Lý Quí Chung (1940-2005), bút danh Chánh Trinh, là một nhà báo, và cũng là một
dân biểu và nghị sĩ đối lập dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông từng
giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại 2 ngày của Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa cuối cùng Dương Văn Minh. Ông mất ngày 3.3.2005 tại Sài
Gòn.
Thân thế
Ông sinh năm 1940 tại Mỹ Tho (Tiền Giang), nhưng hầu hết thời thơ ấu của ông
theo gia đình về Biên Hòa ở từ 3 đến 12 tuổi (1943 - 1952), nơi cha ông làm
công chức cho cơ quan hành chánh tỉnh.
Giống như cha mình ông
rất yêu chuộng thể thao. Mẹ ông đặt nhiều hy vọng vào tương lai của ông, nên
sau khi ông học được 2 năm trường Việt, được chuyển sang trường Pháp học. Không
hài lòng với trường này sau 2 năm học bà cho ông lên học nội trú trường Chasseloup
Laubat tại Sài Gòn bắt đầu niên học 1951-1952, lớp 8ème (nay là lớp 5). Năm
1954 sau Hiệp định Genève, trường Albert Sarraut từ Hà Nội chuyển vào Sài Gòn
sát nhập vào trường Chasseloup Laubat. Để có đủ lớp học cho học sinh từ Hà Nội
vào, trường hủy bỏ chế độ nội trú, mẹ ông chuyển ông lên Đà Lạt vào học nội trú
tiếp lại trường Lycée Yersin. Sau khi lấy tú tài I tại đây, năm 1959 ông trở về
học tại trường Chasseloup Laubat, lúc bấy giờ đã đổi tên thành trường Jean
Jacques Rousseau (bây giờ là trường Lê Quý Đôn), để lấy tú tài II ban Triết.
Sau khi tốt nghiệp trung học ông thi
tuyển vào Học viện Quốc gia Hành chánh, học khóa 10 (1963), khóa cuối cùng do
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm chủ tọa lễ khai giảng. Tuy nhiên,
ông cảm thấy mình không thích hợp với ngành này cho lắm, và thường bỏ học la cà
ở một số tòa soạn các tờ báo, nơi mà ông có viết bài cộng tác. Trong hai năm
cuối trung học, ông đã có bài đăng trên báo thể thao Đuốc Thiêng, bắt đầu từ
các bài dịch từ các báo và các tạp chí Pháp. Cũng vì mê say làm báo mà ông đã
bị ở lại lớp năm đầu, rồi bỏ học luôn.
Bắt đầu từ những bài
báo về thể thao, từ môi trường báo chí, Chung được tiếp cận với đời sống chính
trị Sài Gòn, ông đã đi vào con đường hoạt động chính trị, vì " bức xúc
trước những bất công, những việc làm phi dân chủ, độc tài của chính quyền Sài
Gòn. Rồi phẫn nộ trước sự can thiệp thô bạo của chính quyền Mỹ vào nội bộ của
Việt Nam và sự áp đặt các ý muốn và quyền lợi của họ lên đất nước Việt
Nam."
Theo nghiệp báo chí
Khởi đầu từ tờ
"Đuốc Thiêng", ông được ông Thiệu Võ, chủ nhiệm tờ báo kiêm phụ trách
trang thể thao của tờ "Tiếng Dội Miền Nam", mời vào tờ báo sau làm
việc. Sau đó khi được 21 tuổi, ông được ông Phan Như Mỹ rủ về cùng phụ trách
phần thể thao cho tờ báo Buổi Sáng. Ông cũng được ông Mỹ giới thiệu viết bài cho
tờ báo tiếng Pháp “Journal d’ Extrême Orient”. Nhưng chính tại tờ Thanh Việt
của ông Tô Yến Châu mới là ông khởi đầu học nghề phóng viên. Sau cuộcđảo chánh
ngày 1 tháng 11 năm 1963, khi được phép xuất bản tờ Bình Minh, ông bầu Ứng kéo
cả ê kíp Thanh Việt về làm. Đây là lần đầu tiên ông ăn lương phóng viên và hành
nghề phóng viên đúng nghĩa.
Sau khi Thượng Hội đồng
Quốc gia chỉ định ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng vào ngày 29 tháng 10 năm
1964, ông được cha ông khuyến khích xin ra tờ Sài Gòn Tân Văn. Mặc dù chưa đủ
tuổi (25), ông (24) vẫn được cấp giấy phép. Tiền làm tờ báo, là do cha ông,
nhưng có lẽ do nhiều bạn bè của cha ông trong Hội Liên trường góp lại, một tổ
chức chính trị trá hình của một số trí thức miền Nam dựa vào lá bài Trần Văn
Hương. Nhưng tờ này chỉ tồn tại 4 tháng, lâu hơn chính phủ của Trần Văn Hương
một tháng.
Sau khi tờ Sài Gòn Tân
Văn bị đóng cửa, ông trở lại làm tổng thư ký tòa soạn cho tờ Bình Minh của ông
Võ Văn Ứng, lúc này tờ báo không còn ra hàng ngày nữa mà chỉ ra hàng tuần.
Vào năm 1965 khi đang
làm cho tờ Bình Minh, Chung có viết loạt bài vận động sự thành lập một đại học
ở miền Tây. Kỹ sư Võ Long Triều, người tự đứng ra phối hợp các cuộc vận động,
mời ông nhập nhóm và tham gia các cuộc hội thảo tổ chức ở Cần Thơ để gây áp lực
với chính quyền. Khi Thủ tướng Kỳ (lúc đó đang muốn lôi kéo trí thức miền Nam)
mời Võ Long Triều vào nội các của mình với tư cách Bộ trưởng Thanh niên, thì
Chung được Triều cho làm giám đốc Nha tác động tâm lý. Nhờ vậy mà Chung lúc đó
đang trốn quân dịch, được cấp giấy tạm hoãn 4 tháng.
Nhờ tham dự vào liên
danh của Võ Long Triều, lúc đó vừa là người đứng đầu một tập hợp chính trị có
tên Phong trào Phục hưng Miền Nam (PTPHMN) trong cuộc bầu cử quốc hội lập hiến
năm 1966, Chung trở thành dân biểu quốc hội lúc mới tròn 26 tuổi (một trong 7
người thuộc liên danh này). Ông tiếp tục làm dân biểu 3 nhiệm kỳ liên tiếp:
1966-1967, 1967-1971 và 1971-1975 cho tới ngày đất nước thống nhất. Sau đó nhờ
sự tiếp tay của dân biểu Phan Xuân Huy, đơn vị Đà Nẵng, ông được bầu làm trưởng
khối Dân tộc, gồm 3 thành phần: các dân biểu Phục hưng miền Nam, các dân biểu
Phật giáo và một số dân biểu độc lập. Khối Dân tộc trở thành khối dân biểu đối
lập đầu tiên trong quốc hội Sài Gòn, do lập trường chống chính quyền quân sự và
chống chiến tranh.
Tác phẩm
Hồi ký không tên[2] Nhà
xuất bản Trẻ,
Nhận định
"Dù tờ báo Sài Gòn
Tân Văn không phải là một thành công nghề nghiệp đối với tôi, nhưng mặt nào đó,
tờ báo đã cung cấp cho tôi một “mảnh đất” đầu tiên hết sức quí giá để đi sâu
vào cái nghề mà chỉ có thực tiễn mới dạy cho mình những bài học sâu sắc nhất.
Mặt khác, tờ Sài Gòn Tân Văn cũng chỉ ra cho tôi thực tế đầu tiên gắn báo chí
với đấu tranh xã hội và dân chủ. Từ tờ báo Sài Gòn Tân Văn cho đến mãi sau này,
tôi luôn coi nghề báo không thể tách rời các cuộc đấu tranh cải tiến xã hội,
bảo vệ dân chủ và lẽ phải. Một nhà báo dứt khoát phải là một trí thức dấn
thân."
Với ngần ấy vị trí, ông
là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy chính quyền Sài Gòn
do Mỹ dựng lên. Từ góc nhìn của ông, những sự kiện, biến động chính trị - xã
hội, cũng như một số góc khuất trong chính trường Sài Gòn từ 1965 đến 1975 được
phản ánh sinh động trong quyển hồi ký này. Và nhất là, ông đã cho người ta được
hiểu thêm những đóng góp khác nhau của nhiều người Việt yêu nước cho ngày toàn
thắng.
Hồi ký là một góc nhìn,
một góc nhớ của một người, cho nên nếu có những phân tích, đánh giá mang tính
chủ quan thì cũng là điều có thể chấp nhận của một thể loại. Với hồi ký liên quan
đến lịch sử thì cũng thế, dù không phải là biên niên sử các sự kiện mà người
viết được chứng kiến, thì điều quan trọng nhất vẫn là tôn trọng đúng dòng chảy
lịch sử chung của cả dân tộc. Còn những cái nhớ, cái ghi về những chi tiết,
quan hệ riêng tư, sau 30 năm còn lại bao nhiêu, chính xác li ti đến mức nào,
xét cho cùng cũng là việc mà người đọc nên “rộng rãi” khi đọc.
Nhà xuất bản Trẻ xin
trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà Nghiên Cứu TRẦN
BẠCH ĐẰNG ĐỌC HỒI KÝ LÝ QUÝ CHUNG
Tên tuổi Lý Quí Chung
không xa lạ gì với giới trí thức TP. HCM và miền Nam, bây giờ càng gần gũi hơn
với những người hâm mộ bóng đá qua các bài viết mà anh ký tên Chánh Trinh.
Vào tuổi 64, anh viết
hồi ký - Hồi ký không tên. “Không tên” nhưng vẫn “có tên” bởi mọi hồi ký đều do
một người, một nhóm người nhớ lại và ghi chép những gì mà đời mình đã trải qua,
đương nhiên kèm theo suy nghĩ về thế sự, nhân tình và, không loại trừ, tâm sự.
Tập hồi ký có mặt rất nhiều tên mà tôi hiểu tác giả chọn tên cho tập hồi ký này
đã hàm ý khái quát “số thành” của những cái tên được thể hiện trong dòng chảy
của năm tháng, những cái tên hóa thân vào sự kiện – mà không ít sự kiện nằm
trong một quá trình chuyển động dữ dội của Sài Gòn và miền Nam, của Việt Nam –
đặc biệt 15 năm (1960-1975) đất nước ta đối mặt với Mỹ, đối mặt trên chính
trường, trên chiến trường. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả và Nhà xuất bản đề
nghị tôi viết lời giới thiệu tập hồi ký này, bởi hầu hết sự kiện cùng nhân vật
được nhắc trong hồi ký, bản thân tôi có biết, có tiếp xúc, thậm chí, về sự
kiện, có chịu trách nhiệm với cương vị - trong thời gian ấy – người phụ trách
phong trào cách mạng Thành phố Sài Gòn. Cho nên, những gì anh Lý Quí Chung kể
lại, ít nhiều tôi hiểu – hiểu cả phần chiều sâu. Tuy nhiên, đọc lại hồi ký, tôi
vẫn cảm ơn tác giả đã hệ thống, không theo logic hình thức mà bằng “chuỗi” diễn
tiến của tình thế và tác giả giúp tôi nhớ lại quá khứ chưa xa lắm song chưa
phải người trong cuộc nào cũng đánh giá chính xác. Giá trị lớn nhất của hồi ký
là tác giả “kể chuyện” một cách giản dị, rõ ràng, “lớp lang”, dù chỉ thông qua
thực tế thu hẹp liên quan đến cá nhân mình. Có thể còn một số điều cần trao đổi
thêm với tác giả, chủ yếu chung quanh hiện tượng và bản chất của một số sự
kiện, song đó là thu nhận của tác giả trong một thân phận cụ thể - Lý Quí Chung
không thuộc một gia đình truyền thống cách mạng, hay có chân trong đội ngũ quần
chúng trỗi dậy từ Cách mạng Tháng Tám, hay nằm trong tầng lớp bị áp bức bóc lột
thậm tệ, càng không phải là… “một Việt Cộng nằm vùng”. Anh “đại diện”- nếu hiểu
chữ “đại diện” theo nghĩa chẳng do ai bầu mà là sự đương nhiên – cho lớp trung
gian của xã hội, “trung gian” cả về kinh tế lẫn chính trị.
Lý Quí Chung sinh năm
1940. Anh vào đời đúng lúc đất nước ta vừa dứt được ách đô hộ của Pháp, đang
đứng trước sự đe dọa của đô hộ Mỹ. Anh Chung, trong tuổi sinh viên, tiếp cận
với những năm cuối cùng của chế độ Ngô Đình Diệm và trải dài suốt cuộc chiến
tranh khốc liệt vào bậc nhất của Việt Nam, cho đến tận ngày 30-4-1945. Độ dài
của hiện thực chiến tranh tuy gói gọn ở anh Chung có 15 năm, song lại đúng vào
lúc lịch sử đặc quánh những nội hàm rất tiêu biểu.
Trước đây, tôi chưa gặp
anh, song đã biết tiếng anh trong hai trường hợp mà tận bây giờ tôi vẫn còn
nhớ. Trường hợp thứ nhất, tôi đọc trên báo Tiếng Dội bài của nhà báo vốn rất
quen thuộc với tôi là Trần Tấn Quốc – người được giới báo chí Sài Gòn vào những
năm 60 suy tôn là “đại trưởng lão” trong làng báo – viết một bài nói về các nhà
báo trẻ ở Sài Gòn, đặc biệt đánh giá cao Lý Quí Chung, khi ấy Lý Quí Chung ký
tên là Nguyễn Lý. Ông Quốc viết, đại ý: Làng báo Sài Gòn xuất hiện nhiều cây
viết tài năng và ông cảm thấy mình khó sánh kịp, bởi “cái bóng đồ sộ của Nguyễn
Lý” – tôi nhớ câu này và chữ “cái bóng đồ sộ” theo cách nhìn của ông. Tôi biết
Trần Tấn Quốc khi ông còn mang trên Trần Chí Thành, từng hoạt động cộng sản lâu
năm, bị tù Côn Đảo, một nhà báo trí thức khá kiêu kỳ đã đánh giá Lý Quí Chung
như thế và điều đó khiến tôi suy nghĩ. Trường hợp thứ hai, trên báo Tiếng Nói
Dân Tộc, Lý Quí Chung có viết một bài xã luận nói về Quốc hội Sài Gòn, anh là
dân biểu: Rất xấu hổ khi làm “cây kiểng” cho chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Tất nhiên, tôi còn đọc
những tờ báo mà Lý Quí Chung hoặc cộng tác hoặc làm chủ bút, tôi đọc khá nhiều.
Bấy giờ, tức vào những năm 60 và đầu những năm 70, báo chí Sài Gòn khá nổi bật
trong đấu tranh chống Mỹ và chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều tờ báo đăng bài của
các dân biểu đối lập, nhất là nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh,
Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Binh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan… Báo chí đối lập
là hiện tượng độc đáo của Sài Gòn trong suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chỉ nói
báo chí công khai, trong khi báo chí nửa công khai, nhất là của sinh viên, học
sinh và các hội đoàn, thì gần như “tràn ngập lãnh thổ”. Những tờ báo do các dân
biểu đối lập “chịu trận” quy tụ rất đông số trí thức có tinh thần dân tộc. Lý
Quí Chung có mặt trên các bài xã luận với phong cách riêng. Anh không “dữ dội”
như Nguyễn Ngọc Lan – khi Nguyễn Văn Thiệu phản đối khẩu hiệu chống Mỹ cứu nước
của Mặt trận Giải phóng, Nguyễn Ngọc Lan bấy giờ còn là linh mục, đã “hiến kế”
cho tổng thống, đảo ngược khẩu hiệu của Mặt trận Giải phóng thành “chống nước,
cứu Mỹ” – cũng không mang tính chất nghiên cứu như linh mục Trương Bá Cần về
thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cũng không “chua” và “sát rạt”
như Tư Trời Biển (Ngô Công Đức). Anh Chung nhạy bén ở khía cạnh thời sự.
Sau ngày đất nước thống
nhất, tôi gặp anh Lý Quí Chung thường hơn, và gần đây, gặp trong một vài cuộc
hội thảo về bóng đá. Do vậy, ở một chừng mực nào, tôi hiểu anh. Anh đã sống
dưới chế độ cách mạng ngót 30 năm, dài hơn thời gian chạm mặt với chế độ cũ,
nếu tính chỗ xuất phát từ một Lý Quí Chung 20 tuổi. Không có gì đặc biệt khi
trong tập hồi ký hoặc nói thẳng hoặc ẩn chứa ưu tư của một trí thức trước thời
cuộc, song Lý Quí Chung hướng về phía trước, hướng về những khám phá, hướng về
nghĩa vụ. Tôi cho rằng tập hồi ký là nỗ lực của Lý Quí Chung để tự hiểu mình,
tự đặt mình trong vận nước và, thật đáng quý, tự vượt qua chính mình. Ở cái
tuổi 64, cái “ngộ” ấy chắc chưa viên mãn, song nó là cái nền cho một hồi ký
khác – tôi hy vọng sẽ viên mãn hơn.
Thật ra, giới lớp trí
thức Sài Gòn như Lý Quí Chung, “phơi phới sống với chế độ mới” là chuyện không
thể có, tức không thể đòi hỏi. Rồi đây độc giả sẽ còn đọc nhiều hồi ký nữa của
nhiều nhân vật có mặt lúc này lúc khác giữa lòng Sài Gòn. Những tư liệu ấy –
nếu được đọc với sự phê phán và lòng bao dung – sẽ thêm cho pho sử hiện đại
nước ta các khía cạnh không phải là không thú vị.
Cách mạng Việt Nam đa
dạng. Góp vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống
hiến của Lý Quí Chung.
Với xác tín như thế,
tôi giới thiệu Hồi ký không tên của Lý Quí Chung.
8-2004
T.B.Đ
LỜI NÓI ĐẦU
Hồi ký này ghi lại
những sự kiện và những tháng ngày đáng nhớ trong cuộc đời tôi – chủ yếu từ năm
1963 đến năm 1975 (phần hai từ 1975 đến 2004 được tóm lược). Tôi cố gắng tìm
một cái tên đặt cho hồi ký này. Nhưng nghĩ mãi không ra. Hồi ký cũng là cuộc
đời của mình. Đặt tên cho cuộc đời mình, điều ấy quả thật không dễ dàng. Cho
nên tôi xin phép không đặt tên vậy!
Người Việt Nam chúng ta
rất thích kể chuyện và nghe kể chuyện. Lâu ngày gặp nhau thường hay hỏi: “Có gì
nghe kể không?”. Tôi cũng là một trong số ấy. Cuộc đời tôi chẳng làm được
chuyện gì “đại sự”, nhưng 40 năm làm báo và có tham dự vào một số sự kiện đất
nước có lẽ cũng có nhiều điều để kể.
Thật ra mỗi cuộc đời là
một thế giới riêng, là một cuốn tiểu thuyết đầy những tình tiết hấp dẫn. Không
hẳn phải là bậc danh nhân hay những con người có cuộc sống lẫy lừng mới có
chuyện kể về đời mình.
Tôi không có tham vọng
viết lại lịch sử miền Nam Việt Nam trước 1975. Khoảng thời gian tôi lớn lên và
hoạt động tại Sài Gòn, từ thập niên 60 cho đến khi kết thúc chiến tranh (tháng
Tư 1975) là một thời kỳ đầy biến động phức tạp. Miền Nam là một bức tranh có đủ
màu sắc, từ sáng đến tối, màu này chồng lên màu kia, sự kiện này che lấp sự
kiện kia, chi tiết này chen lẫn chi tiết nọ. Thật không dễ dàng nắm hết “cái
thần” của bức tranh ấy nếu chúng ta chỉ có một cái nhìn đơn giản. Những chuyện
kể của tôi xuất phát từ chỗ đứng và sự cảm nhận của riêng cá nhân tôi do đó
chắc chắn không tránh khỏi sự hạn chế. Nếu những điều tôi ghi lại trọng “Hồi
ký” này có thể giúp người đọc hiểu rõ thêm về một số sự kiện xảy ra tại miền
Nam trước 1975 thì đó là hơn sự mong mỏi của tôi. Còn nếu có điều chi thiếu
chính xác, tôi rất mong nhận được những phản hồi và góp ý.
Đây chỉ là chuyện kể
của một người, nhớ đến đâu kể đến đó.
Tôi sinh năm 1940 tại
Mỹ Tho (Tiền Giang) nhưng chỉ ở đấy đến năm 3 tuổi thì cùng gia đình đến sống
tại Biên Hòa (Đồng Nai). Cha tôi làm công chức, do có mâu thuẫn với tỉnh trưởng
Mỹ Tho, nên có lệnh đổi lên Bà Rá. Thời Pháp, địa danh này ở miền Đông dành để
“lưu đày” các công chức vô kỷ luật. Trên đường di chuyển lên Bà Rá ngang qua
Biên Hòa, cha tôi được viên tỉnh trưởng ở đây giữ lại do được đánh giá là một
công chức có trình độ (cha tôi học Collège Mỹ Tho, đậu Diplôme và rất giỏi
tiếng Pháp).
Tuổi thơ của tôi ở Biên
Hòa – từ 3 đến 12 tuổi (1943 - 1952)- trải qua khá êm đềm mặc dù đây là một
giai đoạn đầy biến động của đất nước. Sự kiện lịch sử Pháp theo chân quân đội
Anh đánh chiếm lại các tỉnh miền Đông để lại trong ký ức của tôi – hồi đó mới 5
tuổi – những hình ảnh tuy không rõ ràng và lớp lang, nhưng được giữ lại mãi cho
đến sau này. Tôi còn nhớ không khí chuẩn bị rộn ràng, không hề sợ hãi, của
người dân Biên Hòa cùng với lực lượng Việt Minh nhằm chống lại sự tấn công của
quân Pháp. Lần đầu tôi được thấy cây tầm vông vạt nhọn, vũ khí tiêu biểu cho
những ngày đầu kháng chiến chống Pháp tại miền Nam. Tôi cũng tham gia lần đầu
tiên và là lần duy nhất cắt dán những lá cờ đỏ sao vàng dùng gắn trên ngực cho
thanh thiếu niên trong khu phố của tôi. Lá cờ đỏ sao vàng in một dấu ấn đậm nét
trong ký ức tuổi thơ của tôi mặc dù tôi không hiểu ý nghĩa chính trị của nó vào
thời điểm ấy. Nhưng cái không khí chung quanh dành cho lá cờ đỏ sao vàng đủ
khiến cho thằng bé con trong tôi cảm nhận được lá cờ tượng trưng cho một điều
gì đó hết sức đặc biệt đối với mọi người. Tôi không nhỡ rõ lúc đó cha tôi làm
gì và ở đâu (trước đó ông vẫn là công chức ở tỉnh) nhưng tôi lại nhớ mình không
hề bị cha ngăn cản làm theo những người lớn tham gia Việt Minh…
Khi những người kháng
chiến ở thành phố Biên Hòa không thể ngăn trở người Pháp theo chân quân đội Anh
tái chiến tỉnh nhà, nhiều người đã phải “chạy giặc”, tức là rời thành phố chạy
về các vùng nông thôn để tránh quân Pháp và Anh. Mẹ tôi đưa tôi và em gái tôi
mới một tuổi “chạy” khỏi thành phố Biên Hòa trên một chiếc ghe chài chất đầy
các thứ vật dụng giường, tủ, bàn, ghế, mùng mền như dọn nhà. Ghe đi đến đâu
cũng thu hút sự tò mò của người dân sống dọc hai bên sông. Họ đổ xô ra xem.
Chiếc ghe khá to thả xuôi theo con sông Đồng Nai không biết đi đến đâu. Mẹ tôi
lúc ấy mới 23 tuổi (mẹ sinh tôi lúc 17 tuổi), ăn mặc theo thị thành, đẹp một
cách đài các, đứng một mình trên ghe ngơ ngác, tay bồng em gái tôi. Cảnh ấy
không khác gì một bức tranh siêu thực! Cha tôi không “tản cư” cùng với vợ và
các con vì hướng tản cư đi sâu vào vùng Việt Minh kiểm soát. Cái gốc công chức
làm cho chính quyền do Pháp cai trị khiến ông lo ngại. Ông ở lại thành phố, lẩn
trong giới người Hoa mà ông quen biết.
Khi ghe đi qua làng Tân
Vạn, một bà chủ lò lu giàu có tại đây thương cảm tình cảnh của mẹ tôi với hai
đứa con nhỏ đã gọi ghe lại và cho gia đình tôi tá túc trong cơ sở lò lu của bà.
Căn nhà xưa của bà tọa lạc giữa một khu đất rộng lớn, bốn bề bao bọc bởi một
hàng rào cao khoảng hơn hai mét được dựng lên với những cái lu bị thải ra vì
kém chất lượng hoặc nứt bể. Bà cho mẹ tôi ở một căn nhà nhỏ nằm một góc khu đất
gần hàng rào, khá sáng sủa. Tình cảnh một người phụ nữ đẹp, không có mặt chồng,
ở một mình với hai đứa con không thể không gây chú ý nhiều người trong làng. Có
một nhân vật thế lực ở địa phương thường rón rén đến sát hàng rào nhìn trộm mẹ
tôi qua những lỗ hở của những cái lu bể. Tôi là người phát hiện đầu tiên chuyện
đó và liền chạy đi “mét” mẹ tôi. Chính bà chủ lò lu cho người lấp các lỗ hở
trên hàng rào. Lò lu (nơi để lu vào nung) đối với tuổi thơ của tôi quả là một
cái hang khổng lồ. Nó không khác hang động của 40 tên cướp trong truyện thần
thoại Alibaba. Mỗi khi có máy bay của Tây đến dội bom, mọi người đều chạy vào
núp trong hầm lò. Gia đình tôi luôn nhớ ơn lòng tốt của bà chủ lò ở Tân Vạn.
Khi Pháp tái lập lại
guồng máy cầm quyền đô hộ của họ tại Biên Hòa, ông tỉnh trưởng cũ thuyết phục
cha tôi trở lại làm việc ở tòa bố (tòa hành chánh của tỉnh). Về giai đoạn ấy,
sau này hình như cha tôi có giải thích không rõ ràng lắm, đại khái như: “Làm
công chức gần như là cái nghề của ba”.
Dù ông làm công chức
cho Pháp rồi lần lượt cho các chính quyền Sài Gòn trong gần suốt đời ông, nhưng
cứ mỗi khi nói về kháng chiến, về một số bạn bè của ông thời học trường Collège
Mỹ Tho đã đi theo cách mạng, ông luôn tỏ ra kính trọng và hãnh diện. Mãi khi
tôi đã lớn, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe cha tôi nhắc về họ.
Tôi không hề có ý định
vẽ lại một chân dung khác của cha tôi mà cuộc đời làm công chức đã gắn liền với
guồng máy cai trị Sài Gòn thời Pháp cho đến các chính quyền do Mỹ dựng lên sau
này. Ông đã từng làm quận trưởng, phó tỉnh trưởng hành chánh ở nhiều tỉnh, quận
(Thủ Đức, Long Thành thuộc tỉnh Biên Hòa, Tiểu Cần thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc
Trăng, Củ Chi, Tân Uyên…) và sau cùng làm phó đô trưởng hành chánh Sài Gòn
(1970-1972); nhưng ông vẫn là một công chức thuần túy, chưa bao giờ tham gia
chính trị như một chính khách. Thời Ngô Đình Diệm ông không vào đảng Cần Lao,
thời Nguyễn Văn Thiệu, ông từ chối gia nhập đảng Dân Chủ để củng cố địa vị của
mình. Ngay từ nhỏ, tôi đã nghe ông hơn một lần nói:
“Không phải ai cũng có
thể chọn con đường đi của mình. Đôi khi hoàn cảnh đặt mình ở bên này hay bên
kia. Nhưng cái chính là dù ở đâu, mình cũng ráng lo cho dân là tốt rồi”. Tất
nhiên một suy nghĩ như thế là gần như phi chính trị; nhưng cha tôi tin thật
lòng mình điều ông nghĩ và ông cố gắng hành động như ông quan niệm.
Thế nhưng chính cái
quan niệm phi chính trị ấy của cha tôi đã sớm gieo vào đầu tôi một ý thức nào
đó về trách nhiệm công dân, một cuộc sống không thể thờ ơ với những gì xảy ra
chung quanh mình. Bởi nghĩ cho cùng, cách giải thích và biện minh của cha tôi
về “hoàn cảnh” của ông, cũng là sự trăn trở của một người trí thức có lòng yêu
nước, nhưng thật sự không “yên tâm” với sự lựa chọn bất đắc dĩ của mình.
Rồi sau đó ông rất
thanh thản đón ngày quân giải phóng vào Sài Gòn, vui vẻ gặp lại bạn bè cũ từ Hà
Nội trở về (như ông Trần Thanh Xuân, Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam
hay ông Cao Tấn Bổ công tác tại Văn phòng Đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí
Minh, xưa kia là bạn học chung với ông). Dù là công chức cao cấp của chế độ cũ,
nhưng cha tôi không bị đi học tập cải tạo tập trung. Vì từ năm 1973 cha tôi đã
bị cách chức Phó đô trưởng hành chánh Sài Gòn và bị chế độ Thiệu cho về hưu sớm
do các hoạt động chống chế độ của con trai ông. Lúc bấy giờ tôi đang làm dân
biểu Hạ nghị viện, thuộc khuynh hướng chính trị đối lập, gần như ngày nào cũng
“xuống đường” hoặc có lời phát biểu chống chế độ Sài Gòn trên diễn đàn quốc hội
hay trên báo chí. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tay chân ông nhiều lần tìm
cách trực tiếp hoặc gián tiếp buộc cha tôi gây áp lực với tôi đứng về phe họ
hay ít ra phải ngưng các hoạt động chống họ. Nhưng biết rõ thái độ chính trị
của tôi, cha tôi luôn tìm cách né tránh các yêu cầu của họ. Có một lần đại tá
Đỗ Kiến Nhiểu, đô trưởng Sài Gòn Chợ Lớn, cấp trên trực tiếp của cha tôi, đặt
thẳng vấn đề ông ta muốn gặp tôi để bàn một số việc. Cha tôi thừa biết Đỗ Kiến
Nhiểu muốn bàn chuyện gì (không có chuyện gì khác hơn là yêu cầu con mình ngưng
chống chế độ Thiệu) nhưng thật khó thối thoát. Ông cũng thấy trước rằng nếu để
con mình gặp và từ chối lời đề nghị gì đó của đại tá Nhiểu thì tình thế càng
căng hơn. Cuối cùng cha tôi nảy ra một ý kiến: cuộc hẹn định 8 giờ sáng nhưng
tôi sẽ đến văn phòng Đô trưởng tại Tòa Đô vào lúc 7 giờ 30. Dĩ nhiên vào giờ đó
Đỗ Kiến Nhiểu chưa đến. Tôi chỉ cần viết vài chữ cho biết mình đã đến và bận
họp Quốc hội nên phải đi ngay, không thể chờ ông ta. Dù sao đó chỉ là kế hoãn
binh. Phe ông Thiệu không thể chấp nhận duy trì ở cương vị Phó đô trưởng một
người có con trai hoạt động chống họ một cách tích cực. Khi cha tôi bị cách
trức (1973), ông nói với tôi như thông báo một việc biết trước thế nào rồi cũng
đến: “Tụi nó cho ba nghỉ rồi!”. Cha tôi mất năm 1991 mà không kịp được nhìn
thấy những đổi thay tốt đẹp sau này của đất nước.
Cái máu say mê thể thao
của tôi thừa hưởng từ cha tôi. Từ những năm 14-15 tuổi, tôi đã đọc thường xuyên
các báo thể thao của Pháp như L’Equipe, Mirroir Sprint (chuyên
về xe đạp) v.v… Các báo này ba tôi đặt mua dài hạn ở nhà sách Albert Portail
(nay là nhà sách Xuân Thu, đường Đồng Khởi). Tôi nhớ có lần cha tôi đưa tôi lên
Sài Gòn xem đấu quần vợt tại Xẹc Tây (Cercle Sportif Saigonnais – bây giờ là
Cung văn hóa Lao động). Đó là khoảng năm 1953-1954, lúc đấu thủ huyền thoại Võ
Văn Bảy vừa nổi lên. Trận đấu diễn ra trên sân số 4 gần hồ bơi của Xẹc. Đối thủ
của anh Bảy là tay vợt người Úc nổi tiếng thế giới. Thế mà anh Bảy chơi rất
ngang ngửa. Cha tôi là người ủng hộ anh Bảy một cách sung sướng. Thế nhưng ngồi
gần cha tôi có một vị khán giả cứ thỉnh thoảng lại nói: “Thằng Úc nó thả cho
anh Bảy đó, chứ làm gì anh Bảy kiếm được một jeu (tiếng Pháp: một ván)”. Lúc
đầu cha tôi làm như không nghe, nhưng vị khán giả kia cố tình lặp lại cho lọt
vào tai cha tôi nhận định của ông ta. Thế là cha tôi nổi nóng lên, quay sang
nói thẳng vào mặt ông ta “Sao ông tự ti mặc cảm đến như thế. Võ Văn Bảy chơi
hay thật chứ đâu được thả”. Rồi hai người cãi nhau quyết liệt và thách nhau ra
ngoài để “giải quyết”. Khi hai người sắp đánh nhau, tôi lo sợ khổ tâm vô cùng,
không biết phải bênh vực cha mình thế nào đây. Chẳng lẽ nhảy vào tiếp tay cho
cha tôi đánh lại cái ông khán giả kia? Rất may, có một công chức cao cấp thuộc
đàn anh của cha tôi đi ngang qua, thấy cha tôi đang đứng thủ thế, liền can
thiệp: “Phát, mày làm cái gì kỳ vậy”. Thế là cuộc đấu... võ giữa hai người được
ngăn chặn kịp lúc!
Thật không thể tưởng
tượng, 25 năm sau cũng tại Xẹc Tây, lúc này có tên là Nhà Văn hóa Lao động, cha
tôi lại suýt đánh nhau lần thứ hai cũng tại sân quần vợt. Lần này ông đi xem
cháu nội của ông, tức con trai lớn của tôi – Lý Quí Hùng – thi đấu với anh Võ
Văn Bảy ở giải toàn thành, hình như lúc đó là năm 1979. Hùng thi đấu khá xuất
sắc và lấy được của anh Bảy mấy jeu. Người ngồi kế bên cha tôi lần này là bác
sĩ Nguyễn Phước Đại, cũng là một người say mê quần vợt. Tôi rất thân với bác sĩ
Đại, nhưng cha tôi và ông Đại lại chưa từng gặp mặt nhau. Ông Đại bình luận mấy
bàn thắng của Lý Quí Hùng là do…” cha nó (tức là tôi) mua chuộc anh Bảy”! Cha
tôi ngồi kế bên liền lên tiếng: “Xin lỗi ông, cha của thằng Hùng không bao giờ
làm chuyện đó”. Bác sĩ Đại đáp trả lại: “Làm sao ông biết cha thằng Hùng bằng
tôi”. Cha tôi bình tĩnh nói lại: “Chắc chắn tôi phải biết cha của thằng Hùng
hơn ông, đơn giản tôi là cha của cha thằng Hùng”. Lúc này hai người suýt choảng
nhau. May mà có một người quen biết cả hai cản ngăn kịp.
Mẹ tôi là một phụ nữ
suốt đời vì chồng con. Hồi trẻ bà được xem là người phụ nữ đẹp nhất Biên Hòa.
Những năm tôi hoạt động chính trị đối lập, mẹ tôi luôn tỏ ra chia sẻ và hỗ trợ.
Bà rất hãnh diện về lập trường độc lập và đối lập của con trai mình trong Quốc
hội và trên báo chí. Mẹ tôi dư biết các hoạt động chống chế độ của tôi tất yếu
sẽ dẫn tới kết cuộc cha tôi sẽ bị cách chức. Rất yêu chồng nhưng không bao giờ
bà ép buộc con trai mình đầu hàng hay bỏ cuộc.
Thời trẻ cha tôi rất mê
đánh bạc và thường vắng nhà. Chuyện học hành của tôi hoàn toàn do mẹ tôi lo. Bà
đặt tất cả tình thương và hy vọng vào đứa con trai trưởng. Bà muốn tôi trở
thành bác sĩ. Cha mẹ tôi có tất cả tám người con. Tôi có sáu em gái và một em
trai cũng là đứa em út trong nhà. Về đường học vấn của tôi, công sức mẹ bỏ ra
rất nhiều, nhưng thẳng thắn mà nói bà không nhận được sự đền đáp như ý nguyện.
Tôi chưa bao giờ là một học sinh giỏi hoặc chuyên cần. Khi cha tôi còn là một
thư ký quèn ở Biên Hòa, mẹ tôi quyết tâm đưa tôi vào học trường Pháp ở tỉnh nơi
chỉ dành cho con Tây và con công chức cao cấp trong tỉnh. Theo suy nghĩ của mẹ
tôi, trường Nguyễn Du mà tôi theo học (đến lớp tư, tức lớp hai hiện nay) dạy
kém. Trường Pháp ở Biên Hòa do bà vợ của ông chánh thanh tra giáo dục ở tỉnh tổ
chức. Bà là người Việt Nam nhưng có quốc tịch Pháp. Chánh thanh tra là ông Trần
Bá Chức, trước kia là giáo sư trường Collège Mỹ Tho và là thầy cũ của cha tôi.
Có lẽ nhờ mối quan hệ này mà tôi được đặc biệt nhận vào học trường Tây. Tôi còn
nhớ cái tên Tây mà bà hiệu trưởng đặt cho tôi: Charles.
Trường Việt tôi học lôi
thôi, sang trường Pháp cũng không khá. Tôi chỉ mê tắm sông Đồng Nai và đá banh
trên đồng ruộng sau mùa gặt. Các gốc rạ chĩa lên thật cứng và bén, các lỗ chân
trâu đầy trên mặt ruộng như những cái bẫy lúc nào cũng có thể làm lọi chân các
cầu thủ chân đất tí hon, nhưng những hiểm nguy này vẫn không ngăn trở bọn trẻ
chúng tôi quần quật suốt ngày với quả banh nhựa. Ngay từ lúc ấy tôi đã tỏ ra có
năng khiếu bắt gôn. Bạn bè gọi tôi là “gôn Tịnh”, tên của một thủ môn huyền
thoại cùng thời với những Trương Tấn Bửu, Guichard, Tốt, Cúi…
Sông Đồng Nai đã cướp
đi lần lượt nhiều mạng sống của bạn bè tôi thời thơ ấư, bản thân tôi cũng suýt
chết mấy lần. Một lần vì trốn người nhà ra gọi về, tôi lặn xuống núp dưới cây
cầu ván và bị kẹt dưới cây cầu suýt chết ngộp. Một lần khác thi nhau lặn qua
đáy một chiếc ghe lớn, do nước chảy mạnh làm lạc hướng nên hụt hơi mà vẫn không
trồi được đầu qua phía bên kia ghe! Nhưng bọn nhóc chúng tôi không hề sợ hay
hờn dỗi con sông Đồng Nai. Các buổi trưa, dù nắng hay mưa, bọn tôi không bao
giờ lỡ hẹn với nó. Nơi chúng tôi tắm có một cây đa thật to, tán phủ cả một đoạn
sông trông vừa hùng vĩ vừa bí hiểm như trong rừng châu Phi. Chính ở đây bọn
nhóc chúng tôi thường đóng vai người rừng Tarzan, với những pha đu cây (là rễ
chằng chịt của cây đa) tung người ra xa rồi buông rơi xuống nước một cách ngoạn
mục.
Mẹ tôi cuối cùng cũng
phát hiện ra hai năm học trường Tây ở tỉnh của tôi chẳng đến đâu. Tôi đen thui
như người Campuchia vì cả ngày ở dưới sông hoặc rượt bóng trên đồng. Nhưng mẹ
tôi không chịu nhìn nhận sự yếu kém này là do con mình mà lại cho rằng do nhà
trường thiếu sâu sát và chăm sóc. Thế là mẹ tôi lại nghĩ đến một trường Tây
khác ở tận Sài Gòn! Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu xuất phát từ đâu mẹ tôi lại
có ý nghĩ đưa tôi lên Sài Gòn học trường Chasseloup Laubat, trường trung – tiểu
học Pháp lớn nhất toàn Đông Dương lúc đó chỉ dành cho con em người Pháp hoặc
“quan lớn người Việt”. Trường này là nơi Thái tử Norodom Sihanouk (nay là Quốc
vương Campuchia) từng học nội trú hồi nhỏ. Nhiều con em hoàng tộc Lào cũng được
gởi đến học ở đây. Ý nghĩ của mẹ tôi quá táo bạo, gần như không tưởng vào lúc
đó bởi cha tôi chỉ là một công chức cấp tỉnh bình thường. Nhưng cuối cùng mẹ
tôi cũng thực hiện được ước vọng của mình. Một người bạn cũ của cha tôi làm
trong tòa đại sứ Pháp ở bộ phận văn hóa đã giúp mẹ tôi. Tôi hoàn toàn không có
tiêu chuẩn vào học trường này – về trình độ Pháp văn và cả về vai vế xã hội
thời đó.
Tôi vào học nội trú
trường Chasseloup Laubat bắt đầu niên học 1951-1952, lớp 8ème (nay
là lớp 5). Tôi còn nhớ tên bà giáo là Fabiani, một người gốc Corse. Tôi học nội
trú vì gia đình không có ai ở Sài Gòn (gia đình tôi luôn luôn di chuyển theo
cha tôi đến các tỉnh, quận, những nơi cha tôi đến làm việc). Vào nội trú,
giường ngủ của tôi ở cạnh giường ngủ một “ông hoàng – con” Campuchia tên là
Sisowath Charia. Chúng tôi trở thành bạn thân, sau này cũng có nhiều lần gặp
nhau lại tại Phnom Pênh và Sài Gòn. Năm đầu vào Chasseloup Laubat, tôi vật lộn
với tiếng Pháp vô cùng khổ sở. Cái vốn tiếng Tây tôi học ở Biên Hòa không được
bao nhiêu, lại trả cho thầy gần hết. Tôi còn nhớ những ngày đầu đang học bị
chột bụng, tôi không biết phải nói thế nào bằng tiếng Pháp để xin phép thầy ra
khỏi lớp… Thế là tôi phải “thuê” thằng bạn ngồi cạnh dạy cho tôi một câu tiếng
Tây học thuộc lòng. Có khi trả cho nó bằng tiền, có khi trả bằng phần ăn tráng
miệng. Nhưng nhờ qui định học sinh phải ở luôn trong trường, thứ Bảy hoặc Chủ
nhật mới được ra bên ngoài chơi, và nhờ trường cấm triệt để không được nói
tiếng Việt – ngay trong lúc sinh hoạt bình thường như giờ ra chơi, giờ ăn – nên
không bao lâu tiếng Pháp của tôi cũng khá lên.
Một tuần chúng tôi được
ra phố chiều thứ Bảy và Chủ nhật. Nhưng không phải thứ Bảy, Chủ nhật nào cũng
được phép ra phố. Nếu bị phạt ½ PS (Privation de sortie – truất phép được ra)-
truất nửa phép – học sinh nội trú đó không được cha mẹ hoặc người thân rước ra
chiều thứ Bảy, sáng Chủ nhật mới được ra. Còn lãnh trọn cái PS thì ở lại trường
cả thứ Bảy và Chủ nhật để chép bài phạt! Ngày Chủ nhật bị ở lại trường được
“surveillant” (giám thị) dắt đi “promenade” (đi dạo) ở sân Richaud (nay là sân
Phan Đình Phùng) nằm sát bên trường. Những dịp này các học sinh bị phạt hy vọng
có một an ủi: được phép của giám thị cho gọi xe mì dạo lại xơi một trận đã
thèm. Không phải ông “surveillant” Tây nào cũng dễ tính và gật đầu nói “oui”
(đồng ý). Có khi ông ta chẳng nói gì, nhưng nhìn chỗ khác làm lơ là coi như
“oui”. Thời đó trong bọn học sinh người Việt, đứa nào cũng mê mì, vì một tuần
ăn đồ Tây hết sáu ngày, chỉ có ngày thứ Tư mới có “repas vietnamien” (cơm Việt
Nam). Nhưng cũng phải nói rằng cách đây 50 năm, mì bán dạo trên xe đẩy, rao gõ
cóc cóc là ngon nhất! Tiếng mì gõ trên các đường xung quanh trường nhiều đêm
làm bọn học sinh nội trú chúng tôi nằm trên giường thèm quá, không sao ngủ được.
Cái thú chính yếu khi được
phép ra khỏi trường chiều thứ Bảy và Chủ nhật là đi xem xi nê. Thời đó các rạp
thịnh hành nhất là Nam Quang, Long Thuận (nằm sát tòa soạn báo Sài Gòn Tiếp Thị
hiện nay), Majestic (sát khách sạn Cửu Long hiện trở thành nhà hàng Maxim).
Nhưng rạp chiếu phim mới nhất, chiếu phim màu Technicolor trên
màn ảnh rộng (lúc đó gọi là écran panoramique) thì chỉ có rạp
Olympic trên đường Chasseloup Laubat (bây giờ là đường Nguyễn Thị Minh Khai).
Lúc đó rạp Olympic hiện đại và ăn khách nhất. Tôi mê các tài tử như Errol
Flynn, Gene Kelly, Stewart Granger, Victor Mature, Deborath Kerr, Ava Gardner…
Những bộ phim như “Samson và Dalila”, “Scaramouche” hay “Ba người lính Ngự lâm”
(Les Trois Mousquetaires) bây giờ nhớ lại vẫn thấy hay. Sau này, có nhiều bộ
phim làm lại tác phẩm của nhà văn Alexandre Dumas, nhưng với tôi, phim “Ba
người lính Ngự lâm” hay nhất vẫn là bộ phim do Gene Kelly đóng cùng với Lana
Turner. Có lẽ cái gì đến với mình lần đầu, lúc tuổi thơ, vẫn là đẹp nhất chăng?
Lúc đó đi xem xi nê còn có cái thú sưu tập các tờ programme (chương
trình) in nhiều màu trên giấy láng, rất đẹp. Mỗi phim mới, ở tất cả các rạp đều
có tờ programme mới. Những ngày bị phạt ở lại trường, lấy
chồng chương trình ra xem lại, thấy thích thú không kém gì được đi xem xinê!
Năm 1954, sự kiện Điện
Biên Phủ rồi Hiệp định Genève diễn ra, trường Albert Sarraut từ Hà Nội chuyển
vào Sài Gòn sát nhập với Chasseloup Laubat. Trường không đủ lớp để chứa tất cả
học sinh từ Hà Nội vào, nên hủy bỏ chế độ nội trú để mở thêm lớp học. Mẹ tôi
không cho tôi học tiếp tại đây vì sợ rằng học ngoại trú, giữa Sài Gòn nhiều
“cạm bẫy” tôi sẽ sớm hư hỏng! Mẹ tôi chuyển lên Đà Lạt vào học nội trú tiếp lại
Lycée Yersin.
Sự kiện Điện Biên Phủ
và Hiệp định Genève đối với một thằng bé 14 tuổi đang học trường Tây dĩ nhiên
không để lại được bao nhiêu trong ký ức. Tuy nhiên, ngoài chuyện…chuyển trường
từ Sài Gòn lên Đà Lạt, tôi vẫn nhớ cái không khí bất thường của Sài Gòn trong
những ngày Pháp hấp hối ở Điện Biên Phủ. Những ánh mắt lo âu của người Pháp và
cả những người Việt thân Pháp. Mặc dù cha tôi là công chức nhưng tôi không thấy
ông âu lo. Có lẽ do ông luôn không chịu gắn số phận của ông với số phận của
người Pháp. Lúc đó cha tôi đang làm quận trưởng quận Tiểu Cần (Trà Vinh). Như
mọi kỳ nghỉ hè, tôi rời nội trú về nhà. “Nhà” của gia đình tôi lúc đó là nơi
cha tôi đang làm việc. Cha tôi nhận nhiệm sở ở đâu thì cả gia đình dời theo đến
đó. Cả gia đình đi theo cha tôi từ tỉnh này sang tỉnh nọ. Nhưng tôi nhớ năm
1954 tôi không về thẳng được quận Tiểu Cần mà cùng gia đình tạm ở lại tỉnh lỵ
Trà Vinh. Vì Tiểu Cần được chọn làm nơi tập kết ra Bắc của quân đội Việt Minh
trong tỉnh theo Hiệp định Genève.
Tôi rất thích đọc báo,
báo Việt và cả báo Pháp do cha tôi thường mua về. Từ lúc đó tôi đã thuộc những
cái tên như De Lattre de Tassingy, Cogny, Salan, Navarre, De Castries… không
khác lắm mười, mười lăm năm sau quen thuộc với những cái tên như Haig, Maxwell
Taylor, McNamara, Westmoreland… Bây giờ nhắc lại những cái tên tướng lĩnh Pháp
– Mỹ ấy, thật lạ lùng nó vang vọng trong tôi cùng một âm hưởng, như thể họ đều
cùng thời, dù họ đến đây trước hay sau hàng chục năm, có mặt ở hai cuộc chiến
khác nhau. Họ như những lá bài của một bộ bài. Những lá bài trong cùng một canh
bạc thảm hại. Có một điều oái oăm là lúc đó tôi chỉ biết được Điện Biên Phủ và
tên vị tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp – một cách sơ lược thôi – nhờ xem
báo Paris Match, nhưng ngược lại tôi biết tường tận chiến thắng
Austerlitz của Napoleon vì học sử của… Pháp. Trong trường Chasseluop Laubat tôi
được học lịch sử nước Pháp thay lịch sử Việt Nam. Có ai đã so sánh Austerlitz
của Napoléon với Điện Biên Phủ của Võ Nguyên Giáp chưa? Hai cuộc chiến ở hai
thời đại khác nhau, đúng là khó sánh, nhưng tôi vẫn thấy Điện Biên Phủ vĩ đại
hơn, còn về sự chính nghĩa thì Austerlitz không có cơ sở nào để so sánh với
Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là niềm tự hào chung của mọi tầng lớp người Việt
Nam. Đó là chiến tích tầm vóc thế giới của dân tộc Việt Nam. Khi tôi bắt đầu vẽ
tranh năm 1990, rất tự nhiên, một trong những cảm hứng đầu tiên của tôi là Điện
Biên Phủ. Bức tranh sơn dầu khổ lớn có tên “Điện Biên Phủ trong ký ức của người
Pháp” theo thể loại “mix media” của tôi đã ra đời (bức tranh này hiện Công ty
sơn mài Lam Sơn sở hữu).
…Rời Chasseloup Laubat
lên trường Yersin Đà Lạt học tiếp, tại đây tôi đã có những năm tháng đẹp nhất
thời học sinh của mình (1954- 1959). Bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại tôi vẫn thấy
lòng mình xao xuyến. Cho đến sau này, tối nằm vào giường trước khi ngủ, thỉnh
thoảng tôi vẫn cố gắng nhớ lại một đoạn nào đó thời mình học ở Đà Lạt, nhớ lại
từng gương mặt bạn bè, từng góc trường, góc phố Đà Lạt, như thể xem lại một
đoạn phim cũ mà mình yêu thích. Nhà trường nằm trên một ngọn đồi, có sân bóng
đá, bóng chuyền, bóng rổ, điền kinh. Có cả phòng tập thể dục thể thao rộng
thoáng trong nhà dành cho các môn bóng bàn, thể dục dụng cụ v.v… Khác với
trường Chasseloup Laubat xây vuông vức như một trại lính, kiến trúc của trường
Yersin thuộc loại đẹp và độc đáo nhất Việt Nam và có thể là cả Đông Nam Á. Nó
là một loại campus như các trường đại học ở Mỹ - Úc. Tòa nhà
chính của trường hình vòng cung theo phong cách La Mã, với một nóc cao như vọng
chuông nhà thờ, đứng từ chợ Đà Lạt cũng nhìn thấy. Niềm say mê thể thao đến với
tôi cũng từ những năm tháng sống ở môi trường này. Tôi là vận động viên đại
diện trường ở các môn bóng đá (thủ môn), điền kinh (nhảy cao), bóng rổ. Trường
Yersin còn dạy tôi những bài căn bản về môn vẽ, chất lượng tương đương với một
trường chuyên ngành mỹ thuật. Với vốn liếng ban đầu ấy, 30 năm sau tôi đi vào
hội họa khá thuận lợi.
Tôi làm quen, yêu thích
rồi mê bộ môn khiêu vũ cũng từ trường này. Nhiều chục năm sau tôi vẫn không
quên được buổi đi “nhảy đầm” lần đầu ở vũ trường Dancing Đà Lạt! Sau thời gian
tập tành trong câu lạc bộ ở trường, một chiều thứ Bảy, tôi mạnh dạn đi “trắc
nghiệm” ở một vũ trường ngoài phố những gì mình mới học được.
Cái buổi ban đầu khiêu
vũ trong dancing hồi hộp không thể tả. Nhạc trỗi lên, tim tôi
đập trong lồng ngực còn mạnh hơn dàn trống của ban nhạc. Đầu nóng ran vì phải
cố gắng nhận ra cho được bản nhạc thuộc điệu nào. Bolero, Slow, Tango hay Cha
Cha Cha? Cùng lúc hai chân của tôi ở dưới bàn thử di chuyển theo nhịp điệu của
nhạc một cách kín đáo để khi ra sàn nhảy không bị bỡ ngỡ. Dù vậy, khi cùng cô
vũ nữ bước ra “piste” (sàn nhảy), tôi không tránh khỏi lúng túng và run rẩy vì
xúc động. Trước đó tôi chưa bao giờ ôm trong tay mình một cô gái, nhất là giữa
“piste” nhảy. Đúng lúc bị “chới với”, tôi nghe bên tai mình: “Anh cứ bình tĩnh.
Để em dìu cho”. Cô vũ nữ đoán biết “người khách” của cô – một cậu thiếu niên
17-18 tuổi – mới đi nhảy ở dancing lần đầu. Tôi thầm cảm ơn cô
vũ nữ mà tuổi nhất định lớn hơn tôi, nhưng vẫn gọi tôi ngọt xớt bằng anh. Mãi
sau này tôi vẫn nhớ cái giọng nói hết sức dịu dàng ấy.
Những tối thứ Bảy được
phép ra khỏi trường, cùng một số bạn bè đi “nhảy đầm” ở ngoài phố là những kỷ
niệm được nhớ mãi. Rời dancing lúc hai, ba giờ sáng để về nhà
trọ, trời Đà Lạt lạnh cắt da nhưng mặc ấm đầy đủ, cái lạnh ấy lại dễ chịu vô
cùng. Ánh đèn trên các cột điện dọc đường không đủ sức lấn vào làn sương mù dày
đặc chỉ tỏa được một vừng sáng nhẹ trông từ xa tưởng chừng như những chiếc đèn
lồng treo lơ lửng trên cao, làm cảnh vật Đà Lạt vào lúc gần sáng càng thêm lãng
mạn. Ra khỏi dancing chúng tôi thường đi bộ, nói chuyện thoải
mái trên con đường vắng tanh và đến tận lò bánh mì để mua những chiếc bánh ra
lò đầu tiên và nóng hổi.
Trong các học sinh nội
trú ở trường Yersin Đà Lạt, tôi là đứa có ít tiền nhất khi ra phố. Cha mẹ tôi
không dư dả gì, mặt khác mẹ tôi không muốn cho con mình xài nhều tiền. Có những
hôm ra phố, trong túi chỉ có mấy đồng, vừa đủ mua vài trái bắp nướng. Trái bắp
bỏ trong túi áo mưa làm ấm hai bên đùi. Cái mùi thơm bắp nướng, hơi ấm trong
chiếc áo mưa là những cảm giác thuộc về một thời niên thiếu không thể nào quên.
Rồi những lần “faire le mur” (trốn ra khỏi trường) để ăn “phở ga”, tức cửa hàng
phở ở gần nhà ga xe lửa Đà Lạt nằm ngay dưới chân đồi của trường Yersin. Sao mà
mùi phở ga thơm như thế, còn dĩa rau lại tươi xanh hấp dẫn không đâu sánh bằng.
Đậu xong Tú tài phần 1,
tôi luyến tiếc rời thành phố Đà Lạt, để trở về Sài Gòn học nốt phần 2. Thành
phố Đà Lạt trong tâm hồn tôi thời niên thiếu thay đổi quá nhiều theo thời gian.
Trở lại Đà Lạt những năm sau này tôi không còn gặp lại Đà Lạt của mình xưa kia.
Một trong những nỗi buồn khổ tâm của tuổi già là phải chịu đựng một hình ảnh ký
ức thân thương nào đó của mình nay bị biến dạng.
Khi tôi trở lại trường
Chasseloup Laubat thì trường này đã đổi tên thành Jean Jacques Rousseau (1959).
Rất hiếm học sinh theo học ở trường Pháp trước kia học cả hai trường ở miền Nam
– nhất là dưới đủ ba cái tên khác nhau – như tôi: Chasseloup Laubat, Yersin
DaLat rồi Jean Jacques Rousseau (tên mới của Chasseloup Laubat). Trường Jean
Jacques Rousseau nay là trường Lê Quí Đôn.
Về Sài Gòn, đúng như
trước kia mẹ tôi từng lo ngại, việc học hành của tôi trở lại lôi thôi. Tôi kết
thúc thời gian học ở Đà Lạt với bằng Tú tài 1 Pháp loại “mention Assez bien”
tức hạng khá.
Cái môn khiêu vũ mà tôi
say mê ở trên Đà Lạt suýt nữa làm hỏng năm cuối cùng của tôi tại Jean Jacques
Rousseau. May mắn, do trường không còn chỗ để nhận vào ban Toán (section Math
Elem), tôi đành chọn vào ban Triết (section Philosophie) học không “nặng” và
không cần chuyên cần như ban Toán, lại phù hợp với tôi hơn. Nhờ thế tôi ì ạch
đậu xong Baccalaureat 2ème Partie vào năm 1960. Tôi còn nhớ tôi
thi viết môn Philo với đề tài “Le doute” (Sự hoài nghi) khá tốt. Còn ở phần thi
Oral (vấn đáp) đầu đề là “Le temps” (Thời gian). Nếu năm đó mà tôi không đậu Tú
tài 2 thì có lẽ mãi mãi tôi không bao giờ đậu do tôi quá ham chơi. Trong lớp
Philo có một lần giáo sư công bố điểm và thứ hạng kỳ thi tam cá nguyệt cho học
sinh, khi đọc đến tên học sinh đứng hạng nhì là tôi, ông tỏ ra kinh ngạc: sao
trong lớp ông lại có một học sinh lạ hoắc, ông không hề biết mặt. Lý do đơn
giản tôi thường “cúp cua” các tiết học hoặc có mặt trong lớp thì lén nằm ngủ
đâu đó ở cuối lớp vì tối qua đi chơi quá khuya!
Khi tôi vào đại học, mẹ
tôi vẫn không quên mơ ước ban đầu của bà là muốn tôi theo học ngành y khoa.
Nhưng một năm học PCB (physique, chimine, biologie – các môn lý – hóa - sinh)
để chuẩn bị thi vào y khoa đủ chứng minh với bản thân tôi rằng con đường khoa
học không phải là con đường thích hợp với mình.
Cuối cùng, để tránh bị
gọi quân địch, tôi thi tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (HVQGHC). Cả ngàn
người dự thi từ Huế vào Sài Gòn, chỉ lấy 100 (trong 100 này lại dành trước 50
cho Huế và miền Trung). Thế nhưng tôi trúng tuyển hạng 99. Khi chen lấn xem kết
quả, tôi vẫn tưởng mình rớt. Đến khi nhận giấy báo đậu gửi tận nhà mới hay mình
đậu. Khóa tôi vào học là khóa 10 (1963), khóa cuối cùng có Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) Ngô Đình Diệm chủ tọa lễ khai giảng. Đây là lần đầu tôi được
nhìn thấy ông Diệm ở một khoảng cách rất gần khi ông bước xuống xe và từ ngoài
cổng trường đi vào giữa hai hàng sinh viên được trường tổ chức đứng chào đón
ông. Trước đây tôi chỉ nhìn thấy ông trên màn ảnh khi đi xem xinê. Ở Sài Gòn
lúc đó, trước khi chiếu phim truyện, rạp nào cũng phải chiếu “Thời sự Việt
Nam”, trong đó hầu như luôn luôn có sự xuất hiện của Tổng thống Diệm, khi thì
đi kinh lý tỉnh này, khi đi kinh lý tỉnh kia. Thường khi hình ảnh của ông vừa
hiện lên thì phần đông khán giả phải cố gắng lắm mới nín cười được vì sợ gặp
rắc rối với cảnh sát chìm ở đâu cũng có, kể cả trong rạp hát. Người ông Diệm
rất thấp, khá tròn, bụng lại to, nhưng khi di chuyển lại rất nhanh, hai cánh
tay như đang bơi dưới nước khiến ông có một dáng dấp và tướng đi rất hài. Ông
luôn mặc bộ com-lê màu trắng. Tôi không ngờ lần nhìn thấy ông Diệm lần đầu tiên
bằng xương bằng thịt ở buổi khai trường tại HVQGHC cũng là lần cuối cùng. Chỉ
ít tháng sau, ông bị lật đổ và bị phe đảo chánh giết chết cùng với người em
trai là Ngô Đình Nhu.
HVQGHC không gây cho
tôi sự thú vị nào. Tôi không có ý định theo nghiệp cha tôi, trở thành phó đốc
sự, đốc sự, để làm quận trưởng hay phó tỉnh trưởng. Lúc này tôi bắt đầu mê nghề
báo nên “cúp” các giờ học ở HVQGHC để la cà ở một số tòa soạn báo trên đường
Phạm Ngũ Lão mà tôi có viết bài cộng tác. Thật ra ở hai năm cuối trung học, tôi
đã có bài đăng trên báo thể thao Đuốc Thiêng của nhà báo thể
thao nổi tiếng Sài Gòn là Thiệu Võ. Lúc đầu là những bài dịch từ các báo và tạp
chí Pháp như L’Equipe, Mirroir Sprint. Các hiểu biết của tôi về thể
thao thế giới được tích lũy là nhờ tiếp cận với các loại báo ấy. Niềm say mê
thể thao cũng từ cha tôi truyền sang. Ông còn truyền cho tôi cả tinh thần mã
thượng trong thể thao lẫn trong quan hệ với mọi người – kể cả với người đối
địch mình.
Bút danh đầu tiên tôi
ghép tên cha với tên mình: Phát Chung. Ngoài ra tôi còn có bút danh ghép họ tôi
với họ vợ - Nguyễn Lý – ký trên các bài phóng sự những năm 1963-1965. Bút danh
sau 1975 thì ghép tên các con tôi: Chánh Trinh, Trung Dũng. Bút danh cũng là
mạng sống nghề nghiệp và chính trị của mỗi người viết văn, viết báo. Do đó
người ta thường chọn tên những người mà mình yêu thương nhất để ghép thành bút
danh
CHƯƠNG 2: CHẬP CHỮNG VÀO NGHÈ LÀM BÁO
Tôi không hề được chuẩn
bị để đi vào nghề báo. Lúc đầu tôi viết báo chỉ vì quá yêu thể thao. Từ môi
trường báo chí, tôi được tiếp cận với đời sống chính trị Sài Gòn, biết bức xúc
trước những bất công, những việc làm phi dân chủ, độc tài của chính quyền Sài
Gòn. Rồi phẫn nộ trước sự can thiệp thô bạo của chính quyền Mỹ vào nội bộ của
Việt Nam và sự áp đặt các ý muốn và quyền lợi của họ lên đất nước Việt Nam. Tôi
đi vào con đường hoạt động chính trị là như thế. Tôi cũng không hề được chuẩn
bị hoặc được ai, tổ chức nào dẫn dắt. Thực tế cuộc sống và các diễn biến thời
cuộc của đất nước điều chỉnh dần dần các hoạt động và thái độ chính trị của
tôi, mỗi ngày thấy rõ hơn con đường mà mình nên chọn.
Những năm 60, Sài Gòn
chưa có trường báo chí nên những ai muốn theo ngành này không có điều kiện để
học hỏi chính qui. Riêng trường hợp của tôi, từ nhỏ theo học trường Pháp, tiếng
Việt không thông thạo vì trong trường tiếng Pháp được coi là tiếng mẹ đẻ, tiếng
Việt là môn sinh ngữ 1, còn Anh văn sinh ngữ 2, nên việc theo đuổi nghề viết
báo với tôi càng không dễ dàng. Tôi còn nhớ bài báo đầu tiên tôi gởi cho tuần
báo Đuốc Thiêng viết về cuộc đua Vòng quanh nước Pháp. Thời đó
là những năm tháng huy hoàng của các cua rơ Louison Bobet (Pháp), Bahamontes
(Tây Ban Nha), Fausto Coppi (Ý). Để viết một bài báo thể thao, tôi tham khảo
các báo Pháp như L’Equipe, Mirror Sprint và tốn hai, ba chục
tờ giấy pơluya vì phải viết đi viết lại nhiều lần, vừa viết vừa xem các bài báo
của các nhà báo viết trên báo Việt, xem người ta dùng từ như thế nào, có khi
phải “ăn cắp” cả câu của họ rồi sửa lại cho phù hợp chuyện của mình. Hai năm hì
hục như thế, tôi mới viết suôn sẻ, được mời cộng tác chính thức và được phân
công tường thuật các trận bóng đá trên sân Cộng Hòa (nay là sân Thống Nhất).
Thời đó ông Thiệu Võ là
một tượng đài trong làng báo thể thao Sài Gòn (từ những năm 50 cho đến những
năm 70). Cả miền Nam mê say các bài phê thuật của ông. Văn phong của ông bay
bướm. Các tên tuổi lớn thể thao đều được ông phong cho họ những biệt danh đầy
ấn tượng, gắn luôn với tên tuổi họ cả đời đồng thời được độc giả và giới thể
thao công nhận. Chẳng hạn ông gọi nhà vô địch xe đạp Đông Dương Lê Thành Các là
“Phượng Hoàng” do sở trường của cua rơ tài giỏi này là “leo đèo” và “bay” trên
các đỉnh núi. Còn thủ môn Phạm Văn Rạng, từng là tuyển thủ châu Á là nhà “Lưỡng
thủ vạn năng”. Cua rơ xe đạp miền Bắc lừng danh Vũ Văn Thâm – đối thủ số 1 của Lê
Thành Các – được ông gọi là “Con Hùm Xám”. Cặp tiền đạo xuất sắc của đội bóng
Cảnh sát Sài Gòn những năm 50 – hữu nội Lê Hữu Đức và tả biên Nguyễn Văn Tư –
một người ông phong là “Chiếc Đầu Vàng”, còn một người là “Mũi Tên Vàng”. Khi
mới vào làng báo thể thao, tôi cộng tác với báo Đuốc Thiêng của
ông, nên chịu ảnh hưởng văn phong của ông là điều khó tránh. Nói về “chỗ đứng”
của ông trong làng báo thể thao nói riêng và cả làng báo Sài Gòn nói chung có
một dẫn chứng cụ thể: trước đó và mãi sau này trong lịch sử báo chí Sài Gòn,
chưa từng có chuyện một tờ báo hàng ngày nào nêu trên trang đầu, ngay
dưới manchette (tên tờ báo) chức danh “Giám đốc thể thao” như
đã xảy ra với tờ Tiếng Dội Miền Nam, một tờ báo có
nhiều độc giả và có uy tín trong giới nghệ thuật và trí thức (Giải thưởng cải
lương Thanh Tâm do tờ báo này khởi xướng). Dưới manchette tờ
báo, bên trái là tên chủ nhiệm kiêm chủ bút Trần Tấn Quốc, bên phải là tên Giám
đốc thể thao Thiệu Võ. Lúc này ông Thiệu Võ vừa phụ trách trang thể thao của tờ Tiếng Dội Miền Nam đồng
thời là chủ nhiệm tờ Đuốc Thiêng.
Tôi không thể quên lần
đầu tôi được ông nhắn tin trên báo Đuốc Thiêng đến gặp ông “để
trao đổi về sự hợp tác” tại tòa soạn của Tiếng Dội Miền Nam ở
đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng). Không khí của tòa soạn Tiếng Dội
Miền Nam rất nghiêm trang, bày biện như trong một công sở, không thấy
ai nói chuyện cười đùa, khác hẳn tòa soạn các báo Sài Gòn bấy giờ luôn rất ồn
ào náo nhiệt. Tôi rón rén bước vào gặp ông Thiệu Võ ngồi bệ vệ sau một cái bàn
to để nhận số tiền nhuận bút đầu tiên trong cuộc đời làm báo của mình. Sau này,
dù cộng tác với ông khá lâu trên tờ Đuốc Thiêng (khoảng gần
hai năm) nhưng tôi rất ít có dịp nói chuyện thân mật với ông. Ông rất ít khi
tiếp xúc với các đồng nghiệp trẻ. Cũng có một thực tế trước năm 1975, trong
giới báo chí luôn có một khoảng cách khá lớn giữa các ký giả kỳ cựu và các nhà
báo trẻ. Vào những năm 60, không dễ gì một phóng viên trẻ thấy bút danh mình
được ghi đầy đủ dưới bài báo của mình.
Tôi may mắn khi gia
nhập làng báo Sài Gòn còn được tiếp cận và học hỏi với một nhà báo thể thao kỳ
cựu khác: ông Phan Như Mỹ (có anh trai là Phan Ngươn Đang tập kết ra miền Bắc
và đã từng là Hội trưởng Hội bóng đá của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa). Ông
làm việc chính thức ở Việt Tấn Xã nhưng cộng tác thêm cho báo Buổi Sáng phụ
trách trang thể thao báo này. Tờ Buổi Sáng cũng là một tờ
chuyên về kịch trường và thể thao do ông Tam Mộc tức Mai Lan Quế làm chủ nhiệm
kiêm chủ bút, là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với tờ Tiếng Dội Miền Nam.
Tờ báo này có một phụ trang trào phúng cuối tuần rất nổi tiếng có tên “Giỏ
vịt”. Ông Tam Mộc tự mình đảm trách phụ trang này và lấy bút danh là Tám Móc.
Mục ăn khách nhất của trang này là “Lá thư Ba Ếch”. Đây là những cảm nghĩ hàng
tuần của một nông dân miền Tây về những chuyện xảy ra quanh ông ở dưới quê và
cả những chuyện ở trên Sài Gòn. Mặc dù tôi mới vào nghề nhưng ông Mỹ không ngần
ngại mời tôi chuyển sang báo Buổi Sáng cùng ông lo trang thể
thao. Được cùng ông “đứng trang” một tờ báo lớn nhưBuổi sáng là một
vinh dự quá lớn đối với một cây viết mới 21 tuổi như tôi. Chính ông cũng là
người giới thiệu tôi với tờ báo Pháp “Journal d’ Extrême Orient”
viết bài thể thao trực tiếp bằng tiếng Pháp cho tờ báo này. Nhà báo Phan Như Mỹ
có lối viết khác hẳn cây viết Thiệu Võ. Không có sự bay bướm trong các bài báo
của ông. Câu ngắn, đơn giản nhưng đi sâu cụ thể vào trận đấu; các bài phê thuật
bóng đá của ông theo phong cách hiện đại. Nghề làm báo thông tấn đã ảnh hưởng
phong cách viết báo thể thao của ông. Với ông, tôi đã học bài học vỡ lòng của
báo chí: giá trị của một bài báo trước hết ở lượng thông tin. Tôi ngưỡng mộ ông
Thiệu Võ nhưng người thầy đầu tiên của tôi chính là nhà báo Phan Như Mỹ.
Còn một nhà báo kỳ cựu
nữa cũng ảnh hưởng vào cuộc đời viết báo của tôi. Đó là ông Nguyễn Kiên Giang,
lúc ấy là Chủ tịch Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt. Trong một lần tiếp xúc với ông
tại Hội quán bóng bàn Nam Việt ở đường Bùi Chu, nay là đường Tôn Thất Tùng (hội
quán này của thầy Năm Nghiệp, cha của hai nhà vô địch bóng bàn miền Nam Trần
Quang Nhụy và Trần Kim Ngôn), tôi được ông khuyên: “Em có ăn học nên đi theo
nghề báo rất thuận lợi”. Rồi ông nói bằng tiếng Pháp: “Le journalisme mène à
tout” (Nghề báo dẫn đến mọi ngả). Lúc đó tôi vừa đỗ Tú Tài 2 và đang theo
học ở HVQGHC. Lời khuyên này lại khớp với tâm lý tôi đang chán học ở HVQGHC.
Chán vì như đã nói, tôi không có ý định đi theo nghề công chức như cha mình và
chán vì chính chương trình học cũng rất chán. Tôi chỉ đến trường một, hai ngày
một tuần và nhất là ngày trường phát phụ cấp hàng tháng (học ở trường này có ăn
lương). Ngay năm đầu tôi bị ở lại lớp và qua năm sau tôi rời trường vĩnh viễn,
không chút luyến tiếc.
Trong năm đầu học HVQGHC
tôi đã có điều kiện viết lách, lui tới với một số tờ báo khác. Đầu tiên là
tờ Thanh Việt do Tô Yến Châu chủ trương biên tập qui tụ các
nhà báo, nhà văn, nhà thơ như Tam Đức, Kiên Giang Hà Huy Hà, Tô Nguyệt Đình
cộng tác. Đây cũng là nơi tôi khởi đầu học nghề phóng viên. Từ lãnh vực thể
thao, tôi bắt đầu tập viết sang các lãnh vực khác. Tòa soạn báo Thanh
Việt nằm trên đường Phạm Ngũ Lão. Con đường này có rất nhiều tòa soạn
báo và nhà in. Tạp chí Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ cũng ở
trên con đường này. Phần đông các cộng tác viên của báo Thanh Việt rất
ít khi được trả nhuận bút. Tờ báo rất nghèo nhưng anh em sống với nhau rất vui.
Khi gom được tiền bán báo thì ưu tiên để mua giấy in và trả cho thợ sắp chữ.
Các cộng tác viên “ruột” được anh Tô Yến Châu gần như ngày nào cũng kéo đi ăn
trưa: một cách trả nhuận bút khá độc đáo! Tại tòa báoThanh Việt, tôi sẵn
sàng làm bất cứ việc gì tòa soạn cần, từ tiếp tay sửa morát cho
đến đi lấy thông báo hoặc lấy tin “xe cán chó” ở các bót cảnh sát. Đây cũng là
cách học nghề, tiếp cận với nghề rất tốt, bởi một nhà báo càng biết đầy đủ các
khâu trong tờ báo càng có lợi.
Bây giờ nhớ lại những
năm tháng đầu tiên vào làng báo, tôi luôn cảm ơn các nhà báo đàn anh ấy. Dù
cuộc sống của họ phần nhiều rất khó khăn, điều kiện làm báo rất cực nhọc, giấy
in chạy mua từng ngày – nhưng những người mà tôi có cơ hội đầu tiên làm việc
chung trong cuộc đời báo chí của mình đều không để cho các thế lực tiền bạc và
chính trị mờ ám trong nước và ngoài nước mua chuộc. Rất nhiều những nhà báo này
từng tham gia kháng chiến thời chống Pháp. Cái môi trường ban đầu ấy đã tạo cho
một thanh niên như tôi, chưa hiểu nhiều thực trạng báo chí miền Nam lúc đó, kể
cả những ngóc ngách về chính trị, đã có được sự hòa nhập khá tốt, ít lệch lạc
với nghề nghiệp mà sau này mình gắn bó suốt đời. Cũng cần nói rõ, từ năm 1954,
sau hiệp định Genève, nhiều thành phần chống cộng ở miền Bắc ồ ạt di cư vào
miền Nam. Nhiều đảng phái chống cộng mọc lên như nấm. Làng báo Sài Gòn cũng
không tránh khỏi sự xâm nhập rồi tràn ngập những người làm báo theo khuynh
hướng chống cộng. Không bao lâu, thêm một tổ chức báo chí ra đời, cạnh tranh
với Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, đó là Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam, tập hợp chủ
yếu các nhà báo chống cộng từ miền Bắc vào. Hàng loạt tờ báo chống cộng do
người Bắc di cư đứng ra thành lập, phần nhiều được sự tài trợ của chính quyền
Diệm, kể cả cơ quan tình báo Mỹ (CIA). Từ năm 1954 cho đến tháng 4 -1975, làng
báo Sài Gòn phân làm hai phe rõ rệt.
Tờ báo Thanh
Việt, trong những lúc khó khăn, thỉnh thoảng có nhận được sự giúp đỡ tài
chánh của ông Võ Văn Ứng, tức bầu Ứng, một nhà Mạnh Thường Quân thể thao ở Sài
Gòn. Ông ở trong Ban chấp hành, có lúc là Chủ tịch Tổng cục bóng tròn (bây giờ
gọi là Liên đoàn Bóng Đá). Ông cũng là chủ nhân nhà thuốc Đông y nổi tiếng Võ
Văn Vân nằm ở góc đường Phạm Ngũ Lão – Nguyễn Thái Học. Tôi quen biết ông bầu
Ứng từ dạo làm báo Thanh Việt. Khi xảy ra cuộc đảo chánh ngày 1 –
11 – 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, trung tướng Dương Văn Minh lên
làm Quốc trưởng, ông bầu Ứng là người đầu tiên được chính quyền mới cấp giấy
phép ra báo. Tờ báo có tên Bình Minh. Ông bầu Ứng có được đặc quyền
này do trước đây ông có mối quan hệ rất đặc biệt với ông Dương Văn Minh. Thời
trẻ, ông Ứng là bầu của đội bóng Thủ Dầu Một (Bình Dương), còn ông Minh là thủ
môn đội này và tình bạn thể thao giữa họ kéo dài qua năm tháng.
Khi được phép xuất bản
tờ Bình Minh, ông bầu Ứng kéo cả ê kíp Thanh Việt về
làm. Tại đây, lần đầu tiên tôi ăn lương phóng viên và hành nghề phóng viên đúng
nghĩa. Một trong những bài phóng sự đầu tiên của tôi khi tập sự làm phóng viên
là tường thuật vụ “Tòa án Cách mạng Sài Gòn” (tức tòa án của phe đảo chính lật
đổ Ngô Đình Diệm) xét xử cố vấn Ngô Đình Cẩn, em út trong dòng họ Ngô, sau khi
hai người anh của ông đều bị phe đảo chính giết. Lúc ông Ngô Đình Diệm còn là
tổng thống, ông Cẩn hùng cứ ở miền Trung như một lãnh chúa. Thế lực của Ngô
Đình Cẩn còn lấn cả chính quyền trung ương, vào tận miền Nam. Chẳng những ông
cho quân càn quét, tiêu diệt các phần tử cộng sản và thân cộng tại Huế và miền
Trung, mà còn tổ chức các đoàn gọi là “Đoàn công tác đặc biệt miền Trung” vào
tận Sài Gòn và miền Nam để truy lùng những người cộng sản trốn chạy vào đây.
Theo nhà báo Mỹ Zalin
Grant, ba ngày sau khi hai người anh của mình – Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu –
bị giết chết, ông Ngô Đình Cẩn xin tị nạn chính trị trong tòa tổng lãnh sự Mỹ
tại Huế. Từ Huế, ông Cẩn được đưa vào Sài Gòn trên một máy bay Mỹ có một phó
lãnh sự Mỹ, một thiếu tá Mỹ đi theo. Ngoài ra còn có hai quân cảnh Mỹ bảo đảm
an ninh. Khi đến Sài Gòn, ông Cẩn được giao cho Lou Conein, một nhân viên CIA
đảm trách liên lạc giữa đại sứ Cabot Lodge và nhóm tướng lãnh đảo chính Diệm.
Nhưng sau đó đại sứ Lodge ra lệnh giao Cẩn cho các tướng lãnh đảo chính. Mặc dù
sau này tướng Trần Văn Đôn có kể rằng Lodge yêu cầu đối xử với Cẩn đàng hoàng,
đúng theo pháp luật, nhưng ngay việc Lodge giao sinh mạng của ông Cẩn cho những
người vừa giết hai người anh của ông thì đủ hiểu trách nhiệm của đại sứ Lodge
trong cái chết sau này của ông Cẩn như thế nào. Từ đây người ta cũng thấy rõ ra
vai trò đích thực của Cabot Lodge, bàn tay của người Mỹ trong cái chết của Diệm
– Nhu. Như vậy Lodge dính líu đến cả ba cái chết của ba anh em nhà Ngô.
Tôi vẫn nhớ thái độ của
ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn. Ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên
tòa, chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa màu trắng,
mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử; nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ
khinh khi các tướng tá đang ngồi xử mình. Có lẽ vì những tướng tá này đã từng
khúm núm, xin xỏ hoặc chịu ơn mưa móc của ông trước đây. Các tướng tá, các công
chức cao cấp ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam có địa vị quan trọng trong chính
quyền họ Ngô mỗi năm đều phải kéo nhau ra Huế ít nhất hai lần: Một lần chúc Tết
và một lần mừng sinh nhật ông Cố vấn. Nghe nói phần đông những người vào gặp
ông Cẩn, khi trở ra đều đi thụt lùi! Ông tỏ ra coi khinh những người ngồi xử
ông như thế. Và ông không có một phản ứng hay xúc động gì khi ông bị tòa tuyên
án tử hình.
Với tư cách phóng viên
báo Bình Minh, tôi có mặt tại khám Chí Hòa trong ngày hành quyết
Ngô Đình Cẩn. Địa điểm thi hành án ở phía sau khám, nằm bên trong bức tường
kiên cố. Cột hành quyết dựng tại một bãi đất trống thường ngày được sử dụng như
sân bóng chuyền. Các nhà báo theo dõi cuộc hành quyết được sắp xếp đứng cách đó
chứng 50 mét, gần một cái miếu.
Đúng giờ hành quyết,
ông Cẩn xuất hiện từ một cửa nhỏ bên hông khám đường nhìn thẳng ra bãi đất
trống, ông nằm trên một cái băng ca được bốn người khiêng. Nhiều ngày trước đó
sức khỏe của ông suy sụp không phải vì sợ mà do bệnh tiểu đường trở nặng. Từ
cửa hông này đến cột hành quyết khoảng 30 mét. Khi chiếc băng ca rời cửa hông
được vài mét thì ông Cẩn cố gắng ngồi chồm dậy, đòi bước xuống đất. Lúc đầu các
nhà báo không ai hiểu gì cả, có người vội vàng đoán ông Cẩn có cử chỉ hoảng hốt
khi đối đầu với cái chết. Nhưng sau đó mới biết ông Cẩn muốn rời cái băng ca để
tự mình đi đến cột hành quyết! Những người khiêng ông được lệnh dừng lại. Ông
bước xuống một cách khó khăn. Vì quá yếu, ông không thể tự đi một mình, nên có
hai người nách ông hai bên. Cảnh tượng thật bất ngờ và căng thẳng, khiến giới
báo chí và những người có trách nhiệm theo dõi đều im bặt.
Sau khi bị trói chặt
vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt bằng một băng vải đen thì ông ta
phản ứng. Ông nhất định không để bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành
quyết mình. Nhưng những người thi hành án giải thích với ông rằng luật lệ không
được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu
mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính
1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi
nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử
ông tại tòa án. Tôi cũng có nói đến yếu tố tín ngưỡng – gia đình của ông Cẩn
theo đạo Công giáo – đã giúp ông đón nhận cái chết một cách bình thản đáng kinh
ngạc.
Bản án tử hình và cuộc
hành quyết Ngô Đình Cẩn đã chứng minh cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình
Nhu trước đó cũng nằm trong chủ trương nhất quyết loại cả ba anh em từng nắm
quyền sinh sát tại miền Nam. Thực tế chính trị của tình hình miền Nam lúc đó
cho thấy nếu ba anh em họ Ngô vẫn sống thì trước sau gì họ cũng có cơ hội phục
hồi quyền lực vì gia đình họ Ngô có hai thế lực rất lớn hỗ trợ: tòa thánh Vatican
và hơn một triệu người Bắc di cư đang nắm những vị trí then chốt trong guồng
máy nhà nước và quân đội, kể cả các điểm huyết mạch của kinh tế miền Nam.
Bị lật đổ ngày
1-11-1963, qua ngày hôm sau hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận đầu
hàng phe đảo chính sau khi chạy khỏi dinh Gia Long và trốn tại Nhà thờ Cha Tam
(Nhà thờ St Francis Xavier) ở Chợ Lớn. Nhưng sau đó cả hai đều bị bắn chết trên
chiếc thiết vận xa M113 trên đường được áp tải về Tổng tham mưu (gần Tân Sơn
Nhất). Theo John S. Bowman, chủ biên quyển “The Vietnam War day by day”,
hai người trực tiếp giết hại ông Diệm và Nhu là thiếu ta Dương Hiếu Nghĩa và
đại úy Nguyễn Văn Nhung, theo lệnh của trung tướng Dương Văn Minh, lúc đó đứng
đầu phe đảo chính.
Nhà báo Mỹ Stanley
Karnow, mà tôi đã từng gặp tại Sài Gòn trước năm 1975 khi ông phỏng vấn tôi, đã
ghi lại trong quyển sách đoạt giải báo chí Pulitzer của ông (có tựa đề “Vietnam
– A history”) ba cuộc trao đổi giữa ông Ngô Đình Diệm với trung tướng Trần
Văn Đôn, một trong những tướng lãnh cầm đầu đảo chánh, và với ông Henry Cabot
Lodge, đại sứ Mỹ tại Sài Gòn trước khi hai anh em họ Ngô bị giết như sau:
Dù dinh Gia Long đã bị
phe đảo chánh bao vây, nhưng hai anh em vẫn còn bình tĩnh, nhất là ông Nhu vẫn
tin rằng sẽ có một cuộc “phản – đảo chánh” mang mật hiệu Bravo 1 và Bravo 2 sẽ
khai diễn và sẽ “bóp vỡ từ trong trứng” cuộc đảo chánh của phe tướng lãnh nổi
loạn. Các kế hoạch Bravo 1 và Bravo 2 của ông Nhu được giao cho tướng Tôn Thất
Đính, bấy giờ là Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định, thực hiện. Tai họa cho hai anh
em Diệm, Nhu là tướng Đính lại nằm trong nhóm tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh.
Lúc đầu, ông Diệm vẫn
hy vọng rằng cuối cùng cuộc phản loạn này cũng kết thúc như cuộc đảo chánh bất
thành ngày 11-11-1960. Ông đã chủ động gọi tướng Trần Văn Đôn.
Ông Diệm: Tướng lãnh
các anh đang làm gì vậy?
Tướng Đôn: Thưa cụ,
chúng tôi đã đề nghị với cụ nhiều lần rằng cụ cần cải cách chính sách theo
nguyện vọng của nhân dân. Bây giờ đã đến lúc quân đội phải đáp lại nguyện vọng
của nhân dân. Mong cụ hiểu chúng tôi.
Ông Diệm: Tại sao chúng
ta không ngồi lại với nhau nói chuyện? Chúng ta sẽ bàn về cái mạnh và cái yếu
của chế độ, và tìm ra con đường củng cố lại chế độ.
Tướng Đôn: Có lẽ đã quá
trễ để bàn luận việc đó, thưa cụ.
Ông Diệm: Chưa bao giờ
là trễ, do đó tôi mời tất cả các anh đến dinh cùng bàn vấn đề, vạch ra một giải
pháp được cả đôi bên chấp nhận.
Tướng Đôn: Thưa cụ, tôi
phải hỏi lại ý kiến những người khác xem sao.
Vào lúc 4 giờ 30 chiều
1-11-63, ông Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ Cabot Lodge.
Ông Diệm: Một đơn vị
quân đội làm loạn và tôi muốn biết thái độ của nước Mỹ ra sao.
C. Lodge: Tôi không nắm
được thông tin đầy đủ về chuyện này để trả lời tổng thống. Tôi có nghe tiếng
súng nổ nhưng không rõ các sự kiện xảy ra. Vả lại bây giờ là 4 giờ 30 sáng tại
Washington, do đó chính phủ Mỹ không thể bày tỏ một quan điểm nào đó vào lúc
này.
Ông Diệm: Nhưng ông
phải có một số ý kiến rõ rệt chứ. Dù sao, tôi cũng là quốc trưởng. Tôi đã cố
gắng làm tròn trách nhiệm của tôi. Tôi muốn hành xử vào lúc này điều mà trách
nhiệm và ý thức đúng đắn đòi hỏi ở tôi. Tôi tin vào bổn phận của mình trước hết.
C. Lodge: Chắc chắn
ngài đã làm đúng bổn phận của mình. Như tôi đã nói với ngài sáng nay thôi, tôi
ngưỡng mộ sự dũng cảm và sự đóng góp to lớn của ngài cho đất nước của ngài.
Không ai có thể phủ nhận những gì mà ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi âu lo cho
sự an toàn thân thể của ngài. Tôi có một báo cáo cho biết những người chịu
trách nhiệm tình hình hiện nay sẵn sàng cấp cho ngài và em của ngài giấy thông
hành an toàn (safe-conduct) rời khỏi nước nếu ngài từ chức. Ngài có nghe nói về
việc này?
Ông Diệm: Không (dừng
một lúc) Ông có số điện thoại của tôi chứ.
C. Lodge: Vâng. Nếu
ngài cần đến tôi liên quan đến vấn đề an toàn sinh mạng của ngài thì ngài hãy
gọi tôi…
Ông Diệm: Tôi đang cố
gắng thiết lập lại trật tự.
Đến 6 giờ 30 cùng ngày,
ông Diệm gọi lại tướng Đôn, nhưng được tướng Đôn thông báo sự khước từ của phe
lãnh đảo chánh. Họ đòi hỏi hai anh em ông Diệm phải rời khỏi nước. Ông Diệm
đồng ý nhưng đặt một điều kiện: phe đảo chánh phải chấp nhận cho ông một “đặc
ân”.
Ông Diệm: Tôi là một
tổng thống dân cử của quốc gia. Tôi sẵn sàng từ chức công khai, và tôi cũng sẵn
sàng rời khỏi nước. Nhưng tôi yêu cầu các ông dành cho tôi các nghi thức danh
dự ra đi của một tổng thống.
Tướng Đôn: (Suy nghĩ một lúc) Thật
sự, tôi phải nói rằng chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của cụ về điểm này.
Ông Diệm: Thôi được.
Cảm ơn.
Có dư luận ở Sài Gòn
cho rằng tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh giết hai anh em ông Diệm. Nhiều
nhà báo nước ngoài có mặt lúc đó cũng nghĩ như thế. Người được giao nhiệm vụ
thực hiện lệnh kết liễu sự sống của hai ông Diệm và Nhu là tướng Mai Hữu Xuân,
một người thân cận nhất của tướng Minh. Còn thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và đại úy
Nguyễn Văn Nhung là hai người trực tiếp hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Sau này có
dịp làm việc gần gũi với ông Dương Văn Minh tại Dinh Hoa Lan, nhiều lần tôi có
ý định hỏi thẳng ông chung quanh cái chết của hai anh em ông Diệm. Nhưng đây là
điểm rất tế nhị trong cuộc đời chính trị của ông, chưa bao giờ ông đề cập trở
lại chuyện này với bất cứ ai, nên tôi do dự không dám hỏi.
Làm việc với ông Minh,
tôi nhận thấy ông là con người quyết đoán, không do dự trong các chọn lựa chính
trị của mình, và khi đã chọn lựa thì nhất quyết đi đến cùng. Tuy nhiên có một
chi tiết trong tường thuật của nhà báo Mỹ Stanley Karnow trong quyển Vietnam
– A historymà tôi cho là hư cấu. Karnow kể rằng trước khi nhóm tướng tá
(Mai Hữu Xuân, Dương Hiếu Nghĩa, Nguyễn Văn Nhung) rời bộ tổng tham mưu đi thực
hiện lệnh kết liễu hai anh em ông Diệm, tướng Dương Văn Minh có đưa lên hai
ngón tay hướng về những người này để ra hiệu giết cả hai! Cử chỉ của ông Minh
được Stanley Karnow mô tả theo kiểu “cao bồi Mỹ” rõ ràng không đúng với bản
chất và tính cách ông Minh mà tôi biết khá rõ.
Theo hồi ký của cựu
tướng Đỗ Mậu của chính quyền Sài Gòn thì đã có một cuộc bàn luận giữa các tướng
lãnh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm mà người chủ trì là tướng Dương Văn Minh.
Tướng Mậu có chứng kiến cuộc bàn luận quyết định số phận của Diệm – Nhu. Ông là
người duy nhất không tán đồng giết hai anh em nhà Ngô.
Trở lại những ngày đầu
tôi vào nghề sau bài phóng sự về cuộc hành quyết ông Ngô Đình Cẩn.
Ngày 29-10-1964, ông
Trần Văn Hương, cựu giáo sư trường Collège Mỹ Tho, trước đây từng làm Đô trưởng
Sài Gòn – Chợ Lớn, được Thượng Hội đồng quốc gia chỉ định làm thủ tướng (Thượng
Hội đồng cũng chỉ định ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng). Tuy về mặt danh
nghĩa chính Thượng Hội đồng gồm 17 thành viên dân sự chỉ định Quốc trưởng và
Thủ tướng nhưng tất cả đều do bàn tay quyền lực của tướng Nguyễn Khánh đứng
phía sau phù phép. Sau nhiều cuộc đảo chính hụt nhằm vào ông ta, Nguyễn Khánh
lùi ra sau nhưng vẫn là người nắm quyền hành lúc bấy giờ. Đây là chính phủ thứ
7 được thành lập kể từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Sở dĩ tôi đề
cập đến chính phủ Trần Văn Hương là vì dưới chính phủ này lần đầu tiên tôi được
cấp giấy phép đứng tên chủ nhiệm một tờ báo hàng ngày! Lúc tôi mới 24 tuổi,
chưa đủ tuổi theo luật định (25 tuổi) để đứng tên xuất bản một tờ báo. Nhưng Bộ
Thông tin vẫn phải cấp giấy phép vì có sự can thiệp đặc biệt của chính Thủ
tướng. Ông Thủ tướng Trần Văn Hương là thầy của cha tôi khi cha tôi còn học ở
trường Collège Mỹ Tho. Số trí thức miền Nam là học trò của ông Hương lúc đó rất
đông. Để hỗ trợ thầy cũ của mình trong cuộc tranh giành và củng cố quyền lực,
các cựu học sinh Collège Mỹ Tho tập hợp trong một tổ chức ái hữu lúc đầu gồm
riêng học sinh trường mình. Nhưng sau đó, tổ chức này mở rộng ra thành Hội Liên
Trường, kết nạp cả cựu học sinh các trường như Collège Cần Thơ, Pétrus Ký và
Chasseloup Laubat. Trong thực tế, đây là một tổ chức chính trị trá hình của một
số trí thức miền Nam dựa vào lá bài Trần Văn Hương. Một số khá đông hội viên có
khuynh hướng đố kỵ người Bắc di cư.
Trong bối cảnh đó, tôi
được cha tôi khuyến khích xin ra tờ Sài Gòn Tân Văn. Chính vì vậy
mà dù không đủ tuổi, tôi vẫn được cấp giấy phép. Tiền làm tờ báo, cha tôi bảo
do cha tôi bỏ ra. Nhưng có khả năng do nhiều bạn bè của ông trong Hội Liên
trường góp lại.
Quá khứ của ông Trần
Văn Hương, khi tham chính lần đầu với chức vụ Đô trưởng Sài Gòn – Chợ lớn, đã
được nhiều người truyền lại là trong sạch. Người ta kể mỗi ngày ông đi làm bằng
xe đạp (do đó ông được mệnh danh “Đô trưởng xe đạp”). Là một người thầy của cha
mình và lại là một chính khách có tiếng tăm tốt, ông Hương dễ dàng nhận được sự
ủng hộ, thậm chí là sự ngưỡng mộ của một nhà báo vừa còn quá trẻ vừa non kinh
nghiệm như tôi. Cuối tháng 1 -1965, sau ba tháng ngồi ghế Thủ tướng, ông Hương
bị tướng Nguyễn Khánh và quân đội “hất” xuống, người thay ông là bác sĩ Phan
Huy Quát. Phe quân đội đưa ông Hương ra Vũng Tàu, giam lỏng ông trong một biệt
thự.
Tờ báo Sài Gòn
Tân Văn của tôi sống lâu hơn chính phủ Trần Văn Hương chỉ đúng một
tháng! Chính phủ Phan Huy Quát ngồi chưa “nóng đít” thì phải đối đầu với một
cuộc binh biến ngày 19-2-1965. Một trong những sĩ quan cầm đầu phe quân đội đảo
chính là đại tá Phạm Ngọc Thảo. Nhưng phe đảo chính đã không bắt được tướng
Nguyễn Khánh như kế hoạch đề ra khi tấn công vào Tổng tham mưu. Nhờ sự tiếp tay
của tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Khánh (người thật sự nắm quyền lực)
chạy thoát lên Đà Lạt. Chính phủ ông Quát sau hai ngày tan rã quay trở lại!
Tờ báo Sài Gòn
Tân Văn của tôi là tờ báo duy nhất tiếp tục xuất bản trong hai ngày
binh biến và Sài Gòn không có chính phủ; thêm nữa còn có bài tường thuật rõ
Tổng trưởng Bộ Thông tin – thiếu tướng Linh Quang Viên – trốn phe đảo chính
chui lên trần nhà và khi phe đảo chính vào nhà lục soát thì từ trên trần nhà
ông rơi xuống đất, bị phe đảo chính tóm gọn. Phóng viên viết tin như thế, trong
bối cảnh hỗn loạn lúc đó, thật khó kiểm tra thật hư thế nào. Lẽ đương nhiên khi
chính phủ Phan Huy Quát giành lại chính quyền và tướng Viên trở lại Bộ Thông
tin thì quyết định đầu tiên của ông ta là đóng cửa và thu hồi giấy phép xuất
bản của tờSài Gòn Tân Văn. Lý do chính thức: tờ báo đã không nộp lưu
chiểu khi phát hành trong hai ngày 19 và 20-2-1965. Thực tế dù có muốn tôn
trọng luật báo chí, hai ngày đó cũng chẳng biết phải nộp lưu chiểu ở đâu vì cả
Bộ Thông tin đều trốn biệt!
Nhớ lại kinh nghiệm đầu
tiên làm chủ báo, tôi thấy mình còn non tay quá. Không phải riêng chuyện một
mình phá rào ra báo trong hai ngày Sài Gòn không có chính phủ khiến cho tờ báo
bị đóng cửa, mà ngay cả cách làm báo, tổ chức tờ báo, nói theo bây giờ là
nghiệp vụ của tôi lúc đó còn rất sơ sài. Nội dung của tờ Sài Gòn Tân Văn chỉ
có một mục đáng nhớ là bức tranh liên hoàn “Anh Tám Sạc Ne” xuất hiện
hàng ngày trên trang nhất. Tác giả tranh liên hoàn này là nhà báo Cát Hữu. Ông
từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954 theo đợt sóng di cư. Tuy nhiên ông không nhập
theo các nhà báo di cư chống cộng như Tô Văn, Chu Tử, Đặng Văn Sung, Nghiêm
Xuân Thiện… Ông là một trong những nhà báo thế hệ cũ có bằng tú tài Pháp
(Bachelier). Vào thời đó nhà báo có đỗ tú tài như Cát Hữu rất hiếm. Nghe đâu
thời trẻ Cát Hữu đi kháng chiến chống Pháp và từng là thầy giáo Pháp văn của
một đảng viên cộng sản cao cấp. Theo tôi, kể từ sau hai nhân vật hí họa Lý Toét
– Xã Xệ, nhân vật Tám Sạc Ne của Cát Hữu là thành công nhất. Anh Tám
Sạc Ne là một phu đạp xích lô, mang râu cá chốt, nhậu ba xi đế và bàn
chuyện thế sự một cách thâm thúy! Dù tác giả là người Bắc nhưng nhân vật Tám
Sạc Ne chính cống Nam Bộ, Sạc Ne là tên một con đường chính – Boulevard Charner
– ở trung tâm Sài Gòn (đường Nguyễn Huệ bây giờ), thời trước chưa cấm xe xích lô
đạp.
Cát Hữu để sẵn tại tòa
soạn một bình mực tàu, một cây viết ngòi lá tre, mỗi sáng đến lấy một mảnh giấy
trắng đâu đó và thực hiện tranh của ông không quá 15 phút. Vẽ xong, ông xẹt qua
tiệm hút thuốc phiện cuối đường Phạm Ngũ Lão làm vài điếu. Nhà báo Tam Đức, thư
ký tòa soạn của báo tôi cũng thế, xẹt qua tiệm hút sáng một cữ, chiều một cữ.
Khi còn là phóng viên tập sự, được tòa soạn giao nhiệm vụ đến tiệm hút lấy bài
của các ký giả đàn anh, nhiều lần tôi được các bác, các chú khuyến khích làm
thử một điếu “để viết bài thêm bay bổng”. Nhưng tôi luôn lễ phép từ chối mặc dù
thời đó nhiều nhà báo lớn đều làm bạn với ả phù tiên!
Dù tờ báo Sài
Gòn Tân Văn không phải là một thành công nghề nghiệp đối với tôi,
nhưng mặt nào đó, tờ báo đã cung cấp cho tôi một “mảnh đất” đầu tiên hết sức
quí giá để đi sâu vào cái nghề mà chỉ có thực tiễn mới dạy cho mình những bài
học sâu sắc nhất. Mặt khác, tờSài Gòn Tân Văn cũng chỉ ra cho tôi
thực tế đầu tiên gắn báo chí với đấu tranh xã hội và dân chủ. Từ tờ báo Sài
Gòn Tân Văn cho đến mãi sau này, tôi luôn coi nghề báo không thể tách
rời các cuộc đấu tranh cải tiến xã hội, bảo vệ dân chủ và lẽ phải. Một nhà báo
dứt khoát phải là một trí thức dấn thân.
Tờ Sài Gòn Tân
Văn có khoảng 7 – 8 ngàn độc giả. Vấn đề tích cực nhất lúc đó được đặt
ra trên mặt báo Sài Gòn Tân Văn là vận động dư luận áp lực với
chính phủ Sài Gòn thành lập một trường Đại học ở miền Tây. Tôi viết một loạt
bài tố cáo chính phủ Sài Gòn cố tình không mở trường Đại học ở miền Tây với ý
đồ duy trì vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tình trạng lạc hậu về chính trị
và dân trí để dễ dàng cai trị. Vào thời điểm này, một số trí thức như giáo sư
Lý Chánh Trung, nhà kinh tế Nguyễn Văn Hảo, giáo sự Phạm Hoàng Hộ, kỹ sư Võ
Long Triều, anh Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Châu Tâm Luân cũng lên tiếng trên báo
chí và tổ chức nhiều cuộc hội thảo để tăng áp lực đối với chính phủ Sài Gòn
thành lập Đại học miền Tây. Tôi cũng có dịp xuống tận Cần Thơ tham gia một số
cuộc hội thảo. Cuộc vận động này cuối cùng đạt kết quả khi nhận được sự đồng
tình của thiếu tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp
trung ương, một chức danh cầu kỳ tương đương với Thủ tướng. Khi nắm quyền thủ
tướng, ông Kỳ nhanh chóng nhận ra đây là chỗ có thể thu phục cảm tình của trí
thức miền Nam, cân bằng lại dư luận phần đông cho rằng chính phủ Kỳ nghiêng về
người Bắc di cư và chèn ép người Nam. Người bị tố cáo có chủ trương kỳ thị là
đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát, cánh tay mặt của Nguyễn Cao Kỳ.
Cuộc đấu tranh thành
lập Đại học miền Tây là cuộc dấn thân đầu tiên của tôi vào một hoạt động xã hội
– chính trị ngoài báo chí. Chỗ đứng tự nhiên của tôi, ngay từ lúc đó trong làng
báo là đối nghịch với chính quyền. Phải chăng do tôi đã từng ủng hộ ông Trần
Văn Hương rồi ông bị truất quyền nên tôi chọn thái độ đối lập lại các chính phủ
kế tiếp? Không hẳn thế. Câu trả lời ở một lẽ khác: Không khí ở Sài Gòn những
năm đó rất dị ứng với các chính phủ do các tướng lãnh quân đội dựng lên. Tướng
tá Sài Gòn hầu hết nằm trong tay người Mỹ, phần nhiều lại tham nhũng, tất nhiên
không được lòng dân. Thái độ ngạo mạn của các viên chức và tướng tá Mỹ đối với
những người Việt Nam hợp tác với họ càng làm cho chính quyền Sài Gòn càng mất
uy tín. Báo chí đối lập (đôi khi cả báo chí theo chính quyền) mỉa mai gọi các
đại sứ Mỹ là “quan thái thú”, “quan toàn quyền”. Hình ảnh đại sứ Mỹ Henry Cabot
Lodge (thời chế độ Ngô Đình Diệm) mặc áo dài khăn đóng chẳng những không làm
cho ông gần được với người dân Sài Gòn mà trái lại bị coi như một minh họa đậm
nét về vai trò “quan thái thú” thật sự của ông ta. Các tuyên bố của Nguyễn
Khánh, Nguyễn Cao Kỳ đòi oanh tạc miền Bắc đều gặp sự phản ứng gay gắt ngay cả
trong thành phần người Sài Gòn bình thường không thiên cộng.
Trong không khí và bối
cảnh ấy, đối nghịch lại chính quyền Sài Gòn cũng là thái độ hiển nhiên đối với
nhiều người ở miền Nam, trong đó có tôi. Nhưng đi xa hơn nữa, chọn cho mình một
thái độ chính trị dứt khoát trên bình diện toàn cục của cuộc chiến ở Việt Nam,
đối với một thanh niên như tôi, vừa bước vào đời khá đơn độc sau thời gian dài
bị “nhốt” trong các trường nội trú, quả thật là khó. Tôi tiến tới từng bước, mò
mẫm, quan sát, tìm hiểu, lúc đúng lúc sai phải tự điều chỉnh rồi lại bước tới.
Một quá trình hết sức gian nan nhưng cũng hết sức hứng thú vì lúc đó động cơ chi
phối các hành động và thái độ chính trị của tôi đều xuất phát từ lòng yêu nước
rất hồn nhiên, từ ý muốn được đứng về phía đa số nhân dân, không bị người dân
coi mình là “tay sai Mỹ” hay “gia nô” của một chính quyền không được lòng dân.
Sau khi tờ Sài
Gòn Tân Văn bị đóng cửa, tôi trở lại làm tổng thư ký tòa soạn cho
tờ Bình Minh của ông Võ Văn Ứng, lúc này tờ báo không còn ra
hàng ngày nữa mà chỉ ra hàng tuần.
Sau cuộc đảo chính hụt
ngày 19-20 tháng 2-1965, qua ngày 21-2, Nguyễn Khánh bị Hội đồng Quân lực do
hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ chi phối, truất quyền và buộc lưu
vong với danh nghĩa “đại sứ lưu động”. Một thời kỳ quyền lực mới xuất hiện với
sự nổi lên của hai nhân vật rất khác nhau về tánh tình, luôn ngấm ngầm kình
chống nhau và tìm cách loại bỏ nhau nhưng vẫn phải dựa vào nhau để tồn tại cho
đến khi nào Washington quyết định chọn một!
Chính vào thời điểm
này, đại sứ Mỹ Maxwell Taylor thông báo cho Thủ tướng Phan Huy Quát biết Mỹ
đang chuẩn bị 3500 thủy quân lục chiến đầu tiên trực tiếp tham chiến tại miền
Nam. Nhưng ba ngày sau, Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đưa ra “đề nghị” buộc chính phủ
Quát phải ra tuyên bố “yêu cầu” chính phủ Mỹ gửi thủy quân lục chiến sang Việt
Nam. Dĩ nhiên lời “yêu cầu” của chính phủ Quát trước khi công bố đã được Hội đồng
Quân lực, mà Chủ tịch là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu thông qua, mặc dù trên
danh nghĩa người lãnh đạo cao nhất lúc đó vẫn còn là quốc trưởng Phan Khắc Sửu!
Ngày 8-3-1965, các đơn vị thủy quân lục chiến đầu tiên thuộc Lữ đoàn 9 thủy
quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng. Sau này trong hồi ký của mình,
ông Bùi Diễm lúc đó là cố vấn của thủ tướng Quát có kể lại rằng thái độ ban đầu
của ông Quát là không tán đồng đề nghị của Mỹ đưa quân tham chiến trực tiếp ở
miền Nam. Ông Quát cho rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ sẽ không thuận lợi cho
cuộc chiến chống Cộng của người Việt Nam. Tôi không có điều kiện để phối kiểm
lại điều tiết lộ này của ông Bùi Diễm. Nhưng một thủ tướng Sài Gòn chống lại
một chiến lược lớn của Mỹ ở Việt Nam và Đông Nam Á là điều không tưởng. Các
cuộc xung đột giữa Công giáo và Phật giáo trên đường phố Sài Gòn không được
quân đội vãn hồi trật tự, trái lại nhắm mắt làm ngơ. Người ta hiểu đã đến lúc
quân đội có ý định “cất” chính quyền dân sự theo ý muốn của Washington để phục
vụ cho đường lối tham chiến trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam. Cuộc xung đột giữa
ông Phan Khắc Sửu đóng vai trò quốc trưởng với thủ tướng Quát chỉ thêm một cái
cớ để lật đổ chính phủ dân sự lúc này.
Ngày 19-6-1965, thiếu
tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ được Hội đồng Quân lực bổ nhiệm vào chức vụ Chủ
tịch Ủy ban hành pháp trung ương, tương đương chức vụ thủ tướng. Còn Nguyễn Văn
Thiệu là Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, tương đương Quốc trưởng.
Lúc này tình hình chính
trị ở Sài Gòn rất rối ren, đặc biệt các cuộc xung đột giữa Công giáo và Phật
giáo. Mặt khác chính quyền Sài Gòn hầu như mất sự kiểm soát miền Trung nằm
trong ảnh hưởng của trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nguyễn Văn Thiệu khôn khéo
núp sau “vai trò tượng trưng” Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, đẩy Nguyễn Cao
Kỳ ra phía trước nhận trách nhiệm giải quyết tất cả các thứ rối ren. Thiệu nghĩ
rằng Kỳ sẽ tiêu ma uy tín và lún lầy trong tình hình trước mắt. Vậy là ông ta
không cần ra tay cũng loại được Kỳ.
CHƯƠNG 3: CHUYẾN XUẤT
NGOẠI ĐẦU TIÊN VỚI TƯ CÁCH NHÀ BÁO
Quyền hành vô tay,
Nguyễn Cao Kỳ hành xử một cách hết sức mạnh bạo. Lúc này các tướng lãnh thế hệ
trước, có ảnh hưởng ngay sau ngày đảo chính chế độ Diệm đã lần lượt bị loại ra
khỏi sân khấu chính trị miền Nam. Trước khi tướng Nguyễn Khánh đi làm “đại sứ
lưu động”, thật sự là lưu vong tại Mỹ, thì trung tướng Trần Thiện Khiêm ngày
4-10-1964 cũng đã lên đường thực hiện “chuyến viếng thăm thiện chí” một số nước
châu Á vô thời hạn (ông bắt đầu cuộc sống lưu vong khá dài hạn tại Đài Loan).
Ban lãnh đạo “Tam đầu chế” do Nguyễn Khánh dựng lên cuối tháng 8 -1964 gồm ông
ta, tướng Khiêm và tướng Dương Văn Minh chỉ tồn tại ngắn ngủi. Sau Nguyễn Khánh
và Trần Thiện Khiêm, đến lượt tướng Dương Văn Minh bắt buộc rời Sài Gòn và sống
lưu vong tại Thái Lan.
Nhân vật Nguyễn Cao Kỳ
lúc đầu được người Mỹ xem như một nhân vật lãnh đạo trẻ và triển vọng trong
nhóm tướng tá mà báo chí Mỹ và Pháp gọi là “Les jeunes Turcs”
(Lực lượng trẻ đang lên). Nhưng sau đó tướng Kỳ mất dần sự tự tin tưởng của Tòa
Bạch Ốc. Nguyễn Cao Kỳ ăn nói bộc trực và khá bạt mạng. Với những ai có cơ hội
gần gũi ông, có thể nhận ra khía cạnh thẳng thắn trong con người của ông. Nhưng
so sánh với Nguyễn Văn Thiệu bình tĩnh, tính toán và nhiều mưu mô, Nguyễn Cao
Kỳ bị người Mỹ đánh giá là hời hợt và bốc đồng trong các tuyên bố và hành động.
Ông dễ để lộ ra nhiều sơ hở cho đối thủ khai thác. Nguyễn Văn Thiệu là tướng
làm chính trị, có một đời sống kín đáo hơn, ăn nói kỹ lưỡng từng lời, còn
Nguyễn Cao Kỳ vừa võ biền lại “nặng phần trình diễn”. Mỹ nhận ra họ khó “nắm”
Kỳ hơn Thiệu. Với Kỳ, họ phải đối đầu trước nhiều bất trắc hơn. Chính vì vậy
cuối cùng Mỹ chọn Nguyễn Văn Thiệu đưa vào vai trò tổng thống chứ không phải
Nguyễn Cao Kỳ. Đó là một mối hận không bao giờ phai của Kỳ đối với người Mỹ.
Tôi có một số lần gặp
cả hai người nhưng không đi xa hơn mối quan hệ công khai và chính thức giữa một
nhà báo và sau đó một dân biểu Quốc hội với những người đang nắm quyền. Riêng
Nguyễn Cao Kỳ, khi ông không còn chức vụ nào nữa, hoàn toàn bị Mỹ và Nguyễn Văn
Thiệu loại ra khỏi guồng máy quyền lực, tôi có dịp gặp lại ông một cách tình cờ
một buổi trưa (năm 1974) tại CLB Xẹc Tây, tức CSS (Cercle Sportif Saigonnais,
nay là Cung Văn hóa Lao Động). Lúc đó tôi đang chơi tennis ở sân số 1. Ông Kỳ
vào Xẹc cũng với ý định đánh tennis. Chính ông Kỳ gợi ý với tôi đấu một set.
Ông Kỳ chơi quần vợt trước tôi khá lâu; tôi chỉ bắt đầu tập đánh từ năm 1971
tại CLB CSV (Cercle Sportif Vietnamien, nay là CLB Hồ Xuân Hương). Trận đấu
thách thức ấy có cá độ, tôi thắng với tỷ số 6-3. Ông vui vẻ ra lệnh cho các đàn
em không quân bắt độ theo ông gom tiền thanh toán trận thua ấy.
Trở lại giai đoạn
Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp (thủ tướng) có lắm chuyện để kể khi
ông mới nhậm chức. Chính phủ Kỳ là chính phủ duy nhất tại Sài Gòn đã ra quyết
định đóng cửa tất cả các báo ngày (lúc đó Sài Gòn có khoảng 40 tờ báo ngày).
Đây là lần đầu tiên Sài Gòn trải qua những ngày không có báo!
… Khi Kỳ cho báo chí
xuất bản lại thì chỉ có 12 tờ được cấp phép. Ông Kỳ hô hào “thắt lưng buộc
bụng” và chống tham nhũng nhưng đàn em của Kỳ nắm ty cảnh sát ở các quận Sài
Gòn – Chợ Lớn là những con cá mập hối lộ và tham nhũng. Mặc dù thế, tướng Kỳ
vẫn muốn mình nổi bật trong vai trò chống tham nhũng. Ông đã chọn một mục tiêu
cho ý đồ của mình: đó là Tạ Vinh, một doanh nghiệp người Hoa giàu có nổi tiếng
ở Chợ Lớn. Theo chính phủ của Kỳ thì Tạ Vinh phạm tội ăn gian sắt thép ở một
công trình xây dựng cho quân đội Mỹ mà Tạ Vinh đã trúng thầu. Sắt thép ăn bớt
này được Tạ Vinh tuồn ra chợ đen.
Một “pháp trường cát”
dựng tại bờ tường trụ sở hỏa xa, nằm bên hông bùng binh chợ Sài Gòn được chính
phủ Kỳ quảng cáo như một biểu tượng chống tham nhũng. Chính tại đây Tạ Vinh bị
đem ra hành quyết.
Tướng Kỳ chống tham
nhũng nhưng mỉa mai thay, ông lại bị chính báo chí Mỹ tố cáo nằm trong danh
sách các tướng tá Sài Gòn trước 1975 có tham gia vào buôn bán ma túy. Để thanh
minh dư luận tố giác này, trong cuốn hồi ký mới nhất của mình (Buddha’s
Child – Đứa con cầu tự), ông Kỳ kể rằng ông có một người chị ruột lớn
hơn ông 10 tuổi, một “con cừu ghẻ” trong gia đình, tên là Nguyễn Thị Lý, rời
Việt Nam sang sống tại Lào từ sau Thế chiến thứ hai. Tại đây, Thị Lý trở thành
một tay buôn bán ma túy”. Ông Kỳ nói: “Chính do người chị này mà có dư luận cho
rằng Thị Lý và tôi cùng hợp tác buôn bán ma túy”. Ông Kỳ kể tiếp rằng trong
thời kỳ ông làm thủ tướng, chị ông có trở về Sài Gòn và đại tá Nguyễn Ngọc
Loan, tổng giám đốc cảnh sát, nắm được tin này đã tìm đến phòng trọ của Thị Lý
để kiểm tra, lục xét, nhưng không thấy gì! Có một thực tế là trái ngược với
nhiều tướng lãnh Sài Gòn giàu có khi di tản ra nước ngoài, tướng Kỳ trải qua
một cuộc sống thường thiếu thốn tiền bạc… Nhưng, điều đó có đủ chứng minh sự
trong sạch của ông chăng?
Đầu tháng 10-1965, giám
đốc Sở báo chí của Bộ thông tin là Hoàng Nguyên cho tôi biết trong danh sách
các nhà báo được mời tham gia chuyến thăm chính thức sắp tới của Chủ tịch Ủy
ban Hành pháp Trung ương đến Đại Hàn (tức Nam Triều Tiên) có tên tôi. Chuyến
viếng thăm này của Nguyễn Cao Kỳ nằm trong cuộc vận động của chính phủ Sài Gòn
tìm kiếm sự ủng hộ của các nước đồng minh trong khu vực.
Chưa bao giờ đi ra nước
ngoài, cơ hội này đối với tôi thật hấp dẫn. Tôi có hỏi giám đốc báo chí Bộ
Thông tin tại sao tôi được chọn vào danh sách này và được ông ta tiết lộ hết
sức bất ngờ: Thủ tướng Kỳ bảo Nha báo chí phải mời “cái anh ký giả Nguyễn Lý hay
viết bài chống tôi”. Lúc đó tôi ký bút danh Nguyễn Lý trên các bài xã luận và
phóng sự của mình trên tờ Bình Minh và thường chỉ trích chính
phủ Kỳ. Bút danh Nguyễn Lý kết hợp họ của tôi và họ của vợ tôi.
Nhưng ngay lập tức tôi
sực nhớ mình đang trong tình trạng “không hợp lệ quân dịch”! Lúc ấy lệnh gọi
quân dịch còn đích danh từng người. Một buổi trưa đầu năm 1965, tôi ngồi trước
sân nhà của cha mẹ tôi ở đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển)
thì có một người đến tìm gặp Lý Quý Chung. Tôi hỏi lại có việc gì không và được
trả lời “Có lệnh gọi Lý Quý Chung nhập ngũ”. Dĩ nhiên tôi nói rằng Lý Quý Chung
không có ở nhà và từ chối nhận giấy triệu tập! Thế là từ đó tôi bị liệt vào
thành phần “không hợp lệ tình trạng quân dịch”, tức trốn lính. Khi tôi vào Học
viện Quốc gia hành chánh (1963), tôi được hưởng quyền miễn quân dịch trong suốt
thời gian theo học tại đây. Nhưng qua năm 1964 nghỉ học, đương nhiên tôi sẽ bị
gọi nhập ngũ năm 1965! Trong năm 1965, tôi vẫn sử dụng tấm thẻ sinh viên màu
vàng 3 sọc đỏ của HVQGHC để đối phó với các cuộc chận xét bắt quân dịch trên
đường phố. Lá bùa hộ mệnh ấy không còn hiệu quả nữa khi bước vào năm 1996. Về
mặt giấy tờ chính thức, hồ sơ ở quân đội và cảnh sát, thì tên tôi bất hợp pháp
ngay từ đầu năm 1965. Do đó vào thời điểm tôi được ghi tên vào danh sách ký giả
đi Nam Triều Tiên (tháng 10 -1965) trên nguyên tắc tôi không thể lọt qua khâu
làm thủ tục ở Tổng Nha Cảnh sát Đô thành. Lúc đầu vì sợ lộ chuyện trốn quân
địch, tôi có ý định bỏ cuộc. Nhưng sau đó tôi dò hỏi và biết được các ký giả
tháp tùng theo thủ tướng sẽ được cấp thông hành công vụ, có nghĩa làm thẳng thủ
tục ở Bộ Ngoại giao chứ không qua Tổng nha Cảnh sát. Như thế có khả năng tôi
không bị lộ.
Chuyến đi Nam Triều
Tiên là chuyến xuất ngoại đầu tiên trong cuộc đời tôi. Nhưng đó cũng là một
chuyến xuất ngoại nhớ đời. Phái đoàn chính phủ Việt Nam Cộng hòa viếng thăm
chính thức Nam Triều Tiên theo lời mời của thủ tướng nước này. Tháp tùng đoàn
có phó thủ tướng (tướng Nguyễn Hữu Có) và các phu nhân cùng một số thành viên
nội các. Điều không thể tưởng tượng về chuyến đi này là: Một phái đoàn cấp cao
quốc gia nhưng đi đứng rất tự do và vô trật tự. Các sĩ quan đi theo “phò” chủ
tướng Nguyễn Cao Kỳ đều thuộc binh chủng không quân, bạn bè thân thiết cũ hoặc
đàn em tâm phúc của ông ta cho nên bất kể vấn đề tôn ti trật tự trong đoàn.
Khi chiếc Caravelle vừa
rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất một lúc thì đoàn tháp tùng ngồi phía sau máy bay
gần ngay một dòng sòng bài bửu chơi bằng đô la Mỹ. Có lúc phu nhân của Thủ
tướng Nguyễn Cao Kỳ - bà Đặng Tuyết Mai cũng rời phòng VIP tham gia cuộc vui
một cách rất tự nhiên. Các sĩ quan không quân cao cấp đều là bạn của hai vợ
chồng bà. Nhưng cứ ra một lúc thì bà Kỳ lại bị ông Kỳ gọi vào! Phải nhìn nhận
rằng ông Nguyễn Cao Kỳ khi trở thành Thủ tướng rất ít thay đổi trong đối xử với
bạn bè cũ của ông thời hàn vi.
Tôi cũng được mời tham
gia sòng bạc lưu động trên cao mấy ngàn mét ấy. Tôi chỉ mang theo khoảng 250
USD, do vợ gom góp từ đủ thứ tiền, kể cả mượn của cha mẹ. Thế mà khi máy bay
còn 25 phút đến Hán Thành (tức Seoul) thì tôi chỉ còn vỏn vẹn 30 USD! Tôi chuẩn
bị tinh thần tham quan Đại Hàn một cách lành mạnh và khắc khổ. Nhưng may mắn đã
trở lại với tôi. Khi còn 10 phút nữa máy bay đáp xuống Seoul, tôi thắng lại gần
đủ số tiền đã thua.
Trong những ngày viếng
thăm chính thức Nam Triều Tiên của phái đoàn chính phủ Sài Gòn, người được báo
chí và dư luận nước này chú ý không phải là nhân vật chính Nguyễn Cao Kỳ mà là
vợ của ông. Tôi còn nhớ hình ảnh bà Kỳ mặc chiếc áo dài màu xanh “turquois” (ngọc
lam) đứng bên cạnh chồng tại sứ quán Sài Gòn ở Seoul trong cuộc tiếp tân chính
thức đẹp làm sao! Không đề cập các mặt khác, nói về sắc đẹp, bà Tuyết Mai là
một hoa khôi (trước khi trở thành vợ của Nguyễn Cao Kỳ, bà đã là một hoa khôi
trong hàng ngũ nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam). Tuy nhiên sắc đẹp của bà
không được người dân Sài Gòn và miền Nam ngắm nhìn một cách bình thường và
thiện cảm. Bà Tuyết Mai không can thiệp vào các công việc của chồng và cũng
không bị tai tiếng hối lộ tham nhũng như các bà vợ tướng tá khác. Nhưng cách bà
xuất hiện – có lẽ theo ý chồng – như một siêu người mẫu hay một diễn viên điện
ảnh, trước công chúng giữa lúc đất nước chìm trong khói lửa đã gây nên sự dị
ứng, thậm chí gây “sốc” đối với số đông. Hình ảnh bà Kỳ từng mặc bộ đồ phi
công, quần áo liền nhau, màu vàng nghệ chói lọi như một thứ thời trang cao cấp
đi bên cạnh chồng cũng ăn mặc như thế, không được người dân Sài Gòn chấp nhận.
Trong chuyến đi Nam
Triều Tiên, có một sự việc liên quan giữa ông Kỳ và tôi mà đến bây giờ tôi vẫn
không quên: khi quân đội Mỹ đưa toàn chính phủ Sài Gòn tham quan bằng trực
thăng một điểm cao ở khu vực Bàn Môn Điếm (sát ranh giới Nam – Bắc Triều Tiên),
thời tiết ở đây lạnh dưới 0 độ, nhưng tôi chỉ mặc một áo len bên trong và một
áo vét bên ngoài, do đó không đủ để chống lại cái rét dữ dội. Lúc mọi người
dừng lại trước một lều đóng quân của Mỹ để uống trà ngoài trời, hai hàm răng
của tôi đánh lập cập thành tiếng không sao kềm lại được. Tướng Nguyễn Cao Kỳ
đứng cách tôi chừng hai mét đột nhiên quay lại hỏi tôi: “Nhà báo không mang
theo pardessus à?”. Tôi trả lời: “Thưa không”. Trước khi đi tôi vẫn nghĩ Nam
Triều Tiên lạnh cũng ngang Đà Lạt mà thôi! Ông Kỳ lại quay sang nói với viên sĩ
quan tùy viên của mình: “Cậu hãy lấy cái pardessus dư của tôi cho nhà báo mặc”.
Tôi hết sức bất ngờ. Lúc đó tôi chỉ là một nhà báo mới vào nghề vô danh. Chắc
chắn ông Nguyễn Văn Thiệu sẽ không có một cử chỉ như thế. Nhưng cũng cần hiểu
thêm con người của Kỳ đầy những mâu thuẫn: sự chân thành chen lẫn với những cuộc
trình diễn kiểu diễn viên kịch; một mặt muốn sắm vai người hùng kiểu Lương Sơn
Bạc nhưng cách nói năng đao to búa lớn và kiểu ăn mặc lập dị lại tạo cho ông
một hình ảnh không nghiêm túc. Ông đã tự chế cho mình một kiểu áo mặc riêng,
nửa lai Ấn Độ nửa lai Trung Quốc thời Mao Trạch Đông! Ngày 15-7-1965, trong một
lúc cao hứng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố với một tờ báo tiếng Anh rằng một trong
những “thần tượng” của ông là Adolf Hilter, tên độc tài Đức quốc xã bị cả thế
giới nguyền rủa! Nhưng sau đó ông gặp sự phản ứng kịch liệt trong nước và quốc
tế, ông Kỳ đã nói lại là ông chỉ ngưỡng mộ Hilter ở cách Hilter đoàn kết được
dân tộc Đức!
Hãy trở lại chuyến đi
có lắm chuyện để kể của phái đoàn chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tại Nam Triều Tiên.
Sau mấy ngày viếng thăm chính thức, đoàn chuẩn bị sáng hôm sau lên đường trở về
nước. Nhưng chiều tối trước khi giã từ Seoul, một số sĩ quan cao cấp thân thuộc
của ông Kỳ đã tìm gặp bà Kỳ “đề đạt nguyện vọng của nhiều người trong đoàn”
muốn ở lại Seoul thêm một ngày để có thời gian “shopping”. Từ “shopping”, tôi
được nghe lần đầu đời mình trong dịp này. Ông Kỳ tán đồng ngay. Sáng hôm sau
thủ tướng Nam Triều Tiên đến khách sạn Chosun cổ kính với mục đích tiễn đưa
đoàn của Thủ tướng Sài Gòn về nước đành ra về và hôm sau phải tiễn lại. Tại Sài
Gòn, việc phái đoàn Nguyễn Cao Kỳ ở lại Seoul thêm một ngày không thông báo kịp
đến các đoàn ngoại giao nên phòng VIP ở sân bay Tân Sơn Nhất đầy nghẹt các đại
sứ ra đón phái đoàn theo đúng thủ tục ngoại giao. Vợ tôi cũng ra đón hụt! Chẳng
ai hiểu chuyện gì đã xảy ra bên Seoul.
Đi shopping ở Seoul,
tôi mua ít trà sâm và một cái đồng hồ hiệu Seiko lúc đó rất mốt. Chiếc đồng hồ
này sẽ có riêng một “lịch sử” của nó.
Đoàn rời Seoul đúng
ngày lễ Song thập của Đài Loan. Tôi nhớ rất rõ ngày này vì rằng khi máy bay sắp
sửa vào không phận Đài Loan trên đường về Sài Gòn, ở khoang sau nhóm sĩ quan
tùy tùng lại “kiến nghị” với bà Kỳ đoàn nên đáp xuống Taipei chơi, vì hôm nay
là lễ Song thập (tức Quốc Khánh) của Đài Loan. Bà Kỳ thấy có lý và vào phòng
VIP năn nỉ chồng. Khoảng một phút sau, ông Kỳ xuất hiện trước cửa phòng VIP và
thông báo với đoàn: “Đoàn ta sẽ dừng lại Taipei một hôm”. Thế là tại Sài Gòn,
các đoàn ngoại giao có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất lại lũ lượt kéo nhau ra
về một lần nữa vì thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ lại dời ngày về. Và vợ tôi lại đón
tôi hụt lần thứ hai.
Tại Taipei, khi được
phái đoàn thủ tướng Việt Nam Cộng hòa thông báo từ trên máy bay cuộc viếng thăm
đầy bất ngờ, chính phủ Đài Loan không thể không lúng túng. Vì đúng vào ngày lễ
lớn của mình, Đài Loan không còn chỗ trong các khách sạn sang trọng để đón khách
ở hàng quốc gia. Rốt cuộc họ đã phải khẩn trương dồn khách ở một số khách sạn
để dành chỗ cho đoàn của chính phủ Sài Gòn! Thật không thể tưởng tượng phái
đoàn của một chính phủ lại có thể bất chợt ghé nơi này nơi khác như một tay du
lịch ba- lô.
Chưa hết. Sáng hôm sau
các đoàn ngoại giao Sài Gòn lại được thông báo dời ngày đón thủ tướng lần thứ
ba vì rằng khi cả đoàn đã ngồi vào máy bay chuẩn bị rời phi trường Taipei thì
phát hiện chiếc Caravelle bị trục trặc bộ phận xăng. May mà sự cố này được phát
hiện kịp thời nếu không thì không biết chuyện gì xảy ra!
Máy bay phải cần một
ngày để sửa chữa. Thế là đại diện chính phủ Đài Loan lại phải rước trở đoàn vào
thành phố Taipei và lại dồn khách của họ lần nữa để có chỗ dành cho đoàn của
ông Kỳ tá túc thêm một đêm. Sáng hôm sau, máy bay sửa chữa xong, đoàn mới về
đến Sài Gòn.
Chuyến đi ra nước ngoài
lần đầu của tôi là như thế và đây cũng là dịp đầu tiên tôi tiếp cận với ông
Nguyễn Cao Kỳ. Cuộc tiếp cận này để lại trong tôi một kỷ niệm khó quên vì cử
chỉ đẹp của ông nhưng mặt khác lại là một sự thất vọng lớn đối với một nhân vật
đang là đại diện một chính phủ.
Với tôi và nhiều người
Sài Gòn lúc đó vẫn tiếp tục ảo tưởng vào ông Trần Văn Hương để có một chính phủ
đại diện miền Nam một cách đàng hoàng. Một số người cho rằng ông Hương sở dĩ
không làm được việc ở cương vị thủ tướng (cuối năm 1964) là do sự cố tình gây
khó khăn của tướng Nguyễn Khánh. Nhiều người trí thức miền Nam coi ông Hương là
một nhân vật trong sạch, ngay thẳng, không màng danh lợi. Dù ông Hương đã bị
Nguyễn Khánh lật đổ và quản thúc trong một biệt thự tại Vũng Tàu, nhưng các học
trò của ông trong Hội Liên Trường vẫn nuôi hi vọng đưa ông trở lại chính
trường. Tôi cũng nghĩ không có một lựa chọn nào khác. Từ Nam Triều Tiên trở về,
tôi cùng một người bạn đi ra Vũng Tàu tìm cách thăm ông. Tôi mang biếu cho ông
những gòi trà sâm mua từ Seoul và nhân dịp này cảm ơn ông đã tạo điều kiện cho
tôi xuất bản tờ Sài Gòn Tân Văn (đã bị chính phủ Phan Huy Quát
đóng cửa). Lần tiếp xúc đầu tiên ấy với ông Hương gây cho tôi một ấn tượng mạnh
mẽ. Ông có một nghệ thuật chinh phục người đối diện một cách khá dễ dàng. Giọng
nói Nam Bộ của ông mộc mạc, thân tình. Đối nghịch lại thân hình cục mịch và một
cái bụng rất to, nặng nề như một con gấu là những cử chỉ nhỏ nhẹ, tình cảm và
một nụ cười rất hiền lành. Trong khi nói chuyện thỉnh thoảng ông phải hỏi lại
vì nghe không rõ. Ông cho biết ông bị bệnh lãng tai sau thời gian bị Tây (Pháp)
bắt nhốt khi ông hoạt động chống Pháp. Về cái bệnh lãng tai của ông Hương, mãi
sau này tôi mới khám phá ra rằng tai ông bị nghễnh ngãng một cách có chọn lọc:
ông nghe rất bình thường nếu câu chuyện chẳng có gì làm ông bất bình; nhưng sẽ
nghễnh ngãng ngay khi ông không muốn nghe một nội dung nào đó mà ông không hài
lòng.
Cuối cuộc viếng thăm
ông tại Vũng Tàu hôm đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra khiến cho tôi vô cùng xúc
động: ông bảo tôi hãy cởi chiếc đồng hồ tôi đang đeo trên tay ra và liền đó ông
tháo chiếc đồng hồ trên tay ông và mang vào tay tôi. Một cuộc trao đổi vật kỷ
niệm vô cùng vinh dự cho tôi. Khi tôi rời khỏi biệt thự, nơi ông Hương bị quản
thúc, gặp lại người bạn ngồi ngoài ô tô chờ tôi thì mới hiểu rằng đây không chỉ
đơn thuần là một cuộc trao đổi “vật lưu niệm” vì cái đồng hồ Seiko tôi vừa mua
ở Seoull giá không bằng 1 phần 10 so với cái đồng hồ của cựu thủ tướng Trần Văn
Hương. Người bạn của tôi là một thầu khoán, rất sành điệu về các loại đồng hồ,
nói cho tôi biết ông Hương đã đeo vào tay tôi chiếc Rolex giá nhiều trăm đô la!
Thì ra ngoài cử chỉ trao đổi kỷ niệm đây còn là một cách kín đáo biếu cho tôi
một món quà khá đắt tiền. Nhưng với tôi giá trị lớn nhất của chiếc đồng hồ đó
vẫn là vật kỷ niệm từ một người mình từng ngưỡng mộ.
Sau đó nhiều lần tôi
trở ra Vũng Tàu thăm ông, tránh cho ông bớt cảnh cô độc bởi ít người dám đến
gặp ông trong tình trạng biệt thự bị canh gác, những người lui tới đều bị chụp
ảnh. Có khi tôi ra cùng vợ và đứa con trai đầu lòng của tôi. Vợ tôi nấu cho ông
ăn cái món mắm và rau mà ông rất thích. Có lần thằng con trai lớn của tôi, Lý
Quí Hùng, lúc đó khoảng 4 tuổi, nằm chung với ông Hương trên cái võng to (được
người thân đặt đan đặc biệt cho ông) đưa tay rờ vào bụng ông và hỏi: “Ông ơi
sao cái bụng ông to quá?” thì được ông Hương trả lời một cách rất hài hước làm
thằng nhỏ khoái chí: “Ông nuốt trong bụng một con chó”. Vào thời điểm ấy, ông
Hương mê hoặc cả ba thế hệ trong gia đình tôi: cha tôi, tôi và con tôi. Nhưng
rồi những diễn tiến của sân khấu chính trị những năm sau này sẽ làm lộ ra một
Trần Văn Hương rất khác với những gì giới trí thức Sài Gòn nghĩ về ông và chờ
đợi ở ông. Thần tượng “Ông già gân” – người ta yêu mến gọi ông như thế những
năm 1964-1965 – khi sụp đổ, đã gây thất vọng sâu sắc trong nhiều người trí thức
miền Nam: “Ông già gân” thật sự chẳng gân gì!
Khi trở về Sài Gòn, tôi
lại phải đối diện với thực tế không hợp pháp về tình trạng quân dịch của mình.
Từ khu dân cư đông đúc ở Cầu Chong, Tân Định, mỗi ngày tôi đi ô–tô–buýt đến chợ
Bến Thành, rồi từ đây đi bộ đến tòa soạn báo Bình Minh trên
đường Nguyễn Thái Học. Chiều về cũng bằng ô–tô–buýt. Phương tiện ô –tô–buýt
thường tránh được các chốt cảnh sát chặn xét giấy tờ quân dịch. Nhưng có một
lần xe chạy ngang chợ Tân Định thì bị chặn lại. Cảnh sát rằn ri ào lên và đứng
bít cả hai cửa lên xuống. Hành khách được lệnh bước ra khỏi xe từng người một,
cảnh sát nhìn mặt từng hành khách, ai còn ở tuổi quân dịch thì bị xét giấy tờ.
Tôi nghĩ trong bụng hôm nay mình hết cửa thoát rồi. Làm thế nào nhắn tin cho vợ
mình biết đây nếu bị bắt?
Nhưng khi đến lượt tôi
bước xuống xe thì không hiểu sao không một nhân viên cảnh sát nào ra hiệu tôi
đứng lại để xét hỏi. Thế là tôi cứ bước xuống xe rồi nhắm thẳng hướng chợ Tân
Định đi càng lúc càng nhanh, với sự hồi hộp có thể bị gọi lại bất cứ lúc nào.
Tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại thoát khỏi cuộc chặn xét hết sức gắt gao
đó. Có lẽ trên chuyến xe ô–tô–buýt ấy chỉ có mỗi mình tôi là thắt cà vạt một
cách trịnh trọng, không có dáng vẻ gì là một kẻ trốn quân dịch chăng? Cái thói
quen đi làm thắt cà vạt, dù trong túi đôi khi không còn một đồng nào – đã cứu
tôi?
Năm 1965 ấy đặc biệt
hết sức khó khăn đối với cái gia đình nhỏ bé của tôi. Trước đó, khi còn ở chung
với cha mẹ tôi trong một biệt thự trên đường Nguyễn Minh Chiếu (Phú Nhuận) thì
hầu như chúng tôi chẳng tốn kém gì riêng, thêm nữa đồng lương của tôi ở
báo Bình Minhrất khá. Nhưng cuộc sống chung không kéo dài suôn sẻ
vì mẹ tôi không hài lòng với cô dâu mà bà đã bị con trai mình áp đặt phải cưới.
Sự thiếu khéo léo và tế nhị của tôi trong vai trò làm con và làm chồng cũng góp
thêm phần căng thẳng. Cha mẹ tôi không đồng ý chút nào việc tôi bỏ học nửa
chừng tại Học viện quốc gia hành chính và lấy vợ. Thế là cơn giận dữ của mẹ tôi
đổ trút lên vợ tôi. Mẹ tôi cho rằng làm vợ mà không khuyên lơn được chồng, để
chồng bỏ học đi làm báo là không làm tròn vai trò làm vợ! Trong con mắt của mẹ
tôi, thủ phạm làm tôi hư hỏng – cãi cha mẹ lấy vợ sớm, không đi Pháp để học
thành tài, bây giờ lại bỏ học đại học nửa chừng – chính là vợ tôi. Bà không thể
chấp nhận việc một cô gái nào đó bên quận Tư - một quận lao động – đột nhiên
xuất hiện và “bắt sống” thằng con trai trưởng của bà (!)
Vợ tôi dù cố gắng làm
tròn bổn phận làm dâu nhưng vẫn không thuyết phục được mẹ tôi. Cha mẹ tôi rất
phong kiến: con trai có lỗi hay bê bối việc gì, ông bà không la rầy con trai
mình mà lại gọi con dâu lên hỏi tội. Có những lúc cha tôi giận tôi không chịu
xuống nhà ăn cơm nằm luôn trên lầu, vợ tôi phải thay tôi lên xin lỗi ông, có
khi phải quỳ lạy ông mới hết giận và xuống ăn cơm! Dĩ nhiên tối đến khi chỉ còn
hai vợ chồng trong phòng, vợ tôi không thể tiếp tục nén nhịn những đau khổ và
ấm ức phải òa khóc. Lúc ấy tôi mới 23, còn vợ tôi 22, nhưng chúng tôi đã có một
đứa con trai và vợ tôi đang mang thai đứa thứ hai.
CHƯƠNG 4: NGƯỜI VỢ TỪ THUỞ SINH VIÊN
Không thể kéo dài tình
hình này, nửa đêm một ngày cuối năm 1964 tôi lén đưa vợ con rời khỏi nhà cha mẹ,
sang Tân Định tạm ở chung với mẹ vợ trong khi chờ thuê một nơi nào đó.
Nơi cuối cùng hai vợ
chồng tôi thuê được là một căn phòng nhỏ khoảng 12 mét vuông, trong một căn nhà
có một gác gỗ xóm lao động Cầu Phong (Tân Định). Căn nhà này nằm sát kinh Nhiêu
Lộc nước đen ngòm, bùn lầy, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Khi mới đến nơi
này, tôi không tưởng tượng được rằng mình có thể ở lại đây.
Nhưng vợ chồng tôi
không có lựa chọn nào khác vì thu nhập của tôi ở báo Bình Minh đột
ngột bị cắt phân nửa. Từ 16 trang, báo rút xuống còn 8 trang do số phát hành
sụt giảm, tiền lương của nhân viên cũng bị giảm theo. Nhưng kể cũng lạ, khi đã
sống được ở nơi này rồi thì không còn nghe thấy mùi hôi thối nữa. Cái mũi con
người ta luôn phải thích nghi với môi trường sống một cách tài tình.
Thời điểm này tôi rất
khó khăn về tiền bạc. Có hôm, tiền đi xe ô-tô-buýt cũng không có, tôi phải thập
thò ở đầu cầu thang gỗ năn nỉ mượn tiền cô con gái nhỏ của bà chủ nhà. Đứa con
thứ hai của chúng tôi sinh ra (Lý Quí Dũng) bị suy dinh dưỡng. Một lần nó bị
bệnh nặng nhưng trong nhà không có tiền đi bác sĩ. May mắn hôm đó một người bạn
gái thân của vợ tôi tình cờ đến thăm và đem cầm sợi dây chuyền đang đeo để cho
vợ chồng tôi mượn.
Có lúc tôi có ý định
đưa vợ con trở về nhà cha mẹ vì thấy vợ con cực khổ quá nhưng vợ tôi cương
quyết không chịu, nhất định tạo dựng cho được cuộc sống tự lập. Quỳnh Nga (tên
vợ tôi) không hề than van cuộc sống khó khăn và đồng lương ít ỏi của chồng. Yêu
nhau năm tôi còn học ban Philo ở trường Jean Jacques Rousseau, tức chưa đậu Tú
tài 2 và lấy nhau khi tôi chưa có một nghề ngỗng gì, rõ ràng nàng chuẩn bị tinh
thần để đối đầu trước cuộc sống đầy khó khăn khi chọn tôi làm chồng.
… Tôi gặp Quỳnh Nga lần
đầu khi đi xem cuộc đấu bóng bàn quốc tế tại Nhà Kiếng, lúc đó là trụ sở của
Tổng liên đoàn Lao công (tổ chức công nhân của chế độ Sài Gòn) trên đường Lê
Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám). Buổi tối đó có mặt Quỳnh Nga là
cháu của nhà vô địch Mai Văn Hòa (gọi Mai Văn Hòa bằng chú). Khi gia đình của
Quỳnh Nga còn ở Kompong Cham, Mai Văn Hòa được cha của Quỳnh Nga nuôi ăn học và
tập đánh bóng bàn. Trước khi trở thành vô địch miền Nam, Mai Văn Hòa đã từng vô
địch Nam Vang (Campuchia). Trong buổi xem bóng bàn tại nhà Kiếng, tôi đi chung
với một người bạn cùng lớp và chính người bạn này đầu tiên tìm cách làm quen
với Quỳnh Nga, chứ không phải tôi, mặc dù trong lòng tôi cũng rất muốn được làm
quen nàng. Không có tiền nhiều trong túi, không có ô tô như thằng bạn, tôi tự
thấy mình thua trước trong cuộc chạy đua này. Quỳnh Nga không có sắc đẹp kiểu
rực rỡ, thu hút ngay ở cái nhìn đầu tiên, mà nàng đẹp một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng. Sau vài lần đi theo người bạn sang chơi bên nhà của Quỳnh Nga ở quận Tư,
tôi càng mến nàng, nhất là ở tánh tình rất giản dị và thẳng thắn của nàng. Sự
phô trương của người bạn tôi, con trai một của một gia đình giàu có ở Sài Gòn –
mỗi lần đến nhà Quỳnh Nga đều tự lái xe hơi hiệu Mercedes, sẵn sàng tặng nàng
những món quà đắt tiền như nhẫn hạt xoàn – vẫn không “lung lạc” được Quỳnh Nga.
Nàng dứt khoát từ chối các món quà bất thường của bạn tôi. Thái độ ấy của nàng
càng làm rung động con tim tôi.
Lần đầu tôi “bạo gan”
mời Quỳnh Nga đi xem chiếu bóng ở rạp Majestic trên đường Catinat (bây giờ là
Đồng Khởi), trong túi tôi chỉ đủ tiền xe taxi và tiền mua hai chiếc vé. Cha mẹ
tôi thuộc gia đình khá giả nhưng ông bà rất khắt khe trong việc cho tiền con
cái. Sau này khi đã yêu nhau, tôi có kể lại cho Quỳnh Nga nghe về “tình hình
tài chính” của tôi ở buổi đi chơi lần đầu tiên ấy. Nàng cười và nói với tôi:
“Trong đầu em lúc đó cũng có thoáng qua thắc mắc sao anh ấy không mời mình đi
uống nước hay ăn kem sau khi xem chiếu bóng nhỉ?”. Khi đã thành vợ chồng rồi,
vợ tôi mới biết vào thời điểm mới quen nhau, trước mỗi tối đi chơi và mời nàng
ăn nhà hàng, tôi đều lén lấy trong tủ rượu của cha tôi một chai rượu ngoại rồi
đem bán ở Chợ Cũ. Tủ rượu của cha tôi vơi đi hai phần ba thì cũng vừa lúc tôi
và Quỳnh Nga trở thành chồng vợ!
Con đường đi đến chồng
vợ của chúng tôi thật vô cùng gay go. Ban đầu, cả mẹ của Quỳnh Nga và cha mẹ
tôi đều chống đối, mỗi bên có lý do khác nhau. Lý do về phía cha mẹ tôi trước
hết là vấn đề môn đăng hộ đối, thêm nữa ông bà không muốn con mình lấy vợ quá
sớm không tập trung vào việc học hành. Với riêng mẹ tôi, việc bà mất quyền chọn
cô dâu đầu tiên là cả một sự thất vọng và đau khổ. Còn về phía mẹ của Quỳnh
Nga, làm sao bà vui vẻ được khi người con trai muốn làm rể của bà chưa có nghề
ngỗng gì. Vả lại bà cũng không biết rõ gia thế chàng rể như thế nào, ngoại trừ
nghe phong thanh cha mẹ cậu ta nhất quyết không chịu chấp nhận con gái mình làm
dâu. Quỳnh Nga lúc đó đã đi làm – thư ký hành chánh ở Tổng nha Thanh niên (sau
đó tại Tòa Đô Chính). Nàng là một trong hai nguồn thu nhập chính của gia đình.
Nguồn thu nhập kia từ mẹ nàng, làm công nhân may thêu ở khách sạn Caravelle.
Người anh lớn thất nghiệp ở nhà, còn ba em trai đều còn nhỏ đang đi học. Cha
của Quỳnh Nga, Nguyễn Bá Linh, là một nhà báo từng cộng tác với tờ Sài
Gòn Mới nhưng đã mất khi Quỳnh Nga được khoảng 10 tuổi. Nếu Quỳnh Nga
đi lấy chồng, nhất là lấy một anh chàng sinh viên như tôi, thì gia đình sẽ mất
một trong hai nguồn thu nhập. Bà còn âu lo không biết con gái mình sẽ có cuộc
sống ra sao với cậu sinh viên vô nghề này! Nhưng mẹ vợ tôi là một người phụ nữ
không hẹp hòi tính toán, bà sống trải lòng với mọi người, luôn hy sinh cho con
cái. Do đó dù không hài lòng về tôi nhưng rốt cuộc mẹ của Quỳnh Nga vẫn không
nỡ cự tuyệt tôi vì bà rất thương con gái mình. Bà làm lơ để tôi lui tới nhà khá
tự do. Thế là có tuần tôi ở bên nhà Quỳnh Nga đến bốn, năm ngày, bất chấp sự
cấm đoán của cha mẹ tôi. Bấy giờ tôi đã thật sự yêu nàng và quyết tâm cưới nàng
làm vợ - dù không được cha mẹ tán đồng và cũng không biết hai đứa sẽ sống bằng
thu nhập nào khi lấy nhau. Lúc đó thường trong túi tôi chỉ đủ tiền đưa nàng đi
xem hát hoặc ăn bò vò viên!
Lúc này cha tôi đang
làm Phó tỉnh trưởng hành chính ở tỉnh Ba Xuyên (tức Sóc Trăng). Khi về Sài Gòn
hay tin tôi vẫn đeo đuổi Quỳnh Nga và ở luôn bên đó, ông tức giận đi xe hơi
xang quận Tư tìm địa chỉ nhà Quỳnh Nga với ý định trực tiếp áp lực với mẹ của
Quỳnh Nga không để tôi lui tới nữa. Có lần Quỳnh Nga ngồi trong nhà, núp sau
cửa sổ nhìn ra đường, sợ run lên khi thấy chiếc ô tô chở cha tôi chạy qua chạy
lại năm, bảy lần, nhưng vẫn không dừng lại. Tôi nói với Quỳnh Nga: “Cha anh sẽ
không vào đâu. Ông không có lý do chính đáng để xông vào nhà em tìm gặp anh
hoặc gặp mẹ em. Anh là con trai chứ đâu phải con gái đâu mà mắng vốn”. Nhưng
thực tế cha tôi nghĩ rằng con trai mình đã bị “một cô con gái sành sỏi” rù quến
và ông tự thấy phải ra tay cứu con. Chuyện không thể tưởng tượng đã xảy ra ít
ngày sau đó: cha tôi vào tận nơi làm việc của Quỳnh Nga (ở Tòa đô chính) và gặp
xếp của nàng là trung tá Phước, phó đô trưởng nội an để “tố cáo” rằng nữ nhân
viên của ông ta đã “dụ dỗ con trai tôi”! Trung tá Phước là người quen biết với
cha tôi. Để không làm phật lòng bạn mình, ông ta đã cho gọi Quỳnh Nga vào phòng
làm việc và trước mặt cha tôi, ông đã nhẹ nhàng “hỏi tội” nàng cho có lệ: “Sao
cháu lại dụ dỗ con trai của bác Phát?”. Tan giờ làm, gặp tôi đến rước, Quỳnh
Nga khóc sướt mướt, kể lại chuyện vừa xảy ra và nói: “Cha anh đã làm nhục em
ngay tại cơ quan. Em đâu còn mặt mũi nào để tiếp tục đi làm?”
… Dù tôi nài nỉ cách
mấy và nói rõ tánh tình, con người của Quỳnh Nga xứng đáng như thế nào, cha mẹ
tôi vẫn nhất quyết không chịu cho tiến hành lễ cưới. Nhưng ngược lại mẹ của
Quỳnh Nga vẫn chấp nhận tôi như một chàng rể tương lai và đã tổ chức một bữa
cơm đạm bạc ra mắt gia đình. Và từ đó tôi được coi như con rể chính thức của
gia đình Quỳnh Nga. Thế là tôi đành triển khai kế hoạch tổ chức cuộc sống
riêng. Đầu tiên, tôi cố gắng tìm cho mình một công việc: tôi đi cùng Quỳnh Nga
đến một số trường tư thục xin vào dạy môn Pháp văn. Các nơi đều từ chối vì cái
bằng Tú tài Pháp còn mới toanh của tôi chưa có gì bảo đảm về khả năng đứng lớp.
Tôi đánh liều thuê phần trước một căn phố gần nhà Quỳnh Nga để trực tiếp mở lớp
luyện Pháp văn dành cho người lớn. Ngày khai giảng có khoảng 10 người đăng ký
nhưng dạy được nửa tháng chỉ còn ba người theo học! Lúc này Quỳnh Nga cũng vừa
nghỉ việc ở sở làm theo yêu cầu của tôi. Lý do: tôi không thể chịu đựng lâu hơn
cái tình trạng có quá nhiều người đàn ông trong sở làm đeo đuổi nàng đến tận
nhà. Trong số đó có một trung tá chiều nào cũng đến nhà Quỳnh Nga “trồng cây si”.
Tôi bực bội vô cùng nhưng không biết cách nào để loại hắn. Nghĩ mãi tôi mới tìm
ra một cách: chờ đúng lúc hắn tới và vừa ngồi vào ghế xa–lông ở nhà Quỳnh Nga,
tôi từ ngoài bước vào chào hắn một cách đầy tự tin. Rồi tôi đi thẳng vào trong
buồng và một lát sau trở ra với bộ đồ pyjama, ung dung đến ngồi xuống ghế bên
cạnh hắn. Tôi xử sự như mình là chủ trong nhà và là chồng sắp cưới của Quỳnh
Nga. Sau đó tôi mới gọi Quỳnh Nga đang còn ở phía nhà sau: “Em ơi rót trà cho
khách”.
Kể từ chiều hôm sau,
không còn thấy “cây si” đến mọc giữa nhà Quỳnh Nga nữa!
Và rồi chuyện khó tránh
giữa nam nữ yêu nhau tự do đã xảy ra. Một buổi sáng đầu năm 1962 trong nhà chỉ
còn lại hai chúng tôi, Quỳnh Nga sợ sệt nói với tôi “Em đã có…”. Tôi không
hoảng hốt nhưng lúng túng không biết phải lo cho Quỳnh Nga như thế nào đây
trong những ngày sắp tới. Suy nghĩ mãi tôi thấy chỉ còn một nước là thử về nói
thật với cha mẹ xem sao.
Giận con cãi lời mình
tự quyết định việc chọn vợ, nhưng khi nghe mình sắp sửa có cháu nội, cả hai ông
bà đều dịu giọng. Mẹ tôi bảo xin lỗi cha tôi để ông đồng ý tổ chức đám cưới.
Tôi đã xin lỗi và quì lạy cha tôi. Sau đó quyết định tiến hành đám cưới rất mau
chóng vì Quỳnh Nga đã có thai gần một tháng. Đám cưới được tổ chức khá lớn, lần
lượt tại hai nơi: ở Sài Gòn, nhà riêng của gia đình tôi và ở Sóc Trăng, nơi cha
tôi đang làm phó tỉnh trưởng.
Thời đẹp nhất và cũng
gay go nhất trong đời – tôi đã sống với Quỳnh Nga (từ 1961 đến 1985). Khi không
còn là vợ chồng nữa, do những bất đồng phát sinh trong cuộc sống chung không
thể giải quyết, chia tay nhau nhưng chúng tôi vẫn kính trọng nhau và tất cả đã
diễn ra khá êm đẹp. Chúng tôi hứa với nhau vẫn là bạn tốt của nhau. Thời gian
đã chứng minh đúng như thế. Dù sau này vì hoàn cảnh đặc biệt, tôi phải đi thêm
hai bước nữa (người vợ thứ hai của tôi – Cúc Phượng – mất vì bệnh) nhưng giữa
tôi và Quỳnh Nga luôn giữ một quan hệ rất tốt đẹp và tình nghĩa với nhau. Quỳnh
Nga vẫn duy trì một sự quan tâm đặc biệt đối với tôi và giáo dục các con (bốn
trai, một gái) luôn yêu thương và chăm sóc cha của chúng. Nhờ vậy dù cuộc hôn
nhân thứ nhất không được trọn vẹn, nhưng những dằn vặt, mất mát tình cảm cũng
được giảm thiểu tối đa cho cả hai phía, nhất là cho các con.
Quỳnh Nga là một mẫu
phụ nữ khá đặc biệt, không coi nặng đồng tiền và danh vọng. Gắn bó với chồng,
nàng gắn bó với cả lý tưởng của chồng, sẵn sàng chấp nhận mọi bất trắc và hy
sinh. Trong thời kỳ hoạt động chính trị đối lập của tôi, có những lúc nhà riêng
bị cảnh sát chìm theo dõi và bao vây ngày đêm, nàng bình tĩnh chịu đựng mà
không hề thở than. Sau tờSài Gòn Tân Văn là tờ báo đầu
tiên tôi làm chủ nhiệm do cha tôi tài trợ, các tờ báo sau đó tôi xuất bản đều
do tiền của hai vợ chồng vay mượn. Mỗi khi chính quyền Thiệu ra lệnh đóng cửa
một tờ báo tôi bỏ tiền ra làm là coi như thêm một lần trắng tay, nợ nần lại
chồng chất. Khi tự khai thác một tờ báo, tôi mượn trước các nhà phát hành một
số tiền, tiền mua giấy để in báo cũng được trả chậm có khi năm, bảy số, còn
tiền nhà in được “gối đầu” ít nhất hai, ba kỳ in. Do đó vốn bỏ ra cũng không
bao nhiêu, thế nhưng với khả năng tài chính và cái sức của chúng tôi lúc đó thì
mỗi khi báo bị đóng cửa là cả vấn đề gay go. Nhưng chẳng bao giờ nàng than van
hay hỏi tôi làm báo như thế để làm gì. Quỳnh Nga chỉ biết một điều là chồng
mình hành động vì một lý tưởng nào đó, chắc chắn là đẹp, không nhằm làm giàu
hay thu lợi riêng, nhưng được bạn bè thân thiết ủng hộ, những người chung quanh
và độc giả tán đồng. Có lần, khi tôi làm tờ Tiếng Nói Dân Tộc (1966),
nửa chừng hết tiền mua giấy để tiếp tục in báo, đầu óc căng lên chưa biết tính
sao, thì vợ tôi đưa ra ý kiến: Hãy bán chiếc ô tô FIAT 125 (do một người bạn
vừa giúp mua trả góp không đầy hai tháng), để có tiền mua giấy. Tờ Tiếng
Nói Dân Tộc là tờ báo duy nhất trong các tờ báo tôi bỏ tiền ra làm có
hi vọng phất lên. Có thể Tết năm đó (1967) sẽ là cái Tết tốt đẹp cho tờ báo và
nhất là cho anh em công nhân sắp chữ. Khi tôi xuống phòng sắp chữ theo dõi việc
lên trang, anh xếp typô nói với tôi bằng giọng gần như van nài: “Anh Chung ơi,
tờ báo đang bán rất chạy, anh ráng “dịu giọng” cho qua cái Tết này để anh em
tránh lận đận”. Nhưng số phận khắc nghiệt đã định sẵn, không làm sao né tránh
hay “dịu giọng”, một sự kiện chính trị xảy ra buộc tờ báo phải nói lên chính
kiến của mình. Đó là vụ án Châu–Hồ-Trúc. Cả ba đều bị tòa án của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình. Hai người – dân biểu Trần Ngọc Châu và nhà báo
dân biểu Hoàng Hồ - bị coi là hoạt động cho cộng sản, còn người thứ ba, cũng là
dân biểu, anh Phạm Thế Trúc, bị ghép tội “phản quốc” vì đã đốt hình nộm Nguyễn
Văn Thiệu trong một cuộc biểu tình phản chiến ở Tokyo bên Nhật. Tôi phản đối sự
kết án của tòa án chính quyền Sài Gòn và trong một bài báo tôi đặt vấn đề: đất
nước đang bị chia đôi, vậy Tổ quốc ở đâu và họ đã phản lại Tổ quốc nào?
Chính phủ Nguyễn Văn
Thiệu đã trả lời câu hỏi của tôi một cách rất đơn giản: đóng cửa tờ báo Tiếng
Nói Dân Tộc khi chỉ còn không đầy một tháng là Tết đến! Tôi chẳng than
phiền gì cái quyết định của chính phủ Thiệu vì nó nằm trong luật chơi của chính
trường. Đối đầu với thế lực cầm quyền là đương nhiên phải hứng chịu những đánh
trả của nó. Biết trước những hậu quả ấy nhưng tôi vẫn không cưỡng lại được cái
xu thế phải đứng về phía người dân – phần đông chống chính quyền Thiệu, chống
lại chính sách can thiệp của Mỹ tại Việt Nam. Cái xu thế ấy chảy trong huyết
quản tôi như thể một dòng thác. Nó cuốn trôi các toan tính riêng tư và quyền
lợi cá nhân, mặc dù lúc ấy tôi không ý thức được rõ ràng dòng thác ấy sẽ đưa
mình đến đâu.
Nhưng khi gặp lại các
anh em sắp chữ, tôi thấy xót xa vô cùng. Tết này họ không có những món tiền
thưởng kha khá để mang về cho gia đình. Với vợ tôi, hình như nàng đoán trước
những bất trắc luôn chực chờ các hoạt động của chồng nên nàng không tỏ ra bất
ngờ mà ngược lại nàng còn tán đồng lập trường của chồng. Cái xe FIAT 125 bay
mất, tôi không tiếc nó, nhưng nhiều năm sau này tôi vẫn tự hỏi mình có thể chọn
một thái độ nào khác mềm dẻo hơn để vẫn giữ vững lập trường, tránh được cho anh
em công nhân sắp chữ một cái Tết khó khăn, lại đồng thời duy trì được lâu dài
hơn một công cụ đấu tranh cho dân chủ và hòa bình?
Suốt 10 năm chồng làm
dân biểu Quốc hội, Quỳnh Nga vẫn sống và sinh hoạt rất giản dị, thời gian của
nàng chủ yếu dành cho chồng con, cái thú đam mê duy nhất của nàng là quần vợt.
Nàng vẫn là nàng, chẳng thay đổi bao nhiêu so với cô gái mà tôi quen biết ở bên
quận Tư ngày nào. Nàng không se sua và tụ tập với các bà, các cô thuộc xã hội
trưởng giả Sài Gòn. Chiếc áo dài vẫn luôn là cách ăn mặc quen thuộc của nàng.
Mỗi khi tôi làm chủ
nhiệm một tờ báo hoặc thuê manchette một tờ báo nào đó tiếp tục làm báo, Quỳnh
Nga đều đảm nhận vai trò người quản lý của tờ báo. Trong quan hệ với các ký giả
làm việc với chồng, Quỳnh Nga luôn tạo được tình cảm thân thiết, gắn bó. Cái
cảnh cảnh sát hùng hổ đến bao vây nhà in và tòa soạn tịch thu báo, phá tung các
bản kẽm mỗi khi tờ báo có bài chống chính phủ, chẳng xa lạ đối với nàng. Tinh
thần của nàng không hề bị lung lạc. Mỗi khi biết báo sắp sửa bị tịch thu, nàng
tổ chức tuồn báo ra ngõ sau nhà in để bán vớt vát phần nào (báo bị tịch thu
thường bán rất chạy!)
Là một người trực tính
nên tính cách của Quỳnh Nga cũng khá đặc biệt. Nàng thường hành động theo bản
năng và sở thích cá nhân, đôi khi bất kể những ràng buộc hay khuôn phép chung
nên làm tôi nhiều phen cũng phải điên đầu. Tôi không thể quên được những chuyện
xảy ra trong chuyến tham dự Hội liên hiệp các đại biểu dân cử châu Á (APU) năm
1967 tổ chức tại Bangkok. Vợ các dân biểu nghị sĩ dự hội nghị cũng được mời
tháp tùng. Lúc đó Quỳnh Nga đang mang thai đứa con gái (Lý Quỳnh Kim Trinh) một
tháng. Ngày đầu thành viên các đoàn (có cả cựu Thủ tướng Nhật Kisi bấy giờ là
Thượng nghị sĩ) được Nhà Vua Thái Lan và Hoàng hậu mời dự tiếp tân tại Hoàng
cung. Các đoàn đều xuất phát từ khách sạn đúng giờ, duy chỉ có vợ tôi chậm trễ
mặc dù tôi liên tục thúc hối nàng. Nàng không chịu hiểu rằng dự buổi tiếp tân –
“reception” – của Nhà Vua hoàn toàn khác các “reception” bình thường mà khách
có thể đến trễ cũng không sao. Còn lại chỉ hai vợ chồng tôi, xe cảnh sát Thái
dẫn đường phải chạy trên tuyến ngược chiều để hạn chế sự trễ nải. Khi chúng tôi
vào Hoàng cung thì thành viên các đoàn đã đứng xếp hàng đâu đó ngay ngắn nhưng
nhà vua và hoàng hậu vẫn chưa xuất hiện vì ban nghi lễ còn chờ chúng tôi! Đứng
vào hàng, tôi như người mọc đầy gai. Nhưng sau đó khi buổi tiệc bắt đầu, khách
mau chóng quên đi cái lỗi quá cỡ của hai vợ chồng tôi. Chiếc áo dài màu xanh
turquoise (ngọc lam) vừa vặn thân hình rất thon thả của Quỳnh Nga đã trở thành
trung tâm của sự chú ý đầy thiện cảm.
Trong chuyến đi Bangkok
còn xảy ra một chuyện tày trời khác: Vợ tôi vốn không thích ăn đồ Tây, mà các
món ăn chiêu đãi trong suốt mấy ngày ở Bangkok đều là đồ Tây. Nàng đang ốm
nghén nên càng thèm ăn các món Việt Nam. Do đó khi cả đoàn dự Hội nghị được đưa
đi tham quan khu Chợ Nổi (Floating market), lúc chiếc thuyền máy đưa chúng tôi
đi chạy ngang một chiếc ghe bán hủ tiếu, thế là cơn thèm ăn ở người đang ốm
nghén không làm sao kềm chế được. Nàng nhất định yêu cầu chiếc thuyền máy dừng
lại cho nàng ăn hủ tiếu, bất kể bị cả đoàn bỏ lại đàng sau. Sống với nhau biết
tính ý, tôi đành chiều nàng thôi. Chuyện này may không bị đoàn phát hiện!
Còn khi nàng nổi cơn
ghen lên thì chẳng coi trời đất ra gì, dù đang dự buổi tiếp tân tại một sứ quán
đi chăng nữa. Lần đó chỉ vì một cái bắt tay với một nữ chính khách duyên dáng
nhưng hơi lả lơi, nàng đã buộc tôi phải rời sứ quán ra về tức khắc “nếu không
sẽ bùng nổ chuyện không tốt lành” vì “tôi không thể kềm chế lâu được”. Cái tính
ghen tuông của Quỳnh Nga nổi tiếng trong giới bạn bè, nhưng thẳng thắn mà nói
lỗi ấy do tôi. Nếu tôi là một người đàn ông nghiêm túc, không yếu lòng với phụ
nữ, không tái đi tái lại “tội lỗi” đối với vợ, thì chắc chắn Quỳnh Nga vẫn giữ
được sự thùy mị, dịu dàng thời con gái. Lấy vợ lúc còn quá trẻ, sự tò mò về phụ
nữ còn đầy ắp khát khao, cho nên dù rất yêu vợ, tôi vẫn không thể giữa được sự
thủy chung đúng nghĩa với vợ mình. Khi chia tay nhau sau 25 năm chung sống, tôi
đã nhận trách nhiệm sự gãy đổ về mình, dù rằng chưa bao giờ trong suốt thời
gian chung sống với Quỳnh Nga tôi lại có một cuộc sống chung song song với ai
khác. Đó chỉ là những cuộc tình lãng mạn, những dan díu ngắn ngủi nhưng không
thể đi xa hơn giới hạn mà tôi cố gắng đặt ra, bởi mình là người đã có vợ và vợ
mình chẳng có lỗi lầm gì cho mình đối xử tệ bạc. Tôi may mắn, trong tình cảm
riêng tư, đã gặp những phụ nữ luôn ý thức về hoàn cảnh người đàn ông mà họ đang
yêu để biết tự kiềm chế và dành cho nhau những cảm nghĩ tốt dù đã chia tay. Tôi
không bao giờ coi những quan hệ đó là những chiến tích, mà coi đó là những rung
động con tim mình không né tránh được, trách nhiệm thuộc về mình.
Và khi chính mình không
gương mẫu, tôi thấy khó hướng dẫn, khuyên can vợ cái đúng cái sai trong cuộc
sống chung. Cứ thế, những căng thẳng cứ nổ ra, những mâu thuẫn phát sinh, sự
tương kính cũng giảm dần để rồi vẫn còn yêu nhau nhưng không thể tiếp tục chung
sống với nhau được nữa. Cuộc tình lý ra có thể kéo dài một đời thật đẹp với
biết bao nhiêu kỷ niệm, đành kết thúc sau 25 năm! Hôm chúng tôi chia tay nhau,
tôi đặt lên hai má nàng hai cái hôn đầy tình cảm biết ơn, bởi vì cuộc đời tôi
trong 1 phần 4 thế kỷ sống với nàng, hơn phân nửa sự nghiệp gây dựng lên là do
công lao của nàng. Tôi rời khỏi nhà mang theo cho riêng mình “sự nghiệp tinh
thần” mà cả hai đã cố gắng xây đắp và chẳng để lại gì đáng giá cho nàng. Vào
cái năm 1985 còn đầy khó khăn ấy, gia đình tôi tay trắng hoàn toàn.
Thế nhưng, một mình
bươn chải, từ một người phụ nữ nội trợ, nàng cùng các con dần dần thoát qua các
giai đoạn hết sức khó khăn ấy để cuối cùng rất thành đạt trong ngành kinh doanh
nhà hàng ở TP. HCM. Nàng vẫn là một phụ nữ mà tôi rất kính trọng.
Trở lại những năm tháng đầu tiên rời gia đình – sống riêng đầy khó khăn ở bên kinh Nhiêu Lộc nơi nước đen xì hôi hám, đứa con thứ nhì bị bệnh không có tiền đưa đi bác sĩ – bản thân tôi ở trong tình trạng trốn quân dịch, may mắn một lần thoát khỏi lưới cảnh sát – dù như thế, nhưng thời kỳ đó thật sự không hoàn toàn đen tối. Trốn quân dịch, nhưng tôi cũng đã có dịp đi tận Seoul (Nam Triều Tiên). Và cũng ở trong tình trạng không hợp lệ quân dịch, tôi lại được mời làm giám đốc Nha tác động tâm lý của Bộ Thanh niên Thể thao! Chuyện khó tin ấy xảy ra như thế này: Năm 1965, tôi đang làm tổng thư ký tòa soạn báo Bình Minh, tôi có viết loạt bài vận động sự thành lập một đại học ở miền Tây. Tôi chỉ trích nội các Nguyễn Cao Kỳ cố tình không thành lập đại học tại miền Tây để tiếp tục duy trì khu vực đồng bằng sông Cửu Long ở tình trạng dân trí thấp, hạn chế sự phát triển dân chủ. Cùng lúc này có một nhóm trí thức miền Nam tên tuổi như Phạm Hoàng Hộ, Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Hảo, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Võ Long Triều cũng mở cuộc vận động mạnh mẽ đòi thành lập đại học miền Tây (ban đầu chưa xác định tên Đại học Cần Thơ). Người tự đứng ra phối hợp các cuộc vận động này là kỹ sư Võ Long Triều. Chính anh đã mời tôi nhập nhóm và tham gia các cuộc hội thảo tổ chức ở Cần Thơ để gây áp lực với chính quyền. Võ Long Triều là người Công giáo, có hậu thuẫn từ Tòa Tổng giám mục, thêm nữa lúc bấy giờ anh là một gương mặt trí thức trẻ miền Nam có khá nhiều uy tín, nên Nguyễn Cao Kỳ chọn anh làm đầu cầu để với tới giới trí thức miền Nam mà phần đông dị ứng phong cách “cao bồi” của ông và đồng thời không ủng hộ lập trường hiếu chiến của “nội các chiến tranh” mà ông đứng đầu. Thủ tướng Kỳ (chức vị chính thức lúc đó gọi là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương) mời Võ Long Triều vào nội các của mình với tư cách Bộ trưởng Thanh niên (chức danh chính thức là Ủy viên Thanh niên). Để lấy lòng người dân miền Nam, Thủ tướng Kỳ cũng ra quyết định thành lập Đại học Cần Thơ.
Khi ông Võ Long Triều
trở thành Bộ trưởng, qua trung gian đại tá Lê Quang Hiền (anh ruột của liệt sĩ
Lê Quang Lộc), ông mời tôi tham gia Bộ này, lúc đầu ở cương vị phó giám đốc Nha
thể thao, nhưng tôi từ chối. Sau ông lại mời tôi vào chức vụ giám đốc Nha tác
động tâm lý. Cái tên Nha này nghe rất “xôm” nhưng thực chất là phụ trách tuyên
truyền và báo chí. Nha này có sẵn trong sơ đồ tổ chức của Bộ Thanh niên từ
trước khi ông Triều về làm Bộ trưởng.
Ngày đầu tiên tôi vào
làm ở Bộ Thanh niên, đại tá Hiền đến tận nhà rước tôi bằng xe Mercedes. Cả xóm
nghèo bên kinh Nhiêu Lộc tò mò ào ra xem. Trước khi nhận lời làm ở Bộ Thanh
niên, tôi có ý về nhà hỏi ý kiến cha tôi. Ông vẫn chưa hết giận về chuyện tự ý
lấy vợ của tôi và nhất là việc nửa đêm tôi đem vợ con trốn ra ở riêng. Không
quay lại nhìn tôi, tiếp tục đọc báo, ông nói: “Có thằng điên mới mời mày làm
giám đốc!”. Với ông, đó là một chuyện khó tin, vì trong con mắt của ông, tôi
còn là một thằng thanh niên hư hỏng. Phần khác, bản thân ông từ tỉnh trở về Sài
Gòn không tìm được cái ghế giám đốc dù ngạch trật của ông ngang với một Đốc phủ
sứ (ngạch bậc cao nhất của công chức Sài Gòn trước đây). Thế mà “ông con” lại
được ai đó mời làm giám đốc một Nha hẳn hòi – làm sao tin nổi!
Trong thực tế việc làm
giám đốc của tôi ở Bộ Thanh niên suýt nữa không thành. Tôi vẫn đang trong tình
trạng bất hợp lệ về quân dịch. Khi Bộ trưởng Võ Long Triều ký xong quyết định
bổ nhiệm tôi, ông mới biết tình hình này. Ông có hơi trách tôi đã không cho ông
hay trước. Nhưng thật sự mục đích chính của tôi khi nhận làm giám đốc là muốn
hợp thức hóa tình trạng quân dịch của mình. Tôi xử sự như thế với người tin
tưởng mình là không đúng nhưng đây là cơ hội gần như duy nhất để gỡ bỏ thế bí
của tôi. Cũng nên nói rõ thêm lý do tôi “trốn quân dịch”: hoàn toàn không do sợ
cầm súng ra chiến trường mà là sợ chết một cách vô nghĩa. Vào năm 1964, chiến
trường miền Nam chưa ác liệt. Tôi mê làm báo, không muốn niềm say mê của mình
bị gián đoạn, đó là một lý do. Nhưng lý do lớn hơn là tôi không tìm thấy trong
chuyện cầm súng bảo vệ chế độ Sài Gòn một mục đích lý tưởng, một ý nghĩa nào để
dấn thân.
… Nếu biết trước tôi
không hợp lệ tình trạng quân dịch, rất có thể ông Triều đã không mời tôi tham
gia Bộ Thanh niên. Còn khi đã lỡ rồi (đã có quyết định bổ nhiệm) nên ông phải
tìm cách hợp thức hóa tình trạng của tôi. Ông Triều có quan hệ khá thân với đại
tá Nguyễn Đình Vinh, đổng lý văn phòng Bộ Quốc phòng (lúc này, Bộ trưởng Quốc
phòng là trung tướng Nguyễn Hữu Có). Nhờ sự can thiệp của đại tá Vinh với đại
tá Bùi Đình Đạm, giám đốc Nha động viên, tôi được cấp giấy tạm hoãn quân dịch
một khóa (khóa mà tôi không trình diện) và phải trình diện ở khóa tới. Và như
thế coi như tôi được hợp thức tình trạng quân dịch bất hợp lệ trước đây của
tôi. Nếu diễn tiến các sự việc bình thường, tôi phải nhập ngũ trong bốn tháng
tới. Điều tôi không thể nào ngờ là cái giấy hoãn dịch ấy, đến đúng lúc đã giúp
tôi có một bước ngoặt hết sức quan trọng trong cuộc đời mình.
Ngày 6-6-1965, Ủy ban
lãnh đạo quốc gia, một định chế do quân đội lập ra gồm các tướng lãnh, đứng đầu
là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đóng vai quốc trưởng (còn thiếu tướng Kỳ, chủ
tịch Ủy ban hành pháp trung ương, đóng vai trò thủ tướng) dưới sức ép của Mỹ
buộc phải tuyên bố tổ chức Quốc hội lập hiến. Sắc lệnh tổ chức bầu cử do tướng
Kỳ ký hai tuần sau đó, ấn định ngày bầu cử là 11-9-1966. Ý đồ của Mỹ là tạo ra
một nền tảng pháp lý và dân chủ do chính quyền Sài Gòn, từ đó sự can thiệp của
Mỹ vào Việt Nam, núp dưới chiêu bài theo yêu cầu của chính quyền Sài Gòn, cũng
có cơ sở pháp lý với quốc tế.
Cả ông Thiệu và ông Kỳ
đều hiểu rằng đây cũng là lúc Washington sẽ chọn chính thức – trong hai người,
ai sẽ đứng đầu miền Nam vì tiếp theo cuộc bầu Quốc hội lập hiến, sẽ là cuộc bầu
cử tổng thống. Người Mỹ được chọn ra ứng cử sẽ đương nhiên đắc cử vào vị trí
này. Cuộc chạy đua giành ảnh hưởng và gây thế lực giữa hai người đã diễn ra
ngay sau khi ngày bầu cử Quốc hội lập hiến được công bố. Ông Thiệu và ông Kỳ
đều muốn rằng đa số dân biểu trong quốc hội sắp tới là người của mình. Do đó cả
hai phía đều tung ra tay chân để tập hợp lực lượng, đưa người ra ứng cử vào
quốc hội.
Từ khi lên làm thủ
tướng, ông Kỳ tìm cách lấy thêm hậu thuẫn ở cánh trí thức miền Nam để lấp vào
chỗ yếu nhất của mình. Ông là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Người làm
trung gian đắc lực cho ông Kỳ trong ý đồ này là kỹ sư Bộ trưởng Thanh Niên Võ
Long Triều. Chính ông Triều đã “thầy dùi” cho thủ tướng Kỳ ký quyết định thành
lập Đại học Cần Thơ. Tôi cũng đã chứng kiến một nỗ lực khác của Kỳ, qua trung
gian ông Triều, nhằm lôi kéo trí thức miền Nam vào chính phủ của ông ta. Thời
gian này tôi đang làm giám đốc ở Bộ Thanh niên. Ông Triều thay mặt thủ tướng Kỳ
mời một nhóm trí thức miền Nam như Âu Trường Thanh, Nguyễn Văn Trường, Khương
Hữu Diểu, Âu Ngọc Hồ, Nguyễn Văn Bông, Trương Văn Thuấn đến nhà riêng của tướng
Kỳ nằm trong một khu đặc biệt ở sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi cũng có mặt trong
cuộc gặp gỡ này. Ông Nguyễn Cao Kỳ xuất hiện trong bộ đồ bay phi công. Sau khi nâng
ly và có vài lời thăm hỏi xã giao với khách, ông Kỳ đi thẳng vào mục đích cuộc
gặp gỡ. Đầu tiên ông than phiền cụ ngoại trưởng Trần Văn Đỗ già quá, đi họp với
Mỹ ở Honolulu (đầu tháng 2 năm 1966) mà ho sù sụ, do đó ông muốn trẻ hóa nội
các. Ông cũng muốn đính chính một cách cụ thể nội các của ông không phân biệt
Nam Bắc bằng cách muốn mời nhiều người miền Nam tham gia chính phủ của ông. Đến
đây nhìn những vị khách ngồi trước mặt mình, ông Kỳ nói: “Tôi chính thức mời
tất cả quý vị có mặt ở đây tham gia chính phủ. Quí vị cần trả lời đồng ý là tôi
bổ nhiệm”. Ngay lúc đó không ai trả lời “đồng ý” với ông Kỳ. Nhưng sau đó, nội
các của ông Kỳ cũng “kéo” được bốn người miền Nam tham gia: Âu Trường Thanh (Bộ
trưởng tài chánh), Trương Văn Thuấn (Bộ trưởng giao thông), Nguyễn Văn Trường
(Bộ trưởng giáo dục), Trương Thái Tôn (Bộ trưởng kinh tế), không kể Võ Long
Triều được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Thanh niên trước đó. Tướng Kỳ tha thiết mời
ông Nguyễn Văn Bông, đang là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, làm bộ
trưởng tại Phủ tướng nhưng ông Bông từ chối. Có thể tướng Kỳ không biết hoặc
biết nhưng phớt lờ, sở dĩ ông Bông không quan tâm tới lời mời của ông là vì
chính ông Bông đang nuôi tham vọng giành lấy chức vụ thủ tướng của tướng Kỳ.
Hơn nữa còn phải hiểu khuynh hướng chính trị của ông Bông gần với trung tướng
Thiệu hơn là thiếu tướng Kỳ. Có lẽ trên thế giới chưa có một thủ tướng nào mời
người tham gia nội các một cách độc đáo như thế!
Trở lại cuộc chạy đua
giành ảnh hưởng trong quốc hội lập hiến giữa hai tướng Thiệu, Kỳ, phía nào cũng
tìm cách đưa người của mình ra ứng cử. Ông Triều là một trong những đầu mối tập
hợp quân cho tướng Kỳ. Dĩ nhiên khi làm việc này, ông Triều cũng nhằm củng cố
cho mình một hậu thuẫn riêng có thể mặc cả có lợi cho mình trên sân khấu chính
trị sắp tới. Theo tôi hiểu, người tài trợ cho các ứng cử viên dân biểu được ông
Triều tập hợp chính thức là tướng Kỳ chứ không ai khác. Rất có thể ông Kỳ đã
lấy tiền từ quỹ đen (caisse noire) dành cho thủ tướng để chi. Trong số những
người được ông Triều đưa vào danh sách ứng cử có tôi. Nhưng trong kế hoạch ban
đầu của ông Triều, tôi chỉ đóng vai người lót đường trong một liên danh ứng cử
mà người đứng đầu là ông Nguyễn Bá Nhẫn, một người bạn thân của ông Triều, đang
là tổng cục trưởng Tổng cục tiếp liệu.
Thể thức bầu cử Quốc
hội lập hiến, theo liên danh tỷ lệ, tiến hành như sau: chẳng hạn như đơn vị tôi
ra ứng cử là đơn vị 3 Sài Gòn gồm các quận 4, 6, 7, 8, có khoảng 250 ngàn cử
tri bầu 5 dân biểu. Như vậy trên lý thuyết 1 dân biểu đại diện cho 50 ngàn cử
tri. Mỗi liên danh ứng cử gồm 5 người. Nếu có liên danh nào lấy được tất cả 250
ngàn phiếu thì giành trọn 5 ghế dân biểu về mình, cũng có nghĩa cả 5 người
trong liên danh đều trúng cử. Điều đó trong thực tế không thể xảy ra. Liên danh
về đầu khó đoạt hơn 2 ghế, bởi muốn đoạt 2 ghế phải giành ít nhất từ 75 ngàn
phiếu trở lên (3 ghế phải trên 125 ngàn phiếu). Các liên danh kế tiếp thường
chỉ đoạt số phiếu 50 ngàn trở xuống và giành tối đa 1 ghế. Do đó gần như chỉ có
người đứng đầu liên danh mới hi vọng đắc cử. Trong liên danh của ông Nguyễn Bá
Nhẫn, gồm 5 người, tôi đứng thứ hai sau ông. Tôi không có tham vọng chính trị
và cũng chưa ý thức được vào quốc hội để làm gì nên bình thản chấp nhận vai trò
“người lót đường” theo yêu cầu của ông Võ Long Triều, lúc đó vừa là người đứng
đầu một tập hợp chính trị có tên Phong trào Phục hưng Miền Nam (PTPHMN). PTPHMN
qui tụ một số trí thức trẻ miền Nam, phần nhiều là nhà giáo – học trò cũ của
các giáo sư Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trường. Ông Triều và ông Trung đều là
người Công giáo và là bạn thân thiết với nhau trong thời điểm đó. Tôi cũng có
tham gia phong trào này lúc ban đầu. Các liên danh do ông Triều thúc đẩy ra ứng
cử tại Sài Gòn và một số tỉnh miền Tây đều trương bảng hiệu PTPHMN. Phong trào
này không đề ra một cương lĩnh chính trị rõ ràng, chủ yếu chỉ đề cao tình yêu
nước chung chung, và kêu gọi góp sức phục hưng các giá trị truyền thống của
miền Nam Việt Nam. Với sự hỗ trợ tích cực phía sau của thủ tướng Kỳ, ông Triều
và những người bạn thân thiết của ông như Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Hoàng
Ngọc Tuệ, Đỗ Ngọc Yến, Trần Văn Ngô còn thành lập một phong trào hoạt động xã
hội có tên là “Phong trào phát triển quận 8”. Phong trào này nhằm hô hào chính
quyền và dân chúng góp tay biến các khu ổ chuột thành những khu dân cư khang
trang.
Chỉ còn không đầy một
tuần hết hạn nộp đơn ứng cử thì xảy ra một sự kiện hoàn toàn bất ngờ: ông
Nguyễn Bá Nhẫn thông báo cho ông Triều quyết định rút tên của ông. Lý do chính
thức ông Nhẫn nêu ra thật hết sức lạ: mẹ ông không đồng ý cho ông tham gia
chính trị. Thật hư thế nào không thể biết được. Nhưng hậu quả là thời gian còn
lại quá cận kề, ông Triều chỉ còn cách yêu cầu tôi thay ông Nhẫn, tức đôn tên
tôi lên và tìm thêm một người bổ sung vào vị trí độn (tôi mời một nhà báo Hoa
văn có quốc tịch Việt Nam bổ sung cho đủ danh sách năm người). Việc ông Nhẫn
rút lui, với tôi như một thứ định mệnh: nó làm thay đổi dòng chảy của đời tôi.
Từ lãnh vực báo chí, tôi bước sang lãnh vực chính trị một cách hết sức tình cờ!
Kết quả liên danh của tôi về thứ ba với khoảng 40 ngàn phiếu (được một ghế) sau
liên danh của dược sĩ La Thành Nghệ (có trên 75 ngàn phiếu giành 2 ghế) và liên
danh của Văn Công Đính, một cựu nghị viện Hội đồng thành phố (được trên 50 ngàn
phiếu cũng chỉ được 1 ghế). Liên danh về thứ tư của một giáo viên, ông Nguyễn
Văn Sâm, giành chiếc ghế dân biểu cuối cùng của đơn vị Sài Gòn. Vào thời điểm
này rất ít ai biết tôi, vì tôi còn quá trẻ, chưa từng tham gia hoạt động chính
trị, thời gian hoạt động báo chí cũng ngắn ngủi – nên đạt vị trí thứ ba trên
năm liên danh là khá lắm rồi. Nếu cuộc bầu cử này không theo thể thức liên danh
tỷ lệ thì chắc chắn tôi không có chút hi vọng nào. Mục đích của thể thức liên
danh tỷ lệ nhằm thành lập một quốc hội làm Hiến pháp với sự tham gia của đại
diện nhiều đảng phái và khuynh hướng chính trị khác nhau, dĩ nhiên ngoại trừ
những người cộng sản. Cuộc tham gia vào chính trường miền Nam của tôi bắt đầu
như thế - không do tôi chủ động và với quá nhiều tình cờ không thể tưởng tượng
(nhưng hầu như đều thuận lợi cho tôi).
Thế là trong vòng không
đầy một năm, từ một sinh viên bỏ học dở dang, trốn quân dịch, mới tập tễnh với
nghề viết báo, tôi trở thành giám đốc ở Bộ Thanh niên rồi bây giờ là dân biểu
Quốc hội! Lúc đó tôi tròn 26 tuổi.
Khi tôi làm giám đốc
Nha tác động tâm lý tại Bộ Thanh Niên, dưới quyền tôi có hai chánh sự vụ (tương
đương với trưởng phòng hiện nay, cả hai đều tốt nghiệp Học viện quốc gia hành
chánh. Một người tốt nghiệp khóa 3 (anh Nguyễn Dõng )và một người tốt nghiệp
khóa 6 (anh Đỗ Tiến Đức). Tôi cũng học trường này nhưng lại bỏ ngang; khóa học
của tôi là khóa 10, lúc tôi làm giám đốc, khóa của tôi vẫn còn một năm nữa mới
tốt nghiệp! Làm thế nào để hai người thuộc thế hệ đàn anh rất xa mình, tốt
nghiệp trước mình từ 4 đến 7 năm, lại chấp nhận cộng tác dưới quyền mình – quả
thật không đơn giản. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên tôi đến bộ Thanh niên để nhận
nhiệm vụ, anh Đỗ Tiến Đức (sau này làm giám đốc Trung tâm điện ảnh quốc gia ở
Sài Gòn) đã đưa tôi đi giới thiệu với các nhân viên trong Nha với một thái độ
gần như thiếu kính trọng đối với tôi – một cấp trên vừa nhỏ tuổi đời, lại học
dưới ông quá xa. Tôi bình tĩnh và phớt lờ như chẳng thấy gì cả. Nhưng liền sau
đó tôi cho mời cả hai ông chánh sự vụ vào phòng tôi và nhấn mạnh cho hai ông rõ
chức vụ giám đốc của tôi được Bộ trưởng trao là nhiệm vụ chính trị (fonction
politique) chứ không phải một chức vụ thuần về hành chính. Về mặt điều hành
hành chính của Nha, hai ông vẫn là những người chịu trách nhiệm chính; các văn
bản và đề xuất do hai ông trình ký phải có chữ ký tắt của một trong hai người,
chịu trách nhiệm trước về mặt quy cách hành chính.
Một thời gian sau có
lệnh tổng động viên, mỗi cơ quan chỉ được giữ lại một người ở tuổi quân dịch
thuộc diện gọi là “tối cần thiết”. Ông Đỗ Tiến Đức xin gặp tôi để biết số phận
của ông ra sao. Ông trình bày với tôi nếu ông không được tôi xếp vào loại nhân
viên “tối cần thiết” thì cho ông biết sớm, để ông “chạy” một nơi khác có thể
giữ ông lại khỏi đi quân dịch. Tôi trả lời: “Ông Đức yên tâm. Người được xếp
vào loại tối cần thiết ở Nha này là ông, chứ không ai khác”. Khi bước vào phòng
tôi, tôi nghĩ ông Đức đang chờ đợi nhận một câu trả lời như thế bởi ông chưa
quên được thái độ của ông trong ngày đầu ông giới thiệu tôi với nhân viên của
Nha như thế nào.
Tại Nha tôi điều hành
còn có một tạp chí chuyên đề thanh niên do nhà văn Lê Tất Điều phụ trách. Tôi
đã từng đọc và thích thú một số tác phẩm của Lê Tất Điều nên khi gặp anh trực
tiếp tại Bộ Thanh niên tôi không giấu giếm tình cảm của mình dành cho anh.
Cũng chính trong thời
gian tôi cộng tác với ông Triều tại Bộ Thanh niên – thể thao, bóng đá Việt Nam
đạt đỉnh cao ở Đông Nam Á: đoạt danh hiệu vô địch Merdeka, một giải có qui mô
tương đương với Tiger Cup sau này. Tôi có tham dự buổi chiêu đãi của Bộ Thanh
niên dành cho đoàn quân chiến thắng mà cầu thủ nổi bật là Tam Lang. Nhưng cần
nói ngay, vai trò về mặt nhà nước của Bộ Thanh niên đối với bóng đá lúc đó hoàn
toàn khác. Sinh mệnh của làng bóng đỉnh cao hoàn toàn nằm trong tay của Tổng cụ
bóng tròn, một tổ chức 100% xã hội hóa.
Khi tôi vào Quốc hội
sau đó, hành trang chính trị của tôi hầu như chẳng có gì, vì tôi chưa từng trải
qua một ngày học luật và chưa từng có những hoạt động chính trị đúng nghĩa. Tuy
nhiên phải nói rằng thời gian hòa nhập vào làng báo trong 3 năm (từ 1963 đến
1966) cũng giúp tôi có một số hiểu biết về tình hình đất nước và hình thành
bước đầu thái độ chính trị của mình. Lập trường của tôi trong Quốc hội ở những
ngày đầu tiên là sự khẳng định lại quan điểm chính trị mà mình đã từng phát
biểu trên báo chí. Dù đây là một Quốc hội làm hiến pháp nhưng tôi nghĩ trước
hết nó phải là diễn đàn của dân và vì dân và tiếng nói quan trọng nhất đối với
một dân biểu trên diễn đàn Quốc hội vào thời điểm đó nhất thiết phải là tiếng
nói đấu tranh cho dân chủ và công bằng, tiếng nói đòi chấm dứt chiến tranh,
chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
THẰNGCHA NÀY THÌ TÔI KHÔNG GHÉT CHO BẰNG THẰNG vũ văn mẫu. THẰNG NÀY CŨNG LÀ 1 THẰNG GIÁN TIẾP GIẾT ANH HÙNG TỬ SĨ QLVNCH VÀ LÀM NƯỚC MẤT NHÀ TAN ĐÂY. THẰNG NÀY LÀ TỘI ĐỒ THIÊN CỔ. AI BIẾT TIN THẰNG NÀY Ở ĐÂU KHÔNG? (vn)
Trả lờiXóaông ấy ở VIỆT NAM, mày về mà đánh giày cho ông ấy???
Xóa