1 2 3
Khi tôi về
Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có
đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít
nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì
tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính
mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi,
nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi
thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái
nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả
tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những
người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng
nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con
tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không
việc gì.
Nhà ở Nam Vang lại có phần khó thuê hơn ở Sài gòn, thành ra nhà vẫn chưa thuê
được, con tôi phải về ở nhà ông Phạm Chí Tùng trong khi chờ đợi có nhà ở.
Ông Phạm Chí Tùng là người rất hiền hậu, thấy con tôi lên ở nơi xa lạ, hết lòng
giúp đỡ, coi như anh em trong nhà vậy.
Con tôi đi Nam Vang chờ đến ba tháng, nhờ ông Pignon can thiệp mấy lần, hội đồng
coi việc nhà cửa mới thuê cho được một căn nhà, mở lớp dạy học tiếng Anh, lần hồi
cũng đủ ăn tiêu.
Tôi ở Sài gòn, có cóp nhặt những sách của tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại.
Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc
ở bộ kinh tế với ông Hồ Tá Khanh, cho nên đã quen từ trước. Ông thấy tôi ở
trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền cho tôi vay một món tiền khá lớn và
ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những sách của tôi.
Vào khoảng tháng chín năm 1947, thì cậu Bùi Nam, anh em nhà tôi ở Hà Nội vào
Sài gòn thăm chúng tôi, biết rõ tin tức người nhà. Lúc ấy nhạc mẫu tôi đau nặng
chưa biết thế nào, cậu Nam được tin vội vàng ra ngay, ra đến nơi buổi trưa, thì
buổi chiều mẹ tôi mất. Tình mẹ con, nỗi đau đớn, nhà tôi rất sầu khổ. Cái sầu
khổ lúc ấy lại có phần tăng thêm là vì phải khi loạn lạc, mình phiêu lưu ở đất
khách quê người, không thấy được mặt mẹ trong phút cuối cùng.
Ðến quãng đầu tháng ba năm 1948, thì rể tôi về đón chúng tôi, rồi đến ngày mùng
6 tháng ba tức là ngày 26 tháng giêng năm Mậu Tý, chúng tôi lên xe hơi chở hành
khách lên Nam Vang.
Lên đến nơi một tuần lễ, tôi đến gặp ông Pignon là ủy viên nước Pháp, xin cái
giấy được lưu trú ở đất Cao Miên. Vì ở xứ ấy bấy giờ, những người Việt Nam đi lại
rất khó mà ai muốn ở lâu phải có giấy cho ở mới được. Ông Pignon chuyện trò một
cách vui vẻ và cho giấy một cách rất dễ dàng.
Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự
tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ
kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết trò, đâu
lại vào đấy. Ðàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rõ trò đời và tự mình tỉnh sát để
biết cái tâm tình của mình. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đã nói: "Hiếu danh bất
như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn
danh, trốn danh không bằng không có danh.
Ðến tháng ba năm 1949, thấy ông Bảo Ðại đã điều đình với chính phủ Pháp công nhận
nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên hiệp Pháp, đại khái
theo cái nguyên tắc ông Bảo Ðại và tôi đã đưa cho người Pháp khi chúng tôi còn ở
Hương Cảng. Giá hai năm trước, chính phủ Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ
được bao nhiêu thì giờ và sự tổn hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng
thế, cứ để cho đến khi bất đắc dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ
muốn bám lấy cái lợi một lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn.
Lòng tham của người ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính
trực mà ngăn ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều
nỗi đau buồn.
Việc ông Bảo Ðại điều đình đã được kết quả, như thế cũng đã lợi cho nước Việt Nam rồi nhưng đó mới là phần giao kết, cần phải chờ đợi sự thực hành xem có đúng lời giao kết hay không.
Khi sự độc lập và sự thống nhất đã thực hiện rõ ràng rồi, thì
ông Bảo Ðại phải có cái chính sách cương quyết và biết lựa chọn lấy những người
ngay chính đứng đắn ra giúp ông mà làm mọi việc. Nếu lại để cho những người muốn
thừa cơ hội mà làm giàu làm sang, thì khó lòng mà đem lại lòng tín nhiệm của
dân chúng. Việc thành bại sau này, là một bên ở cái lòng thành thực của người
Pháp, một bên là cái chính sách ngay thẳng của ông Bảo Ðại.
Tôi nay già rồi, không có hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ
mong được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân
thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống
đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà
không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy. Cho nên tôi thường nhớ bài
thơ của một nhà thi sĩ Ấn Ðộ mà người ta dịch ra tiếng Pháp như sau này:
La barque à la dérive Au millieu du fleuve de vie,
Périlleux et
fouetté de vent,
Ma barque, sans rames, ballotte,
Flottait à la dérive, Mais
ton invisible main,
Secourable dt pitoyable,
A giudé la barque sans voiles
Parmi les rochers, au milleu des orages,
Jusqúau rivage de sécurité
Tôi lược lấy ý trong bài thơ ấy mà dịch ra bài thơ song thất lục
bát sau này:
Chiếc thuyền vô trạo
Sông nhân thế nước trôi cuồn cuộn,
Giữa dòng sông gió cuốn ào ào.
Chiếc thuyền vô trạo lao đao,
Lênh đênh đây đó biết đâu bến bờ.
Tay tế độ trong cơ huyền bí,
Thuyền không buồm e lệ ngoài khơi,
Ðưa qua sóng gió thác ngòi,
Ðến bên bến nọ là nơi yên lành.
Nhân khi ngồi rồi tôi giở quyển nhật ký ra xem rồi viết thành cuốn
sách này để sau ai xem thì biết rõ sự tình và công việc của tôi làm trong mấy
năm đây đó.
Bản tâm là tôi viết truyện riêng của tôi, song tôi phải nói đến
chính trị của chính phủ Việt Minh và sự hành động của người Pháp ở Ðông Dương,
là vì những việc ấy quan hệ với nhau, không nói không ai hiểu manh mối việc tôi
làm thế nào.
Việc người Pháp làm ở Ðông Dương có nhiều lầm lỗi, ngay từ lúc đầu
không chịu thay đổi cái thái độ với người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn
áp và dùng quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào tròng như ý mình muốn,
không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân trí đã biến thiên, không thể lấy
thế lực mà bắt người ta đi lại con đường cũ được. Phàm cái quyền mưu lừa dối là
chỉ dùng được khi người ta không biết, nhưng khi người ta biết rõ cái mưu thuật
của mình thì cái mưu thuật ấy không có công hiệu nữa.
Người Pháp lại có cái tính hay cậy sức mạnh của mình rồi có khi
có xảy ra việc gì, thì để cho quân lính đi tàn phá giết hại, có ý muốn cho người
ta sợ. Cái phương pháp ấy đối với cái tâm lý của dân tộc khác thể nào tôi không
biết, nhưng đối với dân tộc Việt Nam mà chỉ dùng sức mạnh để tàn phá, thì sự
tàn phá càng tàn nhẫn bao nhiêu, sự thù oán ghét giận lại càng tăng thêm bấy
nhiêu.
Theo cái tâm lý người Việt Nam, thì người ta ưa cái chính sách
trong sạch ngay chính, không có phá bậy giết càn. Hễ người Pháp không hiểu chỗ ấy,
thì bề ngoài thế nào mặc lòng, bề trong không ai phục, thì làm việc gì rồi cũng
thất bại. Vì vậy cho nên việc người Pháp muốn đem lại sự hòa bình ở xứ Ðông
Dương, mà cứ ngoắt ngoéo không cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, lại không
thành thực thi hành những điều giao kết, thì khó lòng mà giải quyết được cái
tình thế ngày nay.
Về phương diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt
Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một
cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán, mà ở ngoài thì không
có ai muốn giúp đỡ. Trước thì họ trông cậy ở nước Nga và ở đảng cộng sản ở bên
Pháp, sau thì nước Nga vì xa cách không giúp được họ việc gì, đảng cộng sản bên
Pháp thất thế, thành ra mình cô lập, thế bất đắc dĩ nên phải lập ra mặt trận
kháng chiến. Chính phủ Việt Minh tuy biết lợi dụng cái lòng ái quốc của quốc
dân và nhờ có sự tổ chức chu đáo và sự tuyên truyền khôn khéo, nhưng vẫn không
đủ sức để ngăn cản được sự tiến hành của quân địch. Cái chủ nghĩa cộng sản về
đườn luận thuyết cũng có điều bảo thủ, như là muốn chữa những điều bất công
trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc
và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem
cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa,
cũng không chắc đã vững bền.
Trong việc làm của Việt Minh cộng sản có hai điều trở ngại. Một là đem cái
phương sách hành động ở các nước bạn tây phương sang thi hành ở Việt Nam, có
nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh và tính tình của nhiều người trong nước
cho nên thành ra có nhiều chỗ trái ngược. Ðó là một điều trở ngại khá lớn. Hai
là vì cái vị trí nước Việt Nam ở trong cái phạm vi Anh Mỹ theo cái hiện tình
bây giờ, thế nào người ta cũng không để đất này thành cộng hóa. Chỉ trừ khi nào
trống mái rõ rệt, thì thiên hạ hoặc là đều bị cộng hóa cả, hoặc là đều sống ở
trong cái chế độ tư bản cả. Lúc ấy dù muốn hay không cũng chẳng làm gì được.
Trong khi hai cái lý tưởng còn đối lập, thì mình chưa sao thoát khỏi cái thế lực
của Anh Mỹ. Như vậy mình cố chấp muốn cộng hóa, thì tất là chỉ có phần thiệt hại
mà thôi, chứ khó lòng thành công được.
Ðã hay rằng đảng cộng sản có cái tính cách tôn giáo, phải mê và tin, tin là chỉ có mình là phải, còn người ta là sai lầm hết cả, song những người làm chính trị có quan hệ đến vận mệnh một nước, phải hiểu thời thế mà tùy cơ ứng biến. Theo ý tôi thì đó là chỗ những người cầm quyền trong đảng Việt Minh phải liệu mà hành động.
Dù hay dở thế nào mặc lòng, đảng Việt Minh đã có cái công lớn tổ chức được cuộc
kháng chiến ấy mà nước Pháp phải cho nước Việt Nam được độc lập và thống nhất.
Song trong cái tình thế quốc tế hiện thời, thì đảng Việt Minh chỉ làm được đến
đấy thôi, không làm hơn được nữa. Nếu cố chấp muốn làm cho được như ý muốn thì
chỉ làm khổ dân hại nước mà không chắc đạt được cái ý của họ. Vả cái mục đích ấy
định đi đến đâủ Tại sao người mình đã phơi xương đổ máu trong sáu bảy mươi năm
trời từ khi có cuộc bảo hộ của nước Pháp đến giờ? Có phải là tại người mình muốn
sống cái đời sống tự chủ của mình, chứ không làm nô lệ ai không? Lẽ nào ta lại
theo một cái lý tưởng chưa thực hiện được mà đem mình làm nô lệ một dân tộc
khác. Dù ta có say mê một lý tưởng nào nữa, thì cũng nên đi từ từ để cho thời
gian dũa mòn bớt góc cạnh có thể gây ra nhiều đau khổ. Ðời chưa đủ khổ hay sao,
mà còn muốn gây thêm ra nữa.
Hiện nay đảng Việt Minh có nước cờ đáng rất cao, là tự mình lui bước đi, để cho đảng chân chính quốc gia đứng ra thực hiện sự độc lập và thống nhất của nước nhà, rồi lập thành một chính thể theo đúng cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay. Cho các đảng phái được công nhiên lấy nghĩa lý mà tranh đấu trên trường ngôn luận, nhưng không được dùng võ lực mà tranh quyền cướp thế. Làm được như thế, tất nhiên là họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có cái địa vị rõ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm được nữa. Khi ấy mọi người trong nước phải quả quyết đi vào con đường kiến thiết, ai nấy đem hết tài lực của mình mà học tập và làm việc để đem nước đến cái trình độ cường thịnh như các nước khác.
Cứ như thiển kiến của tôi, thì đó là cái phương sách cứu nước rất
ngay thẳng và có phần mau chóng hơn cả, không biết các bậc cao minh trong nước
nghĩ sao?
Tôi đem cái ý kiến ấy mà phô bày ra đây, là theo cái tình thế hiện thực mà nói,
chứ không phải là một điều mơ tưởng. Mà cũng không phải là tôi thiên vị chủ
nghĩa nào, hay đảng phái nào, tôi đã nhứt quyết không mưu cầu danh lợi gì hết,
chỉ mong người trong nước bỏ bớt cái lòng tư tâm tư lợi mà ra sức giúp cho nước
nhà chóng được yên ổn và thịnh vượng, để cùng với thế giới đi lên con đường tiến
bộ. Cũng bởi tấm lòng vì dân vì nước ấy và thấy khi quốc gia gian nan, không lẽ
ngồi nhìn, nên tôi tự biết mình đã già yếu kém cỏi không làm gì được, nhưng ít
ra cũng theo cái lương tâm mà đem những sự tôi đã biết và đã thấy mà phô bầy
ra, để mọi người suy xét cho đúng sự thực. Dù ai có bảo đó là lời nói của một
anh hủ nho, tôi cũng cam tâm mà tự cho mình đối với cái tâm của mình đã làm hết
bổn phận làm người vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét