Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CỦA LOẠN TƯỚNG ĐỖ MẬU: VIỆT NAM MÁU LỬA QUÊ HƯƠNG TÔI - KỲ 2

1      2      3     4     5     6     7     8
Chương 4
Những ngày cuối cùng của thực dân Pháp

Cho đến đầu thu năm 1952, tổng số quân Pháp bị tử trận, thương vong và mất tích tại Đông Dương lên đến hơn 90.000 người. Chi phí cho chiến trường này bằng hai lần số kinh viện nhận từ Hoa kỳ trong khuôn khổ của chương trình viện trợ tái thiết Marshall. Tại Quốc hội Pháp, từ ngữ "Lasaleguerre" (cuộc chiến tranh bẩn thỉu) bắt đầu được sử dụng trong các cuộc tranh luận giữa các phe chủ chiến và chủ hoà.

Trong khi đó thì tại miền Bắc Việt nam, Võ Nguyên Giáp đánh bật các đơn vị thiện chiến của tướng Raoul Salan ra khỏi cứ điểm Hoà Bình và tiếp theo là Điện Biên Phủ.
Mấy tuần lễ trước khi Hoà Bình thất thủ, tôi bị tướng Nguyễn Văn Hinh thuyên chuyển ra Bắc. Hồi bấy giờ, "ra Bắc" được xem như là một biện pháp chế tài đối với những sĩ quan ở miền Trung và miền Nam, vì tình hình sôi động của chiến sự và vì những tổn thất nặng nề về phía những quân nhân Việt nam. Hầu hết những sĩ quan Việt nam trung cấp bị đổi ra Bắc đều ít nhiều có hồ sơ chống Pháp, hoặc chống Bộ Tổng tham mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh.

Tôi theo học khoá tiểu đoàn trưởng và khoá Liên đoàn lưu động (để được cập nhật hoá với chiến trường Việt Bắc). Do đại tá Vanuxem, một trong những sĩ quan cao cấp xuất sắc nhất của Pháp lúc bấy giờ điều hành. Cùng khoá với tôi có trung uý Nguyễn Văn Thiệu. Mãn khoá, Thiệu, có thêm trung uý Cao Văn Viên và tôi được lệnh thuyên chuyển ra mặt trận Hưng Yên, trình diện với trung tá Dương Quí Phan, một sĩ quan nổi tiếng thân Pháp, tay chân của tướng Cogny, Tư lệnh miền Đông Bắc Việt, đang đóng ở Hải Dương, Mặt trận Hưng Yên vừa được Bộ tư lệnh Pháp trao trả phần trách nhiệm lại cho quân đội quốc gia Việt nam và đang bị những áp lực nặng nề. Bộ Tổng tham mưu Sài gòn chỉ định tôi làm Tham mưu trưởng. Cao Văn Viên làm trưởng phòng Nhì và Nguyễn Văn Thiệu là trưởng phòng Ba. Còn phòng Tư vẫn do một đại uý người Pháp phụ trách. Bộ chỉ huy và trung tâm hành quân chiến được đặt tại ngôi giáo đường to lớn rộng rãi của tỉnh lỵ Hưng Yên mà linh mục bề trên đã hoan hỉ vui lòng cho quân đội Pháp sử dụng từ trước.
Loạn Tướng Đỗ Mậu
Ba anh em chúng tôi được cấp phát chung một căn phòng nhỏ vừa đủ để ba cái ghế bố loại nhà binh và hàng ngày ăn cơm tại câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối, lúc trở lại phòng để chuẩn bị đi ngủ, Thiệu và tôi thường phân tích và luận bàn về tình hình chính trị và chiến sự đến khuya. Riêng Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh thoảng góp ý kiến mà thôi.

Tháng 4 năm 1953, tuy tình hình chiến sự ở Lào trở nên quyết liệt hơn khi Việt minh chiếm Cánh Đồng Chum và tiến quân về Luang Prabang, thủ đô Hoàng Gia Lào, nhưng không vì thế mà áp lực quân sự giảm bớt tại chiến trường Bắc Việt. Tháng 5 năm đó, tướng Henri Navarre thay thế tướng Salan nhưng chỉ làm cho quân Pháp thêm lúng túng vì quan điểm chiến lược thiếu thực tế của vị tướng lạnh lùng và cô đơn đã từng tham gia hai trận thế chiến này. Quân đội Pháp hoàn toàn bị động ngay cả ở thế phòng thủ. Hết căn cứ này đến căn cứ khác lần lượt bị mất vào tay địch hoặc bị rút bỏ, chỉ còn giữ lại một ít địa bàn ở các giáo phận Thiên chúa giáo như Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ Sặt... và các tỉnh xung quanh Hà nội và Hải Phòng...
Trước tình thế bi quan đó, Nguyễn Văn Thiệu đã hỏi tôi: "Theo anh thì cuộc chiến tranh hiện tại sẽ đi về đâu và tương lai Việt nam sẽ như thế nào?" Đó là câu hỏi có tính toàn bộ và lâu dài nhưng tôi vẫn xác quyết với Thiệu và Viên là "Thế nào Pháp cũng bại trận và tìm giải pháp thoả hiệp với Việt minh, đất nước sẽ bị chia đôi nhưng không biết chia ở khu vực nào. Hoa kỳ sẽ can thiệp vào Việt nam để chặn đứng mưu đồ bành trướng của Cộng sản ở Đông Nam Á và Hoa kỳ sẽ đưa ông Diệm về nước nắm chánh quyền”. Sau này tại Sài gòn, mỗi lần gặp tôi, Thiệu không quên nhắc lại chuyện cũ và công nhận tôi nhìn xa thấy rộng.
Sống tại Việt Bắc và đặc biệt tại Hưng Yên, tôi ở vào tình trạng của một sĩ quan đang thọ phạt dưới hình thức của sự lưu đày. Những đêm trăng lạnh lùng của xứ Bắc, cái tâm trạng cử đầu vọng minh nguyệt, để đầu tư cố hương, tôi nhớ về quê hương miền Trung, nơi đang có gia đình, bạn bè và tổ chức, tôi hồi tưởng đến những công tác đang dang dở và những đồng chí đang lưu lạc với rất nhiều nhớ thương. Nỗi niềm đó cộng với ý thức chính trị, tinh thần quốc gia cực đoan, hun đúc bởi hơn mười năm hoạt động làm tôi không thiết tha một chút nào với công việc hiện tại, một công việc tuy gọi là chống cộng sản nhưng trước hết chỉ làm lợi cho người Pháp trong ý đồ bám víu lấy mảnh đất thuộc địa mà không thực tâm trao trả độc lập cho người Việt nam, một nền độc lập đã biến thành ý thức chỉ đạo của dân tộc, mà vì nó và do nó mà nước tôi đã tồn tại đến nay. Cho nên trong suốt thời gian ở tại Hưng Yên, tôi đã cố tình không để một chút nhiệt tâm nào vào công vụ.
Thái độ đó lại được củng cố vững chắc hơn vào ngày 27 tháng 5 năm 1953, khi tại Sài gòn, hội nghị đoàn kết đòi hỏi: "Độc lập hoà bình cho Việt nam" do các đoàn thể chính trị của các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Quốc và các nhân vật tên tuổi như Nguyễn Xuân Chữ, Ngô Đình Nhu... tổ chức đã phổ biến lập trường quyết liệt của nhân dân Việt nam. Do đó, tôi thường tìm cơ hội lên Hà nội liên lạc với một số đồng chí thân hữu như ông Mai Văn Toan (sau này là dân biểu dưới chế độ ông Diệm), ông Trần Trung Dung (sau này giữ chức Bộ trưởng quốc phòng thời Đệ nhất cộng hoà)... để theo dõi hoạt động của ông Diệm tại hải ngoại và tìm hiểu những biến chuyển mới của tình hình chính trị. Mỗi lần đi Hà nội về, tôi lại mang theo một số báo Xã hội (do ông Nhu chủ trương) để phổ biến cho một số sĩ quan và nhân sĩ tại Hưng Yên trong mục đích xây dựng hậu thuẫn cho chủ trương chính trị của ông Diệm. Trong những dịp đi hành quân hay thanh tra các đơn vị tôi thường trình bày cho các sĩ quan biết tình cảnh trôi nổi hiểm nghèo thật sự của đất nước Việt nam trong cái thế tương tranh Pháp Cộng và thuyết phục họ về con đường nào mà một người Việt nam thực sự yêu nước đặc biệt nếu người Việt nam đó lại là một chiến sĩ cầm súng, nên chọn lựa.
Nhưng rồi những hoạt động “phi quân sự” đó của tôi dần dần bị báo cáo lên cho Bộ chỉ huy rồi đến tai trung tá Dương Quí Phan nên tôi bị tướng Cogny phạt 60 ngày trọng cấm, hạ tầng công tác và thuyên chuyển về Liên đoàn Lưu Động số 3, đang hành quân tại vùng Ninh Bình do thiếu tá Phạm Văn Đổng (hiện ở Mỹ) chỉ huy. Lý do bị phạt ghi trong hồ sơ quân vụ còn có thêm tội "vô lễ với cấp chỉ huy", vì đã hai lần tôi công khai chỉ trích Phan trước mặt đông người về tác phong “bồi Tây” của y khi mỗi buổi sáng, nếu gặp các hạ sĩ quan Pháp thì Phan ân cần chào hỏi "Bonjour moncaporal", còn nếu gặp sĩ quan Việt nam thì Phan chỉ chào lấy lệ và còn có ý khinh bỉ.
Trong bữa ăn cuối cùng tại câu lại bộ sĩ quan để tiễn tôi lên đường về nhiệm sở mới. Trung uý Nguyễn Văn Thiệu mở một chai champagne mời tôi và nói mấy lời tiễn biệt rất cảm động. Dương Quí Phan nổi giận, nạt Thiệu tại sao lại dám ca ngợi một sĩ quan đang mang trọng tội trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa khí phách của Thiệu càng làm cho tôi quí mến Thiệu hơn. Trớ trêu thay, trong cuộc đời binh nghiệp và chính trị của Thiệu và tôi còn nhiều duyên nợ cho đến năm 1965, 1966, khi Thiệu và Kỳ lãnh đạo quốc gia, bắt tôi giam lỏng hai lần ở Pleiku và Nha Trang gần cả năm trời, tuyệt đối không được trở về Sài gòn.
Có lẽ vì ông Nhu đang muốn tập hợp lại cán bộ để tự lực chuẩn bị ngày ông Diệm về nước nên ông đã vận động với hai người bạn của ông là đại tá Trần Văn Đơn (vừa thăng chức và vẫn còn chỉ huy An ninh quân đội) và đại tá Trần Văn Minh (tham mưu trưởng của tướng Hinh) để tôi được thuyên chuyển vào Nha Trang, là địa phương chiến lược nằm gần giữa Huế (căn cứ địa tổ chức) và Sài gòn (chiến trường của tổ chức).
Rời miền Bắc căng thẳng của một Hà nội đang bắt đầu lên cơn sốt, tôi bay về Nha Trang với tư cách đại diện đặc biệt của Bộ Tư lệnh Quân khu Hai với nhiệm vụ cấp thiết thành lập 9 tiểu đoàn khinh quân theo kế hoạch tổ chức mới của Bộ tham mưu hỗn hợp Pháp Việt và của tướng O' Daniel, trưởng phái bộ quân sự Mỹ ở Sài gòn. Sau khi đã huy động thanh niên của ba tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận trong 4 tháng, tất cả 9 tiểu đoàn đều được thành lập và đều trong vòng huấn luyện ở quân trường thì tôi được thuyên chuyển và chỉ huy khu chiến Phan Rang vừa được Pháp trao lại cho Việt nam.
Trong khi đó thì cũng vào năm 1954, tướng Navarre, Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, phát động chiến dịch Atlante để tiến hành chiếm Bình Định và Phú Yên, và tạo áp lực nhằm xé nhỏ quân của Võ Nguyên Giáp vốn đang nỗ lực dồn hết chủ lực quân về mặt trận Điện Biên Phủ. Dự đoán rằng Giáp cũng sẽ áp dụng cùng sách lược, nghĩa là mở nhiều trận đánh lớn khác tại Trung Việt để cầm chân và làm tê liệt khả năng di động của các đơn vị địch, tôi bèn thảo một bản nhận định tình hình và một tờ trình về cho Bộ tư lệnh Pháp Việt của Phân khu Duyên hải tại Nha Trang để yêu cầu có kế hoạch đối phó và đồng thời xin tăng cường phương tiện phòng thủ cho chiến khu Phan Rang vốn rất thiếu thốn và yếu kém. Tôi còn dự đoán kế hoạch phản công của Việt minh trong địa phương trách nhiệm của tôi với những chi tiết từng đồn một và sự thất bại gần như đương nhiên của các đơn vị dưới quyền nếu không được thoả mãn nhu cầu tăng viện.
Nhưng Bộ tư lệnh Nha Trang, mà về phía Việt nam do đại tá Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy, lại cho là tôi hoảng hốt, báo cáo láo bèn gởi văn thư khiển trách, kèm theo lệnh thuyên chuyển tôi ra Hà nội học lớp Trung đoàn trưởng, một quyết định mà tôi cho là phát xuất từ những mâu thuẫn chính trị hơn là từ nhu cầu quân sự lúc bấy giờ. Nhưng cũng nhờ theo học lớp Trung đoàn trưởng này tôi có thêm hai người bạn mới đồng khoá: Thiếu tá Lam Sơn và đại uý Nguyễn Chánh Thi. Người thay thế tôi tại Phan Rang là thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu, vừa ở Bắc về, với lý do Thiệu là người Ninh Thuận sẽ am hiểu và nắm vung tình hình hơn tôi.
Sau đó, quả nhiên đúng như bản nhận định mà tôi đã chi tiết rõ ràng, trong lúc tôi ở Hà nội thì Việt minh tổng phản công khắp các tỉnh miền Trung, đặc biệt tại các tỉnh Duyên hải. Tại Phú Yên và Bình Định, nhiều tiểu đoàn Việt nam bị tiêu diệt hoàn toàn, phải rút về lập vòng đai an toàn để chỉ còn bảo vệ các tỉnh lỵ mà thôi. Tại Quảng Nam, Việt minh tấn công Hội An và chiếm giữ một đêm, khi rút đi, họ phá huỷ một số công sự và bắt mang theo một số sĩ quan và những dụng cụ truyền tin. Riêng tại tỉnh Ninh Thuận của Thiệu, Việt minh tiến chiếm và tiêu huỷ các căn cứ ngoại vi mà tôi đã xây dựng để che chở mặt Tây Nam của Bộ chỉ huy Phan Rang. Trong một trận đánh ác liệt gần Tháp Chàm, Thiệu đích thân dẫn một đơn vị đi tiếp cứu bị Việt minh phục kích và theo lời một số người kể lại thì Thiệu đã phải "ôm quần mà chạy"
Sau những thất bại liên tiếp, Thiệu bị mất chức chỉ huy, đổi về Huế làm việc tại Bộ tham mưu Quân khu Hai, dưới quyền đại tá Trương Văn Xương, một công sự viên thân tín của tướng Hinh, giao quyền chỉ huy khu chiến Ninh Thuận lại cho Thái Quang Hoàng vừa được thăng thiếu tá. Thật ra không phải Thiệu kém khả năng chỉ huy hay thiếu kinh nghiệm chiến trường, Thiệu là người khôn ngoan, tính toán kỹ lưỡng, và hành động rất cẩn thận, nhưng vì binh sĩ tại khu chiến Ninh Thuận đại đa số là dân địa phương hiền lành, không có tinh thần chiến đấu.
***
Trở lại năm 1950, khi tôi về Quảng Bình để bắt đầu một giai đoạn nổi trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến pháp Việt từ Trung ra Bắc, thì tháng 8 năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của giám mục Ngô Đình Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên Giáo hội Thiên chúa giáo Việt nam này, lên đường đi La mã dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
Lộ trình đi không thẳng đến La Mỹ mà còn ghé qua Nhật Bản để thăm Kỳ ngoại hầu Cường Để (một “ giải pháp “ hầu như không còn giá trị gì nữa kể từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fishel, một cựu sĩ quan tình báo hải quân thuộc Đệ Nhất Hạm đội Hoa kỳ thời đệ nhị thế chiến và nghe nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức Mỹ cao cấp trong ngành tình báo này đưa đến kết quả là trường đại học Michigan sẽ bảo trợ cho chuyến đi Mỹ của ông Diệm.
Sau đó, ông Diệm lên đường đi La mã dự lễ Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay qua Mỹ. Qua trung gian của giám mục Ngô Đình Thục, ông được Hồng y Spellman thuộc dòng Franciscain, tiếp kiến.
Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La mã mấy ngày rồi mới đi Thuỵ Sĩ, Bỉ, Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt nam phần đông là người Công giáo đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, ông Diệm trở lại Hoa kỳ hai năm, sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (Newjersey) và Ossimng (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết trình tại các trường đại học miền Đông và miền Trung Tây Hoa kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Washington và với lý luận rằng: "chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt nam có một chính phủ do người quốc gia lãnh dạo là có thể đánh bại được Cộng sản” mà ông đã chiếm được tình cảm và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như nghị sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, chánh án Williams Douglas, và nhiều chính khách Thiên chúa giáo khác. Phê bình câu nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự giản dị rất hấp dẫn và sự thuần lý khó chống cự được.
Chính vì sự "hấp dẫn không chống cự được” đó và quyết tâm của Hồng y Spellman muốn có một chính phủ Việt nam do người Thiên chúa giáo lãnh đạo (theo giáo sư Buttinger và Stanley Karnow mà ông Diệm đã trở thành một "giải pháp" khả dụng và khả thi cho chính sách Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần). Nhưng cái luận cứ "giản dị và thuần lý" này đã chứng tỏ tính cách thiếu khoa học và không thực tế của nó khi ông Diệm với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác vẫn không đánh bại được cộng sản. Như vậy rõ ràng hai cái chế độ “quốc gia” đã phản trị quốc gia trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật không xứng đáng trên cả hai mặt, nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
Theo dõi hành trình vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường: Đi Đông Kinh gặp một nhân viên tình báo Mỹ, đến Vatican gặp Đức Giáo Hoàng, đi Mỹ gặp một vị Hông Y, trở lại Vatican không biết để làm gì trong một thời gian ngắn rồi lại qua Mỹ gặp tiếp vị Hồng y cũ, sau đó là các chính khách Hoa kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm hai danh từ riêng lẫy lừng: "Vatican và Mỹ".
Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Việt nam lưu vong mà đa số là người Công giáo, ông Diệm từ giã Hoa kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tại tu viện Bénédictine de St Andréles Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số phận Việt nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày mồng 7 tháng 5 và mặc cả tại hội nghị Genève thì ông Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà của ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người em là Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm dò và vận động trong giới chính khách Việt nam cũng như các thế lực quốc tế.
Theo giáo sư Buttinger thì tại Sài gòn ông Nhu biết rằng anh mình không đủ khả năng trong việc đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng phái cộng sự viên thân tín là ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt minh làm chánh án Liên Khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. Còn ông Lê Quang Luật là một trí thức Thiên chúa giáo Bắc Việt, thủ túc thân tín của giám mục Lê Hữu Từ.
Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất cho ông Diệm là đạt được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, tranh thủ được sự thoả thuận của chính phủ Pháp, và cuối cùng là thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng. Ba vận động liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh của hàng triệu người Việt nam mà sức mạnh vô địch của chính hàng triệu người Việt nam đó không hề được đụng tới. Thật ra ba bước vận động này tròng vào nhau như ba mắt xích, mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ, mở được xích thứ nhất là hai mắt xích còn lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng y Spellman đã giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi cho nên tuy Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ý “con người Ngô Đình Diệm", nhưng dưới áp lực nặng nề của Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng y Spellman vào chính sách của Phong trào cộng hoà Bình Dân Thiên chúa giáo Pháp (MRP), cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp nhận bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng.
Đằng sau vở tuồng chính trị này, ta còn thấy thấp thoáng bóng dáng một người đàn bà mà tuy vai trò khiêm nhường không kém phần quan trọng là bà Nam Phương Hoàng hậu, một nữ tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo và có uy tín. Ông Tôn Thất Cẩn, con trai của cụ Thân thần Phụ chánh Tôn Thất Hân và là bạn thân của ông Diệm, đã thuyết phục bà Nam Phương để bà góp ý với chồng với điều kiện sau khi ông Diệm cầm quyền phải nâng đỡ Hoàng tử Bảo Long, người con trai đầu lòng của bà và của vua Bảo Đại. Bernard Fall cho biết ông Diệm đã quỳ xuống trước bà Nam Phương để nhận lời uỷ thác đó.
Ngày 16 tháng 6 năm 1954, sau một buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng Foster Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận, Bảo Đại bèn kéo ông vào một gian phòng kế cận trong lâu đài Thorence, nơi Bảo Đại trú ngụ tại Cannes, chỉ bức thánh giá rồi bắt ông thề: “Chúa của ông đó, ông hãy thề sẽ bảo toàn lãnh thổ quốc gia mà người ta sẽ giao phó cho ông. Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng sản và nếu cần đánh cả người Pháp “.
Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nhìn Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá để thề:
- Tôi xin thề!
Kể lại những sự kiện trên đây, ký giả Karnow viết rằng: “Sau khi bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại đã tự đào lỗ huyệt chính trị của mình mà không biết".
Những sự kiện về việc ông Ngô Đình Diệm đến bái yết Quốc trưởng Bảo Đại khi nhận chức Thủ tướng còn được Hillaire Du Berrier kể tường tận hơn, đúng như cựu Bộ trưởng Phan Huy Quát và ông Tôn Thất Cẩn đã kể cho tôi nghe:
Ngô Đình Diệm sau khi từ giã Hoa kỳ năm 1953, về Bỉ rồi đến Pháp và không thể tránh được con đường dẫn tới ngôi lâu đài 12 phòng tại Cannes. Lúc ấy vào tháng 6 năm 1954, một người thấp nhỏ, kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng trước một vị cựu hoàng mà vẫn tâu là "Bẩm Hoàng Thượng", mặc dù vị cựu hoàng đó lúc bấy giờ chính thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.
Bảo Đại biết rõ con người đó tính tình bất thường hay thay đổi khi thì bẽn lẽn rụt rè nhưng đôi khi lại nóng nảy cục cằn, thứ người lì lợm khắc khổ vì những năm tháng cô đơn thiếu tình người, Bảo Đại biết con người đó cao ngạo và ngoan cố. Nếu để chọn lựa một vị Thủ tướng trong giờ phút tổ quốc lâm nguy để phục vụ hữu hiệu cho quốc gia thì Ngô Đình Diệm mà Bảo Đại sẽ phải chỉ định làm Thủ tướng chỉ là con người được chọn lựa sau chót, nhưng Bảo Đại không còn có lựa chọn nào khác hơn.
Quì xuống trước Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thề trung thành với vị hoàng đế của ông ta. Đã trải qua biết bao thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp nhận mọi việc chỉ là thường tình, Bảo Đại cố quên những buổi hội thảo, đầy sóng gió tại Hồng Kông năm năm về trước, Bảo Đại biết rằng con người trước mặt ông ta không bao giờ quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm phần vụ của ông ta chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng với toàn quyền thành lập chính phủ. Lời nói cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hãy hợp nhất các giáo phái vào cộng đồng quốc gia, thống nhất phần đất nước còn lại của chúng ta".
Bà Nam Phương Hoàng hậu, cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo như ông Diệm, đã khẩn khoản yêu cầu ông Diệm hãy cứu vãn và tạo thế lực cho nhà Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con trai bà. Bảo Đại ký cho ông Diệm cái ngân phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu tình "tự phát" (spontaneous demonstration) hầu làm xúc động người Mỹ và tạo hào hứng cho dân chúng Việt nam. Diệm bỏ ngân phiếu vào túi rồi cảm ơn và tâu: "Bẩm Hoàng Thượng nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi từ chức ngay".
Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào tuổi 54 trở về Việt nam để chấp thánh và từ đây thì trách nhiệm về phần người Mỹ.
Nhận định về những nỗ lực và thành quả vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy yếu tố chính quyết định những nỗ lực và thành quả này là tôn giáo của ông Diệm. Uy tín trong nước của ông, vị thế chính trị trong nước của ông, cơ sở quần chúng trong nước của ông... quả thật chỉ là những hậu thuẫn nho nhỏ không đủ để giúp ông mở được cánh cửa của Mỹ và Pháp. Trong cái thế chinh trị toàn cầu lúc bấy giờ, khi mà nội bộ nền đệ tứ Cộng hoà Pháp đang dần dần băng rã vì "trận chiến tranh bẩn thỉu", khi mà Cộng sản đang từ từ lộ nguyên hình tại Đông Nam Á, thì nhu cầu của cường quốc Mỹ là can thiệp vào Việt nam với một "người hùng bản xứ" chống Cộng. Mà dưới nhãn quan chính trị và nhân văn của Mỹ vào thập niên 50, 60 "người hùng" chống cộng đó phải là và chỉ có thể là một tín đồ Thiên chúa giáo. Ông Diệm thoả mãn đầy đủ những điều kiện đó của nhu cầu này. Và vì ông là ứng cử viên "hợp lệ" duy nhất nên ông đã được chọn Tôn giáo của ông đã đưa ông lên đài danh vọng thì cung chính vì tôn giáo của ông mà sau này thân thế sự nghiệp của ông phải tan tành.
Ông Diệm từ Paris trở về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954 sau năm năm trời sống tại các thủ đô quốc tế ở Hải ngoại (năm năm này, sau đó, đã được đưa vào phần mở đầu của bài ca "Suy tôn Ngô tổng thống"... "Ai bao năm từng lê gót nơi quê người"...).
Sau này khi biết được đón tiếp ông Diệm thiếu sự tham dự của nhân dân tôi đã trách móc ông Nhu và Võ Văn Hải không huy động nổi đồng bào đi biểu tình đông đảo để đón tiếp sự hồi hương của lãnh tụ. Buổi đón tiếp tuy đầy đủ phần nghi lễ nhưng thiếu hẳn quần chúng đón chào tỏ ra rằng ông Diệm không có thực lực quần chúng ủng hộ. Vả lại 500 người có mặt tại Tân Sơn Nhất hôm đó quả thật đã không đại diện một chút nào cho 25 triệu người Việt nam trên mặt pháp lý cũng như chính trị, trên mặt liên đới tình cảm cũng như liên đới tinh thần.
Một người đã từng chống Bảo Đại và chống Pháp thì không thể trở về với dân tộc để lãnh đạo quốc gia bằng một sắc lệnh của Quốc trưởng và trên một chiếc máy bay có cờ tam tài. Trường hợp đó và khung cảnh đó phù hợp với những thoả hiệp của cuộc vận động chính trị hậu trường hơn là kết quả của một quyết tâm xả thân đấu tranh cho đất nước, cho nên nhân dân Việt nam nói chung, và quần chúng Sài gòn nói riêng vẫn không tìm được sự hào hứng để chào mừng ông Diệm trong ngày trở về của ông.
Nhưng lúc đó đối với tôi, từ miền Bắc xa xăm, và sau 5 năm trông đợi ngày về của người đạo tổ chức, ngày ông Diệm về nước là một ngày hội lớn, là sự thành tựu của 12 năm đấu tranh cho lý tưởng của mình xuyên qua hình bóng của ông Ngô Đình Diệm, là ngày mà những tra tấn trong ngục tù, là những ly biệt với vợ con, những hiểm nghèo trong lửa đạn bắt đầu đơm bông kết trái thành đài vinh quang. Tôi đã không cần giấu giếm nữa mà bộc bạch hẳn với hai người bạn đồng khoá là thiếu tá Lam Sơn và đại uý Nguyễn Chánh Thi về tương lai chắc nịch của đất nước, về cơ hội lịch sử đã cho phép ông Diệm sẽ được quản trị quốc gia một cách dân chủ, sẽ được thi thố tài năng sống mái thư hùng với Cộng sản.
Tuy nhiên sau những phút vui mừng bồng bột đầu tiên đó, tôi bắt đầu lo âu cho ông Diệm. Đã từng sống giữa lòng quê hương từ trước cuộc kháng Pháp, đã từng làm việc chung với người Pháp trong chế độ Bảo Đại, đã là chứng nhân của bao nhiêu biến cố chính trị, bao nhiêu lừa lọc phản trắc, tôi biết ông Diệm sẽ phải đi qua một bãi mìn nổ chậm với bao nhiêu khó khăn, phức tạp, cạm bẫy đang chờ đợi ông. Cụ thể hơn, là một sĩ quan cấp tá thâm niên, tôi biết rõ tham vọng và tính tình của tướng Nguyễn Văn Hinh và tinh thần quân đội dưới quyền ông ta. Nhưng thực tế này sẽ là trở lực khó khăn nguy hiểm đầu tiên mà ông Diệm không thể tránh được. Đành rằng trong giai đoạn đó, quân đội không phải là yếu tố quyết định những thay đổi quan trọng của tình hình chính trị Việt nam, nhưng ở một mặt nào đó quân đội dưới quyền tướng Hinh, một người Pháp mang tên Việt, lại đủ sức cản trở những kế hoạch của ông Diệm. Hay đi xa hơn, có thể tiêu diệt ngay sức mạnh pháp lý và chính trị còn mong manh của vị tân Thủ tướng.
Biết như thế mà lại biết rất rõ nữa là khác cho nên dù điều kiện khó khăn và phương tiện bị hạn chế tôi cũng phải làm mọi cách để giúp ông Diệm phần nào hay phần đó. Tuyên truyền, giác ngộ vẫn là thứ khí giới hữu hiệu nhất cho nên tôi bèn viết rồi nhiều thư cho các bạn bè từ chí thân đến sơ giáo, cho các sĩ quan thân tín ở nhiều quân khu, nhiều đơn vị, nói cho họ biết muốn cứu nước, muốn quốc gia khỏi rơi vào tay cộng sản, muốn còn có đất chôn chân thì phải ủng hộ cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm vượt thắng mọi thế lực chống đối ông ta. Với các sĩ quan miền Trung như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Nghiêm, Thái Quang Hoàng, Tôn Thất Đính... tôi không ngần ngại nói thẳng cho biết rằng tướng Hinh và những tay sai của Pháp sẽ tìm cách triệt hạ ông Diệm. Tôi yêu cầu họ nỗ lực hoạt động lôi kéo bạn bè, cộng sự viên của họ theo con đường chính nghĩa. Mục tiêu của tôi là xây dựng cho Diệm một chủ lực, nếu không được thì ít nhất là một hậu thuẫn trong quân đội để đối phó với cuồng vọng của tướng Nguyễn Văn Hinh sau này.
Tại Hà nội, nơi tôi học, có bốn lớp quân sự: lớp Trung đoàn trưởng, lớp tham mưu trưởng, lớp Tiểu đoàn trưởng và lớp Đại đội trưởng, tổng số khoá sinh gồm độ 150 người, mà khi tốt nghiệp những sĩ quan này sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy. Tôi đùng luận điệu: “ông Diệm có còn, Việt nam mới còn" để tác động tinh thần họ. Thiếu tá Lam Sơn, đại uý Nguyễn Chánh Thi cũng đồng quan điểm với tôi sau này họ đã có công trong việc giúp ông Diệm chống lại lực lượng của tướng Hinh. Sau này, biến cố đất nước bị chia đôi ngày 20 tháng 6 bởi hiệp ước Genève do sự bất lực của Pháp và các chính phủ của chế độ Bảo Đại, càng cho tôi thêm yếu tố để tuyên truyền hầu tăng cường uy tín và lập trường quốc gia chống Pháp của ông Diệm.
Ngày 30 tháng 6, ông Diệm ra Hà nội để quan sát tình hình miền Bắc và để thăm dò nhân sự hầu thành lập nội các, thì tình hình chiến sự tại Bắc Việt đã đến hồi kết thúc trong hỗn loạn. Đại tá Vanuxem mở cuộc hành quân Auvergne để di tản khỏi miền Nam của Bắc Việt (Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định... các tỉnh có nhiều giáo phận và đồn bót của Pháp) trong cố gắng tránh những tổn thất do cuộc rút quân gây ra. Thành phố Hà nội Nội tràn ngập dân di tản ở các vùng này, họ sống lê lết ở các vỉa hè, xô xát với nhân viên công lực và đúng như Bảo Đại đã mô tả trong "le Dragon D'annam", họ là những người Thiên chúa giáo, lực lượng mà ông Diệm tin cậy sẽ là hậu thuẫn ở miền Bắc nhưng họ chỉ lo tìm đường chạy trốn vào Nam.
Quyết định rút lui của quân đội Pháp đã như cơn gió mạnh thổi tan lực lượng này, vốn hiện diện và tồn tại phần lớn nhờ nương dựa vào sức mạnh của chính quân đội đó. Khi cây đã ngã thì những bìm bịp dựa vào đó cũng ngã theo luôn. Khi nhận thức Thủ tướng với Bảo Đại, ông Diệm không ngờ chiến sự tại Bắc Việt lại suy sụp nhanh đến thế, khi thề trước thánh giá sẽ “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ", ông Diệm đã hoàn toàn không nắm vững được tình hình sẽ biến chuyển theo chiều hướng nào. Như suốt cả cuộc đời của ông Diệm (và cả anh em ông nữa) đã chứng minh, họ luôn luôn chủ quan, không thực tế và nhất là chỉ cho mình là đúng, là nhất.
Khi quân Pháp rút lui tâm trạng bị bỏ rơi của các giáo phận đó đã được chính đại tá Vanuxem kể lại trong hồi ký của ông qua thái độ tuyệt vọng một cách nhục của giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu, một thái độ bị bỏ rơi nên trở lại coi người bạn Pháp năm xưa như kẻ thù:
Một ngày kia, tại Nam Định, nơi có bộ chỉ huy của tôi người ta báo cho tôi biết có một số các vị giáo phẩm Thiên chúa giáo của địa phận xin vào thăm, tôi tiếp họ ở một căn hàng tạp hoá. Cả thảy có bốn người, cầm đầu bởi giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu và sau này thuộc giáo phận Đà Nẵng và luôn luôn là bạn thân của tôi.
Đến trước mặt tôi, ông bèn quì xuống trong lúc tôi cố đỡ ông lên, ông nói: "Không, tôi xin lỗi đại tá. Chúng tôi xin lỗi đại tá. Chúng tôi cứ tưởng rằng quốc gia xứng đáng được độc lập mà đại tá có bổn phận giúp đỡ; nhưng chúng tôi đã nhận ra quá muộn rằng những người mà chúng tôi trông cậy (người Pháp) lại là những kẻ thù của chúng tôi, những kẻ thù muốn chúng tôi mất linh hồn".
Vanuxem kết luận rằng: Thật là một thảm hoạ to lớn khi những nhân vật lãnh đạo tinh thần đã buộc phải hạ mình nhục nhã trước một quân nhân. Tương lai đã cho thấy tất cả thảm hoạ đó. Giáo phận Bùi Chu đã hợp tác và phục vụ quân đội Pháp ngay từ ngày đầu tiên Pháp trở lại Bắc Việt. Giáo phận này đã biến một số giáo đường thờ Chúa thành pháo đài quân sự, khuyến khích thanh niên Thiên chúa giáo gia nhập Phụ Lực Binh cho quân đội Pháp. Tình trạng của giáo dân trước viễn ảnh Tây đi Cộng về rõ ràng rất nguy hiểm và rất đáng tội nghiệp, nhưng không phải vì thế mà một vị tu sĩ cao cấp lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo có truyền thống hy sinh tử vì đạo lại có thể quì xuống trước một quân nhân ngoại quốc để cầu khẩn họ ở lại bằng những luận cứ trách móc, giận hơn. Cách thế hành xử đó và nội dung lời cầu khẩn đó không những làm đau lòng những tín đồ Thiên chúa giáo chân chính mà còn làm cho những đồng bào Việt nam của ông hổ thẹn nữa (Sau này, khi di cư vào Đà Nẵng, linh mục Phạm Ngọc Chi trở thành một lãnh tụ của đảng Cần lao tại miền Trung bên cạnh lãnh chúa Ngô Đình Cẩn. Không trách gì quần chúng và Phật giáo đồ tại miền Trung bị khốn khổ và cũng không trách gì những người như vậy mà chế độ Ngô Đình Diệm bị toàn dân căm thù lật đổ vào năm 1963).
Được tin ông Diệm tới Hà nội, tôi bèn tới dinh Thủ hiến để gặp chào mừng ông. Một đám đông chưa tới một ngàn người, do nhóm các ông Lê Quang Luật và Hoàng Bá Vinh (hai nhân sĩ Thiên chúa giáo ở Bắc) tổ chức, đang cầm quốc kỳ và trương biểu ngữ diễu hành trước dinh Thủ hiến để chào mừng vị tân Thủ tướng. Tôi vừa buồn vừa giận vì số người tham dự quá ít ỏi so với dân số Hà nội lúc bấy giờ, nhất là dân số đó lại vừa tăng cường nhờ số dân Thiên chúa giáo tị nạn từ các tỉnh mới đến. Tôi nghĩ thầm như thế và đâm ra ngượng với các cán bộ của Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí (thuộc đảng Đại Việt), vốn không ưa gì ông Diệm.
Khi ông Diệm đến bực thềm để vào dinh Thủ hiến thì thấy tôi, tôi vội chào lớn "Thưa Cụ". Ông Diệm nhìn tôi vừa lộ vẻ ngạc nhiên một cách vui mừng và nói lớn: "à? Có cả anh Mậu đây nữa à". Tôi chưa kịp nói thêm điều nào thì những lễ nghi quân cách đã vang lên kéo ông vào đại sảnh. Tuy hơn tôi những 16 tuổi và xa cách gần sáu năm trời, tôi vẫn không thấy ông già thêm bao nhiêu. Bước đi của ông vẫn ngắn và thoăn thoắt, chỉ có dáng người trông có vẻ bệ vệ hơn trong bộ âu phục trắng. Biết ông còn bận với những nghi lễ, tôi vội rời đám đông trở về quân trường. Nhớ lại ngày nhận được tin ông Diệm được Cụ Hồ Chí Minh trả tự do tôi mừng bao nhiêu thì hôm nay, gặp lại ông trong cảnh huy hoàng của sự đạt thành ý nguyện, tôi mừng bấy nhiêu. Đối với tôi một cá nhân tầm thường, một cán bộ đấu tranh chỉ có tấm lòng, son trang trải cho quê hương, thì sự kiện ông Diệm năm được chính quyền là một thắng lợi vĩ đại của tổ quốc, của tổ chức và của chính mình. Mười hai năm gian truân vào tù ra khám, mười hai năm không biết được khói ấm gia đình, mười hai năm cầm cự cho tổ chức sống còn... như cuốn phim dài chợt tuần tự trình chiếu lại như một thoáng vó câu. Tôi mừng mừng tủi tủi đến rơi nước mắt và trong một thoáng ngắn ngủi, chợt thấy trời đất Bắc mùa Hạ mà ngọt ngào hương nắng mùa Xuân.
Hai ngày sau, ông Diệm cho người mời tôi vào dinh Thủ hiến để thăm hỏi tình hình chiến sự, tình trạng gia đình. Ông bắt tôi kể lại cho ông nghe điều kiện sinh hoạt của từng anh em trong nhóm và riêng tôi thì khi nào mãn khoá để vào Nam. Ông cũng cho biết là mới về, công việc còn đa đoan và nhiều khó khăn. Sau những phút nồng nhiệt ban đầu của cuộc gặp gỡ, ông trở lại với trạng thái đăm chiêu nét lo âu mệt mỏi hiện rõ ra trên cặp mắt kém linh động; ghế bên kia, ông Nhu ngồi với vẻ mặt khổ não lầm lì. Được gần một tiếng đồng hồ thì tôi đứng dậy chào về vì bên ngoài đã người chờ vào gặp.
Ra ngoài hành lang dinh Thủ hiến, tôi gặp cụ Tạ Chương Phùng và Võ Văn Hải, bèn thắc mắc họ về nét mặt ưu tư của ông Diệm và ông Nhu. Hải chưa kịp trả lời thì cụ Phùng đã nói: "Hôm qua ông Nhu mới bị Cụ la cho một trận nên thân đó”. Cụ Phùng nhắc lại gần như nguyên văn lời ông Diệm gay gắt với ông Nhu: “Chú đánh điện qua Pháp bảo tôi mọi việc ở nhà đều xong xuôi sẵn sàng cả rồi, bây giờ tôi về lại gặp không biết bao nhiêu là khó khăn. Không ai thèm hợp tác với tôi, ngay cả ông Chữ và ông Toàn cũng từ chối (tức là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ và bác sĩ Lê Toàn, hai đồng chí của ông Diệm trong phong trào Cường Để hoạt động ở Bắc Việt dưới thời Nhật chiếm đóng). Tôi không làm việc được trong tình cảnh này, về Sài gòn rồi tôi sẽ ra đi”. Tuy ông Diệm nói thế nhưng hai anh em ông vẫn liên lạc thăm dò, mời một số chính khách tham dự vào nội các của ông. Sau gần hai tuần lễ Việt nam không có chính phủ, ngày 7 tháng 7 tại Sài gòn, nội các Ngô Đình Diệm đầu tiên ra mắt quốc dân với thành phần như sau:
- Ngô Đình Diệm: Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ kiêm Tổng trưởng Quốc phòng.
- Trần Văn Chương: Quốc vụ Khanh
- Trần Văn Đỗ: Tổng trưởng Ngoại giao
- Trần Văn Của: Tổng trưởng Tài chánh, Kinh tế
- Phan Khắc Sửu: Tổng trưởng Canh nông
- Nguyễn Tăng Nguyên: Tổng trưởng Lao động và Thanh niên
- Trần Văn Bạch: Tổng trưởng Công chánh và Giao thông
- Nguyễn Dương Đôn: Tổng trưởng Giáo dục.
- Phạm Hữu Chương: Tổng trưởng Y tế xã hội
Ngoài ra còn có một số Bộ trưởng như:
- Trần Chánh Thành: Bộ trưởng Phủ Thủ tướng
- Lê Quang Luật: Bộ trưởng Thông tin
- Nguyễn Ngọc Thơ: Bộ trưởng Nội vụ
- Lê Ngọc Chấn: Bộ trưởng Quốc phòng
- Bùi Văn Thinh: Bộ trưởng Tư pháp
- Nguyễn Văn Thoại: Bộ trưởng kinh tế
- Trần Hữu Phương: Bộ trưởng Tài chánh
- Phạm Duy Khiêm: Phát ngôn viên phủ Thủ tướng.
Nhìn vào thành phần chính phủ trên đây ta thấy có một số nhân vật có uy tín, có thành tích đấu tranh, số khác là những nhà trí thức khoa bảng hoặc là thành phần quan lại cũ, nhưng không có nhân vật nào nằm gai nếm vật xả thân cho cách mạng chống Pháp chống Việt minh như anh em ông Diệm thường hô hào. Và đại đa số những tổng, bộ trưởng trong nội các lại càng chưa bao giờ "cầm súng kháng chiến" như lời tuyên bố của ông Diệm tại Hồng Kông năm 1950 khi ông bắt đầu cuộc hành trình vận động quốc tế.
Điều mỉa mai là trong số 16 nhân vật cộng tác với ông Diệm trong chính phủ đầu tiên này, chỉ trừ các ông Nguyễn Dương Đôn và Phạm Duy Khiêm là không nghe nói đến có mâu thuẫn và chống đối với ông Diệm hay chế độ của ông, 14 vị còn lại dần dần đều trong tư thế đối lập hoặc trở thành kẻ thù của ông Diệm. Ngay như hai ông Bùi Văn Thinh và Trần Chánh Thành, những người từng chia sẻ đắng cay, đồng lao cộng khổ với ông Diệm trong những năm 1954, 1955, mà tôi cũng bị bạc đãi để phải ra nước ngoài theo chính sách của nhà Ngô là "được làm Vua, thua làm Đại sứ”. Kỹ sư Trần Văn Bạch chỉ vì không chịu hô "Ngô Thủ tướng muôn năm” trong lễ chào cờ mà bị mất chức, bị gán cho là thân Bình Xuyên và bị theo dõi. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, người bạn chí thân của ông Diệm, cuối cùng rồi cũng theo phe cách mạng 1-11-63. Ông Nguyễn Văn Thoại làm Bộ trưởng mấy tháng rồi cũng chán nản từ chức bỏ nước ra đi v.v...
Một điểm lưu ý ở đây là từ năm 1956, nghĩa là khoảng 8 tháng sau khi truất phế Cựu hoàng Bảo Đại và thành lập nền Cộng hoà, chính phủ ban hành đạo luật xem ngày 7 tháng 7 như một quốc lễ (Lễ Song Thất) và đồng thời bài "Suy tôn Ngô Tổng thống" được hát sau bài quốc ca trong tất cả mọi lễ chào quốc kỳ của tất cả mọi trường hợp (Bài hát đại ý tôn vinh cá nhân Ngô tổng thống anh minh đã cứu nguy cho dân tộc mà trong phần điệp khúc có câu: “Toàn dân Việt nam nhớ ơn Ngô tổng thống. Ngô tổng thống, Tổng thống muôn năm” đã được quần chúng nhại lại một cách châm biếm là "Toàn dân Việt nam nhớ ăn tô hủ tiếu. Tô hủ tiếu, hủ tiếu ngon ghê?" và nhiều câu lời thanh ý tục, hoặc lời tục ý tục khác nữa).
Lễ song thất và bài ca suy tôn Ngô Tổng thống là một sự bắt chước thô kệch và thất nhân tâm của ngày lễ song thất, vốn là quốc khánh của Trung hoa dân quốc để kỷ niệm ngày cách mạng Tân Hợi thành công (1911). Thô kệch vì tình hình của nó, một bên là vinh danh một cuộc cách mạng, một bên là suy tôn một cá nhân; và thất nhân tâm là vì nội dung của nó, một bên mô tả lại một cuộc cách mạng gian khổ để đạp đổ nền quân chủ phong kiến, còn một bên mô tả lại một cá nhân "bao năm lê gót nơi quê người" mà ai cũng biết là "lê gót" để đi vận động chính trị chứ không phải xuất dương để đấu tranh cách mạng gian khổ. Tội nghiệp ông Diệm đã từng chống lại ông Bảo Đại rồi “lê gót" từ Việt nam qua Ro me, qua Mỹ mong cầu hai thế lực đưa ông về nước làm lãnh tụ, không ngờ ông còn buộc phải qua cái cầu Bảo Đại nữa mới mong làm được Thủ tướng. Theo Cao Văn Luận trong Bên dòng lịch sử thì giữa năm 1953, ông Diệm “lê gót" từ Mỹ về Pháp mong cần gặp Đức Quốc trưởng nhưng chờ chực ba tháng trời mà không được Quốc trưởng tiếp kiến làm cho ông bồn chồn, lo âu bực tức đến phải trách móc than thở. Thấy thái độ lãnh đạm của cựu hoàng Bảo Đại, ông Diệm lại phải “lê gót" qua Bỉ để đợi chờ. Cho đến khi Ngoại trưởng Forter Duller xin yết kiến Bảo Đại để vận động cho ông Diệm, Bảo Đại mới chịu tiếp kiến ông Diệm và sau đó cử ông làm Thủ tướng. Chỉ là một Thủ tướng được Quốc trưởng chỉ định chứ không phải do con đường cách mạng mà lên cầm quyền cho nên các văn kiện như sắc lệnh, như Dụ v.v... Ông phải ky "thừa lệnh Đức Quốc Trưởng”. Sau khi thành lập chính phủ mà ông đã từng chỉ trích chống đối ông Diệm cử Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ và ông Nguyễn Hữu Châu, một luật sư danh tiếng, anh em cột chèo với ông Ngô Đình Nhu, đi tham dự hội nghị Genève thay thế phái đoàn của chính phủ Bảo Lộc do giáo sư Nguyễn Quốc Định cầm đầu, đồng thời bổ nhiệm ông Hoàng Cơ Bình giữ chức chủ tịch Uỷ ban Bảo Vệ Bắc việt thay thế ông Nguyễn Hữu Trí, Thủ Hiến Bắc Việt một nhân vật thuộc đảng Đại Việt.
Trách nhiệm của ông Diệm là phải bảo toàn tất cả những phần đất của phe quốc gia và nước Việt nam phải vẹn toàn lãnh thổ như ý nguyện của mỗi người quốc gia và như ông đã thề trước thánh giá và trước quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng ông đã hoàn toàn thất bại. Hiệp ước 20-7-54 này qui định chấm dứt mọi hành động thù nghịch giữa các phe lâm chiến, tạm chia nước Việt nam thành hai miền tại vĩ tuyến thứ 17 trong lúc chờ đợi một cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc vào mùa hè năm 1956.
Như vậy là sau mười năm máu lửa và với hơn bốn trăm ngàn thường dân và quân nhân chết ở cả hai phía, chủ nghĩa, chế độ, xã hội và con người Cộng sản bắt đầu công khai xuất hiện và thống trị miền Bắc. Còn tại miền Nam Việt nam, chủ nghĩa và chế độ gọi là quốc gia bắt đầu biến mất để nhường lại chủ nghĩa và một chế độ gọi là chống Cộng kiểu Thiên chúa giáo, dù hiến pháp có gọi nước ta là cộng hoà, có gọi định chế quốc gia là Tổng thống chế, và dù giai tầng lãnh đạo có gọi chủ thuyết chỉ đạo quốc gia là Nhân vị.
***
Cuối tháng 7, tuy chưa mãn khoá nhưng những lớp học của chúng tôi cũng phải xuống Hải Phòng đợi tàu di tản vào Nam. Năm giờ chiều, con tàu St. Michel từ từ rời bến. Đứng trên boong tàu, tôi nhìn lại quê hương miền Bắc lần chót, lòng tái tê trước cảnh biệt ly. Đến Sài gòn, những lớp học của chúng tôi được chuyển vào Bộ Tổng tham mưu để tiếp tục cho đến ngày mãn khoá gần cuối tháng 9. Trước lúc đó thì đài phát thanh quân đội của tướng Hinh vẫn ra rả ngày đêm chửi bới, mạt sát, thách thức Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Ngày chúng tôi mãn khoá, tướng Nguyễn Văn Hinh cho tổ chức một buổi tiệc trà tại nhà riêng của đại tá Trần Văn Đôn ở Chợ Lớn vào lúc 7 giờ chiều để chúc mừng các sĩ quan tốt nghiệp. Khi chúng tôi đến nơi thì đã thấy tề tựu nhiều sĩ quan như đại tá Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Văn Minh, các trung tá Nguyễn Khánh, Trần Tử Oai, Dương Văn Đức... và các sĩ quan thuộc các phòng hai, phòng năm và phòng sáu, phòng chiến tranh tâm lý, Nha An ninh quân đội, nghĩa là những sĩ quan thuộc bộ phận chính trị và tình báo, những sĩ quan tay chân thân thuộc của tướng Nguyễn Văn Hinh. Độ chín giờ tối tướng Hinh mới đến, theo sau là cả một đoàn xe hộ tống có cả xe jeep trang bị trung liên. Ông ra lệnh cho tất cả sĩ quan trong buổi tiệc đứng vòng tròn chung quanh ông. Sau khi ông nói mấy lời chào mừng các sĩ quan mãn khoá các lớp quân sự đến lượt các sĩ quan phụ tá của ông phát biểu ý kiến. Tất cả đều dùng một thứ ngôn từ và một thứ luận điệu để nặng lời mạt sát, đả kích, nhục mạ Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Họ chê ông là Tuần Vũ, là ngu thần của phong kiến thối nát, là tay sai của đế quốc tư bản Mỹ, là trốn tránh ra nước ngoài để vận động làm Thủ tướng trong lúc quân dân hy sinh xương máu chống Cộng sản, là ngồi mát ăn bát vàng... Cuối cùng một sĩ quan trẻ thuộc phòng năm tóm lược các lời trình bày rồi đề nghị quân đội phải đảo chính ông Diệm để cứu lấy miền Nam. Họ còn ví ông Diệm với một thứ Farouk và kêu gọi tướng Hinh noi gương Nasser, người hùng Ai cập. Họ hô hào là thời cơ đã đến cho tướng Hinh cướp chính quyền. Tướng Hinh và tất cả sĩ quan tay chân của ông nhìn tôi với đôi mắt vừa chế giễu vừa khiêu khích vì họ biết quá rõ tôi là cán bộ cốt cán của ông Diệm.
Bao vây bởi một nhóm người thù nghịch làm cho máu căm thù sôi sục trong tim gan tôi. Trong giây phút đó, trong khung cảnh đó, tôi chợt nhớ đến Ngự sử Phan Đình Phùng, trước ba trăm cấm binh của Tôn Thất Thuyết mà vẫn can đảm đứng lên oai dũng kết tội viên phụ chánh lộng quyền độc ác dám trái lời uỷ thác của vua Tự Đức khi vua mới băng hà "Đức Tiên Hoàng vừa mới nhắm mắt mà ngài đã làm việc trái di chiếu như thế thật không còn đạo nghĩa quân thần một chút nào. Huống chi Tân Quân (vua Dục Đức) chưa có lỗi gì mà ngài định làm việc phế lập càn dỡ đó, sao cho phải lẽ”. Nhớ lại thái độ gan dạ của chí sĩ Phan Đình Phùng trước một triều thần mục nát, ngu xuẩn, tôi chợt quên hẳn hoàn cảnh của một quân nhân trước thượng cấp mà chỉ còn bùng lên lòng căm thù căm phẫn của một cán bộ mà ý tưởng và lãnh tụ của mình đang bị xúc phạm. Không một chút phân vân tôi bèn giơ tay xin phát biểu ý kiến: "Thưa Trung tướng, tôi xin hỏi ai đã làm mất nửa nước, có phải là thực dân và tay sai không? Vậy tại sao Trung tướng và các sĩ quan không kết tội thực dân và tay sai mà chửi bới ông Diệm một cách vô ý thức như thế. Tôi xin hỏi ông Diệm mới về nước cầm quyền, ông đã làm những tội tình gì mà đòi đảo chính ông ta?... Thiếu tá Lam Sơn đứng bên tay mặt của tôi, thúc cùi chỏ vào hông tôi và nói nhỏ: "Đừng nói nữa mà nguy hiểm". Nhưng tôi vẫn hùng hồn lên án tướng Hinh và tay sai thực dân, càng nói càng to tiếng hơn. Trung tá Trần Đình Lan, một loại Tây da vàng, con của bác sĩ Trần Đình Quế, từng làm bác sĩ ở tỉnh tôi, từng làm thị trưởng Đà Lạt mà tôi biết cả lai lịch gia đình rất rõ, rút súng lục chĩa vào mặt tôi nói lớn: "Mày có im miệng không, nói nữa tao bắn tan xác". Đại uý Nguyễn Chánh Thi đứng phía trái tôi vội giơ tay lên can. Từ đó buổi tiệc nhuộm bầu không khí nghẹt thở nặng nề trong khi nhóm tay chân bộ hạ của tướng Hinh xầm xì to nhỏ. Tôi tìm một chiếc ghế ngồi xuống, mặt hầm hầm chờ đợi tướng Hinh ra lệnh bắt giam. Nhưng rồi ông ta vẫn để tôi ngồi yên. Sau này tôi nghe nói lại rằng ông Hinh định đảo chính ông Diệm xong mới bắt tôi vì bắt lúc bấy giờ sợ mang tiếng. Tiệc tàn, tôi và đại uý Nguyễn Chánh Thi cùng về, còn một số sĩ quan trẻ đi theo vừa để bảo vệ, vừa để bộc bạch sự ngưỡng mộ. Trung uý Nguyễn Huỳnh, người Công giáo (sau này là một đảng viên Cần lao, trung tá phụ tá cho tôi ở Nha An ninh quân đội) giơ mũ và nói: "Đàn em xin kính phục đàn anh, vào hang hùm không sợ cọp. Đàn em xin "chapeaux".
Vốn có ý thức chính trị lại nắm vững tình hình quân đội, tinh thần sĩ quan nên tôi đã dự liệu rất đúng tham vọng và ý đồ của tướng Nguyễn Văn Hinh và phe nhóm của ông ta đối với Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Về phần tôi, đã trải bao gian nguy mà tôi còn không e ngại thì sá gì những kẻ tay sai thực dân, đầu óc võ biền, ham lợi danh, không hiểu biết gì thời thế.
Ngay tối hôm đó, khoảng nửa đêm, tôi vào dinh Độc lập xin yết kiến Thủ tướng và kể lại cho ông Diệm nghe sự tình bữa tiệc vừa qua, đồng thời trình bày những nhận định của tôi về ý đồ của tướng Hinh. Ông Diệm nghe xong chỉ khuyên tôi lần sau đừng liều như thế, nhưng ông có vẻ buồn rầu và hết sức ưu tư. Sáng hôm sau, ông sai ông Ngô Đình Luyện đến nhà tướng Hinh tại Chợ Lớn để điều đình, nội dung điều đình như thế nào tôi cũng không rõ.
Thái độ cương quyết và hung hãn đó của tướng Hinh cộng với những áp lực của Pháp và cuộc nổi loạn của Bình Xuyên sau này có lúc làm cho ông Diệm dự định bỏ nước ra đi cũng như Cao Văn Luận đã mô tả trong cuốn "Bên Dòng Lịch sử".
Từ ngày ông Diệm về làm Thủ tướng, tướng Hinh đã bày tỏ thái độ bất mãn của ông bằng cách cho đài phát thanh quân đội liên tục đả kích ông Diệm, mặt khác thành lập một tổ chức bí mật "Đảng Con ó”, để làm hậu thuẫn chính trị cho ông ta, đồng thời bố trí bốn tiểu đoàn tại những địa điểm huyết mạch của Đô Thành. Tôi còn nhớ một trong bốn tiểu đoàn này do đại uý Albert chỉ huy, người mà sau này nhờ tín đồ Thiên chúa giáo nên lại được ông Diệm tin cậy và trọng dụng.
Suốt mùa hè năm đó, tướng Hinh phối hợp với nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn tìm cách khiêu khích và âm mưu phá hoại tân chính phủ, đặc biệt nhằm vào cá nhân ông Diệm. Hinh cho phòng năm in truyền đơn rải cùng Sài gòn - Chợ Lớn, kết án ông Diệm. Đã có lần ông Diệm yêu cầu vua Bảo Đại giải nhiệm tướng Hinh nhưng không nhận được trả lời. Biết vậy, tướng Hinh lại càng lộng hành hơn, đến độ mặc thường phục cỡi xe mô tô chạy trên các phố chính của thủ đô để dương oai với dân chúng và để thách thức quyền hành của Thủ tướng phủ.
Trước những khiêu khích và khinh thường đó, tôi chỉ thấy ông Diệm liên lạc với phía người Mỹ để nhờ can thiệp và riêng ông Nhu thì không hình thành nổi một lực lượng quần chúng để có phản ứng thích hợp. Những đồng chí và cán bộ cũ, hoặc bị tê liệt và bị vướng mắc vào bộ máy nhà nước chưa chạy nhịp nhàng, hoặc vì quá trình hoạt động chưa bao giờ kết tinh thành một tổ chức đấu tranh có qui củ, nên lúc đó, mỗi người, trong cương vị của mình và trong điều kiện của mình, tự lấy sáng kiến mà hoạt động riêng rẽ.
Trong tình trạng đó, tôi đã ráo riết đi khắp các đơn vị ở thủ đô để phát hiện và động viên các sĩ quan tâm huyết hãy biết phân biệt chính tà, hãy biết phân biệt vấn đề sống chết của quốc gia, của quân đội, và đặt họ trước một sự chọn lựa dứt khoát giữa Thủ tướng Diệm và bè lũ tay sai của thực dân Pháp. Tôi vận động được một số khá đông sĩ quan trẻ, đặc biệt có trung uý Nguyễn Hữu Hạnh, một cộng sự viên thân tín của đại tá Dương Văn Minh, đang là chỉ huy trưởng quân vụ thị trấn Sài gòn Chợ Lớn. Tôi chỉ thất bại một lần khi lên Trung tâm Quang Trung đến tuyên truyền cho trung tá Trần Tử Oai. Oai hầm hầm nhục mạ ông Diệm và gần như muốn đuổi tôi ra khỏi văn phòng (ông Oai hiện ở Pháp).
Trong lúc đó thì từ tháng 6 năm 1954, nghĩa là khi hiệp định Genève chưa ra đời, và một tháng trước khi ông Diệm được bổ nhiệm làm Thủ tướng. đại tá Edward G. Lansdale đã có mặt ở Việt nam với một nhóm chuyên viên tình báo khoảng 15 người nằm trong phái bộ quân sự Sài gòn (Saigon Military Mission) với hai nhiệm vụ rõ ràng: thứ nhất là tiêu diệt khả năng phá hoại của tình báo Pháp và tay sai để dọn đường cho ông Diệm dễ dàng củng cố quyền lực và thứ hai là xây những viên đá đầu tiên làm cơ sở cho sự hiện diện chính trị hợp pháp và tất yếu của người Mỹ tại Việt nam. Sau đó một cách chính thức hơn, tướng Collins xuất hiện bên cạnh Thủ tướng Diệm và ngân sách viện trợ ba trăm triệu Mỹ kim được Ngoại trưởng Dulles tháo khoán cho Việt nam. Ở một kích thước khác và bí mật hơn, thiếu tá Lucien Conein thuộc hạ của Lansdale chỉ huy một kế hoạch phá bom ở miền Bắc trước, trong và sau khi hiệp định Genève có hiệu lực.
Cuối tháng 9, tôi được lệnh Tổng tham mưu trở về trình diện đơn vị cũ ở Nha trang thuộc phân khu Duyên hải, lúc bấy giờ do đại tá Nguyễn Ngọc Lễ làm tư lệnh. Tại Nha Trang còn có thiếu tướng Nguyễn Văn Vận, tư lệnh Quân khu III đóng bộ chỉ huy tại đây và một số đơn vị khác từ miền Bắc di cư vào tạm trú để chờ được tái phối trí về các đơn vị địa phương khác. Vài ngày trước khi ra đi, tôi trình bày với Võ Văn Hải và bác sĩ Bùi Kiện Tín (hiện ở Mỹ) ý định sẽ tổ chức một chiến khu tại vùng Duyên hải để ông Diệm có thể trở về sử dụng như một căn cứ địa trong trường hợp ông Diệm bị tướng Hinh đảo chính đánh bật ra khỏi Sài gòn.
Bác sĩ Bùi Kiện Tín là người đã từng ủng hộ ông Diệm từ trước năm 1945, gia đình ông đã giúp đỡ nhiều cho ông Diệm khi ông Diệm còn ở với ông Ngô Đình Luyện tại số 2 đường Armand Rousseau trong Chợ Lớn. Năm 1954, bác sĩ Tín trở thành bác sĩ riêng của ông Diệm và sau đó thay ông Lê Quang Luật là Bộ trưởng Thông tin, khi ông Luật ra Bắc nhận chức Đại biểu Chính phủ tại Bắc Việt.
Sau khi tôi trình bày, bác sĩ Tín đề nghị tôi nên thông báo kế hoạch đó cho phái bộ quân sự Mỹ biết, và sáng hôm sau, bác sĩ Tín dẫn con là ông Bùi Kiến Thành (hiện ở Pháp) và hai người Mỹ phụ tá cho Lansdale vào dinh Độc lập, nơi tôi đang tạm trú để tìm gặp tôi. Tôi trình bày về nguyên tắc tổng quát cho họ biết rằng quân đội Việt nam tại miền Trung, do một số sĩ quan tâm huyết chỉ huy, nhất định sẽ chống đối tướng Hinh và người Pháp đến kỳ cùng. Nếu ông Diệm bị lật đổ bằng bất cứ phương cách nào và bởi bất kỳ thế lực nào thì chúng tôi sẽ xây dựng miền Trung thành một quốc gia độc lập để vừa chống cộng sản ở phương Bắc, vừa đuổi tay sai Pháp ở phương Nam. Hai người Mỹ không tranh luận với tôi, họ chỉ ghi nhận và cố tìm thêm chi tiết, họ ngỏ lời ca ngợi tinh thần quốc gia của chúng tôi và hứa sẽ báo cáo lên Thượng cấp chủ trương lập Chiến khu của chúng tôi.
Yếu tố mấu chốt của kế hoạch này là thành lập được vài chiến khu gây thanh thế và tạo áp lực chính trị về Sài gòn. Áp lực chính trị này xuất phát từ cả quân lẫn dân thì sẽ là một đòn bẩy lớn giúp ông Diệm thêm sức mạnh trong thế chính trị mà ông phải đương đầu. Nhưng mặt khác, yếu tố mấu chốt đó cung là điểm có nhiều sơ hở nhất trong kế hoạch vì chúng tôi không có nhiều thì giờ để chuẩn bị chu đáo hầu tạo nên yếu tố bất ngờ. Vì vậy, sau khi Thái Quang Hoàng di chuyển được một số đơn vị lên chiến khu Đông rồi thì tình báo của Pháp phúc trình cho Bộ tham mưa và tướng Hinh có phản ứng quyết liệt liền.
Hinh đánh công điện ra cho tướng Vận nắm toàn quyền chỉ huy phân khu Duyên hải và đại tá Lễ phải lên đường vào trình diện Bộ Tổng tham mưu tức khắc để nhận lệnh thuyên chuyển đi làm chỉ huy trưởng đặc khu Phú Quốc. Được tình báo cho biết ông Lễ và tôi là hai người chủ lực trong kế hoạch này, tướng Vận cho một trung dội đến “hộ tống” ông Lễ lên máy bay vào Sài gòn, và đến phi trường Tân Sơn Nhất thì có sĩ quan của tướng Hinh đón về Bộ Tổng tham mưu. Trên đường từ phi trường về, ông Lễ đã lừa được vị sĩ quan an ninh đó, cầm lấy tay lái và chạy thẳng vào dinh Thủ tướng và tạm trú tại đó luôn.
Riêng phần tôi thì ông Vận cũng cho một trung đội đến nhà bao vây để bắt giam, nhưng tôi trốn được chỉ 5 phút trước đó và đến trú ẩn tại nhà thờ của linh mục Nguyễn Văn Sở. Mấy ngày sau, đại uý Nguyễn Vinh, chỉ huy tiểu đoàn danh dự phủ Thủ tướng, mặc thường phục đến tìm tôi và chuyển lệnh của ông Diệm gọi tôi vào Sài gòn ngay có công tác quan trọng. Tôi vào đến dinh Thủ tướng đợi ba ngày mà không gặp được ông Diệm, chỉ được Võ Văn Hải (lúc bấy giờ là Chánh văn phòng Phủ thủ tướng) cho biết là "Cụ đang bận lắm, anh cứ đợi đó”. Thế là ông Lễ và tôi cứ ở mấy ngày liền trong phòng của Võ Văn Hải tại dinh Thủ tướng.
Tình hình thủ đô ngày một căng thẳng, các đơn vị quân đội, cảnh sát và các giáo phái đều ở trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Tướng Collins, đặc phái viên của Tổng thống Eisenhower bất đồng quan điểm với ông Diệm trong khi đại tá Lansdale thì lại hết lòng ủng hộ ông Diệm. Sự mâu thuẫn nội bộ của các viên chức cao cấp Mỹ làm cho hoạt động của vị tân Thủ tướng bị đình trệ và lúng túng, cũng làm cho tướng Hinh thêm quyết liệt trong ý định lật đổ ông Diệm.
Một hôm, trong phòng riêng của Võ Văn Hải, đại tá Lễ, bác sĩ Tín, Tạ Chí Hiệp, Hải và tôi đang ngồi nói chuyện thì hai ông Luyện và Nhu vào. Ông Luyện hướng về đại tá Lễ và tôi nói "Cụ thương hai anh nên muốn hai anh đi Hoa kỳ tu nghiệp thêm. Hai anh sửa soạn hành lý rồi đợi giấy tờ xong thì đi”.
Từ khi mới vào Sài gòn, tôi đã ngạc nhiên về việc ông Diệm gọi gấp vào mà cứ bắt tôi chờ không giao cho một công tác nào, rồi Võ Văn Hải suốt cả tuần nay sau mỗi ngày làm việc cho ông Diệm, tối về phòng lại kể cho chúng tôi biết "ông Cụ đang rất buồn rầu chán nản trước nhiều khó khăn” cho nên khi nghe ông Luyện nói hết sự thật rằng ông Lễ và tôi, hai sĩ quan đã công khai dùng biện pháp quân sự để chống tướng Hinh, đi Mỹ là có ý thương muốn cho chúng tôi đi trước để rồi ông sẽ đi sau mà không sợ cộng sự viên trả thù. Tôi vội trả lời ông Luyện: "Mười mấy năm trời theo Cụ đấu tranh biết bao gian khổ mà tôi không sờn lòng, nay Cụ đã về nước để cầm quyền, đã ngồi đàng hoàng trong dinh Độc lập mà lại phải bỏ cuộc ra đi thì thật là vô lý, tôi không đi đâu hết”. Ông Luyện có vẻ bực mình nói: "Vậy anh ở nhà để làm gì?". Tôi cũng bực mình trả lời lại: "Nếu cụ không còn nắm chính quyền, và nếu tôi bị đuổi khỏi quân đội, tôi sẽ về nhà đi buôn nước mía, có sao đâu!”. Ông Nhu từ đầu vẫn không nói một tiếng nhưng đến đây thì ông mỉm cười, có lẽ biết không thuyết phục được chúng tôi, ông bèn kéo ông Luyện đi ra. Sau này, nhờ thời gian và các nhân chứng kể lại, nhờ các biến cố tiếp theo cũng như nhờ càng ngày càng hiểu rõ thêm về tính tình ích kỷ, hẹp hòi của anh em nhà Ngô, ông Lễ và tôi biết được rằng việc hai anh em Luyện và Nhu cũng vào thuyết phục chúng tôi đi Mỹ thật ra chỉ là một âm mưu.
Họ định hy sinh loại bỏ chúng tôi và cả Thái Quang Hoàng (chiến khu Đông) nữa, để dùng như một trong nhiều điều kiện để thoả hiệp với tướng Hinh đừng chống đối, đừng đảo chính. Tôi vẫn nghĩ rằng điều kiện của tướng Hinh chỉ là kế hoãn binh của ông ta mà thôi, thâm tâm và chủ trương của tướng Hinh và Pháp vẫn luôn luôn lật đổ ông Diệm.
Ở đời thường thường hết chim mới bẻ cung, ăn xong cháo mới đá bát. Trường hợp này, anh em ông Diệm chỉ mới bắn gần hết chim, chỉ ăn sắp xong bát cháo, binh lửa vẫn còn ầm ĩ đã xuống tay hy sinh cộng sự viên rồi.
Sau này, chúng tôi biết thêm được sở dĩ ông Diệm không còn ý định “bỏ nước ra đi” nữa là phần lớn nhờ những vận động chính trị và hoạt động cụ thể của đại tá Lansdale nhằm chia rẽ và thu phục phe đối lập, đồng thời khuyên giải và gây niềm tin nơi ông Diệm, nhưng một phần khác cũng nhờ thái độ cương quyết của ông Ngô Đình Cẩn và lực lượng cán bộ ở Huế, trong tình trạng thiếu những tin tức chính xác để có thể lượng định tình hình, để cứng rắn một cách liều lĩnh nhất định bắt buộc ông Diệm phải tiếp tục nắm chính quyền.
Chính ông Nguyễn Đôn Duyến, Đại biểu chính phủ ở Trung phần, đã thảo nội dung công điện đánh vào Sài gòn.
Là người đã dính dự rất chủ động trong việc di cư hơn 800 ngàn đồng bào từ Bắc vào Nam, Lansdale là một sĩ quan cao cấp xuất sắc của ngành tình báo Hoa kỳ trong công tác hải ngoại. Xuất thân là một chuyên viên trong ngành quảng cáo kỹ nghệ, ông chú trọng rất nhiều đến các kỹ thuật tâm lý chiến “Đức mẹ đã vào Nam" là một trong rất nhiều kỹ thuật đã được ông sử dụng để vận động các giáo phận tại Bắc Việt dứt khoát lên đường vào Nam trong khuôn khổ 300 ngày chọn chỗ di trú do Hội nghị Genève 1954 qui định. Chính ông là người đã giúp đớ và tạo nên huyền thoại Magsaysay trong chiến dịch tiêu diệt Cộng sản Hukbalahap tại Phillippines nhờ vậy sau này ông có biệt danh là "The Kingmaker"
Cho nên để loại bỏ tướng Hinh với sự ủng hộ của Pháp và lực lượng các giáo phái, ông đã được phái đến Sài gòn. Quả nhiên, Lansdale đã thành công trong loại công tác này một lần nữa: trước hết là khuất phục Washington về sự thiên vị và thiếu am hiểu tình hình của tướng Collins, sau đó là hoặc thuyết phục tướng Trịnh Minh Thế và quân đội Cao Đài Liên Minh tại núi Bà Đen, hoặc hối lộ một số cấp chỉ huy của lực lượng võ trang các giáo phái, hoặc là nhờ Bộ ngoại giao hăm doạ chính phủ Pháp để tạo áp lực bắt cơ quan tình báo Pháp tại Sài gòn phải ngừng ủng hộ tướng Hinh và lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn...
Vào lúc tướng Hinh sắp đảo chính ông Diệm thì Quốc hội Hoa kỳ chính thức công bố lập trường qua lời tuyên bố của phái ngôn viên bán chính thức về vấn đề Đông Dương lúc bấy giờ là thượng nghị sĩ Mansfield "Nếu ông Diệm bị lật đổ thì Mỹ sẽ chấm dứt viện trợ cho Việt nam và cũng chấm dứt quân viện cho quân đội Pháp”, đồng thời Tổng thống Eisenhower bức thư cho Sài gòn công khai xác nhận sự ủng hộ ông Diệm của chính quyền Mỹ.
Ngày 2 tháng 10, tướng Ely, Cao uỷ Pháp tại Đông Dương, về Pháp phúc trình cho Bảo Đại biết, chính quyền Pháp đành phải theo đường lối chính trị của Mỹ tại Đông Dương, nghĩa là Mỹ sẽ thay thế Pháp xây dựng một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á vì quyền lợi của thế giới tự do, ngày 19 tháng 11, theo lệnh của Bảo Đại, tướng Hinh phải rời Việt nam vĩnh viễn, trao quyền Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt nam lại cho tướng Nguyễn Văn Vỹ, và như vậy chấm dứt mọi khó khăn và mọi đe doạ cho cá nhân ông Diệm và cho khả năng hành xử quyền quản trị quốc gia của tân nội các. Thế là Hoa kỳ đã cứu ông Diệm tránh được cuộc đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh nhưng ông Diệm không giao chức Tổng tham mưu trưởng cho tướng Vỹ mà lại giao cho tướng Lê Văn Tỵ.
CHƯƠNG 5
Tướng Hinh ra đi, cả thế cờ của Pháp và Bảo Đại sụp đổ vì tướng Hinh, bằng xương bằng thịt, là đại diện cho sức mạnh chính trị của Pháp và Bảo Đại tại Việt nam lúc bấy giờ. Sự sụp đổ có được biểu hiện rõ ràng nhất trong sự tan hàng tâm lý của lực lượng quân đội thuộc xu hướng của tướng Hinh. Tướng Vận ở Nha Trang trốn vào Sài gòn rồi biệt tích luôn. Đại tá Trương Văn Xương, tư lệnh quân khu Hai, người đã từng gây khốn khổ cho ông Ngô Đình Cẩn và ông Đại biểu chính phủ miền Trung, cũng trốn vào Nam. Tại Đà Lạt, đội Ngự lâm quân do tướng Nguyễn Văn Vỹ điều động bị ông Phan Xứng và thiếu tá Nguyễn Chánh Thi phần nào tê liệt hoá. Đại tá Linh Quang Viên, tư lệnh quân khu Ba ở Buôn Mê Thuộc, tuy là một phần tử quốc gia đối lập với ông Diệm nhưng lại không theo Pháp và không phục tướng Hinh cuối cùng cũng hợp tác với chính phủ. Đại tá Vòng A Sang người Nùng tay chân của tướng Vanuxem, di cư vào Nam và đang là Sư đoàn trưởng sư đoàn Nùng ở Phan Rí, thấy tình hình "phe ta" tan rã dần cũng tuyên thệ thi hành kỷ luật của quân đội.

Thế là sau khi tướng Hinh ra đi, không kể tại miền trung Trung Việt mà tướng Hinh không có một cơ sở vững mạnh nào, toàn bộ vùng Duyên hải và Cao Nguyên Trung phần trở thành hậu thuẫn vừng chắc cho ông Diệm để tiến hành những vận động cuối cùng quét sạch tàn dư của chế độ Pháp thuộc. Trung tá Nguyễn Quang Hoành từ Phan Thiết được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu Hai, thiếu tá Thái Quang Hoành được lệnh giải tán chiến khu Đông về làm Tỉnh trưởng Bình Thuận, ông Hồ Trần Chánh, một đảng viên Đại Việt từng ủng hộ chiến khu Đông, được chúng tôi đề nghị làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Trung tá Phạm Văn Đổng, tuy chưa bao giờ ủng hộ ông Diệm nhưng cũng khôn ngoan chưa bao giờ tỏ ra chống đối chính phủ, được cử làm Tư lệnh Phân khu Duyên hải. Chúng tôi mỗi người được thăng một cấp vì đã bảo vệ được miền Trung: Hoành và Đổng lên đại tá. Hoàng và tôi lên trung tá. Và tuy còn ở trong dinh Thủ tướng, tôi đã được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Phân khu Duyên hải, còn đại tá Lễ thì sẵn sàng để nhận chức Tổng giám đốc Cảnh sát Công an một khi đuổi được Bình Xuyên ra khỏi định chế này.
Song song với và chính vì việc tướng Hinh ra đi, Lansdale đã vừa dùng tiền bạc và sử dụng lý luận để lôi kéo thêm được tướng Nguyễn Giác Ngộ của Hoà Hảo và. tướng Nguyễn Thành Phương của Cao Đài đem lực lượng của họ về hợp tác với chính phủ. Lansdale còn sử dụng kỹ thuật "địch vận” để dẫn dụ được đại tá Thái Hoàng Minh, tham mưu trưởng của lực lượng Bình xuyên, đứng lên chống Bảy Viễn. Tuy việc phản bội của Thái Hoàng Minh bị lộ và cuối cùng bị Bảy Viễn thủ tiêu, nhưng cái chết của ông ta đã gây một chấn động tâm lý sâu đậm trong hàng ngũ của lực lượng Bình Xuyên.
Tuy nhiên, dù ngần đó biến cố thuận lợi đã làm cho "Mặt trận thống nhất" của các giáo phái bị phân hoá và bị suy giảm sức mạnh rất nhiều, nhưng trong mùa xuân 1955, ông Diệm vẫn còn gặp nhiều khó khăn vì Thủ tướng Pháp Edgar Faure vẫn còn muốn xây dựng lại uy thế cho Quốc trưởng Bảo Đại để mong lật ngược thế cờ. Pháp vẫn còn muốn lợi dụng những lực lượng thù nghịch với ông Diệm còn sót lại như toàn bộ Bình Xuyên, như Hoà Hảo của Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên, Lê Quang Vinh, như Cao Đài của Hộ Pháp Phạm Công Tắc, như tướng Vỹ và một thiểu số Ngự lâm quân còn trung thành với Bảo Đại. Đặc biệt trong quân đội, mặc dù Thiếu tướng Lê Văn Tỵ đã được ông Diệm bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng nhưng vẫn còn nhiều sĩ quan cấp tá cao cấp chưa muốn hợp tác với ông Diệm như các đại tá Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, các trung tá Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Là, Trần Tử Oai... Như vậy thì riêng tại miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn - Chợ Lớn và vùng phụ cận, đứng trên mặt thuần tuý vũ lực (vốn là yếu tố quyết định trong sự hỗn loạn của tình thế lúc bấy giờ) thì phe chính phủ và phe đối lập quả thật ngang ngửa.
Từ đầu xuân 1955, lực lượng Bình Xuyên tiếp tục gây hấn, khiêu khích Đô Thành, tấn công những đơn vị quân đội quốc gia đi lẻ tẻ và bắn súng cối vào dinh Độc lập để chuẩn bị cho âm mưu đảo chính Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 30 tháng 4 năm 1955, sau khi thuyết phục được tướng Lê Văn Tỵ và một nhóm sĩ quan thuộc cấp của tướng Hinh cũ, tướng Nguyễn Văn Vỹ vào dinh Độc lập buộc ông Diệm phải đi Pháp ngay tức khắc theo lệnh của Quốc trưởng Bảo Đại, đồng thời tướng Vỹ ra lệnh cho đội Ngự lâm quân từ Đà Lạt di chuyển về Sài gòn và thông báo cho trung tá Đỗ Cao Trí, một bạn thân của Vỹ biết. Trung tá Trí là Tư lệnh lực lượng Nhảy dù, đang hành quân tiễu trừ Bình Xuyên, nhưng thâm tâm vẫn muốn lật đổ ông Diệm. Cũng trong ngày 30 tháng 4 đó, “Hội đồng nhân dân cách mạng” ra đời tại toà Đô Thành Sài gòn. Đây là một lực lượng chính trị quần chúng được chuẩn bị từ trước để làm hậu thuẫn đấu tranh cho ông Diệm. Hội đồng này do ông Nguyễn Bảo Toàn, một lãnh tụ Hoà Hảo, làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn, một viên chức của Cao Đài, làm phó chủ tịch và ông Nhị Lang (hiện ở Mỹ), thuộc Việt nam Quốc Dân Đảng, và cũng là một phụ tá của tướng Trình Minh Thế làm Tổng thư ký. Thành viên của Hội đồng gồm nhiều thành phần đại diện cho mọi tầng lớp quần chúng mà đa số là thân hữu của ông Diệm, ngoài ra còn có một số do tôi tổ chức từ Phân khu Duyên hải vào để đại diện cho miền Trung mà người cầm đầu là giáo sư Hà Huy Liêm (trường trung học Võ Tánh), đang làm uỷ viên Tuyên nghiên huấn của phong trào Cách mạng quốc gia tỉnh Khánh Hoà.
Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn là nhân vật uy tín nhất của Phật giáo Hoà Hảo lúc bấy giờ. Ông là một nhà cách mạng lão thành từng bôn ba qua Pháp, Tàu, Nhật để đấu tranh cho nền độc lập của quê hương. Ngay từ năm 1947, khi Pháp định thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đã cùng với cụ Nguyễn Hải Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập "Mặt trận thống nhất Quốc gia" đòi hỏi Pháp chỉ thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đã cùng với cụ Nguyễn Hải Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập "Mặt trận thống nhất quốc gia" đòi hỏi Pháp chỉ thương thuyết với các lực lượng dân tộc mà thôi chứ không phái với Bảo Đại hay với Hồ Chí Minh. Từ ngày dấn thân hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Bảo Toàn luôn luôn chủ trương một nước Việt nam độc lập theo chế độ Cộng hoà với một hình thức sinh hoạt hoàn toàn dân chủ mới đáp ứng được nguyên vọng của nhân dân và mới có thế chiến thắng được cộng sản, do đó ông quyết tâm ủng hộ ông Diệm và truất phế Bảo Đại, mặc dù lúc bấy giờ tính mạng của ông có thể vì thế mà bị nguy hiểm.
Ngày 30, trong lúc tướng Vỹ và nhóm sĩ quan thân Pháp và dinh Độc lập ép buộc Thủ tướng Diệm phải đi Pháp (nghĩa là đi để không trở về) thì tại toà đô chánh Sài gòn, bầu không khí hào hùng lửa đấu tranh của “Hội đồng nhân dân cách mạng” đang ào ạt và Hội nghị ra tuyên ngôn truất phế Bảo Đại, uỷ cho chí sĩ Ngô Đình Diệm tạm thời lãnh đạo quốc gia trong lúc chờ đợi Hiến pháp và Quốc hội định đoạt quy chế tương lai cho đất nước. Họp xong, Hội đồng đi bộ qua dinh Độc lập để trao tuyên ngôn cho Thủ tướng Diệm, không ngờ khi đến nơi thì chạm trán với tướng Vỹ và các "sĩ quan phản loạn" đang làm áp lực ông Diệm. (Có thể cuộc đụng độ này là do dinh Độc lập kịp thời thông báo cho Hội đồng để đến tăng cường). Thấy tướng Vỹ, tướng Trịnh Minh Thế (và hình như có cả tướng Nguyễn Thành Phương) bèn bắt giữ tướng Vỹ trong lúc ông Nhị Lang đưa súng lục ra hăm doạ tướng Vỹ. Thủ tướng Diệm sợ tái mặt, vội vã kéo tướng Vỹ vào phòng riêng để bảo vệ sinh mạng cho tướng Vỹ, đồng thời yêu cầu Hội đồng đừng bắt hoặc giết tướng Vỹ. Không phải ông Diệm thương xót gì tướng Vỹ, nhưng nếu tướng Vỹ bị giết thì ắt hẳn những lực lượng yểm trợ tướng Vỹ, vì tình chiến hữu, sẽ không tha thứ cho ông. Huống gì trung tá Đỗ Cao Trí lại gọi điện thoại cho ông Diệm đòi phải trả tự do cho tướng Vỹ ngay nếu không thì Trí sẽ tấn công dinh Độc lập. Cuối cùng, Hội đồng đạt được một thoả hiệp chung là bắt tướng Vỹ phải ký giấy xin quy hàng Hội đồng, và hoà mình với nhân dân để đấu tranh cho đất nước, đổi lại, Hội đồng sẽ trả tự do cho ông ta.
Tướng Vỹ đồng ý ra về và trong thâm tâm định phản bội lại lời cam kết đó, nhưng phần vì Ngự lâm quân, chủ lực của ông ta đã bắt tay với quân đội, phần vì phản ứng quyết liệt của lực lượng tướng Trịnh Minh Thế nên tướng Vỹ đành chịu thất bại. Trong lúc tướng Vỹ hoạt động ở Sài gòn để lật đổ ông Diệm thì tướng Nguyễn Văn Hinh ở Pháp cũng lên đường trở về Việt nam để dự định giúp tướng Vỹ lật ngược thế cờ. Nhưng vì tướng Vỹ đã thất bại, lại vì tình hình mỗi ngày một thuận lợi cho ông Diệm, và quan trọng hơn cả là vì Mỹ đã cương quyết ủng hộ ông Diệm cho nên tướng Hinh bay đến Calcutta thì dừng lại và bay ngược về Pháp. Trong những ngày sôi động tại Sài gòn mà bạo lực có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào, ông Diệm không những lo sợ cho cái tương lai chính trị của ông mà còn lo cho chính bản thân ông nữa. Chỉ quen đấu tranh theo kiểu quan trường, ông rất e ngại vấn đề súng đạn. Chỉ quen dựa vào các thế lực ngoại bang (như Pháp, Nhật, Mỹ, Vatican) vận dụng chính trị và củng cố địa vị, ông rất mất tự tin khi phải đối phó với những quân nhân như Nguyễn Văn Vỹ, Trần Đình Lan... Đỗ Cao Trí mà vũ lực là lý luận. Nhưng điều làm ông lo sợ nhất là bức tường đồng để ông nương tựa là Hoa kỳ sẽ có thể bỏ rơi ông, vì không những ông chấp chánh được là nhờ sự ủng hộ của Hoa kỳ mà còn nhờ chính cả các hoạt động tình báo và quân sự của Lansdale. Cho đến khi cả đại tá Lansdale lẫn Đặc sứ Collins liên tục tái bảo đảm với ông là chính sách Mỹ đã quyết định yểm trợ miền Nam do ông lãnh đạo, ông mới thật sự an lòng để đối phó với tình thế.
Thật vậy, một ngày trước buổi chạm trán với tướng Vỹ ở dinh Độc lập, Ngoại trưởng Mỹ Fostes Dulles đã thông báo cho Đại sứ Pháp Couvre de Murrville ở Washington, cũng như Đại sứ Mỹ Dillon đã thông báo cho Thủ tướng Pháp Edgar Faure ở Paris về quyết tâm của Mỹ nhất định ủng hộ ông Diệm vô điều kiện, kết quả cụ thể làm ông Diệm yên tâm nhất là cuối cùng, dưới áp lực của Mỹ, chính Pháp đã tiếp tế đạn dược cho quân đội quốc gia để dẹp phiến loạn Bình Xuyên trong khi chờ đợi một chương trình quân viện dồi dào hơn sau này.
Sau thất bại của tướng Nguyễn Văn Vỹ, quân đội mặc nhiên trở thành một lực lượng trọng yếu nhất trí ủng hộ ông Diệm. Thật ra từ trước tại Sài gòn, chỉ có hai sĩ quan cao cấp và có vị trí then chốt thật sự ủng hộ ông Diệm mà thôi, đó là đại tá Dương Văn Minh giữ chức Quân Trấn trưởng Sài gòn - Chợ Lớn còn trung tá Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tham mưu trưởng quân khu I dưới quyền đại tá Trần Văn Minh. Ông Dương Văn Minh tuy xuất thân từ trường võ bị của Pháp ở Tông (Bắc Việt), tuy phục vụ trong quân đội Pháp nhưng ông vẫn giữ bản chất và phong độ của một người Việt nam thuần tuý, vẫn nặng tình tự với dân tộc quê hương. Người Pháp và tướng Hinh vốn không ưa ông Dương Văn Minh nên không giao cho ông chức vụ chỉ huy có quân sĩ, có đơn vị, để ngăn ngừa hậu hoạ. Còn ông Phạm Xuân Chiểu là một đảng viên Việt nam-quốc Dân Đảng, sau khi bỏ học trường thuốc ở Hà nội vì biến cố Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, bèn vào học trường võ bị Yên Bái do người Nhật tổ chức rồi qua Trung Hoa học trường võ bị Hoàng Phố, ở đây ông gặp một nữ đảng viên "Cách mạng Đồng Minh Hội” của cụ Nguyễn Hải Thần, hai người trở thành vợ chồng và đều là những nhân vật tham gia cách mạng, có tinh thần chống cộng rất cao. Mấy năm sau ông về Phát Diệm và được mời giữ chức chỉ huy tiểu đoàn 2 trong lực lượng tự vệ của giáo phận này rồi trở thành sĩ quan quân đội quốc gia. Với thành tích đó nên Phạm Xuân Chiểu hết lòng ủng hộ ông Diệm. Hai sĩ quan này nhất là ông Dương Văn Minh, đã ủng hộ và hoạt động đắc lực cho ông Diệm ngay từ phút đầu, ngay từ khi tướng Hinh chống đối ông Diệm: ngoài ra cũng phải nói một trong những lý do ông Minh ủng hộ ông Diệm vì người bạn thân của ông là ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng là người bạn quý của ông Diệm. Hai ông Dương Văn Minh và Phạm Xuân Chiểu đều ở Sài gòn, đều biết rõ vị trí, âm mưu hoạt động và những kế hoạch chuyển quân của Bình Xuyên và Pháp nên đã giúp đỡ rất hữu hiệu ông Diệm trong vấn đề đối phó với quân của Lê Văn Viễn.
Ngoài ông Diệm ra còn có đại tá Mai Hữu Xuân, một sĩ quan nhiều thủ đoạn và giỏi về tình báo ủng hộ. Mai Hữu Xuân trước kia là một phần tử thân Pháp, từng là Tổng giám đốc Công an và lúc bấy giờ là Giám đốc An ninh quân đội, nhưng quan trọng hơn cả, ông Xuân vốn là kẻ thù Bình Xuyên. Ký giả Lueien Bodart trong cuốn "Laguerre d'indochine" mô tả Bảy Viễn và Mai Hữu Xuân là hai lãnh chúa tại Chợ Lớn và Sài gòn, hai kẻ thù không đội trời chung, nay gặp cơ hội ông Diệm đánh Bình Xuyên, Mai Hữu Xuân trở nên đồng minh của ông Diệm. Sự ủng hộ của Mai Hữu Xuân và Nha An ninh quân đội lúc bấy giờ quả là một đóng góp tình báo hết sức lớn lao cho việc tấn công và tiêu diệt Bình Xuyên để củng cố địa vị ông Diệm.
Trong những ngày đầu của tháng 5 năm 1955, quân đội quốc gia phối hợp với quân của tướng Trịnh Minh Thế đánh bật được quân Bình Xuyên qua bên kia cầu chữ Y. Tướng Thế trong khi đứng trên cầu Tân Thuận để quan sát địa hình đã bị một viên đạn bắn lén từ sau lưng trứng thái dương và không cứu sống được. Ngày 9 tháng 5, Bình Xuyên bị đánh bật ra khỏi Sài gòn và Chợ Lớn nên rút về vùng lầy Rừng Sát sau khi đã đốt cháy nhiều phố xá, nhà cửa ở khu Nancy. Đại tá Dương Văn Minh được Thủ tướng Diệm cứ giữ chức Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát, và chẳng bao lâu, ông tiêu diệt toàn bộ quân Bình Xuyên. Bảy Viễn và bộ hạ thân tín là Lai Văn Sang và Lai Hữu Tài phải trốn qua Pháp. Cùng lúc đó, đại tá Nguyễn Ngọc Lễ cũng đã nắm vững được Nha Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Việt nam, và củng cố được lực lượng Công an Cảnh sát Đô thành mà trước đó vốn nằm dưới sự điều động của Lai Văn Sang.
Đánh tan quân Bình Xuyên, đại tá Dương Văn Minh dẫn đầu đoàn quân đắc thắng tiến về thủ đô trên con đường Catinat để vào dinh Độc lập giữa tiếng hoan hô vang dội của dân chúng. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đứng tại thềm dinh Độc lập đón chào người anh hùng chiến thắng Rừng Sát. Ông ôm hôn đại tá Dương Văn Minh rồi một nữ sinh choàng vòng hoa cho đại tá. Mấy ngày sau, Thủ tướng Diệm vinh thăng đại tá Minh lên Thiếu tướng, báo Sài gòn đề cao Dương Văn Minh “Anh hùng Rừng Sát". Riêng ông Ngô Đình Nhu, tuy vui mừng sung sướng thấy kẻ thù bị tiêu diệt, vẫn tỏ ra bất mãn với báo chí và dư luận khi Dương Văn Minh được đề cao là "anh hùng". Ông Nhu nói với nhiều người, nhất là những người thân tín ở trong dinh rằng: "Cả nước Việt nam chỉ có một anh hùng mà thôi đó là anh hùng Ngô Đình Diệm".
Trong khi Sài gòn và Rừng Sát đang mịt mù khói lửa thì hội đàm giữa Pháp và Mỹ diễn ra tại Paris từ ngày 7 đến 12 tháng 5 năm 1955. Ngoại trưởng Mỹ, ông Foster Dulles, đòi hỏi Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt nam, phải rút toàn bộ đoàn quân viễn chinh Pháp (90.000) về nước. Chương trình Pháp rút quân về nước gồm 3 giai đoạn:
Một: Ngày 20 tháng 5 năm 1955, quân đội Pháp phải bắt đầu rút ra khỏi Sài gòn - Chợ Lớn, tập trung về Vũng Tàu.
Hai: Ngày 2 tháng 7 năm 1955, quân đội quốc gia Việt nam hoàn toàn chấm dứt sự phụ thuộc vào Bộ tư lệnh Pháp tại Đông Dương.
Ba: ngày 28 tháng 4 năm 1956, người lính của đội quân viễn chinh Pháp vĩnh viễn rời khỏi Việt nam.
Thế là nhờ quân đội quốc gia, nhờ người Mỹ, từ nay ông Diệm bước lên đài danh vọng quyền quý tột đỉnh trong cuộc đời chính trị của ông.
Sau chiến thắng Bình Xuyên, những đấu thủ còn lại của Thủ tướng Diệm tại miền Nam chỉ là những lực lượng yếu kém và phân hoá.
Vê phía Cao Đài có Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc với một đơn vị Hộ vệ quân khoảng 300 tay súng. Thêm một kế hoạch của ông Ngô Đình Nhu, tướng Cao Đài bị mua chuộc Nguyễn Thành Phương dẫn đơn vị cũ đến Tây Ninh tước khí giới đám Hộ vệ quân này bắt giữ hai người con gái của Giáo chủ Cao Đài với tội tham nhũng bóc lột đồng bào. Giáo chủ Phạm Công Tắc và một số bộ hạ thân tín trốn được qua Cao Miên và kéo dài cuộc đời lưu vong cho đến lúc ông tạ thế.
Về phía Hoà Hảo võ trang thì còn ba nhóm: Trần Văn Soái (tức Năm Lửa), Lâm Thành Nguyên và Lê Quang Vinh (thường được gọi là Ba Cụt). Cả ba nhóm này có căn cứ và có địa bàn hoạt động tại miền Hậu Giang. Vào giữa năm 1956 tướng Dương Văn Minh hành quân mở chiến dịch càn quét những căn cứ này. Trần Văn Soái và Lâm Thành Nguyên chống cự không nổi nên phải về quy hàng với chính phủ. Riêng lực lượng Lê Quang Vinh, với kỹ thuật du kích chiến để tránh hoả lực hùng hậu của quân đội quốc gia, đã cầm cự được khá lâu dài nhưng cuối cùng bị bắt và xử tử.
Theo thông báo chính thức của chính phủ Diệm thì tướng Hoà Hảo Lê Quang Vinh bị một tiểu đội Bảo an bắt được tại Chắc Cà Đao (Long Xuyên) cùng với 5 tên hộ vệ. Trong một buổi lễ trao lệnh kỳ và huy chương, đại biểu chính phủ đưa tặng một triệu đồng cho Liên Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn, Liên Đội đã có binh sĩ bắt được Lê Quang Vinh.
Nhưng lúc bấy giờ nhiều người đặc biệt là tướng Dương Văn Minh và Bộ tham mưu của ông ta biết rằng vụ bắt được Lê Quang Vinh là nhờ ông Nguyễn Ngọc Thơ lừa Ba Cụt đến điều đình trong lúc lính Bảo an đã bố trí một cuộc phục kích tinh vi nên mới bắt được người chiến sĩ nổi tiếng gan dạ và có tài đánh du kích đất miền Tây. Nếu không bị lừa thì làm sao một tiếu đội Bảo an có thể bắt được vị tướng Hoà Hảo đa mưu túc trí cùng với năm hộ vệ của ông ta. Sự thật thì ông Thơ chỉ muốn lừa Lê Quang Vinh về để đầu hàng chính phủ cho yên miền Tây, nơi quê hương của ông, không ngờ ông Diệm phản lại những lời đã hứa, ra lệnh cho toà án xử tử Lê Quang Vinh.
Sau cách mạng 1-11-63 ông Thơ cho tôi biết sở dĩ Lê Quang Vinh bị bắt ngày 13 - 4 - 1956 mà toà án quân sự và toà thượng thẩm Sài gòn xử xét đi phúc lại (đến 4 lần) cho đến ngày 6 - 7 - 1956 toà án quân sự Cần Thơ mới xét xử một lần chót là vì ông Diệm đã nhiều lần dụ Lê quang Vinh theo đạo thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sài gòn và sẽ' được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng. Nhưng vị tướng “Mạnh Hoạch” vùng linh địa Thất Sơn nhất định giữ lấy nền đạo của Đức Thầy, vị giáo chủ mà ông vô cùng ngưỡng mộ và kính phục. Do đó ông ta đã bị ông Diệm ra lệnh cho toà án quân sự Cần Thơ phải: "Tuyên án tử hình, tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản". Tướng Lê Quang Vinh bị hành quyết ngày 13-7-1956 tại nghĩa địa Cần Thơ. Lúc chết ông mới 32 tuổi, trối trăn dặn vợ nuôi con cái nên người và xin được chôn ở núi Sam, Châu Đốc
Phải chăng từ cái chết của Lê Quang Vinh mà từ sau khi rời bỏ chính quyền, (vào thời mà tôn giáo Hoà Hảo được phục hồi) cựu Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ở luôn Sài gòn cho đến qua đời, không dám trở về Long Xuyên nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông có một ngôi biệt thự vô cùng huy hoàng và có một trăm mẫu ruộng.
Dẹp yên được Năm Lửa và Lâm Thành Nguyên, diệt được Ba Cụt Lê Quảng Vinh là chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động đối lập võ trang nguy hiểm tại miền Nam trừ những toán võ trang lẻ tẻ không đáng kể.
Tuy nhiên, tại miền Trung, vấn đề trở thành phức tạp và khó khăn hơn nhiều vì những lực lượng chống đối ông Diệm không phải là tay sai của Pháp mà là những đảng cách mạng đã từng xả thân đấu tranh vừa chống cộng vừa chống Pháp và đã có lúc ủng hộ ông Diệm trong và sau những nỗ lực vận động nắm chính quyền của ông. Tuy nhiên cuối cùng, chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị của đảng Đại Việt bị đánh tan. Chiến khu Nam Ngãi của Việt nam Quốc Dân Đảng bị ông Diệm ra lệnh cho sư đoàn Nùng càn quét dã man trong những năm 1955 - 1956 ở các quận Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên nhưng vẫn không tiêu diệt được lực lượng có quá nhiều kinh nghiệm chiến trường và lòng yêu nước nồng nàn này cho nên khi ông Ngô Đình Cẩn phải dùng thủ đoạn “đoàn kết thoả hiệp" mới lôi kéo được đơn vị võ trang gần 200 tay súng về hợp tác để sau đó cấp lãnh đạo chính trị, quân sự của họ đều bị tù đày.
Ngoài ra phải kể đến vua Bảo Đại, người đã bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, người đã từng một thời được ông Diệm tung hô vạn tuế khi ông còn làm quan Nam Triều. Với Bảo Đại, ông Diệm đã phải dùng đến những hình thức đấu tranh có vẻ dân chủ hơn qua một cuộc Trưng cầu dân ý (23-10-1955) để biểu diễn cho chính phủ và Quốc hội Hoa kỳ lúc bấy giờ đang thẩm định khả năng cai trị của ông. Ý nghĩa của cuộc truất phế này đã được ông Đoàn Thêm phân tích rõ ràng trong cuốn Những ngày chưa quên(Sài gòn, 1969) nhưng tôi cũng xin sẽ bổ túc và triển khai trong chương 6 vì những oái oăm lịch sử của biến cố này.
Như vậy, từ năm 1956, ông Diệm bây giờ đã là một Tổng thống hợp hiến và hợp pháp của một quốc gia Việt nam theo chế độ cộng hoà (dù ngày 26 tháng 10 năm 1955 mới chỉ ban hành hiến ước tạm thời), có cường quốc số một thế giới Hoa kỳ ủng hộ và có đại đa số quần chúng miền Nam Việt nam sẵn lòng sống chết với ông. Thực dân Pháp đã biến mất, Cộng sản miền Bắc là mối đe doạ minh nhiên và tức thời, cho nên toàn dân đoàn kết sau lưng ông để đương đầu với mối hoạ mới.
Công việc đầu tiên là cải tổ hai định chế lớn khi phối sinh hoạt quốc gia là bộ máy công quyền và bộ máy quân đội. Với sự yểm trợ về ngân quỹ về kế hoạch của Mỹ, ông biến quân đội Việt nam cộng hoà thành một thứ quân đội Hoa kỳ bản xứ, ít nhất là trên mặt hình thức và điều hành. Hệ thống tổ chức, quân phong, quân kỷ, quân nhu, quân dụng, cho đến những chi tiết nhỏ nhặt như cách chào, đôi giày trận, khẩu phần ăn... đều đến từ và theo khuôn mẫu Hoa kỳ.
Hiến pháp Việt nam ra đời, hiến pháp có một điều bất hủ rất phản dân chủ là "Tổng thống lãnh đạo quốc gia” cũng đã quy định tính cách phân quyền và xác định những định chế ở thượng tầng để quản trị đất nước. Viện trợ Hoa kỳ và sự yểm trợ của các nước trong thế giới tự do đã nâng uy tín cua ông lên cao.
Như vậy, từ nay, nhiệm vụ của tôi trên toàn Phân khu Duyên hải (gồm bốn tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận) sẽ gồm không những giữ gìn an ninh địa phương này mà còn về mặt chính trị, phải xây dựng cho quần chúng một ý thức chính trị vững mạnh mà nội dung là ủng hộ chế độ cộng hoà. Trước 1945, tôi có qua lại Nha Trang nhiều lần trong các chuyến đi công tác cho ông Ngô Đình Diệm khi còn hoạt động cho phong trào Cường Để. Lúc bấy giờ, đầu óc còn những suy tư về những hoạt động cách mạng bí mật và nguy hiểm vả lại tuổi còn trẻ nên tôi chưa nghĩ đến việc an cư lạc nghiệp cho gia đình. Nhưng từ năm 1953, khi được đổi về miền thuỳ dương gió miền cát trắng, làm đại diện cho quân khu II, tôi có nhiều thì giờ quan sát dân tình cảnh trí tỉnh Khánh Hoà hơn, tôi có ý định chọn Nha Trang làm quê hương. Ý định này trở thành quyết định vì sau ngày chia cắt đất nước vào tháng 7 năm 1954, tôi linh cảm thấy ngày trở lại nơi chôn nhau cắt rốn vùng tả ngạn sông Gianh quả thật xa vời. Sau những năm tháng lê gót khắp mọi nẻo đường đất nước, tôi thấy Nha Trang quả là nơi đất lành chim đậu có thể làm nơi sinh sống vĩnh viễn cho vợ con, làm nơi thừa hưởng cho mình khi tuổi đã về chiều. Tôi say mê Nha Trang, quyến luyến Nha Trang vì Nha Trang không khép kín u buồn như Cố đô Huế, không cô đơn lạnh lùng như Đà Lạt, không náo nhiệt xô bồ như Sài gòn. Tôi yêu Nha Trang vì cảnh non nước trời mây tình tứ Nha Trang sống động mà không suồng sã, mộng mơ mà không sầu não, một thành phố trung bình nhưng thanh lịch.
Ngay trước cả thời chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, phong cách Nha Trang nổi tiếng là tình tứ với hàng dương liễu dịu dàng trên một bờ biển cát trắng nước xanh, dân tình Nha Trang nổi tiếng là hiền hoà đôn hậu, chỉ biết khai thác đất cha biển mẹ làm phương kế sinh nhai. Vào đầu thế kỷ thứ 19, khi nhà bác học Pháp là Yersin đến định cư tại đây thành lập viện Pasteur để nghiên cứu thêm về vi trùng học trên các bệnh của miền nhiệt đới thì Nha Trang được chỉnh tu lại vừa đủ như một cô gái quê xinh đẹp điểm thêm một chút phấn hồng để trở thành một thành phố có hấp lực lôi cuốn khách nhàn du. Nhưng từ khi đất nước qua phân, ông Diệm về nước, thì Nha Trang bỗng vươn mình trở nên một "thành trì cách mạng" sôi động đến nỗi ông Ngô Đình Nhu, cha đẻ và lãnh tụ đảng Cần lao nhân vị, phải đích thân đến đây để tổ chức việc thành lập Quân uỷ Trung ương của Đảng. Thật vậy, lúc bấy giờ, chỉ độ một tuần sau ngày thành lập nền cộng hoà (26-10-1955), cuộc truất phế Bảo Đại còn đang làm cho một số dân chúng miền Trung xao động, miền Hậu Giang còn khói lửa mịt mù, tân nội các còn đối phó với bao nhiêu việc trọng đại... thế mà ông Nhu đã bỏ thủ đô vội vã đến Nha Trang để xúc tiến công tác này trong vùng trách nhiệm của tôi. Quả là một vinh dự cho Nha Trang và cho riêng tôi.
Không ai được biết đảng Cần lao được thành lập vào lúc nào ngoại trừ một thiểu số rất nhỏ nòng cốt của đảng này, nhưng ai cũng biết là từ lúc chưa nắm được chính quyền ông Nhu đã cổ xuý và nhiều lần đề cập đến một đảng bí mật làm rường cột cho chế độ. Là một người nghiên cứu và chịu ảnh hưởng phần nào đến lý thuyết của Mao Trạch Đông, ông Nhu cũng chủ trương quản trị và lãnh đạo quốc gia theo phương trình Lãnh tụ - Đảng - Nhà nước - Nhân dân, nhưng điều làm ông Nhu không ngờ tới là ông đã theo phương trình này một cách quá lý thuyết nên sau này thực tế đã cắt miền Nam thành hai vùng chính trị khác nhau, lúc thì có ranh giới rõ ràng lúc thì lẫn lộn vào với nhau với nhiều mâu thuẫn sâu đậm: Hai lãnh tụ Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, hai đảng Cần lao miền Trung và Trung ương, hai nhà nước có hai bộ máy công quyền với những nhân sự và phương thức quản trị khác nhau, và hai loại nhân dân chạy theo hay chống lại chế độ. (Sẽ nói rõ hơn trong chương IX: Đảng Cần lao).
Tôi nhận lãnh nhiệm vụ Tư lệnh Phân khu Duyên hải được độ hai tháng thi trung uý Lê Quang Tung và Nguyễn Văn Châu từ Huế vào gặp tôi cho tôi biết hai Cậu (lúc bấy giờ Tung và Châu gọi hai ông Nhu và Cẩn bằng Cậu) phái họ vào Nha Trang để thảo luận với tôi về việc tiến hành thành lập Quân uý Trung ương của đảng Cần lao. Tôi hỏi vì sao không lập ở Sài gòn cho gần Trung ương của đảng hoặc ở Huế cho đông nhân sự nòng cốt trung kiên mà lại ở Nha Trang thì Châu trả lời vì "thượng cấp và anh em đều công nhận quân nhân Nha Trang có trình độ giác ngộ chính trị sâu có tinh thần đấu tranh cao, lại trung thành triệt để với lãnh tụ Ngô Đình Diệm". Rồi họ không tiếc lời khen tôi là người có công lớn trong việc xây dựng "thành trì cách mạng" tại bốn tỉnh miền Trung để làm thí điểm.
Điều làm tôi thắc mắc lúc đó là tôi không biết gì về đường lối và sách lược chính trị của đảng Cần lao, lại càng không biết gì về vai trò và nhiệm vụ của bộ phận quân uỷ trong sách lược của đảng cũng như trong sách lược chung của quốc gia. Như vậy ba lý do mà họ trả lời trên kia thật ra chỉ gồm trong điều cuối mà còn bị giới hạn nữa, nghĩa là không phải toàn quân, toàn dân Nha Trang mà chỉ "Cán bộ trung thành triệt để với lãnh tụ Ngô Đình Diệm". Vì tôi chỉ thấy đó là tiêu chuẩn duy nhất để kết hợp và phân nhiệm đảng viên nên sau ba ngày hội họp và đúc kết thành quả, khi toàn thể anh em bầu tôi là Chủ tịch Quân uỷ đảng Cần lao tôi liền viện ra một số lý do, công cũng như tư, để nhất quyết từ chối chức vụ này cũng như từ chối bất kỳ chức vụ nào trong Trung ương Quân uỷ.
Cuối cùng khi có sự can thiệp của ông Nhu và nhất là chính vì sự hiện diện đặc biệt của ông nên tôi đành phải nhận thức uỷ viên Trung ương cũng như Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh quân khu II và đại tá Tôn Thất Xứng (vắng mặt trong buổi họp) Chủ tịch Quân uỷ do trung uý Nguyễn Văn Châu (sau này là giám đốc Nha chiến tranh tâm lý, hiện sống ở Pháp) và Phó chủ tịch do trung uý Lê Quang Tung (sau này là Tư lệnh Lực lượng đặc biệt) đảm nhiệm. Đó là hai sĩ quan trẻ có những điểm chung rất nổi tiếng trong quân đội về tinh thần địa phương quá khích, về thái độ mộ đạo cuồng tín và về quyết tâm phục tùng vô điều kiện mệnh lệnh của anh em ông Ngô Đình Diệm mà từ nay tất cả quân nhân của quân đội - từ Đại tướng đến binh nhì - sẽ bị chi phối về mặt lập trường chính trị và sẽ bị điều khiển về mặt công tác chính trị.
Sau buổi họp ông Nhu trở lại Sài gòn, các đồng chí trở về nhiệm sở cũ. Kết quả của buổi họp và hình thức cũng như nội dung của buổi họp không gây được một xúc cảm đặc biệt nào ngoại trừ cái tình cảm to lớn mà tôi đã có từ lâu là dân tộc ta, suốt cả thế kỷ này, đã chịu biết bao thống khổ điêu linh, nay được sống và tham dự vào công cuộc xây dựng một nền cộng hoà có tự do, có dân chủ và có phúc lợi cho toàn dân.
Chưong 6
Bảo Đại và Ngô Đình Diệm

Trên mặt lý thuyết, lúc bấy giờ miền Nam có thể trở thành một nước theo chế độ quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật, Hà Lan, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha, Thái Lan...) nghĩa là giữ lại thực thể hoàng gia như một biểu tượng quốc gia vô quyền và vô hại để tránh một biến đổi quá độ trong xã hội đóng kín và bảo thủ như xã hội ta, hoặc có thể trở thành một nước theo chế độ cộng hoà Đại nghị (như Pháp, Mỹ...) để dứt khoát hẳn với nền quân chủ quá khứ và trao quyền làm chủ cho người dân. Đó là trên mặt lý thuyết. Trên thực tế, quần chúng đã lựa chọn rồi vào ngày 30 tháng 4 năm 1955 tại Toà đô chánh Sài gòn qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cách mạng, nghị quyết đòi truất phế Bảo Đại và tạm thời trao quyền lãnh đạo đất nước cho ông Diệm trong lúc chờ đợi Hiến pháp và Quốc hội định đoạt chế độ tương lai của đất nước. Đó là một nghị quyết lịch sử, phát xuất trung thực từ ước vọng của quần chúng.

Tuy nhiên vì cái nghị quyết hợp lòng dân và hợp thời đại nhưng không hợp ý anh em ông Diệm nên anh em ông và mưu sĩ Trần Chánh Thành phải dùng đến thủ đoạn phản trắc để phân hoá, bẻ gẫy và hạ uy tín Hội đồng hầu cướp lấy chính quyền mà không cần chờ đợi những qui định Hiến pháp và Quốc hội. Ngày 10 tháng 5, anh em ông Diệm đơn phương thành lập chính phủ chính thức gồm toàn người tay chân và những kẻ đầu hàng, không cần hỏi ý kiến của Hội đồng, cũng không có một nhân vật nào của Hội đồng được mời tham dự chính phủ đó.
Hội đồng nhân dân cách mạng do ông Nguyễn Bảo Toàn làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn làm Phó, và ông Nhị Lang giữ chức Tổng thư ký nhưng Hội đồng còn có một ban thường vụ cũng do ông Toàn kiêm chức Chủ tịch với các uỷ viên là: Văn Ngọc, Hà Huy Liêm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thuỵ, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh ý, Đoàn Trung Còn, Nguyễn Văn Quyền, (Bốn nhân vật Nhị Lang, Hoàng Cơ Thuỵ, Huỳnh Minh ý, Nguyễn Hữu Khai hiện có mặt tại Mỹ và Pháp). Để đạt mục đích nắm chặt chính quyền, anh em ông Diệm bèn ra lệnh cho nhóm uỷ viên thân tín là Hà Huy Liêm, Huỳnh Minh ý, Nguyễn Hữu Khai... cầm đầu thành phần thân ông Diệm trong Hội đồng gây lủng củng, chống đối nội bộ. Đồng thời anh em ông Diệm kết tội Hôi Đồng qua Tổng thư ký Nhị Lang là đã thâm lạm biển thủ số tiền trên một triệu đồng, số tiền mà ông Diệm (qua Bộ Thông tin) đã cấp cho Hội đồng hoạt động.
Kẻ viết không dám nói rằng ông Nhị Lang và Hội đồng đã thâm lạm biển thủ tiền bạc nhưng trong bối cảnh loạn lạc lúc bấy giờ thì sự chi tiêu của Hội đồng thật khó mà chứng minh bằng giấy trắng mực đen. Huống chi số tiền bạc thất thoát thì cũng đã có phần sử dụng cho việc cứu vãn địa vị ông Diệm qua cơn sóng gió ngặt nghèo.
Trước hành động phản bội của anh em ông Diệm, ông Nguyễn Bảo Toàn bèn từ chức Chủ tịch Hội đồng để phản đối ông Diệm. Bị hăm doạ, ông lui vào bóng tối trong lúc Phó chủ tịch Hồ Hán Sơn trồn về Tây Ninh và bị giết một cách bí mật. Dư luận lúc bấy giờ cho rằng ông Nhu đã mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương để ông này cho đàn em hạ sát Hồ Hán Sơn. (Sau này Nguyễn Thành Phương cũng bị Ngô Đình Diệm mua chuộc để phản lại giáo chủ Phạm Công Tắc mà rồi cuối cùng Nguyễn Thành Phương cũng bị Ngô Đình Nhu phản bội). Còn Tổng thư ký Nhị Lang, người đã từng cầm súng doạ bắn tướng Nguyễn Văn Vỹ để cứu ông Diệm, bị công an của tướng Nguyễn Ngọc Lễ và Bộ thông tin của Trần Chánh Thành đòi hỏi bắt bớ và làm khó dễ. Tuy các mưu sĩ Ngô Đình Nhu, Trần Chánh Thành có hạ nhục Nhị Lang (nghĩa là gián điệp hạ nhục Hội đồng) nhưng rồi cũng nương tay vì sợ mang tiếng phản bội quá trắng trợn. Tuy nhiên Nhị Lang vốn là người có kinh nghiệm đấu tranh và trước cái chết khả nghi của tướng Trịnh Minh Thế lại sợ Ngô Đình Nhu lắm thủ đoạn nên vội vã trốn lên Cao Miên làm kẻ lưu vong để cùng với những người lưu vong khác hoạt động chống nhà Ngô. Ngoài ra luật sư Hoàng Cơ Thuỵ vốn hết lòng ủng hộ ông Diệm từ khi ông Diệm mới về nước nhưng trước thủ đoạn của Ngô Đình Nhu cũng trở thành người đối lập quyết liệt với chế độ Diệm.
Dòng họ Ngô Đình vốn quê làng Xuân Dục, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình và theo Thiên chúa giáo từ thế kỷ 17. Trong giai đoạn quân Pháp đánh chiếm Trung kỳ và Bắc kỳ (khoảng 1870), khi phong trào Văn thân nổi lên chống Pháp cứu nước và phát động chiến dịch giết Đạo thì dòng họ Ngô Đình phải bỏ làng Xuân Dục phủ Quảng Ninh mà di cư về làng Đại Phong thuộc huyện Lệ Thuỷ cùng tỉnh Quảng Bình, nơi có nhiều Thiên chúa giáo hơn tại Quảng Ninh.
Theo những bô lão ở Quảng Bình thì nội tổ của ông Diệm thuộc vào hàng bần dân khốn khổ. Ký giả Robert Shaplen xác định rõ ràng hơn rằng nội tổ của ông Diệm sinh sống bằng nghề chài lưới cho đến đời thân phụ của ông Diệm là cụ Ngô Đình Khả, nhờ quân Pháp đánh chiếm và bình định được tỉnh Quảng Bình, nên liên hệ được các vị cố đạo để được các giáo sĩ cho đi học chữ Hán và chữ Pháp tại một trường dòng ở Penlang (Mỹ Lai). Trong đám du học sinh này còn có ông Nguyễn Hữu Bài, người Công giáo quê Quảng Trị, một nhân vật thủ đoạn và có cùng một cảnh ngộ thơ ấu bần hàn như cụ Ngô Đình Khả.
Hai ông Khả và Bài sau khi học xong được người Pháp đưa về nước và cho làm thông dịch viên ở toà Khâm sứ Huế. Thời bấy giờ số người Việt nói và viết được tiếng Pháp còn rất hiếm hoi, nhất là ở Trung kỳ, hai ông lại được Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp đặc biệt nâng đỡ nên đã được các viên chức cai trị Pháp trọng dụng và được triều đình An nam phong chức tước và phẩm hàm rất mau.
Năm 1855, khi phong trào Cần vương ở Quảng Bình nổi lên phò vua Hàm Nghi chống Pháp, cụ Ngô Đình Khả được quân Pháp và triều đình An nam cử giữ chức An - Phủ - Sứ về tỉnh nhà lo việc bình định và chiêu an dưới quyền điều khiển của đại tá Pháp Duvillier, uỷ viên chính phủ vùng Bắc xứ Trung kỳ. Một nhà văn cũng là nhà viết sử bạn của tôi chuyên nghiên cứu về phong thổ miền Trung thuộc nhà Nguyễn, năm 1945, lúc đang ở Quảng Bình, thâu nhập được một tờ báo cáo viết tay của cụ Ngô Đình Khả gởi cho công sứ Pháp Quảng Bình trình bày kết quả của cuộc bình định tỉnh này. Năm 1956, nhân viên làm việc tại Nha Văn Hoá Bộ Giáo dục, ông bạn của tôi vào dinh Độc lập tặng tờ báo cáo đó cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhìn thấy bút tích của thân phụ, ông Diệm mừng lắm ngỏ lời khen ngợi và cảm ơn bạn tôi, ông Diệm còn nói thêm: "Trong việc bình định tỉnh Quảng Bình, thầy tôi không dùng đến quân sự mà chỉ đem heo gạo lên núi chiêu dụ những kẻ chống đối về với chính phủ”. Dù bình định bằng võ lực hay bằng chiêu dụ thì hành động của cụ Ngộ Đình Khả cũng là làm tay sai cho Pháp trong việc đàn áp Phong trào Kháng Chiến chống thực dân xâm lăng của dân tộc.
Năm 1887, vua Đồng Khánh băng hà sau ba năm trị vì ngắn ngủi, người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương (gồm bốn đơn vị hành chính: Cochinchine, An nam, Tonkin, và Cambodge. Vương quốc Lào được sát nhập sau đó vào năm 1893) để thống nhất các cơ cấu hành chính, đồng thời áp lực với triều đình An- Nam để lập con của ông Dục Đức là Bửu Lân lên làm vua, hiệu là Thành Thái.
Vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi nên triều đình cử hai vị đại thần là Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đáng làm Phụ chánh. Riêng cụ Ngô Đình Khả, nhờ có công dẹp được các cuộc nổi loạn chống Pháp ở tỉnh Quảng Bình, nhờ có liên hệ chặt chẽ với các giới chức Pháp cả bên chính quyền lẫn bên Hội truyền giáo nên được cứ vào chức Cận thần mang hàm Thượng thư bên cạnh vua Thành Thái, đồng thời người Pháp cũng vận động đề cử Nguyễn Hữu Bài làm Thượng thư Bộ Công. Hai nhân vật này dù không xuất thân từ nơi khoa giáp và không thăng chức theo hệ thống quan trường mà vẫn một bước nhảy vọt nắm giữ những chức vụ tối quan trọng với những phẩm hàm cao cấp nhất là vì người Pháp với sức mạnh toàn quyền trong tay muốn có những người thân tín là cụ Khả để kiểm soát nhà vua và cụ Bài để kiểm soát triều đình.
Tuy nhiên trong lúc con đường quan trường của ông Nguyễn Hữu Bài kéo dài cho đến thời già cả (trên 70 tuổi) mà chức vụ cuối cùng là Thượng thư đầu triều hàm Võ Hiển Đại học sĩ, thì công danh của ông Ngô Đình Khả lại nửa đường đứt gánh. Theo tổng thống Diệm kể lại cho ký giả Shaplen trong một cuộc phỏng vấn dài 6 tiếng đồng hồ tại dinh Gia Long năm 1962 thì thân phụ của ông mất chức vì người Pháp nghi ngờ cụ Khả có liên hệ đến một âm mưa chống Pháp, vì cụ Khả đã chống lại việc người Pháp đã truất phế và đày vua Thành Thái. Nhưng theo bạn của tôi và những vị cựu quan lại, những nhân vật thuộc Nguyễn Phước Tộc kể lại việc ông Khả bị mất chức thật ra là vì lúc còn cận thần ông đã tự động dựng một ngôi giáo đường trong Hoành thành trái với bầu không khí và màu sắc hoàn toàn Tam giáo nơi cung cấm của nhà Nguyễn và bất cần những lời phản đối của các vị quan khác và Hoàng Gia. Vì thế mà nhân cơ hội vua Thành Thái bị truất phế, triều đình hạch tội ông Ngô Đình Khả đã khinh mạn Hoàng gia, giáng ông xuống ba cấp và cho về hưu non. Thật ra thì vụ xây ngôi giáo đường chỉ là một cái cớ, cái cớ cuối cùng và cụ thể nhất của một chuỗi dài những mâu thuẫn và xung khắc của nhiều thế lực. Nguyên Khâm sứ Trung kỳ lúc bấy giờ là Lévéque, thuộc hội Tam- Điểm (Frane-Nacon), có khuynh hướng chống sự bành trướng quyền lực của Hội Thánh Thiên chúa giáo và cũng thường có thái độ khinh mạn nhà vua và triều đình An-nam. Với tư cách là khâm sứ Trung kỳ y có toàn quyền trực tiếp hay gián tiếp quyết định bổ nhiệm, thay đổi hay cách chức các quan lại An-nam. Ông Ngô Đình Khả hội đủ hai yếu tố cho Lévéque khinh ghét: quan lại và Thiên chúa giáo, lại không được các bạn đồng liêu bênh vực nên khi vua Thành Thái bị truất phế ông không còn tư cách gì để làm cận thần, và Hội truyền giáo cũng không đủ sức mạnh để cứu ông khỏi bị Levéque vận động với một triều đình sẵn sàng đuổi ông về.
Do đó, ngôi giáo đường trong Đại Nội chỉ là cái cớ có thật cuối cùng. Và cũng do đó, tiếng đồn rằng vì "Đày vua không Khả" nên ông Ngô Đình Khả bị mất chức cũng chỉ là tiếng đồn được phóng đại thêm vì rõ ràng chính cụ Nguyễn Hữu Bài, vừa không chịu ký giấy đào mồ vua (Đào mả không Bài), lại vừa công khai bênh vực Kỳ ngoại hầu Cường Để, một hoàng thân quốc thích có khuynh hướng và hành động chống Pháp rõ rệt, mà vẫn thăng quan tiến chức mau lẹ và nắm giữ giềng mối triều đình mấy chục năm trời.
(Tuy nhiên, phải nói thêm rằng quyết định ủng hộ Kỳ ngoại hầu Cường Để của ông Bài lúc đó, và cả ông Diệm của những năm 40 sau này, chỉ phản ánh chiến lược chính trị của Hội truyền giáo Hải ngoại muốn phục hồi chi hệ của Hoàng tử Cảnh, vị hoàng tử đã được giám mục Pingeau de Behaine đỡ đầu theo Thiên chúa giáo và bị vua Minh Mạng biếm vị từ cả gần thế kỷ rưỡi trước).
Theo cụ Trương Văn Huê, một nhân sĩ lão thành Thiên chúa giáo tại Phú Cam, nơi gia đình ông Ngô Đình Khả trú ngụ thì khi bị giáng chức rồi về hưu sớm, cụ Khả thường mặc đồ nâu, quần ống cao ống thấp, chân đi guốc gỗ và thường đến ngồi trước sân nhà thờ Phú Cam, miệng lẩm cẩm chửi bới đích danh các vị quan tại triều. Thái độ hằn học một cách sống sượng với các vị đại thần này phản ánh một tình cảm căm thù vì quyền lợi mất mát, đường tiến thủ bị bế tắc hơn là, và đáng lẽ là một tình cảm kiêu hãnh vì giữ tấm lòng trung trinh không chịu đày ải vị vua của mình.
Khi về hưu, cụ Ngô Đình Khả tạo được một ngôi nhà lầu tại Phú Cam, một mảnh vườn khá rộng và mấy mẫu ruộng ở cánh đồng An Cựu gần thành phố Huế. Cụ Khả có 8 người con: 6 trai và 2 gái, con trai là các ông: Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, và Ngô Đình Luyện. Hai người con gái là bà Ngô Thị Giáo tức là thân mẫu của đức cha Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Thị Hiệp, nhạc mẫu của Bộ trưởng Bộ quốc phòng Trần Trung Dung. Ông Ngô Đình Diệm sinh tại Huế ngày 3 tháng Giêng năm 1901 (năm Canh Tý), ra đời khi thân phụ còn làm quan tại triều, nhưng lại trưởng thành khi gia đình không còn được sung túc vì cụ Khả đông con mà lại về hưu sớm. Lớn lên ông Diệm vào trường tư thục Công giáo Pellerin tại Huế, đỗ bằng Thành Chung tức bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp sau này, ròi thi vào trường Hậu Bổ dưới triều vua Khải Định, một vị nổi tiếng Việt gian.
Muốn được vào trường Hậu Bổ thí sinh chỉ cần có học lực ngang cấp tiểu học nhưng phải có trình độ căn bản về Hán học. Thời gian học là ba năm có nghỉ hè, nghi lễ theo niên khoá của các trường phổ thông. Khi ra trường, thí sinh phải có trình độ ngang với cấp bằng trung học đệ nhất cấp ngoại trừ có thêm môn Kinh nghĩa, thi phú và môn luật bằng Hán văn.
Rõ ràng vua Khải Định, một ông vua nổi tiếng Việt gian, đã cùng với thực dân Pháp trong buổi giao thời Hán - Việt tây ta lẫn lộn, cải đổi trường Quốc Tử Giám, nơi đào tạo quan trường theo tinh thần "Cần, Kiệm, Liêm, Chính" của đạo lý Khổng Mạnh thành ra trường Hậu Bổ, nơi khai sinh một số người thừa hành của Nam trêu để phục vụ cho bộ máy cai trị của chế độ bảo hộ Pháp. Từ thời đó cho đến ngày tàn của thực dân vào năm 1945, việc thăng quan tiến chức của một ông quan An nam tuỳ thuộc vào ba yếu tố: Thứ nhất là phải có lòng trung thành tuyệt đối với mẫu quốc Pháp, lập được nhiều công trạng cho chế độ Bảo hộ. Thứ hai là phải có liên hệ thân thiết với nhà vua và các vị địa thần. Thứ ba là phải có tiền lo lót cho cấp trên. Lịch sử còn cho thấy dưới triều vua Khải Định có nhiều ông quan dâng vợ, dâng con gái cho quan Tây để mau lên chức, mau làm quan lo.
Lẽ dĩ nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt mà một vị quan, dù ở bậc Thượng thư hay chỉ có hàm Cửu phẩm, thu đạt được địa vị của mình không nhờ ba yếu tố kể trên mà nhờ chính thực tài và sự ngay thẳng của mình. Tuy nhiên, biệt lệ này quả thật hiếm hoi.
Ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ trường Hậu Bổ đó và được làm quan dưới triều Khải Định, Cụ Tôn Thất Toại, vị Thượng thư trí sĩ bạn vong niên của kẻ viết, từng hoạt động hăng hái cho Phong trào Cách mạng quốc gia ở Nha Trang và là cựu dân biểu khoá I thời Đệ nhất cộng hoà, cho biết rằng cụ và hai ông Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm vốn là bạn chí thân cùng học ở trường Pellerin và trường Hậu Bổ. Nhưng khi học xong thì tất cả những sĩ tử chỉ được bổ vào các ngạch tập sự, riêng một mình ông Diệm là được bổ ngay vào chức Tri huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Trong ngạch quan lại thời đó, mỗi chức vụ phải qua ba, bốn cấp mỗi cấp phải có ít nhất ba năm thâm niên, thế là ông Diệm lại thăng quan tiến chức mau như diều gặp gió, một đặc cách vượt bực không ai có trừ những nhân vật làm quan tắt như ông Phạm Quỳnh chẳng hạn. Năm 23 tuổi, ông Diệm làm Tri huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), lên Tri phủ Hải Lăng (Quảng Trị), lên Quản Đạo Ninh Thuận (tỉnh trưởng hạng nhỏ), lên Tuần Vũ Bình Thuận (tỉnh trưởng hạng trung). Năm 1933, lúc ông mới 32 tuổi, đước thăng lên Thượng thư Bộ lại, nghĩa là chức vụ đầu triều đứng trên hết hàng quan lại An nam. Chỉ trong vòng mười năm mà ông Diệm vượt hết mọi nấc thang hoạn lộ, việc mà những quan lại khác phải mất ít nhất là 30 năm trời. Ông Diệm chưa bao giờ ra Hà nội học trường Luật hay trường Quốc gia Hành chính như văn phòng báo chí phủ Tổng thống đã đưa ra để huyễn hoặc một số ký giả Việt nam và ngoại quốc lầm lẫn ghi vào sách báo của họ. Tuy nhiên, ông Diệm là một ông quan nổi tiếng cần mẫn thanh liêm.
Thời làm quan huyện quan tỉnh, ông bận áo gấm đội nón chóp đeo bài ngà, mỗi lần đi hành hạt thường cỡi ngựa để về các làng quê. Ông vừa làm quan cai trị vừa là quan Tư pháp, vừa làm nhiệm vụ cảnh sát giữ gìn trật tự an ninh cho địa phương do ông cầm đầu dưới sự giám sát của quan công sứ Pháp và theo chánh sách của chế độ bảo hộ Pháp. Nhiệm vụ đặc biệt của ông quan huyện quan tỉnh lúc bấy giờ là đốc thúc dân chúng trong việc nạp thuế má và ngồi ở công đường xét xử các vụ kiện cáo của dân trong quản hạt. Thời làm quan, ông Diệm đặc biệt có tài khám phá nhiều tổ Cộng sản hoạt động bí mật nên được chính phủ Bảo hộ rất tín nhiệm do đó mà mới 29 tuổi ông đã được thăng lên chức Tuần Vũ Bình Thuận và sau đó ông thăng chức Thượng thư Bộ Lại như đã nói trên kia.
Nhưng trong lúc ông Diệm là một vị quan lại thanh liêm thì người anh ruột ông là Ngô Đình Khôi làm Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam, một tỉnh lớn thứ hai của triều đình An nam, của xứ Trung Kỳ, lại là một vị quan mang tiếng tham quan ô lại và có tác phong bê bối. Dư luận còn nói rằng ông Khôi tằng tịu với vợ con thuộc cấp. Dư luận còn nói rằng sở dĩ ông Khôi thích ăn hối lộ kể cả những món tiền rất nhỏ vì ông rất cần tiền để gởi cho hai người em ăn học ở Pháp. Những dư luận trên đây vẫn còn được các bậc cao niên quê tỉnh Quảng Nam hiện nay ở hải ngoại kể lại mỗi khi nhắc đến chuyện xưa cũ nơi quê nhà... Ông Ngô Đình Cẩn, thời ông Diệm chưa cầm chính quyền cai trị miền Nam có kể lại cho chúng tôi nghe rằng sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, ông Diệm thường vào Quảng Nam ở chơi với ông Ngô Đình Khôi, có lần thấy tư cách bất chính của anh mình ông giận lắm bèn đi bộ từ Hội An ra Đà Nẵng (40 cây số) lấy vé tàu hoả để về Huế rồi gởi thư trách móc anh mình thiếu tác phong của một bậc "dân chi phụ mẫu".
Việc thăng quan tiến chức vượt bực của anh em nhà họ Ngô Đình làm cho giới quan trường vừa ganh tức vừa khinh bỉ. Họ làm thơ đế chế giễu “vây cánh” nhà Ngô sở dĩ tiến mau trên đường lợi danh là chỉ nhờ thế thần vây cánh:
Làm quan nam triều
Lênh đênh chiếc bánh buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nắn hầu bao.
Chật trong bể hoạn thêm mình nữa,
Theo hết rừng "Hàn" biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đình ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.
(Ghi chú: "Rừng Hàn" là hệ thống phẩm trật "Hàn Lâm" trong ngạch văn giai của quan lại Nam Triều).
Những ai đã từng chịu khó theo dõi không khí và khung cách quan trường thời Mạt Nguyễn đều biết rằng tất cả các hàng quan lại, nhất là hàng quan cao cấp từ Tuần Vũ trở lên, không mấy ai thân yêu kính phục anh em nhà họ Ngô Đình. Thời bấy giờ những giòng họ có người làm quan to như họ Phạm, họ Võ, họ Thân - Trọng, Hồ Đắc, Trương Như, Nguyễn Khoa, Tôn Thất... đều coi anh em nhà họ Ngô Đình như người xa lạ, nếu không muốn nói là như kẻ thù. Sở dĩ có tình trạng đó là vì dòng họ Ngô Đình vừa theo đạo Thiên Chúa vừa không xuất thân từ hàng khoa giáp, không có trình độ học vấn cao mà chỉ vào thế lực của các cố đạo và các quan cai trị Pháp để được thăng thưởng mau lẹ. Đã thế, vì anh em họ Ngô lại khép kín, cao ngạo, nên rất tự nhiên mà giới quan lại ngấm ngầm chia rẽ ra hai phe, phe Phật giáo và phe Thiên chúa giáo.
Nếu tổng hợp sự kiện cụ Khả bị triều đình cách chức cho về hưu sớm, sự kiện có những bài thơ phổ biến trong nhân gian để chế giễu “phe” Ngô Đình, với lời phê phán của giáo sư Nguyễn Văn Xuân về tính thâm hiểm gian xảo của cụ Bài, và nhận định của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí về con người “thâm” của ông Ngô Đình Diệm ta có thể hình dung ra được nếp sống cách biệt với lề lối hành xử thiếu giao cảm của nhà Ngô Đình cũng như tình cảm nghi kỵ và ganh ghét của các bạn đồng liêu lúc bấy giờ.
Sở dĩ bước đường công danh của anh em ông Diệm ông Khôi thênh thang dễ dàng và thăng tiến mau lẹ và nhờ vào cột trụ Nguyễn Hữu Bài, vị tể tướng đứng đầu triều đình An nam, người đã được thực dân Pháp hun đúc từ ngày mới đi học ở trường Đạo Penang về, từ thời còn là thông ngôn ở toà Khâm sứ Huế. Võ Hiền Nguyễn Hữu Bài lại còn là nhạc phụ của ông Ngô Đình Khôi và là người đỡ đầu cho ông Ngô Đình Diệm. Chỉ có vị quan đầu triều thế lực tột đỉnh như Nguyễn Hữu Bài, người nắm toàn quyền giềng mối triều đình An nam trong lúc vua Bảo Đại còn bận du học ở Pháp mới có đủ quyền lực hoá phép cho ông Diệm mang đôi hia bảy dặm trên con đường hoạn lộ, để chỉ trong 10 năm mà từ Tri Huyện lên đến chức Thượng thư. Cũng chỉ có Nguyễn Hữu Bài mới có đủ uy thế để tiến cử ông Diệm với Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại thay thế mình về hưu dù ông Diệm tuổi còn rất trẻ, đù ông Diệm mới chỉ là Tuần vũ một tỉnh nhỏ. Cái gì đã tạo cho Nguyễn Hữu Bài uy quyền và sức mạnh để khuynh loát triều đình An nam lúc bấy giờ? Cái gì đã cho phép ông Nguyễn Hữu Bài một bước nhảy vọt lên làm Thượng thư đầu triều, quán xuyến mọi sinh hoạt triều chính để có thể đạp mọi thủ tục mà nâng người này lên hay đè người khác xuống trong khi khả năng thật sự và quá trình đóng góp cho triều đình của ông không đáng kể? Câu trả lời mà nhiều người biết gồm hai phần: Phần thứ nhất là cái trạng huống chung của đất nước thời Bảo Hộ mà định chế được gọi là "triều đình" chỉ là một cơ quan bất lực và vô quyền, ai có sức mạnh thì thao túng được. Và phần thứ hai là chánh Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp đã trao cho Nguyễn Hữu Bài cái sức mạnh vô địch của giáo quyền phối hợp với thế quyền của kẻ chiến thắng để, xuyên qua lá bài này, tiến hành chính sách Công giáo hoá Việt nam (gli affarê publici). (Lịch sử Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp gắn liền với lịch sử bành trướng của Pháp ở Đông Dương. Một sáng lập viên của Hội, Giáo sĩ Pallu, đã làm gạch nối giữa hai triều đình Pháp-Việt, Giáo sĩ Pingeau de Behaine sau đó thắt chặt thêm sợi dây liên lạc: sự can thiệp của những thành viên của Hội đưa đến cuộc can thiệp quân sự của Pháp tại Việt nam - theo Charles May bon Historie Monderne du Pays d'annam).
Nên từ thế kỷ thứ tư, lịch sử Giáo hội La mã đã có những vị Giáo hoàng như Silvester cấu kết với Hoàng đế Constantine để xây dựng Giáo hội (năm 314), đã có những Giáo hoàng như Leo khi chết để lại một chúc thư (năm 461) rằng Hội Thánh Thiên chúa giáo thì bất phân ly với đế quốc La mã và khi tốt cũng như xấu, chính là đế quốc La mã"... thì Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp, trong giai đoạn của một chính quyền Pháp còn sống với những ảo tưởng vàng son của một đế quốc oai hùng xa xưa, cũng đã hành xứ với đầy đủ uy lực trên mảnh đất Việt nam nghèo nàn xa xăm để phối hợp chặt chẽ chính sách thực dân (chính trị) với chính sách truyền giáo (tôn giáo).
Hãy đọc bản báo cáo của toàn quyền Beau gởi trình cho chính phủ Pháp nhân dịp tìm người kế vị vua Thành Thái thì đủ thấy thế lực của Nguyễn Hữu Bài, dù chỉ là một con cờ uỷ nhiệm bản xứ, nhưng cũng đã mạnh như thế nào:
... Ngày 3 tháng 9 năm 1907, tôi đến Huế để chứng kiến lễ thoái vị của vua Thành Thái. Viên chánh văn phòng của tôi liền đi thăm các quan đại thần của triều đình Huế để dò la cho biết tư tưởng của họ đối với thời cuộc Các vị này đêu công kích liệt tất cả nhân vật đưa ra, nhưng họ thận trọng không đề nghị một ai cả, chỉ cùng thốt câu sáo ngữ: "Chúng tôi sẽ đồng ý và hoan nghênh bất kỳ một ông vua nào mà chính phủ Bảo hộ tuyển chọn".
Riêng có Nguyễn Hữu Bài, Công bộ Thượng thư, có nói đến cái tên Cường Để và tỏ thái độ thẳng thắn ủng hộ. Ông ta làm tôi lưu ý vì ông có đạo Thiên Chúa, ý kiến của ông có thể đưa toàn thể thế lực ấy tán đồng (theo Thái Văn Kiểm, “Đất Việt Trời Nam”).
Nếu "ý kiến của ông có thể được Hội truyền giáo tán đồng” thì điều chắc chắn là ý kiến của Hội truyền giáo cũng sẽ được phản ảnh qua lập trường và hành động của ông Nguyễn Hữu Bài, mà chính quyền Bảo hộ Pháp cần lưu tâm đến.
Thế lực Hội truyền giáo mạnh mẽ như thế để cho ta thấy rõ vì sao khi mà Nguyễn Hữu Bài đã muốn là có thể xây dựng được uy thế cho một Ngô Đình Diệm từ thời ông Diệm còn là một sinh viên trường Hậu Bổ, vì sao Bảo Đại phải chấp nhận cho Ngô Đình Diệm làm Thượng thư Bộ Lại, và vì sao Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp khi đã muốn là có thể sắp đặt được để có một bà Hoàng hậu theo Thiên chúa giáo.
Về triều giữ chức Thượng thư Bộ Lại, ông Diệm đòi hỏi người Pháp phải thực hiện những cải cách xã hội như họ đã hứa với vua Bảo Đại. Những cải cách xã hội đại để gồm có những mục như:
- Triều đình An nam có toàn quyền bố cáo, thưởng phạt trong vấn đề nhân sự của Nam Triều.
- Triều đình An nam có ngân sách riêng, có tài chính riêng, tư pháp riêng.
- Mở rộng nền giáo dục.
- Thiết lập Viện Dân biểu.
- Người Pháp phải thực thi đúng đắn Hoà ước 1884, nghĩa là Hoà ước vẫn còn để cho Triều đình An nam (Trung Kỳ) một ít quyền hành nội bộ dù Hoà ước vẫn công nhận nền bảo hộ Pháp là điều kiện chính yếu.
Điều cần phải nói rõ là những dự định cải cách trên đây là do vua Bảo Đại đòi hỏi khi ông mới về nước và đã được người Pháp hứa hẹn. Những dự định cải cách này cũng đã được ông Phạm Quỳnh nguyên chủ bút Nam Phong đề nghị từ năm 1931 khi vua Bảo Đại chưa hồi loan. Phạm Quỳnh còn đi xa hơn là đòi hỏi việc sáp nhập Bắc Kỳ và Trung Kỳ vốn là hai xứ Bảo hộ riêng biệt thành một vương quốc có hiến pháp hắn hoi, nghĩa là chủ trương một nước Việt nam theo chế độ quân chủ lập hiến tự trị trong một Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp.
Còn ông Diệm thì vẫn trung thành với chính sách của người Pháp từ ngày ông làm Tri Huyện cho lên đến chức Tuần vũ tỉnh Bình Thuận. Cho đến khi được Bảo Đại cử làm Thượng thư Bộ Lại và được chỉ định cầm đầu “Uỷ ban Ban Cải Cách” ông mới đòi hỏi việc thi hành những cải cách mà người Pháp đã hứa với nhà Vua. Nhưng ông Diệm gặp phải phản ứng quyết liệt của Phạm Quỳnh, người của Sở Chính trị Pháp (Servic Civil) ông thất bại trong việc tranh chấp với ông Quỳnh nên chỉ làm Thượng thư Bộ Lại được 4 tháng thì phải xin từ chức.
Để giải thích sự tranh chấp có vẻ khó hiểu của hai vị Thượng thư cùng được đỡ đầu và được bảo vệ từ một nguồn thế lực là Pháp, ta cần thấy rõ bản chất thật sự của sự cấu kết giữa Hội truyền giáo Hải ngoại và chính quyền thực dân Pháp. Sự cấu kết đó dựa trên căn bản hỗ tương quyền lợi và quân nhân trách nhiệm: Thực dân Pháp phải nấp đàng sau những chiếc áo chùng thâm mới có được cái chính nghĩa “nhiệm vụ khai hoá” (missio civilisatriee): các tu sĩ Thiên chúa giáo phải được che chở bằng súng đạn của bộ máy xâm lược mới bình định được các cuộc thống ngoại xâm bản xứ để rao truyền đức tin của Chúa Ki tô. Đó là quyền lợi hỗ tương giữa giáo quyền và thế quyền mà lịch sử Giáo hội La mã và đế quốc sự sinh tồn của Giáo hội và chính Đức Giáo Hoàng John Paul II vào năm 1978 đã phải lên tiếng cảnh cáo rằng khói lửa của quỉ Sa tan đã tràn vào Giáo hội. Tuy nhiên, trong tiến trình cấu kết này, vấn đề quân phân trách nhiệm không phải lúc nào cũng minh bạch và được tôn trọng. Giáo hội đã có lúc vượt hạn chế để hành xử thế quyền cũng như các đế quốc cũng đã có lúc uy hiếp Giáo hội để khuynh loát giáo quyền.
Những va chạm dễ hiểu đó đã chạy dài suốt quá trình phát triển của Giáo hội La mã và các đế quốc Địa Trung Hải, và ở một kích thước nhỏ hơn nhưng rõ rệt hơn, đã thể hiện rõ ràng trong cuộc xâm thực văn hoá chính trị trên đất nước ta trong những triều đại nhà Nguyễn. Ví dụ hiển nhiên nhất là chính sách ngu dân của Pháp tìm đủ mọi cách để duy trì và khuyến khích các truyền thống và hình thái cổ tục của dân ta trong khi các vị truyền đạo lại tìm đủ mọi cách để đả phá và bài trừ những tục lệ cổ truyền đó của văn hoá dân tộc để dễ dàng len lỏi giáo lý Thiên Chúa giáo và tín ngưỡng dân ta.
Chính giám mục Puginier đã chủ trương trong 30 năm phải thực hiện cho xong công cuộc Công giáo toàn bộ Bắc kỳ để biến miền này thành một tỉnh quận của Pháp gồm toàn người Việt theo đạo Thiên Chúa, trong khi đó thì Toàn quyền Đông Dương Lanessan lại tìm cách gây cảm tình với người Việt, đối đãi với người Việt theo lễ phép và phong tục địa phương, nhiều khi còn long trọng đến dự lễ khánh thành các chùa đền, lăng miếu. Chính sách của Lanessan đã làm cho các giáo đoàn e sợ, vì thế giáo đoàn phải vận động để Lanessan bị mất chức và bị triệu hồi về Pháp.
Vì các viên chức cai trị Pháp ở Đông Dương không thể chịu đựng mãi sự thao túng của các vị cố đạo nên nhân dịp triều đình An nam chỉnh đốn nội bộ lúc vua trẻ Bảo Đại mới về nước, họ bèn đặt Phạm Quỳnh là người thân tín của họ vào để cản trở những kế hoạch của Hội truyền giáo mà ông Ngô Đình Diệm là đại diện. Trong cuộc tranh chấp này, Sở Chính trị không những chỉ phải lo đối phó với Ngô Đình Diệm mà còn muốn nắm vững bà Nam Phương Hoàng hậu vốn cũng là con bài của Hội truyền giáo, họ bèn đặt cạnh bà một người thân tín khác của họ làm bí thư, đó là ông Nguyễn Tiến Lãng, một thứ con nuôi của toàn quyền Robin. Thật ra không phải chỉ vì không đòi hỏi được những cải cách mà ông Diệm xin từ chức ngay, chứng cớ là hơn 10 năm làm quan Huyện quan Tỉnh, ông vẫn thi hành triệt để chính sách của người Pháp.
Vả lại dù sao thì ông Phạm Quỳnh cũng là một viên quan lại như ông mà còn kém cả phẩm hàm chức tước Đã vậy trong các cuộc tranh luận công khai, ông Diệm lại bị đàn áp về lý luận cũng như về ngôn ngữ trước tài hùng biện và kiến thức uyên bác của một Phạm Quỳnh vừa là nhà báo vừa là học giả.
Như vậy, việc ông Diệm từ chức Thượng thư rõ ràng phần lớn là do áp lực của người Pháp và Phạm Quỳnh. Riêng Bảo Đại, khi cho thu hồi bằng sắc, huy chương của ông Diệm chẳng qua cũng chỉ như ông Diệm, nghĩa là vì áp lực của thực dân mà chính Bảo Đại, trong công việc này, cũng tỏ ra bất mãn với người Pháp, tỏ ra luyến tiếc sự ra đi của một trung thần mà dòng họ đã ba đời khuông phò nhà Nguyễn, mà thế hệ anh em ông Diệm đã là thần tử tận tuỵ với tiên vương. Thế mà sau khi từ chức, ông Diệm lại phò Cường Để với ý đồ nhờ quân đội Nhật Bản lật đổ ngai vàng của Bảo Đại. Trước sự phản bội của ông Diệm, Bảo Đại vẫn không thù oán, vẫn nhớ đến cựu thần, hai lần đánh điện vào Sài gòn mời ông Diệm về lập chính phủ. Không ngờ người Nhật đã bỏ rơi lá bài Cường Để và Ngô Đình Diệm, và sau đó không chịu trao điện tín lại làm cho cuộc tái hợp vua tôi không thành tựu, và cũng do đó mà Bảo Đại phải mời học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Nhưng rồi Việt minh cướp chính quyền, Bảo Đại từ bỏ ngai vàng trở thành một công dân, rồi làm tối cao Cố vấn cho Hồ Chí Minh trong lúc Ngô Đình Diệm bị Việt minh đày ải nơi miền sơn cước, gần biên giới Hoa - Việt.
Giữa năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại về nước lãnh đạo quốc gia, đặt văn phòng tại Đà Lạt để tránh cái nghênh ngang của Cao uỷ Pháp đang ngự trị tại dinh Norodom.
Không lẽ Quốc trưởng mà lại ở dinh Gia Long, sao còn thể thống?
Người ngoài không ai biết được giữa ông Bảo Đại và ông Ngô Đình Diệm có liên lạc công khai hay bí mật nào không, nhưng một điều chắc chắn là ông bà Ngô Đình Nhu (vốn ở đường Hoàng Hoa Thám Đà Lạt) vẫn giao du với Quốc trưởng, đặc biệt là bà Nhu, mỗi tuần 3, 4 lần, có khi cả ban đêm, thường đến biệt điện số 1, nơi Quốc trưởng trú ngụ để dạy Quốc trưởng đàn dương cầm. Việc này thì nhân viên văn phòng đức Quốc trưởng và Ngự lâm quân không mấy ai không biết. Môi trường và các thế lực chính trị lúc bấy giờ tại Việt nam quả thật không thuận lợi cho những nỗ lực hoạt động của ông Diệm: Ngoài kẻ thù Cộng sản đang điều động kháng chiến, các lực lượng chống cộng khác như chính quyền Pháp thì không tin tưởng ở ông, chính phủ Việt nam mà thể hiện rõ ràng là thành phần lãnh đạo thì chống ông, các đảng phái và giáo phái thì nghi ngờ ông, đại đa số giáo dân và giám mục Lê Hữu Từ cũng không đặt kỳ vọng hay dành thiện cảm cho ông. Triển vọng của ông Diệm để xây dựng một thế đứng chính trị thoát dậy từ một trạng huống như vậy để tiến lên áp lực Bảo Đại để được uỷ nhiệm làm Thủ tướng nắm chính quyền tỏ ra rất mong manh nếu không muốn nói là vô vọng.
Lượng giá đúng như vậy cho nên lối thoát còn lại cho ông Diệm để khai thông bế tắc sự nghiệp chính trị của đời mình mà nương dựa vào ngoại lực để áp đảo và san định tình hình trong nước. Đối với ông Diệm, phương thức này không phải là mới mẻ. Thời đô hộ ông dựa vào Hội truyền giáo và Thực dân Pháp để làm quan; thời Nhật chiếm đóng ông dựa vào người Nhật để hoạt động cho nên bây giờ, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Pháp Việt, với một chính thể quốc trưởng Bảo Đại không thuận lợi cho ông, ông bèn dĩ nhiên, tìm một thế lực quốc tế khác để nhờ cậy.
Cuối năm 1950, ông xuất ngoại mãi cho đến năm 1954, nhờ thế lực của Toà thánh La mã, của Hồng y Spellman, của phong trào cộng hoà Bình dân Thiên Chúa giáo Pháp (MRP), và đặc biệt nhờ Hoa kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp cùng với Bảo Đại, và cũng như vận động ngầm của bà Nam Phương, cuối cùng ông Diệm đã được Quốc trưởng chỉ định làm Thủ tướng.
Tuy nhiên, cuộc tái hợp giữa cựu hoàng và vị Cựu Thần nhà Nguyễn chỉ là một hệ quả tạm thời của cuộc tranh chấp chính trị Mỹ - Pháp nên chỉ sau mấy tháng phải tan vỡ.
Trong những năm từ 1953 đến 1955, mà cao điểm là cuộc Trưng cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm phải thay Bảo Đại cho phù hợp với ông thầy Pháp đã nhường quyền cho ông chủ Mỹ trên quê hương ta.
Cuộc Trưng cầu dân ý do chính quyền đương nhiệm của ông Diệm đứng ra tổ chức và cũng do chính quyền đương nhiệm (dưới hình thức Quốc hội Lập Hiến) kiểm soát. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, dân chúng miền Nam Việt nam đến phòng phiếu để chọn lựa giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm theo hai câu thơ trước đó đã được bộ máy thông tin của ông Diệm ra rả suốt ngày đêm và xuất hiện đầy rẫy trên các bờ tướng hè phố:
Phiếu xanh ta bỏ vô bì,
Phiếu bỏ Bảo Đại ta thì vất đi.
Kết quả chính thức cuộc Trưng cầu dân ý được đăng vào công báo là 5.721.735 phiếu xanh có hình ông Diệm (98,2%) và 63.107 phiếu đỏ có hình Bảo Đại (1,1%). Tại Sài gòn tổng số cử tri là 450.000 người mà số phiếu bỏ cho ông Diệm lên đến 650.000, nghĩa là số phiếu gian lận là 200.000. Giữa thủ đô Sài gòn có tai mắt quốc tế mà còn gian lận trắng trợn đến thế, thử hỏi tại các tỉnh, tại thôn quê thì sự gian lận đến mức nào?
Buồn cười là sự gian lận này đã bị đại tá CA Lansdale, cố vấn Mỹ của ông Diệm, đoán trước thế nào cũng sẽ xảy ra nên đã cảnh cáo ông Diệm. Sau khi giúp ông Diệm đè bẹp được Bình Xuyên rồi, Lansdale khuyên ông Diệm phải tổ chức "Trưng cầu dân ý" để truất phế Bảo Đại cho có chánh nghĩa. Trước ngày lên đường về Mỹ để lánh mặt cuộc “Tổng tuyển cử”, Lansdale còn dặn ông Diệm: "Trong lúc đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin ông thắng 99.99 phần trăm, vì biết đó là âm mưu sắp đặt trước”. Và ông Diệm đã vâng lời để chỉ thắng... 98,2 phần trăm?...
Lansdale bảo ông Diệm nên tỏ ra công bằng và chỉ cần thu lượm được một đa số phiếu tương đối là tốt đẹp rồi, không tham lam quá. Nhưng với bản chất muốn cho mình cái gì cũng "Nhất" anh em ông Diệm bèn tổ chức bầu cử gian lận. Khốn nỗi, thiên bất dung gian xui khiến cho những kẻ tay chân vốn nòi nhạy cảm nhưng lại sơ hở bất lực làm cho việc gian lận quá lộ liễu xảy ra ngay tại thủ đô Sài gòn để cho ngoại giao đoàn và báo chí quốc tế biết được.
Nói cho cùng thì nếu không tổ chức bầu cử gian lận chưa chắn ông Diệm đã đắc thắng vẻ vang. Thật thế, nhìn vào bối cảnh đất nước và mùa thu 1955, lực lượng nhân dân hướng về ông Bảo Đại vẫn còn vô cùng đông đảo; Cao Đài, Hoà Hảo, Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Nguyễn Phước Tộc, khối người miền Nam không ưa người Bắc, khối người miền Nam còn nhớ ơn nhà Nguyễn, khối dân tộc thiểu số của Hoàng Triều Cương Thổ, số người thân Pháp v.v... có thể làm lệch cán cân "Trưng cầu dân ý". Nhưng quyền lực trong tay, thủ đoạn gian lận và tiền bạc của Mỹ đã giúp ông Diệm đánh ngã vị cựu Quốc Trưởng của ông một cách dễ dàng.
Tuy nhiên dù gian lận thì kết quả cuộc đấu phiếu, riêng đối với ông Diệm, cũng đã giúp ông đạt được hai mục tiêu mà ông đã nhắm đến là trình diện được một bề mặt dân chủ với chính quyền lẫn Quốc hội Hoa kỳ, và nâng cao uy thế cá nhân của ông lên đến mức độ tôn sùng như một vị cứu tinh anh minh của dân tộc. Riêng đối với dân tộc Việt nam, ngày 23 tháng 10 năm 1955 có một ý nghĩa quan trọng hơn hắn những mục tiêu chính trị giai đoạn của ông Diệm. Đó là ngày chấm dứt triều đại nhà Nguyễn và chế độ quân chủ tại miền Nam và trao lại cho ông Diệm quyền quản trị đất nước để chống Mỹ, và quan trọng hơn cả để xây dựng nên móng cho kỷ nguyên dân chủ sau này. Chính sách và chế độ ông Diệm 9 năm sau đó có làm cho nền móng đó thui chột và có làm cho Cộng sản mạnh thêm là tội của ông và gia đình đã phản bội lại niềm tin yêu và lòng tín nhiệm của nhân dân miền Nam thể hiện trong ngày 23 tháng 10 lịch sử này.
Bên lề của biến cố này có hai nhận định tôi cần ghi lại ở đây như tiếng thở dài chán chường của nhân thế vẫn thường vang vọng trong những nổi trôi cửa lịch sử. Nhận định thứ nhất về ông Ngô Đình Diệm của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí chỉ một năm trước ngày Trưng cầu dân ý: "Ông Diệm là người đạo giáo, lại mấy đời thờ nhà Nguyễn, chắc chắn là tôn quân bảo hoàng và hết lòng với Quốc trưởng Bảo Đại, tài cán của ông Diệm thì chưa ai rõ nhưng trung thành với Ngài thì tôi có thể tin". Và nhận định thứ hai về ông Bảo Đại của ký giả Stanley Karnow gần một phần tư thế kỷ sau: “... Khi cử ông Diệm làm Thủ tướng Bảo Đại có ngờ đâu chính quyết định của mình lại là một hành động tự ý đào huyệt chôn vùi sự nghiệp chính trị của mình". Thế là Ngô Đình Diệm từ chủ trương cho Việt nam quy chế "quân chủ lập hiến" với một Bảo Đại là nhà vua, một Ngô Đình Diệm là Thủ tướng, đã đưa miền Nam Việt nam đến một thể chế “Cộng hoà" mà ông là vị Tổng thống đầu tiên, còn vị vua đã từng bổ nhiệm ông làm Thủ tướng, từ nay trở thành kẻ lưu vong biệt xứ, ngậm đắng nuốt cay nơi đất khách quê người.
***
Năm 1955, với vị thế là cán bộ chính trị trung niên của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, với tư cách là chủ tịch phong trào Cách mạng quốc gia của bốn tỉnh Duyên hải miền Nam Trung phần, tôi đã hăng say hoạt động cho chiến dịch truất phế Bảo Đại mà tôi cho là không còn đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống cộng, và không còn đủ vóc dáng để khai mớ một kỷ nguyên dân chủ cho đất nước nữa.
Thật ra thì dân ý đang đòi hỏi và hướng về một cuộc thay đổi gốc rễ để đáp ứng với biến đổi mới của thời đại, và ông Diệm trên mặt chính trị không cần gian lận và trên mặt luân lý không cần dùng thủ đoạn vu khống hạ nhục Bảo Đại thì cũng có thể, một cách rất lương thiện và dân chủ, thắng phiếu trong cuộc Trưng cầu dân ý này. Nhưng những tài liệu do Bộ Thông tin Sài gòn gởi ra cũng như những chỉ thị mật của Phong trào Cách mạng quốc gia từ Huế gởi vào cho tôi đều chủ yếu tập trung vào việc lên án những tội lỗi của Bảo Đại: Bảo Đại bù nhìn, Bảo Đại dâm ô, Bảo Đại tham nhũng, Bảo Đại vô đức vô tài... Lên án không chưa đủ chỉ thị còn bắt phải khơi dậy lòng căm thù Bảo Đại trong quần chúng nữa!

Cả một chiến dịch bao trùm từ Cà Mau đến Bến Hải chính quyền yểm trợ trên cả hai mặt nội dung lẫn phương tiện, hung hăng và rầm rộ tìm cách đạp Bảo Đại xuống bùn dơ của lịch sử. Cả nước được vận động để phỉ nhổ Bảo Đại như là một hiện thân xấu xa nhất, hơn cả Lê Chiêu Thống và Lê Long Đĩnh. Hai đài phát thanh Sài gòn và Huế, phối hợp với báo chí trong gần một tháng trời, liên tục mạt sát Bảo Đại và thúc giục dân chúng quất roi và đốt lửa những hình nộm Bảo Đại. Chiến dịch to lớn của một nhân vật quốc gia chống Cộng (theo Mỹ) để truất phế một nhân vật quốc gia khác cũng chống cộng (nhưng theo Tây) còn tàn độc và khủng khiếp hơn chiến dịch hạ bệ Bảo Đại của kẻ thù là cộng sản Việt minh thời 1948, 1949, khi giải pháp Bảo Đại mới ra đời để đối phó với Hồ Chí Minh.
Sau biến cố đó, nghĩa là khi kết quả chính thức đã được công bố và thể hiện tượng trưng là việc thu hồi phiếm du thuyền của Bảo Đại và ngôi biệt thự một tầng ở đường Công Lý của bà Từ Cung, vị cựu hoàng âm thầm lui vào bóng tối để kéo dài cuộc sống tha hương còn bà Từ Cung thì được phép trở về An Định Cung An Cựu ở ngoại Hoàng thành để sống nốt chuỗi ngày già lão trong thảm cảnh đau thương đó mà có lẽ đêm đêm bà đã ngậm ngùi ngâm câu thơ, khóc thương cho một triều đại suy tàn:
Cung miếu triều xưa đâu vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải quốc kêu thâu.
(Chu Mạnh Trinh)

1      2      3     4     5     6     7     8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét