Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

HỒI KÝ TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO CỦA DUYÊN ANH - KỲ 2


1      2      3      4     5     6


CHƯƠNG 5

Chưa có gì mới lạ ở Sa Ác B. Ăn Tết xong là đã bước sang năm 1979. Đội xây cất đã hoàn-thành ba căn nhà. Và tù hình-sự đổ đến 200 mạng, trong số đó có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột nhà văn Mai Thảo. Trại nhộn-nhịp hẳn lên. Thêm các đội phát quang, nông-nghiệp. Đội 17 rau xanh đã lên một số luống, bắt đầu gieo hạt rau cải củ. Mầm chưa kịp nhú thì thầy Để chuyển công-tác giao cho thầy Vinh, một ông nhóc 21 tuổi, ngọng líu lưỡi và quan-trọng hoá mọi việc. Thầy Để ít soi-mói đội. Giao việc xong, thầy đi chơi hay đi ngủ. Thầy Vinh nhòm ngó từng tù-nhân. 
Trại nổi lên phong-trào chơi dao găm. Mỗi thầy một con dao. Bèn có màn gà-men inốc Mỹ bị tịch-thu cái cán cầm. Cán này sẽ làm lưỡi dao găm. Bắt buộc phải giữ lại ba chữ USA. Đội của tôi, anh Nại được thầy Vinh chiếu-cố “sáng-chế” một con dao găm. Thầy Vinh “lạc-quyên” lon guigoz của tù-nhân nào có hai lon. Để đúc cái chuôi dao. Con dao của thầy Vinh vừa xong thì Trung-quốc xua quân xâm-lăng Việt Nam. Chiến-trận do Đài Hà-nội tường-thuật được phát-thanh mỗi tối cho tù-nhân theo dõi. Tù-nhân Việt gốc Hoa bị gom chung thành một đội riêng và bi canh-chừng nghiêm-mật. Chiến-tranh biên-giới Hoa – Việt tạo ra hai phe nhóm chống đối suýt đập lộn giữa các tù-nhân chính-trị ham bầy tỏ quan-điểm. Một phe hí-hửng câu tuyên-bố xấc-xược”Dạy Việt Nam một bài học” của Đặng Tiểu Bình. Phe này hy-vọng chứa-chan câu nói xấc-xược thứ hai “Ăn điểm-tâm ở Hà-nội, ăn trưa ở Huế và ăn tối ở Sàigòn”, vẫn của Đặng Tiểu Bình. Người ta chờ Đặng Tiều Bình giải-phóng các trại tập-trung. Phe thứ hai không tin Trung-quốc dám tiến sâu xuống lãnh-thổ Việt Nam. Phe này dứt-khoát lập-trường, nếu Tầu xâm-lăng Việt Nam, họ sẽ đứng chung với Việt cộng đánh kẻ thù truyền-kiếp của dân-tộc. Tôi đồng quan-điểm phe thứ hai. Nhưng cả hai phe đều nín thinh khi chính-ủy của trại cảnh cáo: 

- Bọn Trung-quốc cách các anh 500 thước, chúng tôi sẽ tiêu-diệt các anh toàn bộ. Các anh đừng hòng có cơ-hội chào đón chúng nó. 

Đặng Tiểu Bình chỉ nói phét. Quân Trung-quốc ôm đầu máu chạy về. Nhiều tù-nhân thất-vọng. Càng thất-vọng hơn với khẩu-hiệu “Đem thù-hận vào sản-xuất”. Chúng tôi phải lao-động thêm giờ, lao-động cả chủ-nhật. Ngày chủ-nhật lao-động gọi là ngày xã-hội chủ-nghĩa. Trại phát-động thi đua…khổ-sai lao-động giữa các đội. Tù-nhân làm hộc máu mồm. 9 tiếng đồng-hồ quần-quật một ngày đổi lấy hai ca bo-bo và dúm muối cục. Ông chủ cộng-sản bóc lột công-nhân tàn-bạo gấp triệu lần ông chủ tư-bản. Mỗi tù-nhân, tính đủ mọi khoản, một tháng nhà nước cộng-sản tốn có 11 đồng 5 hào! Cứ coi ngày lao-động trong tháng là 8 tiếng, nghỉ 4 chủ- nhật thì 11 đồng 5 hào chia cho 208 giờ không ai dám ghi con số thành. Đặng Tiểu Bình đúng là thằng chọc phân chẳng nên lỗ, khiến tù-nhân bị…thi-đua lao-động! 

Không còn gì thê-thảm bằng tù-nhân khổ-sai lao-động trong quỹ-đạo cộng-sản. Đã là tù, bị cưỡng-bức làm việc còn bị thi-đua…ăn giải. Lại còn phải họp-hành, bình-bầu cá-nhân xuất-sắc, bình-bầu mức ăn. Có ba tiêu-chuẩn ăn

18 ký-lô thực-phẩm một tháng cho một tù-nhân xuất-sắc
15 ký-lô cho một tù-nhân trung-bình.
13 ký-lô 50 cho một tù-nhân lao-động kém.
Một đội có 4 tù-nhân được ăn tiêu chuẩn 18 ký lô. Một tù-nhân ăn 18 ký thì 2 tù-nhân bị ăn 13 ký 50. Tù-nhân xuất-sắc ăn bớt phần của tù-nhân kém. Bình quân, mỗi tù nhân 15 ký. Sự ghét bỏ nhau, khích-bác nhau, thù ghét nhau, tố-cáo nhau do ba tiêu-chuẩn ăn này. Xin giới -thiệu một cảnh bình-bầu mức ăn ở đội của tôi. 
- Tôi, Phạm Kim Sơn, tháng này tôi tự thấy tôi lao-động tích-cực, an-tâm cải-tạo, không hề có tư-tưởng trốn trại. Vậy tôi xin ăn mức 15 ký. 
- Tôi, Đặng Hoàng Hà, lao-động tốt, tư-tưởng tốt. Tháng này tôi xin ăn mức 15 ký. 
Vân vân…Cả đội lần-lượt phát-biểu câu tương-tự và cho xin ăn mức trung bình. Tôi nghĩ các đội ở các trại từ miền Bắc vào miền Nam đều giống đội tôi. Sổ bình-bầu mức ăn đưa cho quản-giáo. Ông thầy chê bình-bầu thiếu chất lượng. Ông thầy bắt họp tại bãi. Kết-quả vẫn thế, vì không ai xin ăn 18 ký cả. Thầy Vinh cáu tiết chỉ-định 4 tù-nhân hưởng tiêu-chuẩn 18 ký. Thầy chọn luôn 8 tù-nhân thầy ghét, cho ăn 13 ký 50. Từ đó, quản-giáo định mức ăn. Đội có ba thau bo-bo. Thau 18 ký. Thau 15 ký. Thau 13 ký 50. Chia rẽ khởi-sự từ miếng bo bo. Thoạt đầu, đội của tôi đồng-ý chia phần bo-bo đồng đều. Mọi người vui vẻ. Quản-giáo Vinh lộn- xộn, đột-xuất thăm đội lúc chia bo-bo. Ông thầy dũa tôi và bắt chia riêng theo đúng mức ông thầy đã quyết-định. 

Rõ ràng, không ai thích ăn 18 ký. Bị ăn thì sớt trả người 13 ký 50. Nhưng 18 ký là bị chửi. Đội trưởng cắt việc, anh em nhao-nhao “sai thằng xuất-sắc 18 ký làm đi”. Thằng 18 ký dần-dần bị cách-ly, bị coi là chân tay của quản-giáo, bị gán tội “ăng ten”! Nó bực, nó chửi lại. Đấm đá. Ra tòa án…trực trại. Lý do đấm đá? Những thằng sỉ-nhục nó làm “ăng ten” bị kỷ-luật. 18 ký càng bị chửi thêm. Nó tức quá, làm “ăng ten ‘ luôn. Gọi là tù chính-trị, thực ra kiến-thức và tư-cách của đa-số tù chính-trị ở các trại cải-tạo thua bọn trộm cắp. Thủ-đoạn vặt của cộng-sản mà cũng sa bẫy để thù hận nhau. Phải sống chung với bọn này, thật xấu hổ. 

Tháng 3-1979, Sa Ác B nhận thêm 2 đội cảnh-sát đặc-biệt và 5 đội chính-trị khu A vào. Tôi gặp lại Dương Đức Dũng. Người mới đối với tôi là Phạm Long, em của Phạm Huấn, Phạm Hậu, Đậu Phi Lục, báo Chính Luận , Bùi Hoàng Thư, tác giả tiểu thuyết Nàng, Trần Thanh Liêm, không quân vân vân… Chúng tôi đổi nhà, không ở với Đội 3 rau xanh nữa. Tuy không ăn chung với anh Nguyễn Mạnh Côn, chiều nào chúng tôi cũng biếu anh bát mì hay bát hủ-tíu nấu tôm khô. Tôi nấu bếp. Đằng Giao nhóm bếp và bưng đồ. Chúng tôi thổi cơm ăn buổi tối. Có Dương Đức Dũng, Đỗ Ngọc Quỳnh, chúng tôi họp thành tổ ăn bốn người. Mưa to cách mấy, chúng tôi vẫn có nồi cơm, nồi canh. Tôi nấu hai bếp, Đằng Giao, Dũng và Quỳnh căng ni-lông che mưa. Anh Côn được miễn lao-động từ Tết. Ngày 2-4-1979, bất thần, anh cao-hứng đi lao-động. Đằng Giao có giác quan thứ sáu. Anh ta nói nhỏ: 
- Sắp nổ lớn. 

Tôi cười: 

- Ở nhà buồn, anh ấy đi cho khuây khỏa. 

Nổ lớn thật. Các đội tập họp chờ báo-cáo xuất trại. Trực trại vừa mở sổ, anh Côn đứng dậy: 

- Báo-cáo cán-bộ, tôi Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt ngày 2-4-1976. Hôm nay là 2-4-1979 vừa đủ 3 năm học-tập cải-tạo đúng chỉ-tiêu Đảng đề ra, tôi xin gặp Ban giám-thị lấy giấy trại về sum-họp gia-đình. 

Trực trại Hưng trả lời: 

- Anh Côn ở nhà gặp Ban giám-thị. Các đội đi lao-động. Đội 21! 

Đằng Giao báo-cáo quân-số rồi xuất trại. Không biết chuyện gì sẽ xẩy ra cho tác giả Cộng sản là gì? Ngoài hiện-trường lao-động tôi phải tiếp sức anh em gánh nước tưới…..cứu rau. Lứa rau cải đầu tiên của đội tôi bị rầy tàn-phá. Thay vì nhổ mẹ nó hết đi, phát cho tù cải-thiện bữa ăn, thầy Vinh bắt cả đội. . . cứu rau. Rầy nó không sợ kiểm-điểm, không sợ kỷ-luật thì sợ gì nước sông Ray. Nhưng vẫn gánh nước tưới tối-đa. Tôi mệt phờ quên anh Côn. 

Buổi trưa, đội về, anh Côn đã có mặt ở nhà. Anh có vẻ buồn-bã. Anh không nhận phần cơm trưa. 

Đằng Giao: 

- Anh không ăn, anh có cho người nào không? 

Anh Côn: 

- Không ăn, không cho là quyền của tôi. 

Đằng Giao: 

- Anh không thương em tí nào cả. 

Anh Côn: 

- Cậu bảo nhà bếp tôi trả lại phần cơm. 

Đằng Giao: 

- Vâng. 

Anh Nguyễn Mạnh Côn là người thông-minh, đọc nhiều, hiểu rộng. Cái kiến-thức uyên-bác về cộng-sản của anh đã không giúp anh điều gì khi anh đương đầu với bọn chăn trâu cắt cỏ. Anh đã sáng-suốt nhờ thuốc phiện và anh đã u-tối vì thuốc phiện. Thiếu thuốc phiện, anh Côn như xe cạn xăng. Đầu óc anh tê-liệt. Anh nói toàn chuyện nhảm, nghĩ toàn điều nhảm. Buổi chiều lao-động về, chúng tôi thấy anh bị nhốt riêng ở căn nhà cuối dẫy đối diện căn nhà của chúng tôi. Căn nhà này vừa xây cất xong, chưa nhốt tù-nhân. Anh cởi trần, mặc quần dài xắn cao, bám chấn song cửa sổ nhìn ra ngoài. Trong hoàng-hôn vàng vọt của Sa Ác, hình ảnh anh cơ-hồ một vạt nắng sắp lóe bừng soi sáng một định-nghĩa nào đó. Chúng tôi nhìn anh, cùng chung một ý-nghĩ: 

- Anh Côn, chúng em sẽ nhận tội sai lầm phán xét anh vội-vã. Với chúng em, anh là hôm nay. Dĩ-vãng anh, tương-lai anh, cái vừa qua của anh là hôm nay. Anh sẽ chết thật đẹp. Anh dám chết thật đẹp. Anh là đại-thụ, tất cả là cỏ hèn. 


Hôm sau, chủ-nhật chúng tôi nằm nhà. Anh Côn chỉ bám chấn song cửa sổ vào buổi chiều. Lúc ấy, tôi thấy anh lừng-lữngĐem tâm-tình viết lịch-sử, Ký hoa tử, Mối tình mầu hoa đào, Lạc đường vào lịch-sử…. Buổi trưa ngày thứ hai anh Côn tuyệt-thực, trật-tự-viên Hoa-nẫu vào Nhà chúng tôi bi-bô: 


- Tưởng tuyệt thực lâu, vừa cúp nước uống đã xin ăn. Xin ăn thì phải làm đơn đàng-hoàng, viết lạ đời: Tôi xin ăn ăn ăn ăn ăn ăn ăn..! 


Trật-tự Hoa-nẫu còn nói nhiều điều xấu về diễn-biến tuyệt-thực của anh Côn. Chúng tôi không tin nó. Và khẳng-định nó là “phát-ngôn-viên” của Ban giám-thị . Buổi trưa thứ ba Hoa-nẫu hân-hoan loan tin khắp trại: 


- Nguyễn Mạnh Côn làm đơn xin ăn nghiêm-chỉnh rồi ! 

Chúng tôi vẫn không tin. Nhưng mà anh Côn làm đơn xin ăn thật. Anh được đưa về nhà cũ, sống với chúng tôi, miễn lao-động song phải “làm việc” đều đều với Ban giám-thị. Cho đến một buổi sáng, Anh Côn bị đưa qua một Nhà chỉ có các đội hình-sự. Tù-nhân trong Nhà bị cấm liên-hệ với anh. Sa Ác B chưa có cachot, cũng chưa có hầm nhốt người vi-phạm kỷ-luật.

° ° °
Tháng 4-1979, tù-nhân chính-trị ở trại Long Thành vào Sa Ác B. Thành-phần này gồm các vị Phó quận-trưởng hành-chánh, Chánh-sự-vụ, Chủ-sự, Giám-đốc xuất thân từ Viện quốc-gia hành-chánh, Thẩm-phán, Dự-thẩm, Nghị-viên, Dân-biểu… Tất cả đều may-mắn không bị ra Bắc. Chủ-tịch Hạ-viện Nguyễn Bá Lương, nghị-viên Nguyễn Thanh Liêm có mặt. Bác-sĩ Hạnh của Viện Pasteur, bác-sĩ Nguyễn Ngọc Tùng, Trưởng-ty Y-tế Phú Yên kiêm Chủ-tịch Đảng Dân-chủ Nguyễn văn Thiệu có mặt. Thẩm-phán Đào Minh Lượng, thẩm-phán Hương (tòa-án Gia Định rồi Biên Hoà) có mặt. Các chuyên-viên, cố-vấn Phủ tổng-thống có mặt. Nhóm Long Thành được biên-chế thành hai đội: Đội rau xanh và Đội vận-chuyển. Đức méo nằm trong Đội vận-chuyển (nhờ vậy sang Mỹ chàng lái xe vận-tải xuyên bang). Đội vận-chuyển có 10 người. Đội rau xanh trên 50 người. Một số Long Thành nhập các đội cũ của trại. Đằng Giao nhận Đào Minh Lượng, Nguyễn Ngọc Tùng… Tôi nhận Ngô Đình Hoa, Nguyễn văn Bình. Lúc này bác-sĩ Thạch của đội tôi đã ra coi phòng Y-tế. Lúc này, quản-giáo Vinh ưa cự-nự tôi, chụp lên đầu tôi cái mũ “bao che” cho tù-nhân “thiếu thiện-chí cải-tạo” trong đội. Nguyên-do: Quản-giáo Vinh cấm dùng “đũa”‘ gắp phân bón rau, cấm dùng “găng tay” bao ni-lông. Ông thầy vĩ-đại này bắt tù-nhân bốc cứt bằng tay trần nhét tận gốc rau. Và không cho tắm buổi trưa! Tôi xin cho đội tắm gội, quản-giáo Vinh cho cho rửa chân tay. Và tôi bị viết kiểm-điểm vì tội “yêu-sách cách-mạng”! Tôi đã phải đứng nghiêm trước mặt ông thầy hàng giờ nhiều lần để nghe ông phê-bình văn-chương tự kiểm của tôi. 

- Văn của anh là văn lá cải. Truyện của anh là truyện ba xu. Anh tưởng lắt-léo qua mặt cách-mạng à? 


- Tôi viết rõ-ràng, thưa cán-bộ. 

- Anh Đặng Hoàng Hà chửi xéo cán bộ. 

- Anh ấy chửi cào-cào. 


Ông thầy nuôi con chích-chòe lửa. Ông ghét Đặng Hoàng Hà tình nguyện vào Đội văn-nghệ làm nhạc trưởng bỏ Đội rau xanh của ông. Đội văn-nghệ rã đám . Đặng Hoàng Hà trở về “đơn vị cũ”, bị ông thầy đì tới chỉ, bắt kiếm cào-cào nuôi chích-chòe và cho ăn 13 ký 50. 


Đặng Hoàng Hà vồ cào-cào hụt, bị té, chửi cào-cào. Ông thầy nghe được, bèn nâng quan-điềm Đặng Hoàng Hà chửi cách mạng, chửi Đảng… Cuối cùng, ông yêu-cầu tôi xác-nhận trong tự kiểm là Hà chửi cán-bộ. 


- Anh bao che anh Hà. 

- Tôi cam-kết anh Hà chửi cào-cào chứ không dám chửi cán-bộ. 

- Anh Nong! 

- Dạ. 

- Anh đừng giả vờ nín thở qua cầu. Cách-mạng biết các anh giả-vờ cải-tạo hết. Mặt xun-xoe nhưng nòng dạ chống đối cách-mạng. Cái mặt anh, đi tù còn ra cái đíều chê-bai ân-huệ của cán-bộ. 

- Tôi chê gì đâu? 

- Cho anh rau bồi dưỡng anh chê. 

- Cán bộ cho hết cả đội, tôi sẽ nhận. Một mình tôi ăn rau, cả đội chửi tôi. Đội lao-động tích-cực, tôi đóng góp chút đỉnh. 

- Nuận điệu của anh gian dối. 

Quản-giáo Vinh ghét tôi từ hôm ông thầy hỏi tôi về quản-giáo Để đối xử với đội ra sao. Tôi đã đáp thầy Để đề mặc đội tự-giác lao-động. Ông thầy nghĩ rằng tôi xỏ-xiên ông, ông dở trò tự kiểm hành tôi tơi-bời. 

- Nếu anh Hà thú nhận đã chửi cán bộ, anh biết tay tôi. 


May-mắn, Đặng Hoàng Hà chối dài. Đội 17 rau xanh của tôi là đội rau xanh bết nhất trại. Anh em Bình Chánh ù-lỳ sáng-tạo lao-động, chỉ-thị quản-giáo ra sao, anh em làm vậy. Quản-giáo Vinh có uy với phân tươi! Phân không cần ủ, không cần ngấu, cứ nóng hổi ngào tro mà bón. Và phân sợ tự kiểm ngoan-ngoãn xui rau …vàng khè. Đội rau xanh Long Thành rất cừ. Các ông thư-lại ăn đứt nông-dân. Các ông trồng mướp, trồng bầu, trồng rau muống đều vượt chỉ-tiêu. Đội trưởng Quả, anh của Miên Đức Thắng, tháo-vát vô cùng. Vườn rau của đội Long Thành xứng đáng đoạt giải thi đua. 
Giữa tháng 4-1979, trại bầy hương án. Tù-nhân tập họp đợi nghe “lên lớp”. Không, người ta dẫn anh Nguyễn Mạnh Côn ra đứng trước các tù-nhân đọc tờ kiểm-điểm của anh. Tờ kiểm-điểm của anh Côn, hồi chuông báo tử của niềm tin, vạt nắng thoi thóp của hoàng-hôn sầu tủi. 


Anh Côn viết: “Tôi thù ghét vợ con tôi đã không thăm nuôi tôi mấy tháng nay”. Anh Côn viết đúng. Chị Côn không bao giờ đi thăm nuôi anh cả. Ở đề-lao Gia Định, Chí Hòa, hai đứa con anh thay phiên nhau nuôi anh. Ở Sa Ác B. chỉ một lần duy nhất cháu Nguyễn Kiên Trung theo vợ Đằng Giao và vợ tôi vào thăm anh. Tôi chẳng hiểu nghĩ gì mà chị Côn đã gửi mía khúc tiếp-tế cho chồng tù rụng hết răng? Bài kiểm-điểm của anh Côn khiến chúng tôi cúi gầm mặt. Đằng Giao khóc. Tại sao phải lôi vợ con ra nguyền-rủa? Thằng tù nào làm tự kiềm, tự khai mà không dối-trá, điêu-ngoa, hèn-hạ? Thằng tù nào làm tự kiểm, tự khai mà không nhận tội sai lầm với cách-mạng và hứa-hẹn khắc-phục để tiến-bộ? Trong hàng rào giây kẽm gai cộng-sản, ngang họng súng đen ngòm, chỉ có vài vị anh-hùng ngục-sĩ dám chấp-nhận cái chết, dẫu biết mình chết lãng nhách. Còn đa-số, cái đa-số tuyệt-đối, đều ngoan-ngoãn nín thở qua cầu. Những tự kiểm, tự khai trong tù, ngoài trại tập- trung chỉ có tù-nhân và cai tù biết, trừ trường-hợp anh Nguyễn Mạnh Côn bị cộng-sản bêu nhục mới đọc công khai. Tự khai của anh Nguyễn Mạnh Côn thuộc loại tự khai mê-sảng vì thiếu thuốc phiện. Chắc chắn, lúc đứng giữa sân trại nghe đọc tự khai của mình, anh Côn đã quên Cộng sản là gì. Tội nghiệp anh. Cộng sản bố ở Hà-nội đã chỉ-thị cộng-sản con ở Sa Ác triệt-để khai thác sự mê-sảng thiếu thuốc phiện của anh Côn mà đánh gục anh, đánh gục lý-thuyết-gia chống cộng lỗi-lạc của miền Nam. Tên chính-ủy đắc-chí: 


- Mỹ Ngụy đã tước đoạt hết lương-tri của anh Nguyễn Mạnh Côn. Rất may, phẩm-cách làm người của anh còn sót lại đôi chút trong hai câu thơ của anh: hoan-hô cán bộ Để, Đương, Từ nay phản-động hết đường nữa nao! 


Trong cơn mê sảng, anh Côn còn làm vè nữa! Anh được dẫn về Nhà của các đội hình-sự. Chúng tôi đi lao-động. “Vĩ-nhân thường chết bởi cái gai!” Hemingway viết thế. Tôi chợt nhớ Sợi tóc của Thạch Lam. Nhưng đời sống đầy rẫy những kẻ giả-dối, ích-kỷ, chỉ thích người khác chết đẹp để vinh tôn bằng miệng. Đứng giữa sợi tóc quyết-định sống và chết, nhân-loại đều lưỡng-lự, đều sợ chết hùng và chấp nhận sống hèn. Chúng tôi đã là những kẻ giả-dối, ích-kỷ ấy. Không có gì để trách-móc anh Nguyễn Mạnh Côn. Nếu phải trách, chỉ là thuốc phiện. Thuốc phiện đã hại anh Côn.

° ° °
Cuối tháng 5-1979, ông Nguyễn Bá Lương chết. Ông chết rất êm-ái. Cựu chủ-tịch Hạ-viện của nền đệ nhị cộng-hòa nham-nhở không để lại một lời giăng giối nào. Ông chết nửa khuya, gần sáng anh em cùng Nhà mới phát-hiện. Ngọn đèn tập-thể được mang tới kê cao sát đầu ông. Chúng tôi biết tin nhờ anh em thông-báo. Nhà ông Nguyễn Bá Lương cạnh Nhà chúng tôi. Ngọn đèn leo-lét cháy. Nhà-trưởng đợi kẻng báo thức mới báo-cáo. Người ta chở một cái quan-tài mộc- mạc từ khu A vào. Xác ông Nguyễn Bá Lương do mấy tù-nhân Đội lâm-sản tẩm-liệm. Người ta bỏ vô hòm bộ quần áo tù mới tinh chưa đóng dấu rồi đậy nắp, đóng đinh. Quan- tài đặt lên xe cải-tiến cùng với cuốc, xẻng. Tù-nhân Đội lâm-sản kéo đẩy quan-tài. Đám tang đi vội-vã. Không ai được phép đưa tiễn linh-hồn người quá-cố, dù một quãng sân trại . Một cai tù theo sau xe. Hắn sẽ đọc lệnh tha ông Nguyễn Bá Lương khi hạ huyệt . Cựu chủ-tịch Hạ-viện đã về sum-họp gia-đình! 


Sinh-hoạt ở trại vẫn thế. Hai hôm sau, tù-nhân hình-sự Quản Quang Ninh chết vì bệnh kiết-lỵ kinh-niên! Đám ma gã tù hình-sự can tội trộm cắp cũng đầy đủ “lễ-nghi” như đám ma tù-nhân chính-trị Nguyễn Bá Lương. Nghĩa-trang Sa Ác B đã có hai nấm mộ không mộ bia và không hứa-hẹn không bị san bằng bởi mưa rừng tầm-tã. 


Mồng 1 tháng 6 năm 1979, sau cơn sốt nặng, anh Nguyễn Mạnh Côn qua đời. Anh chết ở Nhà 1 . Anh không hề bị ném vào hầm giam, không hề bị bỏ đói. Anh già, đuối sức, không thuốc phiện cầm cự. Và anh chết. Anh Nguyễn Mạnh Côn công-khai “Báo-cáo cán bộ, tôi Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt ngày 2-4-1976. Hôm nay là 2-4-1979 vừa đủ 3 năm học-tập cải-tạo đúng chỉ-tiêu Đảng đề ra, tôi xin gặp Ban giám-thị lấy giấy ra trại về sum họp gia đình”. Anh đã gặp Ban giám-thị. Chắc chắn, anh bị chúng nó sỉ-vả tội sách-động tù-nhân. Anh uất-ức tuyệt-thực. Chúng nó dồn anh vào đường chết nhục, chết thảm. Người “anh em” của ông Tạ Tỵ đã chết như thế. Không ai “bán anh em” của ông ta đâu. Cho đến khi tôi rời Sa Ác B chỉ có ba người chết: Nguyễn Bá Lương, Quản Quang Ninh, Nguyễn Mạnh Côn..


Cái chết của anh Nguyễn Mạnh Côn không đúng ý mọi người nên chẳng ai xúc động. Đời vốn chó đẻ mà! Sinh-hoạt của trại bình-thường. 


Đội của tôi nhận anh Phạm Thái Ất từ đội của Đằng Giao qua. Nhà gián-điệp này dấu nửa lạng vàng nhét ở đế giép, định ra gặp thân-nhân thăm nuôi sẽ gửi về, ai dè bị trật-tự Hoa-nẫu phát-hiện. Thế là vàng bị tịch thu, thân bị kỷ luật 15 ngày. Kỷ-luật Sa Ác B rất nhẹ cả với những tù-nhân trốn trại. Vì chưa kịp xây cất cachot, tù-nhân vi phạm kỷ luật thường bị còng chân vào cột nhà mới xây xong hoặc Nhà của các đội hình-sự. 


Tù-nhân vi-phạm các tội như trây lười lao-động, nói xấu cán-bộ, xâm-phạm tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, đánh nhau, dấu tiền bạc (dù bị “ăng ten” báo cáo) chỉ bị còng một chân 15 ngày, ăn cơm tiêu-chuẩn 13 ký 50, bị cúp viết thư , nhận thư và nhận quà thăm nuôi trong vòng 2 tháng. Tù-nhân trốn trại bị bắt lại thì bị vệ-binh đánh thê-thảm từ lúc bị bắt đến lúc dẫn về trại. Kỷ-luật cũng 15 ngày còng. Nặng hơn như đánh giết vệ-binh, quản-giáo thì bị đưa ra khu A. Suốt thời gian tôi ở khu B, chưa có vụ trốn trại nào đánh giết vệ-binh, cướp súng. Đang bị còng chân kỷ-luật mà có lệnh tha của Bộ nội-vụ, vẫn ra về. Chẳng phải bị kỷ-luật, bị “ăng ten” tố-cáo mà kéo dài hạn tù. Chẳng phải tố-cáo người khác mà chóng được tha về. Khả-năng gian ác của “ăng ten” chỉ làm kẻ bị nó hãm hại 15 ngày kỷ-luật, một lần cúp thăm nuôi. Nó không thể “bán xác” ai cả. Khả-năng gian-ác của “nhà văn” gian-dối, điêu-ngoa ghê-gớm hơn “ăng ten”. Khả-năng toa-rập của bọn vừa dốt vừa ngu ngang mức khả-năng gian-ác của “nhà văn” gian dối. Khả-năng thư luân-lưu độc-địa nhất, bần-tiện nhất, hôi-hám nhất về thủ -thuật rỉ tai bêu xấu vẫn là ông “nhà văn-hóa” Trần Tam Tiện. Tôi là kẻ bình-thản nghe tin một người nào đó bảo một người nào đó làm “ăng ten” gian-ác đến nỗi “bán xác” tù-nhân khác. Gặp ông cựu dân-biểu Nguyễn Minh Đăng ở trại Sungai Be si, một bạn tị nạn kéo tôi ra: 


- Anh thân với Nguyễn Minh Đăng không? 

- Vừa vừa. 

- Hắn làm “ăng-ten” giết chết một vị đại-tá cải-tạo ngoài Bắc đấy. 

- Ghê nhỉ? 

- Ghê lắm. 

- Trại nào? 

- Tôi không rõ. 

- Anh có ở trại ấy với Nguyễn Minh Đăng không? 

- Không. 

- Anh có bị tù không? 

- Không. 

- Ai nói với anh Nguyễn Minh Đăng giết vị đại-tá? 

- Người ta. 

- Người ta tên gì? 

- Tôi không rõ. 

- Anh nên về Việt Nam ngay đi. 

- Làm gì? Vào tù à? 

- Phải, anh nên nằm tù cộng-sản. Nằm tù cộng-sản với người quốc-gia cao-cả của anh đi, anh sẽ thấm tình đời, thói đời. Một cục đường thôi, anh từ-chối cho “anh em” của anh, anh sẽ mang tội “ăng-ten” gớm ghiếc, anh sẽ bị “anh em” của anh viết báo bêu nhục nếu “anh em” của anh trốn thoát sang Mỹ. 


Tôi muốn xử-dụng hợp-âm Do Majeur cho tất cả những tên khốn kiếp bêu nhục người khác bằng tin đồn. 


Phạm Thái Ất chưa hết ba-hoa. Anh ta không ưa tôi vì anh ta không thể nói phét với tôi. Một lần, anh ta kể Tam-quốc-chí,tôi hỏi anh ta: 


- Anh thấy Mã Tốc thế nào? 

- Thằng xạo. 

- Nhưng Mã Tốc có tài thật. Những anh bất-tài vô-tướng mà xạo mới đáng ghét. 

Chưa đủ độ ghét tôi, phải đợi hôm anh ta tâm-sự: 

- Tôi và anh giống nhau. 


- Anh lầm rồi, anh Ất ạ! Tôi và anh không bao giờ giống nhau. 

- Chúng ta cùng tù. 


- Cùng tù thôi. 

- Cùng tù là giống nhau. 

- Anh và tôi không thể giống nhau. 

- Tại sao? 

- Vì anh là anh, tôi là tôi. Có những thứ không thể đồng dạng, đồng tính. 


Từ đó, anh ta ghét tôi ra mặt. Chẳng phải riêng anh Ất ghét tôi, còn một số thư-lại Long Thành ghét tôi nữa. Sự ghét bỏ xuất-phát từ lòng mặc-cảm. Thẩm-phán Đào Minh Lượng nói: 

- Tụi nó ngại anh vì ngày trước anh chửi tụi nó là gia-nô của Thiệu. 

Chắc chắn vậy. Cái số thư lại Long Thành cặn-bã của xã-hội cũ toàn những thằng già, sống tập-thể mà chỉ lo quyền-lợi cá nhân. Bị thăm nuôi của anh nào anh ấy buộc thật chặt. Điều này thuộc tự-do của họ, xin miễn phê-bình. Nói riêng hai điểm nhỏ thôi: Buổi chiều ca-cóng xong phải tưới nước cho tắt than lửa. Trực trại kiểm-soát trước khi điểm danh vào phòng. Nếu bếp còn than cháy và bừa-bãi, trực trại sẽ cấm ca-cóng một tuần. Mấy ông thư-lại già chuyên gây rắc-rối. Trực trại “lên lớp”, các ông ấy khúm núm “tiếp thu”. Nhà trưởng van nài các ông ấy thi-hành quy-định. các ông ấy nhởn-nhơ, chửi thầm. Đã bị cấm ca-cóng vài lần, rồi đâu vẫn hoàn đó. Một ông thư-lại vi-phạm quy-định, cả Nhà treo ca-cóng. Đấy là điểm thứ nhất. Trời mưa được nghỉ lao-động vì sợ tù-nhân trốn trại. Cửa Nhà mở rộng với điều-kiện tù-nhân đừng ra hứng nước hay tắm giặt. Tù-nhân vi-phạm, cửa sẽ bị đóng kín. Tất cả tuân lệnh, trừ mấy ông thư-lại. Nhà trưởng nói nhẹ, mấy ông ấy tỉnh bơ, nói nặng, mấy ông ấy sửng cồ. Nhưng trực trại hay trật-tự Hoa-nẫu “giáo-dục”, mấy ông ấy nín khe. Tôi không chịu nổi thái-độ sống của mấy ông thư-lại, thường xuyên công-kích mấy ông vì quyền-lợi chung của cả Nhà. Thư-lại cấu-kết với nhau kết án tôi “ký-giả ăn mày làm mất nước”! 

May cho tôi là bị kỷ-luật, mất chức Đội trưởng, mất luôn chức Nhà trưởng. Vì Đội 17 rau xanh không đạt đúng năng-suất lao-động, người ta lôi cái vụ tôi gửi tiền lâm-sản mua thuốc lá, mua bột sữa hồi tôi mới vào Sa Ác B ra xử tội. Tôi bị đứng nghiêm trước tù-nhân cả trại nghe đọc quyết-định thi-hành kỷ-luật.



Cộng-hoà xã-hội chủ-nghĩa Việt Nam 

Độc-lập – Tự-do – Hạnh-phúc 



Bộ Nội-vụ 



Trại Cải-tạo Xuyên Mộc TH6 B 



QUYẾT-ĐỊNH THI-HÀNH KỶ-LUẬT 


Ban Giám thi trại cải tạo TH6 quyết-đinh thi-hành kỷ-luật trại viên: 
Vũ Mộng Long 
Sinh ngày 16-8-1935 
Tại Thái Bình 
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú 225 Bis Nam-kỳ Khởi-nghĩa tp Hồ Chí Minh 
Can tội nhà văn phản-động 
Bị bắt ngày 8-4-1976 

về tội mua bán đổi chác. Trại viên Vũ Mộng Long bị mất chức Đội trưởng, Nhà trưởng. Đồng-chí Nguyễn văn Hưng là cán-bộ trực trại có nhiệm-vụ thi-hành quyết-định này. 

Ngày 20-6-1979 

Phó Giám-thị 
Nguyễn văn Hiểu


Tội của tôi cũ mèm nên không bị còng chân, bị cúp thăm nuôi. Buổi chiều hôm ấy Đằng Giao gạ tôi nấu chè ăn khao . Anh ta rất thèm được kỷ-luật để thoát cảnh trên đe dưới búa. Tôi thì cảm giác mình tự do làm tù.

CHƯƠNG 6

Thường lệ, Đội trưởng bị kỷ-luật thì được biên-chế sang đội khác. Tôi vẫn ở Đội 17 rau xanh làm tù-nhân bình thường. Đội trưởng của tôi là anh Trạng, từ đội của Đằng Giao qua. Anh Trạng, dân Bình Chánh. Quản-giáo Vinh xếp tôi vào Tổ tưới rau. Lúc này, Ngô Đình Hoa, Nguyễn văn Bình đã về với đội Long Thành. Quản- giáo Vinh bị Ban giám-thị phê-bình gay gắt vì đội của ông thầy cầm cờ trắng. Cờ đỏ do đội rau Long Thành đoạt. Cờ xanh nằm trong tay Đội 3 hình-sự. Ông thầy bực tức, Ông thầy phấn-đấu vượt chỉ-tiêu. Ông thầy…tăng phân tươi và tăng nước tưới. Mỗi tù-nhân phụ-trách gánh nước phải gánh đủ 100 đôi 1 ngày. Năm 1979 hạn hán. Tháng 6 mà vẫn chưa có trận mưa nào ngoạn-mục kéo dài vài hôm. Ở trại cải-tạo, mưa là hạnh-phúc. Tù-nhân bình-bầu mức ăn cho ông Trời như sau: 


- Đêm tạnh, bắt đầu kẻng báo thức mới mưa. Mưa trút nước qua giờ tập họp lao-động. Cả trại nằm nhà nghỉ-ngơi: Trời hưởng mức ăn 18 ký. 



- Ngủ trưa dậy, kẻng tập họp lao-động mưa tầm-tã, cả trại nằm nhà nghỉ-ngơi, Trời hưởng mức ăn 15 ký. 



- Đang lao-động, trời mưa, thu-hồi dụng-cụ về trại, Trời hưởng mức ăn 13 ký 50. 



- Mưa sớm, mưa đã đời, lúc tập họp lao-động lại tạnh, Trời bị kỷ-luật còng chân 15 ngày, cúp thăm nuôi 1 kỳ. 


Mưa không những tù sướng, quản-giáo, vệ-binh cũng sướng. Ban giám-thị không sướng tí nào. Nhưng bắt tù đi lao-động, mưa to sẽ xẩy ra nhiều vụ trốn trại thành-công. Trại mà đề nhiều tù trốn trại, Ban giám-thị sẽ bị kiềm điểm, sẽ khó leo lên địa-vị cao trong ngành quản-lý các nhà tù. Do đó, trốn trại là quan-trọng, tiến-bộ tư- tưởng của tù-nhân là thứ yếu. Mục-đích chính-yếu của chính-sách lao-động cải-tạo tư-tưởng của cộng-sản là gì? Thế-giới, cho đến hôm nay, vẫn bị huyễn-hoặc bởi cách chơi chữ của cộng-sản. Người cộng-sản lúc nào cũng có thể to miệng nói với thế-giới rằng họ không hề bắt nhốt sĩ-quan quân-đội, sĩ-quan cảnh-sát, công- chức cao cấp, dân-biểu, nghị-sĩ, nghị-viên, đảng-phái đối nghịch đảng cộng-sản của và trong chế-độ Việt Nam cộng-hòa. Những thành-phần này, họ gọi chung là “ngụy quân, ngụy quyền”. Rõ-rệt và chính-xác, những thành-phần này đã đi trình-diện học tập cải-tạo. Thế-giới không cần biết cái thông-cáo cưỡng-bức và đe-dọa “ngụy quân, ngụy quyền”. Và cộng-sản phủ-nhận con số tù-nhân chính-trị mà họ giam giữ. Với cộng-sản, không có tù-nhân chính-trị. Các tổ-chức chống cộng-sản sau 30-4-75, những thanh-niên, sinh-viên, học-sinh chiến-đấu cho tự-do, dân-chủ của dân-tộc; những nhà trí-thức đòi hỏi nhân-quyền, bị cộng-sản xếp vào thành-phần “phản-động” can tội phá-hoại an-ninh của “tổ-quốc” và bị bắt bỏ tù không cần xét xử, không có án-tích. Tất cả những nơi giam nhốt, đầy đọa tù-nhân, cộng- sản đều gọi là Trại học tập cải-tạo và thế-giới đều gọi là Camp de ré-éducation. Cộng-sản không gọi là Nhà tùhay Trại tập-trung khổ-sai lao-động. Thế-giới không gọi thế và báo-chí Việt Nam hải-ngoại cũng không gọi thế. Cho nên ý-nghĩa của tù-nhân chính-trị Việt Nam nó phôi-pha dần theo tháng năm. Như tị-nạn chính-trị bước sang giai đoạn tị-nạn kinh-tế! Sự can-thiệp của các hội-đoàn nhân-đạo quôc-tế chỉ nhằm cá-nhân, không nhằm tập-thể. Mọi lên tiếng về tù-nhân chính-trị ở Việt Nam mang tính chất làm cảnh theo cảm-hứng mùa màng. Cộng-sản cấm-chỉ báo-chí thế-giới thăm viếng nhà tù và trại tập-trung của họ. Cả miền Nam, có một trại kiểu mẫu để tiếp phái-đoàn Amnesty International (vì AI trung lập với tất cả các chế-độ chính-trị) và các hội-đoàn quốc-tế thân cộng-sản*. Thế-giới chỉ hiểu lơ-mơ về nhà tù và trại tập-trung khổ-sai lao-động của cộng-sản qua sự tường-trình của những ông Việt Nam cư-ngụ tại Pháp từ 30 năm. Và những ông này đều gọi những địa-ngục từ Việt Nam là Trại học tập cải-tạo! Thủ-đoạn bắt nhốt hàng mấy trăm ngàn tù-nhân của cộng-sản nó siêu-việt thế đấy. Đi học- tập, không đi khổ-sai lao-động. Tình nguyện trình diện học tập cải-tạo, không hề bị bắt giam nhốt. Phải công-nhận cộng-sản chơi chữ rất giỏi. 


Ở nhà tù ra sao, bạn đã đọc Nhà tù rồi. Còn ở trại tập-trung ra sao, tôi sẽ cố-gắng viết trung-thực với nhận-xét và kinh-nghiệm của tôi. Cộng-sản không thích cải-tạo tư tưởng tù-nhân. Hiển nhiên, họ không thể chơi trò “brain washing” theo phương-pháp Pavlov cho hàng trăm ngàn tù-nhân. Họ thừa hiểu, tù-nhân lao-cải biết cách nín thở qua cầu. Vậy chỉ cần bắt tù-nhân tê-liệt tâm-hồn, rã-rời thể-xác. Cách thực hiện hữu-hiệu nhất là làm cho tù-nhân đói khổ, làm cho tù-nhân mất phẩm-cách, làm cho tù-nhân sợ hãi. Làm cho tù-nhân đói khổ nằm trong chính-sách làm cho toàn dân đói khổ. Sự tiến-bộ của chế-độ cộng-sản ở Việt Nam là không còn ai chết đói nữa nhưng thường xuyên đói và triền-miên ăn độn. Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ở bức chân dung vẽ ông ta đứng dơ bàn tay xòe đủ năm ngón, được dân-gian “học tập” như vầy: 


5 ngón tay Bác, 5 đồng bạc “ngụy” ăn 1 đồng bạc cách-mạng.

5 ngón tay Bác, 5 năm tù tối-thiểu cho ngụy-quân, ngụy-quyền, phản-động.

5 ngón tay Bác, 5 lạng thực-phẩm cho một người dân một ngày. 


Tù và dân đồng đều tiêu-chuẩn 15 ký lô thực-phẩm mỗi tháng. Thực-phẩm không phải là gạo. Thực-phẩm, có thể, là gạo hẩm cộng với khoai, sắn, ngô hay chỉ riêng rẽ khoai, sắn, ngô, bo bo… Gạo là xa-xỉ-phẩm như nước mắm trên đất khách miền Bắc có lăng Bác. Cách-mạng vô-sản đã đổi đời cho nước mắm. Nước mắm cũng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững-chắc lên xã-hội chủ-nghĩa thành nước chấm. Muối + nước + kẹo đắng : Nước chấm! Ấm no, hai tiếng này vẫn nằm tronghứa hẹn. Bài ca Tự Túc phổ-biến sâu rộng khắp nước từ năm 1946. Hai câu cuối rực-rỡ tương-lai: 

Anh em ơi góp công muôn bàn tay
Đất nước ta ấm no đi đây có ngày 

Năm 1976, đài phát-thanh Giải-phóng, chương-trình Nông-nghiệp vẫn hát bài Tự Túc. Tự Túc là nhạc mở đầu và kết-thúc chương-trình. Ba mươi năm sau cách-mạng đất nước ta vẫn đói rét, “đất nước ta ấm no rồi đây có ngày”. Chưa biết ngày nào? Năm nay, 1986, đất nước ta chắc vẫn còn đói rét. Dân chúng đói vì Đảng muốn dân chúng đói. Đói có nghĩa là bao-tử lưng-lửng. Bao-tử lưng-lửng có nghĩa là không thể chết đói. Không thể chết đói nhưng mà rất thèm ăn no. Thèm ăn no thì chỉ nghĩ đến miếng ăn, không thiết nghĩ đến tự-do dân-chủ. Càng không muốn nghĩ đến tranh-đấu cho ấm no, tự-do, dân-chủ. Con người khó lòng vùng dậy khi nó đói mà nó biết nó không bị chết đói. Cái roi gạo của cộng-sản nó nhiệm-mầu thế đấy. Nó phũ-phàng hơn roi điện của thực-dân phát-xít đế-quốc tra-tấn con người. Nó làm hao mòn thịt xương và tiêu diệt ý-chí chống đối. 

Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương 

Cái cung-cách cai-trị nhân-dân bằng roi gạo ngoài đời giống hệt cái cung-cách quản-lý tù-nhân trong trại tập-trung khổ-sai lao-động. Ăn ít, làm nhiều. Làm không đem lại kết-quả, vẫn làm. Làm cho đói. Đói bị ăn ít. Ăn ít thèm ăn. Tù-nhân vẫn lại chỉ loay-hoay miếng ăn. Chung quanh miếng ăn là thảm cảnh dẫn tới sa-đọa và mất phẩm-cách. Bất cứ một tù-nhân lao-cải nào cũng có thể nói câu này với bất cứ ai, ở bất cứ đâu mà không sợ mang tiếng bịa đặt: Mọi sinh vật bị tiêu-diệt gọn quanh khu-vực tù-nhân cải-tạo. Thằn lằn, rắn, kỳ-nhông, kỳ-đà, mối chúa, cào-cào, dế, chuột, cua, cá, tôm tép, cóc nhái… Cái gì có thể ăn và có chút chất đạm là tù cải-tạo ăn. Trừ giun ra. Tôi chưa thấy ai ăn giun. Có lẽ, ông nhà báo nào thương tù cải-tạo quá đã cho tù ăn giun thay bo-bo! Mà ăn cả bát giun mới là giầu óc tưởng-tượng. Rất tiếc, ông nhà báo này không được làm đại-diện tù chính-trị Việt Nam để “bốc xê la bút” tại quốc-hội Hoa-kỳ hay là đi kiện Việt cộng. Tù-nhân lao-cải còn ăn rau độn bo-bo cho căng bao-tử. Rau tầu bay, rau cải trời, rau dền dại, rau sam… Có người dám ăn cỏ non. Lý-luận: Dê ăn cỏ, trâu bò ăn cỏ có chết đâu. Trâu ăn cỏ lao-động vô-địch. Bò ăn cỏ sinh bê còn ra sữa. Sữa bò chế thành bơ, thành phó-mát… Cỏ nhất định dồi dào sinh tố. Nhưng cỏ chỉ bổ khi được… nhai lại. Mà người không thuộc loài nhai lại, trừ cộng-sản là loài nhai lại những giáo-điều lạc-hậu, những nghị-quyết mốc thếch, những chiến-thắng chẳng ăn cái giải gì, những khẩu-hiệu gian-dối, những danh-từ rỗng tuếch. Cũng còn có một loài nhai lại. Đó là bọn nhà văn Hamburger, xuân hạ thu đông nhai lại những câu chửi rủa người vắng mặt. Thêm loài nhai lại hiệp định Paris 1973, nhai lại tiền lạc-quyên kháng-chiến, nhai lại tiền ăn cắp di-tản đem theo, nhai lại dĩ-vãng bệ-rạc. Vân vân… Đất nước khốn-khổ của chúng ta hơi nhiều cách-mạng nên khá đông thú vật hai chân nhai lại. Thú vật nhai lại cỏ kháng-chiến bền-bỉ và quang-vinh nhất chỉ có hai tên cùng viết tắt HCM. Một tên đã nằm trong hòm kính. Một tên đang nằm trong thùng nước lèo phở Hòa. Tù-nhân cải-tạo là nạn-nhân của thú vật hai chân nhai lại. Tù-nhân cải-tạo là CON NGUỜI bị thú vật hai chân bắt đồng-hóa với chúng nó. Và đã thử ăn cỏ non. Khi người ta đói, người ta ăn cả thịt người. Đã có trường-hợp thuyền-nhân ăn thịt kẻ đồng-hành chết đói. Tháng 3 năm Ất Dậu, người sắp chết đói ăn thịt người vừa chết đói là thường. Ăn bất cứ cái gì có thể nuốt. Để chết. Người đói vô tội. Kẻ làm cho con người đói đến mất nhân-tính, mất phẩm-cách mới có tội. 

Tù-nhân lao-cải không có ai chết đói nhưng “quanh năm tích-cực đói, bốn mùa khẩn-trương đói”. Đói thì “mưu sinh” riêng cho no. Rau cải trời dễ kiếm dễ hái, ăn nhiều mất máu. Cóc nấu cháo ngon lắm, bổ lắm, ăn trúng nọc “cậu trời” là đau quặn bụng, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Bạ cái gì cũng ăn thì dễ sinh bệnh. Bệnh thiếu thuốc thì “về sum họp với cha ta”. Đa-số tù-nhân lao-cải chết bệnh là do ngoài đời ăn khỏe quá. Ông tướng Nguyễn Đức Thắng đi lao-cải sẽ kềnh trước tiên. Đói đâm ra lẩn-thẩn, kèn-cựa nhau từ miếng thịt đến muỗng cơm trắng “những ngày lễ lớn”. Chia sắn lát, chia khoai luộc, chia nước muối, chẳng ai thèm nhòm ngó. Chia thịt, chia canh, bắp cải nấu xương heo, chia cơm trắng, một đội 50 tù-nhân 100 con mắt theo dõi người chia cơm, chia thịt, chia canh. Sự thèm ăn làm đầu óc bé lại, tâm-hồn kẹo đi. Thêm cái tiêu-chuẩn thực-phẩm hàng tháng gây đủ mọi chia rẽ, gấu-ó, đấm đá. Đó là Sa Ác B của tôi, một trại đủ thành-phần xã-hội. Những trại khác tôi không biết tù-nhân lao-cải có còn thủ nổi tác-phong “giấy rách phải giữ lấy lề” ? 

Chế độ thăm gặp ở trại lao-cải chẳng nhân-đạo gì. Nó nhắm ba mục-đích: 

1/ Ăn ngon, ăn no thì phải “triệt-để tuân-hành nội-quy và mệnh-lệnh của cán-bộ”. Kinh-Tế… cái bị quà luôn luôn bị đe-dọa bởi cái quyết-định thi-hành kỷ-luật. Tù-nhân bướng-bỉnh, “tư-tưởng nấn cấn, nao động nề mề” khó cải-tạo, đa số là tù-nhân “con bà phước”. Kỷ-luật cúp thăm gặp kinh-hoàng nhất, “con bà phước” không ai nuôi, không ai gặp, không sợ hãi cái thứ kỷ-luật răn đe bao-tử. 

2/ Ăn ngon, ăn no thì lao-động tích-cực, hết lấy cớ trây lười. 

3/ Thăm gặp tạo mâu-thuẫn giai-cấp giữa các tù-nhân. Thằng không có thăm gặp ghét thằng có thăm gặp. Thằng thăm gặp ít ghét thằng thăm gặp nhiều. Giá-trị và cả lòng thù-hận đánh giá bằng cái bị căng phồng quà cáp hay cái bị xẹp lép. Nếu không có chế-độ thăm gặp, tù-nhân bình-đẳng kinh-tế. Như thế tù-nhân yêu thương nhau đoàn-kết thắm-thiết và sẽ gây ra nhũng tai-hại khó lường cho sự quản-lý tù-nhân ở các trại lao-cải. 

Đó, ba mục-đích chính của chế-độ thăm gặp nằm trong chính-sách cải-tạo tư-tưởng khoan-hồng và nhân-đạo của Đảng và Nhà nước cộng-sản. Con người chưa bao giờ khổ vì miếng ăn và hèn vì miếng ăn như con người tù-nhân ở trại tập-trung khổ-sai lao-động của cộng-sản. Tuy khổ và hèn nhưng là khổ và hèn bị cưỡng-bức. Tỷ-lệ những người vì khổ mà tình-nguyện xếp mình dưới mức hèn, xếp mình ngang hàng súc-vật hơi khan hiếm. Có lẽ duy nhất một “nhà văn” Tạ Tỵ. Ông này không lao-động vất-vả gì cả. Như ông ta muộn-màng thú nhận, ông ta được “anh em” của ông ta giới-thiệu vẽchân dung Hồ Chi Minh giữa trại cải-tạo . Và ông ta bảo “Sống trong trại tù thì vẽ HCM hay đi hót cứt, bổ củi, vác gạo, trồng mì cũng như nhaư” . Bị cưỡng-bức vẽ tranh Hồ Chí Minh và được giới thiệu vẽ khác nhau. Ở tù trăm sự đều cay đắng. Hồ Chí Minh đã thở than vậy. “Bác” còn ngậm-ngùi: “Mỗi lời mỗi việc không tự-chủ. Đề chúng dắt đi tựa trâu bò”. Chúng không dắt đi tựa trâu bò mà mình tình-nguyện làm trâu bò thì kẻ vẽ “Bác” không giống tâm-sự “Bác”. Thì bị giới-thiệu cũng là một cưỡng-bức đi, ngồi vẽ “Bác” vẫn nhàn, bao-tử đỡ đói hơn bao-tử bổ củi, vác gạo. Đỡ đói hơn “anh em” mà “ăn cắp khoai mì, ăn vụng thịt dưới nhà bếp, ăn tranh phần khoai và cơm cháy của heo vân vân…” , tôi nghĩ đây là thành-tích rực-rỡ nhất xứng-đáng ghi đậm nét trong L’Arbre de vie của gia-đình ông nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp”. Thời-đại của chúng ta rất ly kỳ. Rõ đúng…đổi đời. Những thằng mạt rệp tự nhận mình ăn cắp, ăn vụng, ăn tranh phần súc-vật, vẫn trơ-trẽn phỉ-báng người khác những tội mơ-hồ, bịa đặt. Cái trường-hợp no mà vẫn ăn cắp, ăn vụng chính là biểu-tượng của đám quốc-gia bẩn vậy. 

Đã biết cái thủ thuật cộng-sản đánh vào bao tử tù-nhân làm cho tù-nhân khốn-khổ và hèn-hạ vì miếng ăn, nên biết thêm cái thủ-thuật cộng-sản đánh vào đầu óc khiến tù-nhân tê-liệt tư-tưởng rồi biến thành âm-binh cho phù-thủy sai phái. Bí-kíp nằm giữa thủ-thuật này là phê-bình và tự phê-bình. Một học-giả Trung Hoa nói: “Kẻ sĩ một ngày không đọc sách thánh-hiền, soi gương thấy mình xấu-hổ”. Hồ chủ-tịch vĩ-đại nói: “Một ngày không tự phê-bình, soi gương thấy mình chưa rửa mặt”. Hồ Chí Minh có tài đạo văn. Bác Hồ rất nhiều tài, tài nào cũng có thể suy tôn, vì khó kiểm-chứng. Riêng tài đạo văn, Bác bị lòi tẩy . Bác cứ thuổng tư-tưởng của thiên hạ, “sáng-tạo” ra cái của Bác. Trong Lời khuyên học trò, Nguyễn Bá Học viết: “đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”. Bác vi-vút lời Bác “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền thôi. Đào núi và lấp biển là khó mà quyết-chí thì cũng làm nên”. Bác thuổng lu-bù…Câu thuổng xây-dựng nên tư-tưởng Hồ Chí Minh về cái “dịch-vụ” phê-bình và tự phê-bình đã phá vỡ sự gần-gũi, sự thân-thiết dân-tộc. Nó là thủ-đoạn chia tình người đề quản-lý con người, xẻ tâm-hồn con người để kiểm-soát linh-hồn con người. Nó phát-triển mạnh-mẽ từ sau 1956, khi cộng-sản Hà nội đã đưa nông-dân vào Nông-hội, Hợp-tác-xã. 

Từ đây, nông-dân được giao quyền làm chủ tập-thể dưới quyền điều-hành của bọn đảng-viên Chủ-nhiệm, Bí-thư Nông-hội, Hợp-tác-xã. Nông-dân bận-bịu họp-hành, bình-bầu xã-viên xuất-sắc, phê-bình xã-viên thiếu tích-cực và tự phê-bình mình. Vân vân. Nông-dân vốn hiền lành, ghét họp-hành và tối-kỵ phê-bình họ-hàng, láng-giềng, chòm-xóm công-khai. Những buổi họp đầu tiên không được khuyến-khích phê-bình và tự phê-bình. Dần dần, phê-bình và tự phê-bình được khuyến-khích. Rồi lời Hồ chủ-tịch đem ra học tập. Rồi Chủ-nhiệm Hợp-tác-xã chủ-trì các buổi họp phê-bình các buổi họp thiểu phẩm-chất. Vì thiếu phê-bình và tự phê-bình. Người ta cố kéo dài phiên họp đến nửa đêm. Nông-dân ngáp vặt. Nông-dân thèm về ngủ mai sớm còn thay trâu kéo cầy “xây-dựng tổ-quốc”. Bắt đầu tự phê-bình những khuyết-điểm lặt-vặt vô-tội-vạ. Cộng-sản rất kiên-trì trong công-tác “giáo-dục” nhân-dân. Cái lặt-vặt sơ-hở sẽ là cái rắc-rối cuối đường. Nông-dân “làm quen” với phê-bình. Từ làm quen thành thói quen. Thói quen dễ-dãi: Phê-bình cho xong chuyện, cho chóng giải-tán buổi họp về ngủ. Vậy thì nông-dân phê-bình lẫn nhau những chuyện đến muộn vài phút, nghỉ sớm vài phút, bệnh nhẹ không khắc phục, không chấm công công-bình, không tích-cực bảo-vệ tài-sản tập-tục… Nông-dân lại “com bin” với nhau. Tôi phê-bình bác như thế này, bác phê-bình tôi như thế này. Cho xong chuyện. Cộng-sản nó nghiên-cứu kỹ-lưỡng, nó phá chiến-thuật phê-bình của nông-dân. Thủ đoạn cầy-cáo của cộng-sản là rỉ tai, xuyên-tạc, gây thù-hận. 

Cộng-sản:
- Bác thân với bác A lắm nhỉ? 
Nông-dân B:
- Thân lắm. 
Cộng-sản:
- Tôi không tin. 
Nông-dân B:
- Đồng-chí không tin cái gì? 
Cộng-sản:
- Bác A nói với tôi rằng bác cứ hậm-hực cái ao cá của bác bị vào Hợp-tác-xã. 
Nông-dân B:
- Tôi nói với ai bao giờ? 
Cộng-sản:
- Tôi không nghĩ bác nói đâu. Bác tiến-bộ, xã-viên lý-tưởng. Nhưng ở đời nó có hai chữ ai ngờ, bác ạ! 
Cộng-sản đến thăm nông-dân B, bỏ nhỏ tí ti rồi về. Thay vì đi tìm sự thật ở nông-dân A, nông-dân B nghiến răng thề sẽ “chơi” nông-dân A một vố. Cộng-sản tạo cơ-hội để nông-dân B thấy rõ nông-dân A hay gặp riêng đồng-chí Chủ-nhiệm. Vậy là buổi họp, nông-dân B phê-bình nông-dân A theo cung cách…tố cáo. Bao nhiêu lời tâm sự uất ức Đảng của nông-dân A được khai vanh vách. Phê-bình thành tố cáo. Tố-cáo thành phong-trào. Cộng-sản biết hết thâm ý của nông-dân mà cai-trị. Nông-dân thù ghét nhau, sợ hãi nhau, không dám gần-gũi nhau tâm-sự thân-mật. Nhà nào nhà nấy đóng cửa. Gặp nhau ở Hợp-tác-xã thôi. Mọi người đề-phòng lẫn nhau. Thủ-đoạn cộng-sản trả lời câu hỏi tại sao không có cuộc nổi dậy nào của nông-dân miền Bắc. 

Phê bình và tự phê-bình vào quân-đội, vào công-an, vào khắp các cơ-quan, các ngành. Vào nhà máy, bắt buộc. Vào cả đoàn-thể nhi-đồng. Vào nhà tù và trại lao-cải thì tinh-vi hơn. “Ăng-ten” nằm ở biên-bản các buổi họp của đội cuối tuần, ở tự kiểm. . . “Ăng-ten” ở sự tố-cáo lẫn nhau bởi thủ-thuật chia rẽ, gây thù-hận của cai tù. Một thí dụ điển-hình nhất cho tất cả các trại lao-cải: 

Tù-nhân X là người có địa-vị xã-hội, có uy-tín ở xã-hội cũ, có uy-tín trong đội, trong trại được các tù-nhân yêu mến và coi như lãnh-đạo tinh-thần của tù-nhân. Phải hạ gục tù-nhân X. Dễ-dàng lắm. Cả đội đang cuốc đất dưới nắng chang-chang, mồ-hôi tầm-tã, thầy quản-giáo ra bãi gọi tù-nhân X vào nhà lô 1). Nội-dung cuộc “làm việc” giữa quản-giáo và tù-nhân X sẽ như thế này: 

Quản-giáo:
- Anh cải-tạo mấy năm rồi,anh X? 

Tù-nhân X:
- Thưa cán-bộ, 5 năm. 

Quản-giáo:
- Năm năm thì cũng sắp về rồi đấy. 

Tù-nhân X:
- Tôi hy-vọng thế. 

Quản-giáo:
- Vợ con anh thăm gặp anh đều chứ? 

Tù-nhân X:
- Thưa cán-bộ, đều. 

Quản-giáo:
-Anh cần gửi thêm thư cho gia-đình không? 

Tù-nhân X:
- Cám ơn cán-bộ, một tháng một lần đủ rồi. 

Quản-giáo:
- Anh nhận-xét về đội ra sao? 

Tù-nhân X:
- Tất cả tích cực lao-động, cải-tạo tư-tưởng tốt. 

Quản-giáo:
- Không hơn thế đâu. 

Chuyện sang vụ thu-hoạch sắp tới. Rồi làm gì, nghĩ gì khi về sum-họp gia-đình. Rồi uống nước rễ tranh, hút thuốc lào. Quản-giáo kéo dài giờ giải-lao của tù-nhân X. Khi tù-nhân X trở lại bãi, anh em xúm lại hỏi. Tù-nhân X tường-thuật trung-thực cuộc mạn-đàm. Anh em tin. Hôm sau xẩy ra như vậy. Anh em tin. Hôm sau nữa cũng vậy. Anh em vẫn tin. Rồi mạn-đàm hoài, anh em “lạ quá”. Từ lạ quá đến ngờ vực. Cho đến một hôm, buổi sáng tù-nhân X mạn-đàm với quản-giáo thì buổi chiều tù-nhân Y được gọi sỉ-vả và bị kỷ-luật. Quản-giáo tập họp đội, tuyên-bố quyết-định kỷ-luật tù-nhân Y thòng thêm câu: 

- Cán-bộ có bị che mắt, còn mắt khác nhìn giúp. 
Tù-nhân X trở thành nạn-nhân của quản-giáo, của trò chơi triệt-hạ uy-tín cá-nhân. Ông bị gán ghép tội “Ăng-ten”. Đội khinh-bỉ ông. Trại khinh-bỉ ông. Tiếng xấu lan đi khi có tù-nhân chuyển trại. Đây chỉ một thí-dụ điển-hình. Còn hàng trăm thủ-đoạn tạo ngờ-vực, thù-hận giữa các tù-nhân, chủ-đích làm các tù-nhân không thể hội họp, bàn-tán âm-mưu chống đối và trốn trại. Ngu-xuẩn nhất vẫn là kẻ tin vào lời cai tù rỉ tai tù về chuyện tù-nhân khác. Mà kẻ tin lời cai tù lại thêu dệt thêm giúp cai tù. Và không còn là một kẻ. Mà đa-số mê sảng trong thủ-thuật cộng-sản. Trong tù mê sảng chưa đủ, ngoài tù cũng mê sảng. Mê sảng cả ở hải-ngoại. Rốt cuộc, con người tù-nhân cộng-sản ngoài nỗi khổ, nỗi hèn vì roi gạo quất vào bao-tử, còn thêm nỗi khổ, nỗi hèn vì roi phê-bình, tự phê-bình và tin đồn phun ra thì lưỡi rắn quất vào đầu óc, vào trái tim, vào thân-phận. Đau-đớn cả thể-xác lẫn linh-hồn mà, ngay cả tù-nhân, đa-số vẫn chẳng khôn lớn tí nào. 

Roi gạo và roi phê-bình cộng với lao-động quần-quật, với vô-vọng ngày tha của án phạt đê-tiện Tập-Trung Cải-Tạo, tù-nhân tê-liệt tư-tưởng, rã-rượi thể-xác. Cộng-sản chỉ muốn giáo-dục con người trở thành con người khiếp-nhược, cam đành và gian-dối. Bởi thế,tù-nhân lao-cải khi được thả ra thì sợ-hãi tất cả. Trại lao-cải là cơn ác-mộng ám-ảnh thường xuyên. Có người đã trốn thoát ra ngoại-quốc vẫn ngẩn-ngơ như bị hớp hồn. Có người hấp-thụ nền giáo-dục gian-dối, mở miệng là phì nọc điêu-ngoa. Nhiều người học tập thụ-hưởng vật-chất đề quên học tập cải-tạo. Cộng-sản đã thành-công rực-rỡ với chính-sách học tập cải-tạo của họ. Hình như, chúng ta và tế-giới còn rất mù-mờ về sự thành-công chó đẻ này. 

Tháng 6, trời nắng bạo, rau xanh cần tưới nước. Tôi phải gánh nước oằn vai. Đức-méo kéo xe cải-tiến lấy cát ở đoạn sông khu vườn rau của tôi, thấy tôi cởi trần gánh nước, đã chớp mắt thương-hại. Tôi đã cười nhìn Đức-méo, ông Phó-quận hành-chính Xuyên Mộc cũ. Tôi rất tự-hào tôi gánh nước giỏi, gánh đủ 100 đôi một ngày mà mỗi đôi, quản-giáo Vinh đều gạch dấu trong cuốn sổ kiểm-soát của hắn. Tôi tự-hào vì cáì gì cộng-sản làm được, tôi làm được; cái gì tôi làm được, Cộng-sản không làrn được. Và bất cứ cái gì đã gọi là công việc, tôi đều làm đến nơi đến chốn, làm hay và làm giỏi hơn người khác. Tôi sẽ hãnh-diện nếu ai bảo tôi gánh nước biểu-diễn ở Paris hay ở California.
° ° °
Gánh nước được hơn một tháng, tôi bị chuyển sang Tổ phân tiểu như một Tổ trừng-giới và có biệt-danh Long-ếch-mù. Quản-giáo Vinh yêu cầu tôi “ủng hộ” cái gà-mèn Mỹ đã bị tịch-thu quai đề hắn sai anh Nại làm plaque gửi về Bắc tặng đào, tôi từ chối. Ông thầy ghét tôi sẵn càng ghét thêm. Anh Mẫm ở đội tôi là người vừa ngọng vừa khù-khờ. Buổi chiều gánh nước ở cái vũng chứa nước nhà bếp cán-bộ chảy ra, Mẫm vồ được con ếch. Mẫm khoe ầm-ỹ. Tôi cao hứng hỏi: 

- Con ếch có mù không? 
- Không. 
- Tưởng nó mù chú mày mới vồ được chứ. 
Quản-giáo Vinh gọi tôi tới “làm việc” : 
- Anh Nong, anh vi phạm kỷ nuật. 

Tôi cãi: 

- Tôi làm gì đâu? 
- Anh ám chỉ ai mù, cách-mạng mù à? 
- Cán-bộ đừng nâng cao quan-điểm. 
- Cách-mạng không mù, cán-bộ mù à? 
- Tôi chỉ hỏi xem con ếch có mù. 
- Con ếch không mù. Anh mù. Anh nà hình-nhân được gắn hai con mắt giả. 
- Vâng, con ếch không mù. 
- Anh phải nhận anh mù. 
- Tôi mù, cũng được. Tôi mù, tôi không nhìn thấy gì cả. 
- Náo. Anh nhìn thấy một thứ. 
- Cán-bộ muốn tôi nhìn thấy cái gì? 
- Anh nói đi, tự-giác nói đi! 
- Tôi nhìn thấy sự sáng-suốt của cách-mạng. 
- Nại xỏ-xiên. Anh phải nhìn rõ bản-chất phản-động cộng nưu- manh của anh và đồng bọn. Mai anh phục-vụ Tổ phân tiểu. Rõ chưa? 
- Rõ. 
Đội gọi tôi tên mới: Long-ếch-mù. Vui thật. Tổ phân tiểu của tôi gồm 6 người. Đặng Hoàng Hà (không vồ đủ chỉ-tiêu cào-cào nuôi chích-chòe), Phạm Kim Sơn (dám nói không trốn trại mà ra về đường-đường chính-chính), Nguyễn Sắc (dám nói ông thầy không có kinh-nghiệm trồng mướp), Nguyễn văn Lợi (dám từ-chối leo cây cao bắt tổ chim cho ông thầy), Trần văn Tư (dám hát “đi trồng rau nhớ thăm nuôi xà bông”) và tôi (dám bảo con ếch mù). Tổ phân tiểu của tôi có nhiệm-vụ cung-cấp phân và nước tiểu cho hai Tổ bón rau và Tưới rau. Cầu-tiêu cơ-quan, nơi dành riêng cho Ban giám-thị và cán-bộ đi cầu, nằm trong khu-vực vườn rau của tôi. Thầy quản-giáo Vinh giáo-dục tù-nhân rằng: “Hễ Ban giám-thị ngang qua. Đội trưởng phải hô nghiêm, báo-cáo quân-số. Mọi người đang và nàm gì thì vất bỏ, đứng nghiêm”. Đội trưởng cứ nhìn anh Việt cộng nào già là. . . cho làm Ban giám-thị. Xẩy ra một hôm, có anh Việt cộng già ngoài khu A vô chơi. Anh này Ban giám-thị thật. Anh đi ngang qua vườn rau. Đội trưởng Trạng hét bự: 

- Nghiêm! 

 Ban giám-thị giật mình. 
 - Báo-cáo Ban giám-thị. Đội 17 rau xanh… 
 Ban giám-thị vẫy tay: 
 - Thôi, đi ỉa miễn báo-cáo! 
 Lại một hôm, có anh Việt cộng trung niên qua vườn rau, Đội trưởng không hô nghiêm và báo-cáo. Không sao cả. Hôm khác, tưởng bở, Đội trưởng lờ tít một anh Ban giám-thị. Bị dũa. Từ đó, Việt cộng cỡ 30 tuổi đi ỉa, Đội trưởng Trạng đều phong chức Ban giám-thị, hô nghiêm và báo cáo. Như vậy chắc ăn, phản-ánh đúng tinh-thần “giết oan hơn tha lầm” của Đảng. Chuyện này gợi nhớ anh hề Văn Chung. Trong các hề Việt Nam, tôi khoái nhất hề Văn Chung. Anh ta đóng vai hàn-sĩ nhà quê lên kinh-đô chờ lọt mắt xanh của vương-tôn công-tử. Bạn anh ta dặn cứ ngồi góc phố, gặp ai đi qua có quân lính hộ-vệ thì “vạn-tuế thiên-tử”. Có vị nguyên-soái ngang qua, anh hàn-sĩ tung hô: 

- Vạn-tuế thiên-tử! 


Bị đá đít và nhắc nhở: 

- Tao là nguyên-soái, mày muốn tao đảo-chính vua à? 

Vị thái-tử đi qua, anh hàn-sĩ tung hô: 

- Vạn-tuế nguyên-soái.! 

Bị bợp tai và nhắc nhở: 

- Tao là vua con, sắp là vua cha, mày muốn cách chức tao à? 

Từ đó, bất cứ anh nào ngang qua, hàn-sĩ đều nhẩy lòng-vòng, miệng tung hô…trung-lập: 

- Vạn-tuế anh nào đi qua đếch biết! Vạn-tuế anh nào đi qua đếch biết! 

Ngày mới vào Sa Ác A, Đằng Giao đã vẽ một giấc mơ đổ thùng. Bây giờ, hơn cả đổ thùng mỗi hôm một tiếng nhàn-hạ, thảnh-thơi, tôi phải xuống hầm phân múc phân đầy xô xách lên. Tôi không được hân-hạnh đổ thùng quét rửa cầu-tiêu. Công việc “cao quý” này của Tổ vệ-sinh trại. Sa Ác B không tin tù chính-trị. Trật-tự là tù hình-sự; Thông-tin văn-hóa là tù hình-sự. Thăm gặp là tù hình-sự. Vệ-sinh, cấp-dưỡng là tù hình-sự. Lâm-sản là tù hình-sự. . . 

Cảm giác đầu tiên của tôi khi xuống hầm phân nhung-nhúc hàng tỉ con ròi, tôi đã ghi lại Trong tiểu thuyết Đồi Fanta, nhân-vật chính là thằng nhãi bị đầy-đọa như tôi. 


“Tôi đang xuống hầm phân thối um và hàng tỉ con ròi bò lúc-nhúc ghê gớm. Tôi muốn ói. Nhưng cố nín. Rồi cũng phải ói. Tôi không kịp bước lên, ói tại chỗ, ói trên những con ròi, ói trên lớp phân có mùi thối không tên gọi, không so-sánh. Tôi ói hết phần sắn điểm-tâm, ói đền phần sắn chiều qua chưa kịp tiêu hóa, ói ra mật xanh, ói ra mật vàng, ói toàn nước bọt, ói khan quặn bụng. Thằng nhãi khiêng chung xô phân với tôi dục nhắng. Nó sợ chậm-chạp cán-bộ đinh nó. Nó vục xô thứ nhất, tôi và nó khiêng. Nó cho tôi đi trước cầm đầu khúc cây dài. Chuyến thứ hai, thấy tôi vẫn ói khan, nó bảo để nó vục. Tôi cám ơn nó, tự tay cầm xô vục. Bắt chước nó, tôi đưa hai tay xuống phân dưới hầm lùa vào cho đầy xô. Những con ròi bò bên cánh tay tôi . Tôi ngẩng mặt nhìn lên. Mặt trời nhìn tôi … Thằng Tổ trưởng nói đúng. “Xuống hầm vài lần là quen, hết sợ hãi”. Tôi muốn nói: Đã đến cái nước xuống hầm phân nhung nhúc ròi vục cả phân lẫn ròi bằng tay thì trên đời không có gì đáng sợ nữa, thì sẽ dám làm bất cứ việc gì. Tổ phân khen tôi xứng đáng dân xiện. Chúng nó bầy tôi rửa tay sạch rồi lấy lá cải chà nát thay xà-phòng. Quả nhiên mùi hôi bay biến. Tuy thế, buổi trưa tôi không ăn nổi, nghĩ tới hầm phân.

Tôi nổi da gà”… 


Có lẽ, tôi hạnh phúc hơn thẳng nhãi nhân-vật Đồi Fanta. Là, tôi có xà-phòng rửa sạch tay trước khi chà lá cải, lá húng chó.


Sự chấp nhận xuống hầm phân của tôi được giải-thích trong Sỏi đá ngậm ngùi. 


“Bây giờ, hầm đã cạn, không thể đứng trên bờ ròng cái xô xuống múc mà kéo lên. Do đó, đội trưởng Jacqueline đã cho làm cái đường thang thoai-thoải xuống hầm. Nhưng lom-khom trên bực thang đất dễ té nhào nên tù-nhân đành phải lội hẳn xuống phân bầy-nhầy, hôi thối, hàng tỉ con ròi, vục xô múc đầy để bên trên kéo lên. Tôi đứng sát miệng hầm, nhìn xuống. Sự ưu-việt của chủ-nghĩa cộng-sản ở dưới ấy. Đầy-đọa con người tới mức đó là hết. Chị Jacqueline hỏi tôi: 


- Liệu chị kham nổi không? 

- Tôi cố gắng. Tôi đáp. 

- Nếu không kham nổi, cứ ỳ ra. Nó kỷ-luật mình tống vô cachot còn sướng, khỏi lao-động. 

- Tôi kham nổi. 

Chị Thanh cũng chạy lại, khuyên tôi: 

- Chị không xuống hầm phân nó cũng không dám giết chị đâu. Chúng tôi đều chê hầm phân. Để bọn ngu sợ-hãi. Chúng tưởng lao-động tích-cực thì sớm được tha. Còn lâu. 

Tôi nói: 


- Nó hỏi tôi trí-thức làm được những việc gì. Tôi trả lời trí-thức làm được tất cả. Tôi Cần chứng-tỏ với chúng nó rằng, việc của chúng nó, người trí-thức làm được còn việc của trí-thức, chúng nó không làm được. Tôi còn muốn chứng-tỏ với chị và với chính bản thân tôi. 

Chị Thanh lắc đầu: 

- Chị khó hiểu nhưng tôi yêu chị. 

Tôi cầm tay chị Thanh: 

- Đừng ví tôi với bọn ngu chỉ biết sợ hãi và ham được tha, chị nhé! Tôi tích-cực làm việc vì đó là công việc. Công việc đó đem lại kết quả gì, không cần đếm xỉa. Tôi tập làm việc nào đến nơi đến chốn việc đó…” 


Công việc xuống hầm vục phân đem lên ngào chung với tro và mạt cưa bón rau như vậy. Còn vào các cầu-tiêu của trại gánh nước tiểu thì nhẹ-nhàng, tuy mùi khai xông lên làm cay xè mắt. Tôi đã xuống hầm phân, gánh nước tiểu “nguyên chất” liên tiếp hai tháng.

--------------------------------
1
Căn nhà tù dựng ở bãi lao-động của Đội để nấu nước, chứa dụng-cụ lao-động, trú mưa và họp đội đột-xuất.
CHƯƠNG 7

Tháng 8-1979, tôi bị biên-chế sang Đội 28 nông-nghiệp. Thời-gian này, Bộ Quốc-phòng đã giải-tán hết các trại lao-cải ở miền Tây và giao tù-nhân cho Bộ Nội-vụ quản-lý. Tù-nhân trại lao-cải Vườn Đào thuộc huyện Cai Lậy được đưa lên miền Đông. Sa Ác A và B tiếp-nhận. Thực ra, công-an đã quản-lý tù-nhân từ năm 1978. Cũng thời-gian này, Sa Ác đã xây-dựng xong khu C. Sa Ác A, B và C gồm khoảng 5000 tù-nhân chính-trị và hình-sự. Vườn Đào đa-số là sĩ-quan Hoà Hảo đồng-hoá. Họ không tốt-nghiệp ở trường võ-bị nào cả. Kiến-thức của họ rất thấp và tác-phong của họ xô-bồ. Vừa mới đến, họ đã đánh nhau trong lúc chia cơm canh. Vài hôm sau, có tin do Đội lâm-sản truyền: Vườn Đào bị Suối Máu trùm chăn đục thê-thảm ngoài khu A, có người bị cắt tai cảnh-cáo vì tội “ăng-ten” trại cũ. Á chà, câu chuyện được thêu dệt đầy đủ chi-tiết. Anh-hùng nhẩy dù Suối Máu đã ghi những trang ngục-sử tuyệt-vời! Bác-sĩ Thạch ra khu A lấy thuốc, trở về “cải-chính tin đồn”. Không có gì cả. Khu A hoàn-toàn yên lặng. Cách một quãng đường dài 2 cây-số, tù tung tin chẳng hay ho gì cho tù. Tuần-lễ sau, Phước Long đổ về Sa Ác. Long Thành, Vườn Đào, Phước Long được chuyên-chở bằng xe đò. Xe chạy trên con đường do Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao kiến-tạo. Phước Long về làm sinh-động Sa Ác B. Từ đây, một hàng rào kẽm gai ngăn đôi biên-giới Hình-Sự và Chính-Trị. Hình-sự bị cấm-chỉ vượt biên-giới. Hai ông bác-sĩ Long Thành, một được tha, một bon chen ra khu A trụ-trì phòng Y-tế. Trước đó, 10 tù-nhân Long Thành đã về “sum họp gia đình”. Từ tháng 11-1978 đến tháng 7-1979, Sa Ác B mới có 11 người cầm giấy ra trại. Những người này đều trình diện học tập cải-tạo 10 ngày hồi tháng 6-1975. Vị bác-sĩ Long Thành còn kẹt ở trại đã lừng danh Long Thành. Ông ta củng-cố địa vị bác-sĩ tù bằng cách khuân cả tivi, tủ lạnh nộp cho Giám-thị Ba Tơ. Ông ta gạ-gẫm đưa Ba Tơ về Sài gòn, dẫn Ba Tơ đi ăn chơi và đưa Ba Tơ về nhà mình, dúi cho Ba Tơ mớ bạc để ông ta được làm tình với vợ! Như thế cũng bình thường thôi. Ai khéo xoay sở, người ấy sung sướng. Nhưng xoay sở cái trò bịa đặt khám bệnh hoa -liễu cho nữ tù, bắt nữ tù cởi truồng để Ba Tơ và bọn cai tù coi “chiếu bóng” thì ông bác-sĩ bỉ-ổi hơn Cộng-sản. Ông ta là quốc-gia đấy, đảng viên Đảng dân-chủ đàng-hoàng, Tỉnh-ủy chứ bộ! Hãy nghe một nữ tù Long Thành phát-biểu ý-kiến về đám quốc-gia bẩn. 

“Con Lan-xì-ke thở dài: 


- Chị đã từng nghe về giòng họ Đặng Vũ chưa. 


Chị tự trả lời: 


- Giòng họ khoa-bảng đấy, thủ-khoa bảng đần-độn, ích-kỷ. Tôi đã khước-từ nó từ lâu. Bây giờ tôi là “con bà phước”. Có người đi tìm hiểu mặt tốt của đời sống, tôi đi tìm mặt xấu. Rồi tôi vào tù vì tôi xấu. Ở tù, tôi bỗng thấy tôi tốt. Và cái tốt mà người ta rêu-rao chỉ là cái đốn-mạt, hèn-hạ. Nếu chị đến sớm vài tháng, chị đã gặp đủ mặt viên-chức thư-lại của chế-độ cũ. Bọn đàn ông ấy nhát như cáy, ngoan như cừu. Họ có vẻ hãnh-diện vì mình tình-nguyện vào tù chứ không bị bắt bỏ tù như chúng ta. Luôn luôn họ nói họ “trình-diện học tập”. Những ông chánh-án, ngày xưa, ngồi xử chúng tôi đủ các thứ tội, nay tranh giành nhau đổ cứt rửa cầu tiêu để đỡ lao-động vất-vả. Tranh giành đổ cứt và chửi bới nhau vì đổ cứt hụt! Những ông nghị-sĩ, dân-biểu, dân kêu ngàn lần không lên tiếng nhưng Cộng-sản nó gọi nhỏ đã dạ lớn rồi, dạ ngay lập tức. Bác-sĩ thì hục-hặc nhau chui vào phòng Y- tế cho đỡ chân lấm tay bùn, dâng mưu hiến kế cai ngục hãm hại tù-nhân . . . 


Con Lan-xì-ke buồn-bã hỏi tôi: 


- Ở thời đại của chúng ta, có thằng thư-lại nào dám làm cách-mạng không, chị? 


Tôi đáp: 

- Bản-chất của thư-lại là cầu an, ù-lỳ, làm cách-mạng sao nổi ! 

Con Lan-xì-ke phá ra cười: 

- Vậy mà vào tù, bọn thư-lại cứ dọa giải-phóng đất nước. Tôi chửi chúng nó, chúng nó vu tôi đủ tội. Tôi nghĩ, bây giờ, tôi có quyền xử những đứa đã xử tôi”. (Sỏi Đá Ngậm-ngùi – Nam Á Paris, 1985) 

Cũng bằng cung-cách hối-lộ, nịnh bợ Giám-thị Hiểu, ông bác-sĩ giã-từ Đội 21 nông-nghiệp ra khu A. Thẩm-phán Đào Minh Lương đã mất nửa lá phổi vì ông bác-sĩ này cúp tiêu-chuẩn cơm trắng và… tiết-kiệm Strepto cho Cộng-sản. Ông ta ra đi, tôi đỡ bị nghe ông thổi harmonica, đỡ bị ông ta than-phiền bỏ hạt ngô xuống lỗ mỏi lưng. “Trí thức của chúng ta cứ nằm trong tháp ngà, cứ trùm mền hưởng-thụ đâm ra lười biếng, sợ khó sợ khổ. Nên, khi đụng vào nghịch-cảnh của đời sống thì không dám đương đầu, thì ngớ-ngẩn và hèn-mọn” 


Về Đội 28 nông-nghiệp, tôi thoát hầm phân. Cái động vang dội của trại tập-trung mà sau này, nhân-vật tiểu-thuyết của tôi từ cái tĩnh của nhà tù ra đã có ý nghĩ: “Trong bóng tối, ta chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Tôi vừa mở mắt: Không có nỗi khổ nào hạng nhất, nỗi khổ nào hạng bét. Nỗi khổ là nỗi khổ. Nỗi khổ trong bóng tối và nỗi khổ ngoài ánh sáng. Thế thôi. Tôi đã thấm nỗi khổ trong bóng tối. Tôi sẽ thấm nỗi khổ ngoài ánh sáng. Tôi bước xuống. Rờn rợn. Bốn năm ròng-rã gắn liền đời mình bên xô cứt, tôi đã quen. Nhưng cái hầm phân này thì thật là ghê rợn. Gọi nó là đầm phân mới đúng. Chân tôi chới với, lún sâu dần, sâu dần. Khi bàn chân đụng đáy hầm, phân đã ngập sát háng tôi. Trên miệng hầm, bạn tù ròng cái xô xuống. Tôi vục đầy xô. Bạn tù kéo lên. Nửa thân thể ngập phân, tay dính đầy phân. Tôi đứng trong phân, trong sự ưu-việt của chủ-nghĩa Cộng-sản hàng tiếng đồng hồ không thèm đếm xỉa tới hàng tỉ con ròi lúc nhúc”.  
Sang Đội 28 nông-nghiệp với tôi, có ông già Hoán. Đội 17 rau xanh cũ của tôi là “thí-điểm” của đoàn-kết anh em, của thương yêu bố con. Nhưng mà ngụp lặn giữa vũng lầy thống-khổ, tình phụ-tử nghĩa huynh-đệ đã chẳng chịu ngoi lên, còn lún sâu xuống. Ba anh em ruột thịt nhà thằng Lợi đấm đá nhau, chửi bới nhau, ăn riêng. Hai bố con ông Quản ăn riêng. Ông Quản đục cậu Học. Cậu Học đưa bố ra đội. Đội không giải-quyết. Thầy quản-giáo giải-quyết giùm. Thế là bố một bị thăm nuôi, con một bị. Bố ca, con cóng. Mỗi người một mâm. Con rể Thanh hục-hặc bố vợ Hoán. Cũng ăn riêng, thăm nuôi riêng. Chỉ còn anh em thằng Huỳnh thuộc “con bà phước” nên vẫn thắm-thiết. Lý-do ăn riêng chính-đáng nhất là bố chửi con “Mày chống Cộng, chọc cứt không thành lỗ làm liên lụy tao”, con cằn-nhằn bố “ông chẳng biết lãnh-tụ là thằng nào mà cũng tham-gia để tôi bị bắt oan”. 

Lãnh-tụ chống Cộng thứ thật sau 30-4-1975 không có, không hề có. Nếu có thì chỉ là sinh-viên, học-sinh Sài gòn và các thành phố. Và tôi gọi chung là Tuổi Trẻ . Và tôi đã vinh-tôn Tuổi Trẻ Việt Nam ở Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư-tử lãng-mạn, Hồn say phấn lạ. Những người tuổi trẻ của tôi đã lên đường từ sau 1-5-1975 . Họ dấy động cuộc chiến-đấu mới. Cộng-sản sợ hãi. Lập tức, Mai Chí Thọ nặn ngay 52 “lãnh-tụ”. Trùm công-an miền Nam dùng Trần Xuân Ẩn, Đỗ Hữu Cảnh đi tìm người chống Cộng và phong làm lãnh-tụ. Thế là Sài Gòn có hàng chục nội-các, hàng trăm Sư-trưởng phục-quốc vốn là Trung-sĩ, Thượng-sĩ của Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa, hàng ngàn lãnh-tụ chống Cộng. Có cả triều-đình nữa. Quốc-vương là anh bán thịt chó. Quốc-vụ-khanh là anh thợ hớt tóc. Đầy đủ “phản-động” của 52 tổ chức chống Cộng ở Sa Ác B. Mai Chí Thọ giăng bẫy, bắt gọn. Niềm tin chống Cộng bị Mai Chí Thọ đâm chảy máu. Dân chúng đang hăng say bỗng chùn lại vì nghi-ngờ. Lãnh-tụ chống Cộng lớn nhất Đỗ Hữu Cảnh lại là trung-úy công-an Ba Sơn. Mai Chí Thọ diệt niềm tin chống Cộng là chuyện hợp-lý. Bởi ông ta là lãnh-tụ Cộng-sản. Những tên nhập-nhằng chống Cộng ở hải-ngoại, mượn chiêu-bài kháng-chiến, móc đô-la của lưu-dân như ông Mặt-trận và công-ty của nó mới không hợp-lý. Nếu hợp-lý thì chả là sự tiếp tay Mai Chí Thọ hủy-diệt nốt niềm tin chống Cộng ở những nơi chốn không có trại tập-trung khổ-sai lao-động. Khi niềm tin bị lừa gạt, tinh-thần “phản-động” sa-sút và nó biến-chứng đủ thứ tật. Thí dụ ông già Hoán tuyên-bố từ con rề Thanh. Thí dụ con rể Thanh lên án bố vợ Hoán “phản-bội tổ-chức”, vân vân… 


Công việc của tôi ở Đội 28 nông-nghiệp là hạ những cây lớn và bứng gốc cây mà thân còi chồi cao lên mặt đất. 



Chúng tôi chuẩn-bị đất canh-tác. Quản-giáo Đội 28 là ông nhóc 18 tuổi, tên Thưởng. Đội-trưởng là phi-công già Trần Ngọc Lân. Đội-phó là Huỳnh văn Vàng, an-ninh quân-đội. Dụng-cụ hạ cây của tôi là dao cùn và cuốc, xẻng. Hai tù-nhân đặc-trách một thân cây hay một gốccây Chúng tôi đã hạ cây rừng như thế nào? Trước hết, tùy theo cây lớn, nhỏ, chúng tôi dùng cuốc dẫy cái vòng tròn lớn, nhỏ chung quanh gốc cây. Cây càng lớn, vòng tròn càng lớn. Chúng tôi cuốc đất, bới đất cho lòi lớp rễ thứ nhất. Thế rồi thằng chặt rễ sát gốc cây, thẳng chặt rễ mọc dài sát vòng tròn. Gỡ từng khúc rễ. Giai đoạn hai: Khi chặt đứt lớp rễ thứ nhất, cuốc đất, móc đất cho lòi lớp rễ thứ hai. Lại chặt. Lại cuốc đất, móc đất cho lòi lớp rễ thứ ba. Đất xúc đổ chung quanh vòng tròn. Cây nhiều tầng rễ ngang là cây sao, cây dầu. Chín tầng. Chặt rễ ngang tầng thứ chín, cái huyệt đã sâu, quá đầu chúng tôi. Chúng tôi moi đất chặt nốt cái rễ đuôi chuột. Lúc này phải báo động, vì cây sắp đổ. Nó đổ rầm rầm, nghe dễ sợ. Chúng tôi thản-nhiên ngồi dưới huyệt. Bởi đã biết chiều đổ của cây. Hạ cây bằng-lăng dễ nhất. Nó chỉ có ba, bốn tầng rễ ngang và không có rễ chuột. Bứng gốc cây cũng theo phương-pháp này. Gốc nhỏ thì khiêng đi. Gốc lớn thì liệng gốc nhỏ xuống huyệt, chất củi và mồi nổi lửa cho cháy ra tro. Mỗi lần san-bằng một gò mối vạn-niên hay hạ đổ một cây cổ-thụ, tôi khoái lắm. Tôi hiểu được sự chế-ngự thiên-nhiên của con người. Và tôi thấy rõ điều này: Chẳng có gì gọi là vĩnh-cửu, kể luôn cái vĩ-đại nhất, trừ con người và ý-nghĩa sống đẹp-đẽ của nó. Vương-quốc mối kiên-cố giữa rừng già trăm ngàn năm, đâu ngờ, có ngày bị tù-nhân lao-cải san-bằng, thò ngón tay chộp Mối Chúa, bỏ vô miệng, nuốt trửng. Cái ảo-vọng “vĩ-đại” và “sống mãi” xem chừng đã lố-bịch. 

 Hạ cây, bứng gốc cây, san gò mối là công việc của tôi. Nhờ vậy, tôi đã đào được dao cạo râu, nước ngọt Coca Cola, Sprite, lương khô mà lưỡi đã sét, hộp đã rỉ, bao da mủn. Quân-đội Úc đã “kích” vùng này. Họ đã nằm ở đây để vồ Việt cộng. Ghê thật, Kangourou dám vào tận sào-huyệt đối-phương. Gần hiện trường lao-động của Đội 21 có một hố bom thật lớn, thật sâu. Chúng tôi đã tắm ở đây mùa mưa. Cách hố bom khoảng 30 thước là cửa một cái hầm bí-mật còn đầy áo mưa ni-lông khô cứng. Trái bom của người lính tầu bay nào suýt nổ sập hầm bí-mật. Chắc chắn, nó đã làm vỡ mật Việt cộng núp dưới hầm. 



Tôi sống thoải-mái ở Đội 21 , hết bị ròi của hầm phân ám-ảnh.

° ° °
Đằng Giao làm đơn xin Ban giám-thị cho xuống làm tù-nhân bình thường. Bị ở nhà “làm việc” một tuần-lễ, bị quay đứ-đừ. Rốt cuộc, vẫn phải làm Đội-trưởng. Đội của Đằng Giao thêm hai “nhân-vật”: Hồ Hữu Tường và Lý Quốc Sinh. 


Hồ Hữu Tường, cả nước đều biết tên tuổi. Với người miền Nam, ông là nhà “bác vật”. Chúng ta hiểu ông như một chính-trị-gia, một lý-thuyết-gia, một văn-gia. Sau hết, vào những năm trước 1954, nhà văn Tam Ích, muốn coi ông như một học-giả, yêu-cầu ông Hồ Hữu Tường về chỗ ngồi của ông “vì chiếu học-giả mới lơ thơ vài người”. Người đệ tứ quốc-tế, người vượt Mác, người trung-lập- chế, tác-giả Phi Lạc sang Tầu, Thu Hương, Chị Tập, Thuốc tràng-sinh, Người Mỹ ưu-tư…không thích làm học-giả. Năm 1946, nằm trong tay bọn Bon-sê-vích, ông đã tuyên bố “phong kiếm quy ẩn”, giả-vờ bàn chuyện Tương-lai văn-hoá Việt Nam. Rồi ông trốn. Bị lừa, Phạm văn Đồng điên lên, thề bắt được Hồ Hữu Tường sẽ” thiến dái”! Phi Lạc sang Tầu, sang Nga, sang Tây, về Sàigòn, xuất-bản nhật-báo Phương Đông cổ-xúy thuyết trung-lập-chế. Phi Lạc vào Rừng Sát làm quân-sư cho tướng cướp hèn mọn Bẩy Viễn. Phi Lạc bị Ngô Đình Nhu bắt, đầy ra Côn Đảo. Phi Lạc được “cách-mạng thoán-nghịch” giải phóng. Phi Lạc ứng-cử dân-biểu Hạ-viện. Phi Lạc mượn tiền ngân-hàng phát-triển nông-nghiệp nuôi gà. Phi Lạc quỵt nợ. Phi Lạc qua Tây nằm ì, bắt Hạ-viện gửi tiền lương sang mua vé máy bay hồi hương. Phi Lạc mặc áo vàng, đeo xâu chuỗi vô Hạ-viện, bắt đầu cổ-xúy một thứ giáo-hội mới. Sự-nghiệp chính-trị của Phi Lạc chấm dứt từ dạo theo phò Bẩy Viễn và bêu-riếu từ khi làm dân-biểu. Tháng 4-1975, Cộng-sản thôn-tính miền Nam, cả Phi Lạc lẫn Phạm văn Đồng đều già rồi, Đồng quên lời thề “thiến dái” Phi Lạc. Hồ Hữu Tường yên thân. Đầu năm 1977, ông ta lập Đảng nhuốm đầy tính-chất hoang-đường, dị-đoan mê-tín. Ông ta và chúng đệ-tử bị bắt. 


Chẳng hiểu vì lý-do gì, đệ tử của ông công-khai tố-cáo ông với các tù-nhân khác. Đệ-tử ông ta oang-oang tố-cáo thì tôi nghe. Cả nhà nghe. Cái bi-hài-kịch đảng-viên tố-cáo Đảng-trưởng đã xẩy ra như cơm bữa ở nhà tù, ở trại lao-cải. Tố-cáo toàn chuyện…ghê-gớm. Như anh thợ hớt tóc mặt rỗ nhằng rỗ nhịt được quốc-vương Thịt Chó phong chức quốc-vụ-khanh, thấy quốc-vương có thăm nuôi khẩm, quốc-vương thắt chặt túi, bị thăm nuôi, mình hút thuốc lá KENT (Không EmNào Thăm.. .nuôi) mà quốc-vương chơi trò…ăn riêng. Bèn tủi thân. Rồi phẫn-nộ, lớn tiếng đòi quốc-vương trả lại hai lạng vàng đã đóng cho quốc-vương vì lý-tưởng chống Cộng! Như anh Tiểu-đoàn-trưởng phục-quốc-quân Binh-đoàn Lê văn Duyệt đòi tuyết-hận ngoài đời khi được tha vì Sư-trưởng đã hú-hí với vợ của anh. Như các ông phản-động thì chửi lãnh-tụ đã đưa các ông ấy vào tù, vợ ở nhà no, thăm nuôi lãnh-tụ mập-mạp v.v…. Nền chống Cộng có vẻ thiếu…phẩm-chất. Tất cả không đáng xách dép cho những người tuổitrẻ chống Cộng tôi đã gặp, đã sống với họ ở đề-lao Gia Định và tôi đã gọi họ là Bầy sư-tử lãng-mạn.



Ông Hồ Hữu Tường không nghiện thuốc phiện, không vì thiếu thuốc phiện mà mê sảng, vậy mà ông ta rất mê sảng. Ông ta nằng-nặc xin cống-hiến những môn thuốc dân-tộc. Ông ta ở nhà viết sách thuốc. Ban giám-thị yêu-cầu thuốc kiết lỵ, thuốc ghẻ, ông ta không “sáng tạo” nổi. Thế thì không đạt yêu-cầu. Ông Tường lóc-cóc đi lao-động. Ông đi bộ. Vấp chân té đụng thầy Quản-giáo, thầy Quản-giáo “miễn chấp”, ông Tường vẫn bắt Đội-trưởng Đằng Giao ghi vào biên-bản phiên họp cuối tuần: “Hôm ấy, tôi, Hồ Hữu Tường, trại-viên Đội 21 nông-nghiệp, đi lao-động sơ ý vấp té đụng cán-bộ. Tôi thất lễ, xin nhận khuyết-điểm”. Đằng Giao không cho thư-ký ghi. Ông Hồ Hữu Tường “hạ quyết-tâm” ghi ! Con người vượt Mác ấy đã trở thành biểu-tượng của “nhà văn”. Để bọn thư-lại và bọn sĩ- quan văn-phòng chửi rủa tất cả nhà văn phản-kháng chế-độ cũ của chúng nó. Tôi không muốn nhắc thêm ông thẩm-phán già Lý Quốc Sinh, ứng-cử-viên phó tổng-thống. Ông Hồ Hữu Tường, ông Lý Quốc Sinh đã giúp tôi một kết-luận không sợ sai lầm: Những “nhân-vật”, già nua không xài được nữa, dù trong tù hay ngoài đời, trong nước hay ngoài nước. Bọn bình vôi sứt mẻ và đặc khịt này cần liệng ra ngoài lề lịch-sử. Bây giờ đích thực là thời của tuổi trẻ ở mọi lãnh-vực, ở mọi lãnh-thổ.

° ° °
Sa Ác B, những ngày tôi sống, chỉ có một vụ vượt ngục thành-công. Đó là vụ ba người tù phản-động gỡ mái tôn ra đi một đêm mưa tầm-tã. Ba người này ở đội của Dương Đức Dũng. Vệ-binh truy-nã một tuần không tìm ra dấu vết. Những vụ trốn trại của tù-nhân hình-sự ngoài bãi, bị bắt hết. Dĩ nhiên, trốn trại bị bắt thì chính-trị hay hình-sự cũng đều bị giáng những báng súng tàn bạo. Có một vụ trốn làm tôi cảm-phục vô cùng. Hồi ấy, tôi còn làm Đội-trưởng rau xanh. Buổi sáng hôm đó, trời đầy sương mù. Lợi dụng lúc tan hàng tập thể-dục, người tù hình-sự tên Chuyên, sinh-viên đại-học Vạn Hạnh, leo hàng rào kẽm gai thật nhanh và phóng xuống sông Ray. Vệ-binh trên chòi canh nổ súng. Chúng tôi phải vào nhà hết. Cuộc truy-lùng diễn ra. Súng nổ ầm-ỹ khủng-bố tinh-thần kẻ bôn-đào. Đến lúc kẻng tập họp lao-động, vẫn chưa phát-hiện chỗ ẩn nấp của Chuyên. Khoảng 9 giờ, trời đã hoe nắng và sương mù đã tan, khu rừng bên kia sông Ray gần vườn rau của đội tôi có tiếng súng nổ và tiếng vệ-binh xôn-xao. Người ta đã bắt được Chuyên. Tên cán-bộ Cần, đặc-trách an-ninh, hung-thần của Sa Ác B, chạy nhanh ra bờ sông. Hắn máng giây súng AK trên vai, đứng chờ tù-nhân trốn trại. Tiếng hét của vệ-binh bên kia sông: 


- Bò! Cấm đứng dậy! Bò! 



Vệ-binh sợ-hãi anh Chuyên, vì anh ta to con. Tôi không nhìn thấy anh Chuyên bò. Đứng trên gò cao, tôi thấy rõ hung-thần Cần sát-khí đằng-đằng chờ đợi. Rồi anh Chuyên bị vệ-binh đạp mạnh rơi xuống sông. Anh ta đứng dậy ngay đưa tay vuốt mặt. Chuyên lội sang bên này. Hung-thần Cần đã gỡ súng AK khỏi vai. Hắn cầm chắc giữa nòng súng. Anh Chuyên vừa lên bờ, hung-thần đã phang anh một báng súng ngang lưng. Anh gục ngã. Đứng rất nhanh, ngẩng mặt: 



- Cán-bộ không được phép đánh tôi. 


Hung-thần không thèm nghe. Nó đợi anh bước vài bước. Lại đánh. Anh Chuyên vẫn cố đứng thẳng ngẩng mặt: 


- Cán-bộ không được phép đánh tôi. 


Mỗi báng súng giáng xuống thân-thể anh, Chuyên đều ngã chúi, đều đứng dậy rất nhanh, đều ngẩng mặt nói một câu đã nói. Qua vườn rau của tôi, bạo-lực chùn tay. Hung-thần Cần không đánh anh Chuyên nữa. Anh bị còng chân tại căn nhà mới xây xong. Chính hung-thần Cần săn-sóc anh Chuyên, cho anh ăn tiêu-chuẩn đãi-ngộ, tặng thuốc lá anh hút. Thái-độ can-đảm của anh đã khiến hung-thần cảm-phục. Một tù-nhân duy nhất không bị thi-hành kỷ-luật tội trốn trại. Anh Chuyên được dưỡng sức cả tháng. Hung-thần Cần mở còng cho anh về đội, hai hôm sau. Người tù hình-sự tuyệt-diệu đó đã gây cảm-hứng cho tiểu-thuyết Sông Ray phẫn-nộ của tôi. 


Tôi đã viết: Có hai cách trốn trại. Trốn trại ban đêm và trốn trại buổi chiều, ngoài bãi lao-động. Khi tù-nhân rỡ mái tôn hay khoét tường trốn trại ban đêm, Nhà-trưởng, Đội-trưởng và những người ăn cơm chung với tù-nhân trốn trại rắc-rối to. Phải làm tự kiểm và bị chấp-pháp tơi-bời. Khi tù-nhân trốn trại ngoài bãi, súng vệ-binh nổ ba phát báo động. Trực trại đánh kẻng tan lao. Các đội thu dụng- cụ tập họp một chỗ. Ngồi đợi một lúc mới được dẫn về trại. Không tắm, không ca cóng. Vào nhà ngay. Những người khai bệnh nằm nhà, không được lai-vãng ngoài sân. Đang tụ-tập trong sân mà bày trò trốn trại, lại bị một thằng tù khác ôm chặt cứng cho cán-bộ đánh thì chỉ có ông nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp” vẽ ra theo sự bịa-đặt vừa ngu vừa dốt. Thế gọi là văn-học nghệ-thuật…cao-cấp đấy. Và cũng hì-hục chép hồi-ký ngục tù. Chắc chắn, các trại lao-cải của nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp” không có ai dám trốn trại. Cho nên, đáy địa-ngục chỉ là “ăn vụng, ăn tranh phần khoai và cháy của heo”. Người ta còn mang cả mối thù nặng những nghìn cân tức là 10 tạ vì bị dồn vào thế “ăn cắp, ăn vụng”. Từ ăn cắp, ăn vụng đến ăn gian nói dối cách nhau một sợi râu Bác Hồ! 


Tỷ lệ những người “trình-diện học tập cải-tạo” trốn trại rất là khiêm-tốn. Tỷ lệ những tù-nhân can tội phản-động cũng khiêm-tốn lắm. Nói chung, tỷ-lệ trốn trại của tù-nhân ỏ các nhà tù, trại lao-cải không đáng kể. Với chế-độ hộ-khẩu, chế-độ công-an nhân-dân, chế-độ công-an khu-vực, tù hình-sự có trốn trại rồi cũng bị bắt lại. Trừ phi, trốn trại rồi vượt biên ngay. Trốn đi đâu? Không có một chiến-khu nào cho người trốn trại tìm vào chiến-đấu. Bồn bề hoang-vu, lặng thinh. Giữa rừng già hiu-hắt, chỉ cần một tiểu-đội biệt-kích đã thừa tiêu-diệt đám vệ-binh lau-nhau và giải thoát tù-nhân. Không hề thấy. Tôi đã hàng đêm mơ mộng chuyện quân ta đánh phá trại. Vì tôi đau lòng thấy mấy thằng Việt cộng mặc quần xà-lỏn may bằng cờ vàng ba sọc đỏ. Tù-nhân không dám trốn trại bởi không tìm ra địa-điểm đi tới. Nỗi quạnh-hiu đến não-nề phủ kín quê-hương, có lẽ, chỉ ồn-ào bằng kháng-chiến chiêm-bao, bằng chiến-khu tưởng-tượng của bọn cai thầu lòng yêu nước và đám côn-quan thu thuế lạc-quyên. 



Cộng-sản dùng danh từ man- rợ là quản-lý con người. Họ có nghệ-thuật quản-lý con người. Người quốc-gia hải-ngoại chắc chưa bao giờ nghe nói tới một thứ nghệ-thuật gợi tưởng bắt bớ, giam nhốt, tra tấn, thủ-tiêu là nghệ-thuật công-an. Nhà-nước Cộng-sản đã hãnh diện xuất bản tạp-chí Nghệ-thuật công-an đấy. Nghệ-thuật quản-lý con người là không cho con người có cơ-hội nổi loạn. Đừng đánh giá Cộng-sản qua những người công-an coi tù ngọng-nghịu, qua những người bộ-đội ngớ-ngẩn. qua những người cán-bộ khù-khờ. Phải đánh giá Cộng-sản qua chủ-nghĩa của nó, qua lãnh-tụ của nó. Chúng ta cần nhìn rõ đối-tượng đề tiêu-diệt. Đó là bọn ủy-viên Bộ chính-trị và bọn ủy-viên trung-ương Đảng. Và, đằng sau những con bài lãnh-tụ đã lật là những ai còn trong bóng tối. Khi Cộng-sản Việt Nam tung những khuôn mặt mới, chúng ta mới bắt đầu đi tìm hiểu và chúng ta cũng chưa hiểu chính-xác. 


Ngược lại, Cộng-sản biết hết chúng ta. Tri-kỷ mà không tri-bỉ thì chỉ có. . . di-tản, vượt biên. Tri-bỉ mà không tri-kỷ thì chỉ có thuê đất thiên-hạ lập chiến-khu và duyệt binh thiếu xe tăng, tàu bò, đại- bác, máy bay những ngày quân lực… tan hàng. Chúng ta đã viết báo, đã diễn kịch chống Cộng-sản. Chúng ta cho Cộng-sản đội nón cối, răng vẩu, mắt toét, nói ngọng, ngu dốt. Và chúng ta chạy quá dài, quá nhanh, quá xa. Chúng ta lại tiếp tục viết báo- diễn kịch chống Cộng-sản nón cối, giép râu, răng vẩu, nói ngọng, mắt toét, ngu dốt… Võ Nguyên Giáp không ngọng không dốt. Nguyễn văn Linh không dốt, không ngọng. 


Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam không nói “đồng hồ 2 cửa sổ, 12 cột đèn”. Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam không nói kiểu cai tù chăn trâu cắt cỏ mắng tù-nhân: Nao động thì nề mề, tư-tưởng thì nấn cấn. Chỉ mong ngày nễ nớn. Nễ nớn ăn thịt nợn. Đã cho ăn thịt nợn nại còn đòi ăn nòng. Bố nếu bố náo“… Lãnh-tụ Cộng-sản Việt Nam biết lừa gạt cả thế-giới, biết bỏ đám phản-chiến Mỹ và báo-chí Mỹ vào túi quần… Và biết quản-lý con người. Quản-lý con người đáng ngại nhất. Giải-phóng con người thoát khỏi sự quản-lý của Cộng-sản mới là cách chiến-đấu tuyệt-diệu. Để chiến-thắng. Để tuyệt diệt Cộng-sản trên trái đất. Đề tạo dựng hạnh-phúc vĩnh-cửu cho dân-tộc, cho nhân-loại. Như thế, cần-thiết một chủ-thuyết chế-ngự chủ-nghĩa Cộng-sản và chủ-nghĩa tư-bản là hai chủ-nghĩa đã chỉ tạo ra chiến-tranh, nô-lệ, đói khổ, tù đầy, thù-hận. Cộng-sản và tư-bản đều đã lạc-hậu, bất-lực. Từ hơn một thế-kỷ nay, chúng ta chỉ nhai lại chủ-thuyết của thiên-hạ mà mưu cầu hạnh-phúc cho dân-tộc. Và chúng ta sát hại lẫn nhau cũng vì chủ-thuyết của thiên hạ. Chưa có người Việt Nam lập thuyết. Mỗi chủ-thuyết dấy động phong-ba đều ra đời trong những bối-cảnh lịch- sử nghiệt-ngã. Bối-cảnh lịch-sử hôm nay rất thích-ứng cho một chủ-thuyết nhân-bản ra đời. Các ngài tiến-sĩ tốt-nghiệp đại-học Huê Kỳ sau 1975 đã nghĩ đến chuyện lập thuyết chưa? Hay chỉ biết ngồi ở quán rượu diễn tuồng đố kỵ tài-năng và chửi bới người vắng mặt? Nhớ rằng Marx và Engels lập thuyết ở Đức và Lénine truyền-bá ở Nga. Vậy tiến-sĩ Việt Nam lập thuyết ở Mỹ sẽ có người truyền-bá ở một nơi nào đó thuận-lợi. Tôi sợ đầu óc tiến-sĩ bé tí tẻo, chưa dám nghĩ thuyết nào ngoài thuyết Job. Mà chống Cộng bằng “đả đảo”, bằng “tài liệu”, bằng chưa hề nhìn rõ giép râu 30-4-1975 sẽ nghìn đời không ép- phê. Nhưng lập thuyết và làm tư-tưởng không nằm trong khả-năng và kiến-thức hạng bét của thằng viết tiểu thuyết mưu sinh là tôi. Vậy trở về nghệ-thuật quản-lý tù-nhân của Cộng-sản. 


Cộng-sản nắm vững tâm-lý tù-nhân. Cái thứ án gọi là án phạt tập-trung cải-tạo nó bắt tù-nhân không được phép tuyệt-vọng và chỉ được phép hy-vọng kiểu hy-vọng trúng xổ số. Tù không có án, có thể, ngày mai được tha, có thể ba năm được tha, có thể ba mươi năm được tha. “Về hay không là ở các anh có tiến-bộ hay không. Tiến-bộ sớm về sớm. Tiến-bộ muộn về muộn”. Không bao giờ có dọa-nạt: Không tiến-bộ, không về. Nghĩa là, đã học tập cải-tạo tất sẽ phải tiến-bộ. Tiến bộ sớm hay tiến-bộ muộn do ở thiện-chí cải-tạo. Thiếu thiện-chí cải-tạo thì lâu tiến-bộ. Sự tiến-bộ nhìn rõ ở lao-động.“Lao-động là cái thước đo giá-trị con người”. Lao-động thể-hiện tư-tưởng vì lao-động là hành-động. Hành-động trọng-tâm xác-định tư-tưởng tốt chỉ là lao-động tích-cực đạt chỉ-tiêu. Ngoài ra, những hành-động chào kính, tuân-hành mệnh-lệnh thể-hiện sự hết thù-nghịch cách mạng. “Tư-tưởng thể-hiện hành-động”. Hành-động tốt, tư-tưởng tốt. Hành-động tốt giả-vờ, tư-tưởng vẫn tốt. Cộng-sản thừa hiểu hành động tốt giả-vờ là nín thở qua cầu nhưng họ chấp-nhận nín thở qua cầu hơn là chống đối ra mặt. Bởi thế, cái mà tù-nhân hấp-thụ được từ nền giáo-dục cải-tạo của Cộng-sản là sự gian dối. Tất cả tù-nhân, ra khỏi trại lao-cải, đều trả lại sự gian dối cho cộng sản. Hiếm-họa mới còn người coi sự gian dối như chân-lý. 


Tù-nhân bối-rối trong câu nói khoan-dung khốn-kiếp: “Đảng và Nhà-nước không muốn giam giữ các anh, nhưng về hay ở là tùy thái-độ cải-tạo của các anh“. Như tôi đã viết tù-nhân mang án phạt tập-trung cải tạo, có thể, ngày mai về, tuần sau về, tháng sau về hay ba mươi năm sau về, nên không dám vượt ngục. Nhỡ mai được tha thì sao? Cái hy-vọng mơ-hồ làm tù-nhân quên tuyệt-vọng. Và cam đành chờ đợi…xổ số. Tù-nhân gọi những buổi tập họp giữa sân trại hay tại hội trường nghe đọc danh-sách những người được tha là nghe kết-quả xổ số. Tại sao nghe đọc kết-quả xổ số? Vì không biết ai sẽ được về. Tù nhân lao-cải là những người không mua vé số mà vẫn bị nghe kết-quả xổ số. Cùng bị bắt một vụ, cùng đi trình-diện một ngày, người cấp bậc cao, người chủ mưu có tên trong danh-sách. Thiếu- tá Phủ đặc-ủy trung-ương tình-báo có tên đọc, hạ-sĩ gác cổng không có tên đọc. Vậy không gọi xổ số thì gọi là cái gì? Sự tha bổng của Cộng-sản ăn thua ở hên xui. Như tù-nhân Nguyễn Tân Mão, thiếu-úy đã có lệnh tha ở Phước Long năm 1978. Thay vì về sum-họp gia đình ngay buổi chiều đọc xong lệnh tha, lại nấn-ná ngủ một đêm chót “enjoy” với anh em, mai mới giã-từ lao-cải. Nửa đêm có lệnh thu hồi Giấy ra trại. Những người đã về, coi như… tự-do luôn. Những người chưa về, ở lại lao-cải tiếp. Nguyễn Tân Mão bị chuyển về Z30 D Hàm Tân, nghe kết-quả xổ số hàng chục lần. Mãi đến giữa năm 1981 mới… trúng số ! Bộ quốc-phòng rồi Bộ nội-vụ của Việt cộng có những quyết-định tha tù-nhân rất ly-kỳ. Tôi có cảm-tưởng họ bỏ tên tù-nhân vào lọ, xóc loạn lên như xóc sâm ở Lăng Ông. Tên nào rớt ra, tên ấy trúng số. Bộ nội-vụ quyết-định tha tù-nhân, không phải Giám-thị lại lao-cải. Ban giám-thị ưa hù tù-nhân rằng Ban giám-thị đề-nghị, chấm điểm cho tù-nhân. Tù-nhân được tha sớm, tha muộn là do đề nghị của Ban giám-thị. Mà đề-nghị điểm tốt lên Ban giám-thị là do cán-bộ Quản-giáo. Hù thế để tù-nhân tôn-trọng Nội-quy, nể sợ cai tù . Ngay cả Giám-thị cũng không có quyền bắt, quyền tha tù-nhân. Có một quyền duy nhất thả tù-nhân: Là ăn vàng hối-lộ của thân-nhân tù-nhân để tù-nhân trốn trại an-toàn. Trường-hợp này đã xẩy ra ở trại lao-cải Long Giao những năm bộ-đội quản-lý tù-nhân. Một tù-nhân trốn trại, bị bắt, bị nhốt vào conex, vẫn mở conex trốn ra như James Bond rồi vượt biên. Những thằng tưởng làm “ăng-ten” ở nhà tù, ở trại tập-trung sẽ được tha sớm là những thằng ngu. Những thằng viết rằng vì bị “ăng-ten” tố-cáo mà nằm tù mút chỉ là những thằng đại ngu . Từ năm 1980 , sĩ-quan, công-chức học tập cải-tạo, muốn về, chỉ cần gia đình có nhiều vàng chuộc. Trung-tá cảnh-sát đặc-biệt không những được về mà còn được đoàn-tụ gia đình ở Tây Đức. Trung-sĩ cảnh-sát đặc-biệt và hạ-sĩ gác cổng, hạ-sĩ bưng nước Phủ đặc-ủy Trung-ương tình-báo thì vẫn…lao-cải. 



Biết rằng thân-phận mình nằm trên 6 lồng cầu, tù-nhân cứ khấp-khởi nghe kết-quả xổ số. Trước mắt đó, anh em đã ra về thơ-thới hân- hoan. Sắp đến lượt mình về. Hy-vọng dâng tràn. Tích-cực lao-động và chấp-hành Nội-quy tốt. Khi tù-nhân chán-nản, tuyệt-vọng, lập tức, trại đột-xuất cho nghỉ lao-động vài ngày, cho ăn cơm trắng với thịt kho. Thế là bàn-tán, suy-luận, suy-diễn. Toàn suy-diễn tốt về phía mình. Bồi-dưỡng để tha đây. Đảng và Nhà-nước thay đổi nhiều rồi. Hy-vọng lại dâng tràn. Nghỉ lao-động vài ngày rồi lao-động lề-mề. Quản-giáo không thúc-dục, không kiểm-tra. Giờ giải lao kéo dài cả tiếng. Văn-nghệ ngoài bãi. Nhạc vàng, vọng-cổ hát líp-ba- ga. Tắm thỏa-thuê. Về trại sớm. Trực trại dễ-dãi ca-cóng. Thăm gặp không giới hạn. Có sức tha-hồ gánh quà. Tự-do hàn-huyên với thân-nhân. Sợi giây siết cổ tù-nhân nới lỏng, nới lỏng tưởng chừng tháo tung. Mầm mống nổi loạn vừa nhú lên, vội-vàng tàn lụi. Không có gì đề chống đối cả. Trại đối xử tốt quá rồi. Cứ lè- phè đợi cầm giấy ra trại. Trốn trại là ngu. Bị bắn khổ vợ con. Nổi loạn là dại. Trứng khó địch lại đá. Tư-tưởng thua AK. Cộng-sản biết cách xì bong-bóng. Không bao giờ họ bơm căng, không bao giờ họ dồn tù-nhân vào chân tường. Dồn gần sát chân tường dò dẫm phản-ứng rồi họ lại đẩy ra. Nới lỏng giây siết cổ rồi lại siết dần. Cứ thể, họ quản-lý tù-nhân tháng này qua năm nọ. Và không hề có nổi loạn đánh phá trại giam, cướp súng giết cai tù. 


Nghệ-thuật rỉ tai gây ngờ vực rồi thù-hận lẫn nhau giữa tù-nhân của Cộng-sản đã tinh vi, nghệ-thuật tung tin công-khai của Cộng-sản càng tinh-vi. Bàn hương-án bầy ra, Giám-thị, khuôn mặt đằng-đằng sát-khí, lời lẽ sắt thép: 


- Các anh chỉ có một con đường chọn lựa. Đó là con đường tích-cực lao-động cải-tạo tư-tưởng để được hưởng sự khoan-hồng của Đảng và Nhà-nước sớm về sum-họp gia-đình. Ngoài con đường đó là vô vọng. Mới đây, đế-quốc Mỹ đòi chuộc các anh. Chúng định giá các anh như súc-vật mỗi đầu người 2500 đô la. Đảng và Nhà-nước ta quý-trọng con người, triệt-để bảo-vệ phẩm-cách con người, không vì cần đô-la mà bán các anh như bán nô-lệ. Các anh đừng hòng đế-quốc Mỹ cứu các anh. Đừng hòng. 


Cộng-sản thả cái phao mục cho tù-nhân sắp chết đuối. Chưa đủ, tự nhiên họ ân-cần yêu-cầu tù-nhân nào có thân-nhân di-tản trước 30-4-1975 sang Mỹ, sang Úc, sang Pháp…thì thành-khẩn khai báo. Ai không khai sẽ mất quyền-lợi và không được khiếu-nại. Tù-nhân đang muốn nổi loạn, bèn xìu xuống. Người ta công-khai thảo-luận đề-tài hấp-dẫn “Mỹ cứu tù-nhân cải-tạo”. Người ta suy-diễn. Người ta suy-luận. Người ta chìm vào chiêm-bao. Và người ta chứng-tỏ sự tiến-bộ vượt bực. Chấp-hành Nội-quy thật tốt. Lao-động thật tích-cực. Để được Mỹ cứu. 


Tư-tưởng trốn trại và nổi loạn không còn nữa . Nhưng tư-tưởng… đố-kỵ manh-nha. Tù-nhân đặt câu hỏi: Những thành-phần nào được Mỹ chuộc 2500 đô-la một đầu người? Câu trả lời có ngay: Ngụy- quân và ngụy-quyền, tức là sĩ-quan quân-đội, cảnh-sát và công-chức cao-cấp, dân-biểu, nghị-sĩ… Mỹ chỉ cứu người của họ, “đồng-minh” của họ. Khi cần mỉa-mai thì Mỹ chỉ cứu đầy-tớ của họ, tay sai của họ! Thành-phần tù-nhân phản-động kết-luận thế. Bèn có ba giai-cấp tù trong nhà tù. Giai-cấp tù-nhân trình-diện học tập cải-tạo, giai-cấp tù-nhân bị bắt và giai-cấp tù-nhân chống Cộng sau 30-4-1975 bị bắt. Tù-nhân hình-sự không được đề-cập, dù hình-sự có nhiều người kiến-thức và tư-cách ăn đứt tù-nhân chính-trị. Giai-cấp tù-nhân chống Cộng sau 30-4-1975 mà Cộng-sản gọi là “phản-động hiện-hành” có vẻ tự-hào nhất. Rằng, có thể họ bị lừa gạt, bị sa bẫy Mai Chí Thọ nhưng họ dám chống Cộng trong hoàng-hôn chống Cộng. Rằng, tướng tá đào-ngũ trước 30-4-1975, bộ- trưởng đào-nhiệm, nghị-sĩ, dân-biểu, nghị-viên bỏ dân chuồn nhanh, những kẻ chậm chân bị ở lại thì cam đành đóng tiền, xếp hàng, chen lấn trình-diện học tập cải-tạo. Chỉ có họ, những người can-đảm và nhiệt tình, mới dám chống Cộng-sản, trực-diện chống Cộng-sản khi Cộng-sản đã thôn tính miền Nam . Vậy thì họ bèn khinh-bỉ những kẻ hí-hửng đợi chờ Mỹ cứu. Họ nổi cơn phẫn-nộ, nguyền-rủa Mỹ là bọn phản-phúc chó đẻ. Những cuộc đấu võ mồm suýt thành võ chân tay xẩy ra chung quanh đề tài “Mỹ cứu tù-nhân cải-tạo”. Cộng-sản ném một hòn đá chết hai con chim. Nó hư hư thực thực “Mỹ đòi chuộc các anh”, nó lấp-lửng không quy-định “các anh” là ai. Và các anh chống đối nhau, chia rẽ nhau. Thực lòng thì anh nào cũng muốn được Mỹ chuộc với giá 2500 đô la, nhưng thấy mình quá “xa lạ” với Mỹ đâm ra cay cú Mỹ và cay cú thành-phần sẽ được Mỹ cứu. Võ-khí tư-tưởng của hai giai cấp: Chỉ có đầy-tớ Mỹ mới được Mỹ chuộc sang Mỹ tiếp-tục làm đầy-tớ cho nó. Bọn vô danh tiểu tốt, Mỹ đâu thừa tiền chuộc. Như vậy đó, thủ-đoạn Cộng-sản. Khi con người thấy nó không có quyền-lợi thì nó điên lên vì những con người có quyền-lợi. Cộng-sản quán-triệt nghệ-thuật làm con người điên lên. Thí dụ cái tin Mỹ đòi chuộc tù-nhân cải-tạo rất lô-gích mà họ tung ra ở các trại cải-tạo. Sự thành-công của Cộng-sản phải coi là tốt đẹp. Nhiều tù-nhân cải-tạo sợ “bị” được tha sớm. Được tha ở giai-đoạn này là niềm bất-hạnh, là bị xóa tên trong danh-sách tù-nhân được chuộc tiền của Mỹ. Tất cả muốn chờ Mỹ cứu, muốn đợi phái-đoàn Mỹ đến tận trại lao-cải gọi tên mình, ném mình lên trực-thăng, bốc mình luôn ra Hạm đội số 7. Ở đó, vợ con mình đã có mặt! Đó không bao giờ là ảo-vọng mà là sự thật. Sự thật nhanh một tí hay muộn một tí thôi. Và tù-nhân cải-tạo đã hồ-hởi phấn-khởi nằm tù. 


Một vài thí-dụ cụ-thể để chứng-minh nghệ-thuật quản-lý tù-nhân của Cộng-sản. Nghệ-thuật này không bao giờ do Ban giám-thị trại hay bọn cai tù chăn trâu cắt cỏ ngọng líu lưỡi sáng-tạo cả. Chúng nó dốt-nát, sáng-tạo sao nổi. Nghệ-thuật quản-lý nhân-dân, quản-lý tù-nhân, quản-lý con người do đám lãnh-tụ chiếu nhất của cái gọi là Bộ Chính-trị trung-ương Đảng sáng-tạo thành chính-sách, thành mệnh-lệnh và bọn cai tù có bổn-phận thi-hành nghiêm-chỉnh. 


Bạn đã hiểu tại sao tù-nhân lao-cải ít vượt ngục và tại sao không hề có cuộc nổi loạn ngoạn-mục nào ở các trại tập-trung khổ-sai lao-động.


CHƯƠNG 8
Báo tin mừng cho em biết
Anh vừa tháo gỡ loạt bom
Có trái nổ
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người banh xác, kẻ cụt chân 

Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa phát hoang khu rừng

Khi gom đốt

Đạn chìm sâu lên tiếng thét
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người vỡ ngực kẻ bay lưng 


Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa đục núi gài mìn

Lửa bén ngòi nhanh

Đá bay như đạn rít
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người hộc máu, kẻ mù luôn 


Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa bắc lại cây cầu

Đang mùa lũ

Nước nguồn chẩy xiết
Cầu sập trôi
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người no nước, kẻ mù khơi. 


Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa chui xuống hầm phân

Hàng tỷ con ròi bò khắp mình anh gớm ghiếc

Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn-bè người ngất xỉu, kẻ mửa mật vàng xanh. 


Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa ăn chuột cống, bọ cạp, thỏ sình

Cóc nhái, rắn rết, châu-chấu, cào-cào

Ăn rau tầu bay, cỏ trời, cỏ dại tào-lao
Cám ơn trời anh không chết
Nhưng bạn bè người tiêu ma, kẻ kiết-lỵ quặn đau. 


Báo tin mừng cuối cùng cho em biết

Ngày anh chết

Xác anh nhét trong chiếc hòm

Trên xe cải-tiến
Bạn anh kéo, đẩy đem chôn
Mồ anh sẽ cạnh mồ tên ăn cắp
Chẳng một ai được quyền vẫy tay, lau nước mắt
Người ta đọc lệnh tha anh thay thế điếu-văn
Anh hoàn-toàn tự-do về sum-họp gia-đình 


Duyên Anh

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984 


Bài thơ Tin Mừng, theo người tù không có án là cảm-xúc, có thể, gọi là nguyên-khối mà tôi đã sáng-tác ở Sa Ác. Tôi nói có thể vì một vài sự-kiện xẩy ra ở Sa Ác mà ở các trại Đồng Ban, Trảng Lớn, Kàtum, Suối Máu mà các bạn tù ở Phước Long kể cho tôi nghe. Như gỡ bom bị nổ, nhiều tù-nhân chết, nhiều tù-nhân cụt chân, cụt tay. Như phát-quang gom cây đốt, đạn nổ, tù-nhân mang thương-tích. Như gài mìn đục núi lấy đá, tù-nhân bị tức ngực, bị mảnh đá văng trúng mắt. Như bắc cầu bị sập, tù-nhân mất-tích. Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao đã gỡ bom. Các Đội phát-quang của Sa Ác B đã đốt cây nhằm chỗ đạn vùi sâu dưới đất. Đội 38 của Dương Đức Dũng đã bắc cây cầu qua sông Ray mùa nước lũ… Tôi muốn cảm-xúc của tôi được ghi tại chỗ. Tôi muốn thơ của tôi không bị xếp loại với thơ “chiêm-bao sự thật”. Những người chưa hề đọc Thơ Tù của tôi sẽ thắc-mắc rằng tôi đã làm thơ tù như thế nào? Trang đầu của Thơ Tù, tôi giải-thích: 


“Anh phải có trí nhớ thật tốt. Điều này những kẻ nhốt anh đã tuyên-dương anh: Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng (Huỳnh Bá Thành, “Vụ án hồ con rùa”, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, tp. Hồ Chí Minh 1982). Họ tuyên-dương anh để quản-lý cả thể-xác lẫn linh-hồn anh đấy. Nếu anh bị nhốt ở các đề-lao Sàigòn, Chí Hoà chẳng hạn, anh sẽ hiểu rằng mọi thứ giấy bút đều bị nghiêm-cấm. Bất chợt, cai ngục khám-xét túi bị của anh. Điều này thường xuyên xảy ra tại đề-lao thành-phố. Một mẩu bút chì thôi, anh vẫn bị còng chân, bị tống vào cachot. Nếu thêm mẩu giấy ghi chép vài câu vô-nghĩa, họ sẽ nâng quan-điểm anh, bắt anh làm tự khai ròng-rã để định-nghĩa sự vô-nghĩa của chữ-nghĩa vô-tình. Vậy anh làm thơ bằng cách nào?”

° ° °
Tôi làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê-tông. Tôi bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi – chấn song sắt của khám Chí Hòa – nghĩ thơ. Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ. Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc thơ. Quên cũng lắm. Sai cũng nhiều. Bằng óc. Óc tôi là giấy, là bút, là mực. Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác vì thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta cấm tôi dùng tay đề viết. Tôi dùng tay đề gãi ghẻ. Vừa gãi ghẻ vừa làm thơ. Cần gì phải giấy bút. Cần gì phải cảm hứng. Nỗi ngứa đã là cảm hứng tuyệt vời. Tôi làm thơ và tôi gãi ghẻ. Bởi vì trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ. Tôi thèm thơ hơn tôi thèm nhìn giọt nước mắt của vợ, thèm ngắm nụ cười của con, thèm thấy một miếng đời sống bên ngoài cánh cửa phòng giam nặng hàng tấn, thèm ăn cơm trắng, thèm uống nước trà, thèm tắm gội tập thể quá mười phút… Tôi làm thơ như Hồ Chí Minh làm thơ, như Tố Hữu làm thơ. Trong tù. Nhưng tôi không hậm hực kiều Hồ Chí Minh, rên xiết kiểu Tố Hữu. Tôi phơi phới. Tôi phiêu bồng. Tôi lãng du. Dẫu nhà tù Tố Hữu nhốt tôi ngày nay khốn nạn gấp ngàn lần nhà tù thực dân nhốt Tố Hữu ngày xưa. Luôn luôn chúng ta hơn cộng sản, thi sĩ của chúng ta hơn cộng sản. Chúng ta đem đời sống vào ngục tù. Chúng ta không đem ngục tù vào đời sống, dù ngục tù hằng đe dọa hủy diệt đời sống của chúng ta. Chúng ta lên tiếng chứ không lên án. Tiếng nói của chúng ta thơm nồng trái thị cổ tích, rạng rỡ tấm lòng Thạch Sanh. Chúng ta ký thác tình yêu cho muôn thuở. Chúng ta không kêu gào thù hận nhất thời. Chúng ta có phần thưởng của chúng ta với dân tộc, với nhân loại như những người công chính có phần thưởng của họ trên nước Thiên Đàng. 

Anh làm thơ trong tù bằng óc. Tôi hiểu rồi. Lao động khổ sai đầy đọa thể xác anh. Mỗi ngày anh ăn ba chén sắn lát, hai lưng cơm hẩm. Với nước muối. Với rau muống giây kẽm gai. Với củ cải sơ mướp. Anh phải phá gò mối nghìn năm giữa rừng. Anh phải hạ cây cổ thụ già chín kiếp đời anh. Anh phải khiêng bom chưa kịp nổ. Anh phải lấp hố bom. Anh phải xuồng hầm phân nhung nhúc cả tỷ con ròi, vục đầy xô phân bằng tay anh – tay anh thường chỉ quen cầm bút – và ròi chui vào lỗ tai anh. v.v… Người ta kiểm soát anh tất cả, anh mỏi mệt với những hồi kẻng não nùng, anh đặt lưng là anh ngủ. Vậy anh làm thơ bằng cách nào, ngoài trại tập trung? 


Tôi làm thơ vì tôi thèm định nghĩa con người. Tôi thèm định nghĩa con người trong nỗi thống khổ đòi đoạn mà con người biết chịu đựng một cách can đảm, im lặng và khiêm tốn. Thi sĩ là người nhìn rõ sự bất hạnh trong hạnh phúc và, đồng thời, không ngừng khám phá hạnh phúc trong bất hạnh. Từ dưới hầm phân, tôi ngửi được hương thơm hiếm có trên đất trời. Tôi biết ngưỡng mộ con gọng vó suốt đời bơi ngược dòng nước lũ. Tôi cảm được tâm hồn nó và, nhờ nó, tôi đã được soi sáng. Trước đây, tôi chỉ tưởng tượng nỗi khổ, bây giờ, tôi trực diện nỗi khổ, dẫy dụa trong nỗi khổ. Trong tù, ngứa ghẻ là cảm hứng sáng tác của tôi. Ngoài trại tập trung, đau khổ là mật ngọt của đời sống tôi, đời sống một nghệ sĩ. Tôi làm thơ. vì thế. Đừng sợ người ta kiểm soát tất cả. Khí trời, bầu trời, thiên nhiên và tâm hồn đích thực của con người, không ai kiểm soát nổi”… 


Những bài thơ nồng nàn nhất của tôi, tôi đã viết ở trại tập trung khổ sai lao động. Thí dụ bài: 


Một năm thèm đường ở Suối Máu. 

Người tù ngồi lựa gạo

Nhặt được vài hạt ngô

Bắt đầu một giấc mơ

Một giấc mơ ảo não 


Ngay miếng đất anh nằm

Những hạt ngô reo rắc

Những hạt ngô nẩy mầm

Những cây ngô ao ước 


Thân ngô nhú cao dần

Từng phân rồi từng tấc

Từng sáng anh tưới nước

Từng chiều anh ngó thăm 


Ngô lên bằng đầu người

Gió đùa lá ngô vui

Nỗi niềm tan trong máu

Tù nhân dấu nụ cười 


Anh múa lưỡi dao rừng

Những thân ngô ngã rạp

Mỗi khúc mỗi người cạp

Ôi, ngọt đến vô cùng 


Đám bạn tù nhìn nhau

Mắt long lanh giọt ngọc

Bây giờ là hạnh phúc

Tìm thấy khi qua cầu 


Duyên Anh

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984 


Bài thơ này cảm hứng từ câu chuyện một năm thèm đường của anh bạn tù ở trại Suối Máu kể cho tôi nghe. Người khác kể chuyện ở trại Đồng Ban, tù nhân cuốc trúng mìn bị cưa chân bằng cưa dùng để cưa củi. Tôi đã ghi nhanh bài : 



Về nỗi khổ thật mới 

Báo tin cho em biết

Bạn anh vừa cuốc đất trúng mìn

Mìn nào đó, ôi trái mìn xảo quyệt

Ai cũng được quyền gài và quyền lớn tiếng thanh minh 


Bạn anh quỵ xuống rất êm

Ôm chân máu vì không muốn chết

Sau những giây phút sững sờ oan nghiệt

Bạn anh được cõng vội về
Chẳng thuốc mê và chẳng cả thuốc tê
Người ta đè bạn anh ra cưa sống 


Lưỡi cưa cùn cưa gỗ cưa cây thật ớn

Đã cưa xương cưa thịt con người

Bạn anh thét kinh âm hưởng vút lên trời

Bạn anh dẫy dụa đất nứt tung cục cựa
Anh ghì tay bạn anh
Mắt cài then kín cửa
Hồn đi xa khỏi thế giới lầm than
Nỗi đau đóng đinh thập giá có đâu bằng
Bạn anh bị cưa chân bởi thứ cưa cưa gỗ
Nhân loại có nhiều nỗi khổ
Nhưng chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ bạn anh
Chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ Việt Nam
Nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh
Nỗi khổ làm cho anh em mình biết sống
Nỗi khổ làm cho loài người rung động
Anh mở mắt nhìn
Chân bạn anh rụng mất rồi
Hôm nay bạn anh chống nạng mĩm cười
Báo tin cho em biết 



Duyên Anh

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984 



Những bài thơ tù của tôi không làm cho đồng bào của tôi di tản sang Mỹ trước 30-4-1975 xúc động. Họ dửng dưng. Có lẽ, “nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh” đã làm họ phiền phức. Nhưng người ngoại quốc thì xúc động khóc sướt mướt. Ở Grenoble . Ở quận 6 thành phố Paris. Mời bạn nghe ông Pierre Bas, Viện sĩ Hàn lâm viện khoa học hải ngoại Pháp Dân biểu danh dự, Thị trưởng quận 6 Paris phát biểu: 


“… Pierre Chaunu đã giới thiệu Duyên Anh với chúng ta. Độc giả của chúng ta thừa biết Chaunu là một nhà văn, một sử gia một xã hội học gia, một tư tưởng gia đã làm vinh dự cho xứ sở chúng ta. Chaunu giới thiệu Duyên Anh như một nhà thơ lớn, một niềm hãnh diện và vinh quang cho quốc gia đã bị cộng sản nhốt vào tù ngục. Những bài thơ được chuyền dịch Pháp ngữ do kịch sĩ Michel Etcheverry của Viện kịch nghệ quốc gia Pháp diễn tả thật xuất sắc. Quần chúng rất xúc động. 



Được thả ra khỏi trại cải tạo nhờ những phản kháng của thế giới tự do, Duyên Anh cho chúng ta hiểu trại ấy là gì: Một thế giới của kinh hoàng, của đau thương ghê gớm, một hệ thống tù đầy, có lẽ còn tồi tệ hơn cả hệ thống tù đầy mà Soljenitsyne đã cực tả. Đó là thế giới của sự tàn ác, của sự cuồng bạo, của những nhục nhã, của những trừng phạt tàn khốc, một thế giới mà không một người nào trong phòng này biết đến sự hiện hữu của nó, một thế giới mà chúng ta biết nhờ sự tiết lộ, một thế giới mà người ta lấy làm hổ thẹn vì nó đã có vào năm 1987 trước mắt nhân loại, một thế giới của tuyệt vọng, nhắc nhở người ta đến sự ghê tởm của các trại tập trung của quốc xã. Tối hôm đó, một buổi tối vui vẻ và dễ chịu như mọi buổi tối vui vẻ và dễ chịu của Paris, chúng ta mới được biết rằng, trên trái đất, tại Việt Nam, đã có chủ nghĩa quốc xã với những sự ghê tởm của nó. 


Tôi đã nói đủ, những bài thơ của Duyên Anh sẽ kể hết cho quý vị biết. Tôi mong mỏi quý vị sẽ tìm đọc những bài thơ ấy. Như thế, quý vị sẽ được thông báo đầy đủ, quý vị sẽ hiểu những gì đang xẩy ra trên trái đất. Quý vị sẽ hỏi các tổ chức từ thiện, các hội đoàn tranh đấu cho nhân quyền rằng, mỗi khi một nhà báo không xem được hồ sơ tại một xứ nào đó của tây phương, các tổ chức ấy vẫn la lối thì nay, hỏi xem họ đã làm gì khi con người bị hạ nhục, con người bị hành hạ. Duyên Anh gọi đó là “sự đóng đinh trên thập giá”. Đúng vậy, đó là những sự hành hạ cũng tàn khốc như sự đóng đinh trên thập tự giá lên con người của thời đại chúng ta mà chúng ta lại giả vờ không biết, chúng ta bịt tai, chúng ta không muốn dính líu. 


Chúng ta trông đợi Bộ ngoại giao Pháp tìm cách chấm dứt những sự ghê tởm đó đi. Không thể nào chấp nhận nước Pháp sẽ không nói gì với các tổ chức quốc tế, có lẽ viện cớ cần giải quyết vài hồ sơ hợp tác, trong khi có những mạng người cần phải cứu vớt. Chúng ta có bổn phận báo động dư luận nhân dân Pháp. Tôi cam kết dẫn đầu cuộc chiến này và tôi cầu mong nhiều người khác nhập cuộc cùng tôi. Những gì đang xẩy ra tại Việt Nam phải được chấm dứt, nếu không khuôn mặt nhân loại bị đánh tạt và bị ô nhục bởi những sự ghê tởm của chế độ Hà nội”. 


(trích bài xã luận của tờ Le Courrier tháng 2-1987) 


Hơn cả sự hờ hững, đồng bào trong và ngoài nước của tôi đã quên lãng những tù nhân, những nhà tù, những trại tập trung khổ sai lao động. Còn nhớ chăng là những người mẹ có con đi lao cải, những người vợ chung thủy có chồng đi lao cải, những người con có cha đi lao cải, những người em có anh đi lao cải. Thỉnh thoảng vài anh cai thầu nỗi khổ lại ném vào sự lãng quên những phản đối làm cảnh, những phản đối được đài thọ một chuyến đi, những phản đối đánh bóng cá nhân 30 năm sống bên Tây, những phản đối có mặt của một chủ tịch đào nhiệm từ 1973 cho cái gọi là Trung tâm Văn Bút đỡ trơ trẽn. Tôi cảm thấy bộ hồi ký tù ngục của mình vô duyên, lãng nhách. Nó vô duyên, lãng nhách vì những tên tướng khốn kiếp đào ngũ, sau 13 năm sống vô liêm sỉ trên đất nước Hoa kỳ, vẫn còn thừa thãi sự vô liêm sỉ đề mặc quân phục Việt Nam cộng hòa, nhâng nhâng nháo nháo phơi bầy những khuôn mặt đã ngâm “nước vỏ lựu, hoa mào gà” cứ đen thui như mõm chó, đi duyệt binh Ngày Quân Lực không còn…quân lực. Khi ấy, sĩ quan kiêu hùng của chúng ta, của dân tộc ta của tổ quốc ta,nạn nhân của bầy tướng lãnh bất tài, tham nhũng đầy tớ Mỹ, đang quằn quại ở các trại lao cải cộng sản. Giọt nước mắt nào cho những anh hùng bị tước đoạt quyền chiến thắng ấy ở đêm liên hoan có nhẩy đầm tíu tít Ngày Quân Lực…lưu vong? Không có giọt nước mắt nào cả. Chỉ có những tiếng cười man rợ, tiếng rượu trôi ừng ực xuống dạ dầy. Chúng nó đã khiêu vũ trên nỗi thống khổ của chiến hữu chúng nó, của dân tộc chúng nó. Chúng nó khỏa lấp sự phẫn nộ của người công chính. Chúng nó bảo cần thiết một “huynh đệ chi binh” trong Ngày Quân Lực. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng bẩn, tướng hèn, tướng đào ngũ triển lãm toàn diện sự bất cố liêm sỉ. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng khốn kiếp phóng uế trên đất nước Lincoln. Và chúng nó khoán quyền đại diện tù nhân chiến hữu của chúng nó cho cai thầu nỗi khổ 30 năm phè phỡn bên Tây, chưa hề nhìn thấy lính Sài gòn cũng chưa hề nhìn thấy bộ đội Hà nội. 



Người Mỹ đã không dạy chúng nó cách cai tri đồng bào chúng nó ở Việt Nam. Người Mỹ cũng không thèm dạy chúng nó những bài học dân chủ và trò chơi dân chủ ở nước Mỹ. Mở miệng, chúng nó nói dân chủ và chiến đấu cho dân chủ, tự do. Nhưng chúng nó chỉ muốn độc quyền tự do, dân chủ. Chúng nó đòi tự do, dân chủ…độc tài. Chúng nó đòi tự do phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Nhưng chúng nó cấm người khác tự do phản kháng phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Chúng nó không thích trò chơi dân chủ. Chúng nó không thích đối lập ở nơi chốn mà dân chủ, tự do là biểu tượng cao quý nhất của con người, bất kề con người nào, mầu da nào, chủng tộc nào. Bọn ngu xuẩn này chỉ thích duy ngã độc tôn, sau chúng nó là đại hồng thủy. Quyền uy ảo tưởng và thế lực báo chí giẻ rách của chúng, có thể đe dọa những người cầu an, những người yếu bóng vía, có thể bịt miệng sự lên tiếng của bọn nhà văn Hamburger sinh ra đã sợ bạo lực và chỉ dám bạo miệng chống đối Cộng sản cách xa một đại dương, chỉ dư can đảm lè nhè chửi bới người vắng mặt song, không thể không bao giờ có thể đe dọa, bịt miệng nổi những nhà văn, những nhà báo khí phách và thừa thãi tài năng. Một bài thơ lửa đủ đốt thiêu chúng nó. Một bài báo thép đủ chặt ngang thây chúng nó. Chưa cần một cuốn sách. Và chẳng cần đến một tác phẩm. Thực chất, chúng nó chẳng có quyền uy gì. Nếu các nhà văn bầy tỏ thái độ nhất loạt, nếu báo chí tư cách bầy tỏ thái độ nhất loạt, chúng nó sẽ co rúm, sẽ cúi gầm mặt, sẽ câm họng. Chúng nó chẳng là cái gì cả . Chúng nó là đồ bỏ. 


Người tuổi trẻ lưu vong phải quán triệt điều này: 



Những ông chính khách kinh niên, những ông lãnh tụ đảng phái già nua, những tên đã nắm quyền bính ở miền Nam, những thằng tướng hèn đào ngũ không có tương lai, không còn tương lai nữa. Họ không chiến đấu cho tương lai của dân tộc đâu. Hiển nhiên. Vì họ thiếu tài năng và tư cách. Cái mà họ đang gọi là chiến đấu chỉ là cuộc chiến đấu hư ảo nhằm mục đích phục hồi quyền bính dĩ vãng. Phục hồi quyền bính dĩ vãng đã là hư ảo, với bọn kể trên, là hư ảo bình phương. Bọn họ được chia làm hai loại. Một loại chưa nắm quyền bính, chưa ngồi ở những địa vị có thể ăn cắp nhiều. Một loại đã nắm quyền bính, đã ngồi ở những địa vị tha hồ ăn cắp. Loại thứ nhất, vì ăn cắp ít, nên lưu vong không được xếp vào loại tổ sư ăn cắp đâm ra “đố kỵ” tài năng …. ăn cắp. Chúng tìm nhau, hùn hạp lập công ty kháng chiến, hợp tác xã giải phóng dân tộc. Chúng bắt chước cộng sản, bôi son vẽ phấn cho chủ tịch, râu ria vài sợi, khăn rằn quấn cổ, gò khuôn mặt chủ tịch méo mó, khắc khổ. Chúng soạn cương lĩnh và hò hét. . . lạc quyên, xổ số, tem phiếu, hũ gạo. Và chúng vơ vét ngót nghét 10 triệu đô la, vẫn tiếp tục rao truyền cương lĩnh lạc quyên đốn mạt cho sự nghiệp ăn cắp công khai của chúng. Biểu tượng khốn kiếp của thời đại mê sảng là chủ tịch HCM. Rốt cuộc, công ty rã đám. Chủ tịch lạc quyên đòi chủ tịch lãnh tụ làm sáng tỏ tiền ăn cắp? Lý do đơn giản: Chúng nó chia chác không đồng đều. Loại thứ hai, ăn cắp nhiều no nê rồi, ngồi cạp tiền ăn cắp mãi đâm ra tương tư dĩ vãng. Thêm nữa, bị vợ khinh con chê, nhân tình lỉnh. Đường đường tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng, đại tướng, trung tướng, thiếu tướng hét ra khói, ói ra lửa, nay cà lơ thất thểu, đứa ngồi thở dài, đứa bán rượu, đứa gác-dan, vợ nó khinh là đúng. Bèn phẫn chí may quân phục, mua sao lên sân khấu thủ những vai hề cù không ai cười mà chủ đề nghe phỉ báng. Lâu lâu, chúng nó phát ngôn “Phục quốc là trách nhiệm”, “Giải phóng dân tộc là bổn phận”. Đúng rồi, phục quốc và giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị cộng sản là trách nhiệm, là bổn phận của mọi người Việt Nam, trừ những thằng tướng hèn đào ngũ, những thằng tổng thống, tổng trưởng đầy tớ Mỹ, tham nhũng, thối nát. Một thằng tướng đã tuyên bố. “Tôi không đi đâu cả, tôi ở lại để ăn cơm với tương cà, canh mắm. Ăn bơ, uống sữa chỉ đi té re. Đứa nào sang Mỹ thì, đàn ông làm cu ly, đàn bà làm đĩ”! Lịch sử nào cũng có những trang chó đẻ Những trang chó đẻ của lịch sử hiện đại của dân tộc ta, ngoài sự phản phúc của Mỹ còn ghi cả xú ngôn của những thằng vô lại. Thằng tướng vô lại ấy đã sang Mỹ. Vợ nó cũng sang Mỹ. Nó có làm cu ly? Vợ nó có làm đĩ ? Điều này bình thường. Hơn cả bình thường, nó tầm thường. Đôi khi còn hợp lý. Cái không bình thường là nó còn dám diện quần áo tướng, quấn phu-la đi duyệt binh Ngày Quân Lực…tan hàng, ở một nơi ai muốn làm gì tùy ý, miễn là đừng phóng uế lên danh dự Việt Nam. Vợ nó cũng… duyệt binh. Khi có ai lên tiếng rằng cu ly và đĩ không được phép nhục mạ quân đội, sẵn sàng khuyển mã của khuyển mã lý luận: Ngày Quân Lực là ngày đoàn kết quân đội! Đồng ý. Nhưng quân đội là những ai? Quân đội có phải là của tướng lãnh, nhất là của tướng lãnh đào ngũ hèn mọn? Không đâu, quân đội của chúng ta là những người lính kiêu hùng, là những hạ sĩ quan gan dạ, là những sĩ quan trong sạch quả cảm chiến đấu chống kẻ thù cộng sản đến giây phút cuối cùng. Ở Khánh Dương, ở trước dinh Độc Lập, ở cầu Thị Nghè, lính và sĩ quan dũng cảm của chúng ta còn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Chỉ có những thằng tướng đang hung hăng sủa bậy “phục quốc, giải phóng, kháng chiến” là đào ngũ, là cút chạy quá sớm trước lệnh đầu hàng. Những kẻ đã đào ngũ có còn là quân đội, có còn là chiến hữu của những người lính đang chiến đấu ở quê nhà, những sĩ quan đang quằn quại ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản? Quân đội của những người lính đã thắp sáng Bình Long, Kontum, Pleime, Quảng Tri…, đã tưới máu đào từ Bến Hải vào tận Cà Mau có thể “đoàn kết” với những thằng tướng đào ngũ, có thể bị nhân danh bởi những thằng vô lại? 



Người tuổi trẻ đã là lính hay chưa là lính cần nhìn rõ vấn đề, cần điểm mặt lãnh tụ. Để nhận đường chiến đấu. Cuộc chiến đấu hôm nay là cuộc chiến đấu của Thiên Thần với Ác Quỷ. Nó đòi hỏi nhiệt tình, lòng tự phụ, tài năng và sáng tạo chỉ có ở tuổi trẻ. Vậy nó là cuộc chiến đấu của tuổi trẻ. Cuộc chiến đấu này phải loại bỏ lãnh tụ già, lãnh tụ vô lại, lãnh tụ vô học; loại bỏ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu cũ và, đồng thời khu trừ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu mới, dẫu tay sai có là người trẻ trung, mới mẻ. Cũng khu trú luôn đám cai thầu nỗi khổ của dân tộc, dây máu ăn phần sau 30 năm ngủ vùi trên đất thiên hạ. 



Viết đến đây, tôi bỗng cảm thấy bộ hồi ký ngục tù của tôi không vô duyên, lãng nhách nữa. Còn tuổi trẻ Việt Nam an ủi tôi, còn tuổi trẻ Việt Nam là những người tôi sẵn sàng cống hiến chút tài năng còm cõi của tôi, chút kinh nghiệm kinh qua thống khổ của tôi, trọn phần đời còn lại của tôi, cho họ. Cho hết. Cho không đòi hỏi. Để họ không còn bị làm guốc cho bọn lãnh tụ ghẻ lở. Để họ không còn bị ném lên sân khấu bởi bọn đạo diễn mù. Tôi không có tham vọng chính trị. Tôi không có máu mê lãnh tụ. Tôi không lợi dụng tuổi trẻ. Tôi là nhà văn. Nhà văn thì không cần thế lực và hậu thuẫn. Thế lực và hậu thuẫn của nhà văn là Sự Thật và Lẽ Phải. Và đó chính là khuôn vàng thước ngọc của người cầm bút ở bất cứ thời đại nào. Bằng Sự Thật và Lẽ Phải, nhà văn khinh thường Bạo Lực. Luôn luôn bị Ngộ Nhận, bị Chụp Mũ, bị Đe Dọa, bị Vây Hãm nhưng chằng bao giờ bị hủy diệt vì không một bạo lực nào đủ khả năng hủy diệt Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp. Lý tưởng chiến đấu của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-75 và những thế hệ kế tiếp là phải leo lên đỉnh ngọn Chân, Thiện, Mỹ; phải tạo dựng chính quyền cho quê hương Việt Nam, phải là Vạn Thắng Vương, dẹp tan 11 thứ phỉ, thứ ngụy để mơ kỷ nguyên Đại Cồ Việt mới. 



Trong ý nghĩ ấy, tôi tình nguyện làm con ngựa già kéo xe cho Tuổi Trẻ ruổi rong làm lịch sử. Với tôi, giai đoạn tiểu thuyết lẩm cẩm, tùy bút tửu điếm, phòng trà lăng nhăng chấm dứt. Với tôi. hôm nay: “Cho lửa vào thơ văn hay cho thơ văn vào lửa”. Hoặc tôi tiếp tục văn chương chiến đấu, tư tưởng dấy động và chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi hệ lụy vây hãm, hoặc tôi bẻ bút. Tôi chọn lựa văn chương chiến đấu, văn chương có chính kiến rõ rệt. Người cầm bút phải có thái độ sống và thái độ viết thích ứng với thời đại của y. Nói theo nhà tư tưởng lý Đông A: “Văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu trụ trì “ 1. Những kẻ cầm bút không có chính kiến, cầu an, sợ hãi bạo lực, thù hận của bạo lực và hình phạt của bạo lực chỉ là bọn thư lại chữ nghĩa. Những kẻ cầm bút chối bỏ Sự Thật và Lẽ Phải, nói theo Lý Đông A là bọn văn nghệ “mõ chợ”, bọn văn nghệ “chó sủa” 2. Lý Đông A mượn ý của Shelley nhắc nhở rằng: “Nhà văn phải thổi kèn đánh thức” con người và lương tri của con người. Tôi muốn làm người thổi kèn, chỉ đề đánh thức cho tuổi trẻ Việt Nam lên đường và báo động hoàng hôn chết của lãnh tụ già nua mọi mặt. Thế thôi. 



Trong mọi lãnh vực, người tuổi trẻ cần hiện diện. Lão thành cách mạng, lão thành ký giả, lão thành chính khách, lão thành văn sĩ là những người sắp chết, gần kề nỗi chết. Tương lai thì lại sẽ tới, sắp tới, đang tới và còn tới mãi mãi, vô tận. Tương lai không của người già càng không phải của những người hết thời. Tương lai là của tuổi trẻ. Tương lai là mầm vừa nhú, lộc đang đâm chồi, hoa chờ hé nhụy. Tương lai không là cây đã cổ thụ, hoa đã héo tàn, cà đã thâm, dưa đã khú. Đất nước chỉ toàn cây cổ thụ là đất nước buồn bã. Vì trên ngọn thì quạ đậu đầy, dưới gốc thì bình vôi đặc khịt chồng chất. Đất nước ta đã 50 năm rặt quạ và bình vôi. Và đất nước ấy đã thê thảm cùng cực. Phải làm cho đất nước cơ man cây trổ hoa, đơm trái. Phải làm cho đất nước rộn ràng ong bướm, véo von chim hót. Và đó, nghĩa vụ của tuổi trẻ Việt Nam. Tôi hy vọng, bộ hồi ký tù ngục này sẽ giúp tuổi trẻ đôi chút kiến thức về cộng sản. Đề họ nhìn kẻ thù chính xác mà chiến đấu. Nó cũng còn là một báo động một xúc động phôi phai cho họ, những người rời quê hương trước 30-4-1975 quá trẻ, dễ chìm nghỉm dưới bùn lầy vật chất nước Mỹ và đã quên thân phận dân tộc, số phận tù nhân lao cải mà thống khổ chịu đựng, văn chương của tôi không đủ khả năng diễn tả.

--------------------------------
1
Đạo Trường Ngâm, Thay lời tựa, Nhân Chủ Học Xã xuất bản, USA 1985.

CHƯƠNG 9

Đằng Giao kể: 

- Hoàng Anh Tuấn thèm thực hiện một cuốn phim về nhà tù cộng sản. Phần générique Tuấn sẽ quay những khuôn mặt hốc hác dán vào cửa gió cachot. Giới thiệu tên phim, tài tử, đạo diễn, nhà sản xuất xong xuôi, mở đầu, một tù nhân đẩy cửa cachot bước ra, chân xích, tay còng. Cai ngục dẫn tù nhân tới phòng chấp pháp…. 


Đằng Giao nói tiếp: 


- Giá mà Hoàng Anh Tuấn ở Sa Ác. Phần générique sẽ quay cảnh tù nhân trần truồng tắm bến sông Ray… 


Bến sông Ray, bến tắm tập thể của cả trại lao cải Sa Ác B, trưa và chiều. Gọi là sông vì nó là sông. Nó là con suối mới đúng. Khúc chảy qua Sa Ác, chiều ngang của nó khoảng 40 thước. Bến tắm được quy định một chiều dài khoảng 100 thước. Tù nhân không được phép lội sang bờ bên kia. Khi kẻng tan lao khuya, vệ binh canh phòng tù tắm giặt đã bố trí trung liên nạp đạn trên bờ. Ít nhất năm ổ trung liên. AK không kể. Vệ binh sẵn sàng khạc đạn nếu tù nhân leo lên bờ bên kia. Mùa nước lũ, có một hàng rào kẽm gai, giăng từ lúc sông cạn, đề phòng tù trốn trại bằng cách theo dòng nước chảy xiết mà ra đi. Ở chỗ hàng rào, cái đăng đón cá tù, vệ binh ngồi gác. Vệ binh được phép bắn chết tù nhân trốn trại. Tôi chưa thấy tù nhân nào trốn trại dưới sông, mùa nước lũ. Người ta sợ chết sặc khi vướng rào kẽm gai. Nước chảy xiết, tù nhân dính rào kẽm gai như cá dính mắt lưới. Bởi thế, mùa nước lũ, tù nhân chỉ tắm sát bờ sông. Nhiều người xách nước lên bờ tắm gội. Mùa nước lũ, tù nhân được uống “cà phê sữa”, tức là nước sông ngầu phù sa không đánh phèn, cứ “nguyên chất” mà đun sôi. Chúng tôi đã uống đất rừng, lá mục, xác thú chết trong những ca “cà phê sữa” suốt mùa mưa lớn. Uống nước phù sa đun sôi không thú vị bằng uống Coca Cola, Sprite, Pepsi, Fanta, sữa tươi nhưng, quả thật, phù sa đã bồi dưỡng cho cảm hứng sáng tác của tôi.  
Năm 1979, tôi 44 tuổi. 44 tuổi tôi được soi sáng ý nghĩa của đời sống qua hình ảnh con gọng vó bơi ngược dòng nước lũ. Con gọng vó bé nhỏ, yếu đuối, hèn mọn sống trong dòng mà không chịu xuôi dòng. Luôn luôn nó ngược dòng. Sự phấn đấu chạy ngược dòng của nó thật cô đơn, thật lãng mạn và thật dũng cảm. Chắc chắn, đã không ai theo dõi cuộc chiến đấu với bản thân của con gọng vó. Chắc chắn, đã không ai hiểu nổi tâm sự của con gọng vó. Nó chính là người nghệ sĩ sáng tạo phản kháng, kẻ không chấp nhận theo dòng, xuôi dòng. Nó không thích bị cuốn xoáy xuôi dòng. Giữa con gọng vó và củi mục, thú chết. lục bình, tôm cá là một khác biệt. Tôi phải cám ơn cộng sản đã bắt tôi, đã đầy đoạ tôi. Nhờ thống khổ, tôi được con gọng vó soi sáng niềm bí ẩn của đời sống. Ít ra, nó đã giúp tôi cảm hứng viết bài thơ: 

Như con gọng vó 


Nỗi thống khổ dạy anh những điều khôn ngoan

Dạy anh giải tỏa niềm ẩn ức

Dạy anh gieo trồng hạnh phúc

Dạy anh nhìn rõ anh hơn
Nỗi thống khổ không dạy anh căm hờn
Không dạy anh phản phúc
Không dạy anh làm điều ô nhục
Không dạy anh tuyệt vọng chán chường
Nỗi thống khổ dạy anh bơi lội ngược dòng
Như con gọng vó 


Đừng bao giờ than thở

Vì hệ lụy điếc câm

Nỗi thống khổ soi sáng anh mọi sai lầm

Dẫn anh vào trái tim nhân loại
Hãy là con đại bàng vươn cánh soải
Và thương loài chim sẻ léo nhéo bờ tường
Bởi sức nó chỉ để bay mái nhà này sang mái nhà khác
Nỗi thống khổ không dạy anh những điều gian ác
Chỉ dạy anh chịu đựng nhín nhường
Dạy anh khoan dung và cao thượng luôn luôn
Dạy anh tha thứ kẻ đã đầy anh xuống địa ngục
Nỗi thống khổ dễ gì ai cũng một lần gặp
Nên giữa anh có khoảng cách với cuộc đời
Anh cô đơn
như con gọng vó
ngược dòng bơi


Duyên Anh

(Thơ Tù, Nam Á Paris, 1984) 



Tôi trở về cái bến tắm sông Ray. Tù nhân khắp các hiện trường lao động lũ lượt đổ về bến tắm duy nhất của Sa Ác B. Xuất trại, tù nhân phải ăn mặc chỉnh tề. Nhập trại, có thể cởi trần, mặc quần xà lỏn ướt. Từ bãi lao động về bến tắm, tù nhân cởi trần. Đến bến tắm, tù nhân trần truồng nhào xuống sông. Đội nào tới trước tắm trước. Tắm trước, nước còn trong, đến sau, tắm vào lúc cả chục đội chen chúc nhau một vũng nước sâu, bùn bị khuấy đen ngòm, cá cũng ngộp thở! Hình tưởng đám ròi lúc nhúc dưới hầm phân. Tù nhân dưới khúc sông quy định cũng thế. Đội trưởng và Đội phó thay phiên nhau tắm nhanh lên vội. Khi vệ binh ra lệnh bảo đội lên, Đội trưởng hú lớn cho đội lên tập họp, điểm số. Đội 21 nông nghiệp của Đằng Giao có một tù nhân xuân thu nhị kỳ tắm gội. Đó là Hùng nhí, figurant mà Đằng Giao chọn lựa cho đạo diễn Hoàng Anh Tuấn. Hùng nhí, 22 tuổi, lùn tì, nhỏ xíu, thứ gà đẹt. Nó có khuôn mặt hao hao Dracula. Răng rụng gần hết. Hùng nhí can tội…gián điệp ! Theo “truyền ký lao cải”, Hùng nhí được ông tướng Dư Quốc Đống nhận làm con nuôi, cho mặc quân phục nhẩy dù và thường cho nó ngồi cạnh trên xe jeep của ông. Hùng nhí trở thành lính dù danh dự sau khi nó giúp lính nhẩy dù khám phá hầm vũ khí của Việt cộng, hồi Mậu Thân, ở ngã tư Bẩy Hiền. Nó bị bắt ngay đêm 30-4-1975. Hùng nhí lưu lạc các trại Suối Máu, thành ông Năm, Đồng Ban, Trảng Lớn. Rồi về Sa Ác A. Rồi vào Sa Ác B. Người ta thầm thì Hùng nhí là “ăng ten” ở đâu đó. Còn ở Sa Ác B, cả ngày nó nằm võng ni lông ngủ thì co róm. thức thì khóc. Nằm nhà buồn, nó tình nguyện ra bãi chơi cho vui. Không ai bắt nó lao động cả. Nó không có răng nhai bo bo nên nói rất ít. Nó lại nằm lỳ một xó, lười đi lại. Thế mà người ta nỡ chụp mũ “ăng-ten” lên đầu nó, một thằng sinh ra đã hẩm hiu bất hạnh! 
  
Vì Hùng nhí không tắm nên Đẳng Giao giao cho nó trách nhiệm hú đội lên tập họp. Hùng nhí làm tròn trách nhiệm. Nó chụm hai bàn tay vào miệng thay loa, mặt nhăn nhúm, há rộng mồm nghiến răng mà hét “Đội 21 lên!”. Khuôn mặt nó, lúc ấy, vừa bi thảm vừa hãi hùng. Đằng Giao muốn ống kính của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn thu riêng khuôn mặt Hùng nhí thật lớn. Tiếng hét của nó vừa dứt thì ống kính quay xuống sông. Tù nhân trần truồng lên bờ. Các đội khác vẫn ngụp lặn dưới nước bùn. 
 - Được chứ, ông thầy? 



- Độc đáo ra phết. 


- Khán giả sẽ thấy cả sự gầy ốm lẫn ghẻ lở, hắc lào và những khẩu cà nông nhiều năm không khạc đạn! Tôi chưa nghĩ ra tên cuốn phim. 


- Sông Ray phẫn nộ. 

- Hay đấy. 

- Tôi lại nghĩ cả đến màn tập họp lao động. Màn này làm générique cho phim cũng tuyệt cú mèo. 


Đúng thế. Không có cảnh nào bi đát hơn cảnh tù nhân tập họp buổi trưa chờ gọi đi lao động. Trước hết, nói về nón mũ. Nón lá mới, nón mê là thường. Nón cối cộng sản là thường. Nón cao bồi Tểch- xa, nón lính Tân-tây-lan là thường. Nón sắt quân đội Mỹ là thường. Mũ nồi của các binh chủng tầu bò, nhẩy dù, thủy quân lục chiến là thường. Mũ cói là thường. Một thứ mũ cắt bị cói ra khâu thành mũ lao cải mới lạ mắt. Riêng loại mũ này cũng cả vài chục kiểu. Chưa có trại tập trung nào phong phú mũ như trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản. Có tù nhân lười, chụp luôn cái bị lên đầu. Rất tiện. Vì buổi chiều về có thề đựng củi hay đựng vài thứ rau rừng… Các ông lái mũ ở xóm lầy Orange County, ở công ty kháng chiến hải ngoại, ở hợp tác xã giải phóng lưu vong, ở liên minh dân chủ cà chớn và, đặc biệt, ở tiệm của ông Trần Tam Tiện quận 7 Paris, ở tiệm của ông Nguyễn Ăn Kaka thành phố Bruxelles, chắc chắn, chưa hề nhìn thấy nón mũ lao cải. Cho nên, quý ông ấy hơi ngu. Là cứ nhè những thằng đã đội mũ lao cải mà chụp mũ cộng sản, mũ “ăng-ten”. Mũ của quý ông ấy ghi rõ made in USA, made in France, made in Belgium nhưng quên không ghi thêm made by Đào Ngũ, made by Đào Nhiệm, made by Đào Tẩu, made by Đánh Mướn, ma e by Lãnh Lương Lạc Quyên. Vân vân… Tôi thấy cần khuyên các ông lái mũ thuộc thành phần đào ngũ và thuộc thành phần nhớp nhúa ở xã hội Việt Nam Cộng Hoà không nên làm nghề chế tạo nón mũ. Cái thứ mũ các ông đang đội lên đầu mình là thứ mũ nặng tội nhất, hèn hạ nhất, không dễ gì lột ra vất đi nổi: Mũ đào ngũ. Mũ này nó hằn sâu vào sự nghiệp bẩn của các ông, dẫu có ông đã là tiến sĩ. Vậy muốn giương danh tiến sĩ lỏi, nên bỏ nghề chụp mũ và tự truy nã bản thân mình mà tu tỉnh cho nên người. 


Bây giờ nói về giầy giép lao cải. Giầy bố, giày da quân đội, giầy vải, giép Nhật made in Chợ Lớn, giép râu đã tập họp đầy đủ ở trại lao cải. Tại Sa Ác B, sĩ quan quân đội biên chế riêng thành các đội chỉ có sĩ quan, sĩ quan cảnh sát biên chế riêng, công chức trình diện học tập biên chế riêng và phản động biên chế riêng. Quân đội của ta thà mang giầy mòn vẹt, há mõm chứ nhất định không thèm xỏ chân vào giép râu. Giép râu có nhiều ở các đội công chức, phản động và hình sự. Các đội hình sự đoạt kỷ lục chân đất. Khi các đội đứng hết dậy, ống kính máy quay phim thu từ đầu gối xuống là thấy đủ nghìn vẻ phong sương của nghìn đôi giầy giép. Đảng và nhà nước cộng sản bóc lột tàn bạo. Mỗi năm tù nhân chỉ được phát một bộ quần áo. Mũ nón, giầy giép phải…khắc phục! Do đó, tù nhân đã vá giầy, khâu giép mà vào rừng gai phát quang. 


Đến quần áo lao cải thì bất hủ. Vá chằng vá đụp, vá đủ thứ mụn, đủ thứ mầu. Vá đè lên dấu tù. Quần áo lao cải, có khi, chẳng thèm giặt. Cứ nhất bộ nhất bái dầm mưa, giãi nắng. Nếu gia đình không gửi quần áo vào, tù nhân sẽ trần truồng thực hiện khẩu hiệu “Lao động là vinh quang”. Và, lúc ẩy, tự mỗi tù nhân sẽ tìm ra ý nghĩa tuyệt vời của khẩu hiệu: “Lao động là thước đo giá trị của con người”.


- Lấy đầu tù, lòng tù và chân tù làm générique. 

- Hay lắm. 

- Vào phim là cảnh tù nhân trốn trại bị trói, mặt mày sưng vù, máu khô dính mép, đứng nghiêm nghe đọc quyết định kỷ luật “Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Độc lập, tự do, hạnh phúc”… 


- Đểu quá, đểu quá! 

- Thoát ra, sang Mỹ, ông thầy nên thực hiện phim Sông Ray phẫn nộ. 

- Cứ ước mơ đi. 

Tôi đã ước mơ, ước mơ thật nhiều năm tháng cơ cực trong tù. Ước mơ cho tôi hy vọng. Hy vọng cho tôi can đảm sống đời tù. Tôi đã thoát ra, sang Pháp, chưa sang Mỹ. Tôi không có ý định sang Mỹ nữa. Bây giờ, tôi ước mơ chóng chết. Vì ước mơ tôi mang ở 3 nhà tù, 2 trại tập trung khổ sai lao động ra, tôi mang theo nó lênh đênh biền cả, gian khổ chập chùng, tôi đưa nó lên đảo Poulalu Bidong lầm than và nó đã bị cháy đen từ tôi nhìn rõ thế giới tự do và đồng bào tôi và đồng nghiệp tôi và bằng hữu tôi lưu vong. Quả thật, ước mơ hay ước vọng của tôi đã là ảo vọng bùi ngùi. Tôi đành ước mơ chóng chết. Nhưng ước mơ chóng chết cũng khó như ước mơ thực hiện một cuốn phim nói lên trọn vẹn và trung thực nỗi thống khổ của tù nhân Việt Nam ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản sau cái gọi là hòa bình của chiến tranh ý thức hệ. Những ngày nằm tù, tôi đã ngây thơ nghĩ: 


…Cái tiểu ngã nhập vào đại ngã

Nỗi thống khổ chẳng riêng ai chịu nữa

Nó đè lên vai cả dân tộc, cả thế giới chứng minh

Nó trong giọt nước mắt già và trên ngọn tóc xanh
Nó ở cuộc đời thênh thang và ngục tù tăm tối
Nó ở ban mai kinh nguyện cầu, nửa đêm kinh sám hối
Ở hồi chuông cáo phó
ở tiếng khóc chào đời
Nó gầm gừ đe doạ dài dài
Sau mỗi hoà bình của chiến tranh ý thức hệ
Nó là tham lam, ích kỷ
là kiêu căng ngu xuẩn, là độc ác dối gian
Nó xui Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam


Và bắt nhân loại phải rời xa nhân loại 



Không, nỗi thống khổ vẫn chỉ riêng tù nhân và thân nhân của họ phải chịu. Cái tiểu ngã không bao giờ nhập vào cái đại ngã. Cái tiểu ngã của đồng bào tôi ngoài nước Việt Nam càng không bao giờ nhập vào cái đại ngã. Nếu tôi đã không ngây thơ câu này đúng nhất “Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam”. Đừng trách cộng sản Việt Nam tàn nhẫn với người Việt Nam. Hãy hỏi xem người Việt Nam tị nạn ở Mỹ có tử tế với người Việt Nam tị nạn? Hỏi đi! Hỏi đi! Người ta mở rộng túi đóng thuế cho thảo khấu kháng chiến 10 triệu đô la. Người ta đã quyên tặng Hội y sĩ thế giới được bao nhiêu đã làm phương tiện cứu vớt đồng bào của người ta đói khát, sợ hãi giữa đại dương mà hải tặc rình chờ hãm hiếp, cướp bóc, chém giết? Không còn gì mỉa mai hơn Hồng Kông thực hiện phim Boat People và sự giúp đỡ của Trung cộng. Hồng Kông trình bầy giùm dân tộc Việt Nam nỗi thống khổ đòi đoạn nhất của thời đại với loài người hôm nay và mai sau. Người Việt Nam không nói được tâm sự của dân tộc mình? Có đấy chứ, những vidéo cóc nhái bôi nhọ nghệ thuật, những cuộc thi hoa hậu quốc sỉ, những phim ảnh dơ dáy luộc lại… Một phim lớn về Thuyền Nhân dũng cảm Việt Nam? Không có. Không bao giờ có cả. Bởi vì 5 đô la quá nhỏ để 1 triệu người góp thành 5 triệu đô la và quá lớn để uống coca, hút thuốc lá. Tôi lấy làm xấu hổ khi thấy Siêu thị Tang Frères ở quận 13 Paris mở chiến dịch Sampan lấy tiền giúp Hội y sĩ thế giới, trong vòng ba tháng, số tiền cứu vớt thuyền nhân gấp mấy lần người Việt Nam đóng góp trong vòng ba năm. Tôi đâm ra cụt hứng, không dám động chạm tới sự hờ hững của nhân loại đối với dân tộc tôi nữa. Ấy là tôi đã quên cái thân phận tầm thường của tôi, còn nằm trong ngục tù đã bị vài người Việt Nam… nhà văn, nhà báo đánh dập, đánh vùi và vừa đặt chân lên “đất hứa” bị đánh tới tấp, đánh tối tăm mặt mũi. Tôi có ra ngoại quốc để tranh giành quyền bính, quyền lợi gì đâu? Quyền lợi chính đáng của tôi bị xâm phạm, bị tước đoạt, có nhà văn, nhà báo nào bênh vực? Thì thôi. Còn chữ nghĩa, ai có nhiều người ấy viết, bầy đặt vít rào, cản lối nhau làm chi nhỉ? Chỉ riêng nghĩ đồng nghiệp bằng hữu của tôi, tôi đã lợm giọng. Và sự lợm giọng khiến ước mơ trong tù của tôi cháy khét. 


Nhưng rồi tôi vẫn viết cho đồng nghiệp cũ và lại bị ăn quỵt nữa. Người ta bêu nhục tôi chán, người ta ăn quỵt công lao và tiền cước phí của tôi. Và đó là Lẽ Phải của nhân sinh quan mới, thứ nhân sinh quan liêu mong triệu năm vẫn khó lòng phục quốc. 



Tôi đã tiếc mình không chết mòn trong nhà tù cộng sản. Như thế hạnh phúc bao nhiêu. Ước mơ của tôi không bị thắt cổ. Cho đến lúc nhắm mắt, tôi vẫn nghĩ bằng hữu mình ở Mỹ chung thủy lắm, không có thằng nào phản phúc cả, không có thằng nào bỉ ổi cả. 



Còn đồng bào của tôi trưởng thành cả, tốt đẹp cả, không ai thèm vào quốc tịch Mỹ vì sắp về giải phóng quê hương đến nơi rồi. Báo chí Việt Nam hải ngoại rực rỡ. Các nhà văn, nhà thơ lưu vong đều năm bẩy tác phẩm dịch Anh ngữ do các nhà xuất bản lớn ở Nữu Ước ấn hành, Tây, Tầu, Pháp, Nhật, Ý, Đức xin dịch ầm ầm. Có nhà văn chuẩn bị lĩnh giải Nobel văn chương. Nhất định không có thảo khấu kháng chiến. Các tướng lãnh, đại tá quan trọng đều viết tự khai tham nhũng, nhận tội đào ngũ và xin hồi hương để ra hầu tòa án Quân Sự. Các nghị sĩ, dân biểu viết thư về nước xin lỗi cử tri và cam kết không ra ứng cử nữa. Các tổng trưởng, thủ tướng theo chân tổng thống lên chùa quy y, phát nguyện kiếp sau xin làm bọ hung, làm chó. Các linh mục hối hận chuyện bỏ con chiên di tản và vượt biên. Các thượng tọa đại đức không bầy trò thùng sương và rút hết tiền ngân hàng ra phát chẩn. Linh mục và thượng tọa nào lỡ cho vay tiền xanh xít đít đui, gọi hết con nợ tới., thiêu hủy văn tự. Vân vân và vân vân… 



Ước mơ của tôi tuyệt vời thế mà bị thắt cổ. Chỉ tại tôi đã không chết rũ trong tù và lò dò sang… thế giới tự do, thế giới “tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ngu xuẫn, độc ác, dối gian” từ ở trại tị nạn cộng sản. Nhưng mà… 



Ta đến đây đành ở lại đây

Cuối đời thấm thía kiếp lưu đầy

Nghẹn ngào sách vở từng trang mục

Chữ nghĩa vèo bay như lá bay
Những tưởng tài năng vần thế cuộc
Nào ngờ tai họa giáng tê vai
Ðường người chó sói nhe răng nhọn
Nghe buốt đau thương cả đế giày
Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa
Ngọc đá ganh đua rộn giũa mài
Bùn khuấy thờn vơn khoe gặp vận
Tép tôm hí hửng nhẩy tranh tài
Cá sấu chưa cười rung tiệc máu
Kên kên vẫn khóc rỉa moi thây
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây 



Giả câm giả điếc xem tuồng cũ

Ðào kép hiêu hiêu lũ cáo cầy

Vôi trắng vôi vàng vôi lốm đốm

Mặt mày nham nhở dối lừa ai
Bọ gậy ngo ngoe trò cách mạng
Ruồi xanh bu rối rít khen hay
Học đòi Câu Tiễn nuôi thù hận
Chí lớn xem chừng cái móng tay
Răng rụng trống tung còn hám lợi
Thân lươn lãnh tụ đắm mưa lầy
Hư danh gạt gẫm phường khoa bảng
Nguyệt mộ khơi rồi chửa tỉnh say
Ðeo mo mấy đứa buôn dân tộc
Cứu nước khom lưng truống chủ thầy
Nỗi buồn quốc sỉ Lê Chiêu Thống
Gươm giáo Quang Trung có thở dài 



Ðã ngỡ nghìn xưa Trần Ích Tắc

Nghìn sau nhan nhản bọn tay sai

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

Ta đến đây đành ở lại đây
Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết
Lấy thơ ta lấp kín sầu mây
Mong gì Giới Tử Thôi dâng thịt
Ai kẻ cầu sương điếm cỏ đây
Ðất khách cùng đồ buông hiện tại
Quê người mạt vận bỏ tương lai
Vo ve nhặng ốm quanh sơ mít
Inh ỏi gà què quẩn cối xay
Ðỉnh chung cõi tạm cao hơn núi
Sĩ khí lưu vong thấp gót giầy
Ôi cái phương danh mà định nghĩa
Cơ hồ giảm giá vị chua cay 



Ðầu lưỡi văn nhân phì nọc rắn

Ðáy tim thi sĩ vút dao bay

Thế nên đĩ điếm thầu văn nghệ

Trọc phú đầu tư núp áo dài
Yêu nước ngứa nghề anh bếp Mỹ
Thương nòi đú đởn chú bồi Tây
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Thẹn vì cơm áo mòn khinh bạc
Rượu đốt thời gian lũng dạ dầy
Vó ngựa giao vành đêm mộng hão
Hồn hoang nhức nhối gió heo may
Máu đã úa khô đường phát vãng
Cung tên đố kỵ ngắm nhau hoài
Ngỡ đau giãi mũ Hàn Phi Tử
Ai đưa Lý Tư mảnh đất này 



Học đòi lối gã Công Tôn Át

Rồi sẽ mình dao đâm thối thây

Xá chi đỉa đói đeo chân hạc

Mà luận công danh gã rạc rài
Ðâu phải bây giờ sông mới lấp
Ðã từng cát bụi khóc thiên tai
Thì thôi chả trách bìm leo dậu
Cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây
Cố quận cha già căng mắt đợi
Viễn phương hạnh ngộ cứ hao gầy
Hỡi ơi dâu biển và dâu biển
Ta đến đây đành ở lại đây
Dao cùn múa mãi bài vong quốc
Ngơ ngẩn như chiên bị lạc bầy
Thời đã thu không hồi trống điểm
Giật mình tóc gẫy xuống ngày mai 


Khương Tử Nha đâu bờ Vị Thủy

Phong thần bảng ấy có hôm nay

Bồi hồi tiếng thét xô hung Trụ

Lửa thắp chiêm bao một giấc đầy
Mộng ảo chẳng no cơn biệt xứ
Ðìu hiu nghịch cảnh khép vòng vây
Con chim trốn tuyết về chưa nhỉ
Ta mãi cô đơn giữa chốn này
Gươm gỗ làm sao mài dưới nguyệt
Mà đòi sông núi nặng hai vai
Mưu sinh chữ nghĩa gầy tư tưởng
Tỳ vết kiêu sa vẹt tháng ngày
Ngùi trông cố quốc tình hong muối
Héo hắt tài hoa tâm sự phai
Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết
Lấy thơ ta lấp kín sầu mây 


Ai trước Hồ Trường chưa rót cạn

Còn nghiêng bầu hẹn một người say

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

Ta đến đây đành ở lại đây


Duyên Anh 

(Bài lưu đầy, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris) 


Đành ở lại đây đợi chết mòn chứ biết tính sao bây giờ. Tâm sự buồn bã của hoàng hôn đời tôi được tôi diễn tả: 


Ta đến một mình không có Moise

Chân hoang chìm lún giữa truông đời

Ðào sâu đất hứa chôn tâm sự

Rượu cháy phồn hoa yêu nữ ơi 


Ta đến một mình không có em

Mùa tàn, đất nẻ, bặt lời tim

Hồn oan sa vũng bùn luân lạc

Thoi thóp hoàng hôn, mỏi cánh chim 


Ta đến một mình không có ai

Gập ghềnh địa nạn, dốc thiên tai

Thế gian vùi ngủ quên hồng thủy

Thuyền vắng Noé, nước ngập đầy 


Ta đến một mình ta với ta

Bỗng dưng thương ngục đá đêm già

Cuối đường hiu hắt chiều giăng mắc

Thấp thoáng hồ ly đốm lửa xa 


Duyên Anh

(Ta và Ta, 20-12-86 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris) 


Và sau hết: 


Chẳng hẹn mà thành khách viễn phương

Cũng rằng non nước dục lên đường

Dấu giầy lữ thứ hằn lưng cát

Áo bạc hòa hoa nát gió sương 


Chấp kích lang cười khinh Hạng Võ

Ðêm mòn đợi kiếm báu Trương Lương

Ðời không có kẻ nhường xe ngựa

Chậm bước tiên phong muộn chiến trường 


Nghĩ giận thế thời con mắt đóm

Ngọc nằm bất động giữa văn chương

Hỡi Cao Bá Quát trùm thiên địa

Một nhát gươm vung rớt mộng cuồng 


Vương đạo trái mùa thương Vệ Ưởng

Nghẹn ngào tư tưởng lãnh tai ương

Xác xơ chữ nghĩa gầy nghiên bút

Rượu ngút trời thiêu giấc bá vương 


Trả lại phong trần cho bụi đỏ

Lênh đênh sông hẹp bỏ trùng dương

Chiều nay ta thấy ta rời rã

Nhan sắc hồng lâu nguội phấn hương 


Duyên Anh

(Bài Ta, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàigòn và Paris) Với tâm sự ủ ê như thế, thật sự tôi chẳng thiết gì cuộc sống lưu vong vô vọng. Tôi đã 53 tuổi, chết là vừa. 53 tuổi, tôi đã trải đời tôi theo vận mệnh của đất nước tôi. 

10 tuổi tôi đi đếm xác người quê hương tôi chết đói trên vỉa hè, dưới gầm cầu. Tôi đã mở to đôi một nhìn con người chết đói từng giây. Chết thật nhanh. Tôi đã thấy người mẹ chết, đứa con nhay vú mẹ rồi chết theo. 10 tuổi, tôi chứng kiến Nhật đảo chính Tây, chứng kiến kiếm thép to bản của giặc lùn chặt đứt bàn tay của những đứa bé bằng tuổi tôi nghèo đói, ăn cắp thóc nuôi ngựa Nhật; tôi chứng kiến cách mạng 19-8-1945 và tôi chạy theo cách mạng mà hò hét mà sung sướng. 

11 tuổi tôi nhìn Tầu phù sang nước tôi tước khí giới Nhật. Tôi đã hình tưởng quân của Mã Viện, của Ô Mã Nhi, của Trương Phụ, của Tôn Sĩ Nghị. 
  
12 tuổi tôi chứng kiến tiêu thổ kháng chiến. 


15 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp đốt nhà, bắn giết, hãm hiếp đồng bào tôi. 


19 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp thua, quân ta chiến thắng. Và cũng 19 tuổi, tôi làm chuyến phiêu lưu quá xa với tuổi tôi và thời của tôi. Tôi lại chứng kiến cách mạng nhân vị phản phúc, chứng kiến loạn sứ quân tân thời, chứng kiến đảo chính, chứng kiến thoán nghịch, chứng kiến chiến tranh tàn phá đất nước tôi. Cuối cùng, tôi chứng kiến cộng sản vào Sài gòn. Và tôi bị cộng sản giam nhốt 6 năm qua 3 nhà tù, 2 trại lao cải. 


49 tuổi, tôi làm thuyền nhân, nằm ăn mày ân huệ định cư 6 tháng ở nhà tù thế giới tự do. Tôi tiếp tục chứng kiến… Kể ra kiếm một nhà văn lớn dần theo những biến cố chó đẻ của lịch sử và có trí nhớ tốt, biết ghi nhận biết suy nghĩ như tôi cũng hơi hiếm. Rốt cuộc, sang đến Paris, nhìn sang bên bờ Đại Tây dương bên kia, tôi buồn nôn. Vẫn nối tiếp những “biến cố” bắt chửi thề. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng dẫu tôi đã sống trọn vẹn với những đau thương của quê hương tôi, của thời đại tôi. 


Rất may, tôi còn tìm được một niềm an ủi cuối đời ở một số người tuổi trẻ, những người bạn tuổi nhỏ của tôi. Thế là tôi bèn thèm sống thêm vài năm nữa. Để trao đổi kinh nghiệm sống, kinh nghiệm viết và kinh nghiệm chiến đấu với các bạn tuổi nhỏ của tôi. Tôi thắp sáng một ước mơ mới thay thế ước mơ trong tù đã tắt ngóm.

1      2      3      4     5     6



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét