? Từ những hạnh phúc tuyệt vời được hưởng tình thương vô bờ bến của
thầy tôi, cùng ơn cứu tử của những Trần, những Nguyễn, những Phạm,…. trên suốt
những chặng đường vượt biên đầy sinh tử, trong tay tôi không có nổi một lượng
vàng, một trăm đồng bạc,… tôi mới thấy lòng tôi thực sự trang trải với những
đau buồn khổ lụy của tất cả mọi người…
Chiều
hôm đó, trên căn gác ở phố Huế, lòng tôi tan nát tất cả khi nghe chị tôi báo
tin “thầy mất rồi”. Vậy là người thân thương nhất của tôi trên cõi đời đã không
còn nữa. Cuộc sống của tôi lúc đó như vô nghĩa. Tất cả niềm ao ước cuối cùng
của tôi đã không thành tựu…
Chị
tôi bước lại, đưa cho tôi chiếc khăn mặt ướt. Chị tôi không nói gì, nhưng tôi
biết, chị cũng đang khóc. Khóc âm thầm…. như hàng chục triệu người luôn luôn
phải khóc âm thầm dưới hàng triệu mái nhà trong chế độ cộng sản Miền Bắc. Ôi,
những giọt lệ chảy dài trong đêm đen, lúc bình minh, hay hoàng hôn, hay giữa
ban ngày của không biết bao nhiêu người mẹ, người cha, của vô vàn con trai con
gái… trên quê hương đau khổ ngút ngàn của tôi. Lớn lên từ trong những giòng
nước mắt chảy dài suốt bao nhiêu năm tháng, nên có một nhà thơ nào đó ở Miền
Bắc đã mô tả trái đất như một “giọt nước mắt khổng lồ” trong đêm đen…
Cầm
chiếc khăn mặt, tôi ngước cặp mắt đẫm lệ, nhìn vô cặp mắt đẫm lệ của chị tôi…
rồi cả hai chị em ôm nhau khóc… Trong tiếng khóc nức nở, chị tôi hỏi:
-
Cậu… tính đi đâu bây giờ?
Miệng
tôi khô quá. Tôi định trả lời, nhưng không cất thành tiếng. Mãi sau, tôi mới thềo
thào:
-
Em tính…. về thăm mộ thầy!
Chị
tôi giật mình, thảng thốt:
-
Lạy Chúa… Cậu về đó bây giờ là tụi nó bắt cậu ngay!
Tôi
chùi nước mắt:
-
Em về đêm, làm sao chúng biết mà bắt!
Chị
tôi lắc đầu nói giọng cương quyết:
-
Cậu không được về. Cậu dại dột lắm. Cậu không được ở Miền Bắc này thêm giờ phút
nào nữa. Đây toàn là rắn rít, hổ báo không cậu ơi. Cậu ở đây thêm giờ phút nào
là nguy hiểm giờ phút đó…. Thầy chỉ có hai người con trai. Nghe tin cậu chiêu
hồi, thầy mừng lắm. Thầy hy vọng, giòng giống cháu nội, cháu ngoại của thầy
trong Nam không phải quàng khăn đỏ, không phải vô đoàn, vô đảng, để rồi nghe VC
xúi bẩy mà chửi cha chửi mẹ, chửi ông bà… Cậu nghe chị, nếu cậu có thương thầy,
thì cậu phải vô Nam ngay. Người ở trong đó, dù sao người ta cũng có tình….
không mất hết nhân tính như người ngoài này. Còn ở ngoài này là cậu chết. Cậu
nghe lời chị, đi ngay đi. Chị sẽ thay mặt cậu, thắp nhang trên mộ thầy…
Tôi
trả lời, ngắn gọn nhưng cương quyết:
-
Em phải về thăm mộ thầy rồi đi đâu em mới đi.
Thấy
tôi cương quyết như vậy, chị tôi vừa khóc vừa nói trong nước mắt:
-
Cậu đi bao nhiêu năm rồi mà sao cậu vẫn ương bướng như vậy hở cậu?… Thôi thì
cậu không nghe lời chị thì chị xin cậu hãy thương chị, thương anh, thương các
cháu… Cậu về thăm mộ thầy lỡ bề gì, chúng nó bắt được là liên luỵ đến tất cả
mọi người. Đi tù hết thôi cậu Chí ơi!… Thầy ơi… Chúa ơi, sao con khổ thế này?…
Nghe
chị nói vậy, tôi mới giật mình. Thì ra, từ khi bước vào căn nhà của chị, tôi
chỉ nghĩ đến tôi, nghĩ đến lòng kính yêu của tôi dành cho thầy, mà không nghĩ
đến sự an nguy của những người thân thương ruột thịt của mình. Tôi chỉ là một
thằng con trai độc thân, đang sống bên bờ tuyệt vọng, khi nghe tin thầy tôi
mất, tôi chẳng coi cái chết ra gì. Nhưng chị tôi, với cả một gánh nặng gia đình
bốn, năm người con, nếu tôi bị cộng sản bắt giữ, làm sao anh chị và các cháu
tránh khỏi bị liên luỵ. Bao nhiêu năm sống trong chế độ cộng sản, tôi hiểu rõ
bản chất thâm độc chúng, chuyên dùng tình yêu thương trong gia đình để ràng
buộc, kiểm soát người dân. Chúng dùng sự đói khát để đầy đọa con người. Chúng
biết rõ, một khi con người đã bị đói khát đến cùng cực thì bản năng thấp kém
của thú vật sẽ nổi lên. Và khi con người chỉ biết ứa nước miếng, thèm nhỏ rãi
một miếng cơm cháy, một cục kẹo, một miếng xương,… thì khi đó, ngay trong thâm
tâm, tư cách, lòng tự trọng, cùng nhân nghĩa lễ trí tín của con người sẽ bị
chính sự thèm khát thấp kém và hèn hạ đó làm cho thui trột và biến mất. Cộng
sản cũng hiểu rõ, những dục vọng thấp hèn một khi đã nổi lên, mà con người không
thể chế ngự, thì sự phá huỷ sẽ diễn ra âm thầm và khốc liệt trong chính nội
tâm. Càng những người có lòng tự trọng, có sự hiểu biết, được giáo dục đàng
hoàng, thì sự phá huỷ càng khủng khiếp. Và một khi bị chìm ngập trong sự tự phá
hủy nội tâm, trong nỗi giầy vò ân hận và nhục nhã, người đó nếu không biết khôn
ngoan, tự tha thứ cho chính mình, để tồn tại, để vươn lên, để làm lại cuộc
đời,… thì một sợi dây thòng lòng, một bến sông, một liều thuốc chuột,… dễ dàng
là sự chọn lựa cuối cùng, để vĩnh viễn trốn thoát khỏi mọi nhục nhã, đau khổ…
Tôi
đứng dậy, đặt tay lên đôi vai gầy còm vẫn còn đang run rảy trong tiếng nấc của
chị tôi:
-
Chị…. Em… xin lỗi chị!…
Chị
tôi càng xúc động hơn, tiếng khóc cố nén vì không muốn người dưới nhà nghe
thấy, làm tôi càng thêm khổ tâm, xót xa. Ôi, muôn vàn nỗi đau khổ trên trần
gian mà mỗi người phải gánh chịu, có nỗi đau khổ nào giống nỗi đau khổ nào…
-
Chị cho em gửi lời chào anh… và các cháu…. Bây giờ em đi…
Chị
tôi giật mình, ngước cặp mắt đầm đìa nước mắt, tóc rối bù, bao phủ những đường
nét méo mó, đau khổ trên gương mặt:
-
Lạy Chúa, cậu đi đâu?
-
Em đi… để khỏi liên luỵ đến anh, chị và các cháu…
Vừa
nói xong, tôi biết ngay tôi đã lỡ lời. Chị tôi nấc lên, nghẹn ngào, úp mặt vào
hai bàn tay của tôi:
-
Cậu tha lỗi cho chị….
Tôi
thấy những giọt nước mắt nóng hổi của chị thấm xuống bàn tay của tôi…. Tôi nói,
giọng đầy ăn năn, hối hận:
-
Chị ơi… chị tha lỗi cho em…
Chị
tôi vẫn úp mặt trong lòng bàn tay của tôi, giọng thì thầm, nhưng tôi nghe rất
rõ:
-
Ở lại đây ăn với anh chị và các cháu một bữa cơm. Chị sẽ mua rau cần xào tỏi,
mua cá rô chiên…
Tôi
xúc động quá, nước mắt tôi lại ứa ra dàn dụa… Tôi hít một hơi dài, giữ cho lòng
thật bình tĩnh. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh thương tâm, đầy xúc động này, nếu tôi
chiều theo lòng mình, tôi sẽ ở lại, để được hưởng những giây phút đầm ấm của
gia đình xum họp… Nhưng rồi chuyện gì sẽ xảy ra, cho tôi, cho anh chị và các
cháu? Tôi không thể biết, nhưng không, tôi không thể ở lại… Tôi phải ra đi!
Nhưng nhìn gương mặt đẫm lệ trong đau khổ của chị, nhìn hai bàn tay níu kéo của
chị, tôi hiểu, tôi chỉ có thể rời khỏi đây trong âm thầm, không nên cho chị tôi
biết. Nghĩ vậy, tôi lặng lẽ ngồi xuống giường, hai bàn tay của tôi vẫn ấp ủ
trong hai bàn tay của chị. Tôi nhẹ nhàng nói:
-
Em cảm ơn chị. Vâng, bây giờ chị đi chợ. Em nghe lời chị, em sẽ ở lại trong căn
phòng này chờ chị đi chợ về làm cơm. Tối nay em sẽ ăn cơm với anh chị và các
cháu một bữa cơm xum họp… Rồi đến khuya em sẽ đi về nhà mẹ thăm mẹ…
Chị
tôi nở nụ cười méo mó. Những giọt nước mắt vẫn giàn giụa trong cặp mắt của chị.
Nhưng tôi cảm thấy trong cặp mắt đẫm lệ của chị một thoáng hạnh phúc, một
thoáng lo âu, nhưng nhiều hơn cả vẫn là sự đau khổ, xót xa vô bờ bến của một
người chị dành cho một người em, khi giông tố đang cuồn cuộn đổ về với muôn
ngàn nguy hiểm bủa vây…
KỲ 35
Nụ
cười méo mó và ánh mắt sợ hãi trên gương mặt giàn giụa nước mắt của chị tôi vào
buổi chiều tháng 5 năm 1975 là hình ảnh vĩnh viễn không phai mờ trong tâm trí
của tôi suốt thời gian hơn 31 năm qua. Tôi cũng biết, nụ cười méo mó cùng ánh
mắt sợ hãi đó đã thường xuyên đến với cuộc đời của chị, của anh, của các cháu,
và của hàng chục triệu người Việt lương thiện sống trong sự kìm kẹp của cộng
sản trên đất Bắc…
Hai
mươi năm sống trên đất Bắc, tôi hiểu, trong suốt những tháng năm dài bị cộng
sản cai trị, vẫn có nhiều người Việt can đảm dám công khai đứng lên chống lại
chế độ cộng sản. Nhưng vì hệ thống cai trị của cộng sản quá nghiêm ngặt, toàn
bộ mạng lưới thông tin đều do đảng cộng sản điều hành, nên những tấm gương anh
hùng chống đối cộng sản chỉ được loan truyền bí mật tại mỗi địa phương. Chỉ
riêng ở quê tôi, mỗi xóm, mỗi làng cũng có bốn, năm người bị cộng sản bắt đi tù
cải tạo vì những lý do bề ngoài khác nhau nhưng nguyên nhân duy nhất, họ là
những người chống đối chế độ cộng sản. Bị cộng sản bắt, họ là những người bị tù
nhưng không hề có án nên không biết bao giờ được tự do. Đôi khi có người được
thả về, nhưng khi tình hình xã hội biến động không thuận lợi, cộng sản lại bắt
họ bỏ tù tiếp. Cũng có người được về với gia đình một vài tháng rồi bị bạo
bệnh, qua đời. Họ là những tấm gương dũng cảm, nhưng chúng tôi, một số rất ít
người, chỉ dám bàn tán về họ một cách lén lút. Vì bàn tán lén lút như vậy nên
những tin tức về họ lúc nào cũng hư hư thực thực, không biết đâu là thật, đâu
là huyền thoại được thêm thắt, thêu dệt.
Trong
số hàng loại biện pháp kiểm soát, kiềm chế người dân, được cộng sản Việt Nam
thực hiện, có hai biện pháp rất bá đạo là lấy tương lai chế ngự hiện tại; và
dùng sợi dây liên hệ tình cảm gia đình, họ hàng… để trói buộc người dân. Sống
trong một xã hội, hiện tại luôn luôn mù mịt, thiếu thốn, con người bắt buộc
phải bấu víu vào tương lai để sống. Mà sống trong chế độ cộng sản, một người đã
bấu víu vào tương lai, theo đuổi nhu cầu hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình,
điều đó dễ đồng nghĩa với những thỏa hiệp về lương tâm, về lý tưởng, khiến mình
dễ đầu hàng cộng sản, tự biến mình trở thành công cụ của chế độ. Còn những ai
biết quên đi tương lai, hạnh phúc của chính cá nhân mình, để có đủ can đảm đối
đầu với cộng sản, thì họ phải đối diện với một cửa ải thứ hai, khó khăn gấp
bội, là hạnh phúc của gia đình, của họ hàng ruột thịt. Một người khi theo đuổi
lý tưởng cao cả là chống cộng sản, họ có thể có đủ can đảm để hy sinh hạnh phúc
của bản thân, thậm chí cả mạng sống của chính họ. Nhưng đòi hỏi phải hy sinh
hạnh phúc và tính mạng của những người thân trong đó có vợ con, thì quả là điều
không dễ dàng.
Chính
vì lo sợ về những thiệt thòi, nguy hiểm liên hệ tới người thân, đã khiến nhiều
người Việt ở Miền Bắc phải cắn răng chịu nhục, chấp nhận làm tôi tớ cho cộng
sản. Một người bị ghép vào tội phản động, chống lại “đảng và nhà nước”, không
những người đó bị tù tội hay bị tử hình, mà ngay cả những người thân trong gia
đình như cha mẹ, vợ, con, anh chị em… của người đó cũng đều bị liên hệ, phải
chịu đựng những thiệt thòi về kinh tế, văn hóa, xã hội…. qua nhiều hình thức
khác nhau. Và dĩ nhiên, trong cuộc sống đói khổ cùng cực ở Miền Bắc, ngay cả
những nhà thơ, nhà văn, nhà báo tên tuổi, còn sẵn sàng bán mình cho chế độ để
đánh đổi lấy những hạnh phúc mỏng manh qua tem phiếu, những ân huệ hời hợt, bạc
nhạc của chế độ, thì thử hỏi những người Việt bình thường, trong đó có những
người mẹ, người vợ, những trẻ em ngây thơ, làm sao có đủ hiểu biết và can đảm,
chấp nhận hy sinh tương lai, hạnh phúc của mình để có được niềm tự hào khi có
con, có chồng, có cha dám can đảm chống lại chế độ cộng sản?
Không
những thế, trong xã hội cộng sản ở Miền Bắc, cả một guồng máy tuyên truyền, bao
gồm sách vở, thơ văn, phim ảnh, kịch nghệ, truyện dài, truyện ngắn,… đều nhan
nhản những câu chuyện được ngụy tạo nhằm ca ngợi những người vợ dám tố chồng,
những người mẹ dám tố con, những người con dám tố cha mẹ,… chỉ vì họ biết chạy
theo ảo tưởng “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc là
trung thành với đảng bác”. Sống trong xã hội cộng sản, mọi người đều thấy lý
trí, tình cảm, tâm linh của mình quằn quại giữa hàng loại những mâu thuẫn, trái
khoáy. Những người lớn, từng trải, có hiểu biết, tuy yêu thương nhau tha thiết,
nhưng vẫn phải dè chừng nhau, nghi ngờ nhau và giả dối với nhau, để tồn tại.
Những người trẻ tuổi, ít từng trải, thiếu hiểu biết, tuy kính yêu ông bà, cha
mẹ, anh em, nhưng sẵn sàng tố cáo, bán đứng người thân vì họ đã được đảng cộng
sản nhồi nhét tuyên truyền: “Làm người yêu nước phải biết vì đại nghĩa, vì
quyền lợi của đảng, của tổ quốc, sẵn sàng hy sinh những người thân yêu khi
người thân yêu chống lại đảng!” Một người vợ dù có yêu chồng tha thiết, nhưng
một khi biết chồng có âm mưu chống lại đảng và nhà nước, người vợ không thể nào
chấp nhận hy sinh tương lai của gia đình, trong đó có con cái, để bao che cho
chồng. Một người chồng thương yêu vợ con, sẽ không thể nào chịu đựng nổi những
khổ đau đầy đọa mà vì họ, vợ con họ phải gánh chịu. Hiểu được nỗi cay đắng đoạn
trường này, nhiều người vì không muốn để vợ con liên luỵ, đã gạt lệ, ly dị vợ,
từ bỏ con cái để theo đuổi lý tưởng… hoặc vì hạnh phúc của vợ con, đành từ bỏ lý
tưởng để chịu nhục làm nô lệ cho cộng sản.
Sống
trong chế độ cộng sản, tôi hiểu rất rõ những nguy hiểm liên đới sẽ đến với anh
chị và các cháu của tôi, nếu chẳng may tôi bị bắt ngay tại nhà của chị tôi. Tôi
hiểu tấm lòng yêu thương của chị dành cho tôi dù có lớn lao đến thế nào thì
cũng không thể át được nỗi lo ngại, phập phồng đầy sợ hãi của chị khi hạnh phúc
của chồng con bị đe dọa. Vì vậy, ngay sau khi chị đi chợ mua đồ ăn, không một
lời từ giã, không một dòng chữ ly biệt, tôi cũng âm thầm chùi nước mắt, lặng lẽ
lủi thủi rời khỏi nhà chị, nhảy lên xe điện về Bờ Hồ, rồi từ Bờ Hồ tôi đáp xe
điện hướng về Ô Chợ Dừa, để ghé nhà của Mẹ…
Nhà
của Mẹ tôi ở trong một ngõ hẻm, chật hẹp và tối tăm. Tuy đó là căn nhà biệt
lập, nhưng tiêu điều giống như một túp lều hơn là một căn nhà. Từ đường xe điện
vô đến nhà không đầy 200 thước. Xuống xe điện, thấy trời còn sáng, tôi không
dám về nhà Mẹ ngay, đành lang thang trên những khu phố để giết thì giờ, chờ
bóng tối buông phủ….
Đường
phố Hà Nội vẫn ngơ ngác, phờ phạc như năm năm trước khi tôi lên đường vô Nam.
Người Hà Nội vẫn vất vả ngược xuôi, trên khuôn mặt ai ai cũng hằn lên dấu vết
nhọc nhằn, bương chải, lo âu, khắc khoải. Ngay cả trên những gương mặt thơ ngây
của trẻ em, của tuổi học trò, tôi vẫn thấy ngưng đọng những buồn phiền, thiếu
thốn, đói khát… Thủ đô Hà Nội, nơi nổi tiếng ngàn năm văn vật, từng xuất hiện
lung linh như trái cấm ngoài tầm tay với trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân,
Tô Hoài, Vũ Bằng; từng được thi sĩ Quang Dũng chấm phá một cách kiêu sa tuyệt
vời qua câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; dưới sự cưỡng hiếp và bức tử
của những người cộng sản, đã trở thành tụ điểm của tội phạm, lừa đảo, xảo trá,
mất hết tình người. Hà Nội thuở nào được nhạc sĩ Anh Bằng trao gửi qua những
câu hát mãi mãi thao thức lòng người, “Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn
đắm say. Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy…”; nơi vĩnh viễn
được người Bắc di cư ấp ủ trong niềm tự hào qua câu ca dao “Chẳng thơm cũng thể
hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”,… vậy mà dưới sự kìm kẹp
của chế độ cộng sản sau mấy chục năm, đã trở thành một thành phố bị cộng sản
“Đem bục công an đặt giữa tim người. Bắt tình cảm xuôi ngược theo luật đi đường
nhà nước”…
Khi
trời chạng vạng tối, phố bắt đầu lên đèn, tôi mới đi trở lại đường xưa, rẽ vô
căn hẻm cũ… với tất cả sự phập phồng lo sợ xen lẫn nỗi nhớ nhung, xót xa. Tôi
biết, trong những ngày tháng sắp tới, tôi sẽ luôn luôn sống trong tâm trạng của
một con thú bị săn đuổi, của một người sống ngoài vòng pháp luật. Bằng mọi
cách, tôi phải né tránh tất cả các trạm cảnh sát, các đồn công an, và cả những
người quen biết. Tôi quyết định sẽ ở lại Hà Nội với Mẹ một hai ngày, rồi tuỳ
tình hình, tôi sẽ về quê thăm mộ Thầy, rồi sau đó, tôi phải vô Nam, tìm đường
vượt biên. Tôi biết, trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, chỉ có ở Miền Nam, tôi mới
có thể được người dân giúp đỡ, đùm bọc, để có thể vượt biên thành công. Còn ở
Miền Bắc, ngoài một số người thân và bạn bè cật ruột ra, tôi hoàn toàn cô đơn.
Thậm chí, ngay cả những người thân và bạn bè cật ruột của tôi, họ cũng hoàn
toàn bất lực, không thể và không đủ can đảm giúp đỡ tôi làm những chuyện động
trời là vượt biên, trốn ra nước ngoài.
Vì
biết chắc, tôi có thể bị công an, bộ đội bắt bất cứ lúc nào, và điều này chắc
chắn sẽ xảy ra, nên tôi đã chuẩn bị tất cả những gì có thể làm để bằng mọi giá,
tôi có thể trốn chạy ngay sau khi bị bắt. Trong hoàn cảnh của tôi, một tên “hồi
chánh” “phản bội tổ quốc”, tôi hiểu, nếu tôi bị cộng sản bắt, không sớm thì
muộn, chúng cũng phăng ra lý lịch của tôi. Khi đó, cộng sản sẽ tử hình tôi,
hoặc tống tôi vô nhà tù kiên cố nhất với án tù chung thân. Lúc đó, tôi sẽ vô
phương trốn chạy. Vì vậy, một khi bị bắt, trong thời gian từ 24 đến 48 tiếng
đồng hồ đầu tiên, tôi tin tưởng tôi sẽ qua mặt công an bộ đội cộng sản. Trong
thời gian đó, với những loại giấy tờ giả khác nhau, tôi sẽ dễ dàng đóng vai một
người bộ đội đảo ngũ biết ăn năn, một anh thanh niên xung phong trốn đơn vị
đang hối cải tìm đường trở lại đơn vị, hay một người cán bộ đi buôn lậu biết
nhận lỗi… Trong vai trò của một người mang tội hình sự đó, chắc chắn những
người công an, bộ đội bắt giữ và canh gác tôi sẽ lơ là cảnh giác, tạo điều kiện
cho tôi tẩu thoát dễ dàng. Điều quan trọng sinh tử nhất cho tôi lúc đó là tôi
phải tẩu thoát bằng mọi giá trong vòng 24 tiếng đồng hồ đầu tiên, trước khi
công an, bộ độ cộng sản biết rõ tôi là ai.
Để
có thể qua mắt được người CS dễ dàng sau khi bị họ bắt, tôi bỏ vô trong bóp một
vài tấm hình cắt từ trong báo và tạp chí; khoảng 5, 10 đồng bạc lẻ; một ít thư
từ nhặt được từ những đống rác cạnh bưu điện; và ít giấy tờ tùy thân giả mạo
với tên giả, địa chỉ giả. Tất cả chỉ cốt làm sao đánh lừa người cộng sản, khi
họ cầm chiếc bóp của tôi họ sẽ đinh ninh nó có chứa những “kỷ vật vô giá” đối
với tôi. Đinh ninh như vậy, người CS sẽ chủ quan cho rằng tôi sẽ không dám bỏ
chiếc bóp vô giá để trốn chạy. Còn lại, tất cả những giấy tờ lưu không, tức là
những giấy tờ giả nhưng chưa ghi tên, địa chỉ, cùng tất cả tiền bạc tôi có, tôi
đều giấu kỹ hai, ba chỗ trong người và dưới hai chiếc vớ. Tôi biết, thông
thường, tại mỗi trạm gác ở bến xe, bến tàu, bến phà, hay khi xét nhà… nếu thấy
ai khả nghi, công an, bộ đội CS chỉ giữ giấy tờ và bóp của người đó, và rất ít
khi họ khám xét cơ thể ngay lúc đó. Người cộng sản hiểu rõ, với người dân, giấy
tờ tùy thân vô cùng quan trọng. Vì ậy, khi công an, bộ đội đã giữ giấy tờ tuỳ
thân của ai, họ chắc chắn người đó không bao giờ dám trốn chạy. Và chính thái
độ đinh ninh chắc chắn này của công an, bộ đội, sẽ khiến họ chủ quan, lơ là
cảnh giác, tạo điều kiện cho tôi trốn chạy dễ dàng. Thực tế, trong suốt thời
gian sống ngoài vòng pháp luật của cộng sản tại Miền Bắc, cũng như Miền Nam,
tôi đã nhiều lần bị cộng sản bắt, rồi trốn thoát trong vòng có mấy tiếng đồng
hồ sau đó, chỉ nhờ ở sự chủ quan khinh địch của công an, bộ đội cộng sản khi họ
“cầm chắc” chiếc bóp “vô giá” của tôi…
KỲ 36
Ngay
khi bước vào căn hẻm cũ, dưới ánh đèn vàng vọt từ ngoài đường hắt vô và từ
những nhà chung quanh chiếu xuống, tôi đã nhận ra căn nhà quen thuộc của Mẹ.
Khi đến gần, tôi vẫn thấy chiếc cửa gỗ cũ kỹ bên bức tường loang lổ. Cổng khóa,
nhưng tôi không bấm chuông, vì không muốn Mẹ bước ra ngoài, bật đèn sáng, gây
kinh động gia đình người công an ở cạnh nhà. Nhìn quanh, không thấy ai, tôi vội
với tay vào cái hốc nhỏ, kín đáo nằm ngay dưới chân cổng… Trong một khoảnh khắc
phập phồng lo ngại, tôi bỗng vui mừng khi sờ thấy chiếc chìa khóa nằm gọn trong
hốc… Tôi xúc động nhớ tới lời Mẹ dặn trong những năm tháng xa xưa, “Mẹ già lắm
rồi… chẳng biết sống chết thế nào. Con đi đâu thì đi, nhưng nhớ về với Mẹ. Khi
về, thò tay vào cái hốc ở cửa, thấy chiếc chìa khóa Mẹ giấu ở đó là Mẹ vẫn còn
sống, vẫn còn ở cái nhà này…”.
Tay
tôi run run mở khoá, rồi cố gắng đẩy chiếc cổng gỗ thật nhẹ nhàng để Mẹ không
hay biết. Sau khi khép cổng, tôi đi qua chiếc cửa sổ có che rèm. Trong nhà đèn
sáng,
nghe
có tiếng động lịch kịch, tôi cố nhìn vô trong nhưng không thấy gì. Bước thêm mấy
bước, quẹo về bên phải là chiếc cửa duy nhất để vô nhà. Tôi đứng đó, hít một
hơi thở thật sâu, cố gắng chế ngự nỗi niềm xúc động của mình, rồi gõ cửa… Không
nghe thấy tiếng Mẹ trả lời, chỉ nghe tiếng lịch kịch trong phòng, nên tôi đoán,
có lẽ vì tôi quá xúc động nên gõ cửa quá nhẹ. Tôi gõ lần hai, mạnh hơn. Vẫn
không thấy tiếng Mẹ trả lời, nhưng những tiếng lịch kịch cũng không còn. Im
lặng năm, mười giây đồng hồ… Tôi đang định gõ cửa lần nữa, thì nghe Mẹ hỏi,
giọng run run:
-
Ai đó… Có phải Chí không con?
Tôi
ngạc nhiên không hiểu sao Mẹ lại gọi trúng tên tôi. Tôi xúc động, nước mắt tự
nhiên trào ra:
-
Dạ, con đây… Mẹ!
Trả
lời chưa dứt, tôi nghe có vật gì rơi xuống sàn nhà, tiếng chân của Mẹ đi vội
vã, tiếng then cửa lạch cạch, rồi cánh cửa mở rộng… Dưới ánh đèn, Mẹ của tôi
đứng đó, run rẩy ở tuổi 65, với mái tóc bạc, chiếc lưng còng và cặp mắt đẫm lệ…
Lúc ấy, tất cả đều nhòa đi trước mắt tôi, nhưng tôi thấy rõ cặp mắt của Mẹ đang
đẫm lệ. Trong suốt bao năm dài sau này, mỗi khi nhớ về Mẹ, giữa không biết bao
nhiêu những kỷ niệm thương đau, xót xa và ân hận, không hiểu sao tôi vẫn thấy
trong tâm trí tôi lung linh hình ảnh cặp mắt đầm đìa nước mắt của Mẹ vào buổi
tối hôm đó… Sau này, ngay khi được đọc lần đầu tiên mấy câu thơ trong bài thơ
Ta Về của Tô Thuỳ Yên:
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau…
chẳng
hiểu sao tôi xúc động liên tưởng ngay đến cặp mắt đẫm lệ của Mẹ. Và chẳng phải
chỉ lần đầu tiên, mà mãi mãi về sau, mỗi khi đọc đoạn thơ trên của Tô Thuỳ Yên,
tôi đều nhớ đến “nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu” của Mẹ vào tối hôm đó… Chính vì
giá trị gợi cảm, tạo nên những liên tưởng tuyệt vời, mang đến trong lòng tôi
nỗi niềm xúc động sâu xa và miên viễn như vậy, nên kể từ khi được đọc bài thơ
Ta Về, nhà thơ Tô Thuỳ Yên đã ngự trị một vị trí vô cùng trang trọng trong tâm
hồn của tôi. Ngay cả sau này, khi qua một số thân hữu ở Mỹ, nghe được những tin
tức hư, thực về ông, lòng yêu quý của tôi dành cho ông vẫn không hề thay đổi.
Không thay đổi, không phải vì tôi ngoan cố, mù quáng bảo vệ một thần tượng, mà
vì tôi nghĩ rằng, một nghệ sĩ với tài năng đặc biệt, trong những hoàn cảnh đặc
biệt xuất thần, họ có thể để lại cho đời một kiệt tác bất hủ. Tôi trân trọng
kiệt tác bất hủ đó, tôi biết ơn nghệ sĩ đó…
Dìu
Mẹ bước vào trong nhà, nhìn cảnh tượng trước mắt, lòng tôi trùng xuống trong
nỗi xót xa, thương cảm. Ngay góc nhà là chiếc nồi nấu “cơm” bị đổ ụp. Chung
quanh là một phần gạo, ba phần khoai khô đổ tung tóe…
Níu
tôi ngồi xuống giường, Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, rồi xụt xịt:
-
Mẹ đang lấy “gạo” thổi “cơm” thì nghe gõ cửa. Mới đầu Mẹ giật mình vì cổng thì
khóa, ai vô được trong này mà gõ cửa. Rồi thần hồn mách thần tính, Mẹ nghĩ ngay
đến con, vì chỉ có con mới biết chỗ Mẹ giấu chìa khóa, mà mở cổng, vô gõ cửa…
Nghĩ vậy là Mẹ rụng rời chân tay, đánh đổ cả nồi, cả “gạo”…
Nhìn
chỗ khoai độn gạo tung tóe dưới đất, tôi thở dài:
-
Ở nhà, Mẹ vẫn phải ăn độn hở Mẹ?
Mẹ
tôi chép miệng:
-
Mấy chục năm nay, cả nước ai mà chẳng ăn độn, hở con? Còn có độn mà ăn là may
mắn lắm. Ở Đọi, Đệp [quê ngoại của tôi], Mẹ thấy người ta còn phải đào cả củ
chuối lên mà ăn nữa đó.
Tôi
cúi xuống hốt chỗ gạo và khoai độn bỏ vào nồi, mà ứa nước mắt. Cuộc đời của tôi
trong những năm tháng dài sống trên đất Bắc, cũng thường xuyên phải ăn độn
khoai,
độn
sắn, độn bột mì. Và Mẹ tôi đã nói đúng, mấy chục năm trời, ở Miền Bắc, hầu hết
mọi người dân đều phải ăn độn quanh năm. Một năm, họa may chỉ có một, hai ngày
Tết, người dân Miền Bắc mới may mắn được ăn cơm không độn.
Tối
hôm đó, tôi kể cho Mẹ nghe tất cả sự thật về cuộc đời của tôi, kể từ khi tôi
rời động Ông Đô đi tìm tự do cho đến khi tôi trở lại Miền Bắc. Nghe chuyện, Mẹ
tôi khóc ròng, trong khi hai bàn tay của Mẹ cứ nắm chặt lấy tay tôi. Mẹ cũng kể
cho tôi nghe những chuyện liên quan đến tôi. Vì tôi xa cách Mẹ từ khi còn nhỏ,
nên tôi không có “hộ khẩu” ở Hà Nội. Sau này, tuy tìm thấy Mẹ, nhưng tôi chưa
kịp chuyện “hộ khẩu” về Hà Nội, thì đã bị gọi đi “bộ đội”. Trong suốt thời gian
hơn một năm trời sống trong hàng ngũ “bộ đội”, tôi vẫn không hề khai địa chỉ
của Mẹ ở Hà Nội. Vì vậy, khi tôi hồi chánh, vô Nam tìm tự do, rồi viết bài tố
cáo cộng sản và lên đài VOA đọc những bài viết đó, chỉ những người cộng sản ở
quê biết. Còn ở Hà Nội, cộng sản vẫn không hề biết, Mẹ của tôi có một người con
“phản bội đảng bác, chạy theo đế quốc”. Anh, chị và một số bạn bè thân thiết
của tôi, có ghé thăm Mẹ, cho biết những tin tức về tôi, nhưng không một ai khai
báo cho cộng sản hay biết. Nhờ vậy, Mẹ của tôi vẫn sống bình an trong suốt
những năm dài khi tôi ở Miền Nam. Bây giờ, thấy tôi đột ngột trở về, Mẹ muốn
tôi ở lại Hà Nội sống với Mẹ.
Mẹ
bảo tôi: Con đã về đây thì ở đây với Mẹ. Mẹ sẽ xoay sở mua cho con cái “hộ
khẩu”. Chuyện đó chẳng khó đâu con. Thời này chỉ có tiền là xong hết.
Trong
thâm tâm, tôi đã quyết tâm về thăm Thầy Mẹ và một số người bạn thân cùng chí
hướng, rồi tôi sẽ tìm đường vượt biên ra ngoại quốc. Đã được sống ở Miền Nam tự
do, tôi không thể nào chấp nhận cả cuộc đời của mình sẽ mục ruỗng trong chế độ
cộng sản. Đó là chưa kể đến việc, không sớm thì muộn, cộng sản sẽ phát hiện ra
tôi, sẽ tống tôi vô tù chung thân, thậm chí có thể choàng vào cổ tôi cái án tử
hình. Bên cạnh tương lai u ám và sự hiểm nguy cho bản thân, tôi còn lo sợ đến
sự an toàn của Mẹ, anh chị, các cháu và bạn bè của tôi, nếu chẳng may tôi bị
bắt ở nhà của Mẹ. Với những giấy tờ giả, tôi có thể đi lại ở Miền Bắc, Miền
Nam, tôi có thể bị cộng sản bắt, nhưng chúng không thể nào phăng ra được lý
lịch của tôi, nếu tôi bị bắt ở một nơi xa lạ.
Nghĩ
vậy, tôi nói:
-
Con ở lại đây ngày nào là nguy hiểm cho Mẹ ngày ấy. Con phải đi…
Mẹ
tôi khóc:
-
Nguy hiểm thế nào đi nữa Mẹ cũng chịu. Mẹ già rồi, sống được ngày nào với con
là Mẹ hạnh phúc ngày ấy…
Nghe
Mẹ nói, tôi xúc động nhận ra, chỉ có tình Mẫu Tử thiêng liêng, lòng yêu con vô
bờ bến, người Mẹ mới có thể sẵn sàng chấp nhận mọi sự hiểm nguy, để hy sinh tất
cả cho con. Sống trong chế độ cộng sản, Mẹ tôi biết rõ những hình phạt tàn nhẫn
của cộng sản, nếu chúng bắt được Mẹ chứa chấp tôi. Nhưng Mẹ sẵn sàng chấp nhận
tất cả những hình phạt tàn nhẫn đó để đánh đổi lấy hạnh phúc mong manh được
sống chung với người con của Mẹ trong vài tháng, vài năm… Tôi biết, trong hoàn
cảnh lúc đó, tôi chỉ có thể dùng sự an nguy của chính tôi để thuyết phục Mẹ
chấp thuận cho tôi một lần nữa phải chia tay Mẹ, ra đi…
Tôi
khuyên Mẹ:
-
Thưa Mẹ, nếu con ở lại, sớm muộn gì con cũng bị bắt. Khi đó, không những Mẹ
khổ, mà con cũng khổ. “Tội” của con thế nào cũng bị họ xử bắn, hoặc bỏ tù chung
thân mà Mẹ…
Mẹ
tôi nức nở:
-
Khổ quá, con ơi, con đừng nói nữa…. Thôi thì con đi đi… Ở lại với Mẹ vài tháng
cho Mẹ đỡ nhớ, rồi con đi… Mẹ đã chả có công nuôi con thì Mẹ cũng chả dám ngăn
cản con nữa…
Nghe
Mẹ nói, tôi thấy thương Mẹ vô cùng. Tôi biết, Mẹ tôi lúc nào cũng mang mặc cảm
đã không nuôi tôi, nên thường dễ dàng chiều ý tôi, không muốn làm tôi phật ý.
Ngay lúc đó, tôi biết, tôi chỉ có thể ở lại với Mẹ một vài ngày, chứ không thể
nào ở lại tới vài tháng. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh của tôi, tôi ở thêm ngày nào
ở Hà Nội, tôi sẽ gặp nguy hiểm ngày đó. Nhưng lúc ấy, tôi không thể nói rõ cho
Mẹ biết ý định của tôi. Nói ra lúc đó, tôi chỉ làm cho Mẹ tôi thêm đau đớn, ảnh
hưởng đến sức khỏe của Mẹ. Tôi sẽ nói với Mẹ khi nào gặp dịp thuận lợi.
Cả
ngày hôm sau, tôi được hưởng hạnh phúc ở trong nhà của Mẹ, được Mẹ chăm sóc từ
miếng ăn, thức uống, đến giấc ngủ, được thấy bóng dáng hiền thục của Mẹ thấp
thoáng đi lại trong phòng. Được sống hạnh phúc như vậy, tôi thấy mềm lòng, ý
chí, nghị lực của tôi tiêu tan…. Tôi chỉ muốn được mãi mãi được sống bên cạnh
Mẹ, và thấy sợ hãi khi phải bước vào đời, vì không biết bao nhiêu nguy hiểm
đang chờ đợi. Muốn vậy, nhưng tôi biết tôi phải ra đi càng sớm càng tốt…. Và
khi bóng tối bắt đầu buông phủ, tôi chào Mẹ, rồi đi bộ theo đường tắt ra ga
Hàng Cỏ, đáp tầu về Phủ Lý, để bắt đầu chuyến đi nguy hiểm: Về quê viếng thăm
mộ của Thầy tôi!
KỲ 37
Từ
nhà Mẹ đi ra Ga Hàng Cỏ, có hai lối. Một lối từ nhà ra tới Ô Chợ Dừa rẽ trái vô
phố Khâm Thiên, đến cuối đường, rẽ trái khoảng cây số là tới Ga. Lối thứ hai
gần hơn, đi tắt theo Ngõ Văn Chương thẳng ra phố Khâm Thiên rồi tới Ga. Cả hai
lối đi này đều đến mặt tiền của Ga Hàng Cỏ. Tại đây, tôi phải xuất trình giấy tờ
và phải mua vé tàu. Đó là điều tôi không muốn vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất, số tiền
tôi mang theo từ Miền Nam rất ít ỏi, chỉ đủ dùng thật tằn tiện cho ăn uống dọc
đường. Tôi cũng không muốn nhận tiền của Mẹ vì Mẹ đã rất nghèo khổ. Vì vậy, tôi
không thể dùng tiền để mua vé tàu, vé xe, trừ khi bắt buộc phải mua. Lẽ thứ
hai, quan trọng hơn, vì giấy tờ tôi dùng toàn là thứ giả, nên tôi phải tránh
tối đa mọi sự kiểm soát của các cơ quan công quyền cộng sản. Việc dùng giấy tờ
giả để qua mặt công an, bộ đội cộng sản tại các nút chặn trên các tuyến đường,
hay các trạm kiểm soát giao thông, hoặc trên các phương tiện chuyên chở công
cộng là điều không có gì khó khăn. Tuy nhiên, tại các bến tàu xe quan trọng như
Ga Hàng Cỏ, việc kiểm soát giấy tờ của công an, bộ đội cộng sản bao giờ cũng kỹ
lưỡng hơn và có nhiều phương tiện, kỹ thuật để phát hiện giấy tờ thực giả dễ
dàng hơn. Vì vậy, tôi đã chọn lối thứ ba để vô Ga Hàng Cỏ từ phía đường Trần
Quý Cáp sau khi đi qua Ngõ Văn Chương, rồi rẽ trái dọc theo Hồ Văn Chương.
Trải
qua bao nhiêu lần vượt thoát, sống bất hợp pháp trong chế độ cộng sản, đã giúp
tôi có được những kinh nghiệm qua mặt công an cán bộ cộng sản một cách rất đơn
giản. Kinh nghiệm thứ nhất, trên đường trốn chạy cộng sản, tôi luôn luôn cố
gắng không mang bất cứ thứ hành lý nào trên người. Dĩ nhiên, một chiếc ba lô
hay túi xách, với đầy đủ quần áo, mùng mền, lương thực, thuốc men,… bao giờ
cũng rất cần thiết cho một người khi chạy trốn cộng sản. Nhưng nếu tôi mang
những thứ đó, thì chính những thứ đó là bằng chứng tố giác tôi không phải người
địa phương, mà là người từ xa đến, và còn có thể tiếp tục đi xa. Điều này sẽ
khiến công an, cán bộ CS rất dễ chú ý nghi ngờ và thận trọng kiểm soát giấy tờ.
Vì vậy, không mang thứ gì trên người là điều quan trọng đầu tiên để có thể đánh
lạc hướng sự chú ý của cộng sản.
Kinh
nghiệm thứ hai, tôi phải cố gắng am tường càng nhiều càng tốt nơi tôi đang có
mặt và nơi tôi sắp đến. Để có thể có được những kiến thức cần thiết này, việc
đầu tiên khi đặt chân đến bất cứ thành phố, thị trấn, thị xã hay làng xóm nào,
tôi cũng đều hỏi thăm đường để đến bưu điện. Tại bưu điện, giả vờ trong vai
người mua tem thư, tôi dễ dàng trông thấy những cán bộ, bộ đội hay công nhân
viên,… gửi thư từ cho người thân. Chỉ cần kín đáo ngó thoáng qua những chiếc phong
bì trong tay họ, tôi cũng đủ thấy họ tên của người gửi, đơn vị, địa chỉ làng
xã, quận huyện nơi người đó đang ở. Nhiều khi may mắn, tôi còn nhặt được những
chiếc phong bì, những lá thư… ở những đống rác ngay cạnh bưu điện. Đọc những
thứ này, tôi sẽ thu lượm và khai thác được nhiều kiến thức cần thiết. Dùng
những kiến thức đã thu lượm được, tôi sẽ trò chuyện làm quen với những người đi
đường để hỏi thăm tên họ của chủ tịch, bí thư đảng uỷ xã… của xã nơi tôi đang
có mặt, và xã tôi đang sắp tới… Với kiến thức về địa phương mà tôi vừa thu
lượm, với cách ăn mặc hòa đồng với địa phương, lại không mang hành lý đồ đạc gì
trên người, tôi dễ dàng qua mặt công an, cán bộ cộng sản. Ngoài ra, có khi trên
đường đi, tôi còn ghé tiệm sách, mua những cuốn “cộng sản đặc” như cuốn Ngục
Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh, rồi giả vờ say sưa ngồi đọc trên xe, trên tàu;
hay khi đi bộ thì cố ý cầm cho bìa cuốn sách quay ra ngoài… để công an, cán bộ
cộng sản trông thấy khỏi nghi ngờ. Kinh nghiệm thứ ba, trong mọi hoàn cảnh, mọi
lúc mọi nơi, tôi luôn luôn cố gắng làm quen với một người đồng hành để trò
chuyện, vừa tìm hiểu thêm những điều cần biết, vừa tránh được sự chú ý từ những
cặp mắt cú vọ của cán bộ công an cộng sản. Nhất là trên xe lửa, thường có những
“toa nằm”. Hành khách của những toa này đều là những cán bộ “trung cao” hoặc
thân nhân của những cán bộ đó. Tìm cách làm quen, trò chuyện với những người đó
là điều không khó. Và khi đã trò chuyện được với một người ở “toa nằm”, thì
nhân viên soát vé hầu như không bao giờ hỏi vé, vì họ đinh ninh mình cũng là
người của “toa nằm”.
Kinh
nghiệm thứ tư, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ đối tượng CS nào, tôi
cũng phải cố gắng ứng xử một cách bình tĩnh để tạo cho mình vẻ ngây thơ, ngờ
nghệch. Điều này sẽ khiến công an, cán bộ cộng sản có thái độ coi thường, chủ
quan, khinh địch. Một khi họ đã có thái độ đó, tôi sẽ có cơ hội qua mặt họ dễ
dàng, hoặc trốn thoát cho dù tôi có bị bắt.
Để
có thể né tránh được sự kiểm soát giấy tờ của công an cộng sản tại Ga Hàng Cỏ,
tôi thấy chỉ có cách trèo tường, nhảy vô sân ga, chứ không thể nào đường hoàng
trình giấy tờ để mua vé ở ngay cổng nhà ga. Tôi tin tưởng, một khi đã chót lọt
lên được xe lửa, tôi sẽ dễ dàng phát hiện ra nhân viên kiểm soát vé hay công an
ngành đường sắt ngay từ xa. Và nhờ không mang theo trên người bất cứ hành lý
gì, tôi sẽ kịp thời né tránh họ bằng cách lẩn trốn trong toilet, trèo lên nóc
tàu, hay ẩn mình dưới các bậc lên xuống của các toa tàu. Trong trường hợp cực
chẳng đã, nhân viên xoát vé hay công an đường sắt phát hiện ra tôi trốn vé, thì
với bộ mặt ngờ nghệch của tôi cộng với việc tôi chẳng có hành lý gì, nhân viên
xoát vé và công an đường sắt sẽ đinh ninh tôi chỉ là một thanh niên nghèo khổ,
túng thiếu, đi xe lửa quịt mà thôi. Vì vậy, giải pháp trừng phạt duy nhất đối
với một người đi xe lửa quịt là họ sẽ đuổi tôi xuống ngay khi tàu dừng lại ở
một ga nào kế đó. Khi đó, tôi sẽ đóng vai một thanh niên đau khổ, nhưng sợ sệt
và ngoan ngoãn vâng theo lời họ, đi ra khỏi nhà ga. Một khi khuất mình trong
bóng tối, tôi sẽ chạy thục mạng dọc đường sắt, theo hướng tàu chạy một đoạn,
rồi tìm cách chui qua hàng rào, vô gần đường sắt và tìm chỗ ẩn mình chờ đợi.
Khoảng 5, 10 phút sau, tàu chuyển bánh, từ từ rời ga với tốc độ chậm, sẽ giúp
tôi nhảy lên tàu trở lại một cách dễ dàng. Trong trường hợp lỡ chuyến tàu đó,
tôi sẽ chờ để nhảy chuyến tàu khác sau đó. Một thân một mình, không thân nhân,
không hành lý, đã giúp tôi tự tin, đi lại dễ dàng theo kiểu “sâu đo” trên khắp
mọi nẻo đường của quê hương Việt Nam. Mãi sau này, khi tính chuyện vượt biên
đường bộ từ Sàigòn ra Đông Hà, Quảng Trị, rồi trực chỉ đến Savannakhet, Lào,
cạnh sông Mêkông, để sang bờ bên kia là Mukdahan của Thái, chỉ vì người chị một
lòng một dạ tin vào số mệnh “luôn có quý nhân phù trợ” mà đã trải qua không
biết bao nhiêu nguy hiểm của tôi nên hết sức năn nỉ, khiến tôi phá lệ “độc
hành, không hành lý” chấp nhận để cho người cháu gái và một người bạn của nó đi
cùng, mang theo đủ thứ hành lý cồng kềnh kể cả mùng mền, nên cả ba chúng tôi
cùng bị công an biên phòng cộng sản bắt khi cách biên giới Lào – Việt chỉ có 4
cây số… Đó là chuyện sau này tôi sẽ trở lại với nhiều tình tiết khổ đau, nguy
hiểm, để rồi dẫn đến cuộc vượt thoát của tôi ngay trên đường phố Huế, cách lao
Thừa Phủ không đầy mấy trăm mét, và ngay trước mặt hai tên công an áp tải tù.
Ga
Hàng Cỏ, nhà ga lớn nhất Miền Bắc, là trung tâm điểm của 5 tuyến đường sắt đi 5
hướng như Lào Cai, Thái Nguyên, Hải Phòng, Lạng Sơn và vô hướng Nam qua ga Phủ
Lý, Nam Định là hướng tôi phải đi. Vì 4 hướng kia đều đi về phía bắc và đông
bắc, chỉ duy tuyến đường đi Phủ Lý là theo hướng nam, nên việc nhận diện đoàn
tàu đi Phủ Lý không phải là điều khó.
Đặt
chân tới Ga Hàng Cỏ, tôi lại nhớ ngày xưa, mỗi năm một lần, vào dịp tết nguyên
đán, bao giờ Thầy tôi cũng dắt tôi đi lên Hà Nội chơi. Trong những lần đó, khi
tuổi thơ trông thấy, nghe thấy không biết bao nhiêu điều lạ lùng ở phố phường
Hà Nội, đã khiến tôi luôn miệng hỏi. Có một lần, tôi không nhớ rõ năm nào vì
khi đó chắc tôi mới 10, 11 tuổi, tôi có hỏi Thầy tôi, Ga Hàng Cỏ có phải là nơi
ngày xưa người ta bán cỏ cho trâu không? Thầy tôi bảo, đúng trước kia ở Ga Hàng
Cỏ người ta bán cỏ, nhưng không phải cho trâu mà là cho ngựa. Rồi nhìn những
đoàn tàu dài hàng chục toa chạy trên đường sắt, tôi tò mò hỏi Thầy tôi, làm sao
những đoàn tàu hỏa đó có thể quay đầu khi nó đi đến tận cuối đường sắt…
Trong
những ngày ở chơi Hà Nội, Thầy cũng thường dắt tôi đi xem các danh lam thắng
cảnh, trong đó Gò Đống Đa là nơi hay viếng thăm nhất. Theo trí nhớ của tôi, Gò
Đống Đa cao to, cây cối mọc um tùm, phải leo tới mấy chục bậc mới tới cổng, rồi
qua cổng, lại phải leo thêm mấy chục bậc nữa mới tới đỉnh. Sau này, tôi nghe
nói, cộng sản Hà Nội sợ làm phiền lòng quan thầy Bắc Kinh nên đã bí mật tìm
cách làm cho Gò Đống Đa càng ngày càng nhỏ lại. Còn Ga Hàng Cỏ thì đổi thành Ga
Hà Nội.
Trong
những lần trèo lên Gò Đống Đa, có lần tôi nhặt được một con ngựa bằng gỗ không
biết của ai đánh rơi. Con ngựa được chạm trổ sơ sài, nhưng đen bóng. Tuổi thơ
của tôi chẳng bao giờ có đồ chơi, nên tôi quý con ngựa đó lắm, suốt cả chục năm
trời, lúc nào cũng giữ nó bên mình. Đến khi từ động Ông Đô cắt đường, trực chỉ
đi về thị xã Quảng Trị trong chuyến đi đầy định mệnh, tôi đã bỏ lại tất cả mọi
thứ, kể cả hình ảnh của người thân, chỉ giữ lại duy nhất con ngựa gỗ. Vậy mà
rồi khi an toàn tới được thị xã Quảng Trị, tôi mới đau xót nhận ra, không biết
trên chặng đường hơn chục cây số bị té lên té xuống, tôi đã đánh rơi mất con
ngựa gỗ ở đâu, vào lúc nào…
Bố
tôi rất kính trọng các anh hùng dân tộc, và đặc biệt ngưỡng mộ Vua Quang Trung.
Bố tôi kể trong số những anh hùng dân tộc Việt Nam, Vua Quang Trung là người
khiến cho vua Tàu sợ hãi nhất. Bố tôi bảo, nếu Vua Quang Trung sống thọ thêm
chục năm, thì Việt Nam sẽ khôi phục được bờ cõi Bách Việt, bao gồm cả vùng
Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng Tây. Trong những ngày tháng thơ ngây đầu đời
đó, Thầy tôi đã truyền cảm và thêu dệt vào tấm lòng trinh bạch của tôi lòng
kính phục vô bờ bến dành cho Vua Quang Trung. Nhờ vậy, sau này khi sống ở Miền
Nam tự do, khi đọc thấy trên báo Sóng Thần vào năm 1974, có trang quảng cáo về
một cuộc thi hùng biện do một cơ quan của Phật Giáo (tôi không còn nhớ rõ tên)
tổ chức, về đề tài “Ai là người anh hùng dân tộc, anh hay chị kính phục nhất?”,
tôi đã nhớ đến Gò Đống Đa, nhớ đến con ngựa gỗ, và nhớ đến Thầy tôi… nên ghi
tên dự thi và chọn Vua Quang Trung là người anh hùng tôi kính phục nhất. Kết
quả tôi may mắn được giải nhì. Ngay cuối buổi thi, ông Ngô Khắc Tỉnh, Tổng
trưởng Giáo dục, đã đích thân trao giải nhất 100,000 đồng cho một sinh viên y
khoa (tôi quên mất tên), và giải nhì, 50,000 đồng cho tôi. Khi nhận được giải
thưởng, trước mặt mọi người, trong đó có anh chị và các cháu của tôi, tôi vừa
bàng hoàng bất ngờ, vừa xúc động không cầm được nước mắt. Tôi khóc vì nhớ tới
Thầy Mẹ, nhớ tới Gò Đống Đa, nhớ tới con ngựa bằng gỗ đen như mun bây giờ không
biết thất lạc ở đâu hay đã trở về với cát bụi?!… Tôi cũng khóc vì những xúc
động chân thành khi thấy mình tuy là một người hồi chánh, nhưng vẫn được ban
giám khảo đối xử bình đẳng để có được cơ hội thăng tiến công bằng như tất cả
những người khác của Miền Nam tự do…
KỲ 38
Muốn
về thăm mộ Thầy, tôi phải đi xe lửa từ Hà Nội về Phủ Lý. Đến Phủ Lý tôi sẽ đi
bộ về quê. Tuy tôi có thể mượn xe đạp của một số bạn bè tâm đắc ở Hà Nội, Phủ
Lý, Nam Định,… để đi lại cho dễ dàng, nhưng tôi không dám mượn. Lý do là trong
hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi rất dễ bị bắt và có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Và
nếu chẳng may bị bắt, chuyện trốn thoát đối với tôi tuy không khó, hễ liều là
được, nhưng chắc chắn tôi chẳng thể nào trốn cùng với chiếc xe đạp. Mà đối với
người dân Miền Bắc, như quý vị đã biết, chiếc xe đẹp là cả một gia tài, nhiều
người ước mơ cả đời người cũng không có. Hơn nữa, xe đạp ở ngoài Bắc đều có
bảng số. Căn cứ vào bảng số của xe, công an có thể biết được chủ chiếc xe đó là
ai. Như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm cho những ân nhân của tôi…
Trên
đoàn tàu chợ từ Hà Nội về Phủ Lý dài khoảng hơn 50 cây số, tôi ngồi ở ngay bậc
lên xuống. Trời lúc đó khoảng gần nửa đêm, nên gió lạnh thổi phần phật. Tàu
chạy được khoảng 15 phút thì trời mưa. Tôi ngồi co ro trong góc tàu, chịu đựng
sự lạnh lẽo trong trạng thái chán chường, chẳng muốn sống, khi nghĩ đến cuộc
đời của tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ được gặp Thầy tôi nữa… Tình yêu thương
của Thầy đối với tôi trong hoàn cảnh túng thiếu, và thân phận gà trống nuôi
con, suốt những năm tháng dài là sợi dây thiêng liêng vô hình trói chặt cuộc
đời tôi với ông cụ. Tôi nhớ khi xưa còn bé, mỗi khi ngủ tôi có thói quen hay
đưa tay lên đầu. Tay đụng vô đầu mùng, nên tôi hay bị muỗi ở ngoài mùng đốt
xưng nhiều chỗ trên hai cánh tay. Thầy tôi thấy vậy, đã ngồi cặm cụi cả một
buổi chiều, vá một miếng nylon thật lớn ngay ở đầu mùng cho muỗi khỏi đốt tôi.
Tình phụ tử thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng, nhưng vì miếng nylon cũ kỹ
xấu xí, lại khác màu với chiếc mùng, thêm vào đó là những đường chỉ vụng về, bó
túm nhiều chỗ quanh bốn cạnh tấm nylon, đã làm tôi rất xấu hổ và bực bội. Vì
vậy, chỉ sau một đêm ngủ trong chiếc mùng vá miếng nylon, ngay sáng hôm sau,
trước khi đi học, tôi đã lén gỡ miếng nylon, nhét vô mái tranh đằng sau nhà…
Sau này, lớn lên, mỗi khi đi đâu, làm gì, đụng phải chiếc mùng, hay bị muỗi
đốt, hoặc nghe tiếng muỗi kêu, là tôi lại nhớ đến chiếc mùng vá miếng nylon của
tôi ngày xưa, lại nhớ đến Thầy và thấy thương cảm, xót xa, ân hận cho những lầm
lỡ của tôi tuổi ấu thơ…
Cũng
chính vì sống trong sự ân hận và xót xa như vậy, nên cuộc đời của tôi nhiều khi
bị chìm ngập trong những giầy vò của chính mình về những sai lầm trong quá khứ.
Trong niềm đau khổ và ân hận đó, sau này tôi mới thấm thía lời dậy của Thầy
tôi, “Nghiêm khắc với bản thân, nhưng khi cần, cũng phải biết tha thứ cho những
lỗi lầm của chính mình”. Cũng vì nhớ thương Thầy, nên trước khi lên đường vô
Nam, tôi đã làm một chuyến đào ngũ táo bạo, nguy hiểm nhưng cũng đầy ngoạn mục
vào năm 1971.
Năm
đó, đơn vị bộ đội của tôi đóng ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Quảng Trị, cách
thị xã Quảng Trị khoảng 50 cây số đường rừng. Cả sư đoàn của tôi đang chờ lệnh
lên đường xâm lăng Miền Nam. Là một người lính cấp bậc binh nhì, tuổi mới 20,
nên tôi chẳng có một khái niệm rõ rệt về những đoàn xe, đoàn quân, ngày đêm đổ
vô phương nam vào mùa mưa hay mùa nắng. Tôi chỉ tâm tâm niệm niệm lời Thầy dặn
tôi lần cuối trước khi tôi lên đường: Thầy đẻ ra mày, nuôi mày khôn lớn, không
phải để mày chết mất xác trong rừng. Trong Nam mày có bốn bà chị. Vô đó rồi, cố
gắng tìm các chị mày, nói các chị muốn báo hiếu Thầy thì nuôi cho em ăn học…
Tâm niệm như vậy, nên tôi đã quyết tâm, ngay khi đặt chân lên bờ nam của vĩ
tuyến 17, tôi sẽ tìm đủ mọi cách trốn khỏi đơn vị để về với Miền Nam tự do. Vì
mang trong lòng quyết tâm đó, tôi đinh ninh chuyến đi này của tôi sẽ là chuyến
ly biệt, vĩnh viễn không có ngày gặp lại Thầy. Trong tâm trạng của người ra đi
không có ngày trở về như vậy, tôi quyết định, bằng mọi giá, tôi phải về Bắc
thăm Thầy, Mẹ tôi lần cuối, rồi trở lại đơn vị, trước khi lên đường vô Nam.
Lúc
đó, cả sư đoàn tôi đang trong tình trạng ứng chiến 100%, sẵn sàng lên đường vô
Nam bất cứ lúc nào, nên chuyện xin nghỉ phép để về Bắc là điều không bao giờ
xảy ra. Ngay cả một số bạn bè trong sư đoàn, nhận được điện tín báo tin bố mẹ
ốm nặng, hay qua đời, cũng đều không được đi phép. Vì vậy, tôi thấy chỉ còn có
cách duy nhất là đào ngũ, và chỉ đào ngũ một thời gian ngắn khoảng nửa tháng,
một tháng rồi trở lại đơn vị, nên tôi không lo ngại gì về những thảm kịch mà
người lính đào ngũ ở Miền Bắc thường phải gánh chịu. Khó khăn lớn nhất cho tôi
là làm sao tôi có thể đào ngũ được an toàn, về quê thăm Thầy và lên Hà Nội thăm
mẹ một cách đàng hoàng. Có như vậy thì chuyến đào ngũ của tôi mới thành công.
Còn như đào ngũ mà khi về thăm Thầy, Mẹ, phải lén lút, thậm chí có khi bị bắt,
bị trói chân, trói tay, bị đánh đập, khiến Thầy, Mẹ đau khổ, lo sợ, hoảng hốt,
hay liên luỵ, thì tốt nhất, không nên đào ngũ.
Muốn
đào ngũ an toàn, điều đầu tiên, tôi phải có giấy tờ hợp lệ. Để có giấy tờ hợp
lệ tôi phải nhờ đến thằng H. bạn chí thân trong ban tuyên huấn của sư đoàn. Nhờ
biết vẽ, kẻ chữ, làm “báo tường” khi còn đi học, nên mỗi tháng, tôi phải lên
ban tuyên huấn để làm “báo tường”. Làm được 2 tháng thì tôi gặp H. và hai người
chơi rất thân với nhau.
Sau
này qua chuyện trò, tôi được biết, thân phụ của H. trước đây đi lính cho Pháp.
Sau 1954, ông cụ ở lại và bị cộng sản bắt, đưa đi trại cải tạo ở Nam Hà. Hình
như là trại Đầm Đùn được xây dựng từ thời Pháp thì phải, lâu ngày tôi nhớ không
rõ. Vì H. sống với mẹ ngay từ khi còn bé đến lớn, giấy tờ khai sanh đều ghi tên
bố vô danh, nên cộng sản không hề biết H. là con của một tù cải tạo từng đi
lính cho Pháp. H. tướng cao ráo, da trắng, có hàm râu quai nón rất điệu nghệ,
và giọng hát rất hay. Nhờ vậy nên H. được chọn vô tiểu ban văn nghệ thuộc ban
tuyên huấn của sư đoàn. H. cũng cho biết quê mẹ của H. ở ngay Đọi, Đệp, là quê
ngoại của tôi, nên tình thần giữa hai chúng tôi thêm keo sơn, gắn bó. Nhưng có
lẽ thiêng liêng hơn cả là cả hai chúng tôi cùng sở thích yêu thơ nhạc thời tiền
chiến, quý trọng các nhà văn, nhà thơ thời Văn Nhân Giai Phẩm, nhất là Quang
Dũng, Trần Dần, Hữu Loan, Lê Đạt. Chính nhờ H. đọc thuộc lòng cho tôi nghe bài
thơ “Hoa và Rượu” rất dài của Nguyễn Bính nên tôi mới biết Nguyễn Bính có bài
thơ này.
Khác
hẳn tất cả những người lính bộ độ khác, H. có phong thái rất nghệ sĩ, sống đàng
hoàng, và trọng chữ tín. Tôi rất tin tưởng và tâm sự với H. nhiều chuyện, nhờ
vả H. nhiều lần, và lần nào H. cũng xứng đáng với sự tin tưởng của tôi. Lần này
cũng vậy, sau khi nghe tôi bầy tỏ ước muốn được về thăm Thầy, Mẹ, cần một số
giấy tờ đi đường, không đầy một tháng sau, H. tìm đến lán của tôi, trao cho tôi
2 tờ giấy sự vụ lệnh lưu không, đã đóng dấu và có sẵn chữ ký của sư đoàn
trưởng. Tôi chỉ cần điền tên, ngày sinh và đơn vị, là tôi có được ngay một tờ
giấy công tác hoàn toàn hợp lệ, trót lọt qua mọi cửa ải trên đường từ Nam ra
Bắc. Thông thường, lúc đó, các giấy công tác của bộ đội chỉ cần có con dấu và
chữ ký của tiểu đoàn trưởng, hoặc trung đoàn trưởng, là đủ hiệu lực. Vì vậy,
khi cầm hai tờ giấy của H. tôi rất mừng. Tôi kéo H. ra bờ suối, tâm sự mọi
chuyện, ngoại trừ dự tính vô Nam tìm kiếm mấy bà chị của tôi.
Khó
khăn thứ hai của tôi khi đảo ngũ là làm sao qua mắt được đơn vị trong thời gian
ít nhất 2 tiếng đồng hồ. Đây là thời gian tối thiểu để tôi có thể băng rừng, đi
từ nơi đóng quân trong rừng, ra đến được đường mòn có xe hơi chạy. Tôi không
biết đường mòn này có phải là một bộ phận của đường mòn 559 hay không. Tôi chỉ
biết đó là một con đường nhỏ hẹp, chỉ đủ một chiếc xe hơi chạy. Đường chạy qua
nhiều dòng suối, nhiều đường hầm, và có nhiều đoạn chạy chênh vênh bên vực
thẳm, hoặc trong rừng sâu.
Từ
ngoài đường lộ xe hơi chạy vào đến đơn vị tôi đóng qua là một đoàn đường ruột
mèo, ngoằn nghèo lên xuống giữa rừng rậm, qua nhiều đèo, đồi, núi, suối… Vượt
qua đoạn đường này nhanh nhất phải mất 2 giờ đồng hồ. Nếu trong thời gian 2
tiếng đồng hồ, đơn vị phát hiện tôi đào ngũ, tôi sẽ có nguy cơ bị các nút chặn
ở ngoài quốc lộ bắt lại dễ dàng. Sau 2 tiếng đồng hồ, khi ra tới quốc lộ, tôi
sẽ đón xe quân sự để quá giang, và đơn vị sẽ rất khó bắt được tôi.
Để
có thể giữ được bí mật cuộc đào ngũ của mình, tôi quyết định trốn vào buổi tối,
sau khi đơn vị đã tập họp, điểm danh. Thông thường, sau khi điểm danh xong,
chúng tôi phải ngồi học tập chính trị ngay trên lán của đại đội. Vì lúc đó,
tình trạng lính đào ngũ trước khi vô Nam rất phổ biến, nên việc canh phòng rất
nghiêm ngặt. Ngoài những toán canh gác thường xuyên của đại đội, tiểu đoàn,
trung đoàn, sư đoàn… còn có mạng lưới tự giác theo dõi lẫn nhau theo cơ cấu 3
người một tổ, 6 người một lán, mỗi tiểu đội có hai lán, phải có bổn phận theo
dõi lẫn nhau…
KỲ 39
Mỗi
tối, vào lúc 6 giờ tối, cả đại đội phải có mặt trên lán đại đội để điểm danh.
Sau đó chúng tôi phải học tập chính trị, chia nhóm kiểm điểm, sinh hoạt phê và
tự phê, rồi cuối cùng là đọc báo Nhân Dân, Quân Đội, và ca hát các bài hát cách
mạng cho đến 10 giờ khuya, chúng tôi mới được về lán ngủ. Mục đích chính của
những sinh hoạt này là nhằm tạo cho người lính bộ đội, thể xác thì mệt nhoài,
đầu óc thì bận rộn, không còn thì giờ nghĩ đến gia đình, bạn bè, hay bất cứ thứ
gì khiến cho họ trở nên uỷ mị, cùn nhụt “tinh thần chiến đấu cách mạng”. Đối
với người dân Miền Bắc nói chung, và nhất là người bộ đội chuẩn bị lên đường
“đi B”, ba thứ bị cộng sản kiểm duyệt và bị cấm kỵ thật nghiêm ngặt là thư từ
của gia đình, “nhạc vàng” hay thơ tình, và niềm tin tôn giáo.
Việc
canh gác, theo dõi lẫn nhau trong khi học tập chính trị trên lán đại đội tuy
thường xuyên và chặt chẽ, nhưng cũng giống như bất cứ chuyện gì trên đời, khi
đã làm đi làm lại một việc hết ngày này qua ngày khác thì nó cũng hóa nhàm, và
mọi người đều làm chiếu lệ. Vì vậy, trong những buổi tối học tập chính trị sau
này, chuyện một vài người xin phép ra ngoài làm chuyện riêng tư, hay cáo ốm về
lán nằm nghỉ vẫn thường xảy ra, và ít ai bị để ý hay bị theo dõi chặt chẽ. Biết
vậy, nhưng tôi không thể nào phiêu lưu “xin phép ra ngoài”, dễ tạo sự chú ý,
theo dõi của cán bộ trong đại đội. Tôi quyết định vào một buổi tối Thứ Sáu,
trong lúc học tập chính trị trên lán đại đội, khi có cơ hội thuận tiện, tôi sẽ
lặng lẽ lẻn ra ngoài để thực hiện chuyến vượt thoát táo bạo, gặp lại những
người thân thương, trước khi lên đường vô Nam.
Tại
sao tôi lại chọn buổi tối Thứ Sáu? Có mấy lý do. Thứ nhất là thời gian đó, mỗi
tuần, chúng tôi phải thay phiên nhau xuống đồng bằng mua thực phẩm. Trong những
chuyến đi đó, tôi để ý thấy số lượng xe từ phía Nam đi ra, nhiều gấp bội so với
những ngày khác. Xe đi vô thì chở đầy bộ đội, quân nhu, thực phẩm. Xe đi ra thì
trống không. Trên đoạn đường rừng xe thường đi, phải đi qua những đoạn suối,
rất khó đi, nên xe thường phải chạy chậm. Đó là những lúc thuận tiện nhất để
tôi có thể “quá giang” khỏi phải hỏi tài xế. Thông thường thời gian đó, từ miền
núi rừng Trường Sơn, thuộc tỉnh Quảng Trị, chuyện bộ đội quá giang xe xuống
đồng bằng, hay từ đồng bằng về chỗ đóng quân của đơn vị ở trên rừng, là chuyện
vẫn thường xảy ra. Nhưng đó là những chuyến quá giang xe giữa ban ngày của cả
một nhóm bộ đội thì người tài xế không có gì nghi ngờ. Còn nếu quá giang xe vào
ban đêm, nhất là khi tôi chỉ có một thân một mình, chắc chắn tôi sẽ bị tài xế
nghi ngờ. Vì vậy, “quá giang” khỏi hỏi tài xế vào tối Thứ Sáu là an toàn nhất
cho tôi.
Tối
Thứ Sáu còn là tối ầm ĩ, huyên náo và thiếu cảnh giác nhất trong khi học tập
chính trị tại lán của đại đội. Dù ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật cũng có những việc
phải làm như tăng gia, làm vệ sinh lán trại,… nhưng tối Thứ Sáu là buổi tối
cuối tuần, nên mọi chuyện cũng được “thư giãn” chút đỉnh. Trong bối cảnh đó, sự
vắng mặt của tôi sẽ dễ dàng không bị người khác chú ý.
Ngay
chiều Thứ Sáu hôm đó (lâu ngày quá, tôi không nhớ rõ, chỉ nhớ là vào mùa hè),
tôi đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng và gọn gàng cho chuyến đi. Ngoài quần áo, tư
trang, tôi còn mang theo trong ba lô hai trái lựu đạn tấn công và một con dao
găm. Đây là những trang bị cá nhân cho mỗi người lính. Lúc đầu, tôi định mang
theo khẩu AK-47 để phòng thân, lỡ khi gặp thú dữ trên chặng đường dài mấy chục
cây số đường rừng. Sau tôi thấy khẩu súng quá nặng nề. Hơn nữa, một khi đã
“trốn khỏi đơn vị” mà còn mang vũ khí theo, tôi dễ dàng bị quy kết chụp mũ tội
“phản động” và dễ bị “xử lý tại chỗ” một khi bị đơn vị truy lùng, chặn bắt.
Năm
giờ chiều Thứ Sáu, tôi kín đáo nai nịt quần áo gọn gàng và đi giầy, buộc giây
giầy thật chặt, thay vì chỉ đi “dép râu” như mọi lần. Khi đó, tôi đâu có thể
ngờ được, bảy năm sau, vào một buổi sáng tinh mơ, trong một phòng biệt giam ở
rừng núi vùng Đông Hà, tôi, bị cầm tù vì tội vượt biên, hai tay bị trói, cũng
đã nhờ một người bạn tù buộc giây giầy thật chặt, để chuẩn bị cho cuộc đào
thoát, và tôi đã đào thoát thành công ngay trước mặt hai người công an áo vàng,
giữa đường phố Huế, cách lao Thừa Phủ không đầy 300 thước…
Chiều
hôm đó, tuy kín đáo buộc giây giầy, nhưng việc làm của tôi cũng bị T. một người
lính cùng tiểu đội phát hiện. T. ngạc nhiên hỏi tôi:
-
Đi “lán C” (tiếng lóng gọi lán của đại đội) có vài tiếng rồi về ngủ, sao mày
tính đi đâu mà giầy dép đóng bộ kỹ vậy?
Tôi
lúng túng:
-
Đóng bộ gì đâu… Tao phải đi giầy vì… sợ rắn cắn…
Cũng
may, câu trả lời của tôi khá hợp lý, vì mới hai hôm trước, trong đơn vị có một
người đi đêm bị rắn cắn. Có lẽ cũng nghĩ đến tai nạn đó, nên T. “tỏ vẻ” không
nghi ngờ gì câu trả lời của tôi. Tôi vui vẻ bá vai T. cùng đi lên lán đại đội,
trong lòng tôi yên tâm vì đã qua mắt T. Nhưng tôi đã lầm…
Sáu
giờ tối Thứ Sáu, cả tiểu đội tôi có mặt trên lán đại đội điểm danh như thường
lệ. Điểm danh xong, khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, quan sát chung quanh thấy mọi
chuyện đều thuận lợi, tôi lặng lẽ rút êm ra khỏi lán. Ra khỏi lán, tôi không
vội chạy ngay về lán của mình, mà khéo léo đứng khuất một thân cây lớn, giả vờ
đi tiểu để quan sát động tĩnh. Tôi tin tưởng, nếu có ai phát hiện hay nghi ngờ
hành động rút khỏi lán của tôi, họ phải đi theo, lập tức tôi sẽ thấy họ. Khi
đó, tôi sẽ giả vờ là người đi tiểu, thản nhiên quay trở lại lán đại đội, sinh
hoạt bình thường, chờ đợi dịp khác, thuận tiện….
Chờ
đợi khoảng một phút, không thấy động tĩnh gì, tôi yên tâm, chạy thẳng một mạch
về lán của mình. Thời gian đó, để tránh máy bay Mỹ oanh tạc, nên các lán đóng
quân đều rải rác cách nhau từ 50 đến một vài trăm thước. Khoảng cách giữa lán
của tôi và lán đại đội chỉ có hơn trăm thước đường chim bay, nhưng ở hai triền
đồi khác nhau. Vì vậy, trong vài phút đồng hồ, tôi phải chạy bở hơi tai hết lên
dốc rồi xuống dốc, mới về tới lán của mình.
Ngay
khi chạy ào vô lán, tôi nhảy vội lên xạp ngủ làm bằng tre nứa, đưa tay với lấy
chiếc ba lô để sẵn. Nhảy xuống đất, tôi quàng vội chiếc ba lô vào vai, rồi lao
ngay ra cửa…. Ngay khi đó, tôi thấy trước cửa lán, T. đứng chắn ngang!
Trong
bóng tối nhập nhoạng, tuy không rõ mặt người, tôi cũng biết, T. đã biết tôi
đang “đảo ngũ”. Trong một, hai tích tắc ngắn ngủi, tôi biết tôi phải làm gì.
Rút ngay trong túi áo chiếc bút máy, thứ mà T. vẫn ao ước, tôi dúi vào tay T.
“xiết chặt”, rồi nói vội vàng, bằng một giọng chí tình nhưng kiên quyết:
-
T…. Mẹ tao ốm nặng, tao phải về gấp một hai tuần rồi sẽ trở lại. Mày thương
tao, đừng nói cho ai biết…
Nói
xong, không cần biết thái độ của T. thế nào, tôi xô T. sang bên rồi lao thẳng
ra ngoài bằng tất cả sức mạnh và sự liều lĩnh của một thằng con trai mới 20
tuổi đầu….
Sau
này, khi trở lại đơn vị, trải qua những cuộc “đấu tố” kéo dài nhiều tuần lễ,
tôi mới biết được, ngay buổi tối hôm đó, T. đã nghi ngờ và bí mật theo dõi tôi
mà tôi không biết. Đến khi thấy tôi lẻn ra khỏi lán, T. cũng khôn ngoan chờ đợi
một lúc, rồi mới lẻn ra theo tôi. Có điều T. chạy theo tôi về lán, vì tò mò,
tuyệt nhiên không hề vì ác ý. Vì vậy, khi tôi lao ra khỏi lán, T. cầm trong tay
chiếc bút máy tôi cho, tần ngần và lo sợ, không biết phải làm thế nào. Đi báo
cho đơn vị biết thì T. lo ngại cho tôi bị bắt lại; mà không đi báo cho đơn vị
biết, sau này mọi chuyện đổ bể, T. cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề…
Còn
tôi, sau khi chạy ra khỏi lán, như một mũi tên rời khỏi ná, tôi vội vàng lao
tới một cách điên cuồng, vì tôi linh cảm, sớm thì vài phút, muộn thì chỉ mươi
phút đồng hồ, tôi sẽ bị đơn vị truy đuổi. Tôi biết, T. chỉ là một người lính bộ
đội bình thường, không thể nào hy sinh mọi chuyện để bảo vệ cho tôi. Trước sau
gì, nghĩ đến những nguy hiểm sẽ đến với mình, T. sẽ chạy đi báo cáo cho đơn vị.
Thời gian do dự của T. chỉ là vài phút đồng hồ. Khi đơn vị được báo cáo, nhận biết
ra tôi đào ngũ, và quyết định truy đuổi, cũng chỉ 5, 10 phút đồng hồ là tối đa.
Vì vậy, bằng mọi giá, tôi phải vượt qua đoạn đường ruột mèo ngoằn ngoèo trong
rừng, từ căn cứ của đại đội, đến đường lộ xe chạy, trong thời gian 10 phút đồng
hồ là tối đa…. Nhưng trời ơi, làm sao tôi có thể chạy hết đoạn đường rừng hai
tiếng đồng hồ trong mười phút?! Kinh hoảng quá, tôi như phát điên lên được… Tôi
biết, không sớm thì muộn, chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ bị bắt
lại. Bị bắt lại thì tôi không ngán, vì tôi đã chấp nhận tất cả mọi chuyện kể cả
tính mạng cho chuyến đi sinh tử của mình. Nhưng bị bắt khi tôi chưa được gặp
lại những người thương yêu mà tôi đã ấp ủ và thêu dệt trong tâm trí, thì quả
thực đau đớn cho tôi quá…
Giữa
lúc đang chạy điên cuồng, trong tâm trạng vạn phần bối rối như vậy, thì đột
nhiên, tôi nghe thấy mấy tiếng súng nổ vang trong đêm tối… Tiếp theo là hai
tràng AK-47 chát chúa… Nghe vậy, tôi hiểu ngay, đó là những tiếng súng cảnh cáo
của đơn vị dành cho tôi, và cuộc truy lùng đã bắt đầu, trong khi khoảng cách
giữa hai bên chỉ có 15 phút đường rừng.
Ngay
khi nghe tiếng súng nổ, đáng lẽ tôi phải bối rối hoảng hốt hơn, nhưng chẳng
hiểu sao, tự dưng tôi bừng tỉnh, đầu óc trở nên sáng suốt, nghĩ ra ngay một
chuyện vô cùng quan trọng: Tại sao tôi phải chạy theo con đường mòn độc đạo,
ngoằn nghèo ruột ngựa trong rừng, để rồi bị họ đuổi theo bắt lại? Nếu đó là con
đường độc đạo duy nhất cho tôi, thì nó cũng sẽ là con đường độc đạo duy nhất
cho đơn vị đuổi theo tôi. Vì vậy nếu tôi khôn ngoan, rời khỏi con đường độc đạo
đó một cách khéo léo ở bất cứ chỗ nào, thì những người đuổi theo tôi không tài
nào biết để truy đuổi. Và như vậy, họ sẽ tiếp tục lao theo con đường độc đạo để
truy đuổi vì đinh ninh đó là con đường duy nhất, tôi phải theo. May mắn hơn cho
tôi, lúc đó là trời tối, nên việc tôi rẽ khỏi đường độc đạo ở bất cứ chỗ nào là
điều quá dễ dàng, dù có để lại dấu vết đi nữa, thì trong đêm tối, những người
đuổi theo tôi cũng không tài nào phát hiện ra được… Giả dụ như trong những
người đuổi theo tôi có ai thông minh đoán được, tôi rẽ khỏi đường độc đạo, thì
họ cũng không tài nào biết chính xác, tôi rẽ về hướng nào, rời khỏi chỗ nào
trên đường độc đạo…
Nhưng
tôi nên rẽ về hướng nào? Từ đường độc đạo chạy theo hướng Đông Tây, đổ xuống
đường lộ, nếu tôi rẽ phía tay phải, là rẽ về hướng bắc, hướng đồng bằng, về thị
xã Quảng Bình và ra Miền Bắc. Nếu tôi rẽ phía tay trái, là rẽ về hướng nam, về
phía tỉnh Quảng Trị và vô Miền Nam. Trong một thoáng suy nghĩ rất nhanh, tôi
biết, những người bộ đội đuổi theo tôi đinh ninh tôi sẽ trốn về Bắc. Vì vậy,
hướng truy đuổi của họ sẽ là từ con đường mòn này đổ về phía tay phải hướng ra
Miền Bắc. Nghĩ vậy, tôi liền rời khỏi đường mòn, rẽ ngay về phía bên trái. Từ
đây, tôi nhắm hướng đường lộ, cắt rừng đi theo đường vát cạnh huyền của một tam
giác. Quả nhiên, tuy đi đường cắt trong rừng, gặp nhiều bụi cây, dây leo đủ
loại, nhưng khoảng 3 tiếng đồng hồ sau, tôi cũng đến được đường lộ xe chạy. Tuy
không biết chính xác, nhưng qua quan sát, tôi đoán, đây chính là con đường duy
nhất cắt ngang con đường ruột mèo mà đơn vị tôi vẫn thường đi, để chạy tới vùng
đồng bằng tỉnh Quảng Bình.
An
toàn chui vào một bụi rậm bên đường ngồi nghỉ, ăn chút lương khô, uống một bụng
nước suối, tôi rất mừng vì mình vừa thoát khỏi bị bắt trong đường tơ kẽ tóc.
Sau khi tỉnh táo, tôi suy nghĩ, không biết nên “quá giang” xe đi ngay khi có
dịp thuận lợi, hay tạm nằm yên trong rừng vài hôm chờ đợi tình hình yên ổn rồi
mới “quá giang” xe đi. Tôi lo ngại, nếu “quá giang” xe đi ngay, thì chiếc xe mà
tôi “quá giang” trên con đường duy nhất từ đây ra Quảng Bình, chắc chắn sẽ gặp
toán bộ đội đang truy lùng tôi vì họ cũng đang trên đường đi bộ về Quảng Bình.
Những người lính bộ đội đó có thể vẫy tay xin quá giang, và nếu người tài xế
chấp thuận, cho họ nhảy lên phía sau xe, thì tôi sẽ bị họ phát hiện và bắt sống
một cách quá dễ dàng!
Còn
nếu chịu nằm yên trong rừng vài hôm, thì tôi cũng không biết chắc những chuyện
rủi ro gì sẽ xảy ra cho tôi. Nhất là lương khô tôi giấu giếm mang theo chỉ đủ
dùng trong có một ngày, vì đề phòng đảo ngũ, mỗi người bộ đội đều không được
phép trữ lương khô, cơm nguội, muối và tiền mặt. Đó là chưa kể đến những nguy
hiểm, nếu sáng hôm sau, đơn vị cho chó truy lùng, chúng có thể đánh hơi ra
những dấu vết của tôi. Nhất là chỗ tôi đang ẩn náu, cách ngã ba đường lộ và con
đường ruột mèo không bao xa, chỉ một hai cây số là cùng…
Sau
một hồi suy nghĩ, tôi quyết định chọn giải pháp thứ ba: Không đi ngay và cũng
không ngủ lại. Chờ thêm vài tiếng đồng hồ, cho cả chục chiếc xe chạy qua, rồi tôi
sẽ “quá giang” một chiếc. Nếu những người bộ đội truy lùng tôi có quá giang xe
nào, thì họ cũng đã quá giang được những chiếc chạy trước. Còn tôi “quá giang”
xe sau, chỉ cần tôi thật cẩn thận để tránh mặt họ, khi qua mấy bến phà, các
trạm gác, và khi đến thị xã Quảng Bình, là tôi có thể an toàn đi đến Vinh. Từ
đó, tôi sẽ đáp xe lửa đêm về Hà Nội. Tôi tin chắc, những người bộ đội trong đơn
vị có được lệnh truy đuổi tôi, họ cũng chỉ đến các bến xe, bến phà ở tỉnh Quảng
Bình, đóng chốt ở đó, chờ đợi tôi đến bắt, chứ không khi nào họ dám về tới tận
Miền Bắc. Nghĩ vậy, tôi tưởng là khôn, nhưng không ngờ, mọi chuyện vẫn xảy ra
ngoài sự dự đoán của tôi….
KỲ 40
Sau
những giờ phút căng thẳng, quá mệt mỏi, tôi ngồi dựa gốc cây, ngủ thiếp lúc nào
không hay. Đến khi nghe tiếng xe gầm rú ngoài đường, tôi giật mình tỉnh dậy,
ngó đồng hồ biết đã 10 giờ khuya. Như vậy là tôi đã ngủ được khoảng hơn 2 giờ
đồng hồ. Tôi muốn nghỉ thêm một, hai tiếng nữa, nhưng không hiểu sao thấy trong
dạ bồn chồn, nôn nao khó tả, nên tôi quyết định ra đi. Để an toàn, ra đến đường
lộ, tôi không rẽ theo hướng bắc là hướng xuống đồng bằng, mà đi ngược trở lại
hướng nam. Tôi đi như vậy là vì tôi biết, nếu đi theo hướng xuống đồng bằng,
chỉ khoảng 2 cây số là tôi phải đi qua lối rẽ vô đơn vị. Trong khoảng 2 cây số
đó, nếu tôi không “quá giang” được xe, tôi phải đi tiếp theo hướng xuống đồng
bằng. Và khi đó, nếu đơn vị cử thêm
toán
khác đuổi theo tôi, tôi có nguy cơ bị phát hiện và bị bắt trở lại. Còn nếu đi
ngược trở lại theo hướng nam, khi nào gặp đoạn đường băng ngang suối, tôi sẽ ẩn
nấp trong bóng tối chờ xe tới rồi nhảy lên, thì an toàn cho tôi nhiều hơn. Đơn
vị cử người đuổi theo tôi, chắc chắn chỉ đinh ninh tôi đi từ ngã ba chân đồi
xuống phía đồng bằng, chứ không khi nào ngờ, tôi lại đi ngược vô nam cả mấy cây
số, rồi ẩn nấp trong rừng, chờ quá giang xe.
Đi
bộ không đầy một cây số, quả nhiên tôi gặp một đoạn sông chảy xiết qua mặt
đường. Thời đó, các tuyến đường đổ vô Nam đều được giữ bí mật và nguỵ trang một
cách khéo léo. Nhất là những đoạn đường xe chạy băng qua sông, qua suối, có thể
làm bằng cầu phao, bằng phà nổi, hoặc lót bằng đá, nhưng đều có điểm chung là
mặt đường bao giờ cũng thấp dưới mặt nước khoảng hơn một gang tay. Như vậy,
nhìn từ trên cao, chỉ thấy mặt nước mênh mông, mà không hề biết, dưới mặt nước
là những con đường huyết mạch, CS dùng để chuyên chở người và vũ khí xâm lăng
Miền Nam. Bên cạnh những đoạn đường qua sông, qua suối quan trọng đó, bao giờ
cũng có những đơn vị phòng không bảo vệ cầu khi cần, những đơn vị thanh niên
xung phong lúc nào cũng hô vang khẩu hiểu “tiếng hát át tiếng bom”, sẵn sàng
lao ra để xây đắp cầu phà, khi cầu phà bị trúng bom.
Vì
lúc đó là mùa nước lũ, đoạn đường chạy qua sông mà tôi dừng chân dài khoảng
400, 500 thước, nằm giữa một đầm nước rộng mênh mông. Đó chỉ là một trong số
hàng trăm đoạn đường bình thường nằm rải rác trên “đường mòn Hồ Chí Minh” nên
không hề có đơn vị nào canh gác. Mặt đường thấp hơn mặt nước khoảng hơn một
gang tay, lại làm bằng những tảng đá đủ hình, đủ kiểu xếp cạnh nhau, nên lồi
lõm vô cùng. Vì vậy, khi xe hơi chạy đến đây, bắt buộc phải chạy chậm với tốc
độ 10, 15 cây số giờ. Đó là tốc độ an toàn, cho phép tôi, trong đêm tối, có thể
âm thầm bám vào phía sau xe, rồi nhảy lên xe, mà người tài xế không hề hay biết.
Ẩn
mình trong khu rừng già cạnh bờ sông, tôi yên tâm tập luyện mấy bài thể dục
khởi động cho máu huyết lưu thông, thân thể dẻo dai, thích hợp với những hành
động hiểm nguy đòi hỏi sức lực và sự nhanh nhẹn sắp tới. Tôi hiểu, trong những
giây phút gay cấn, đôi khi chỉ vì một bắp thịt nào đó trên cơ thể bị chuột rút
bất thình lình, cũng có thể làm đảo lộn mọi chuyện đã được xếp đặt công phu,
chuẩn bị kỹ lưỡng.
Tập
luyện được khoảng mười lăm phút, tôi nghe có tiếng xe rì rì từ hướng nam vọng
tới. Tôi vội vàng xách ba lô, chạy vội ra bìa rừng, và thấy từ xa ánh đèn pha
của mấy chiếc quân xa đang chạy tới. Vì đề phòng máy bay Mỹ oanh tạc, nên đèn
pha của các chiếc quân xa thời đó đều không chiếu xa, nhưng cũng đủ để tôi nhận
ra từ xa có tất cả bốn chiếc. Để không bị tài xế của xe sau phát hiện, trong
bốn chiếc, tôi phải chọn chiếc sau cùng để “quá giang”. Chờ đợi thêm một phút
nữa quan sát thật kỹ, và sau khi chắc chắn, cả đoàn xe chỉ có đúng 4 chiếc, tôi
vội vàng chạy vội về phía bờ suối phía nam, nấp vô một bụi rậm của loại cây gì
không rõ, nhưng đầy gai và rất ngứa, chờ đợi trong hồi hộp.
Khoảng
mấy phút trôi qua, tiếng động cơ xe lớn dần, lớn dần, rồi ầm ầm, từng chiếc lao
xuống con đường chạy ngang đầm nước. Khác với những chiếc xe quân đội của Trung
Cộng, gọn nhẹ và thấp, bốn chiếc xe tôi thấy đều là loại xe của Nga, cao to,
với 3 trục 10 chiếc bánh xe cao lênh khênh. Nhảy loại xe này chắc chắn khó hơn
và nguy hiểm so với loại xe của Trung Cộng. Tôi biết vậy, nhưng thì giờ không
cho phép tôi suy nghĩ và chọn lựa. Vả lại dù tôi có chờ đợi, đã chắc gì những
chiếc xe sau sẽ là xe của Trung Cộng? Trong khoảnh khắc đang do dự băn khoăn,
thì chiếc xe thứ tư đã ầm ầm ào xuống đầm nước. Tôi không kịp suy nghĩ, vội
chạy ngay theo sau. Chiếc xe lắc lư, nghiêng ngả dữ dội, tiếng động cơ gầm rú,
tiếng mấy sợi dây xích phía sau xe đập vào thành xe ầm ĩ, tạo nên cả một rừng
âm thanh hỗn loạn, trộn lẫn với tiếng nước chảy xiết, tiếng tim đập liên hồi,
khiến tôi thêm hốt hoảng, vội vã. Bình thường, đi bộ qua lòng sông, lòng suối
là điều không khó khăn, ngay cả khi nước chạy xiết. Nhưng chạy vội vã theo một
chiếc quân xa, trong bóng tối, trong khi mặt đường đầy mấp mô, lô nhô với hàng
trăm tảng đá đủ loại, chìm trong nước, là điều không dễ dàng. Khó khăn hơn cho
tôi, tay tài xế có lẽ thuộc loại đầu gấu, nên hắn điều khiển chiếc xe chạy với
tốc độ nhanh hơn tôi tưởng.
Sau
cả chục giây chạy theo xe, vẫn không kịp, tôi tính bỏ cuộc, trởi lại bờ sông,
chờ đoàn xe khác. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy tiếng động cơ xe phía sau. Giật
mình quay lại, tôi thấy một chiếc quân xa khác, cũng đang chiếu đèn pha, thẳng
hướng lao tới. Tôi nghĩ rất nhanh, đoạn đường chạy qua đầm nước dài khoảng hơn
400 thước, không hề có chỗ nào có thể ẩn nấp. Con đường tuy mặt đường thấp hơn
mặt nước, nhưng lại cao hơn hẳn lòng sông. Nếu nhẩy xuống một trong hai bên,
tôi chỉ còn cách phải bơi, và có thể bị nước sông cuốn đi. Còn nếu chạy ngược
lại, tôi sẽ bị tài xế của chiếc quân xa sau phát hiện trước khi tôi kịp chạy
tới bờ ẩn nấp. Có thể người tài xế không có hành động gì nguy hiểm đối với tôi,
nhưng việc phát hiện ra tôi vào lúc nửa đêm chạy đi chạy lại trên đoạn đường
vắng, có thể tạo cho y sự nghi ngờ, và biết đâu sự nghi ngờ đó sẽ gây bất lợi
cho tôi sau này. Nghĩ vậy, tôi thấy chỉ còn cách duy nhất là phải đuổi kịp
chiếc xe trước để “quá giang”… và tôi phải leo lên chiếc xe đó trót lọt, trước
khi chiếc xe sau đuổi kịp, để viên tài xế xe sau không kịp nhìn thấy tôi “quá
giang lậu”.
Trong
tích tắc đầy nguy hiểm đó, tự dưng tôi thấy trong người như có một luồng sức
mạnh mới. Tôi điên cuồng lao về phía trước với tất cả sức mạnh và sự liều lĩnh
của mình… Nói thì lâu, nhưng sự việc diễn ra trong chớp nhoáng, và trong khoảnh
khắc không đầy mười giây đồng hồ sau đó, tôi bắt kịp chiếc xe. Việc đầu tiên
tôi phải làm là ném mạnh chiếc ba lô vô trong thùng xe cho thân thể nhẹ nhàng
và rảnh tay leo trèo. Ném xong chiếc ba lô, tôi vươn tay phải nắm chặt ô sắt
vuông trên thành xe bên trái; rồi bàn tay trái của tôi cũng vội vã nắm chặt lấy
ô sắt vuông đó. Cả hai ô sắt vuông, một bên trái, và một bên phải trên thành
xe, có tác dụng khi thành xe hạ xuống, sẽ trở thành hai bậc thang ở hai bên để
người lính đạp vô, leo lên xe dễ dàng.
Khi
đã nắm được ô sắt vuông, tôi vội kéo mạnh hai cánh tay, khiến cả người tôi lơ
lửng, hai chân tôi đạp loạn xạ, muốn tìm một điểm tựa, mà tôi biết phải có đâu
đó ở phía dưới đằng sau xe, nhưng đạp mãi tôi vẫn không thấy. Chiếc xe vẫn vừa
lao đi, vừa nghiêng ngửa một cách dữ dội, làm cho thân thể của tôi thêm nặng nề
khi đung đưa hết trái sang phải, hết phải sang trái; gân cốt, bắp thịt của tôi
bị kéo căng, cổ tôi bị khô ran; hai bàn tay của tôi càng ngày càng nóng rát,
mười ngón tay của tôi mỏi dần, mỏi dần… vì kiệt sức, trong khi mồ hôi của tôi
toát ra đầm đìa. Tôi hoảng hốt nhận ra, cứ đà này, trong mươi giây nữa, mười
ngón tay của tôi sẽ hết chịu đựng nổi, tôi sẽ phải buông tay, thả người rơi
khỏi thành xe và sẽ bị nước sông cuốn trôi. Giữa lúc thập phần nguy hiểm đó,
không hiểu trời xui đất khiến làm sao, chiếc xe bỗng lồng lộn, nghiêng ngả mấy
cái liền, trước khi nghiêng hẳn về bên trái, rồi đứng khựng lại. Tiếp theo là
tiếng xe sang số, tiếng gầm rú của động cơ… chiếc xe chồm tới rồi lùi lại… Thì
ra sau khi gặp phải liên tục mấy ổ gà, cuối cùng, bánh sau của chiếc xe đã lọt
vô một “ổ trâu, ổ bò” nào đó, khá lớn trên mặt đường, nên phải dừng lại. Trong
tích tắc phù du nhưng vô cùng may mắn đó, tôi dùng hết sức bình sinh, rút vội
hai cánh tay, kéo cả thân mình lên cao, rồi tôi đưa vội chân phải quặp lấy
thành của chiếc bẩm sau. Cuối cùng, tôi dùng tay đẩy mạnh cùng với chân phải
hết sức kéo vô trong, khiến cả người tôi lật nghiêng, rơi gọn vào bên trong
chiếc quân xa. Ngay lúc ấy, chiếc xe cũng rú lên lần cuối, leo khỏi hốc đá, lao
thẳng về phía trước…
Tôi
nằm yên thở dốc như con cá mắc cạn. Vừa kinh hoàng sau giây phút nguy hiểm
thoát chết, vừa bàng hoàng trước sự may mắn bất ngờ mà tôi tin là phải có bề
trên phù hộ. Tôi vô cùng ngạc nhiên, sung sướng và tự tin vào vận mệnh của mình
trên những chặng đường nguy hiểm trước mắt.
Sau
này, trên đường vượt ngục, vượt biên, tôi còn gặp phải nhiều nguy hiểm và thoát
chết trong đường tơ kẽ tóc, như khi bị hai công an áo vàng rượt đuổi và bắn
ngay giữa buổi trưa, trên đường phố Huế, mà chạy thoát; hay khi bị lính biên
phòng bắn, phải chạy bán sống bán chết vô giữa một bãi chông thép ngay bên bờ
sông Ca Long, biên giới Việt Trung, vào một buổi chiều đầu tháng 10 năm 1978,
mà không dẵm phải chiếc chông nào…. Mỗi khi, trải qua những hiểm nguy đó, tôi
càng thêm tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng của đấng tối cao và sẵn sàng
trao gửi tính mệnh của tôi cho niềm tin tôi theo đuổi.
Chiếc
xe tôi “quá giang” là một loại quân xa của Nga, phía sau trống trơn, không có
mái, không có băng ghế, cũng như bất cứ thứ đồ đạc gì. Trời lúc ấy lại lất phất
mưa và trở lạnh. Tôi lấy mảnh nylon trong ba lô trùm kín đầu và người, rồi ôm
chiếc ba lô trong lòng, ngồi gọn trong góc xe, cố chống lại cơn buồn ngủ đang
bủa vây. Tôi biết, lúc đó nếu tôi ngủ quên, chẳng may xe ngừng lại vì bất cứ lý
do gì, tôi sẽ không biết, và khi đó chuyện “quá giang lậu” của tôi sẽ bị phát
hiện dễ dàng. Nguy hiểm thứ hai, trên đoạn đường duy nhất từ đây xuống đồng
bằng dài gần 5 tiếng đồng hồ, nếu chẳng may, gặp toán bộ đội truy đuổi tôi xin
quá giang, và tài xế đồng ý, tôi sẽ dễ dàng bị phát hiện và bị bắt lại. Trong
trường hợp đó, ngay cả khi tỉnh thức, tôi cũng chưa biết phải làm gì để thoát
thân, huống chi tôi ngủ quên. Trước đó, tôi đoán, trong thời gian 2 tiếng đồng
hồ tôi ngủ ở trong rừng, toán bộ đội truy đuổi tôi có thể đã quá giang một
chiếc xe nào đó. Nhưng thận trọng, tôi vẫn phải cố gắng tìm đủ mọi cách tính
toán, để đối phó nếu tình thế như vậy xảy ra. Sau một hồi suy nghĩ, tôi thấy
nếu tài xế chấp nhận dừng xe cho những người bộ đội truy đuổi tôi được quá
giang, tôi chỉ có cách liều mạng, lợi dụng lúc trời tối, nhanh chóng và nhẹ
nhàng nhảy ngay khỏi xe, chuồn vào rừng, trước khi toán bộ đội leo lên xe. Muốn
làm được điều này, tôi phải luôn luôn tỉnh thức, bí mật quan sát đoạn đường
trước mặt, để kịp thời phát hiện toán bộ đội truy đuổi tôi và thái độ của người
tài xế có chấp nhận cho họ quá giang hay không. Có vậy, tôi mới kịp đối phó để
thoát thân.
Quả
nhiên, điều tôi lo ngại đã xảy ra. Xe chạy được khoảng hai mươi phút, bỗng dưng
tôi thấy phía trước có một toán bộ đội khoảng sáu, bảy người đi bộ cùng chiều
xe chạy. Tất cả đều trang bị súng ống đầy đủ. Linh tính báo cho tôi biết, đó
chính là toán bộ đội cùng đại đội, đang truy đuổi tôi. Khi xe chạy đến gần, có
một người bộ đội quay lại, tay cầm chiếc nón cối vẫy vẫy, xin quá giang xe. Còn
5 người bộ đội kia, không hiểu vì lý do gì, vẫn lầm lũi đi, không mảy may đoái
hoài đến việc vẫy xe xin quá giang. Tuy khoảng cách còn xa, ánh đèn pha chập
choạng, nhưng tôi nhận ra ngay đó là Th., một người cùng tiểu đội với tôi, gốc
Hải Phòng. Tôi hồi hộp và hoảng hốt vô cùng. Ngay khi đó, người tài xế sang số,
chiếc xe chạy chậm lại, và tôi kinh hoàng thấy buốt nhói trong tim khi linh
tính báo cho tôi biết, người tài xế đang có ý muốn dừng xe cho toán bộ đội quá
giang…. Trong lúc tôi đang bối rối, hoảng hốt, chưa biết làm thế nào, thì đột
nhiên, trong đám 5 người bộ đội đang lầm lũi đi, có một người quay lại, dơ cao
nắm đấm dứ dứ về phía chiếc xe, miệng lẩm bẩm gì đó, nét mặt rất hung dữ. Trong
ánh đèn pha, tôi nhận ra ngay đó là Q., người Nùng thiểu số, là tiểu đội trưởng
tiểu đội của tôi!
Có
lẽ nhìn thấy quả đấm và thái độ không mấy thân thiện của Q., và đám bộ đội đông
tới năm, sáu người, ai cũng trang bị đầy đủ súng ống, nên người tài xế đột
nhiên đổi ý, sang số, nhấn ga, và chiếc xe rú ga, rùng rùng lao tới trước, để
lại phía sau tiếng la ó, chửi bới không ngớt…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét