Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

HỒI KÝ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: "BA NGƯỜI KHÁC" CỦA TÔ HOÀI - KỲ 2


1      2           4 


Trời nắng ong ong đã mấy hôm, như sắp bão. Thôn Am rúc tù và từng hồi thúc người đi đắp đê quai phòng lũ. Người ra đồng cứ cung cúc như chạy mưa. Mọi khi chả việc công ích nào được nhanh nhẹn thế. Chính quyền xoá hết rồi, chưa có cả đến trưởng thôn. Vậy mà trên huyện vẫn có công văn thúc mọi việc. Thế là đội, các anh đội phụ trách xóm cáng hết. Ai cũng lội bì bõm như trâu đằm, cả các anh đội xung phong ra chuyển đất, bùn ánh lên mặt tôi nóng rát. Hò lơ... hó lơ... hò lờ... Lại hò hát. Kể ra mọi người cũng hăng thật, không việc công thì đi kiếm miếng ăn, cứ biền biệt từ mờ đất, trưa về lại ngồi học chữ. 

Ấy là chỉ có ở thôn tôi mở lớp. Đợt công tác nào tôi cũng giở môn võ mở lớp i tờ xoá mù chữ. Chưa nơi nào ê a nhai hết quyển vỡ lòng đã vỡ lớp bởi cải cách ở xã đã xong, hết đợt. Nhưng mỗi cuộc tổng kết tôi đều được biểu dương thành tích về văn hoá hơn các thôn khác. Chỉ có Đình cười nháy cái ve mắt. Chắc thằng này chửi thầm tôi úm phép mấy em. Quả là ở đâu cũng có các nàng dân quân đến lớp đông. Tối họp khuya, rồi đi gác rồi lại như ai dựng gáy lên từ mờ sáng. Không một lúc ngớt đầu tắt mặt tối. Hò lơ... hó lơ...

Ngoài đê về, tôi vừa rửa chân tay xong dưới cầu ao, thấy đi vào một người, thoạt loáng thoáng, đến lúc ra khỏi bụi duối mới nhìn tường mặt một cô gái bước nhanh nhẹn, áo vải phin nâu, cổ tay tròn, mũi súng trường nhấp nhô bên mái tóc chít khăn đầu ngôi rẽ lệch. Không quen mặt, tôi đoán là dân quân thôn khác. Cô này gọn gàng, mắt sắc long lanh, cứng cỏi. Mấy hôm đầu mới về nhìn đâu, nhìn ai cũng chỉ thấy lam lũ. Cái áo tấc của Đơm về vệt bùn, bong mất cái khuy ngay giữa bụng. Ngửi người lúc nào cũng mùi cỏ khô. Nhưng lâu lâu, trông các cô cũng cứ hay mắt dần lên.

Từ hôm tôi đánh vỡ cái ang quảy nước, bác Diệc bảo: "Anh đừng kín nước, cũng đừng ra đồng nữa, cứ ở nhà. Chẳng ai nói gì đâu". Tôi bảo: Anh mặc tôi, tôi phải cọ xát với bà con". Nhưng nói thế, bây giờ tôi định vào đánh giấc. Cả buổi sáng đắp đập be bờ vẹo xương rồi.

Tôi ngồi xuống chõng. Bác Diệc gái im lìm trong xó tối, nhìn con cóc rình đớp mồi. Nhà không có ai.

Cô gái nọ bước vào.

“Em là chuỗi, em làm dân quân bên thôn Chuôm.”

“À... vâng...”

“Đồng chí Đình...”

“Đình bên thôn Chuôm, tôi biết.”

“Báo cáo, đồng chí Đình phạm kỷ luật.”

“Sao?”

“Đồng chí ấy dám hủ hoá.”

“Tôi không phải đội trưởng. Cái này đồng chí lên văn phòng đội.”

“Em chỉ muốn nói riêng với anh thôi.”

Ơ mà lạ, ai cũng gọi nhau là đồng chí, cô này lại "anh", dám thế à. Nhưng lại thấy dìu dịu. Tôi nhìn đôi mắt cô lừ đừ, chẳng có vẻ đi báo cáo việc đứng đắn, nghiêm trọng. Đình à, Đình thế nào. Tôi vẫn vừa biết, vừa kiềng tay Đình. Thằng này gớm, đi với nhau hai đợt, chẳng lạ. Không phải nó chỉ tinh quái trông thấy tôi thón cái gói bánh đúc của đội trưởng. Gì cũng vậy, nó tính đếm và lật mặt phăng phăng. Cách bắt rễ của Đình cũng khác người. Thoạt đầu, Đình sục khắp xóm một lúc, vào nhà nào cũng kê tiêu chuẩn ra hỏi ngay: - Mấy nhân khẩu? - Thưa, năm ạ. - Có bao nhiêu? - Một mẫu hai. - Năm khẩu. Trung nông rồi - Tôi bị thằng Thìn đánh nhét cứt trâu vào mồm... - Không, cứ trung nông cái đã, còn cái ấy để rồi tố khổ. Chào cả nhà nhé. Thế là Đình xách ba lô sang nhà khác. Cứ lần lượt cho đến lúc nhà nào người ta nói con số đói rách nhất, thì Đình đặt ba lô xuống, ở lại. Chỉ một buổi đã xong rễ chuỗi cả thôn. "Thăm nghèo hỏi khổ thế mới quán triệt. Hà, hà... - Đình nói nói cười cười.

Bây giờ cô này tố cáo Đình. Đình hủ hoá, tôi đã gạt đi. Chẳng dây vào thằng Đình. Nhưng thấy cô con gái mà nói chữ hủ hoá ngon như nói công tác, tôi cũng thấy hay hay. Tôi hỏi:

“Hủ hoá thế nào?”

“Hủ hoá em ạ.”

Rồi tôi không kịp ngạc nhiên hay gật lắc thế nào, cô ấy kể vanh vách:

“Tên em là Duyên. (A cô Duyên thôn Chuôm tôi đã biết tiếng) Đồng chí Đình về bắt rễ vào anh cả Cối em rồi xâu chuỗi sang em và bố em. Thế, nhà em cả thảy ba rễ chuỗi. Đồng chí ấy bảo: thôn này có địa chủ Thìn, cả hàng huyện đã biết tội ác nó, nó đã bị bắt, mai kia sẽ đem xử bắn. Thế là tôi xung phong bước hai nhất đội, hết công tác rồi. Cả ngày đồng chí ấy chỉ nằm nhà. Em đi làm về đồng chí ấy lại lôi em xuống bếp. Em cào cho một cái vào mặt chảy máu ra đấy, anh có trông thấy một vết quào ở bên mũi đồng chí Đình không?”

“Việc này phải lên...”

“Tệ lắm, em không chịu được.”

“Cán bộ Đình công tác giỏi, đã lôi ra được ổ phản động xui đồng bào bỏ quê vào Nam, khi địch còn ở đây hai trăm ngày.”

“Anh không tin em sao?”

“Nhưng mà, chẳng nhẽ...”

“Thử thì biết ngay thôi.”

“Thử thế nào?”

“Tối nay, anh ra nấp sau cột trụ cửa đền thế nào cũng thấy đồng chí ấy vào nhà em, bắt quả tang được.”

“Tối nào chả họp!”

“Ấy, tan họp chứ. Nhà em không có rào, có cửa, đến tận chỗ em nằm cũng như không.”

“Nhưng mà cán bộ Đình ở nhà đồng chí kia mà.”

“Không, ở nhà anh cả Cối em ngoài bãi cổng đồng, em ở với bố em trong xóm.”

“Tối nào cũng thế à?”

Cô gái cười mỉm khó hiểu:

“Vâng ạ. Nhưng em phải trốn chứ!”

“Được rồi.”

“Tối nay nhá, nhanh lên đấy.”

Câu nói trống không thật hỗn mà lại êm tai rớt lại, tự dưng tôi cũng đâm tò mò hơn.

Chứ quả thật bận đâu đến tôi. Mà cái thằng Đình cũng ác ôn ra trò, phét lác một tấc đến trời, lại tỏ vẻ lý sự, đạo đức, phải phết nó một đòn bịt mồm. Nhưng tôi lại nghĩ đến cô dân quân thôn Chuôm ấy nhiều hơn, người đi rồi mà vẫn như còn đâu đây. Cái vai lẳn, cái cười mắt tít lá dăm - khác hẳn Đơm, ôm trói lại rồi mà mặt vẫn đực ra.

Trăng mùng mười lơ lửng xuống sau rặng tre bên kia. Dòng sông cạn đã bị lấp cửa, mùa mưa mới có nước, bây giờ chỉ lác đác những vũng ao chuôm, lúc nãy như những con mắt thao láo dưới ánh trăng. Thế mà vẫn còn người mò đến, tiếng lội lõm bõm qua, lại thanh vắng như không. Dần dần khuya, làng xóm bàng bạc như trăng suông. Những lùm nhãn nhấp nhô lù lù, những khoanh tre lởm nhởm và cái cột trụ ngôi đền hoang cắt bóng trên nền trời sao. Tôi đứng nép một bên tường hoa, quần áo nâu nhoà vào màu rêu tường, không ai có thể nhìn thấy.

Chắc đã muộn, những con giun con dế vừa kêu ti tỉ, đã lặng ngắt. Tôi nghĩ các chuyện loăng quăng. Rồi dâm trợn. Không phải sợ ma, mà có điều vớ vẩn bây giờ mới nghĩ ra. Có thật con bé ấy người bên Chuôm, là chuỗi, là dân quân. Hay đấy là địa chủ quăng lưới? Có thể lắm, đang lúc mới vào bước hai, công việc rối canh hẹ, bọn phản động, bọn mật thám trá hình, cả ban chi uỷ đội trưởng Cự đã phát hiện được là tề nguỵ cài lại đội lốt và chi uỷ giả đã mưu mô làm cải cách vờ trước khi đội về, chúng nó sắp sẵn cả rễ chuỗi cho đội dựa. Chúng còn bày vẽ đấu dối nữa. Đấu tố phường chèo thế nào mà thằng địa lại bảo nông dân: "Anh này làm chức gì mà được lên vạch mặt tôi những bốn lần, nhiều quá". Bố con địa đi bừa đêm, dân quân hỏi, chúng nó trả lời ngông nghênh: "Nhà địa chủ đây. Các ông bà nông dân ăn thịt hết trâu, chúng tôi phải đi làm trâu thôi". Thôn Am này còn chưa moi được ra địa chủ, thế mà tôi mất cảnh giác, đi rình mò bơ vơ thăng thiên. Chỉ bởi lời xúi bẩy của một con bé cha căng chú kiết. Khéo không thì bị nó cất vó cũng nên, không xong rồi.

Tôi thu mình, cúi xuống, co chân định nhảy ra chạy về. Nhưng tôi sững ngay lại. Vừa thấy thoáng ngoài một bóng người. Chỉ nhác một cái cũng nhận ra dáng thằng Đình cao lêu đêu. Tôi áp tới, giơ đèn hai pin rọi vào mặt Đình. Tôi trông thấy vết xước ở một bên mũi nó thật, tôi quát:

“Ai?”

Đình xoè tay che mắt bị chói, hỏi lại:

“Thằng nào thế?”

“Tao.”

“À, thằng Bối.”

Tôi đút đèn vào túi, đặt một tay lên vai Đình, thân mật.

“Đi đâu đấy?”

Đình thản nhiên:

“Đi chơi.”

“Đi chơi là thế nào?”

“... là đi chơi...”

“Biết tỏng rồi, mày đi chơi gái.”

Đình hỏi tôi một câu đột ngột:

“Cậu đã biết chiến thắng của tớ bên thôn Chuôm chưa?”

“Chiến thắng?”

“Tớ rình năm tối, tóm được hai thằng nhãi ranh ném đất làm ma ném để không ai dám đi họp. Truy ra là âm mưu của địa chủ Thìn. Tớ sắp được biểu dương toàn đội, lại báo cáo lên đoàn nữa. Biết không?”

Rồi Đình lạnh lùng thong thả buông từng tiếng như từng phát súng:

“Này mày hãy lo cái thân mày đã nhé. Mày chưa moi được thằng địa nào. Rễ chuỗi mày liên quan đến nhà địa, thối um lên, không ngửi thấy à? Lão Cự sắp làm thịt mày. Khôn hồn thì cút mẹ mày đi.”

Tôi lại hoá ra đứa bị đóng đinh vào mặt, lúng búng không mở được miệng. Đình ung dung đi vào bờ tre phía nhà bố cả Cối. Tôi đứng trơ ra một lúc thật lâu. Những lời ghê rợn Đình vừa đe đã làm cho tôi bủn rủn, lú lấp cả mọi mưu chước.

Từ nách tường sau đền, cô Duyên chạy thoắt ra, vẫn khoác khẩu súng sau vai.

“Sao anh không bắt nó lại? Quả tang thế rồi mà.”

“Quả tang quả táo cái con khỉ!”

“Rõ anh này. Đêm mai đồng chí nó lại mò sang, em biết đi ngủ ở đâu?”

Bỗng Duyên táo tợn thật lực ôm chầm lấy tôi, lúc lắc cái mũi súng sau lưng, cười hinh hích. Thân hình nóng ran ưỡn lên, tôi gồng người, dằn xuống. Chẳng còn biết ra thế nào, mày dẫn xác đến, ông đương bực mình đây. Duyên cởi khẩu súng dựng vào chân cột trụ sau lưng. Hai đứa lăn xuống bãi cỏ, chẳng còn biết trời đất ở đâu nữa. Tôi thở dốc, ngoi lên hớp từng hơi. Nhưng đến lúc thằng đàn ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra.

“Em cho anh...”

“Bận sau, bận sau. Em đương có tháng.”

“Đâu nào?”

“Sờ mà xem.”

Cuộc quần thảo không biết còn lồng lộn bao nhiêu lâu nữa. Đến lúc tôi chỉ còn như con chó què, bước xiêu vẹo, lử khử. Lần được về nhà, nằm uỵch xuống chõng, thiếp đi.

Mỗi buổi sáng đều có cuộc hội ý đội, sang bước hai càng khẩn trương. Cán bộ đội các thôn lên báo cáo, nhận công tác mới từng ngày. Họp xong, Đình và tôi về cùng đường.

Câu chuyện ma quái đêm trước dường như mỗi người coi tựa không có. Chúng tôi đối đáp bâng quơ, không đầu đuôi. Đình hỏi tôi đã giảng hết tiêu chuẩn trung nông chưa. Tôi bảo xong từ lâu. Nói văng mạng thế chứ đâu ai vặn vẹo khám sổ tay của nhau. Mà các tiêu chuẩn bần, cố, trung, phú, địa đến công thương, dân nghèo, dân chài lưới, đến thế nào là phản động, gian ác tôi đã ghi kỹ, tôi đã thuộc đã giảng từ trong Thanh, cứ vậy mà tương ra, màu mè vơ thêm mấy cái liên hệ mới nhặt được, chứ khó khăn gì. Tôi nói thật vậy, Đình khen tôi láu. Thì Đình, thì Cự chắc cũng rứa, xóm nào ở đâu và đợt nào cũng tương tự, dần dần chúng tôi tự hào có kinh nghiệm nắm tình hình nhanh. Như về đây chưa hết bước một đã tỏ rõ ngọn ngành cả các xóm xưa và nay. ở đâu thì nhà giàu, quan lại, địa chủ cũng ăn trên ngồi trốc. Nhà có máu mặt con cái chỉ mười lăm mười bảy đã đút tiền hộ lại chữa sổ khai sinh tăng tuổi lên để sớm ra làm chưởng bạ, làm thư ký hội đồng kỳ mục, rồi dần dần lên phó lý, lý trưởng, chánh phó hương hội, chánh phó tổng hàng phủ hàng huyện. Như ở đây, khi Tây chiếm làng mấy năm trước thì ra làm xã uỷ, hương chủ, trưởng đồn, xếp bốt hương dũng, tiên chỉ, tổng uỷ... Đã thuộc cả, moi đâu trúng đấy. Có thế công tác mới chạy nhanh như trâu bồn, bằng khen giấy khen bay về tới tấp.

Lại các thứ chuyện. Biết nhau đến tận củ tỷ, cũng dễ ba hoa.

Đình nói:

“Đội trưởng Cự sắp cho cấy lúa thần kỳ ở trọng điểm xóm Đìa.”

“Đương vội thế này, lúa má gì!”

“Còn lạ đâu, lão ấy đã định làm thì sắt thép lắm.”

Đình hỏi tôi:

“Cậu có biết lúa thần kỳ thế nào không?”

“Chưa.”

“Cái ruộng lúa thần kỳ đến lúc sắp được gặt, người ta bước trên mặt thóc chắc chân như đi cầu qua sông. Mà chỉ một tháng thôi, thóc đã mẩy hạt.”

“Ở đâu thế?”

“Trên thế giới khắp nơi. Cái khi lúa thần kỳ mới bí mật đem về trại thóc giống bên nước Manila, thế mà tình báo của ta lẻn vào lấy trộm được một vốc hạt. Cậu biết làm thế nào không, khách tham quan thón một vốc hạt, nhét vào trong giầy. Thế đã khiếp ta chưa.”

“Giỏi nhỉ. Ta làm ở trọng điểm xóm Đìa rồi cấy lan ra cả xã chứ.”

“Chắc sẽ vậy.”

Rồi Đình bĩu dài môi:

“Không nói phét. Tớ ấy a, giá còn cái trại đại đồng của tớ thì lúa thần nông, thần kỳ có đã lâu rồi.”

Đình sôi nổi kể:

“Cậu còn nhớ không, cái hôm đội ta được thành lập sau hội nghị tổng kết khu ở Quỳnh Côi (Tôi nhớ rồi, hôm ấy có hai người được trên giới thiệu bổ sung xuống đội). Không biết vui miệng hay họ cốt khoe: người này thì thời Tây đã đỗ tú tài, người kia thời ta đậu kỹ sư bằng đỏ bên Liên Xô. Đội trưởng Cự cười nhăn mũi, hôm sau gửi lên trả đoàn cả hai người. Báo cáo là đội đã đủ khung rồi. Đội trưởng vẫn nói chỉ "cần người chữ nghĩa èng èng, học nhiều thì chỉ tài nói không tài làm, xuống xã tổ vướng chân". Có lần Cự hỏi học lớp mấy, tôi nói: học lớp ba thời thực dân, đến độc lập thì là cán bộ rồi, không học nữa. Cự cười: "Tớ còn kém cậu một lớp. Thế mà hay, học lắm thì chỉ lý sự cùn. Chúng mình đã giới thiệu lý lịch với nhau khi thành lập đội, hôm ấy tớ mới nói khi khởi nghĩa tham gia cướp chính quyền huyện chưa kể thành tích công tác thằng Đình này đã lập nên trại sản xuất, cả huyện có mỗi trại ấy. Tớ đặt tên là trại "đại đồng", đại đồng thế giới ấy mà. Còn hay hơn lúa thần kỳ nhiều. Nếu bấy giờ uỷ ban tỉnh mà nghe kế hoạch của tớ thì bây giờ cả tỉnh, cả nước đã thành trại đại đồng rồi.”

Suốt dọc đường, rồi Đình còn theo về tận nhà, kể chuyện cái trại đại đồng. Đình thao thao nói, ve mắt nháy lia lịa, sùi cả bọt mép. Cái vết con Duyên cào cạnh mũi đã bong vảy, chỉ còn hơi đỏ. Tôi lại nghĩ lắt léo hay là lúc ấy sướng quá, nó bấu vào mặt thằng này. Đình đương hăng. Khi đấy, Đình làm tuyên truyền trên huyện. Khắp nơi tiêu thổ kháng chiến, nhà cao cửa rộng phá hết, đốt hết. Các làng, các thị trấn, thị xã dựng lên những cây tre cao như chân gầu sòng, giữa buộc thanh sắt đường ray, ngày đêm dân quân đâm đổ hết tường, sụp nhà cả dãy phố. Người đường xuôi từ các làng quanh Hà Nội lũ lượt chạy ngược dòng sông Hồng lên trung du. Người tản cư được chia vào ở nhờ các nhà trong làng. Đất rộng người thưa, dân cũng sẵn cái ăn, lá sắn ngắt về nấu canh, muối dưa, sắn trựa bỏ đấy cả mấy năm chưa đào, quả đu đủ chỉ để cho lợn thì bây giờ người ăn ngon. Chẳng mấy lúc, người tản cư ai quyết tâm ở lại cũng ổn cả, mặc dầu là tạm bợ, nhưng tin tưởng.

Đình đã nghĩ được ra cái trại đại đồng cho mọi người vào ở tập trung qui củ, trật tự sản xuất. Huyện đã cử Đình đi báo cáo điển hình trại đại đồng nhiều nơi. Nghe cũng hay, nhưng không đâu làm nổi vì các huyện ở sâu vắng người tản cư, không được trên cấp tiền. Huyện ven sông này có quĩ của tỉnh cho để trợ giúp đồng bào, bây giờ gom người ở một nơi thì phát tiền cũng dễ. Nhưng không phải Đình chỉ vì một cái tiện ấy, Đình nói ngày trước ở Hà Nội, Đình làm phó nhỏ thợ xẻ đã vào ái hữu thợ mộc, Đình đọc sách và anh em bàn bạc đã biết rồi đây loài người sẽ lên thế giới đại đồng, thì cái trại đại đồng này là một bước đúng như thế.

Năm dãy nhà dài một trăm thước, bên trong một loạt hai dãy giường nứa cho một trăm người. Nhà của phụ nữ riêng bên kia đồi cũng to rộng thế. Chỉ đánh một tiếng kẻng điều khiển được cả nghìn con người. Kẻng dậy, kẻng thể dục và hát, kẻng cơm, kẻng họp, kẻng đi sản xuất, kẻng về, kẻng ngủ... Ai nấy răm rắp, miếng cơm manh áo như nhau, không có ganh tỵ vì không ai hơn ai. Ngày chủ nhật, kẻng đi chợ, tối kẻng lửa trại vui nhộn. Buổi sáng buổi tối, cả trại ra đứng ngoài sân hô: khoẻ vì nước, kiến thiết quốc gia, quyết tâm lên thế giới đại đồng...

Tôi hỏi dớ dẩn:

“Ai cấp lương cho ăn mà lên thế giới đại đồng được?”

“Đã nói từ nãy rồi mà. Quỹ trên đưa về, ai ở xuôi tản cư lên vào trại cũng được nuôi. Nhiều người tinh thần lắm, những thứ ở thành phố đem lên, quần áo, đỉnh nến, chén bát, đưa ra chợ bán hết lấy tiền bỏ vào quĩ trại. Nhiều quần áo sang trọng, nhưng trại đại đồng không cần những cái loè loẹt ấy của giai cấp tư sản bóc lột.”

“Cậu là trại trưởng à?”

“Mỗ đây chứ còn ai vào đấy!”

“Có được lương không?”

“Có chứ.”

“Sao bảo người địa phương không được ăn trợ cấp.”

“Nhưng tớ là lãnh đạo, tớ không phải địa phương, cũng không phải người tản cư.”

“Thế rồi sau ra sao?”

“Sao à? Giá còn đến bây giờ chắc đã lên đại đồng rồi. Trồng sắn mau ăn lắm, lại chuối, lại dứa, lại trẩu, lại chè...”

“Thế rồi thất bại?”

“Không, không thất bại. Không ai nản chí xin ra, không một người trốn. Không một vụ hủ hoá - Đình nghiêm nét mặt, nháy nháy ve mắt.”

Tôi không muốn biết thêm ngọn nguồn nữa. Vì thấy Đình quả quyết "nhất định thắng lợi" quá. Nhưng lại nhẹ nhàng hỏi ơ hờ:

“Thế rồi làm sao?”

Định trợn ngược mắt.

“Làm sao ấy à? Loài người đến tận bây giờ vẫn chưa đủ sức chống thiên nhiên, phải bỏ nửa chừng vì thế chứ làm sao. Nhưng mà có tiền nhiều chắc cũng vượt qua được. Tự nhiên lụt lội, bão, sét đánh đổ nhà chết người, cả sốt rét lăn đùng ra. Mới vỡ nhẽ người xuôi lên chưa quen, cả trai ốm ngã nước sốt rét ác tính chỉ hôm trước hôm sau đã đái ra máu. Nửa tháng chết vãn cả người. Đầu tiên còn mua gỗ đóng quan tài, cả trại đi đưa đám, có điếu văn đọc lúc hạ huyệt. Rồi sau người chết lắm quá, không kịp mua săng, phải bó nứa, hai người vác thuổng khiêng đi chôn. Thế là những người sống sót sợ, bỏ đi hết.”

“Cậu cũng chuồn?”

Đình cười hề hề, hồn nhiên:

“Ở lại để bị lây chết mất ngáp à?”

“Rồi cậu đi đâu?”

“Tớ về huyện, lại công tác bán nói lấy ăn. Mấy năm sau được lên tỉnh, cho đến bây giờ. Chức vụ: phó phòng tuyên truyền.”

“Rồi có đâu làm trại sản xuất nữa?”

“Trại đại đồng chứ. Phi tay này thì thằng nào dám. Trên tỉnh cũng công nhận nếu không bị sốt rét phá hoại, trại đại đồng nhất định thành công. Tỉnh tớ năm nào cũng đạt tiền tiến tiên phong, mọi mặt công tác. Không nói phét!”

Đình trợn mắt, giơ tay:

“Cả bây giờ đấy. Kể ra, nói cho công bằng, cái tỉnh này nó máu xung kích, xung phong. Trước kia, trong bóng tối, làng nào cũng có cơ sở. Kháng chiến thì đi bộ đội, đi dân công ra trò. Giảm tô, cải cách cũng cờ đầu. Tớ mới được thư tỉnh, chúng nó báo tin, tỉnh tớ được cử đi làm điểm về phúc tra. Cải cách ruộng đất xong phải qua phúc tra mới thật căn bản. Lại cùng một lúc, tỉnh tớ làm điểm chỉnh đốn tổ chức từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, lôi ra được nhiều phản động chui vào tổ chức lắm. Đằng ấy có biết không, tỉnh tớ được chọn cán bộ đi giúp chỉnh huấn khu 5, Nam Bộ, rồi giảm tô cải cách trong ấy. Biết đâu tớ chẳng sắp được đi. Người tỉnh tớ thế mà ghê.”

Đột nhiên, tôi cười to:

“Ha, ha, ha...”

Đình nhăn mũi, không bằng lòng, tưởng tôi chế nhạo. Hỏi xẵng:

“Thằng đểu, cười chó gì?”

Rồi Đình không đợi tôi trả lời, Đình hạ thấp giọng, nhấm nháy:

“Tối hôm qua ấy, mày liệu hồn.”

Vừa dứt cười, thật tình tôi đương buồn cười về những khoe khoang tận đâu đâu của Đình, tôi vẫn đùa:

“Tối hôm qua thì làm sao?”

Đình lùa thẳng tôi một quả:

“Sao ở trên trời ấy. Đằng ấy vật nhau với cái Duyên. Hì, hì...”

“Đâu nào!”

“Biết điều thì nghe tao dạy đây. Tớ mách cho mà biết, con ngựa cái ấy cú cáo lắm. Tớ đương theo dõi xem nó có phải quốc dân đảng chui vào lũng đoạn hàng ngũ chuỗi rễ.”

Tôi im, dần dần bối rối, ỉu hẳn. Thằng này ma quỉ quá. Còn đi với nó, có ngày thì mất mạng.

Nhưng Đình đã nói:

“Đằng ấy ở phường phố, lớ quớ chẳng hiểu mẹ gì nông thôn. Tớ bảo cho miếng võ cảnh giác này mà phòng thân. Còn cái tối hôm qua thì tớ xuý xoá cho, không báo cú báo cáo lên lão Cự đâu. Tớ với đằng ấy về đây đã thông cảm xít xao từ hôm canh ty ăn trộm gói bánh đúc ngô của đội trưởng ở trong đền cơ mà.”

Đình cong một ngón tay giơ ra cho tôi ngoặc. Như trẻ chơi móc xương móc xảu bỏ lỗi cho nhau. Thế là hai thằng cười hi hi, hà hà loạn xạ cái nhà vắng. Người đàn bà tàn tật ngồi trong xó vách vẫn dửng dưng.

Rồi Đình về xóm Chuôm còn dặn lại "Nhớ nhé". Chẳng biết nhớ nhé ra làm sao.

Cũng không biết nhớ nông nổi thế nào thật. Những tưởng bấy lâu rình rập hạ nhau, bây giờ ăn cánh với nhau, thấy trong lòng nhẹ hẳn nỗi lo nghĩ tính toán. Phải thôi, chẳng biết tội thằng Đình ở đâu, chứ tôi vừa dăng dện cái Đơm, lại cái Duyên. Kỷ luật cải cách hủ hoá phải ngồi chuồng trâu, phải đuổi về mà vẫn nhơn nhơn trơ trẽn như không. Thằng đàn ông như cái đó vác đi đơm, thế thôi. Nhưng đây là quả cấm. Mà cũng lạ, cứ cấm thì lại hay mân mê táy máy. Mà con bé mới gớm ghê, nó là quốc dân đảng thật hay sao, nó cho mình vào tròng, hay nó hại thằng Đình, hay là thằng Đình xỏ lá chơi tôi một miếng. Chỉ biết, nó đã nắm thóp hai đứa. Nó sang tận Am mách tôi về thằng Đình thì nó sẽ lên lão Cự báo cáo tôi, biết đâu là chừng. Tôi lại đâm lo.

Tối tối, xóm Am đã cụng đầu tố khổ trong rễ chuỗi và mở rộng ra tổ nông hội. Có nơi đi nhanh, đã dấu địa chủ. Đội trưởng Cự nhanh nhất đã xin lệnh bắt bí thư chi bộ và một lúc sáu địa chủ có tội ác. Trong cuộc họp đội, Cự quát tháo "Phải ra tay mới phá được thế bị khống chế, bởi địch đã có tổ chức phá hoại, gây rối loạn. Ông lão loà ở xóm lội xuống ao trẫm mình, hay là địch dìm chết. Lại một đám cháy nhà. Đội trưởng nói: "Tăng cường tố khổ, mở rộng tố khổ để tìm ra đứa giết người, đứa đốt nhà". Chúng tôi hội ý đội buổi sáng, có khi cả lúc chập tối. Đứa nào bức tử, đứa nào đốt nhà cứ tố khổ rộng khắp cả thôn thì ra thôi. Đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng lắm mới ra đường, đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh đội, người già lùi vào bờ rào ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái. Đội trưởng Cự vào đỡ tay bà lão, nói: "Nông dân làm chủ không được khúm núm thế, không được mắc mưu địch hòng xoá nhoà ranh giới bạn thù. Ta đương đấu tranh, nông dân phải ngẩng mặt tự hào, còn thằng địa chủ có quỳ giữa đường lạy ta cũng mặc xác nó, bà cụ biết chưa?".

Những cuộc lên hội ý đội, lúc có đội trưởng thì rậm rịch, bối rối tít mù, nhưng vắng Cự thì lại uể oải, trễ tràng. Hai cậu bần cố ở xã được lên đi làm anh đội mà tôi vẫn xem khinh nửa mắt, cứ ngồi chầu hẫu, chốc lại ngáp, vừa ngáp vừa gãi nách kêu ối giời ơi rồi cuộn tròn tờ nội san: "Bận quá, cho em mượn về xóm đọc" - "ừ đọc báo thì càng thông suốt". Tôi đoán có cậu mới biết đánh vần, ngại mở tờ báo trước mặt người khác. Một đội viên thở dài khượt một cái: "Xóm của mày ít địa, có thì giờ nằm nghiền báo, sướng thật". Các thôn vẫn chưa lên đủ, mà Cự đi đâu không biết. Đã biết lệ, lão không về thì thôi, đã về muộn thế nào cũng nhiều việc quan trọng hay không cũng cứ đùng đùng, tới tấp. Một lúc sau, cũng chẳng thấy đội trưởng, thế là lả tả rút dần. Cũng chẳng biết là bận quá hay không, nhưng đã có lịch công tác hàng ngày, rồi quá giờ phải đi việc khác.

Một hôm, đội trưởng Cự sang xóm Am tìm tôi. Đội trưởng đến là có việc, thằng lười tôi cũng ngại. Cự đặt bịch cái túi da bẹt đít xuống chõng. Những gì trong túi mà nặng thế, sổ sách tài liệu và khẩu súng, hay chỉ hòn đá bỏ vào bao cho oai, hay lại gói bánh đúc ngô. Anh nào cũng như ma ăn cỗ, ai biết đâu. Nhưng cái dáng buông túi nặng nề tất có chuyện. Mấy hôm nay tôi đương lo sốt vó. Được phổ biến là trên đoàn uỷ nhận xét: xã này chưa đạt chỉ tiêu địa chủ. (Mà thôn tôi thì chưa tìm ra mống nào). ở cuộc hội ý hôm trước, đội trưởng Cự nói: "Chỉ thị đoàn uỷ phải triệt để chấp hành, thực hiện bằng được. Đưa phú lên địa thì dễ thôi, một lúc cả chục thằng cũng có, nhưng làm ẩu mà bị kiểm tra thì hỏng hết. Cố lên, không được để cờ tuyên dương đợt này lọt vào tay đội khác".

Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đầu cái đuôi địa chủ ở đâu. Hay là thôn này không có, không thể như thế, ở đâu có nông dân là ở đấy có địa chủ, sách lý luận thế. Không, không khi nào chưa đấu tranh đã rút lui. Chỗ nào có nông dân, có ruộng, tất có bóc lột. Tôi lên dây cót tôi. Hay là thằng tư Nhỡ? Nhưng cũng phải cẩn thận, chống ẩu mà. Các loại đất ruộng, đất vườn, đất thổ cư, các thứ lao động nhà nó chưa tính xong, không thể qui. Mỗi tiểu chuẩn địa, trên duyệt từng con số, bở hơi tai ra ấy chứ. Mà tôi nghĩ cũng chẳng nỡ. Mình thường qua lại nhà nó, hôm nào cũng chè thuốc, có hôm làm chén rượu tắc kè bổ dương, Cự biết thì đi đời anh đội, nhưng mà chỉ có mình với nó thì ai biết. Ruộng nhà ấy chia đầu người, lấy cả đất vườn gò, chưa đủ bình quân hai miếng. Mà nó cũng cổ cày vai bừa bao năm nay. Bắt nó cái phú cũng còn non. Đêm nằm bức bối nghĩ không chợp mắt. Thì lại lần vào xó nhà vày vò cái Đơm. Con bé cứ lúc mưa lúc nắng, cũng như trông nó khuôn mặt ngơ ngẩn trẻ con, nhưng cái người nó thì nùng nục con gái. Cứ vần như khúc gỗ, nhưng lắm bận Đơm nổi cơn, vừa động đến đã nóng rẫy rên lên, cắn bừa vào mũi vào tai tôi đau chết điếng mà không dám kêu. Tôi chỉ tránh nó ngoạm vào mũi, sợ thành sẹo như thằng Đình thì khốn. Dù sao, ấy thế cũng tan cơn nghĩ, ra ngã vào chõng mới ngủ được.

Đội trưởng Cự ngồi xuống bên cái túi da bò vàng nghệ vững chãi như cái ấm giỏ. Cự không uống rượu, nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng. Trong cuộc họp, Cự lườm một cái lộn lòng trắng mắt, ai đương nói cũng phải nghẹn lời, đợi nghe Cự. Mỗi tiếng Cự văng ra cục cằn như ném gạch. Cách nói năng thô lỗ ấy cũng không giống kiểu chính trị viên đại đội mà nghệ thuật ăn nói phải hàng ngày, có khi tôi đoán lão Cự khai man, cóc phải chính trị viên cũng nên. Đợt trước hôm đầu tiên họp đội tố khổ và tự giới thiệu, cố nông Cự trình bày đã đi Vệ quốc đoàn từ 1945 bây giờ chức vụ chính trị viên đại đội. Cự được quân đội điều đi cải cách ngay khi đơn vị ở khu 5 ra tập kết. Nói thế thì biết thế, cũng chẳng ai hỏi lại. Cái việc lý lịch, ai cũng nơm nớp, như tôi cha mẹ họ hàng dấm dớ, nhỡ cái phải ngồi chuồng trâu thì bỏ đời. Vả chăng, Cự bẳn tính, hay cáu, hay xúc động. Có hôm họp đội đọc báo, tin vụ thảm sát ở Hướng Điền tỉnh Quảng Trị, cả 92 người thôn Tân Lập và Tân Hiệp bị giết, còn hai người sống sót vượt tuyến ra Bắc, đội trưởng Cự khoanh tay lên gối, cúi đầu khóc rưng rức.

Cự ngồi xuống hỏi tôi:

“Ở nhà à?”

“Hôm nay không đi ba cùng được, tôi...”

Cự cười nhếch mép - cũng là cái cười hiếm, có thể lúc ấy đương hiền từ, rồi Cự chống tay xuống mặt chõng.

“Biết rồi, thằng rễ bảo cậu ở nhà quét nhà. Quảy chưa được gánh nước đã choang vỡ cái nồi của người ta.”

Tôi tái người. Chuyện kín bưng thế mà Cự biết!

Cự lại cười nhẹ nhàng. Tôi yên yên cơn lo. Cự thân mật, bỗ bã:

“Tối mai cậu xuống thôn Đìa dự đám cưới mình nhé.”

Tôi trố mắt. Cự lại nói:

“Tớ lấy vợ.”

Tôi không dám hỏi: "Anh chưa có vợ a? " Cự rủ rỉ: "Tôi ra tập kết chỉ biết lao vào công tác. Nhưng tuổi đã ngoài ba mươi, thì phải tính rồi. Vì tình thương yêu giai cấp, tôi lấy một cô cố nông ở thôn Đìa. Hôm qua họp toàn thôn, tôi ra câu hỏi: Khổ nhất thôn Đìa là ai? Cả thôn nhất trí cô ấy. Tôi tuyên bố tôi sẽ lập gia đình với người khổ nhất. Hội nghị cười râm ran, vỗ tay hoan nghênh. Dù việc riêng cũng công khai như ban ngày, càng thuận lợi cho công tác. Cậu nhớ bài báo về kỷ luật thằng Bổn chứ?

“Nhớ.”

“Lấy vợ không phải là hủ hoá, cần minh bạch.”

“Đúng thế.”

Chẳng những nhớ, tôi còn cắt giữ bài báo ở tờ nội san Cải Cách Ruộng Đất đăng cái nghị quyết của Đoàn ủy mà đội trưởng Cự đã bảo, tôi đã hai lần đọc to cho cả đội nghe để liên hệ và ngăn ngừa.

Nghiêm khắc phê phán sai lầm nghiêm trọng của Nguyễn Bổn - Đợt 5 này là đợt đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Phần lớn cán bộ đều có tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Đặc biệt, một số cán bộ xuất sắc đã được tuyên dương khen thưởng xứng đáng, nhưng bên cạnh những đồng chí tốt đó, tiếc thay có một số phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải xử trí đúng mức. Đồng chí Nguyễn Bổn là một trong số đó.

Đồng chí Nguyễn Bổn năm nay 30 tuổi, một cán bộ trao trả [1] đã đi cải cách (đợt 4 và 5), hiện là đội viên đội Đào Khê.

Trong đợt 4, đồng chí Bổn đã phạm lỗi nghiêm trọng: vì hủ hoá mà phải đổi đi 4 xóm, đến xóm nào cũng lại hủ hoá ở xóm đó, hủ hoá với vợ bộ đội, vợ tử sĩ và chòng ghẹo cả bà già trên 50 tuổi. Điên cuồng hơn nữa, ngay trong đại hội nông dân, đồng chí Bổn đã công nhiên cắn vào vú, vào mặt một chị chuỗi tích cực. Tổng cộng trong đợt 4, đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người và có hoạt động chòng ghẹo nhiều người khác. Tác hại là cả 4 xóm ấy đều lạc hậu, rễ chuỗi bị hỏng, mất tác dụng, đồng chí Bổn bị kỷ luật cảnh cáo toàn đoàn.

Mức kỷ luật đó chứng tỏ chính sách khoan hồng mở đường cho người sai phạm tự giác giáo dục, nhưng sang đợt 5 mới triển khai mà đồng chí Bổn đã tái phạm khuyết điểm với mức độ trầm trọng hơn trước nữa.

Về xã Đào Khê mới ba ngày, đồng chí Bổn đã liên lạc với con ái, con địa chủ cường hào gian ác. Cho con ái vào dân quân, đêm đến nấu chè đậu đen cho nó ăn rồi hủ hoá với nó. Lại cho mẹ con nó đi họp nông dân khiến không ai dám tố bố nó là địa chủ cường hào gian ác. Đồng chí Bổn lại đưa con Hạnh thành phần công thương vào dân quân, đem con Hạnh về hủ hoá ở nhà rễ. Bố thị Hạnh có tội đánh chết người đã bị quần chúng tố, nhưng đồng chí Bổn che giấu không báo cáo với đội. Đồng chí Bổn lại hủ hoá với chị Chắt, thiếu nhi trong xóm đã bắt được 4 lần trong bụi cây. Chồng chị ấy đi dân công vắng; mẹ chồng bị loà, tối nào đồng chí Bổn cũng vào nhà chị ấy để hủ hoá. Tác hại: Suốt bước 1 địch phá không trấn áp, địa chủ cường hào gian ác lọt lưới không truy ra, quần chúng phát động không lên. Cả 3 xóm đồng chí Bổn phụ trách đều bị phân loại 3 xóm lạc hậu.

Những sai lầm của đồng chí Bổn thật vô cùng nghiêm trọng. Đồng chí Bổn đã mất hết phẩm chất con người chứ không còn nói phẩm chất đảng viên và cán bộ cách mạng. Rõ ràng đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất không phải để phục vụ quần chúng mà để hủ hoá dâm ô. Đồng chí Bổn đã thành kẻ đầu hàng bao che cho địa chủ vứt bỏ hết quyền lợi nông dân, làm tổn hại đến cả sinh mạng quần chúng. Thực tế, đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất mà lại đã phá hoại cải cách ruộng đất. Đoàn uỷ quyết nghị thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Bổn: đuổi khỏi đoàn Cải Cách Ruộng Đất, khai trừ đảng tịch, cho áp giải về cơ quan...

Học tập bản kỷ luật đồng chí Bổn, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng không để cho những tư tưởng xấu tấn công..."

Ngày còn trong Thanh Hoá, khi tôi mới về đội này, đã nghe phong thanh Cự lấy một cô là "rễ cố nông" rồi Cự xin cho cô ấy đi làm cán bộ cải cách, được ra công tác ngoài Thái Bình. Những người ở đội trước xì xào thế, nhưng cũng không ai tò mò hỏi. Cũng là ngủ với đàn bà, nhưng mẹo như đội trưởng Cự không ngu dại như đội Bổn để vi phạm điều 4 trong 10 điều kỷ luật cán bộ phát động quần chúng "không được hủ hoá trai gái và rượu chè".

Tôi vẫn tỏ vẻ vui vui, xun xoe:

“Cưới thật à?”

Cự trố mắt, mặt chững lại, trả lời không đáp vào câu cười cợt nhả của tôi:

“Tối mai liên hoan giản dị nước chè xanh thôi. Đồng chí sắp sẵn mục thơ ca hò vè. Bây giờ thì ta làm việc...”

Tôi ngồi xổm xuống vỉa hè đất nện. Tôi lấy sổ tay, mở tháp cái bút máy oerơvơ.

“Sắp hết bước hai mà xóm này chưa có địa chủ. Các thôn đã lên hết, thôn Đìa dẫn đầu lên ba địa, năm phú. Thôn Am vẫn mù mờ không mống nào. Có nơi đã mít tinh quân dân chính đảng toàn xã, xã này cũng sẵn sàng rồi mà chỉ vì thôn Am...”

Cự nhác nhìn tôi rúm ró ghi chép dường như thương hại.

“Tôi phải báo cáo che quạt nan cho trên thông cảm với cậu chứ không có thì cậu bị tróc về đoàn lâu rồi. Mới hôm qua họp, tôi phải đem danh dự bảo đảm với đoàn uỷ, tôi hứa đội sẽ giúp cậu.”

Mồ hôi tôi chảy dài sống lưng.

“Cám ơn anh.”

“Ơn iếc gì, vào việc gấp thôi. Cái rễ của cậu dựa chưa thối nhưng đã lung lay, vì cậu không phát động cho vùng lên được. Địa chủ Thìn đã bị bắt, thằng Diệc rễ cậu là rễ nhà nó. Cái con vợ đui què câm điếc kia là con nhà địa chủ Thìn. Thằng tá điền Diệc phải rước của nợ đi, mà thằng địa chủ đểu cáng chỉ cho mượn hai miếng ruộng đầu đồng cuối đồng. Cho nên, về mặt nông dân, nó không liên quan, nhưng nó cũng chưa dám vạch tội ác địa chủ. Cậu đã hiểu như tôi vừa nói chưa?”

Quả tình, nhiều việc Cự nói tôi chỉ mang máng rồi lại tự gạt đi, tôi nhớ cái câu thằng Vách doạ hôm trước: "địa" đấy à, thế ra... Nhưng tôi đáp lời Cự nhanh nhẹn, như đứa học trò quen nói giấu dốt:

“Tôi hiểu... tôi hiểu ạ...”

Hai con mắt Cự xếch lên như mắt diều hâu. Tôi run tay. Tôi đoán có khi Cự đã biết cả cái sự tối ngày tôi mò mẫm ăn vụng như thằng Bổn. Giời ơi, tôi phát sốt lên đây này.

Cự nói to, dằn từng tiếng:

“Cũng không còn thì giờ để cậu loay hoay một mình. Xã vùng tề nguỵ này đặc biệt khó, nông dân bị chết mọi cách, chết đuối, treo cổ, địch giết hay thế nào. Đội ta đã giải quyết hết, chỉ còn mỗi thôn cậu. Đồng chí đã biết câu ở đâu có áp bức ở đấy có đấu tranh, tố khổ cả tháng mà không ra địa chủ, cái thằng rễ không mở mồm vạch thằng bố vợ gian ác một câu thì còn ai dám nói. Thằng Diệc được bồi dưỡng thế nào mà vẫn là cái đụn rạ, họp thôn ấp úng không nói đủ được câu "thưa toàn thể đồng bào", người ta xỏ lá phản ảnh lên là cốt cán ăn nói khinh nông dân. Tôi biết hết, chẳng cần báo cáo của đồng chí đâu. Việc xóm nào cũng không qua được mắt này. Từ nay đội trưởng Cự thay cậu kiêm phụ trách thôn Am.”

Rồi Cự hỏi:

“Có ý kiến gì không?”

Tôi nhẹ nhõm:

“Không ạ.”

Cũng chẳng biết thế nào mà không với có. Nhưng cứ cung cách nói năng, vẻ mặt đội trưởng đã dịu, có lẽ tôi cũng không đến nỗi bị bắt lên chuồng trâu giam cảnh cáo trên đoàn. Bây giờ đội trưởng kiêm thôn này thì tôi có đôi ba chữ nghĩa tôi về làm văn phòng đội chăng. Nhưng cũng không dám hỏi. Con cua nằm co quắp dưới bàn chân con ếch, nhúc nhích một cái, nhỡ bị nuốt chửng thì chết ngay.

Cự nói, như ra lệnh:

“Tôi điều đồng chí sang thôn Chuôm. Bên ấy, địa chủ Thìn đã vào tù, rễ chuỗi đâu đấy cả rồi. Chỉ còn đợi mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã...”

Tôi "à" một tiếng như vừa mới hiểu. Nhưng Cự cũng không quan tâm, Cự chỉ để ý câu mình nói.

“Cậu thấy thế nào?”

Tôi nói:

“Tôi phụ trách thôn Chuôm chung với đồng chí Đình à? Bên ấy căng lắm, mới bị trận bão Lốc, tôi sang...”

Hôm kia, bên Chuôm bị một trận bão cạn ghê gớm. Vùng này thỉnh thoảng lại gặp thiên tai ấy. Tự dưng, phía chân trời cửa bể, dựng lên một cột xoáy giữa vòm trời cơn mưa đen kịt. Rồng lấy nước! Rồng lấy nước! Cả làng cuống cuồng. Cơn lốc lao vào chuyển thành gió cuốn qua làng mạc, cánh đồng. Đâu đâu cũng gõ thùng, gõ mâm, gõ nồi đuổi lốc. Người đi đường nằm rạp xuống kẻo lốc hắt lên trời. Một vệt lốc ập qua, nhà cửa, cây rơm, cả gà lợn bị hất tứ tung lên đê, xuống bãi, ra đồng. Đội đương dồn người tới cứu đỡ thôn Chuôm.

Cự nhìn vào trong nhà. Hai con mắt như hai mảnh sành của người đàn bà què hau háu trợn trừng như bao giờ cũng vẫn thế. Cự khe khẽ:

“Tôi nói riêng cho đồng chí biết. Thằng Đình bị bắt rồi.”

“Bị bắt? Sao thế ạ? Vâng, vâng...”

“Thằng Đình là thủ lĩnh quốc dân đảng chui vào phá hoại ta từ lâu. Địa phương làm chỉnh đốn tổ chức kết hợp phúc tra cải cách đã đấu tranh phát hiện ra. Ô tô xuống tận đây xích tay giải đi đêm qua, bí mật đến độ trong nhà cũng không biết.”

Tôi lại rối ruột lên nữa, trước mọi việc xảy đến hồ như các việc cứ diễn ra ăn khớp thế nào. Ngay hôm ấy, tôi đeo ba lô xách túi sang thôn Chuôm. Quả là bên này chẳng có việc đáng kể và mọi lo lắng đều như trút lại sau lưng. Sáng sớm, tôi lên hội ý đội. Ra khỏi cổng đồng, thấy Đơm. Không phải gặp, mà Đơm đứng đợi tôi từ lúc nào. Như mọi khi, mảnh áo cánh rách lướp tướp. Một đám bùn khô còn dính bết trên đầu gối. Tôi chạnh nhớ trong đêm, những lúc Đơm đạp chân cuống quít, tiếng những miếng bùn rơi lộp độp. Rách rưới không bớt được cái hơi nồng nàn của cô gái đương thì vừa ngủ dậy. Quen tay, tay tôi vê đầu vú Đơm.

Đơm đứng yên như mọi khi, mặt đỏ rần. Nhưng những giọt nước mắt rơi xuống. Đơm nói nho nhỏ:

“Anh bỏ em rồi.”

“Đội đổi công tác anh sang Chuôm.”

“Không phải. Anh sang bên ấy ngủ với con Duyên.”

“Tuyên truyền của địch, láo nào!”

“Ai cũng biết hết rồi.”

Tôi giải thích:

“Bọn phản động đương hoành hành dữ lắm. Vừa có người thắt cổ dưới xóm Đìa. Lúc hạ thừng xuống không thấy hơi trong bụng hứ ra. Đúng là bị treo cổ. Phải đề cao cảnh giác.”

Đơm đẩy tay tôi ra.

“Con Duyên mặc áo ba lỗ của anh có mùi nước hoa thơm, cả cánh đồng ngửi thấy.”

Chết tôi, hôm ấy, tôi phơi cái may ô cổ vuông ngoài sân, Duyên ướm lên ngực rồi chui đầu mặc luôn. "Anh trông em có đẹp không?" Từ hôm sang Chuôm, tôi ở nhà bố Duyên như trước Đình đã ở. Bởi dưới nhà cả Cối lít nhít con nhỏ nằm đạp nhau chí choé cả đêm. Bố Cối nặng tai, ai trò chuyện thì thào hay nói to cứ mặc con vịt, khi nào cũng thở than mỗi một câu không ra khoe không ra phàn nàn: "Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa biết mặt đôi guốc, cái màn, chưa lên đến chợ tỉnh". Nhiều ông già bà cả trong làng cũng tương tự, người thì chưa nhìn thấy cái xe tay, người thì mới đến cái cột dây thép ngoài đường cái tây áp tai vào nghe u u, có người mới một đôi lần cuốc bộ lên chợ huyện.
Nhà có người già được ngăn nắp đâu ra đấy, có cửa, có bờ rào. Nhưng trong nhà cũng tuềnh toàng mỗi cái phản, một chõng nằm, một chõng mâm ăn cơm. Nền đất nhẵn thín, hạt trám đóng chi chít, thành thử mặt đất cũng phẳng như cánh phản, được nằm ngồi như nhau. Nhưng rồi không phải bọn trẻ con chỉ chí choé ở nhà bố mẹ chúng nó ngoài bãi. Tối nào chúng nó cũng san bớt nhau ra đi ngủ lang, kéo vào nhà ông nội. Có đến ba bốn đứa, đứa chạy đứa cõng vừa đến nơi đã díp mắt lăn ra giữa nhà. Mọi khi, Duyên nằm giường. Tôi không thể đoán thằng Đình nằm chỗ nào. Bây giờ cái giường tre nhường cho tôi. Duyên chặt mấy tàu chuối vào lót ổ góc trong. Đi họp về, lũ trẻ con đã ngủ mê tơi cả. Ông lão điếc nằm xó cột nào, không trông thấy. Tôi đặt cái túi đầu giường, rồi cẩn thận, cởi quần áo, chống hai tay như con ếch bò vào chỗ Duyên. Cái Đơm nói cũng chẳng ngoa.

“Ấy...”

“Lại có tháng à, xem nào.”

“Không.”

Duyên lăn xả vào, cưỡi lên tôi. Đến lúc tôi lử cò bợ, Duyên vẫn quắp không cho giẫy ra.

Duyên thì thào vào tai tôi:

“Tháng sau, em về nhà chồng.”

“Sao bảo rồi đi Hà Nội với anh?”

“Chỉ được cái thăng thiên. Ra đấy rồi anh bỏ em bơ vơ.”

“Anh thề.”

“Chẳng phải thề cá trê chui ống, cứ chui vào đây này.”

“Thật tháng sau em lấy chồng hả?”

“Có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ không để mà chửa hoang với ai. Mai kia, thằng con đầu em đặt tên nó là thằng Bối.”

“Tên nó là thằng Đình.”

Duyên ngoạm vào mặt tôi, lại đè tôi ra, hùng hục: "Xem con ai nào! Xem con ai nào!".

Có hôm nhà vắng, chúng tôi ngủ với nhau cả ban ngày. Duyên thật ra dáng con gái, lại có bộ mồi cái quần thâm, chiếc áo cánh phin, không man dại như Đơm. Hai đứa nằm đất mát lạnh trong khuya, sực nức mùi xà phòng hoa lý. Tôi có một bánh bọc giấy bóng cất đáy ba lô, thỉnh thoảng mới lấy gội đầu, thế mà Duyên lục được.

“Xà phòng này để anh gội đầu thôi.”

“Em tắm, em xoa khắp người.”

“Phải dội kỹ mới hết nhờn.”

“Không, để nguyên cả bọt cho thơm, ngửi sướng cả mũi.”

“Rồi ghẻ ngứa đấy.”

“Chẳng sợ.”

Có hôm tôi bắt được Duyên mặc cái may ô màu lơ của tôi, không phải chỉ người ta đồn mà Đơm đã nói lại. Duyên mặc đi chợ, lót trong tấm áo phin nâu mà vẫn hằn lỗ cổ vuông xanh lơ. Tôi víu Duyên lại, bắt cởi ra. Duyên cười cười, cởi lột ngược cái áo, trần ngực ra trước mặt tôi. Thế là hẵng khoan đi chợ. Nhiều lần những áo lót tôi chưa mặc đã có mùi xà phòng thơm. Tối nào tôi cũng đe cô mà mặc nữa thì tôi đi ở nhà khác. Duyên cười, không nói. Nhưng ả vẫn không chừa. Duyên muốn khoe ngầm với làng xóm "ta được mặc áo anh đội". Cái này thì khéo mà tôi đi tù chứ chẳng chơi. Nhưng cũng chỉ thoáng sợ thế lúc một mình. Những khi có Duyên ám thì cái bài báo về thằng Nguyễn Bổn hủ hoá lại là chuyện của người khác, mình không thế, mình không giống nó.

Nhìn lại đầu làng không thấy ai, tôi lôi Đơm vào bụi duối rậm rạp. Đú đởn, nhấm nhẳn, vẫn quanh quẩn.

“Cái Duyên nó lấy áo của anh nó mặc đi làm đồng.”

“Thật trông thấy à?”

“Không trông cũng ngửi thấy mùi.”

“Được, để rồi bắt nó về kiểm điểm, nó là dân quân mà.”

Đơm lại sa nước mắt, lã chã. Hai con mắt ướt tình quá, quên đời. Đơm nhấm đầu ngón tay tôi, nói nhỏ:

“Tối nay đấy.”


*

Nhà tù của liên đoàn uỷ đoàn phúc tra là lô cốt và trại giam ở phủ lỵ thời Pháp. Dây bìm bám rêu trùm lên lù lù tựa quả đồi xanh om, bên trong các xà lim, các buồng giam lồi lõm như hang hốc núi đá, dân quân các xã suốt ngày đêm đổi phiên canh gác vòng trong và bên ngoài. Người bị bắt càng đông - cái nhà cũ không đủ chỗ chứa, phải làm thêm. Đẵn tre để nguyên cả dóng chôn liền thành bức tường dài rộng đến hơn hai trăm thước chia thành ngăn, mái lộ thiên trống hốc. Trông giống cái chuồng trâu. Các đoàn cải cách, đoàn phúc tra, đoàn chỉnh đốn tổ chức đều có nơi giam người tương tự. Có câu hù doạ "phải ngồi chuồng trâu thì toi đời", là những trại tạm giam này.

Chiếc xe commăngca Ru đít vuông xóc lồng lên. Đình bị trói quặt tay chân nằm còng queo dưới sàn xe, không thể cựa được. Thế mà những bàn chân người ngồi trên ghế còn chặn lên cho nó khỏi quẫy. Ô tô chạy từ đêm đến sáng sớm, người đi chợ huyện thấy nhấp nhô trong xe hai người quần áo nâu mới, thắt lưng da to bản cầm dựng khẩu súng trường. Chỉ lạ mắt, không ai đoán được xe công việc gì đi hay về sớm thế. Sắp đến huyện, người ngồi ghế đằng trước quay lại:

“Chốc nữa đến nơi, gọi một tiểu đội ra gác rồi cởi chân cho nó đi. Vào chỗ giam trói ngay vào cột. Thằng này nguy hiểm số một. Để xổng thì mất đầu cả nút đấy.”

Nơi giam Đình ở cũi phía ngoài lô cốt. Không một lỗ cửa sổ, trên mái trống hốc mà như tối mù. Nhiều người đã bị nhốt trước ở đấy, bùn cứt thối khẳn lõng bõng ngập mắt cá chân. Đình phải trói đứng suốt ngày. Đêm ngủ lả đầu xuống, lưng cong như con tôm, hai tay vẫn treo lên cái vấu tre. Lúc lúc lại quờ quạng dật dờ ngọ ngoạy. Đình vẫn chưa hết cơn choáng váng bởi không hiểu thế nào.


Mấy ngày liền, không biết. Hôm đầu Đình còn tỉnh, nghe sau các vách cũi bên cạnh, tiếng rên, tiếng ho, tiếng nôn ồng ộc, tiếng thở dài não nuột, chẳng rõ người hấp hối hay con chó vừa bị một chầy vào đầu, chỉ còn ư ử mấy tiếng mơ hồ.

Một buổi sáng, nghe người quát hỏi bên ngoài: Thằng Việt gian Nguyễn Văn Đình ở buồng nào, thưa lên, ở buồng nào? Đình ú ớ: Tôi... tôi... Mấy cây tre gộc được nhấc ra, đẩy Đình ngã bệt xuống trước hai mũi súng chĩa.

Một cánh tay thò vào, lôi ra.

“A, nó giở trò.”

Thực sự, Đình không ngồi dậy được. Những cái lưng thề lễ mấy quả lựu đạn lại cúi xuống lôi Đình đứng lên. Nhưng người bị giam lại khuỵu xuống, không nhấc nổi hai bắp chân tụ máu. Xung quanh hét lấy lệ: đi, đi. Đình bò lồm ngồm, cũng không ai đoái hoài ngó lại. Đến bậc thềm, Đình như sực nhớ, mắt chớp chớp. Đình trông thấy cái bể nước đằng gốc cau, cái bể nước trơ trụi bên tường từ hồi Đình còn công tác dưới huyện. Hình như bây giờ để tôi vôi, thành bể trắng nhoe nhoét.

“... đồng chí...”

“Ai đồng chí với mày! Thưa các ông, mày nghe rõ chưa.”

“Các ông cho tôi nước, tôi khát quá.”

Mọi người thương hại, đem gáo dừa nước lại. Người đứng cạnh, chắc là tiểu đội trưởng, giằng gáo vứt đi.

“Không được liên quan giai cấp. Phải cảnh giác, nó cầm cái cán gáo chọc vào cổ chết bịt đầu mối thì sao.”

Qua sân, Đình bò lên bậc thềm, vào một toà nhà ngói. Đấy là công đường cũ của quan tri phủ, rồi sau là trụ sở uỷ ban huyện, Đình đã ra vào, thuộc từng xó. Dường như vẫn thế, chỉ khác đằng cuối, những lá cót mới quây ngăn thành gian riêng, ngoài thềm kê một hàng giá gỗ, trên đặt những chậu tráng men hoa và chiếc khăn mặt bông trắng vắt cạnh - nơi ở của các đoàn uỷ, và đoàn cố vấn đâu cũng giống nhau. Bàn ghế lộn xộn, những người làm việc đều lạ mặt, ai cũng quần áo nâu một loạt.

Đình được dẫn tới trước một bàn làm việc.

“Thưa đồng chí, phạm nhân Nguyễn Văn Đình...”

Người ngồi sau bàn, một thanh niên nhỏ nhắn, trắng trẻo đôi mắt kính trắng, như thầy lục sự ngày trước, nhưng lại đánh bộ quần áo nâu non mới. Không đoán được là cán bộ gì. Thoạt trông, hồi tưởng những hôm ở chỗ cửa phủ ngoài kia cách đây hơn mười năm, khi mới cướp chính quyền, suốt ngày trống ngũ liên gọi người đến ghi tên đầu quân. Lại phấp phỏng như hôm nào ta lên báo cáo đoàn uỷ, lại nghĩ không phải, lại...

Người ấy ngẩng nhìn Đình rồi hỏi nhẹ nhàng, nhưng lạnh ngắt, thấy Đình lúng búng "bẩm, bẩm...".

“Cái gì?”

“Tôi xin hụm nước. Mấy hôm tôi chưa được hạt cơm hạt nước nào.”

Đình run rẩy ngã sụp xuống. Đám người giải Đình tới đã lui ra ngoài từ nãy, đứng hai bên cửa. Người ngồi bàn giấy ngẩng lên, hất hàm ra phía ấy, vẫn giọng dịu dàng:

“Cho nó uống nước.”

Một người ra chỗ những chậu rửa mặt, nhìn quanh quất rồi cầm cái nắp nhựa hộp xà phòng, vục vào cái chậu còn nước, bưng lại cho Đình.

Đình ừng ực uống hết nắp nước quyện mùi xà phòng thơm. Vẫn khát như móc họng, nhưng không dám xin thêm. Từ hôm nọ bây giờ mới thấy được đối xử có vẻ như khác.

“Mày là Nguyễn Văn Đình?”

Câu hỏi gay gắt, Đình lại buồn hẳn.

“Vâng ạ.”

“Vâng ạ thế nào?”

“Vâng ạ, Nguyễn Văn Đình.”

“Quê quán, tuổi, nghề nghiệp.”

“Tôi... tôi ba mươi tư... cán bộ phó phòng... tỉnh...”

“Được rồi. Mày mắc tội gì, biết chưa?”

“Không ạ.”

“Mày là thằng quốc dân đảng có rất nhiều tội ác với nhân dân.”

“Tôi không biết.”

“Câm mồm. Năm ấy, bọn phản động cho mày lập ra cái trại tên là đại đồng... Chúng mày thâm lắm, đại đồng là hai chữ dân đảng dđ viết tắt, là tên Quốc dân đảng của chúng mày. Ở trại, mày đã giết hàng trăm người vô tội. Hiện có nhiều người dưới xuôi lên nhận mả người tản cư đã chết ở trại cùng với nông dân trong huyện tố cáo tội ác của mày. Khai ra, mày theo phản động từ bao giờ, ai đưa mày chui vào Việt Minh.”

Ông toà án vẫn nói nhỏ nhẹ. Nhưng Đình nghe đến đâu, như từng miếng thịt sau gáy giật lên.

Đình luống cuống:

“Xin toà soi xét, tôi không phải quốc dân đảng, tôi không giết người.”

“56 người bị giết, danh sách từng người chết oan đây.”

“Không, tôi...”

Người trẻ tuổi đứng dậy, khoan thai như thầy giáo giảng bài:

“Các đồng chí dân quân, khai khẩu cho nó nói ra.”

Lập tức, tốp người trực ở ngoài ùa vào lôi Đình xuống sân. Một cái gộc tre xù xì đập bốp vào mồm Đình còn đương há hốc. Ba chiếc răng cửa Đình văng ra như những hòn cuội, máu tuôn lênh láng. Đình lăn ra, thở sằng sặc. Những đầu mấu tre giáng xuống như giã giò, thình thịch, vun vút, bất kể vào đầu, vào lưng. Đình trợn ngược mắt, nhuôi ra. Chiếc gậy chọc vào lưng, lay đi lay lại. Rồi gậy lại chan chát xuống, như thử biết người còn sống không. Hai bàn tay Đình duỗi như búng con quay rồi đuỗn thẳng không nhúc nhích.

Người cán bộ kính trắng đã đứng đằng sau từ lúc nào.

“Khiêng nó về nhà giam. Cho cơm nước tử tế. Nó mà chết, các người gác phải thế mạng, không giỡn đâu.”

Cả ngày Đình được một nắm cơm không và một gáo dừa nước lã. Cái miệng vừa mất răng, mặt sưng vều lên đỏ rừ, nhưng Đình cũng trệu trạo nhai nắm cơm và tu sạch gáo nước. Người canh gác đứng đợi Đình nuốt hết cơm rồi lại trói Đình vào cọc xong mới cầm chiếc gáo đi. Một người khác đến ngay, cắt lượt gác canh suốt đêm ngoài dóng cũi.

Tuy đau, nhưng nuốt được vào bụng của ngọc thực, Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng khiếp sợ, có lúc muốn đập đầu chết ngay, có lúc tưởng tự dưng cũng sắp tắt thở. Làm sao nên nông nỗi này? Làm sao cái trại đại đồng lại lên trại quốc dân đảng? Những người ở xuôi tản cư không quen thung thổ đã ốm sốt rét ngã nước, cả vùng ai cũng biết. Thế là thế nào, bí thư, chủ tịch còn cả đấy, ở huyện, ở trên tỉnh à... à...

Có nhẹ trong đầu, nhưng khắp người đau như dần. hai tay bị thít vào cột, cả đêm Đình ỉa đái tuôn xuống quần. Có lúc khát rát cổ quá, cứ ngửa mặt như con cá mè úi nước. Những trại giam, chuồng giam thế này, Đình đã biết nhiều. Mọi khi anh đội rảo bước qua, rồi hét dân quân giải phạm nhân lên, điều không thể tưởng rồi ra có ngày anh đội lại phải trói đứng trong cái cũi tre. Đình đau đớn, ruột xót như bào.

Hôm sau, Đình lại bị dẫn lên. Mặt tấy to tròn như cái tráp. Đình tập tễnh lạch đi. Mà không biết thế nào, không biết ai giải cứu cho được. Cố cũng chỉ được vài bước, Đình với vịn người dân quân đi cạnh. Người kia chẳng nói chẳng rằng giơ báng súng tống vào mạng sườn Đình một cái, Đình bật tay ngã rụi.

Một lúc sau, cũng rật rờ đến được trước bàn.

“Toà hỏi lại, trả lời cho rõ: mày vào đảng phản động bao giờ, ai đưa vào, ai tổ chức cho mày trá hình chui vào Việt Minh, ai ra lệnh cho mày tập trung người, giết người.”

“Tôi lập trại nuôi người tản cư.”

“Lại chối hả? Không sợ mất nốt hàm răng?”

“Bẩm có chủ tịch, có bí thư ban cán sự huyện làm chứng. Các anh ấy bây giờ đương còn công tác trên tỉnh.”

“Hai thằng phản động ấy là trùm quốc dân đảng vùng này, đã phải đền tội trước nhân dân rồi. Chúng nó cho tiền mày lập trại giết người phá kháng chiến thế nào, khai rõ ra.”

“Thưa, không...”

Thế thì chết rồi, Đình hốt hoảng, run rẩy. Nhưng rồi Đình tỉnh hẳn. Những câu hỏi móc vào ấy Đình cũng đã quen tai, chẳng biết Đình đã từng nói hay Đình đã nghe hỏi thế nhiều lần. Cặp kính trắng của ông toà mặt hiền lành cúi xuống đọc tài liệu, ký giấy tờ, nhưng những câu ông hỏi, ông nói lại là con dao bầu cứ thế, nhất định mổ lôi từng khúc ruột gan lú lấp của Đình ra, khiến cho Đình chỉ biết, chỉ nhớ Đình có tội, tội nặng. Thế ra những thằng bí thư, thằng chủ tịch ngày ấy cũng là bọn phản động, mà "được đền tội" cả rồi.

“Tội nhân Nguyễn Văn Đình.”

“Dạ, em... Thưa, con...”

“Mày nhận thấy tội mày chưa?”

“Con nhận thấy tội rồi.”

“Tội thế nào?”

“Con giết nhiều người.”

“Mày vào đảng phản động bao giờ?”

“Đã lâu lắm con quên...”

“Không được quên. Đứa nào đưa mày vào? »

“Vâng ạ. Thằng chủ tịch, thằng bí thư, còn đứa nào nữa...”

“Làm sao mày lọt lưới đi cải cách?”

“Con không biết.”

“Mày lọt lưới cả phúc tra cải cách?”

“Vâng, con lọt lưới.”

“Thôi, cho về.”

Đình lại giở chứng, không muốn về cái chỗ thối ghê gớm ấy, giá cứ được đứng đây. Một báng súng đã thúc vào lưng, đun ra.

Nhưng hôm sau thêm nhiều người nữa ngồi ở hai cái bàn kê ai cũng hỏi hỏi, ghi chép, có cái máy chữ đánh tanh tách ngay cạnh. Thỉnh thoảng, một tờ giấy vừa đánh chữ bật ra lại đem cho Đình ký vào cuối trang. Đình cứ ký, cứ vâng dạ trả lời. Đình đã giết người thế nào, bao nhiêu người. Có người bị chọc tiết, phải không? - Vâng ạ - Có ai bị chôn sống không? - Có, có. - Mấy người? - Một ạ. - Cả thảy mười lăm người, danh sách đây. - Có người chân còn thò lên mặt đất? - Có ạ - Mày lấy cuốc chặt đi, phải không? - Vâng ạ - Chặt thế nào? - Tôi chặt một cái. Những chuyện ghê rợn cứ người nói người kể. Cái sợ, cái chết đến nơi, bí thư và chủ tịch huyện đã xuống suối vàng rồi, Đình cũng đương đi... Đình tỉnh rồi lại mê.

Người thẩm vấn hỏi một câu lạ, khác lúc nãy.

“Sao mày làm nhiều tội ác dã man thế?”

“Vâng ạ.”

“Tại sao, trả lời ngay!”

“Chúng nó bảo tôi làm.”

“Được rồi.”

Ở cũi giam, lại một nắm cơm, một gáo nước ngày ngày. Nhà Đình ở ngay trong làng, cuối phố huyện đây. Nhưng làm sao vợ con biết được, chúng nó có biết không. Mấy hôm nay thôi phải gọi lên hỏi nữa. Hai tay Đình được cởi trói, Đình ngồi phệt trên vũng bùn cứt, như con lợn quết bụng trong chuồng. Từ chân lên mặt vẫn sưng tấy, buốt đến tận óc. Đình chẳng còn chờ đợi gì, chỉ còn mong chóng được chết. Nhưng mà thế nào cũng sắp chết rồi. Cứ chôn đứng chôn ngồi thế này thì cũng chết đến nơi.

Một thoáng rồi ba tháng đã qua. Đình vẫn ngắc ngoải.

Hôm ấy, Đình phải điệu ra toà xử công khai. Cũng như những phiên toà giữa trời ở các xã. Một cái bãi liền chợ, đông nghịt cả hàng huyện kéo đến trường đấu. Trên hàng người, những chiếc đòn ống vát đầu tua tủa lên như nắm chông. Dễ thường có con mẹ hĩm mẹ cu vợ Đình trong đám ấy - các cụ để lại, xưa rày nhà Đình chỉ có mỗi miếng ruộng, hồi giảm tô, vợ Đình được là chuỗi, là tổ trưởng dân quân. Ôi nhưng mà có khi cũng bị đấu vì tội liên quan với phản động hay là đã chết cả rồi.

Những hy vọng vừa mơ màng tới, lại tối sầm. Từng đợt hô khẩu hiệu ồn ào bốn phía làm cho Đình xanh xám. Đình bị trói giật cánh khuỷu, mỗi bước cứ khuỵu xuống, hai bên dân quân lại lôi xềnh xệch. Trước dãy bàn xử án, mấy tấm cót ken nối nhau, dài hàng chữ hắc ín: Đả đảo Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình. Bên cạnh, một cọc tre tươi còn cả chòm lá phơ phất được cắm xuống, đất mới loang lổ xung quanh. Đình đã trông thấy những cái cọc như thế ở các mít tinh xử án, cọc trói người đem bắn. Đình bủn rủn lại ngã gục, không gượng lên được nữa. Bởi vì Đình lại đã trông thấy khuất sau chiếc ghế dài các đại biểu ngồi, trang trí tết lá dừa lưa thưa, hai người vừa khiêng ra một cái quan tài gỗ gạo tươi còn lướp tướp trắng bệch. Đình đã biết cả.

Mấy báng súng tống vào lưng, đẩy Đình ngồi tựa ngay vào cái cọc tre ấy. Một chiếc thừng luồn vào nách, buộc néo lên cọc, giữ cho Đình khỏi ngật ngưỡng. Đình lom khom như quỳ nghiêng trông ra đằng chợ, không được sấp mặt vào hàng ghế toà án, mà cũng không được chổng đít xuống đám đông mít tinh dưới kia. Từ nãy, cái vỏ ốc thằng Đình cứ bị xoay đi xoay lại mấy lần, đằng nào thì Đình cũng trông thấy quang cảnh đã biết ở đâu.

Hình như linh tính thế nào, Đình nhác mắt ra. Thoáng đằng sau hàng dân quân cầm dáo mác, dưới kia, trong đám các làng còn đương kéo lên có một người đàn bà nhấp nhô. Không nghe tiếng hô khẩu hiệu, không giơ tay, chỉ thấy nhảy nhảy. Trông rõ cả người ấy bồng lên cổ một cu con, mặc áo ca rô xanh. Ối giời ôi, cái áo kẻ ca rô mà tháng trước Đình được chia cho phiếu mua ở cửa hàng mậu dịch trên thị xã rồi gửi về cho con. Thằng cu nhà Đình! Thằng cu nhà Đình! Mẹ nó xốc nó lên cho Đình trông thấy. Đình trông thấy rồi, thấy rồi. Nhưng cái cổ Đình sái như gãy không ngoảnh được mặt. Rồi chỗ đông nhô ra ấy bị mấy đầu gậy túi bụi rúi xuống, chẳng thấy nữa. Khắp bãi lặng im nghe toà đọc cáo trạng tội Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình chống phá kháng chiến, lập trại giam trá hình giết chết hàng trăm người vô tội.

Xung quanh, mỗi lúc một phẫn nộ. Chốc chốc, bốc lên hàng loạt tiếng hô, đứt quãng cả tiếng người đương nói trên loa. Đả đảo Việt gian phản động... Đả đảo Việt gian... Bản cáo trạng dài lắm. Dần dần đã tan hẳn sương, trời quang. Một hàng năm người ngồi ghế cao sau tấm cót, hai đàn ông ba đàn bà, áo nâu non mới. Đình không dám nhìn ai, lại lẩn thẩn nghĩ không biết toà án của đội hay của trên đoàn tổ chức.

Ông nhỏ nhắn đeo kính trắng hỏi cung mọi khi hôm nay mặc đại cán màu xi măng, vai đeo túi dết, trịnh trọng đứng lên.

“Tội nhân Nguyễn Văn Đình!”

Có mỗi một cái loa tiếng e é, đặt trên bàn toà án. Đình ngồi dưới chỗ cái cọc trả lời hay im lặng, chẳng biết. Chỉ có tiếng ông toà án bốn phía nghe được mà thôi.

“Toà hỏi: ai xui mày lập trại giết người?”

“...”

“Bây giờ đồng bọn mày trốn ở đâu?”

“...”

“Mày đã giết bao nhiêu người?”

“...”

“Phải nói con số cụ thể.”

“...”

“Toà không mớm cung, ép cung, toà yêu cầu nói sự thật những việc đã làm.”

“...”

Một câu hỏi bỗng vang xuống hàng nghìn người ngồi, đứng dưới kia.

“Có còn ai lên vạch mặt tội ác Nguyễn Văn Đình?”

Mấy người lên, vừa chạy vừa hét. Toà cho đứng nói ở chỗ loa. Tiếng quát rít lên: "Thằng Nguyễn Văn Đình ngẩng mặt lên", nhưng Đình không còn sức ngọ ngoạy được cái cổ, cứ trơ ra. Người ấy la hét, kêu khóc kể Đình bỏ đói, suốt ngày bắt lên đồi đào sắn trựa, lấy thức ăn nuôi lợn. Hôm nào cũng thấy xác người bị nhét trong những cây nứa tươi đập rập đem đi vùi, có đêm đốt đuốc khiêng đi.

The thé tiếng một người đàn bà:

“Đêm nào thằng Việt gian cũng đi hủ hoá. Nó hủ hoá cả tôi. Hu, hu...”

Ở dưới nhộn nhạo, không rõ người ta buột miệng cười ầm lên hay đả đảo, đả đảo, có lúc nghe tiếng khóc thảm thiết rồi lại dồn dập: Đả đảo Việt gian...

Một người vọt tới, xỉa tay vào trán Đình - mặt Đình ngoẹo đi.

“Ba đời nhà mày làm cai tổng, hành hạ cả làng, cả tổng. Có phải thế không, nhận đi.”

Đình lờ đờ ngước mắt như xem có ai bị trói bên cạnh. Nhưng không. Người ta đấu có mỗi một Đình, thằng bạch đinh.

“Ông mày cai tổng thì ông tao chết đường, bố mày làm lý trưởng thì bố tao phải bỏ làng đi ăn mày, đến đời tao...”

“Đả đảo! Đả đảo!”

Ông toà án ngồi giữa đứng ra nói:

“Tội trạng Nguyễn Văn Đình đã rõ trong cáo trạng và những tố cáo của quần chúng. Bây giờ sang mục toà nghị án.”

Rồi ông cất cao giọng:

“Tôi lấy ý kiến giai cấp nông dân, xin hỏi tên Nguyễn Văn Đình đáng tội gì?”

“Tội chết! Tội chết!”

Trong làn nước mắt mờ mờ, Đình cố trông lại cái chỗ người đàn bà bế con lên vai lúc nãy. Chẳng biết có phải lại thấy mẹ con nó đương nhảy nhảy không. ánh mặt trời chói lói, ấm áp trong các đội sắp hàng nhốn nháo, huyên náo: Chết! Tội chết! Đả đảo mật thám! Hát lên, hát lên: Hò lơ, hó lơ... - Không, không, Nông dân là quân chủ lực! Một hai ba: Nông dân là...

“A lô! A lô! Yêu cầu đồng bào im lặng.”

Bỗng lặng phắc:

“Toà tuyên án: tử hình Nguyễn Văn Đình! án xử ngay tại chỗ.”

Lại sôi lên:

“Hoan hô giai cấp nông dân! Kiên quyết tử hình Việt gian.”

Đình bị kéo đứng thẳng, ngay ở cái cọc tre ấy, dân quân xúm lại thít chiếc thừng bó giò cả chân tay, cả người. Lúc mặt Đình đã buộc miếng vải thâm thì cái quan tài gỗ trắng nhởn cũng được hai dân quân khiêng ra, mở nắp sẵn, đặt cạnh. Nhưng Đình đã li bì, không biết gì nữa.

Bài hát Nông dân là quân chủ lực vẫn vang vang. Mỗi đám gào một phách, loạn xạ như vỡ chợ. Chỉ có tiểu đội dân quân trên bãi cỏ trước cái cót vẫn lúi húi, hì hục, lặng lẽ. Người nện cán cuốc lèn thêm cho chặt đứng chân cọc. Người thít lại mối thừng quấn lên người phạm nhân. Đằng sau bước ra một tiểu đội dân quân khác. Tám người, súng trường bồng trên vai, áo nâu mũ lá cọ, thắt lưng da to bản bóng nhoáng cài hai quả lựu đạn có rọ đan cẩn thận. Tiểu đội ấy đứng dàn hàng ngang, trông về phía bãi trống, trước mặt người sắp bị xử bắn. Rồi hạ súng, báng dựng ngay chăm chắm, đợi lệnh.

Đột nhiên, một người từ đằng sau nhô lên chỗ bàn toà án. Ông toà nhỏ nhắn đeo kính trắng cúi khom giơ bắt tay người mới đến. Ông cán bộ đã đứng tuổi, mép để hàng ria con kiến, đằng lưng áo gồ hẳn lên chuôi khẩu súng lục to. Rõ ra cán bộ cấp trên. Cả mấy người đã đứng dậy. Có người lóc cóc chạy đi bưng thêm cái ghế tựa.

Ông cán bộ nói mấy câu với các vị toà án rồi bước vào trước loa micrô, thong thả, vang lừng:

“Thưa toàn thể đồng bào giai cấp nông dân huyện ta, tôi bí thư đại diện đoàn uỷ khu về truyền đạt một chỉ thị quan trọng của Trung Ương. Tôi thông báo để đồng bào rõ, kể từ giờ phút nhận được lệnh này của khu, các đội cải cách, đội phúc tra, đội chỉnh đốn tổ chức đình chỉ tất cả các vụ xử bắn. Toà án phải thi hành đúng pháp luật Nhà nước, yêu cầu triệt để thi hành.”

Ở dưới vẫn im, không hoan hô, không đả đảo. Rồi lại nhốn nháo và cứ thế lộn xộn, xô bồ, người ta kéo về không ra hàng ngũ gì cả, cũng không cản được, mà cũng không ai cản cả. Đình đã thỉu đi rồi và như bị bỏ quên vẫn bị trói đứng trơ ra đấy. Cả các ông toà án cũng lúng túng, chỉ có đoàn uỷ khu về chậm nhưng vẫn còn kịp, ông bình tĩnh và cẩn thận, ông đề phòng nông dân còn đương bồng bột, nhỡ đám đông xông lên đánh chết người, thì lại phạm pháp.

Đình được khiêng về chỗ giam. Ông bí thư khu xem xét lại mọi hồ sơ của Đình, bàn bạc với các ông toà án, đến hôm sau, Đình được thả. Xoá cái án chém mà nhẹ như không, những người già bảo rằng trời còn có mắt.

Không biết đến hôm nào Đình mới lết về được nhà. Làng làng vẫn im ắng vừa sợ vừa phấp phỏng, mặc dầu bây giờ đương bắt đầu công tác sửa sai. Nhưng đường xá có thảnh thơi hơn. Các đội sửa sai, vẫn quần áo nâu và ba lô về làng nhưng mặt mũi tươi tỉnh, gặp ai cũng chào và đi xe đạp đến tận trụ sở uỷ ban xã. Sửa sai mà, sửa sai cải cách, sửa sai phúc tra cải cách, sửa sai chỉnh đốn tổ chức - sửa sai chồng đống cả loạt. Lớp cán bộ mới từ huyện, tỉnh đến Trung Ương lũ lượt xuống cơ sở. Cán bộ đi cải cách trở về cơ quan, đơn vị. Những rễ chuỗi đã thành cán bộ đội, không dám trở về làng, hàng trăm con người ở lỳ các trạm chờ khắp các tỉnh, không biết rồi các địa phương giải quyết thế nào.

Để ý kỹ, quang cảnh cũng có khác. Buổi chiều, một chú bé đội chiếc mũ lá vắt vẻo trên lưng con trâu nhẩn nha lên đê gặm cỏ. Bây giờ người ta mới nhớ ra có con chim chích choè hót sáng sớm. Con chim gáy báo giờ trưa chiều. Con thủ thỉ thù thì ầm ừ trong hoàng hôn bên kia sông. Con tu hú về mùa quả vải. Khi hoa gạo nở đỏ khé, hàng đàn sáo đá đến đậu trên cành cãi cọ vang vang.

Nhưng đấy câu chuyện rồi xảy ra nhiều năm về sau.

Tất cả những chuyện trên tôi biết được và nhớ lại, vì cái hôm tình cờ tôi gặp lại Đình. Ai có thể tưởng tượng cuộc gặp gỡ kỳ lạ đến thế.

Có đến hơn hai mươi năm sau, không nhớ đích xác. Trên vỉa hè, các ngách ngõ và quanh công viên thành phố dạo này người ta ở đâu kéo ra lắm người lang thang đến thế. Gầm cầu, chân tường vợ chồng con cái rúm ró với mọi thứ việc, không thể gọi là việc được. Mót rác, ăn mày, ăn cắp, cướp giật. Khi mưa khi nắng vào những kỳ gió bấc thổi, không biết người ta trốn tránh thế nào.

Bao nhiêu bệ rạc tụ hội lại, quần áo rách rưới chăng mành mành trên sợi dây nhựa căng đợt trên đợt dưới giữa hai gốc cây bạch đàn đầu công viên. Những mẩu gạch làm ông đầu rau ám khói đen thui. Chiếc nồi nhôm cơm lên hơi nghi ngút. Một xoong rau muống xào bốc mùi tỏi. Hai đứa trẻ lấm láp nghịch chơi tụt dốc trên lưng mẹ đương cúi cời than bếp. Một người con trai mặt sốt rét bủng rứ ngồi với một ông lão trên mảnh chiếu đã xạm xám mồ hôi trải sát chân tường. Chai rượu trắng đặt cạnh một đĩa lạc rang ủ trong bọc giấy báo mới lấy ra. Ông lão mặt đỏ lựng ngất ngưởng chòm râu lởm nhởm không ra để, không ra lâu chưa cạo. Đôi chốc, người trai lại thò chân bới đống rác dưới gốc cây. Ngón chân cái chia gạt ra chỗ giẻ rách, chỗ miếng nhựa, chỗ chai bia, vỏ đồ hộp, ống bơ. Anh ta uống rượu đợi cơm mà vẫn chịu khó lam làm.

Cái mặt lão này, ờ cái mặt, như đã gặp ở đâu. Chỉ lạ bộ râu xồm xoàm tuổi tác, còn thì quen lắm. Con mắt ốc nhồi, cái mũi đỏ, cái ve đuôi mắt nhấp nháy. Trong đời, mọi giao du hàng ngày, biết đâu nhớ xuể, nhưng những khuôn mặt về già mà vẫn gày gùa thì thường ít thay đổi, không như những người béo phì. Vụt một cái, như óc mở nắp, nhớ rồi: hình như thằng Đình, cán bộ Đình.

Tôi bước tới:

“Đình phải không?”

Đình cũng nhận ra ngay được tôi.

“Bối hả?”

Kể ra hai con người tóc bạc da mồi, đã tả tơi cả, vừa nhận ra nhau bởi linh cảm, còn những hoàn cảnh và trường hợp đã trải với nhau thì không thể quên. Cứ ngẫm từ cái thằng tôi, vui buồn chỉ còn lại một nỗi ngậm ngùi. Nhưng Đình thì dường như không. Lũ ăn mày trôi dạt trên vỉa hè mà đình huỳnh như giữa nhà. Đình cười khớ khớ - lại nhận ra vẫn cái cười láu tôm, bất cần từ hồi ấy. Đình trỏ tay:

“Vợ tớ kia, bà hai đấy. Bà cả mất ở huyện Sông Mã, được mỗi thằng cu nhớn này từ ở làng đem theo.”

Rồi Đình hỏi tôi dồn dập:

“Thế nào? Làm ăn ra sao? Quần áo người ngợm coi bộ phờ phạc thế? Bây giờ thống nhất bắc nam rồi, phải phóng tay chứ?”

“Phóng cái con hươu!”

“Còn đẽo cơm nhà nước hả?”

“Bị đá đít đã lâu rồi.”

“Thì cũng như tớ ngày ấy, lo đếch gì. Dạ dày, gan ruột tốt chứ, làm một tợp.”

Tôi ngồi xuống mảnh chiếu. Ngỡ ngay mình cũng đương lang bạt như bọn nhà này. Đình nhìn quanh rồi chùi chiếc vung nhựa đựng muối, lật ngửa như cái phễu, rót cho tôi một vung rượu.

Lại chẳng đợi tôi hỏi, Đình kể một thôi một thốc, từ cái ngày đương ở Chuôm rồi bị bắt. Bao nhiêu rùng rợn đau đớn mà cứ liến thoắng bô bô như chuyện ai ở đâu.

Đình chép miệng:

“Đến nước ấy thì chỉ còn chết chứ gì. Ba đời cùng đinh mà nó đấu nâng lên ba đời cai tổng, ba đời mật thám. Toàn những bố láo, bố láo tất.”

Tôi cười, chọc tức:

“Cũng bố láo đại khái như cái trại đại đồng của mày. Tội giết người thì không có, tao biết mày, nhưng tội hủ hoá thì chắc là sẵn.”

Đình cũng cười, nhưng nói nghiêm:

“Không được nói bậy, tớ đã bỏ bao nhiêu tâm sức vào đấy.”

Tôi lấy làm lạ vẻ kiên quyết đột nhiên của Đình, trong khi Đình kể tiếp:

“Được tha chết, nhưng chẳng còn ai nhìn nhọ đến mình, ở làng để chết đói hả, thôi thì chết ở đâu thì chết, không chết ở đất này, vợ chồng tớ với thằng cu này bồng bế nhau lên tận huyện Sông Mã giáp nước Lào. Mấy năm sau dần dần mới có các nơi người ta lên Tây Bắc phá rừng khai hoang, ít lâu thành làng xóm mới.”

“Lại làng đại đồng!”

Tôi nói câu vô ý ngỡ chạm vào chỗ đau. Nhưng Đình đã cười cười nhăn nhúm cả mặt, cả râu ria.

“Đại đồng đã suýt toi mạng, chẳng chơi. Mà cũng chẳng ai cần đến mình, chân trắng dân đen mà. Cứ tự nhiên, cũng cái xóm cái làng, nhà nào nhà ấy như dưới xuôi. Tớ kỳ cựu ở lâu nhất, làm trưởng thôn, rồi lên chủ tịch xã. Bấy giờ miền núi đã cải cách dân chủ rồi cũng nhẹ nhàng thôi, làm chân chủ tịch chân không chẳng rợn gáy nữa. Cả vùng Mường, vùng Thái huyện Sông Mã gọi tớ là cán bộ Đinh, chủ tịch Đinh. Hãi chữ Đình quá, vứt mẹ nó cái dấu huyền đi, thành Nguyễn Văn Đinh rồi.”

“Oai nhỉ? Vẫn oai!”

“Oai chứ. Nhưng miền núi ngoài này chó ăn đá gà ăn sỏi, còn đâu moi ra lấy cái ăn, lại năm nào trời cũng ra tai, khi hạn hán, khi lũ ống, vợ tớ chết bị trận lũ lở núi. Đến khi nghe tin đã thống nhất, tiếng đồn trong Nam đất đai sướng lắm, làm chơi ăn thật, tớ mới cho vợ con...”

“Vào Nam?”

“Chưa. Mới về đến đây.”

“Ở lại Hà Nội?”

“Không, dừng tàu dừng toa thôi chứ ở lại Hà Nội đi ăn mày thì không được. Trong người thằng Đình này vẫn sôi nửa trăm độ máu cán bộ. Tớ được cả làng trên Sông Mã góp tiền cho đi vào thăm luồng trước. Nếu làm ăn được thì về kéo nhau vào. Tớ tạm trú lại đây để lo xin Hà Nội cho cái giấy kinh tế mới đi Lâm Đồng. Có giấy tờ mới chắc chân vùng vẫy. ái chà chà... Kể ra đất phường phố cũng dễ kiếm gạo. Mấy mẹ con nhà nó, cả hai thằng oắt tỳ kia với thằng nhớn này, với tớ, ngày ngày bới rác cũng ra gạo, ra rượu. Nhưng không, vùng kinh tế mới mới là nơi hoạt động của cán bộ Đinh.”

Đức tính ấy của Đình mà tôi không có, bây giờ tôi mới nhận ra, có thể nó bắt đầu từ cái trại đại đồng khiến anh suýt ngoẻo mà tư tưởng anh vẫn đa mang. Đình đậm trò tổ chức, khoái làm cán bộ, đến già vẫn vậy thì thành tích cả đời rồi.

Tôi ngồi chịu trận giữa bãi rác nghe Đình thia lia nói những câu tự tin và quyền hành. Không hiểu sao, mỗi lúc lại thấy ra cả đời tôi là thằng đụt, thằng hèn, chẳng có mảy may chí khí. Sao tôi không có được cái tin tưởng thảnh thơi như nó. Cái thằng Đình suýt chết chém đến bây giờ đầu râu tóc bạc rồi mà vẫn cười nhăn răng, vẫn đi chạy giấy tờ, vẫn mộng lập làng mới.

Đình hỏi tôi:

“Mày có biết cửa nào chạy được nhanh.”

“Tao chỉ biết có cửa mả thôi. Mà mày không có hộ khẩu ở đây.”

“Rồi xoay cũng ra thôi.”

“Tao chịu.”

Tôi giở giọng trốn việc. Nhưng tôi có gì, tôi bùi ngùi trạnh nghĩ thân mình cũng đang cầu bơ cầu bất. Tôi thở dài.

“Tao chẳng biết.”

Hôm sau, hôm nào lò dò qua hồ tôi tránh đi về phía ấy. Nhìn xa xa, thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn vẫn thấy hơi loi thoi những mảnh quần áo. Chiều chiều, khói bếp um lên. ở các gốc cây khác cũng thế, phải một lúc mới nhận ra chỗ lão Đình râu Trương Phi ngồi xếp bằng. Vẫn đương uống rượu với thằng con trai như mọi khi. Tôi lủi sang bên kia hè phố.

Nhưng rồi lại cứ tò mò nhìn phía ấy. Một hôm, nhận ra những gốc bạch đàn trơ trọi, vòm lá reo reo. Không trông thấy dây phơi quần áo. Tôi đến tận nơi. Vẫn ba hòn gạch vua bếp trên đặt một ống bơ cơm đương sủi. Một người đàn bà tóc xoã sượi nằm đắp chiếu rên khừ khừ ngay bên cạnh. Người ốm thò tay run rẩy vun những mảnh giấy vụn vào bếp.

Nhà Đình đã đi rồi. Không biết Đình đi kinh tế mới hay đã đổi chỗ đến những xóm liều giữa bãi rác, kiếm nhanh hơn. Nhưng tôi đoán chắc Đình đi Lâm Đồng.


*


Thế là ngày ấy tôi sang thôn Chuôm thay "thằng phản động Đình". Thôn này đã có địa chủ, địa chủ đã đi tù, yên chí anh đội. Duyên là chuỗi, tổ trưởng dân quân, Đình đã cắt đặt từ trước. Tôi vẫn không đoán được cái đêm rình thằng Đình ở cạnh đền, Duyên bẫy tôi vào lưới cô ấy hay là chuyện thật thế. Đằng nào thì cũng vậy thôi.

Nhưng ông trời khoảnh ác không cho cái thằng lười tôi yên thân. Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tổ nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng. Phải soi mói cùng kiệt, không để lọt lưới. Bố mẹ nhà địa xuống âm phủ đã tám hoánh thì moi lên đấu bóng, đấu cho tăng căm thù đón ngày mít tinh xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã. Nhưng tố khổ địa chủ sống vẫn sôi sục hơn. ở ngay cái sân gạch Bát Tràng mà xưa kia Lý Thìn, đến mỗi vụ thuế hàng năm đã nọc ra đánh không biết bao nhiêu cùng đinh chậm thuế, thiếu thuế. Đêm đêm người ta tính sổ tội. Lý Thìn cởi trần, thắt lưng lụa điều, cầm hèo, tổng cộng ngần này năm phó lý rồi lý trưởng trước khi lên chánh tổng, đánh bao nhiêu người, hai trăm tám mươi bảy cả đàn ông đàn bà, đếm được rõ ràng đến thế. Tôi buồn ngủ cứng mắt, rơi cái bút lúc đương vật vờ ghi chép. Mặc dầu, tôi vẫn chốc lại cố cất giọng khàn khàn: "Bà con ta ai có khổ nói khổ, nông dân ta vùng lên". Nghe gà đã eo óc gáy dồn, tôi đứng dậy, chỉ kịp nói "bế mạc", cả đám họp đã cung cúc chạy. Vẫn chưa thoát cái vất vả nữa. Các thôn lại nháo nhác. Có hai đám tự tử, một người đâm đầu xuống giếng, một người thắt cổ. Dưới thôn Đìa - thôn trọng điểm của đội trưởng, nửa đêm cháy hơn chục nóc nhà, người phải ra đồng chất đất cày như xếp ải làm vách lỗ đất hang chuột để ở tạm.

Cuộc hội ý đội sáng sớm vẫn thường ngày. Và từ tờ mờ, cái Đơm đã ra đứng đợi tôi trong bụi cây duối. Đến lúc vào họp, tôi vẫn còn thờ thẫn, nhớ lúc nãy hì hục với cái Đơm.

Đội trưởng Cự đứng lên.

“Các thôn báo cáo.”

Cuối bước hai, thôn nào cũng dồn dập. Có thôn, cả bốn địa chủ với hai phản động gian ác phá tường nhà tạm giam, trốn mất. Xóm nào cũng mất trộm gà, bốn con trâu bị dắt ra đồng bị đâm lòi ruột, kềnh đấy.

Đội trưởng Cự nói, ngay câu đầu đã gay gắt:

“Tố khổ bước một, bọn địa chủ còn nghe ngóng, bây giờ chúng nó mới ra mặt chống phá. Chớ quên thành tích đội ta đã giật được cờ đầu đánh địch nên mới được ra làm cải cách vùng đất hai trăm ngày này. Quân Pháp được rút chậm hai trăm ngày ở Hải Phòng cho nên xung quanh thành phố là cái túi đựng mọi loại phản động. Chi bộ xã này, một địa chủ cường hào gian ác đội lốt huyện uỷ viên về thành lập lúc bị tạm chiếm. Ngay khi ấy đã chi bộ hai mang, bí thư hai mang. Khi đội về, chi bộ có 47 đảng viên, đoàn uỷ cho ta thanh lọc đã duyệt đuổi ra 37 địa chủ, mật thám, quốc dân đảng và các thành phần linh tinh, thế mà thế lực chúng vẫn còn uy hiếp nặng nề. Tôi đã lên đoàn đề nghị xử bắn bí thư. Không thế, khí thế nông dân không lên được. Nó làm bí thư ta, lại bí thư phản động. Tôi đã đi cải cách ba đợt, chưa đợt nào gặp nhiều địch như lần này. Các đồng chí đã biết rồi, chúng nó đã chia sẵn ruộng đất trước khi đội đến. Hôm tôi vào nhà bí thư, nó khiêu khích ngay: "Ruộng đất các thôn trong xã đã được chia lại hết. Mỗi chủ ruộng, mỗi người được chia đều có hỏi ý kiến cả hai bên, thật công bằng. Thế là nhẹ việc cho các anh". Có gớm không, vậy thì chúng ta chỉ còn có việc đầu hàng giai cấp địa chủ.”

Đội trưởng Cự quắc mắt từng đợt:

“Tình hình nghiêm trọng, các thôn phải tuần phòng cẩn mật suốt ngày đêm. Kế hoạch ba ngày nữa, duyệt xong hết địa chủ. Yêu cầu mỗi thôn lập hồ sơ đề nghị làm án nặng một địa chủ có tội với nông dân, có thế mới đưa được tinh thần nông dân lên.”

Hôm sau, mít tinh xử bắn tên phản động đội lốt bí thư chi bộ dưới thôn Đìa. Tôi đã nhát thấy máu, lại phụ trách toà án. Nhưng tôi đã có được lý do chính đáng. Đội trưởng Cự đã phát hiện ra bọn phản động thôn Đìa - tôi chưa tìm ra cách thoái thác trốn việc thế nào, đội trưởng đã nhận phụ trách toà án vụ này và phân công tôi huy động dân quân toàn xã bảo vệ mít tinh xử án.

Tháng này, các chuôm ngoài bãi chỉ còn xâm xấp nước. Ngoài sông, không có một người mò đến, kéo tôm, vắng cả trẻ con lau nhau đi đổ đó. Không biết người ta biến đâu, chẳng thấy một mống. Chúng nó đi xem hay chúng nó sợ, trốn ở nhà. Tôi dạo quanh một vòng bãi, gặp các tổ trưởng dân quân, dặn dò mấy câu kỷ luật rồi trở về, úp quyển sổ tay lên mặt, để cái bút máy mở nắp ngang nan chõng. Tôi định ngủ một giấc, nhưng cứ trằn trọc. Những tiếng ồn ào hô khẩu hiệu ngoài bãi vọng lại. Tôi lo sợ vẩn vơ về một người sắp bị bắn mà tôi cũng không biết mặt.

Đến lúc nghe đoàng đoàng mấy tiếng súng, tôi ngồi bật dậy. Thế là ngoài bãi mít tinh xong rồi. Tôi hí húi thảo một kế hoạch canh gác sít sao. Làm kế hoạch thì tôi quen rồi. Chỗ nào cũng để mắt tới, con chim lạ bay qua cũng phải biết. Tuần các ngõ, lại lập chen vào những chốt gác bí mật. Cán bộ đội các thôn đi tuần với dân quân. Tôi chạy đi gặp đội trưởng, báo cáo kế hoạch, làm như cả buổi mít tinh tôi vẫn có mặt ở đám du kích canh gác, bảo vệ.

Hôm sau, lại một người thắt cổ - một nông dân. Cứ có người chết, tôi được phân công viết điếu văn. Tôi có tiếng là người nhiều "văn hoá" trong đội. Chết đói, chết ốm, chết đuối, điếu văn đều gây xúc động và gợi căm thù. Hương hồn anh yên nghỉ, tên anh từ đây ghi vào lịch sử đấu tranh máu và nước mắt của nông dân xã ta... Tôi đã chép được ở đâu câu ấy. Cứ thế, cứ thế, chạy loăng quăng, giữa những việc lút đầu.

Tối nào tôi cũng đi tuần với tổ trưởng dân quân Duyên - kế hoạch tôi vạch ra cho dân quân cả xã cơ mà. Vả lại, mấy hôm nay mới có người thắt cổ, Duyên hốt đi qua quãng ấy. Bây giờ Duyên đi đâu cũng mặc cái áo lót cổ vuông của tôi, kể cả đêm đi tuần. Tôi lại phải doạ tôi sắp đổi đi thôn khác, tôi doạ không cùng đi tuần với nữa. Con bé vẫn nhõng nhẽo nài: anh cho em mặc ở nhà, mặc tối thôi, cái áo anh có bùa mê, anh ạ. Tôi đành chịu. Mà tôi cũng quen mũi cái mùi mồ hôi cỏ, mồ hôi bùn của Duyên, của Đơm. Vả lại, lũ trẻ con đến tối mới cõng nhau vào nhà không lên đèn. Bố Duyên thì hai mắt lông quặm, phải kẹp tre kéo mí lên từ thuở trẻ. Họp xóm, ông ngồi thụp vào một góc, tránh ánh đèn chói, tối đi ngủ từ lúc gà lên chuồng.

Đội tuần thôn chia từng tốp đi khắp. Tay gậy, tay súng, thắt lưng giắt quả lựu đạn điếc, vòng ra tận ngoài bờ tre. Quá nửa đêm tụ tập về trạm đầu xóm. Lúc ấy vãn dần. Đám con trai lỉnh đi, lùa theo những con mái nào, không biết. Khoảng một giờ sáng, trở lại trạm gác chỉ còn mấy cô - tối nhụ nhoạ, chẳng rõ mặt ai, các cô ngồi đứng xoã tóc gió thổi như ma đánh đu.

Anh đội và các cô dân quân rúc cả vào túp lều sàn lát mảnh hóp đá, cái giống hóp mỏng mặt nhưng chắc và mát lưng, nửa chân cột lều cắm xuống mặt nước ao làng. Các cô đẩy nhau nằm cạnh tôi. Duyên quát rít lên: "Tao là tổ trưởng, tao phải xít xao với anh đội". Rồi Duyên nhảy phắt vào, xô cả tôi rạt sang bên. Duyên nằm sóng xoài ra gối cái báng súng trường lên đầu, làm như ngủ luôn. Không cô nào chen, tỵ nạnh nữa.

Chúng họ xoay sang nói kháy, trêu trọc nhau.

“Mai kia mày vác anh đội phó về Thanh Hà quê chồng mày à.”

“Tao để lại cho chúng mày đấy.”

“Thanh Hà chẳng đói như ở đây đâu, anh Bối cứ về. Có nước cáy, lại đến mùa rươi...”

“Bắt rươi vất bỏ mẹ!”

“Được lấy một lúc hai chồng, sướng quên chết rồi.”

“Cứ doạ làm anh ấy ghê. Anh Bối ạ, chẳng đâu bằng ở đất này, tháng ba ngày tám thì gầy giơ xương sườn, teo vú một tý chứ đến mùa ngày hốc hai bữa cật lực thì lại tròn như con cun cút. Béo nần nẫn ra ấy chứ. Anh đi với cái Duyên xuống Thanh Hà hay anh ở đây với chúng em?”

Duyên quát:

“Tao sắp về Hà Nội đây.”

Rồi rúc mặt vào lưng tôi, cười rinh rích.

Canh khuya, tiếng thở dài thườn thượt khao khát, tiếng cù nhau cười như chuột rúc, tiếng nước bọt nhổ bèn bẹt xuống mặt ao như cá đớp. Chỉ một lát đã chập chờn, im ắng dần. Duyên nằm đè lên tôi quẫy huỳnh huỵch, chẳng ra ngủ mê chẳng ra thức. Tôi thấp thỏm ngại tiếng rin rít mảnh giát hóp đương lung lay, khéo đổ cái sàn mất. Duyên rên ư ử như con chó mê ngủ rồi lăn ra.
Những hơi thở nồng nàn chờ đợi hai bên lay tôi tỉnh lại. Nhớ những cuộc tuần đêm khi còn ở trong Nông Cống. Hệt thế này. Sao những lúc mơ màng ngái ngủ thì người ta giống nhau thế. Ăn nằm với nhau hẳn hoi mà như ngủ mê. Tiếng thở lẫn tiếng ngáy rờn rờn nâng cổ tôi dậy, tôi bò sang. Chốc chốc, sàn lều rập rềnh như thuyền. Chỗ góc ao này chắc lầy lội, con chẳng chuộc, con chẫu chàng càng khuya càng uôm oạp đinh tai, át cả tiếng kẽo kẹt mắt nứa, mặt hóp lẫn lộn vào đấy. Tôi lần lần... Thì ra chưa cô nào ngủ cả. Có cô nghiến răng cắn áo níu tôi lại. Nhưng tôi đã như con lươn luồn đi, chẳng bao lâu đã lại rúc về chỗ Duyên. Tôi không còn sức lê đi nữa, tôi quờ quạng úp mặt ngủ trên bụng cô ấy.

Tôi như con trâu con bò, không ra sợ không ra liều. Những điều về công tác, về kỷ luật viết trên giấy trong lịch ngày, lịch tuần, lịch bước, lịch đợt. Tôi không hiểu, tôi không muốn hiểu, lỳ. Duyên nói tỉnh khô: "Anh mà ngủ với em khi ngày mùa ấy à, như nằm đệm bông. Bây giờ thiếu ăn hóp cả người thì em phải giữ, chứ cái xương bánh chè của em mà đâm lên thì anh gãy mạng sườn mất". Đói mà khoẻ thế.

Nhớ lại quang cảnh hôm chợ huyện. Chúng tôi húc đầu vào hàng bánh đúc thì xung quanh mênh mông đói khát. Trong chợ, những cẳng tay cẳng chân đi lại như những cành que. Một người đàn bà ở đâu đến ngồi xệp xuống, bồng đứa con gái nhỏ trên tay. Thằng con trai khoảng bốn năm tuổi mặt già cấc bò bên chân. Mỗi lần người mẹ giơ đứa bé cho người hỏi mua, đứa anh lại oà khóc. Người mẹ mếu máo: "Nó khóc quá, tôi không dám cho", chốc lại nói lại câu ấy. Một bà nói "Để tôi đi mua cái kẹo nhử thằng bé thì nó mới nhãng em nó được". Người đàn bà vỗ vỗ lưng con, lặng im. Xung quanh đổ đến mỗi lúc mỗi đông. Cái người tần ngần đứng hỏi mua trẻ con, người ấy cụt một tay. Có người đòi xem thẻ thương binh của anh ta. Tiếng ai kêu lên: "ối giời ôi, cái lúc lung tung này, thằng Ngô Đình Diệm ở trong Nam cho người đi mua trẻ con rồi ném vào bụi, đổ cho ta giết. Đã tìm ra khối đấy. Phải cẩn thận cái thằng địch, đồng bào ạ". Mấy người cho mẹ con nhà nọ cái bánh đúc ngô. Hai đứa trẻ nhai nhỏm nhẻm. Người cụt tay hỏi mua trẻ đã bỏ đi từ lúc nào.

Giấc ngủ mê mệt của tôi rối loạn những chuyện đói. Hết cả hơi, tôi cũng đương đói dốc bụng. Tiếng vành bánh xe bò người kéo lộc cộc, các làng đi chợ sớm đã loẹt quẹt gồng gánh ngoài kia. Tôi uể oải mở mắt. Các cô dân quân đã đi hết, chỉ còn mình tôi nằm trơ giữa cái lều. Tôi lồm cồm, vơ cái sắc cốt, đứng dậy vươn vai, oằn lưng bẻ khục răng rắc mấy cái rồi về xóm Am hội ý đội. Tôi bước nhấp nhô trên cánh đồng cày ải, đất xám bàng bạc. Đổ ải, những guồng nước kĩu kịt, người tát nước nhịp đôi, nhịp ba, nhịp bốn lên đồng cao. Chỉ mấy hôm nữa, đất ngấm nước tươi màu dần, đường bừa ào qua váng nước trắng mặt ruộng. Mạ đã đến tuổi, nhưng chưa biết thế nào. Năm nay chạy đói mới cấy cưỡng, đồng đất vùng này vốn chỉ ăn được một vụ mùa.

Vào họp, đội trưởng Cự tuyên bố:

“Thảo luận công tác thôn Am, thôn Chuôm.”

Thường lệ, các xóm "mọi việc đều tốt", cả cái hồi tôi bối rối ở bên Am, chưa mò ra địa chủ, tôi cũng "thưa các đồng chí... tôi đương lên phương án". Ai nấy hí hoáy ghi sổ tay, tôi tẩn mẩn vòng móc xích những chữ o liền nhau. Mới sáng mà mắt tôi mờ như quáng gà, tôi ngủ gật, ngòi bút rụi xuống giấy, nhoét mực. Nhọc quá, mà từ đêm chưa được một hột vào bụng.

Nghe tiếng "thôn Am... thôn Chuôm..." mắt tôi bỗng ráo hoảnh, cơn ngủ biến mất, tôi ngẩn người nghe đội trưởng nói:

“Về tình hình thôn Am trước. Khuyết điểm, đồng chí Bối sẽ kiểm điểm sau về việc hai tuần lễ không phát hiện được địa chủ. Tôi về thay, tôi đọc tài liệu rồi để nửa buổi thăm nghèo hỏi khổ đã lòi ngay ra một thằng địa, đem hồ sơ lên đoàn được duyệt tức khắc. Suýt nữa con cá chuối lọt lưới. Cái thằng tư Nhỡ lù lù đấy chứ đâu. Thằng ấy bảo là học trò trên huyện, về chân lấm tay bùn đã lâu, nói láo. Cái cây tre buộc sợi dây thép lủng lẳng nó bảo là hộp galen để nghe tin tức của đài ta, đồng chí Bối tin thế hả? Không, tôi ở quân đội tôi biết, nó là cái bắt tin, đánh tin đấy. Thằng Tây đã cho nó lặn lại thì nó phải có thông tin liên lạc. Mà rõ ràng đấy, cửa nhà nó có cái bảng đề chữ Tây treo to bằng cái hoành phi sơn son thếp vàng trên bàn thờ bố nó. Rễ chuỗi đã lôi nó ra dấu cho một đêm, nó gục. Địa chủ tư Nhỡ đã phải ký biên bản nhận tội tay sai phản động rồi. Tôi đã cho dân quân gác không cho nó được ra khỏi cửa, đợi lệnh của đoàn. Còn sang đến mục không có lao động, thì nhà tư Nhỡ đã thuê người từ cấy hái đến đánh cây rơm. Người làm nhà nó đã tố hết. Bây giờ nói về rễ chuỗi thôn Am, anh Diệc vốn là cố nông, đồng chí Bối đã bắt rễ đúng. Nhưng khuyết điểm là anh Diệc không được bồi dưỡng, chuỗi là cô Đơm con anh Diệc cũng chỉ có tên thế thôi, rễ và chuỗi đều chưa có tác dụng. Địa chủ Thìn thật độc ác, vợ anh Diệc què gãy mù loà thế mà địa chủ Thìn bắt anh Diệc lấy rồi lại phải cày cấy trả nợ. Tôi đã chỉ định đồng chí Diệc làm trưởng thôn, đồng chí Đơm làm tổ trưởng dân quân. Tôi sẽ phát động đồng chí Diệc, đồng chí Đơm lên ngang mặt đấu địa chủ Thìn hôm toà xử án.”

Tội ác địa chủ Thìn thì tôi đã nghe bác Diệc và thằng Vách kể, họp đội tôi vẫn báo cáo, nhưng đến lúc đội trưởng Cự nói thì như những việc đội trưởng vừa phát hiện mới đúng. Không hiểu sao, nghe Cự nói, tôi lại nghĩ ra một chuyện nhảm khác: thằng này đã ngủ với con Đơm. Tôi càng đinh ninh thế khi cách đây mấy hôm đội trưởng Cự đưa vợ ở Đìa lên chào đội, nói vợ đồng chí sắp đi công tác. Cô "rễ" ấy đã được Cự lên đoàn uỷ xin cho đi thoát ly. Cô bé ngơ ngác hôm nào, đã thành người cán bộ áo nâu quần thâm mới, vai đeo túi vải ka ki, nhanh nhẹn hoạt bát. Cái ám ảnh mấy đợt cải cách đội trưởng đã "chế tạo" ra không biết mấy cái "rễ" vợ như thế lại luẩn quẩn trong tôi. Vợ mà đi công tác thì "thằng Nguyễn Bổn" ấy lại ngủ ngay với người khác thôi. Cái thằng mắt lúc nào cũng đỏ cá chày thế kia chịu sao được tối nằm không. ờ mà mấy sớm nay không thấy Đơm đón đường kéo tôi vào bụi duối. Mọi khi Đơm vẫn liều lĩnh như con cún đói ngồi rình chộp mồi trong bụi. Đơm núp trong ấy từ lúc chưa tỏ mặt người. Có hôm, tôi chui được ra thì áo toạc chỉ lung tung, một bên má bị cắn rớm máu. Đến họp đội, tôi nói bịa vô ý đâm vào cái cọc chạn bát.

Mà Cự đã phân công anh đội khác về Đìa. Cự đã lên ở nhà bác Diệc, văn phòng đội, họp đội cũng lên đấy. Tôi mang máng đoán ra. Tôi chẳng ghen tức nỗi gì, tôi chỉ phân tích ra thế. Đi họp, tôi chỉ nghĩ quanh quẩn vẩn vơ.

Nhưng vài hôm không gần gũi Đơm cũng lại nổi cơn thèm. Cái ngây ngô của Đơm đáng yêu làm cho mình có oai đàn ông hơn trước những thành thạo ngỗ ngược của Duyên. Trời đương mưa lăn phăn. Tôi vác cái cào như đi đánh cỏ, tôi loăng quăng ra đồng. Xem ngộ may có gặp Đơm. Cánh đồng và gò đống xa vắng trong mưa mù. Nghe tiếng cả bước chân người rào rạo trên cỏ. Giá ban ngày nắng ráo mà được lăn lộn ở đây, vật nhau có rống lên như bò cũng không phía nào nghe tiếng. Đương nghĩ thích thú, thấy bóng người trong bụi mưa đi tới. Tôi ngợ là đội trưởng Cự. Cự thật. Trông trước thấy cái sắc cốt thâm xịt nước mưa - Bối đấy à? Làm gì thế? - Tôi đi cào cỏ - Thôi, về đã. Có việc quan trọng. Nghe hai tiếng quan trọng, tôi đã thấy đắng miệng. Tự dưng nghĩ ngay đến cái lúc Cự thì thào thằng Đình bị trói nửa đêm đem đi.

Tôi bước theo Cự, chẳng nói chẳng rằng. Cự cũng im. Tôi càng rờn rợn. Vào nhà bác Diệc đã thấy cả hơn mười anh đội các thôn về ngồi đấy.

Đội trưởng Cự đứng dưới mái tranh, cất tiếng như hô khẩu hiệu:

“Báo cáo các đồng chí, trên đã duyệt án tử hình địa chủ Thìn.”

Những người ngồi quanh vỗ tay độp độp như đập mẹt, tôi còn tìm chỗ gác cái cào cỏ và chưa hết cơn hốt hoảng vừa rồi, chưa hiểu thế nào, đến lúc nghe thấy thế lại sợ tiếp. Địa chủ Thìn ở xóm Chuôm, lại bận bịu lôi thôi đến tôi rồi. Chỗ giam lão ta cũng tại ngay nhà lão, tôi thường đi qua kiểm soát dân quân canh gác. Một lão già tám mươi tuổi héo hắt như cái dây khoai, mắt thông manh mù dở, khoeo chân không duỗi ra được. Chẳng có án thì cũng chỉ dăm hôm nữa lão ngoẻo thôi.

“Tôi phân công đồng chí Bối đội phó phụ trách toà án chịu trách nhiệm hôm tổ chức xử địa chủ Thìn. Các thôn khác huy động triệt để quần chúng đi dự.”

Lần này, tôi không thể lủi đi, đổ việc cho ai. Thế là, cũng đột nhiên tôi cứng cáp, nhanh nhảu, phát biểu và ghi chép nhoay nhoáy nhanh như máy.

Tôi ra họp tổ dân quân. Bọn con gái vừa trông thấy tôi, đã nói to như mách nước cho tôi biết phải theo thế. "Các đồng chí nam vào bắt thằng tù. Chúng em đứng ngoài canh gác". Cả tổ trưởng Duyên cũng vào hùa với chúng nó và tôi đã cắt đặt theo như thế. Sớm hôm sau, bốn nam đeo súng trường vào chỗ giam địa chủ Thìn. Người nào cũng hăng hái, sừng sộ khác thường như vừa có chén rượu. Tôi đứng giữa nhà, nhìn bao quát. Hai người mở chốt cũi. Đũng quần lão già dày kệp cứt, cả gian âm u ẩm ướt thối không chịu được. Mấy người nhà xúm lại khóc rưng rức, đỡ lão Thìn.

Tôi hét:

“Cút ra đằng kia.”

Một dân quân vào bếp lấy ra cái đòn ống. Trưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét dạ đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê: "Để cho mày khỏi vướng" rồi Cối xỏ tay vào mặc áo luôn. Lão tù bị buộc tay buộc chân, hai người khoác súng xỏ đòn ống, khiêng bô ông bêêng đi. Cái lưng áo dạ với hai vai nhấp nhô của Cối, tôi ngỡ đấy là lão Thìn đã lộn kiếp, nhập sang người thằng kia.

Bãi mít tinh đông nghịt người. Giữa đám, lại những túm lá móc diều, những tàu dừa kết thành một hàng rào xanh trang trí sau bàn toà án.

Cuộc đấu lên nổ liên tiếp, khi địa chủ Thìn vừa được đặt xuống ngồi tựa vào cái cọc. Người chạy lên chạy xuống, tới tấp.

“Mày có biết tao là ai không?”

Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:

“Thưa bà nông dân... tôi không biết...”

“Tao đi ở cho cháu mày.”

“Thế thì tôi không biết thật ạ.”

“Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ!”

Rồi hớt hải chạy xuống giữa tiếng đả đảo cuồn cuộn trong đám người.

Cái bãi lau chen chúc loi thoi, đầm nước trắng đằng cuối. Những con chim hét đen tuyền, những đàn cò trắng không dám đậu xuống, lượn quanh trên trời với mấy con diều hâu. Thường ngày, trẻ con chăn bò trên bờ cỏ lác đằng kia. Cái sa chắn cá trong hõm sâu vào lạch ruộng, xưa kia đấy chỉ toàn bãi rậm. Xa xa, dưới bóng gò đất chơ vơ giữa đồng, những xóm mới, xóm trại nhích lại dần. Tôi vẫn hay đi qua đấy, sáng chiều nước ánh lên bóng người tha thủi ngoài sông ngoài đồng về lúc chặp tối, đã bao nhiêu đời buồn bã thế.

Lát nữa, lão Thìn sẽ chết ở cái bãi mà mới năm trước, lão thuê cả lính bốt hương dũng đốt cỏ lác cày vỡ hoang.

Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi. Đống văn tự, giấy tờ, sổ sách chữ Tây chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói um lên, tàn than lả tả bay như đàn bướm đen. Nhưng tiếng quát xô lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi! Bắt nó đứng! Bắt nó... Địa chủ Thìn bị xốc lên, trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẵn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái quần đã tụt vòng hẳn xuống hai ống chân bằng cái ống nứa.

Tôi ở ghế chủ toạ, đứng lên đọc một cáo trạng tội ác lão Thìn. Nhà nó đã mấy đời bóc lột, càng ngày càng giàu, càng ác. Nó thu thóc tạ cho Pháp, cho Nhật, khi kháng chiến đội lốt làm chủ tịch xã, đến hồi Tây về nó ra làm tổng uỷ - nó là con chó săn của hai, ba đế quốc. Con gái nó đui què, câm điếc, nó bắt nông dân phải lấy, rồi lại phải cấy rẽ giả nợ... Đả đảo địa chủ, cường hào ác bá...

Giữa những tiếng lao nhao hô đả đảo, bác Diệc run run bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng ngang. Đơm khoác súng đứng hàng đầu. Duyên mặt đỏ hây, cúp mắt nhìn xuống hai đầu vú đương cường cong tớn. Thấy thế, tôi mới nhớ vẫn Duyên ấy. Đơm thì nước mắt ròng ròng nhìn lên tôi. Có phải những giọt nước mắt nói: ông em ngày trước đấy.

Bác Diệc chỉ tay vào địa chủ Thìn:

“Tao thù mày! Tao thù...”

Rồi khóc rống lên, chạy xuống.

Đội trưởng Cự xô ngay ra trước loa, quát to:

“Hôm nay là ngày thắng lợi của giai cấp nông dân chúng ta, cấm không ai được khóc.”

Ở đám các làng ngồi chen chúc, một bà lão gầy rạc, da mặt đọng từng vũng nhăn nhúm. Bà lão nói choang choác: "Đận đói năm trước, nhà tôi một tháng chết mất ba người. Đến đận này ruộng kiệt nước, đói dài hai năm mà không ai chết. May được bộ đội về dạy giồng rau muống, rau lang ăn trợ thời. Cái khi thằng Thìn làm phó lý, chồng tôi chậm thuế thân, thằng Thìn cho tuần vào bắt cái nồi tư, tôi đương kéo vó bè, nó rỡ cả vó. Nhờ các ông các bà lên kể khổ hộ tôi.

Lại nghe loác choác, bô bô tiếng lão Cối điếc:

“Bố thằng tư Nhỡ làm hương kiểm, một đêm, nó sai tôi đi úp trộm cá ngoài ao làng. Khán thủ bắt được trói đánh đau quá, tôi phun ra hương kiểm sai. Khán thủ cũng phải sợ thế lực hương kiểm, từ bấy giờ hương kiểm thù tôi làm nó bẽ mặt, cứ gặp tôi đâu là đánh. Một đêm có lệnh canh đê, trên phủ tư về gấp. Khán thủ cho tôi đem giấy vào hương kiểm. Hương kiểm nhà giàu sợ cướp đã có hiệu trước, không cho tuần đinh gọi nửa đêm, hễ có việc quan chỉ được đứng ngoài thổi tù và gọi. Tôi đứng bờ ao, rúc tù và từ nửa đêm đến gà gáy sáng, phồng rát cả hai má, lộng óc, rét run cầm cập vẫn không thấy ai ở nhà hương kiểm ra. Sau trong xóm nghe tù và điếc tai quá, phải chạy vào gọi hộ. Hương kiểm vác hèo ra nạt: "Sao mày không thổi giục chứ thổi như đi tuần thế thì bố mày cũng không biết". Rồi quất tôi ba hèo bắn máu đít. Tôi đã ghi cả vào óc rồi. Cha làm con chịu, cái thằng tư Nhỡ bây giờ phải đền tội cho thằng bố, thằng cụ, thằng kỵ nhà nó.”

Một người nói:

“Hôm nay mới đấu thằng địa chủ Thìn, chưa đến lượt tư Nhỡ.”

“Ấy chết, tôi cứ tưởng. Hôm nào đến thằng tư Nhỡ?”

Chẳng ai trả lời lão điếc lại say rượu. Không biết có phải vì cái khổ đã đau đớn lắm rồi, lại nghe nhiều rồi, chẳng mấy người muốn nói nữa. Một lát, cái bà lão lúc nãy lại hỏi: "Nó lắm vợ quá, năm vợ, mười bốn con, đã ai lên đấu nó cái tội bóc lột ấy chưa?" Cũng không ai trả lời câu hỏi ngu ngơ.
Một người dáng như tổ trưởng, xách cái gậy lảng vảng đến "Đây không phải cái chợ. Ai xì xào nữa người ta cắt lưỡi đấy".

Cả nghìn con người lại im như tờ. Khi một loạt tiếng súng toả khói xanh um lên, đám đông ở dưới đẩy nhau chạy. Ai cũng khiếp tiếng nổ. Người hãi máu, bịt mắt lại. Người nhốn nháo vỡ ra các ngả. Tiếng trống cà rùng của đội thiếu nhi nổi lên khua rầm rầm, vang vang. Thế là địa chủ Thìn chết, chết trước cả cái khi toà án phúc tra. Chẳng biết địa chủ Thìn mà bị xử chậm lại gặp đội sửa sai thì có được tha không, nhưng dẫu có may mắn thế, chắc lão cũng chết ốm trước đấy lâu rồi.

Thế mà ngay tối ấy lại có họp - một tổ cán bộ đoàn uỷ xuống đi với huyện vận động sản xuất và hô hào đóng thuế nông nghiệp. Việc hoả tốc phải quán triệt ý nghĩa quan trọng vụ mùa tới và định mức thuế tạm thu. Mọi đêm, cuộc họp nào cũng chật đứng ra cả ngoài sân đền. Tối nay mỗi xóm có tổ vài người gom lại hơn mấy chục đầu lố nhố. Đi mít tinh cả ngày lại xem bắn người, khiếp quá, chưa lại sức, hay tan tác đâu chưa hoàn hồn về, hay sợ lại phải họp ở gần cái bãi ma ban trưa, người ta hốt hoá ỳ ra. Nhưng việc cấp bách không thể hoãn, tối mai tổ cán bộ huyện đã sang làng khác.

Cuộc họp lèo tèo mà vẫn hỗn độn, triền miên như mọi khi. Một cán bộ đọc to thư của liên khu kêu gọi đóng thuế nông nghiệp sau phổ biến bốn câu hỏi để lần lượt thảo luận. Vài người - có những người đã thành thói quen ở cuộc họp nào cũng hay nói, nói nhiều, đã quen mặt và nhàm tai, cả đám người khác thì rúc đầu vào cánh tay, làm con vịt ngủ.

Rồi cán bộ trịnh trọng phổ biến mức thuế của xã cho xóm: vụ này tạm thu năm tấn. Cán bộ xoè hai bàn tay làm loa nói to kêu gọi mọi người thi đua đóng thuế. Hai tổ trưởng nông hội ngủ từ lúc nào, có người đằng sau đẩy vào đít, bật dậy, ú ớ giơ tay: tôi thi đua - Tôi, tôi nữa - Đề nghị cho tổ tôi... Lại một người kêu to: đồng ý, đồng ý. Ai cũng hô theo: đồng ý...

Vẫn chưa họp xong. Còn việc bình cho một nông dân lên huyện học bảy ngày để về làm công tác vệ sinh viên. Có người nói: Còn có cụ Cối rỗi việc, lại thành phần rễ chuỗi, cho cụ ấy đi học vệ sinh viên. Một người ghé tai cụ Cối, hét lại thế. Cụ Cối cười: "Cấp tiền ăn cho tôi thì tôi đi ngay" - Rồi cười giơ hàm răng móm, lão già tai lành tai điếc mà khôn lòi tù và. Cả làng ăn rau muống khô cứu đói lại đòi người ta đóng tiền cho lên huyện ăn cơm.

Cán bộ cả tiếng hô hào tương thân tương ái, ủng hộ người đi học vệ sinh là tiến lên văn hoá mới. Chẳng ai để tai. Nghe tiếng lão Cối ngáp to: "Gà gáy rồi, giải tán thôi, giải tán thôi, có gì mai họp nốt". Mọi người ù té về. Cũng chưa ngã ngũ ai lên huyện bảy ngày học vệ sinh viên.

Tôi mệt bã người. Vẫn còn ám ảnh mùi máu, mùi hôi thối ban ngày. Cổ khản lại, tôi bỏ không nuốt được bát rau muống khô của lão Cối để phần. Vùng này đương vào vụ giáp hạt, bữa nào cũng cơm lẫn cám, với rau lang, rau muống khô trộn muối. Thế mà lại kêu gọi sản xuất, trong khi cây mạ vàng ỏng mới cắm xuống ruộng, chưa biết thế nào. Lại còn sắp sẵn thuế tạm thu, bổ đầu từng xóm. Tôi không hiểu ra sao, lại nghĩ bài bây ra sao thì ra. Cũng như trong buổi họp, bảo thi đua, người ta giơ tay thi đua bạt mạng. Duyên vẫn cầm tiền của tôi, thấy tôi không ăn cơm được thì mai lại lên chợ mua bánh đúc ngô, cái ngô nướng, chiếc bánh khoai, đem về cho tôi ăn vụng như cái Đơm mấy hôm trước vẫn đi mua thế.

Tôi lần vào giường góc nhà nằm gối đầu lên cái túi. Bụng đói cồn cào rỗng không. Những việc ban ngày dữ dội, việc ban tối hội họp đến kiệt cùng kể ra cũng đã quen qua mấy đợt, chỉ mệt, mệt rũ. Chắc Duyên đã đi canh gác. Tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Mơ màng như có con mối hay con chuột đụng vào chân. Tôi mở mắt, quơ lên cái túi. Không biết đã khuya thế nào, ngoài sân tối om. Trong lỗ thủng trên mái lá nhà dột, nhấp nhánh ánh sao như những con đom đóm bay. Sau trận mưa rào cuối mùa còn sót lại, ngoài chuôm, ễnh ương đối đáp nhau inh tai. Thình lình tôi nhìn có bóng người lù lù trước mắt. Nhưng không phải Duyên. Là Duyên thì đã đi xộc vào, không lom khom ngồi xổm thế. Hay là ma, ma lão Thìn. Hay là thằng Cối mặc cái áo vét đen bị hồn địa chủ nhập vào ma đương về trêu tôi.

Tiếng thì thào:

“Anh Bối! Anh Bối ơi!”

“Hứ!”

“Em là Nhỡ, tư Nhỡ đây. Anh sang đây, anh bỏ em rồi. Em sắp phải chết bắn như địa chủ Thìn a?

Tôi ngồi dậy, nguôi cơn hốt. Cái thằng tư Nhỡ bên xóm Am. Nó bị câu lưu tại nhà rồi mà. Chắc nó leo tường lội tắt ao nước sang đây, quần áo ướt sột soạt. Tôi rít khe khẽ trong bóng tối:”

“Cút ngay! Bỏ mẹ cả lũ bây giờ! Cút!”

“Anh sắp bắn em thật ư?”

Tư Nhỡ lại lắp bắp. Bỗng có tiếng lên đạn lạch xạch khô khốc lạnh rợn ngay sau lưng. Tổ trưởng dân quân Duyên hiện ra, thúc mũi súng vào cái bóng ngồi dưới đất.

“Bước! Cho ăn một phát đây này.”

Cái bóng rúm lại, chạy ra, tan vào sương đêm.

Duyên cất súng trong xó, lôi ngay tôi xuống đất. Đàn bà đàn ông ở đây ăn nằm, đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được. Tôi thấy hợp với tính tôi. Mặt đất đóng hạt trám lổn nhổn mát lạnh như lát gạch mà tôi không cảm thấy. Gian bên, lão Cối ngáy pho pho lẫn tiếng nghiến răng, tiếng mê ngủ những đứa trẻ đạp nhau.

Duyên dúi vào tay tôi chiếc bánh dày nhân đậu.

“Chiều nay nhịn cơm hả?”

“Ăn vào sợ mửa, còn tanh quá.”

Duyên đút bánh vào miệng tôi, mỗi đứa cắn một nửa, vừa nhai vừa lè đổi cho nhau ăn chung, giữa những câu lào thào rì rầm.

“Anh chết nhé, liên quan rồi, đêm địa chủ mò tới, dân quân bắt được.”

“Nó dẫn xác đến chứ.”

Duyên lại đe câu khác:

“Từ giờ cấm không được đi tuần đêm.”

“Sao?”

“Sao trên giời, sao ở ngoài lều canh ấy. Cứ ư ử như chó lẹo nhau bên cạnh người ta, điếc cả tai. Nói cho mà biết, bận sau thì con này thiến đấy.”

Tôi hãi cứng đơ cả hàm, không nuốt nổi miếng bánh. Duyên lại nói rành rọt.

“Vải thưa che mắt thánh a? Lại cái con Đơm ở bụi duối. Cắn cho một cái đứt lưỡi chết tươi này. Chừa chưa?”

“Chừa rồi.”

“Thật không?”

“Thật.”

“Thề đi...”

Tôi chưa kịp ú ớ đã bị Duyên vật bằng mấy thằng đàn ông lăn ra. Cái mệt thật êm đềm. Lại kể đàn bà con gái vùng này rõ thật ngỗ ngược, lên cơn cứ dằn ngửa người ta ra, khiếp quá. Đói toát mồ hôi lạnh thì càng dữ.

Khuya khuya, Duyên thủ thỉ:

“Em sắp được kết nạp, có phải không?”

“Không biết.”

“Cả bố em nữa.”

“Không biết thật mà.”

“Kết nạp em, anh phải đứng tuyên bố.”

“Đã bảo không biết thật mà.”

“Cái lão đội trưởng mắt cá ngão đỏ ngàu, trông đã thấy gớm. Anh không tuyên bố cho em thì em đét vào đâu.”

Rồi hai cái môi Duyên lại nóng rực lên. Tôi không kịp nói tôi chưa phải đảng viên. Tôi nghĩ thế thôi, chứ cũng không ở đâu tôi nói vậy. Không phải đảng viên mà tôi đã mấy đợt tổ chức kết nạp cả chục rễ chuỗi vào Đảng. Không biết trên có biết không, chẳng có ý kiến gì cả. Tôi làm việc kết nạp Đảng cho rễ, chuỗi cũng như đi họp, đi làm đồng.

Tôi cũng có ý đợi xem việc kết nạp Duyên thế nào, có thật không, nhưng đội trưởng Cự chưa nói. Rồi công việc lôi cuốn, vả lại, còn đương đói vàng mắt, chắc hãy khoan. Tháng ba ngày tám dần dần lắm nhà thiếu quá. Mấy xã trên, nhiều cốt cán rạc người, thiểu sức, có mấy nơi người chết lăn ra ở những cuộc đấu địa chủ suốt đêm. Hàng ngày quen mắt, nhưng tôi cũng hốc hác, nhìn lại thôn này cũng đói vêu vao cả rồi. Tôi để ý cái xương bánh chè hai bên hông Duyên trồi lên thật, mỗi khi ấy Duyên cứ phải co bụng lại cho tôi đỡ đau. Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt, đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những cái bóng. Có ai vừa nói vừa khóc: biết còn sống được mà đấu tranh, mà trông thấy hạt lúa không.

Một xóm ngoài nổi bệnh tả. Mấy ngày thôi mà chết mất mười người. Đoàn uỷ có lệnh cho ngừng công tác cải cách. Yêu cầu các đội cùng nhân dân phòng bệnh, cứu đói. ở trên cho về mấy xe vôi bột rắc khắp xóm, trắng lốp như chỗ nào cũng có đám ma. Cũng chẳng biết làm thế nào, ai chết thì chết thôi. Tôi cho người xuống thôn Đìa quảy thêm mấy gánh dây rau muống. Các mảnh ruộng cao quanh chân tre đất rắn như sỏi được cuốc ngay lên trồng rau muống vườn. Lại gây dây mồng tơi, chỗ nào cũng cấy rau sam, rau dền cơm, dền đất, mặt ao thì thả rau rệu - những rau cỏ ấy chỉ nửa tháng đã ăn được, người ăn như con dê nhai lá.

Cả xóm quảy nước, xách nước tưới những vạt ruộng còi cọc, phờ phạc.



1      2           4 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét