CHƯƠNG 5
Tướng Hinh ra đi, cả thế cờ của Pháp và Bảo Đại sụp đổ vì tướng
Hinh, bằng xương bằng thịt, là đại diện cho sức mạnh chính trị của Pháp và Bảo
Đại tại Việt nam lúc bấy giờ. Sự sụp đổ có được biểu hiện rõ ràng nhất trong sự
tan hàng tâm lý của lực lượng quân đội thuộc xu hướng của tướng Hinh. Tướng Vận
ở Nha Trang trốn vào Sài gòn rồi biệt tích luôn. Đại tá Trương Văn Xương, tư lệnh
quân khu Hai, người đã từng gây khốn khổ cho ông Ngô Đình Cẩn và ông Đại biểu
chính phủ miền Trung, cũng trốn vào Nam. Tại Đà Lạt, đội Ngự lâm quân do tướng
Nguyễn Văn Vỹ điều động bị ông Phan Xứng và thiếu tá Nguyễn Chánh Thi phần nào
tê liệt hoá. Đại tá Linh Quang Viên, tư lệnh quân khu Ba ở Buôn Mê Thuộc, tuy
là một phần tử quốc gia đối lập với ông Diệm nhưng lại không theo Pháp và không
phục tướng Hinh cuối cùng cũng hợp tác với chính phủ. Đại tá Vòng A Sang người
Nùng tay chân của tướng Vanuxem, di cư vào Nam và đang là Sư đoàn trưởng sư
đoàn Nùng ở Phan Rí, thấy tình hình "phe ta" tan rã dần cũng tuyên thệ
thi hành kỷ luật của quân đội.
Thế là sau khi tướng Hinh ra đi, không kể tại miền trung Trung
Việt mà tướng Hinh không có một cơ sở vững mạnh nào, toàn bộ vùng Duyên hải
và Cao Nguyên Trung phần trở thành hậu thuẫn vừng chắc cho ông Diệm để tiến
hành những vận động cuối cùng quét sạch tàn dư của chế độ Pháp thuộc. Trung
tá Nguyễn Quang Hoành từ Phan Thiết được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu
Hai, thiếu tá Thái Quang Hoành được lệnh giải tán chiến khu Đông về làm Tỉnh
trưởng Bình Thuận, ông Hồ Trần Chánh, một đảng viên Đại Việt từng ủng hộ
chiến khu Đông, được chúng tôi đề nghị làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Trung tá
Phạm Văn Đổng, tuy chưa bao giờ ủng hộ ông Diệm nhưng cũng khôn ngoan chưa
bao giờ tỏ ra chống đối chính phủ, được cử làm Tư lệnh Phân khu Duyên hải.
Chúng tôi mỗi người được thăng một cấp vì đã bảo vệ được miền Trung: Hoành và
Đổng lên đại tá. Hoàng và tôi lên trung tá. Và tuy còn ở trong dinh Thủ
tướng, tôi đã được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Phân khu Duyên hải, còn đại tá Lễ
thì sẵn sàng để nhận chức Tổng giám đốc Cảnh sát Công an một khi đuổi được
Bình Xuyên ra khỏi định chế này.
Song song với và chính vì việc tướng Hinh ra đi, Lansdale đã
vừa dùng tiền bạc và sử dụng lý luận để lôi kéo thêm được tướng Nguyễn Giác
Ngộ của Hoà Hảo và. tướng Nguyễn Thành Phương của Cao Đài đem lực lượng của
họ về hợp tác với chính phủ. Lansdale còn sử dụng kỹ thuật "địch vận” để
dẫn dụ được đại tá Thái Hoàng Minh, tham mưu trưởng của lực lượng Bình xuyên,
đứng lên chống Bảy Viễn. Tuy việc phản bội của Thái Hoàng Minh bị lộ và cuối
cùng bị Bảy Viễn thủ tiêu, nhưng cái chết của ông ta đã gây một chấn động tâm
lý sâu đậm trong hàng ngũ của lực lượng Bình Xuyên.
Tuy nhiên, dù ngần đó biến cố thuận lợi đã làm cho "Mặt
trận thống nhất" của các giáo phái bị phân hoá và bị suy giảm sức mạnh
rất nhiều, nhưng trong mùa xuân 1955, ông Diệm vẫn còn gặp nhiều khó khăn vì
Thủ tướng Pháp Edgar Faure vẫn còn muốn xây dựng lại uy thế cho Quốc trưởng
Bảo Đại để mong lật ngược thế cờ. Pháp vẫn còn muốn lợi dụng những lực lượng
thù nghịch với ông Diệm còn sót lại như toàn bộ Bình Xuyên, như Hoà Hảo của
Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên, Lê Quang Vinh, như Cao Đài của Hộ Pháp Phạm
Công Tắc, như tướng Vỹ và một thiểu số Ngự lâm quân còn trung thành với Bảo
Đại. Đặc biệt trong quân đội, mặc dù Thiếu tướng Lê Văn Tỵ đã được ông Diệm
bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng nhưng vẫn còn nhiều sĩ quan cấp tá cao cấp
chưa muốn hợp tác với ông Diệm như các đại tá Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh, Lê
Văn Kim, các trung tá Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Là, Trần Tử Oai...
Như vậy thì riêng tại miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn - Chợ Lớn và vùng phụ
cận, đứng trên mặt thuần tuý vũ lực (vốn là yếu tố quyết định trong sự hỗn
loạn của tình thế lúc bấy giờ) thì phe chính phủ và phe đối lập quả thật
ngang ngửa.
Từ đầu xuân 1955, lực lượng Bình Xuyên tiếp tục gây hấn, khiêu
khích Đô Thành, tấn công những đơn vị quân đội quốc gia đi lẻ tẻ và bắn súng
cối vào dinh Độc lập để chuẩn bị cho âm mưu đảo chính Thủ tướng Ngô Đình
Diệm. Ngày 30 tháng 4 năm 1955, sau khi thuyết phục được tướng Lê Văn Tỵ và
một nhóm sĩ quan thuộc cấp của tướng Hinh cũ, tướng Nguyễn Văn Vỹ vào dinh
Độc lập buộc ông Diệm phải đi Pháp ngay tức khắc theo lệnh của Quốc trưởng
Bảo Đại, đồng thời tướng Vỹ ra lệnh cho đội Ngự lâm quân từ Đà Lạt di chuyển
về Sài gòn và thông báo cho trung tá Đỗ Cao Trí, một bạn thân của Vỹ biết.
Trung tá Trí là Tư lệnh lực lượng Nhảy dù, đang hành quân tiễu trừ Bình
Xuyên, nhưng thâm tâm vẫn muốn lật đổ ông Diệm. Cũng trong ngày 30 tháng 4
đó, “Hội đồng nhân dân cách mạng” ra đời tại toà Đô Thành Sài gòn. Đây là một
lực lượng chính trị quần chúng được chuẩn bị từ trước để làm hậu thuẫn đấu
tranh cho ông Diệm. Hội đồng này do ông Nguyễn Bảo Toàn, một lãnh tụ Hoà Hảo,
làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn, một viên chức của Cao Đài, làm phó chủ tịch và
ông Nhị Lang (hiện ở Mỹ), thuộc Việt nam Quốc Dân Đảng, và cũng là một phụ tá
của tướng Trình Minh Thế làm Tổng thư ký. Thành viên của Hội đồng gồm nhiều
thành phần đại diện cho mọi tầng lớp quần chúng mà đa số là thân hữu của ông
Diệm, ngoài ra còn có một số do tôi tổ chức từ Phân khu Duyên hải vào để đại
diện cho miền Trung mà người cầm đầu là giáo sư Hà Huy Liêm (trường trung học
Võ Tánh), đang làm uỷ viên Tuyên nghiên huấn của phong trào Cách mạng quốc
gia tỉnh Khánh Hoà.
Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn là nhân vật uy tín nhất của Phật giáo
Hoà Hảo lúc bấy giờ. Ông là một nhà cách mạng lão thành từng bôn ba qua Pháp,
Tàu, Nhật để đấu tranh cho nền độc lập của quê hương. Ngay từ năm 1947, khi
Pháp định thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đã cùng với cụ Nguyễn
Hải Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập "Mặt trận thống nhất Quốc
gia" đòi hỏi Pháp chỉ thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đã
cùng với cụ Nguyễn Hải Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập "Mặt trận
thống nhất quốc gia" đòi hỏi Pháp chỉ thương thuyết với các lực lượng
dân tộc mà thôi chứ không phái với Bảo Đại hay với Hồ Chí Minh. Từ ngày dấn
thân hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Bảo Toàn luôn luôn chủ trương một nước
Việt nam độc lập theo chế độ Cộng hoà với một hình thức sinh hoạt hoàn toàn
dân chủ mới đáp ứng được nguyên vọng của nhân dân và mới có thế chiến thắng
được cộng sản, do đó ông quyết tâm ủng hộ ông Diệm và truất phế Bảo Đại, mặc
dù lúc bấy giờ tính mạng của ông có thể vì thế mà bị nguy hiểm.
Ngày 30, trong lúc tướng Vỹ và nhóm sĩ quan thân Pháp và dinh
Độc lập ép buộc Thủ tướng Diệm phải đi Pháp (nghĩa là đi để không trở về) thì
tại toà đô chánh Sài gòn, bầu không khí hào hùng lửa đấu tranh của “Hội đồng
nhân dân cách mạng” đang ào ạt và Hội nghị ra tuyên ngôn truất phế Bảo Đại,
uỷ cho chí sĩ Ngô Đình Diệm tạm thời lãnh đạo quốc gia trong lúc chờ đợi Hiến
pháp và Quốc hội định đoạt quy chế tương lai cho đất nước. Họp xong, Hội đồng
đi bộ qua dinh Độc lập để trao tuyên ngôn cho Thủ tướng Diệm, không ngờ khi
đến nơi thì chạm trán với tướng Vỹ và các "sĩ quan phản loạn" đang
làm áp lực ông Diệm. (Có thể cuộc đụng độ này là do dinh Độc lập kịp thời
thông báo cho Hội đồng để đến tăng cường). Thấy tướng Vỹ, tướng Trịnh Minh
Thế (và hình như có cả tướng Nguyễn Thành Phương) bèn bắt giữ tướng Vỹ trong
lúc ông Nhị Lang đưa súng lục ra hăm doạ tướng Vỹ. Thủ tướng Diệm sợ tái mặt,
vội vã kéo tướng Vỹ vào phòng riêng để bảo vệ sinh mạng cho tướng Vỹ, đồng
thời yêu cầu Hội đồng đừng bắt hoặc giết tướng Vỹ. Không phải ông Diệm thương
xót gì tướng Vỹ, nhưng nếu tướng Vỹ bị giết thì ắt hẳn những lực lượng yểm
trợ tướng Vỹ, vì tình chiến hữu, sẽ không tha thứ cho ông. Huống gì trung tá
Đỗ Cao Trí lại gọi điện thoại cho ông Diệm đòi phải trả tự do cho tướng Vỹ
ngay nếu không thì Trí sẽ tấn công dinh Độc lập. Cuối cùng, Hội đồng đạt được
một thoả hiệp chung là bắt tướng Vỹ phải ký giấy xin quy hàng Hội đồng, và
hoà mình với nhân dân để đấu tranh cho đất nước, đổi lại, Hội đồng sẽ trả tự
do cho ông ta.
Tướng Vỹ đồng ý ra về và trong thâm tâm định phản bội lại lời
cam kết đó, nhưng phần vì Ngự lâm quân, chủ lực của ông ta đã bắt tay với
quân đội, phần vì phản ứng quyết liệt của lực lượng tướng Trịnh Minh Thế nên
tướng Vỹ đành chịu thất bại. Trong lúc tướng Vỹ hoạt động ở Sài gòn để lật đổ
ông Diệm thì tướng Nguyễn Văn Hinh ở Pháp cũng lên đường trở về Việt nam để
dự định giúp tướng Vỹ lật ngược thế cờ. Nhưng vì tướng Vỹ đã thất bại, lại vì
tình hình mỗi ngày một thuận lợi cho ông Diệm, và quan trọng hơn cả là vì Mỹ
đã cương quyết ủng hộ ông Diệm cho nên tướng Hinh bay đến Calcutta thì dừng
lại và bay ngược về Pháp. Trong những ngày sôi động tại Sài gòn mà bạo lực có
thể bùng nổ bất kỳ lúc nào, ông Diệm không những lo sợ cho cái tương lai
chính trị của ông mà còn lo cho chính bản thân ông nữa. Chỉ quen đấu tranh
theo kiểu quan trường, ông rất e ngại vấn đề súng đạn. Chỉ quen dựa vào các
thế lực ngoại bang (như Pháp, Nhật, Mỹ, Vatican) vận dụng chính trị và củng
cố địa vị, ông rất mất tự tin khi phải đối phó với những quân nhân như Nguyễn
Văn Vỹ, Trần Đình Lan... Đỗ Cao Trí mà vũ lực là lý luận. Nhưng điều làm ông
lo sợ nhất là bức tường đồng để ông nương tựa là Hoa kỳ sẽ có thể bỏ rơi ông,
vì không những ông chấp chánh được là nhờ sự ủng hộ của Hoa kỳ mà còn nhờ chính
cả các hoạt động tình báo và quân sự của Lansdale. Cho đến khi cả đại tá
Lansdale lẫn Đặc sứ Collins liên tục tái bảo đảm với ông là chính sách Mỹ đã
quyết định yểm trợ miền Nam do ông lãnh đạo, ông mới thật sự an lòng để đối
phó với tình thế.
Thật vậy, một ngày trước buổi chạm trán với tướng Vỹ ở dinh
Độc lập, Ngoại trưởng Mỹ Fostes Dulles đã thông báo cho Đại sứ Pháp Couvre de
Murrville ở Washington, cũng như Đại sứ Mỹ Dillon đã thông báo cho Thủ tướng
Pháp Edgar Faure ở Paris về quyết tâm của Mỹ nhất định ủng hộ ông Diệm vô
điều kiện, kết quả cụ thể làm ông Diệm yên tâm nhất là cuối cùng, dưới áp lực
của Mỹ, chính Pháp đã tiếp tế đạn dược cho quân đội quốc gia để dẹp phiến
loạn Bình Xuyên trong khi chờ đợi một chương trình quân viện dồi dào hơn sau
này.
Sau thất bại của tướng Nguyễn Văn Vỹ, quân đội mặc nhiên trở
thành một lực lượng trọng yếu nhất trí ủng hộ ông Diệm. Thật ra từ trước tại
Sài gòn, chỉ có hai sĩ quan cao cấp và có vị trí then chốt thật sự ủng hộ ông
Diệm mà thôi, đó là đại tá Dương Văn Minh giữ chức Quân Trấn trưởng Sài gòn -
Chợ Lớn còn trung tá Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tham mưu trưởng quân khu I dưới
quyền đại tá Trần Văn Minh. Ông Dương Văn Minh tuy xuất thân từ trường võ bị
của Pháp ở Tông (Bắc Việt), tuy phục vụ trong quân đội Pháp nhưng ông vẫn giữ
bản chất và phong độ của một người Việt nam thuần tuý, vẫn nặng tình tự với
dân tộc quê hương. Người Pháp và tướng Hinh vốn không ưa ông Dương Văn Minh
nên không giao cho ông chức vụ chỉ huy có quân sĩ, có đơn vị, để ngăn ngừa
hậu hoạ. Còn ông Phạm Xuân Chiểu là một đảng viên Việt nam-quốc Dân Đảng, sau
khi bỏ học trường thuốc ở Hà nội vì biến cố Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, bèn
vào học trường võ bị Yên Bái do người Nhật tổ chức rồi qua Trung Hoa học
trường võ bị Hoàng Phố, ở đây ông gặp một nữ đảng viên "Cách mạng Đồng
Minh Hội” của cụ Nguyễn Hải Thần, hai người trở thành vợ chồng và đều là
những nhân vật tham gia cách mạng, có tinh thần chống cộng rất cao. Mấy năm
sau ông về Phát Diệm và được mời giữ chức chỉ huy tiểu đoàn 2 trong lực lượng
tự vệ của giáo phận này rồi trở thành sĩ quan quân đội quốc gia. Với thành
tích đó nên Phạm Xuân Chiểu hết lòng ủng hộ ông Diệm. Hai sĩ quan này nhất là
ông Dương Văn Minh, đã ủng hộ và hoạt động đắc lực cho ông Diệm ngay từ phút
đầu, ngay từ khi tướng Hinh chống đối ông Diệm: ngoài ra cũng phải nói một
trong những lý do ông Minh ủng hộ ông Diệm vì người bạn thân của ông là ông
Nguyễn Ngọc Thơ cũng là người bạn quý của ông Diệm. Hai ông Dương Văn Minh và
Phạm Xuân Chiểu đều ở Sài gòn, đều biết rõ vị trí, âm mưu hoạt động và những
kế hoạch chuyển quân của Bình Xuyên và Pháp nên đã giúp đỡ rất hữu hiệu ông
Diệm trong vấn đề đối phó với quân của Lê Văn Viễn.
Ngoài ông Diệm ra còn có đại tá Mai Hữu Xuân, một sĩ quan
nhiều thủ đoạn và giỏi về tình báo ủng hộ. Mai Hữu Xuân trước kia là một phần
tử thân Pháp, từng là Tổng giám đốc Công an và lúc bấy giờ là Giám đốc An
ninh quân đội, nhưng quan trọng hơn cả, ông Xuân vốn là kẻ thù Bình Xuyên. Ký
giả Lueien Bodart trong cuốn "Laguerre d'indochine" mô tả Bảy Viễn
và Mai Hữu Xuân là hai lãnh chúa tại Chợ Lớn và Sài gòn, hai kẻ thù không đội
trời chung, nay gặp cơ hội ông Diệm đánh Bình Xuyên, Mai Hữu Xuân trở nên
đồng minh của ông Diệm. Sự ủng hộ của Mai Hữu Xuân và Nha An ninh quân đội
lúc bấy giờ quả là một đóng góp tình báo hết sức lớn lao cho việc tấn công và
tiêu diệt Bình Xuyên để củng cố địa vị ông Diệm.
Trong những ngày đầu của tháng 5 năm 1955, quân đội quốc gia
phối hợp với quân của tướng Trịnh Minh Thế đánh bật được quân Bình Xuyên qua
bên kia cầu chữ Y. Tướng Thế trong khi đứng trên cầu Tân Thuận để quan sát
địa hình đã bị một viên đạn bắn lén từ sau lưng trứng thái dương và không cứu
sống được. Ngày 9 tháng 5, Bình Xuyên bị đánh bật ra khỏi Sài gòn và Chợ Lớn
nên rút về vùng lầy Rừng Sát sau khi đã đốt cháy nhiều phố xá, nhà cửa ở khu
Nancy. Đại tá Dương Văn Minh được Thủ tướng Diệm cứ giữ chức Tư lệnh chiến
dịch Rừng Sát, và chẳng bao lâu, ông tiêu diệt toàn bộ quân Bình Xuyên. Bảy
Viễn và bộ hạ thân tín là Lai Văn Sang và Lai Hữu Tài phải trốn qua Pháp. Cùng
lúc đó, đại tá Nguyễn Ngọc Lễ cũng đã nắm vững được Nha Tổng Giám đốc Công an
Cảnh sát Việt nam, và củng cố được lực lượng Công an Cảnh sát Đô thành mà
trước đó vốn nằm dưới sự điều động của Lai Văn Sang.
Đánh tan quân Bình Xuyên, đại tá Dương Văn Minh dẫn đầu đoàn
quân đắc thắng tiến về thủ đô trên con đường Catinat để vào dinh Độc lập giữa
tiếng hoan hô vang dội của dân chúng. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đứng tại thềm
dinh Độc lập đón chào người anh hùng chiến thắng Rừng Sát. Ông ôm hôn đại tá
Dương Văn Minh rồi một nữ sinh choàng vòng hoa cho đại tá. Mấy ngày sau, Thủ
tướng Diệm vinh thăng đại tá Minh lên Thiếu tướng, báo Sài gòn đề cao Dương
Văn Minh “Anh hùng Rừng Sát". Riêng ông Ngô Đình Nhu, tuy vui mừng sung
sướng thấy kẻ thù bị tiêu diệt, vẫn tỏ ra bất mãn với báo chí và dư luận khi
Dương Văn Minh được đề cao là "anh hùng". Ông Nhu nói với nhiều
người, nhất là những người thân tín ở trong dinh rằng: "Cả nước Việt nam
chỉ có một anh hùng mà thôi đó là anh hùng Ngô Đình Diệm".
Trong khi Sài gòn và Rừng Sát đang mịt mù khói lửa thì hội đàm
giữa Pháp và Mỹ diễn ra tại Paris từ ngày 7 đến 12 tháng 5 năm 1955. Ngoại
trưởng Mỹ, ông Foster Dulles, đòi hỏi Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho
Việt nam, phải rút toàn bộ đoàn quân viễn chinh Pháp (90.000) về nước. Chương
trình Pháp rút quân về nước gồm 3 giai đoạn:
Một: Ngày 20 tháng 5 năm 1955, quân đội Pháp phải bắt đầu rút
ra khỏi Sài gòn - Chợ Lớn, tập trung về Vũng Tàu.
Hai: Ngày 2 tháng 7 năm 1955, quân đội quốc gia Việt nam hoàn
toàn chấm dứt sự phụ thuộc vào Bộ tư lệnh Pháp tại Đông Dương.
Ba: ngày 28 tháng 4 năm 1956, người lính của đội quân viễn
chinh Pháp vĩnh viễn rời khỏi Việt nam.
Thế là nhờ quân đội quốc gia, nhờ người Mỹ, từ nay ông Diệm
bước lên đài danh vọng quyền quý tột đỉnh trong cuộc đời chính trị của ông.
Sau chiến thắng Bình Xuyên, những đấu thủ còn lại của Thủ
tướng Diệm tại miền Nam chỉ là những lực lượng yếu kém và phân hoá.
Vê phía Cao Đài có Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc với một đơn vị Hộ
vệ quân khoảng 300 tay súng. Thêm một kế hoạch của ông Ngô Đình Nhu, tướng
Cao Đài bị mua chuộc Nguyễn Thành Phương dẫn đơn vị cũ đến Tây Ninh tước khí
giới đám Hộ vệ quân này bắt giữ hai người con gái của Giáo chủ Cao Đài với
tội tham nhũng bóc lột đồng bào. Giáo chủ Phạm Công Tắc và một số bộ hạ thân
tín trốn được qua Cao Miên và kéo dài cuộc đời lưu vong cho đến lúc ông tạ
thế.
Về phía Hoà Hảo võ trang thì còn ba nhóm: Trần Văn Soái (tức
Năm Lửa), Lâm Thành Nguyên và Lê Quang Vinh (thường được gọi là Ba Cụt). Cả
ba nhóm này có căn cứ và có địa bàn hoạt động tại miền Hậu Giang. Vào giữa
năm 1956 tướng Dương Văn Minh hành quân mở chiến dịch càn quét những căn cứ
này. Trần Văn Soái và Lâm Thành Nguyên chống cự không nổi nên phải về quy
hàng với chính phủ. Riêng lực lượng Lê Quang Vinh, với kỹ thuật du kích chiến
để tránh hoả lực hùng hậu của quân đội quốc gia, đã cầm cự được khá lâu dài
nhưng cuối cùng bị bắt và xử tử.
Theo thông báo chính thức của chính phủ Diệm thì tướng Hoà Hảo
Lê Quang Vinh bị một tiểu đội Bảo an bắt được tại Chắc Cà Đao (Long Xuyên)
cùng với 5 tên hộ vệ. Trong một buổi lễ trao lệnh kỳ và huy chương, đại biểu
chính phủ đưa tặng một triệu đồng cho Liên Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn, Liên
Đội đã có binh sĩ bắt được Lê Quang Vinh.
Nhưng lúc bấy giờ nhiều người đặc biệt là tướng Dương Văn Minh
và Bộ tham mưu của ông ta biết rằng vụ bắt được Lê Quang Vinh là nhờ ông
Nguyễn Ngọc Thơ lừa Ba Cụt đến điều đình trong lúc lính Bảo an đã bố trí một
cuộc phục kích tinh vi nên mới bắt được người chiến sĩ nổi tiếng gan dạ và có
tài đánh du kích đất miền Tây. Nếu không bị lừa thì làm sao một tiếu đội Bảo
an có thể bắt được vị tướng Hoà Hảo đa mưu túc trí cùng với năm hộ vệ của ông
ta. Sự thật thì ông Thơ chỉ muốn lừa Lê Quang Vinh về để đầu hàng chính phủ
cho yên miền Tây, nơi quê hương của ông, không ngờ ông Diệm phản lại những
lời đã hứa, ra lệnh cho toà án xử tử Lê Quang Vinh.
Sau cách mạng 1-11-63 ông Thơ cho tôi biết sở dĩ Lê Quang Vinh
bị bắt ngày 13 - 4 - 1956 mà toà án quân sự và toà thượng thẩm Sài gòn xử xét
đi phúc lại (đến 4 lần) cho đến ngày 6 - 7 - 1956 toà án quân sự Cần Thơ mới
xét xử một lần chót là vì ông Diệm đã nhiều lần dụ Lê quang Vinh theo đạo
thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì
Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà
Sài gòn và sẽ' được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng. Nhưng vị
tướng “Mạnh Hoạch” vùng linh địa Thất Sơn nhất định giữ lấy nền đạo của Đức
Thầy, vị giáo chủ mà ông vô cùng ngưỡng mộ và kính phục. Do đó ông ta đã bị
ông Diệm ra lệnh cho toà án quân sự Cần Thơ phải: "Tuyên án tử hình,
tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản". Tướng Lê Quang Vinh bị hành
quyết ngày 13-7-1956 tại nghĩa địa Cần Thơ. Lúc chết ông mới 32 tuổi, trối
trăn dặn vợ nuôi con cái nên người và xin được chôn ở núi Sam, Châu Đốc
Phải chăng từ cái chết của Lê Quang Vinh mà từ sau khi rời bỏ
chính quyền, (vào thời mà tôn giáo Hoà Hảo được phục hồi) cựu Phó tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ ở luôn Sài gòn cho đến qua đời, không dám trở về Long Xuyên
nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông có một ngôi biệt thự vô cùng huy hoàng và có
một trăm mẫu ruộng.
Dẹp yên được Năm Lửa và Lâm Thành Nguyên, diệt được Ba Cụt Lê
Quảng Vinh là chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động đối lập võ trang nguy hiểm tại
miền Nam trừ những toán võ trang lẻ tẻ không đáng kể.
Tuy nhiên, tại miền Trung, vấn đề trở thành phức tạp và khó
khăn hơn nhiều vì những lực lượng chống đối ông Diệm không phải là tay sai
của Pháp mà là những đảng cách mạng đã từng xả thân đấu tranh vừa chống cộng
vừa chống Pháp và đã có lúc ủng hộ ông Diệm trong và sau những nỗ lực vận
động nắm chính quyền của ông. Tuy nhiên cuối cùng, chiến khu Ba Lòng ở Quảng
Trị của đảng Đại Việt bị đánh tan. Chiến khu Nam Ngãi của Việt nam Quốc Dân
Đảng bị ông Diệm ra lệnh cho sư đoàn Nùng càn quét dã man trong những năm 1955
- 1956 ở các quận Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên nhưng vẫn không tiêu diệt
được lực lượng có quá nhiều kinh nghiệm chiến trường và lòng yêu nước nồng
nàn này cho nên khi ông Ngô Đình Cẩn phải dùng thủ đoạn “đoàn kết thoả
hiệp" mới lôi kéo được đơn vị võ trang gần 200 tay súng về hợp tác để
sau đó cấp lãnh đạo chính trị, quân sự của họ đều bị tù đày.
Ngoài ra phải kể đến vua Bảo Đại, người đã bổ nhiệm ông Diệm
làm Thủ tướng, người đã từng một thời được ông Diệm tung hô vạn tuế khi ông
còn làm quan Nam Triều. Với Bảo Đại, ông Diệm đã phải dùng đến những hình
thức đấu tranh có vẻ dân chủ hơn qua một cuộc Trưng cầu dân ý (23-10-1955) để
biểu diễn cho chính phủ và Quốc hội Hoa kỳ lúc bấy giờ đang thẩm định khả
năng cai trị của ông. Ý nghĩa của cuộc truất phế này đã được ông Đoàn Thêm
phân tích rõ ràng trong cuốn Những ngày chưa quên(Sài gòn, 1969)
nhưng tôi cũng xin sẽ bổ túc và triển khai trong chương 6 vì những oái oăm
lịch sử của biến cố này.
Như vậy, từ năm 1956, ông Diệm bây giờ đã là một Tổng thống
hợp hiến và hợp pháp của một quốc gia Việt nam theo chế độ cộng hoà (dù ngày
26 tháng 10 năm 1955 mới chỉ ban hành hiến ước tạm thời), có cường quốc số
một thế giới Hoa kỳ ủng hộ và có đại đa số quần chúng miền Nam Việt nam sẵn
lòng sống chết với ông. Thực dân Pháp đã biến mất, Cộng sản miền Bắc là mối
đe doạ minh nhiên và tức thời, cho nên toàn dân đoàn kết sau lưng ông để
đương đầu với mối hoạ mới.
Công việc đầu tiên là cải tổ hai định chế lớn khi phối sinh
hoạt quốc gia là bộ máy công quyền và bộ máy quân đội. Với sự yểm trợ về ngân
quỹ về kế hoạch của Mỹ, ông biến quân đội Việt nam cộng hoà thành một thứ
quân đội Hoa kỳ bản xứ, ít nhất là trên mặt hình thức và điều hành. Hệ thống
tổ chức, quân phong, quân kỷ, quân nhu, quân dụng, cho đến những chi tiết nhỏ
nhặt như cách chào, đôi giày trận, khẩu phần ăn... đều đến từ và theo khuôn
mẫu Hoa kỳ.
Hiến pháp Việt nam ra đời, hiến pháp có một điều bất hủ rất
phản dân chủ là "Tổng thống lãnh đạo quốc gia” cũng đã quy định tính
cách phân quyền và xác định những định chế ở thượng tầng để quản trị đất
nước. Viện trợ Hoa kỳ và sự yểm trợ của các nước trong thế giới tự do đã nâng
uy tín cua ông lên cao.
Như vậy, từ nay, nhiệm vụ của tôi trên toàn Phân khu Duyên hải
(gồm bốn tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận) sẽ gồm không những
giữ gìn an ninh địa phương này mà còn về mặt chính trị, phải xây dựng cho
quần chúng một ý thức chính trị vững mạnh mà nội dung là ủng hộ chế độ cộng
hoà. Trước 1945, tôi có qua lại Nha Trang nhiều lần trong các chuyến đi công
tác cho ông Ngô Đình Diệm khi còn hoạt động cho phong trào Cường Để. Lúc bấy
giờ, đầu óc còn những suy tư về những hoạt động cách mạng bí mật và nguy hiểm
vả lại tuổi còn trẻ nên tôi chưa nghĩ đến việc an cư lạc nghiệp cho gia đình.
Nhưng từ năm 1953, khi được đổi về miền thuỳ dương gió miền cát trắng, làm
đại diện cho quân khu II, tôi có nhiều thì giờ quan sát dân tình cảnh trí
tỉnh Khánh Hoà hơn, tôi có ý định chọn Nha Trang làm quê hương. Ý định này
trở thành quyết định vì sau ngày chia cắt đất nước vào tháng 7 năm 1954, tôi
linh cảm thấy ngày trở lại nơi chôn nhau cắt rốn vùng tả ngạn sông Gianh quả
thật xa vời. Sau những năm tháng lê gót khắp mọi nẻo đường đất nước, tôi thấy
Nha Trang quả là nơi đất lành chim đậu có thể làm nơi sinh sống vĩnh viễn cho
vợ con, làm nơi thừa hưởng cho mình khi tuổi đã về chiều. Tôi say mê Nha
Trang, quyến luyến Nha Trang vì Nha Trang không khép kín u buồn như Cố đô
Huế, không cô đơn lạnh lùng như Đà Lạt, không náo nhiệt xô bồ như Sài gòn.
Tôi yêu Nha Trang vì cảnh non nước trời mây tình tứ Nha Trang sống động mà
không suồng sã, mộng mơ mà không sầu não, một thành phố trung bình nhưng
thanh lịch.
Ngay trước cả thời chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, phong cách Nha
Trang nổi tiếng là tình tứ với hàng dương liễu dịu dàng trên một bờ biển cát
trắng nước xanh, dân tình Nha Trang nổi tiếng là hiền hoà đôn hậu, chỉ biết
khai thác đất cha biển mẹ làm phương kế sinh nhai. Vào đầu thế kỷ thứ 19, khi
nhà bác học Pháp là Yersin đến định cư tại đây thành lập viện Pasteur để
nghiên cứu thêm về vi trùng học trên các bệnh của miền nhiệt đới thì Nha
Trang được chỉnh tu lại vừa đủ như một cô gái quê xinh đẹp điểm thêm một chút
phấn hồng để trở thành một thành phố có hấp lực lôi cuốn khách nhàn du. Nhưng
từ khi đất nước qua phân, ông Diệm về nước, thì Nha Trang bỗng vươn mình trở
nên một "thành trì cách mạng" sôi động đến nỗi ông Ngô Đình Nhu,
cha đẻ và lãnh tụ đảng Cần lao nhân vị, phải đích thân đến đây để tổ chức
việc thành lập Quân uỷ Trung ương của Đảng. Thật vậy, lúc bấy giờ, chỉ độ một
tuần sau ngày thành lập nền cộng hoà (26-10-1955), cuộc truất phế Bảo Đại còn
đang làm cho một số dân chúng miền Trung xao động, miền Hậu Giang còn khói
lửa mịt mù, tân nội các còn đối phó với bao nhiêu việc trọng đại... thế mà
ông Nhu đã bỏ thủ đô vội vã đến Nha Trang để xúc tiến công tác này trong vùng
trách nhiệm của tôi. Quả là một vinh dự cho Nha Trang và cho riêng tôi.
Không ai được biết đảng Cần lao được thành lập vào lúc nào
ngoại trừ một thiểu số rất nhỏ nòng cốt của đảng này, nhưng ai cũng biết là
từ lúc chưa nắm được chính quyền ông Nhu đã cổ xuý và nhiều lần đề cập đến
một đảng bí mật làm rường cột cho chế độ. Là một người nghiên cứu và chịu ảnh
hưởng phần nào đến lý thuyết của Mao Trạch Đông, ông Nhu cũng chủ trương quản
trị và lãnh đạo quốc gia theo phương trình Lãnh tụ - Đảng - Nhà nước - Nhân
dân, nhưng điều làm ông Nhu không ngờ tới là ông đã theo phương trình này một
cách quá lý thuyết nên sau này thực tế đã cắt miền Nam thành hai vùng chính
trị khác nhau, lúc thì có ranh giới rõ ràng lúc thì lẫn lộn vào với nhau với
nhiều mâu thuẫn sâu đậm: Hai lãnh tụ Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, hai đảng
Cần lao miền Trung và Trung ương, hai nhà nước có hai bộ máy công quyền với
những nhân sự và phương thức quản trị khác nhau, và hai loại nhân dân chạy
theo hay chống lại chế độ. (Sẽ nói rõ hơn trong chương IX: Đảng Cần lao).
Tôi nhận lãnh nhiệm vụ Tư lệnh Phân khu Duyên hải được độ hai
tháng thi trung uý Lê Quang Tung và Nguyễn Văn Châu từ Huế vào gặp tôi cho
tôi biết hai Cậu (lúc bấy giờ Tung và Châu gọi hai ông Nhu và Cẩn bằng Cậu)
phái họ vào Nha Trang để thảo luận với tôi về việc tiến hành thành lập Quân
uý Trung ương của đảng Cần lao. Tôi hỏi vì sao không lập ở Sài gòn cho gần
Trung ương của đảng hoặc ở Huế cho đông nhân sự nòng cốt trung kiên mà lại ở
Nha Trang thì Châu trả lời vì "thượng cấp và anh em đều công nhận quân
nhân Nha Trang có trình độ giác ngộ chính trị sâu có tinh thần đấu tranh cao,
lại trung thành triệt để với lãnh tụ Ngô Đình Diệm". Rồi họ không tiếc
lời khen tôi là người có công lớn trong việc xây dựng "thành trì cách
mạng" tại bốn tỉnh miền Trung để làm thí điểm.
Điều làm tôi thắc mắc lúc đó là tôi không biết gì về đường lối
và sách lược chính trị của đảng Cần lao, lại càng không biết gì về vai trò và
nhiệm vụ của bộ phận quân uỷ trong sách lược của đảng cũng như trong sách
lược chung của quốc gia. Như vậy ba lý do mà họ trả lời trên kia thật ra chỉ
gồm trong điều cuối mà còn bị giới hạn nữa, nghĩa là không phải toàn quân,
toàn dân Nha Trang mà chỉ "Cán bộ trung thành triệt để với lãnh tụ Ngô
Đình Diệm". Vì tôi chỉ thấy đó là tiêu chuẩn duy nhất để kết hợp và phân
nhiệm đảng viên nên sau ba ngày hội họp và đúc kết thành quả, khi toàn thể
anh em bầu tôi là Chủ tịch Quân uỷ đảng Cần lao tôi liền viện ra một số lý
do, công cũng như tư, để nhất quyết từ chối chức vụ này cũng như từ chối bất
kỳ chức vụ nào trong Trung ương Quân uỷ.
Cuối cùng khi có sự can thiệp của ông Nhu và nhất là chính vì
sự hiện diện đặc biệt của ông nên tôi đành phải nhận thức uỷ viên Trung ương
cũng như Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh quân khu II và đại tá Tôn Thất
Xứng (vắng mặt trong buổi họp) Chủ tịch Quân uỷ do trung uý Nguyễn Văn Châu
(sau này là giám đốc Nha chiến tranh tâm lý, hiện sống ở Pháp) và Phó chủ
tịch do trung uý Lê Quang Tung (sau này là Tư lệnh Lực lượng đặc biệt) đảm nhiệm.
Đó là hai sĩ quan trẻ có những điểm chung rất nổi tiếng trong quân đội về
tinh thần địa phương quá khích, về thái độ mộ đạo cuồng tín và về quyết tâm
phục tùng vô điều kiện mệnh lệnh của anh em ông Ngô Đình Diệm mà từ nay tất
cả quân nhân của quân đội - từ Đại tướng đến binh nhì - sẽ bị chi phối về mặt
lập trường chính trị và sẽ bị điều khiển về mặt công tác chính trị.
Sau buổi họp ông Nhu trở lại Sài gòn, các đồng chí trở về
nhiệm sở cũ. Kết quả của buổi họp và hình thức cũng như nội dung của buổi họp
không gây được một xúc cảm đặc biệt nào ngoại trừ cái tình cảm to lớn mà tôi
đã có từ lâu là dân tộc ta, suốt cả thế kỷ này, đã chịu biết bao thống khổ
điêu linh, nay được sống và tham dự vào công cuộc xây dựng một nền cộng hoà
có tự do, có dân chủ và có phúc lợi cho toàn dân.
|
Chưong 6
Bảo Đại và Ngô Đình Diệm
Trên mặt lý thuyết, lúc bấy giờ miền Nam có thể trở thành một
nước theo chế độ quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật, Hà Lan, Thuỵ Điển, Tây Ban
Nha, Thái Lan...) nghĩa là giữ lại thực thể hoàng gia như một biểu tượng quốc
gia vô quyền và vô hại để tránh một biến đổi quá độ trong xã hội đóng kín và
bảo thủ như xã hội ta, hoặc có thể trở thành một nước theo chế độ cộng hoà
Đại nghị (như Pháp, Mỹ...) để dứt khoát hẳn với nền quân chủ quá khứ và trao
quyền làm chủ cho người dân. Đó là trên mặt lý thuyết. Trên thực tế, quần
chúng đã lựa chọn rồi vào ngày 30 tháng 4 năm 1955 tại Toà đô chánh Sài gòn
qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cách mạng, nghị quyết đòi truất phế Bảo
Đại và tạm thời trao quyền lãnh đạo đất nước cho ông Diệm trong lúc chờ đợi
Hiến pháp và Quốc hội định đoạt chế độ tương lai của đất nước. Đó là một nghị
quyết lịch sử, phát xuất trung thực từ ước vọng của quần chúng.
Tuy nhiên vì cái nghị quyết hợp lòng dân và hợp thời đại nhưng
không hợp ý anh em ông Diệm nên anh em ông và mưu sĩ Trần Chánh Thành phải
dùng đến thủ đoạn phản trắc để phân hoá, bẻ gẫy và hạ uy tín Hội đồng hầu
cướp lấy chính quyền mà không cần chờ đợi những qui định Hiến pháp và Quốc
hội. Ngày 10 tháng 5, anh em ông Diệm đơn phương thành lập chính phủ chính
thức gồm toàn người tay chân và những kẻ đầu hàng, không cần hỏi ý kiến của
Hội đồng, cũng không có một nhân vật nào của Hội đồng được mời tham dự chính
phủ đó.
Hội đồng nhân dân cách mạng do ông Nguyễn Bảo Toàn làm chủ
tịch, ông Hồ Hán Sơn làm Phó, và ông Nhị Lang giữ chức Tổng thư ký nhưng Hội
đồng còn có một ban thường vụ cũng do ông Toàn kiêm chức Chủ tịch với các uỷ
viên là: Văn Ngọc, Hà Huy Liêm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thuỵ, Nguyễn Hữu Khai,
Huỳnh Minh ý, Đoàn Trung Còn, Nguyễn Văn Quyền, (Bốn nhân vật Nhị Lang, Hoàng
Cơ Thuỵ, Huỳnh Minh ý, Nguyễn Hữu Khai hiện có mặt tại Mỹ và Pháp). Để đạt
mục đích nắm chặt chính quyền, anh em ông Diệm bèn ra lệnh cho nhóm uỷ viên
thân tín là Hà Huy Liêm, Huỳnh Minh ý, Nguyễn Hữu Khai... cầm đầu thành phần
thân ông Diệm trong Hội đồng gây lủng củng, chống đối nội bộ. Đồng thời anh
em ông Diệm kết tội Hôi Đồng qua Tổng thư ký Nhị Lang là đã thâm lạm biển thủ
số tiền trên một triệu đồng, số tiền mà ông Diệm (qua Bộ Thông tin) đã cấp
cho Hội đồng hoạt động.
Kẻ viết không dám nói rằng ông Nhị Lang và Hội đồng đã thâm
lạm biển thủ tiền bạc nhưng trong bối cảnh loạn lạc lúc bấy giờ thì sự chi
tiêu của Hội đồng thật khó mà chứng minh bằng giấy trắng mực đen. Huống chi
số tiền bạc thất thoát thì cũng đã có phần sử dụng cho việc cứu vãn địa vị
ông Diệm qua cơn sóng gió ngặt nghèo.
Trước hành động phản bội của anh em ông Diệm, ông Nguyễn Bảo
Toàn bèn từ chức Chủ tịch Hội đồng để phản đối ông Diệm. Bị hăm doạ, ông lui
vào bóng tối trong lúc Phó chủ tịch Hồ Hán Sơn trồn về Tây Ninh và bị giết
một cách bí mật. Dư luận lúc bấy giờ cho rằng ông Nhu đã mua chuộc được tướng
Cao Đài Nguyễn Thành Phương để ông này cho đàn em hạ sát Hồ Hán Sơn. (Sau này
Nguyễn Thành Phương cũng bị Ngô Đình Diệm mua chuộc để phản lại giáo chủ Phạm
Công Tắc mà rồi cuối cùng Nguyễn Thành Phương cũng bị Ngô Đình Nhu phản bội).
Còn Tổng thư ký Nhị Lang, người đã từng cầm súng doạ bắn tướng Nguyễn Văn Vỹ
để cứu ông Diệm, bị công an của tướng Nguyễn Ngọc Lễ và Bộ thông tin của Trần
Chánh Thành đòi hỏi bắt bớ và làm khó dễ. Tuy các mưu sĩ Ngô Đình Nhu, Trần
Chánh Thành có hạ nhục Nhị Lang (nghĩa là gián điệp hạ nhục Hội đồng) nhưng
rồi cũng nương tay vì sợ mang tiếng phản bội quá trắng trợn. Tuy nhiên Nhị
Lang vốn là người có kinh nghiệm đấu tranh và trước cái chết khả nghi của
tướng Trịnh Minh Thế lại sợ Ngô Đình Nhu lắm thủ đoạn nên vội vã trốn lên Cao
Miên làm kẻ lưu vong để cùng với những người lưu vong khác hoạt động chống
nhà Ngô. Ngoài ra luật sư Hoàng Cơ Thuỵ vốn hết lòng ủng hộ ông Diệm từ khi
ông Diệm mới về nước nhưng trước thủ đoạn của Ngô Đình Nhu cũng trở thành người
đối lập quyết liệt với chế độ Diệm.
Dòng họ Ngô Đình vốn quê làng Xuân Dục, phủ Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình và theo Thiên chúa giáo từ thế kỷ 17. Trong giai đoạn quân Pháp
đánh chiếm Trung kỳ và Bắc kỳ (khoảng 1870), khi phong trào Văn thân nổi lên
chống Pháp cứu nước và phát động chiến dịch giết Đạo thì dòng họ Ngô Đình
phải bỏ làng Xuân Dục phủ Quảng Ninh mà di cư về làng Đại Phong thuộc huyện
Lệ Thuỷ cùng tỉnh Quảng Bình, nơi có nhiều Thiên chúa giáo hơn tại Quảng
Ninh.
Theo những bô lão ở Quảng Bình thì nội tổ của ông Diệm thuộc
vào hàng bần dân khốn khổ. Ký giả Robert Shaplen xác định rõ ràng hơn rằng
nội tổ của ông Diệm sinh sống bằng nghề chài lưới cho đến đời thân phụ của
ông Diệm là cụ Ngô Đình Khả, nhờ quân Pháp đánh chiếm và bình định được tỉnh
Quảng Bình, nên liên hệ được các vị cố đạo để được các giáo sĩ cho đi học chữ
Hán và chữ Pháp tại một trường dòng ở Penlang (Mỹ Lai). Trong đám du học sinh
này còn có ông Nguyễn Hữu Bài, người Công giáo quê Quảng Trị, một nhân vật
thủ đoạn và có cùng một cảnh ngộ thơ ấu bần hàn như cụ Ngô Đình Khả.
Hai ông Khả và Bài sau khi học xong được người Pháp đưa về
nước và cho làm thông dịch viên ở toà Khâm sứ Huế. Thời bấy giờ số người Việt
nói và viết được tiếng Pháp còn rất hiếm hoi, nhất là ở Trung kỳ, hai ông lại
được Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp đặc biệt nâng đỡ nên đã được các viên
chức cai trị Pháp trọng dụng và được triều đình An nam phong chức tước và
phẩm hàm rất mau.
Năm 1855, khi phong trào Cần vương ở Quảng Bình nổi lên phò
vua Hàm Nghi chống Pháp, cụ Ngô Đình Khả được quân Pháp và triều đình An nam
cử giữ chức An - Phủ - Sứ về tỉnh nhà lo việc bình định và chiêu an dưới
quyền điều khiển của đại tá Pháp Duvillier, uỷ viên chính phủ vùng Bắc xứ
Trung kỳ. Một nhà văn cũng là nhà viết sử bạn của tôi chuyên nghiên cứu về
phong thổ miền Trung thuộc nhà Nguyễn, năm 1945, lúc đang ở Quảng Bình, thâu
nhập được một tờ báo cáo viết tay của cụ Ngô Đình Khả gởi cho công sứ Pháp
Quảng Bình trình bày kết quả của cuộc bình định tỉnh này. Năm 1956, nhân viên
làm việc tại Nha Văn Hoá Bộ Giáo dục, ông bạn của tôi vào dinh Độc lập tặng
tờ báo cáo đó cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhìn thấy bút tích của thân phụ,
ông Diệm mừng lắm ngỏ lời khen ngợi và cảm ơn bạn tôi, ông Diệm còn nói thêm:
"Trong việc bình định tỉnh Quảng Bình, thầy tôi không dùng đến quân sự
mà chỉ đem heo gạo lên núi chiêu dụ những kẻ chống đối về với chính phủ”. Dù
bình định bằng võ lực hay bằng chiêu dụ thì hành động của cụ Ngộ Đình Khả
cũng là làm tay sai cho Pháp trong việc đàn áp Phong trào Kháng Chiến chống
thực dân xâm lăng của dân tộc.
Năm 1887, vua Đồng Khánh băng hà sau ba năm trị vì ngắn ngủi,
người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương (gồm bốn đơn vị hành chính:
Cochinchine, An nam, Tonkin, và Cambodge. Vương quốc Lào được sát nhập sau đó
vào năm 1893) để thống nhất các cơ cấu hành chính, đồng thời áp lực với triều
đình An- Nam để lập con của ông Dục Đức là Bửu Lân lên làm vua, hiệu là Thành
Thái.
Vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi nên triều đình cử hai
vị đại thần là Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đáng làm Phụ chánh. Riêng cụ
Ngô Đình Khả, nhờ có công dẹp được các cuộc nổi loạn chống Pháp ở tỉnh Quảng
Bình, nhờ có liên hệ chặt chẽ với các giới chức Pháp cả bên chính quyền lẫn
bên Hội truyền giáo nên được cứ vào chức Cận thần mang hàm Thượng thư bên
cạnh vua Thành Thái, đồng thời người Pháp cũng vận động đề cử Nguyễn Hữu Bài
làm Thượng thư Bộ Công. Hai nhân vật này dù không xuất thân từ nơi khoa giáp
và không thăng chức theo hệ thống quan trường mà vẫn một bước nhảy vọt nắm
giữ những chức vụ tối quan trọng với những phẩm hàm cao cấp nhất là vì người
Pháp với sức mạnh toàn quyền trong tay muốn có những người thân tín là cụ Khả
để kiểm soát nhà vua và cụ Bài để kiểm soát triều đình.
Tuy nhiên trong lúc con đường quan trường của ông Nguyễn Hữu
Bài kéo dài cho đến thời già cả (trên 70 tuổi) mà chức vụ cuối cùng là Thượng
thư đầu triều hàm Võ Hiển Đại học sĩ, thì công danh của ông Ngô Đình Khả lại
nửa đường đứt gánh. Theo tổng thống Diệm kể lại cho ký giả Shaplen trong một
cuộc phỏng vấn dài 6 tiếng đồng hồ tại dinh Gia Long năm 1962 thì thân phụ
của ông mất chức vì người Pháp nghi ngờ cụ Khả có liên hệ đến một âm mưa
chống Pháp, vì cụ Khả đã chống lại việc người Pháp đã truất phế và đày vua
Thành Thái. Nhưng theo bạn của tôi và những vị cựu quan lại, những nhân vật
thuộc Nguyễn Phước Tộc kể lại việc ông Khả bị mất chức thật ra là vì lúc còn
cận thần ông đã tự động dựng một ngôi giáo đường trong Hoành thành trái với
bầu không khí và màu sắc hoàn toàn Tam giáo nơi cung cấm của nhà Nguyễn và
bất cần những lời phản đối của các vị quan khác và Hoàng Gia. Vì thế mà nhân
cơ hội vua Thành Thái bị truất phế, triều đình hạch tội ông Ngô Đình Khả đã
khinh mạn Hoàng gia, giáng ông xuống ba cấp và cho về hưu non. Thật ra thì vụ
xây ngôi giáo đường chỉ là một cái cớ, cái cớ cuối cùng và cụ thể nhất của
một chuỗi dài những mâu thuẫn và xung khắc của nhiều thế lực. Nguyên Khâm sứ
Trung kỳ lúc bấy giờ là Lévéque, thuộc hội Tam- Điểm (Frane-Nacon), có khuynh
hướng chống sự bành trướng quyền lực của Hội Thánh Thiên chúa giáo và cũng
thường có thái độ khinh mạn nhà vua và triều đình An-nam. Với tư cách là khâm
sứ Trung kỳ y có toàn quyền trực tiếp hay gián tiếp quyết định bổ nhiệm, thay
đổi hay cách chức các quan lại An-nam. Ông Ngô Đình Khả hội đủ hai yếu tố cho
Lévéque khinh ghét: quan lại và Thiên chúa giáo, lại không được các bạn đồng
liêu bênh vực nên khi vua Thành Thái bị truất phế ông không còn tư cách gì để
làm cận thần, và Hội truyền giáo cũng không đủ sức mạnh để cứu ông khỏi bị
Levéque vận động với một triều đình sẵn sàng đuổi ông về.
Do đó, ngôi giáo đường trong Đại Nội chỉ là cái cớ có thật
cuối cùng. Và cũng do đó, tiếng đồn rằng vì "Đày vua không Khả" nên
ông Ngô Đình Khả bị mất chức cũng chỉ là tiếng đồn được phóng đại thêm vì rõ
ràng chính cụ Nguyễn Hữu Bài, vừa không chịu ký giấy đào mồ vua (Đào mả không
Bài), lại vừa công khai bênh vực Kỳ ngoại hầu Cường Để, một hoàng thân quốc
thích có khuynh hướng và hành động chống Pháp rõ rệt, mà vẫn thăng quan tiến
chức mau lẹ và nắm giữ giềng mối triều đình mấy chục năm trời.
(Tuy nhiên, phải nói thêm rằng quyết định ủng hộ Kỳ ngoại hầu
Cường Để của ông Bài lúc đó, và cả ông Diệm của những năm 40 sau này, chỉ
phản ánh chiến lược chính trị của Hội truyền giáo Hải ngoại muốn phục hồi chi
hệ của Hoàng tử Cảnh, vị hoàng tử đã được giám mục Pingeau de Behaine đỡ đầu
theo Thiên chúa giáo và bị vua Minh Mạng biếm vị từ cả gần thế kỷ rưỡi
trước).
Theo cụ Trương Văn Huê, một nhân sĩ lão thành Thiên chúa giáo
tại Phú Cam, nơi gia đình ông Ngô Đình Khả trú ngụ thì khi bị giáng chức rồi
về hưu sớm, cụ Khả thường mặc đồ nâu, quần ống cao ống thấp, chân đi guốc gỗ
và thường đến ngồi trước sân nhà thờ Phú Cam, miệng lẩm cẩm chửi bới đích
danh các vị quan tại triều. Thái độ hằn học một cách sống sượng với các vị
đại thần này phản ánh một tình cảm căm thù vì quyền lợi mất mát, đường tiến
thủ bị bế tắc hơn là, và đáng lẽ là một tình cảm kiêu hãnh vì giữ tấm lòng
trung trinh không chịu đày ải vị vua của mình.
Khi về hưu, cụ Ngô Đình Khả tạo được một ngôi nhà lầu tại Phú
Cam, một mảnh vườn khá rộng và mấy mẫu ruộng ở cánh đồng An Cựu gần thành phố
Huế. Cụ Khả có 8 người con: 6 trai và 2 gái, con trai là các ông: Ngô Đình
Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, và Ngô Đình
Luyện. Hai người con gái là bà Ngô Thị Giáo tức là thân mẫu của đức cha
Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Thị Hiệp, nhạc mẫu của Bộ trưởng Bộ quốc phòng
Trần Trung Dung. Ông Ngô Đình Diệm sinh tại Huế ngày 3 tháng Giêng năm 1901
(năm Canh Tý), ra đời khi thân phụ còn làm quan tại triều, nhưng lại trưởng
thành khi gia đình không còn được sung túc vì cụ Khả đông con mà lại về hưu
sớm. Lớn lên ông Diệm vào trường tư thục Công giáo Pellerin tại Huế, đỗ bằng
Thành Chung tức bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp sau này, ròi thi vào trường Hậu Bổ
dưới triều vua Khải Định, một vị nổi tiếng Việt gian.
Muốn được vào trường Hậu Bổ thí sinh chỉ cần có học lực ngang
cấp tiểu học nhưng phải có trình độ căn bản về Hán học. Thời gian học là ba
năm có nghỉ hè, nghi lễ theo niên khoá của các trường phổ thông. Khi ra
trường, thí sinh phải có trình độ ngang với cấp bằng trung học đệ nhất cấp
ngoại trừ có thêm môn Kinh nghĩa, thi phú và môn luật bằng Hán văn.
Rõ ràng vua Khải Định, một ông vua nổi tiếng Việt gian, đã
cùng với thực dân Pháp trong buổi giao thời Hán - Việt tây ta lẫn lộn, cải
đổi trường Quốc Tử Giám, nơi đào tạo quan trường theo tinh thần "Cần,
Kiệm, Liêm, Chính" của đạo lý Khổng Mạnh thành ra trường Hậu Bổ, nơi
khai sinh một số người thừa hành của Nam trêu để phục vụ cho bộ máy cai trị
của chế độ bảo hộ Pháp. Từ thời đó cho đến ngày tàn của thực dân vào năm
1945, việc thăng quan tiến chức của một ông quan An nam tuỳ thuộc vào ba yếu
tố: Thứ nhất là phải có lòng trung thành tuyệt đối với mẫu quốc Pháp, lập
được nhiều công trạng cho chế độ Bảo hộ. Thứ hai là phải có liên hệ thân thiết
với nhà vua và các vị địa thần. Thứ ba là phải có tiền lo lót cho cấp trên.
Lịch sử còn cho thấy dưới triều vua Khải Định có nhiều ông quan dâng vợ, dâng
con gái cho quan Tây để mau lên chức, mau làm quan lo.
Lẽ dĩ nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt mà một vị quan,
dù ở bậc Thượng thư hay chỉ có hàm Cửu phẩm, thu đạt được địa vị của mình
không nhờ ba yếu tố kể trên mà nhờ chính thực tài và sự ngay thẳng của mình.
Tuy nhiên, biệt lệ này quả thật hiếm hoi.
Ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ trường Hậu Bổ đó và được làm
quan dưới triều Khải Định, Cụ Tôn Thất Toại, vị Thượng thư trí sĩ bạn vong
niên của kẻ viết, từng hoạt động hăng hái cho Phong trào Cách mạng quốc gia ở
Nha Trang và là cựu dân biểu khoá I thời Đệ nhất cộng hoà, cho biết rằng cụ
và hai ông Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm vốn là bạn chí thân cùng học ở
trường Pellerin và trường Hậu Bổ. Nhưng khi học xong thì tất cả những sĩ tử
chỉ được bổ vào các ngạch tập sự, riêng một mình ông Diệm là được bổ ngay vào
chức Tri huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Trong ngạch quan lại thời đó, mỗi
chức vụ phải qua ba, bốn cấp mỗi cấp phải có ít nhất ba năm thâm niên, thế là
ông Diệm lại thăng quan tiến chức mau như diều gặp gió, một đặc cách vượt bực
không ai có trừ những nhân vật làm quan tắt như ông Phạm Quỳnh chẳng hạn. Năm
23 tuổi, ông Diệm làm Tri huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), lên Tri phủ Hải Lăng
(Quảng Trị), lên Quản Đạo Ninh Thuận (tỉnh trưởng hạng nhỏ), lên Tuần Vũ Bình
Thuận (tỉnh trưởng hạng trung). Năm 1933, lúc ông mới 32 tuổi, đước thăng lên
Thượng thư Bộ lại, nghĩa là chức vụ đầu triều đứng trên hết hàng quan lại An
nam. Chỉ trong vòng mười năm mà ông Diệm vượt hết mọi nấc thang hoạn lộ, việc
mà những quan lại khác phải mất ít nhất là 30 năm trời. Ông Diệm chưa bao giờ
ra Hà nội học trường Luật hay trường Quốc gia Hành chính như văn phòng báo
chí phủ Tổng thống đã đưa ra để huyễn hoặc một số ký giả Việt nam và ngoại
quốc lầm lẫn ghi vào sách báo của họ. Tuy nhiên, ông Diệm là một ông quan nổi
tiếng cần mẫn thanh liêm.
Thời làm quan huyện quan tỉnh, ông bận áo gấm đội nón chóp đeo
bài ngà, mỗi lần đi hành hạt thường cỡi ngựa để về các làng quê. Ông vừa làm
quan cai trị vừa là quan Tư pháp, vừa làm nhiệm vụ cảnh sát giữ gìn trật tự
an ninh cho địa phương do ông cầm đầu dưới sự giám sát của quan công sứ Pháp
và theo chánh sách của chế độ bảo hộ Pháp. Nhiệm vụ đặc biệt của ông quan
huyện quan tỉnh lúc bấy giờ là đốc thúc dân chúng trong việc nạp thuế má và
ngồi ở công đường xét xử các vụ kiện cáo của dân trong quản hạt. Thời làm
quan, ông Diệm đặc biệt có tài khám phá nhiều tổ Cộng sản hoạt động bí mật
nên được chính phủ Bảo hộ rất tín nhiệm do đó mà mới 29 tuổi ông đã được
thăng lên chức Tuần Vũ Bình Thuận và sau đó ông thăng chức Thượng thư Bộ Lại
như đã nói trên kia.
Nhưng trong lúc ông Diệm là một vị quan lại thanh liêm thì
người anh ruột ông là Ngô Đình Khôi làm Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam, một tỉnh lớn
thứ hai của triều đình An nam, của xứ Trung Kỳ, lại là một vị quan mang tiếng
tham quan ô lại và có tác phong bê bối. Dư luận còn nói rằng ông Khôi tằng
tịu với vợ con thuộc cấp. Dư luận còn nói rằng sở dĩ ông Khôi thích ăn hối lộ
kể cả những món tiền rất nhỏ vì ông rất cần tiền để gởi cho hai người em ăn
học ở Pháp. Những dư luận trên đây vẫn còn được các bậc cao niên quê tỉnh
Quảng Nam hiện nay ở hải ngoại kể lại mỗi khi nhắc đến chuyện xưa cũ nơi quê
nhà... Ông Ngô Đình Cẩn, thời ông Diệm chưa cầm chính quyền cai trị miền Nam
có kể lại cho chúng tôi nghe rằng sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, ông Diệm
thường vào Quảng Nam ở chơi với ông Ngô Đình Khôi, có lần thấy tư cách bất
chính của anh mình ông giận lắm bèn đi bộ từ Hội An ra Đà Nẵng (40 cây số)
lấy vé tàu hoả để về Huế rồi gởi thư trách móc anh mình thiếu tác phong của
một bậc "dân chi phụ mẫu".
Việc thăng quan tiến chức vượt bực của anh em nhà họ Ngô Đình
làm cho giới quan trường vừa ganh tức vừa khinh bỉ. Họ làm thơ đế chế giễu
“vây cánh” nhà Ngô sở dĩ tiến mau trên đường lợi danh là chỉ nhờ thế thần vây
cánh:
Làm quan nam triều
Lênh đênh chiếc bánh buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nắn hầu bao.
Chật trong bể hoạn thêm mình nữa,
Theo hết rừng "Hàn" biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đình ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.
(Ghi chú: "Rừng Hàn" là hệ thống phẩm trật "Hàn
Lâm" trong ngạch văn giai của quan lại Nam Triều).
Những ai đã từng chịu khó theo dõi không khí và khung cách
quan trường thời Mạt Nguyễn đều biết rằng tất cả các hàng quan lại, nhất là
hàng quan cao cấp từ Tuần Vũ trở lên, không mấy ai thân yêu kính phục anh em
nhà họ Ngô Đình. Thời bấy giờ những giòng họ có người làm quan to như họ
Phạm, họ Võ, họ Thân - Trọng, Hồ Đắc, Trương Như, Nguyễn Khoa, Tôn Thất...
đều coi anh em nhà họ Ngô Đình như người xa lạ, nếu không muốn nói là như kẻ
thù. Sở dĩ có tình trạng đó là vì dòng họ Ngô Đình vừa theo đạo Thiên Chúa
vừa không xuất thân từ hàng khoa giáp, không có trình độ học vấn cao mà chỉ
vào thế lực của các cố đạo và các quan cai trị Pháp để được thăng thưởng mau
lẹ. Đã thế, vì anh em họ Ngô lại khép kín, cao ngạo, nên rất tự nhiên mà giới
quan lại ngấm ngầm chia rẽ ra hai phe, phe Phật giáo và phe Thiên chúa giáo.
Nếu tổng hợp sự kiện cụ Khả bị triều đình cách chức cho về hưu
sớm, sự kiện có những bài thơ phổ biến trong nhân gian để chế giễu “phe” Ngô
Đình, với lời phê phán của giáo sư Nguyễn Văn Xuân về tính thâm hiểm gian xảo
của cụ Bài, và nhận định của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí về con người
“thâm” của ông Ngô Đình Diệm ta có thể hình dung ra được nếp sống cách biệt
với lề lối hành xử thiếu giao cảm của nhà Ngô Đình cũng như tình cảm nghi kỵ
và ganh ghét của các bạn đồng liêu lúc bấy giờ.
Sở dĩ bước đường công danh của anh em ông Diệm ông Khôi thênh
thang dễ dàng và thăng tiến mau lẹ và nhờ vào cột trụ Nguyễn Hữu Bài, vị tể
tướng đứng đầu triều đình An nam, người đã được thực dân Pháp hun đúc từ ngày
mới đi học ở trường Đạo Penang về, từ thời còn là thông ngôn ở toà Khâm sứ
Huế. Võ Hiền Nguyễn Hữu Bài lại còn là nhạc phụ của ông Ngô Đình Khôi và là
người đỡ đầu cho ông Ngô Đình Diệm. Chỉ có vị quan đầu triều thế lực tột đỉnh
như Nguyễn Hữu Bài, người nắm toàn quyền giềng mối triều đình An nam trong
lúc vua Bảo Đại còn bận du học ở Pháp mới có đủ quyền lực hoá phép cho ông
Diệm mang đôi hia bảy dặm trên con đường hoạn lộ, để chỉ trong 10 năm mà từ
Tri Huyện lên đến chức Thượng thư. Cũng chỉ có Nguyễn Hữu Bài mới có đủ uy
thế để tiến cử ông Diệm với Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại thay thế mình về
hưu dù ông Diệm tuổi còn rất trẻ, đù ông Diệm mới chỉ là Tuần vũ một tỉnh
nhỏ. Cái gì đã tạo cho Nguyễn Hữu Bài uy quyền và sức mạnh để khuynh loát
triều đình An nam lúc bấy giờ? Cái gì đã cho phép ông Nguyễn Hữu Bài một bước
nhảy vọt lên làm Thượng thư đầu triều, quán xuyến mọi sinh hoạt triều chính
để có thể đạp mọi thủ tục mà nâng người này lên hay đè người khác xuống trong
khi khả năng thật sự và quá trình đóng góp cho triều đình của ông không đáng
kể? Câu trả lời mà nhiều người biết gồm hai phần: Phần thứ nhất là cái trạng
huống chung của đất nước thời Bảo Hộ mà định chế được gọi là "triều
đình" chỉ là một cơ quan bất lực và vô quyền, ai có sức mạnh thì thao
túng được. Và phần thứ hai là chánh Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp đã trao
cho Nguyễn Hữu Bài cái sức mạnh vô địch của giáo quyền phối hợp với thế quyền
của kẻ chiến thắng để, xuyên qua lá bài này, tiến hành chính sách Công giáo
hoá Việt nam (gli affarê publici). (Lịch sử Hội truyền giáo Hải ngoại Pháp
gắn liền với lịch sử bành trướng của Pháp ở Đông Dương. Một sáng lập viên của
Hội, Giáo sĩ Pallu, đã làm gạch nối giữa hai triều đình Pháp-Việt, Giáo sĩ
Pingeau de Behaine sau đó thắt chặt thêm sợi dây liên lạc: sự can thiệp của
những thành viên của Hội đưa đến cuộc can thiệp quân sự của Pháp tại Việt nam
- theo Charles May bon Historie Monderne du Pays d'annam).
Nên từ thế kỷ thứ tư, lịch sử Giáo hội La mã đã có những vị
Giáo hoàng như Silvester cấu kết với Hoàng đế Constantine để xây dựng Giáo
hội (năm 314), đã có những Giáo hoàng như Leo khi chết để lại một chúc thư
(năm 461) rằng Hội Thánh Thiên chúa giáo thì bất phân ly với đế quốc La mã và
khi tốt cũng như xấu, chính là đế quốc La mã"... thì Hội truyền giáo Hải
ngoại Pháp, trong giai đoạn của một chính quyền Pháp còn sống với những ảo
tưởng vàng son của một đế quốc oai hùng xa xưa, cũng đã hành xứ với đầy đủ uy
lực trên mảnh đất Việt nam nghèo nàn xa xăm để phối hợp chặt chẽ chính sách thực
dân (chính trị) với chính sách truyền giáo (tôn giáo).
Hãy đọc bản báo cáo của toàn quyền Beau gởi trình cho chính
phủ Pháp nhân dịp tìm người kế vị vua Thành Thái thì đủ thấy thế lực của
Nguyễn Hữu Bài, dù chỉ là một con cờ uỷ nhiệm bản xứ, nhưng cũng đã mạnh như
thế nào:
... Ngày 3 tháng 9 năm 1907, tôi đến Huế để chứng kiến lễ
thoái vị của vua Thành Thái. Viên chánh văn phòng của tôi liền đi thăm các
quan đại thần của triều đình Huế để dò la cho biết tư tưởng của họ đối với
thời cuộc Các vị này đêu công kích liệt tất cả nhân vật đưa ra, nhưng họ thận
trọng không đề nghị một ai cả, chỉ cùng thốt câu sáo ngữ: "Chúng tôi sẽ
đồng ý và hoan nghênh bất kỳ một ông vua nào mà chính phủ Bảo hộ tuyển
chọn".
Riêng có Nguyễn Hữu Bài, Công bộ Thượng thư, có nói đến cái
tên Cường Để và tỏ thái độ thẳng thắn ủng hộ. Ông ta làm tôi lưu ý vì ông có
đạo Thiên Chúa, ý kiến của ông có thể đưa toàn thể thế lực ấy tán đồng (theo
Thái Văn Kiểm, “Đất Việt Trời Nam”).
Nếu "ý kiến của ông có thể được Hội truyền giáo tán đồng”
thì điều chắc chắn là ý kiến của Hội truyền giáo cũng sẽ được phản ảnh qua
lập trường và hành động của ông Nguyễn Hữu Bài, mà chính quyền Bảo hộ Pháp
cần lưu tâm đến.
Thế lực Hội truyền giáo mạnh mẽ như thế để cho ta thấy rõ vì
sao khi mà Nguyễn Hữu Bài đã muốn là có thể xây dựng được uy thế cho một Ngô
Đình Diệm từ thời ông Diệm còn là một sinh viên trường Hậu Bổ, vì sao Bảo Đại
phải chấp nhận cho Ngô Đình Diệm làm Thượng thư Bộ Lại, và vì sao Hội truyền
giáo Hải ngoại Pháp khi đã muốn là có thể sắp đặt được để có một bà Hoàng hậu
theo Thiên chúa giáo.
Về triều giữ chức Thượng thư Bộ Lại, ông Diệm đòi hỏi người
Pháp phải thực hiện những cải cách xã hội như họ đã hứa với vua Bảo Đại.
Những cải cách xã hội đại để gồm có những mục như:
- Triều đình An nam có toàn quyền bố cáo, thưởng phạt trong
vấn đề nhân sự của Nam Triều.
- Triều đình An nam có ngân sách riêng, có tài chính riêng, tư
pháp riêng.
- Mở rộng nền giáo dục.
- Thiết lập Viện Dân biểu.
- Người Pháp phải thực thi đúng đắn Hoà ước 1884, nghĩa là Hoà
ước vẫn còn để cho Triều đình An nam (Trung Kỳ) một ít quyền hành nội bộ dù
Hoà ước vẫn công nhận nền bảo hộ Pháp là điều kiện chính yếu.
Điều cần phải nói rõ là những dự định cải cách trên đây là do
vua Bảo Đại đòi hỏi khi ông mới về nước và đã được người Pháp hứa hẹn. Những
dự định cải cách này cũng đã được ông Phạm Quỳnh nguyên chủ bút Nam Phong đề
nghị từ năm 1931 khi vua Bảo Đại chưa hồi loan. Phạm Quỳnh còn đi xa hơn là
đòi hỏi việc sáp nhập Bắc Kỳ và Trung Kỳ vốn là hai xứ Bảo hộ riêng biệt
thành một vương quốc có hiến pháp hắn hoi, nghĩa là chủ trương một nước Việt
nam theo chế độ quân chủ lập hiến tự trị trong một Liên Bang Đông Dương thuộc
Pháp.
Còn ông Diệm thì vẫn trung thành với chính sách của người Pháp
từ ngày ông làm Tri Huyện cho lên đến chức Tuần vũ tỉnh Bình Thuận. Cho đến
khi được Bảo Đại cử làm Thượng thư Bộ Lại và được chỉ định cầm đầu “Uỷ ban
Ban Cải Cách” ông mới đòi hỏi việc thi hành những cải cách mà người Pháp đã
hứa với nhà Vua. Nhưng ông Diệm gặp phải phản ứng quyết liệt của Phạm Quỳnh,
người của Sở Chính trị Pháp (Servic Civil) ông thất bại trong việc tranh chấp
với ông Quỳnh nên chỉ làm Thượng thư Bộ Lại được 4 tháng thì phải xin từ
chức.
Để giải thích sự tranh chấp có vẻ khó hiểu của hai vị Thượng
thư cùng được đỡ đầu và được bảo vệ từ một nguồn thế lực là Pháp, ta cần thấy
rõ bản chất thật sự của sự cấu kết giữa Hội truyền giáo Hải ngoại và chính
quyền thực dân Pháp. Sự cấu kết đó dựa trên căn bản hỗ tương quyền lợi và
quân nhân trách nhiệm: Thực dân Pháp phải nấp đàng sau những chiếc áo chùng
thâm mới có được cái chính nghĩa “nhiệm vụ khai hoá” (missio civilisatriee):
các tu sĩ Thiên chúa giáo phải được che chở bằng súng đạn của bộ máy xâm lược
mới bình định được các cuộc thống ngoại xâm bản xứ để rao truyền đức tin của
Chúa Ki tô. Đó là quyền lợi hỗ tương giữa giáo quyền và thế quyền mà lịch sử
Giáo hội La mã và đế quốc sự sinh tồn của Giáo hội và chính Đức Giáo Hoàng
John Paul II vào năm 1978 đã phải lên tiếng cảnh cáo rằng khói lửa của quỉ Sa
tan đã tràn vào Giáo hội. Tuy nhiên, trong tiến trình cấu kết này, vấn đề
quân phân trách nhiệm không phải lúc nào cũng minh bạch và được tôn trọng.
Giáo hội đã có lúc vượt hạn chế để hành xử thế quyền cũng như các đế quốc
cũng đã có lúc uy hiếp Giáo hội để khuynh loát giáo quyền.
Những va chạm dễ hiểu đó đã chạy dài suốt quá trình phát triển
của Giáo hội La mã và các đế quốc Địa Trung Hải, và ở một kích thước nhỏ hơn
nhưng rõ rệt hơn, đã thể hiện rõ ràng trong cuộc xâm thực văn hoá chính trị
trên đất nước ta trong những triều đại nhà Nguyễn. Ví dụ hiển nhiên nhất là
chính sách ngu dân của Pháp tìm đủ mọi cách để duy trì và khuyến khích các
truyền thống và hình thái cổ tục của dân ta trong khi các vị truyền đạo lại
tìm đủ mọi cách để đả phá và bài trừ những tục lệ cổ truyền đó của văn hoá
dân tộc để dễ dàng len lỏi giáo lý Thiên Chúa giáo và tín ngưỡng dân ta.
Chính giám mục Puginier đã chủ trương trong 30 năm phải thực
hiện cho xong công cuộc Công giáo toàn bộ Bắc kỳ để biến miền này thành một
tỉnh quận của Pháp gồm toàn người Việt theo đạo Thiên Chúa, trong khi đó thì
Toàn quyền Đông Dương Lanessan lại tìm cách gây cảm tình với người Việt, đối
đãi với người Việt theo lễ phép và phong tục địa phương, nhiều khi còn long
trọng đến dự lễ khánh thành các chùa đền, lăng miếu. Chính sách của Lanessan đã
làm cho các giáo đoàn e sợ, vì thế giáo đoàn phải vận động để Lanessan bị mất
chức và bị triệu hồi về Pháp.
Vì các viên chức cai trị Pháp ở Đông Dương không thể chịu đựng
mãi sự thao túng của các vị cố đạo nên nhân dịp triều đình An nam chỉnh đốn
nội bộ lúc vua trẻ Bảo Đại mới về nước, họ bèn đặt Phạm Quỳnh là người thân
tín của họ vào để cản trở những kế hoạch của Hội truyền giáo mà ông Ngô Đình
Diệm là đại diện. Trong cuộc tranh chấp này, Sở Chính trị không những chỉ
phải lo đối phó với Ngô Đình Diệm mà còn muốn nắm vững bà Nam Phương Hoàng
hậu vốn cũng là con bài của Hội truyền giáo, họ bèn đặt cạnh bà một người
thân tín khác của họ làm bí thư, đó là ông Nguyễn Tiến Lãng, một thứ con nuôi
của toàn quyền Robin. Thật ra không phải chỉ vì không đòi hỏi được những cải
cách mà ông Diệm xin từ chức ngay, chứng cớ là hơn 10 năm làm quan Huyện quan
Tỉnh, ông vẫn thi hành triệt để chính sách của người Pháp.
Vả lại dù sao thì ông Phạm Quỳnh cũng là một viên quan lại như
ông mà còn kém cả phẩm hàm chức tước Đã vậy trong các cuộc tranh luận công
khai, ông Diệm lại bị đàn áp về lý luận cũng như về ngôn ngữ trước tài hùng
biện và kiến thức uyên bác của một Phạm Quỳnh vừa là nhà báo vừa là học giả.
Như vậy, việc ông Diệm từ chức Thượng thư rõ ràng phần lớn là
do áp lực của người Pháp và Phạm Quỳnh. Riêng Bảo Đại, khi cho thu hồi bằng
sắc, huy chương của ông Diệm chẳng qua cũng chỉ như ông Diệm, nghĩa là vì áp
lực của thực dân mà chính Bảo Đại, trong công việc này, cũng tỏ ra bất mãn
với người Pháp, tỏ ra luyến tiếc sự ra đi của một trung thần mà dòng họ đã ba
đời khuông phò nhà Nguyễn, mà thế hệ anh em ông Diệm đã là thần tử tận tuỵ
với tiên vương. Thế mà sau khi từ chức, ông Diệm lại phò Cường Để với ý đồ
nhờ quân đội Nhật Bản lật đổ ngai vàng của Bảo Đại. Trước sự phản bội của ông
Diệm, Bảo Đại vẫn không thù oán, vẫn nhớ đến cựu thần, hai lần đánh điện vào
Sài gòn mời ông Diệm về lập chính phủ. Không ngờ người Nhật đã bỏ rơi lá bài
Cường Để và Ngô Đình Diệm, và sau đó không chịu trao điện tín lại làm cho
cuộc tái hợp vua tôi không thành tựu, và cũng do đó mà Bảo Đại phải mời học
giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Nhưng rồi Việt minh cướp chính quyền, Bảo
Đại từ bỏ ngai vàng trở thành một công dân, rồi làm tối cao Cố vấn cho Hồ Chí
Minh trong lúc Ngô Đình Diệm bị Việt minh đày ải nơi miền sơn cước, gần biên
giới Hoa - Việt.
Giữa năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại về nước lãnh đạo quốc gia,
đặt văn phòng tại Đà Lạt để tránh cái nghênh ngang của Cao uỷ Pháp đang ngự
trị tại dinh Norodom.
Không lẽ Quốc trưởng mà lại ở dinh Gia Long, sao còn thể
thống?
Người ngoài không ai biết được giữa ông Bảo Đại và ông Ngô
Đình Diệm có liên lạc công khai hay bí mật nào không, nhưng một điều chắc
chắn là ông bà Ngô Đình Nhu (vốn ở đường Hoàng Hoa Thám Đà Lạt) vẫn giao du
với Quốc trưởng, đặc biệt là bà Nhu, mỗi tuần 3, 4 lần, có khi cả ban đêm,
thường đến biệt điện số 1, nơi Quốc trưởng trú ngụ để dạy Quốc trưởng đàn
dương cầm. Việc này thì nhân viên văn phòng đức Quốc trưởng và Ngự lâm quân
không mấy ai không biết. Môi trường và các thế lực chính trị lúc bấy giờ tại
Việt nam quả thật không thuận lợi cho những nỗ lực hoạt động của ông Diệm:
Ngoài kẻ thù Cộng sản đang điều động kháng chiến, các lực lượng chống cộng
khác như chính quyền Pháp thì không tin tưởng ở ông, chính phủ Việt nam mà
thể hiện rõ ràng là thành phần lãnh đạo thì chống ông, các đảng phái và giáo
phái thì nghi ngờ ông, đại đa số giáo dân và giám mục Lê Hữu Từ cũng không
đặt kỳ vọng hay dành thiện cảm cho ông. Triển vọng của ông Diệm để xây dựng
một thế đứng chính trị thoát dậy từ một trạng huống như vậy để tiến lên áp
lực Bảo Đại để được uỷ nhiệm làm Thủ tướng nắm chính quyền tỏ ra rất mong
manh nếu không muốn nói là vô vọng.
Lượng giá đúng như vậy cho nên lối thoát còn lại cho ông Diệm
để khai thông bế tắc sự nghiệp chính trị của đời mình mà nương dựa vào ngoại
lực để áp đảo và san định tình hình trong nước. Đối với ông Diệm, phương thức
này không phải là mới mẻ. Thời đô hộ ông dựa vào Hội truyền giáo và Thực dân
Pháp để làm quan; thời Nhật chiếm đóng ông dựa vào người Nhật để hoạt động
cho nên bây giờ, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Pháp Việt, với một chính
thể quốc trưởng Bảo Đại không thuận lợi cho ông, ông bèn dĩ nhiên, tìm một
thế lực quốc tế khác để nhờ cậy.
Cuối năm 1950, ông xuất ngoại mãi cho đến năm 1954, nhờ thế
lực của Toà thánh La mã, của Hồng y Spellman, của phong trào cộng hoà Bình
dân Thiên Chúa giáo Pháp (MRP), và đặc biệt nhờ Hoa kỳ làm áp lực với chính
quyền Pháp cùng với Bảo Đại, và cũng như vận động ngầm của bà Nam Phương,
cuối cùng ông Diệm đã được Quốc trưởng chỉ định làm Thủ tướng.
Tuy nhiên, cuộc tái hợp giữa cựu hoàng và vị Cựu Thần nhà
Nguyễn chỉ là một hệ quả tạm thời của cuộc tranh chấp chính trị Mỹ - Pháp nên
chỉ sau mấy tháng phải tan vỡ.
Trong những năm từ 1953 đến 1955, mà cao điểm là cuộc Trưng
cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm phải thay Bảo Đại cho
phù hợp với ông thầy Pháp đã nhường quyền cho ông chủ Mỹ trên quê hương ta.
Cuộc Trưng cầu dân ý do chính quyền đương nhiệm của ông Diệm
đứng ra tổ chức và cũng do chính quyền đương nhiệm (dưới hình thức Quốc hội
Lập Hiến) kiểm soát. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, dân chúng miền Nam Việt nam
đến phòng phiếu để chọn lựa giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm theo hai câu thơ
trước đó đã được bộ máy thông tin của ông Diệm ra rả suốt ngày đêm và xuất hiện
đầy rẫy trên các bờ tướng hè phố:
Phiếu xanh ta bỏ vô bì,
Phiếu bỏ Bảo Đại ta thì vất đi.
Kết quả chính thức cuộc Trưng cầu dân ý được đăng vào công báo
là 5.721.735 phiếu xanh có hình ông Diệm (98,2%) và 63.107 phiếu đỏ có hình
Bảo Đại (1,1%). Tại Sài gòn tổng số cử tri là 450.000 người mà số phiếu bỏ
cho ông Diệm lên đến 650.000, nghĩa là số phiếu gian lận là 200.000. Giữa thủ
đô Sài gòn có tai mắt quốc tế mà còn gian lận trắng trợn đến thế, thử hỏi tại
các tỉnh, tại thôn quê thì sự gian lận đến mức nào?
Buồn cười là sự gian lận này đã bị đại tá CA Lansdale, cố vấn
Mỹ của ông Diệm, đoán trước thế nào cũng sẽ xảy ra nên đã cảnh cáo ông Diệm.
Sau khi giúp ông Diệm đè bẹp được Bình Xuyên rồi, Lansdale khuyên ông Diệm
phải tổ chức "Trưng cầu dân ý" để truất phế Bảo Đại cho có chánh
nghĩa. Trước ngày lên đường về Mỹ để lánh mặt cuộc “Tổng tuyển cử”, Lansdale
còn dặn ông Diệm: "Trong lúc đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận
được tin ông thắng 99.99 phần trăm, vì biết đó là âm mưu sắp đặt trước”. Và
ông Diệm đã vâng lời để chỉ thắng... 98,2 phần trăm?...
Lansdale bảo ông Diệm nên tỏ ra công bằng và chỉ cần thu lượm
được một đa số phiếu tương đối là tốt đẹp rồi, không tham lam quá. Nhưng với
bản chất muốn cho mình cái gì cũng "Nhất" anh em ông Diệm bèn tổ chức
bầu cử gian lận. Khốn nỗi, thiên bất dung gian xui khiến cho những kẻ tay
chân vốn nòi nhạy cảm nhưng lại sơ hở bất lực làm cho việc gian lận quá lộ
liễu xảy ra ngay tại thủ đô Sài gòn để cho ngoại giao đoàn và báo chí quốc tế
biết được.
Nói cho cùng thì nếu không tổ chức bầu cử gian lận chưa chắn
ông Diệm đã đắc thắng vẻ vang. Thật thế, nhìn vào bối cảnh đất nước và mùa
thu 1955, lực lượng nhân dân hướng về ông Bảo Đại vẫn còn vô cùng đông đảo;
Cao Đài, Hoà Hảo, Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Nguyễn Phước Tộc, khối người
miền Nam không ưa người Bắc, khối người miền Nam còn nhớ ơn nhà Nguyễn, khối
dân tộc thiểu số của Hoàng Triều Cương Thổ, số người thân Pháp v.v... có thể
làm lệch cán cân "Trưng cầu dân ý". Nhưng quyền lực trong tay, thủ
đoạn gian lận và tiền bạc của Mỹ đã giúp ông Diệm đánh ngã vị cựu Quốc Trưởng
của ông một cách dễ dàng.
Tuy nhiên dù gian lận thì kết quả cuộc đấu phiếu, riêng đối
với ông Diệm, cũng đã giúp ông đạt được hai mục tiêu mà ông đã nhắm đến là
trình diện được một bề mặt dân chủ với chính quyền lẫn Quốc hội Hoa kỳ, và
nâng cao uy thế cá nhân của ông lên đến mức độ tôn sùng như một vị cứu tinh
anh minh của dân tộc. Riêng đối với dân tộc Việt nam, ngày 23 tháng 10 năm
1955 có một ý nghĩa quan trọng hơn hắn những mục tiêu chính trị giai đoạn của
ông Diệm. Đó là ngày chấm dứt triều đại nhà Nguyễn và chế độ quân chủ tại
miền Nam và trao lại cho ông Diệm quyền quản trị đất nước để chống Mỹ, và
quan trọng hơn cả để xây dựng nên móng cho kỷ nguyên dân chủ sau này. Chính
sách và chế độ ông Diệm 9 năm sau đó có làm cho nền móng đó thui chột và có
làm cho Cộng sản mạnh thêm là tội của ông và gia đình đã phản bội lại niềm
tin yêu và lòng tín nhiệm của nhân dân miền Nam thể hiện trong ngày 23 tháng
10 lịch sử này.
Bên lề của biến cố này có hai nhận định tôi cần ghi lại ở đây
như tiếng thở dài chán chường của nhân thế vẫn thường vang vọng trong những
nổi trôi cửa lịch sử. Nhận định thứ nhất về ông Ngô Đình Diệm của Thủ hiến
Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí chỉ một năm trước ngày Trưng cầu dân ý: "Ông
Diệm là người đạo giáo, lại mấy đời thờ nhà Nguyễn, chắc chắn là tôn quân bảo
hoàng và hết lòng với Quốc trưởng Bảo Đại, tài cán của ông Diệm thì chưa ai
rõ nhưng trung thành với Ngài thì tôi có thể tin". Và nhận định thứ hai
về ông Bảo Đại của ký giả Stanley Karnow gần một phần tư thế kỷ sau: “... Khi
cử ông Diệm làm Thủ tướng Bảo Đại có ngờ đâu chính quyết định của mình lại là
một hành động tự ý đào huyệt chôn vùi sự nghiệp chính trị của mình". Thế
là Ngô Đình Diệm từ chủ trương cho Việt nam quy chế "quân chủ lập
hiến" với một Bảo Đại là nhà vua, một Ngô Đình Diệm là Thủ tướng, đã đưa
miền Nam Việt nam đến một thể chế “Cộng hoà" mà ông là vị Tổng thống đầu
tiên, còn vị vua đã từng bổ nhiệm ông làm Thủ tướng, từ nay trở thành kẻ lưu
vong biệt xứ, ngậm đắng nuốt cay nơi đất khách quê người.
***
Năm 1955, với vị thế là cán bộ chính trị trung niên của Thủ
tướng Ngô Đình Diệm, với tư cách là chủ tịch phong trào Cách mạng quốc gia
của bốn tỉnh Duyên hải miền Nam Trung phần, tôi đã hăng say hoạt động cho
chiến dịch truất phế Bảo Đại mà tôi cho là không còn đủ khả năng lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống cộng, và không còn đủ vóc dáng để khai mớ một kỷ nguyên
dân chủ cho đất nước nữa.
Thật ra thì dân ý đang đòi hỏi và hướng về một cuộc thay đổi
gốc rễ để đáp ứng với biến đổi mới của thời đại, và ông Diệm trên mặt chính
trị không cần gian lận và trên mặt luân lý không cần dùng thủ đoạn vu khống
hạ nhục Bảo Đại thì cũng có thể, một cách rất lương thiện và dân chủ, thắng
phiếu trong cuộc Trưng cầu dân ý này. Nhưng những tài liệu do Bộ Thông tin
Sài gòn gởi ra cũng như những chỉ thị mật của Phong trào Cách mạng quốc gia
từ Huế gởi vào cho tôi đều chủ yếu tập trung vào việc lên án những tội lỗi
của Bảo Đại: Bảo Đại bù nhìn, Bảo Đại dâm ô, Bảo Đại tham nhũng, Bảo Đại vô
đức vô tài... Lên án không chưa đủ chỉ thị còn bắt phải khơi dậy lòng căm thù
Bảo Đại trong quần chúng nữa!
Cả một chiến dịch bao trùm từ Cà Mau đến Bến Hải chính quyền
yểm trợ trên cả hai mặt nội dung lẫn phương tiện, hung hăng và rầm rộ tìm
cách đạp Bảo Đại xuống bùn dơ của lịch sử. Cả nước được vận động để phỉ nhổ
Bảo Đại như là một hiện thân xấu xa nhất, hơn cả Lê Chiêu Thống và Lê Long
Đĩnh. Hai đài phát thanh Sài gòn và Huế, phối hợp với báo chí trong gần một
tháng trời, liên tục mạt sát Bảo Đại và thúc giục dân chúng quất roi và đốt
lửa những hình nộm Bảo Đại. Chiến dịch to lớn của một nhân vật quốc gia chống
Cộng (theo Mỹ) để truất phế một nhân vật quốc gia khác cũng chống cộng (nhưng
theo Tây) còn tàn độc và khủng khiếp hơn chiến dịch hạ bệ Bảo Đại của kẻ thù là
cộng sản Việt minh thời 1948, 1949, khi giải pháp Bảo Đại mới ra đời để đối
phó với Hồ Chí Minh.
Sau biến cố đó, nghĩa là khi kết quả chính thức đã được công
bố và thể hiện tượng trưng là việc thu hồi phiếm du thuyền của Bảo Đại và
ngôi biệt thự một tầng ở đường Công Lý của bà Từ Cung, vị cựu hoàng âm thầm
lui vào bóng tối để kéo dài cuộc sống tha hương còn bà Từ Cung thì được phép
trở về An Định Cung An Cựu ở ngoại Hoàng thành để sống nốt chuỗi ngày già lão
trong thảm cảnh đau thương đó mà có lẽ đêm đêm bà đã ngậm ngùi ngâm câu thơ,
khóc thương cho một triều đại suy tàn:
Cung miếu triều xưa đâu vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải quốc kêu thâu.
(Chu Mạnh Trinh)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét