Sau Tết Mậu Thân, không khí chính trị tại Sài Gòn hoàn toàn thay
đổi. Chẳng hạn trước Tết Mậu Thân, một cuộc thăm dò dư luận Mỹ vào tháng
11-1967, cho thấy 44% người Mỹ muốn quân đội của họ rút về nước toàn bộ hoặc dần
dần; 55% chủ trương một đường lối cứng rắn, tức sử dụng vũ khí hạt nhân. Tháng
2-1968, khi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đang diễn ra ác liệt, 53% người Mỹ
chủ trương tăng cường các cuộc hành quân quân sự với một qui mô lớn hơn và chấp
nhận cả nguy cơ chạm trán với Liên Xô và Trung Quốc. Chỉ có 24% người Mỹ muốn
thấy cường độ chiến tranh hạ thấp xuống. Thế nhưng chỉ 6 tuần lễ sau sự kiện Tết
Mậu Thân, sự ủng hộ của người Mỹ dành cho tổng thống Lyndon Johnson từ 40% rớt
xuống còn 26%. Người ta còn nhớ khi ông Johnson mới vào Nhà Trắng, cứ 10 người
Mỹ thì có đến 8 người ủng hộ ông.
Theo nhà báo Stanley
Karnow trong quyển Vietnam: A History mà ông là tác giả: Cuộc
tổng công kích Tết Mậu Thân “làm bàng hoàng” tổng thống Johnson (stunned
Johnson). Johnson không bao giờ tưởng tượng rằng Việt cộng có thể tấn công vào
tòa đại sứ Mỹ và tất cả các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên,
ngay sáng 31-1-1968 Lyndon Johnson đã ra lệnh cho guồng máy tuyên truyền Mỹ
phối hợp tạo ra một dư luận lạc quan trong nước Mỹ đối với tình hình chiến
tranh Việt Nam. Johnson chỉ đạo tổng tư lệnh liên quân Mỹ tại Việt Nam
Westmoreland trong các cuộc họp báo với báo chí Mỹ tại Sài Gòn phải khẳng định
quân đội Mỹ “đang nắm vững tình hình tại đây”. Lyndon Johson cho phụ trách báo
chí tại Nhà Trắng biết “cuộc tổng công kích của cộng sản hoàn toàn thất bại”.
Johnson cũng chỉ thị cho ngoại trưởng Dean Rusk, cựu bộ trưởng quốc phòng
McNamara, Walt Rostow và các phụ tá thân cận khác luôn giữ một lập luận như thế
trước báo chí và truyền hình khi được phỏng vấn.
Tuy nhiên tinh thần của
phần đông các phụ tá của tổng thống Mỹ sau Tết Mậu Thân thật ra đã suy giảm
đáng ngại. Harry McPherson – luật sư và là một trong những người viết diễn văn
cho tổng thống Johnson, được Johnson coi như con nuôi của mình (ông Johnson chỉ
có con gái chứ không có con trai) đã phát biểu với giới thân cận rằng những
hình ảnh về tòa đại sứ Mỹ bị tấn công mà truyền hình phát đi từ Sài Gòn, cũng
như hình ảnh Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một Việt cộng trên đường phố trước
ống kính truyền hình Mỹ đã gây sự thất vọng cho ông, khiến ông thấy cuộc chiến
của Mỹ ở Việt Nam là phi nghĩa và mất hẳn khả năng chiến thắng. Nhiều năm sau
đó người ta tìm thấy trong sách giáo khoa của trường quân sự Mỹ West Point sự
đánh giá cuộc tấn công Tết Mậu Thân gây bất ngờ cho tình báo Mỹ ngang với cuộc
tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) trong lịch sử.
Trong khi từ Việt Nam,
tướng Westmoreland thúc bách Johnson tăng cường thêm 206.000 quân Mỹ đến miền
Nam, thì tại Washington, Clark Clifford, người thay Mc Namara, đã có suy nghĩ
khác. Một cách âm thầm, tổng thống Johnsonn cũng khuyến khích các phụ tá có
nhiều ảnh hưởng nhất tính tới “một cách khác giải quyết cuộc chiến Việt Nam”.
Một trong những cuộc họp không chính thức diễn ra tại bộ Ngoại giao Mỹ ngày 25-3-1968
đã có ảnh hưởng gần như quyết định đối với diễn tiến tiếp theo của chính sách
của Mỹ tại Việt Nam. Cuộc họp này có 14 người tham dự, trong đó có Dean Acheson
– cựu ngoại trưởng Mỹ (1942-1952), người đã từng thuyết phục tổng thống Mỹ
Truman viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến Đông Dương; Arthur Goldberg – đại sứ
Mỹ tại Liên hợp quốc; George Ball, McGeorge Bundy; Henry Cabot Lodge – cựu đại
sứ Mỹ tại Sài Gòn; Averell Harriman; Cyrus Vance v.v... Ngoài ra bên cạnh Clark
Clifford còn có Dean Rusk – ngoại trưởng (1961-1968); Walt W. Rostow – cố vấn
an ninh của tổng thống Johnson 1966-1968; Earle Wheeler – chủ tịch Ban tham mưu
liên quân Mỹ.
Tổng thống Johnson giao
cho bộ trưởng Bộ quốc phòng Clifford thăm dò tìm giải pháp cho một trong ba
chọn lựa: một là leo thang chiến tranh với việc đưa quân Mỹ đến Việt Nam nhiều
hơn gia tăng oanh tạc miền Bắc; hai là duy trì hiện trạng; ba là hạn chế tấn
công không quân và tập trung quân đội Mỹ ở những vùng đông dân cư đồng thời
chuẩn bị cho chính quyền Sài Gòn điều khiển trực tiếp cuộc chiến.
Ba chuyên viên cao cấp
được mời đến thuyết trình mà người quan trọng nhất là Philip Habib – cựu cố vấn
chính trị tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – lúc này là phó trợ lý bộ trưởng Ngoại
giao. Khi ông Habib kết thúc bản thuyết trình của mình, bộ trưởng Clifford đã
chất vấn ông như một luật sư chất vấn một nhân chứng trước tòa (Clifford gốc là
một luật sư). Ông hỏi: “Phil, bạn có nghĩ chúng ta có thể giành được chiến
thắng quân sự?”. Ông Habib do dự một giây vì ngại rằng câu trả lời có thể làm
phật lòng sếp của mình là Dean Rusk:
“Trong những điều kiện
hiện nay thì khônlg!”. Liền đó Clifford hỏi tiếp một câu mà sau này Habib, khi
kể lại, cho rằng gay go nhất trong sự nghiệp của ông: “Bạn sẽ làm gì nếu quyền
quyết định thuộc về bạn?”. Habib im lặng một giây rồi nói: “Ngừng ném bom và
thương thuyết”.
Ngày 31-3-1968, trong
bài diễn văn với nhân dân Mỹ, tổng thống Johnson thông báo quyết định của ông
không ra ứng cử nhiệm kỳ thứ hai “để tránh cho nước Mỹ khỏi bị chia rẽ trong
năm bầu cử”. Ngày 13-5-1968 hai phái đoàn Mỹ và VNDCCH khai diễn cuộc hòa đàm
tại Paris sau 30 ngày tranh luận với nhau về địa điểm.
Sau Tết Mậu Thân, tinh
thần của quân đội Mỹ xuống hẳn. Tháng 3-1968 lại xảy ra vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn
Mỹ) làm cho dư luận Mỹ càng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh Việt Nam.
Có ba vấn đề được đề
cập công khai trong dư luận và báo chí vào thời điểm này tại Sài Gòn: ngưng hay
không ngưng ném bom miền Bắc; nhìn nhận hay không nhìn nhận Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam; chính phủ Sài Gòn nên hay không nên tham dự Hội nghị
Paris. Trước ba vấn đề này, giới chính trị Sài Gòn phân đôi rõ rệt: phe chống
cộng và ủng hộ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đều chủ trương “ba không”: không
ngưng ném bom, không nhìn nhận MTDTGPMN và không dự hòa đàm. Giới đối lập, trong
đó có tôi, chọn một lập trường ngược lại hẳn.
Tôi không phải là một
nhà chính trị chuyên nghiệp. Với tôi, lúc này, các mục tiêu vì dân tộc và hòa
bình được đặt lên trên tất cả. Sự chết chóc của người Việt Nam ở hai chiến
tuyến đều đau xót như nhau. Những giải pháp nào để chấm dứt cuộc chiến ấy tôi
đều ủng hộ. Cuộc hòa đàm sẽ đưa đến sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn? Tôi không
biết chuyện ấy sẽ ra sao nhưng có một thực tế rõ ràng là sự tồn tại của chế độ
Nguyễn Văn Thiệu không phải là điều mong muốn của đa số nhân dân miền Nam.
… Khi mở lại chồng báo
cũ để tìm tài liệu viết Hồi ký này, tôi bắt gặp tờ Tiếng
nói Dân tộcđề ngày 22-10-1968 trong đó có bài báo của tôi với hàng
tít: “Một bài báo chờ dịp khác đăng: Ha! Ha! Đây là ngày vui dân tộc!”. Nội
dung bài báo như sau:
“Chiều ngày 19-10-1968
vào lúc 16 giờ, tôi đang thâu thập tin tức giờ chót cho số báo ra ngày hôm sau
thì nhận được một bản tin của hãng Reuter cho hay Mỹ đã đồng ý ngưng oanh tạc
miền Bắc và miền Bắc chấp nhận nói chuyện với VNCH. Trong cái giây phút bỗng
nhiên thiêng liêng ấy, tôi đã cầm viết và viết bài này để kịp đăng với nguồn
tin trên. Nhưng rốt lại nguồn tin trên bị đính chính, bài này không còn giá trị
nữa, đúng ra nó phải nằm trong hộc tủ để chờ như mấy chục triệu dân hai miền
Nam Bắc vẫn đang chờ… suốt 20 năm qua.
L.Q.C
“Thế là đã hoàn toàn
ngưng oanh tạc trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Thế là người dân miền Bắc đã chấm
dứt được cảnh sống hãi hùng kéo dài hơn 44 tháng qua, bắt đầu từ vụ tàu Maddox
tháng 4 – 1965. Bốn năm chẵn! Bốn năm phải hứng chịu tổng cộng hết cả số bom mà
quân Đồng minh đã trút lên nước Đức trong thời gian thế chiến thứ hai – có cơn
ác mộng nào bằng!
“Vài lần bị pháo kích
trong một năm, Sài Gòn đã không ngủ; cảnh tang tóc thê lương đã phủ trùm, thử
hỏi bốn năm oanh tạc, kiếp sống con người với tiếng phản lực cơ gào thét, với
tiếng bom vang dội ngày đêm, có còn là một kiếp sống hay chỉ là những chuỗi
ngày dài vô tận trốn chạy tử thần?
“Tôi muốn thét lên cho
mọi người nghe niềm vui vô tận của tôi. Để nếu trước đây vì cớ gì không thể
chia sớt được niềm đau chung của đồng bào ruột thịt ngoài ấy, thì nay ít ra
cũng tỏ được không muộn lòng mình. Ở giây phút này, dầu bạn hay thù, dầu quốc
gia hay cộng sản, chỉ cần là người Việt biết nghĩ đến những cảnh tang thương
trước đây dưới những trận mưa bom, ai ai cũng cảm thấy tự nhiên vùng lên một
NIỀM THƯƠNG DÂN TỘC. Có người anh nào thấy em vui mà không vui, có người em nào
thấy anh thoát cơn nguy hiểm lại không mừng. Niềm thương ấy là niềm thương ruột
thịt, xuất phát từ hơi thở, trong nhịp tim, không cần tìm kiếm, không suy nghĩ
mà vẫn cảm nhận đậm đà.
“Tôi không biết ngưng
oanh tạc rồi sao. Cộng sản sẽ thắng hay đó là dấu hiệu cộng sản bắt đầu lùi.
Tôi quên suy tính. Tôi thấy cần vui cái vui tận cùng cái đã. Trong giây phút
tâm hồn lâng lâng, tôi chợt nghĩ bom ngoài Bắc ngừng dội, tiếng súng trong Nam
hết nổ. Ha! Ha! Đó là ngày vui của dân tộc. Những buổi đồng bào di cư bỗng chốc
lóe lên hình ảnh một buổi chiều vàng gặp lại cha già mẹ yếu bên lũy tre xanh
xiêu vẹo vì bom đạn. Những bà mẹ già trong Nam đứng ngồi không yên nhìn ra đồng
ruộng thẳng tấp trông ngóng bóng con về.
“Tôi mơ ngày vui dân
tộc ấy”.
Một bài báo quả là hồn
nhiên chính trị. Với không ít người còn coi đó là ngây thơ chính trị.
Thật sự vào cuối tháng
10-1968, báo chí Mỹ đã “ngửi” thấy từ Washington sắp sửa có một quyết định quan
trọng chung quanh việc ngưng oanh tạc miền Bắc để phá vỡ bế tắc về hòa đàm giữa
Mỹ và Bắc Việt. Tổng thống Johnson đã có ý định sẽ công bố lệnh này vào ngày
31-10 và bắt đầu cuộc nói chuyện với Bắc Việt ngày 2-1-1968. Nhưng trước khi ra
quyết định sau cùng, tổng thống Johnson muốn nghe ý kiến của người có tiếng nói
trọng lượng nhất trong vấn đề này: tướng Creighton Abrams, Tổng tư lệnh quân
đội Mỹ tại Việt Nam. Tướng Abrams lên chiếc C -141 từ Sài Gòn bay suốt đêm và
đến phi trường quân sự Andrews vào lúc 1 giờ sáng. Abrams được đưa ngay đến
Washington và gặp tổng thống Johnson cùng các phụ tá thân cận tại nhà Trắng vào
lúc 2 giờ 30 sáng.
Câu hỏi đầu tiên của
Johnson đặt ra với Abrams: “Với hiểu biết sáng suốt của ông về tình hình Việt
Nam, ông có hối tiếc hay do dự khi có quyết định ngưng ném bom miền Bắc Việt
Nam?”. Tướng Abrams: “Thưa ngài, không”. Câu hỏi tiếp theo của Johnson: “Nếu là
tổng thống, ông có hành động như thế?”. Abrams trả lời “Sẽ không do dự” và thêm
rằng: “Tôi không nghĩ đó là điều đúng đắn phải làm mà là một việc thích đáng
phải làm”.
Nhưng thời điểm này,
tại Mỹ đã khởi đầu cuộc chạy đua vào nhà Trắng. Johnson muốn hòa đàm về Việt
Nam là khởi đầu tốt đẹp để ứng cử viên Đảng Dân chủ có tham vọng thay ông có
nhiều thuận lợi hơn ứng cử viên Richard Nixon của Đảng Cộng hòa. Biết được chỗ
yếu này, tổng thống Thiệu tìm cách khai thác tình hình chính trường Mỹ có lợi
cho mình. Mặt khác chính Nixon cũng cho người thân thuộc móc nối Thiệu để
khuyến khích Thiệu đối đầu lại áp lực của Washington và làm trì hoãn ý đồ ngưng
ném bom của tổng thống Johnson trong lúc không còn bao lâu nữa nhiệm kỳ của
Johnson kết thúc. Tổng thống Thiệu tính rằng nếu ứng cử viên của Đảng Dân chủ
là Hubert Humphrey đắc cử thì đồng nghĩa “chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập
trong 6 tháng; nhưng nếu Nixon trúng cử thì vẫn còn hi vọng”. Trong cuốn
sách “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam” của
tác giả Larry Berman đã tiết lộ bộ trưởng Mỹ Clark Clifford tố cáo ý đồ của
Thiệu lợi dụng cuộc bầu cử ở Mỹ là “thối như cứt ngựa” (horseshit).
Ngày 28-10-1968, theo
chỉ thị của tổng thống Johnson, đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đến gặp tổng thống
Thiệu thông báo rằng ngày 31-10 vào lúc 8 giờ chiều, giờ Washington, tổng thống
Mỹ sẽ thông báo chính thức ngừng ném bom, và cuộc gặp phái đoàn Bắc Việt sắp
tới sẽ là ngày 6-11 sau khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra. Tổng thống Mỹ hi
vọng rằng tổng thống Thiệu sẽ tán đồng sự công bố này. Thay vì đáp ứng lời yêu
cầu của Johnson, Thiệu xuất hiện trước quốc hội lưỡng viện (có cả Hạ viện lẫn
Thượng nghị viện) chỉ trích Washington với những lời lẽ mà đại sứ Bunker gọi là
“nẩy lửa”. Thiệu bày tỏ quan điểm “tẩy chay” cuộc hòa đàm. Còn phó tổng thống
Nguyễn Cao Kỳ, ngoài hành lang Quốc hội, nói với một số dân biểu, nghị sĩ rằng
quyết định ngưng ném bom của tổng thống Johnson khiến “chúng ta không thể tiếp
tục tin người Mỹ - họ đúng ra chỉ là một đám lừa đảo” (“a band of crooks” –
trích trong “The Vietnam War – Day by day” của John S.
Bowman). Trong hồ sơ của CIA được công khai sau này có một báo cáo ghi lại lời
tố cáo của Thiệu về quyết định của tổng thống Johnson là “không khác gì sự phản
bội của Mỹ khi bỏ rơi Tưởng Giới Thạch sau các cuộc thương lượng ở Yalta,
Teheran và Casablanca”.
Hai người làm gạch nối
Thiệu với Nixon để chống lại Johnson là Anna Chennault và Bùi Diễm – đại sứ của
chế độ Sài Gòn tại Washington. Anna Chennault là vợ góa của tướng Claire
Chennault – một anh hùng không quân Mỹ. Hồ sơ của FBI được tham khảo tự do
tháng 12 -2000 tiết lộ bà Chennault thông qua Bùi Diễm liên tục thúc đẩy Thiệu
giữ vững lập trường không hợp tác với tổng thống Johnson. Bà ta nói rõ mình
nhận được ý kiến từ “ông chủ” (boss) của bà, tức từ Nixon. Nhìn thấy ý đồ của
Thiệu, tổng thống Johnson nói với Bộ trưởng quốc phòng Clark Clifford rằng
Thiệu là một kẻ nói dối và một con người hai mặt (a liar anh a double –
crosser).
Phía sau sự kiện chính
phủ Thiệu nghe lời Nixon phá vỡ kế hoạch hòa đàm của tổng thống Johnson hồi năm
1968, người ta phát hiện vai trò xấu xa của Henry Kissinger trong âm mưu này!
Vào thời điểm đó, Kissinger là nhân vật thân cận của thống đốc Nelson
Rockefeller và từ chỗ đứng này trong phe Dân chủ, ông trở thành một thành viên
không chính thức trong ban tham mưu chiến lược hòa đàm của tổng thống Johnson.
Thấy trước rằng ứng cử viên của đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử tổng thống sắp
tới là Hurbert Humphrey (đang là phó của tổng thống Johnson) khó thắng đối thủ
đảng Cộng Hòa là Richard Nixon, Kissinger chơi trò hai mặt: vẫn đứng trong ban
tham mưu của Johnson nhưng làm việc ngầm cho phe Nixon với mục đích giành một
địa vị quan trọng trong chính phủ tới nếu Nixon đắc cử! Ông ta đã thông báo
trực tiếp cho Nixon biết các chi tiết quan trọng trong kế hoạch kết thúc chiến
tranh của tổng thống Johnson và tham mưu cho Nixon cải cách đối phó. Nhờ các
thông tin quí giá do Kissinger cung cấp, phe Nixon liên hệ với chính phủ Thiệu
qua trung gian của Bùi Diễm – đại sứ Sài Gòn tại Mỹ - liên kết nhau phá vỡ kế
hoạch thương thuyết hòa bình với Hà Nội của chính phủ Johnson. Nixon hứa với
Thiệu nếu ông ta thắng cử, Thiệu sẽ tại vị thêm bốn năm nữa và lúc đó sẽ có
những điều kiện thương lượng thuận lợi hơn cho chính phủ Thiệu (nhưng thực tế
bốn năm sau với Nixon, ông Thiệu đã phải chịu đắng cay và nhục nhã hơn rất
nhiều).
Lúc đó tuy Kissinger
không phải là thành viên chính thức nhưng được trưởng đoàn thương thuyết của
tổng thống Johnson là Averell Harriman xem là một nhân vật cốt cán trong ê kíp
mình. Richard Holbrooke, trợ lý Bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Johnson sau
này cho biết: “Henry là người duy nhất ngoài chính phủ mà chúng tôi cho phép
tham gia các cuộc thảo luận về hòa đàm”. Ông Holbrooke nói thêm rằng mọi người
rất tin tưởng Kissinger nên không ai ngờ rằng trong ê kíp thương thuyết của
chính phủ Johnson lại bị cài người nằm trong chiến dịch tranh cử của Nixon.
Đề cập trở lại dư luận
tố cáo ông và Kissinger tiếp tay cho Nixon phá vỡ nỗ lực hòa đàm của chính phủ
Johnson nhằm cản trở ứng cử viên Dân Chủ thắng cử, trong hồi ký của mình(In
the Jaws of History) ông Bùi Diễm gián tiếp xác nhận sự tố cáo này
bằng cách thú nhận rằng: “Ông Humphrey (ứng cử viên tổng thống của đảng Dân
Chủ) và những nhân vật trong đảng Dân Chủ khiến tôi thất vọng vì những người
này trước đây ủng hộ chính sách can thiệp vào Việt Nam bao nhiêu thì nay lại
tìm cách lảng ra bấy nhiêu. Bởi thế phản ứng tự nhiên của tôi là bắt đầu ngả về
phía đảng Cộng Hòa rồi từ đó cũng gặp nhiều bạn trong đảng Cộng Hòa”. Bùi Diễm
còn nhắc lại một mật điện của ông đề ngày 23-10-1968 gửi cho tổng thống Thiệu
khuyến khích Thiệu tiếp tục giữ lập trường cứng rắn để đối đầu áp lực của tổng
thống Johnson: “Nhiều bạn bè thuộc đảng Cộng Hòa tiếp xúc tôi và khuyến
khích chúng ta giữ vững lập trường”.
Thái độ của dân chúng
và giới đối lập ở miền Nam lúc này phần đông đều muốn chính phủ Sài Gòn cử phái
đoàn đến Paris để sớm chấm dứt chiến tranh. Lập trường cứng rắn không dự hòa
đàm của ông Thiệu không được hậu thuẫn mạnh mẽ, ngoại trừ phe chống cộng.
Tác giả quyển “The
Trial of Henry Kissinger” (Phiên tòa xét xử Henry Kissinger – Nhà xuất bản
Verso, London – New York) là Christopher Hitchens coi Kissinger là một tội phạm
chiến tranh xứng đáng đưa ra tòa án Nuremberg hay The Hague. Sau khi phá vỡ
cuộc hòa đàm 1968 của chính phủ Johnson, bốn năm sau (1972), Kissinger trở
thành “kiến trúc sư” của Hiệp định Paris được chính phủ Nixon ký kết với những
điều kiện gần giống hoàn toàn những điều kiện mà thời chính phủ Johnson đã sẵn
sàng chấp nhận nếu không có sự phá bĩnh từ bên trong của Kissinger (và Bùi
Diễm). Tác giả Christopher Hitchens coi Kissinger là kẻ gây ra tội ác chống lại
nhân loại vì rằng cuộc chiến đáng lý có thể chấm dứt từ năm 1968 cùng với những
điều kiện của năm 1972, đã kéo dài thêm bốn năm “khiến cho có thêm ba triệu
thường dân Việt Nam bị thương vong hoặc mất nhà cửa, 31.205 lính Mỹ, 86.101
lính VNCH và 475.609 quân địch bị thiệt mạng” (theo tài liệu của Lầu Năm Góc).
Kết quả thật mỉa mai: Kissinger không bị đưa ra Tòa án Nuremberg hay The Hague
mà lại được trao tặng giải Nobel hòa bình!
Theo Christopher
Hitchens, Kissinger còn là người chịu trách nhiệm chính về một hành động tội ác
khác: vụ “bình địa” Kiến Hòa. Vụ thảm sát ở Mỹ Lai chẳng nghĩa lý gì so với
cuộc tàn sát ở Kiến Hòa, xảy ra một năm sau (tháng 3-1969), lúc đó Henry
Kissinger là người chỉ huy cuộc chiến Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ trưởng quốc
phòng Mỹ Robert McNamara ngày 22-1-1968 với Thượng nghị viện (thời tổng thống
Johnson) thì không có đơn vị Bắc Việt nào có mặt ở đồng bằng sông Cửu Long lúc
đó. Do đó không thể viện lý do nhằm chống lại sự tràn ngập của quân Bắc Việt để
tiến hành cuộc “tẩy sạch” vùng này.
Phóng viên Kevin
Buckley, trưởng văn phòng Newsweek tại Sài Gòn đã tố cáo vụ
tàn sát ở Kiến Hòa tháng 3 -1969 trên tờ báo (ngày 19-6-1972) như sau:
“… Theo một viên chức
khoảng 5000 người dân thường bị hỏa lực của Mỹ giết chết trong cuộc “bình định”
ở Kiến Hòa. Sự chết chóc ở đây khiến cho cuộc thảm sát ở Mỹ Lai không thể nào
so sánh. Sư đoàn 9 (Ninth Division) huy động tất cả sức mạnh vào cuộc hành quân
này. 8000 lính bộ binh cày nát Kiến Hòa nhưng rất hiếm xảy ra đụng độ với địch.
Cuộc hành quân được 50 khẩu đại bác, 50 trực thăng hỗ trợ. Máy bay đã thực hiện
tất cả 3.381 lần tấn công ném bom trong cuộc hành quân mang tên “Speedy
Express” này. Trên một trực thăng có kẻ khẩu hiệu “Death is our business and
business is good” (tạm dịch “Bắn giết là công việc của chúng tôi và đó là công
việc thú vị”).
“Thật khó giải thích về
sự khác biệt khủng khiếp giữa số xác người được đếm (11.000) và số vũ khí đã
tịch thu được (748). Chỉ có thể giải thích: đa số những xác chết ấy là của
người dân vô tội…”
Theo Christopher
Hitchens, từ khi Henry Kissinger trở thành cố vấn an ninh của Nixon không có
một quyết định nào trong cuộc chiến ở Việt Nam lại không được thông qua ông ta.
Cho nên tướng Telford Taylor, từng đứng đầu Ủy ban điều tra tại tòa án
Nuremberg, đã viết trong quyển Nuremberg và Việt Nam rằng có
thể đưa Henry Kissinger ra xét xử như đã xét xử người chỉ huy quân đội của Nhật
hoàng Hirohito là tướng Tomoyuki Yamashita vì ông ta đã bị không kiểm soát quân
Nhật và để xảy ra các vụ tàn sát dân thường. Yamashita đã bị xử treo cổ. Ngoài
những tội ác gây ra ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Kissinger còn bị coi là người
chịu trách nhiệm các tội ác khác xảy ra ở Bangladesh, Chile, Síp, Đông Timor…
…Trở lại vấn đề hòa đàm
Paris, sau cùng thì chính phủ Thiệu cũng không thể đối đầu với áp lực của
Washington, phải cử phái đoàn do đại sứ Phạm Đăng Lâm dẫn đầu dự hội nghị bắt
đầu ngày 25-1-1969. Nguyễn Cao Kỳ được chỉ định là cố vấn chính trị của phái
đoàn Sài Gòn. Có một chuyện bên lề được kể rộng rãi về thái độ của nước Pháp
chủ nhà, đối với phó tổng thống Kỳ. Tổng thống Pháp là tướng De Gaulle từ chối
tiếp ông Kỳ với nghi thức chính thức. Nhưng ông Kỳ vẫn đến Paris với danh nghĩa
cố vấn của phái đoàn Sài Gòn. Ngay lúc ông Kỳ còn trên đất Pháp, trong một cuộc
họp báo của tổng thống De Gaulle, một nhà báo đã hỏi De Gaulle về Nguyễn Cao Kỳ
thì được De Gaulle hỏi lại “Qui est Ky?” (Ky là ai?). Một cách chơi chữ của De
Gaulle coi thường ông Kỳ. Vai trò của ông Kỳ dù không công khai tại Paris nhưng
cũng góp phần làm cho tư thế của phái đoàn VNCH càng sút giảm. Bởi hình ảnh của
tướng Nguyễn Cao Kỳ là “diều hâu 100%”.
Đầu tháng 2-1969, phụ
tá đặc biệt của tổng thống Thiệu là Nguyễn Cao Thăng đến tòa soạn báo Tiếng
Nói Dân Tộc mời tôi tham gia một phái đoàn trí thức nhân sĩ miền Nam
thăm chính thức một số nước châu Á, châu Âu và châu Mỹ với mục đích làm cho thế
giới hiểu thêm về miền Nam và chế độ Sài Gòn. Nhưng tôi nói liền với ông Thăng:
tôi là một dân biểu đối lập, không thể tham gia một cuộc “giải độc” cho chính
phủ Nguyễn Văn Thiệu được. Ông Thăng bảo tôi hãy yên tâm: “Ông dân biểu không
có trách nhiệm làm việc đó. Ông vẫn có thể giữ lập trường độc lập của ông, miễn
ông không công khai tuyên truyền cho cộng sản”.
Đoàn gồm có cựu trung
tướng Trần Văn Đôn – đang là nghị sĩ quốc hội; Hà Thúc Ký – một lãnh tụ đảng
chính trị (Đại Việt); bà nghị sĩ Nguyễn Phước Đại; nghị sĩ Trần Văn Lắm sau này
là Tổng trưởng Giáo dục; GS. Nguyễn Xuân Oánh – cựu phó thủ tướng và thống đốc
Ngân hàng quốc gia Sài Gòn, Nguyễn Gia Hiến – công giáo chống cộng và khoảng ba
hay bốn người nữa mà tôi không nhớ tên. Đoàn được các chính phủ thân chế độ Sài
Gòn như Nhật, Bỉ, Ý, CHLB Đức, Hà Lan, Pháp, Anh, Mỹ đón tiếp trân trọng nhưng
không vượt qua khuôn khổ ngoại giao. Khi đoàn đến Nhật, người được chủ nhà đón
tiếp nồng hậu nhất là giáo sư Nguyễn Xuân Oánh vì từng du học tại đây và sau đó
trở lại dạy đại học trên đất Nhật. Ông Oánh có buổi nói chuyện với sinh viên
Nhật tại Tokyo bằng tiếng Nhật.
Rời Nhật đến châu Âu
trên máy bay Janpan Airlines qua ngả Anchorage, tôi có dịp đặt chân lên Bắc Cực
(Alaska). Một sự cố nhỏ xảy ra với tôi: khi máy bay dừng lại để mua đồ lưu
niệm, thì tôi không làm sao mang lại đôi giày da của mình. Số là tất cả hành
khách đi máy bay đường dài của Japan Airlines đều được phát tất ấm và dép vải
để được đi thoải mái trong cuộc hành trình. Khi nào xuống máy bay mới mang giày
của mình trở vào. Đôi giày da mới toanh của tôi vừa đóng tại Sài Gòn, do nhiệt
độ quá lạnh trong máy bay, đã co rúm lại. Tôi cố gắng thế nào cũng không thể
mang vào. Thế là tôi đành đặt chân nửa trong nửa ngoài đôi giày rồi xuống máy
bay cho kịp với các hành khách khác. Tất cả hành khách đến Anchorage đều được
Japan Airlines cấp cho một giấy chứng nhận đã đặt chân lên Bắc Cực.
Đoàn đến Paris 9 giờ
ngày 18-1-1969, cũng trong ngày này, một tiếng rưỡi sau (10 giờ 30), Hội nghị
Paris mở rộng chính thức khai diễn tại Hotel Majestic. Tôi và ông Hà Thúc Ký
được đại sứ Phạm Đăng Lâm, trưởng đoàn VNCH mời gặp tại nơi làm việc của đoàn
(đặt tại 101, Avenue Raymond Poincafé) với sự có mặt của các thành viên như
luật sư Vương Văn Bắc, luật sư Nguyễn Phương Thiệp, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy để
nghe báo cáo những diễn tiến mới nhất của hội nghị. Đoàn cũng gặp chính thức
phái đoàn Mỹ do Cyrus Vance tiếp. Riêng tôi và bà Nguyễn Phước Đại có dịp mở
một cuộc họp báo dành cho các nhà báo Pháp hoạt động trong quốc hội (presse
parlementaire) tại Thượng viện Pháp. Cuộc họp báo trực tiếp bằng tiếng Pháp,
không thông qua thông dịch. Chủ yếu chúng tôi vận động giải pháp chấm dứt chiến
tranh, nói lên sự tha thiết của nhân dân Việt Nam muốn thấy đất nước mình được
thống nhất. Tôi còn nhớ bà Đại đã gây xúc động với các nhà báo Pháp khi nói về
cuộc chiến ở Việt Nam. Về phần tôi, tôi lưu ý dư luận Pháp và quốc tế rằng
trong cuộc chiến ở miền Nam, ngoài hai phe đối nghịch còn có những người Việt
Nam đứng giữa là những người thầm lặng không chấp nhận Mỹ - Thiệu nhưng cũng
không xếp về phía Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Tại Paris, trong khuôn
khổ riêng, tôi đã gặp và ăn cơm trưa với nhà báo Jacques Decornoy của báo Le
Monde, lúc đó phụ trách khu vực Đông Nam Á, theo sự giới thiệu của nhà báo
Jean Claude Pomonti thường trú tại Sài Gòn. Sau cuộc tiếp xúc, Jacques Decornoy
đề nghị tôi viết một bài báo trên mục “Tribune internationnale” của Le
Monde để đánh động dư luận quốc tế về sự thảm khốc của cuộc chiến ở
Việt Nam và tình cảnh của những người Việt đứng giữa. Jacques Decornoy cũng ủng
hộ quan điểm của một số người ở miền Nam vào thời điểm ấy là cần có một thành
phần thứ ba. Tôi viết bài báo đó tại Paris và giao cho J. Decornoy trước khi
rời nước Pháp. Tuần sau đó, bài báo được Le Monde đăng tải.
Đại sứ Phạm Đăng Lâm có
mời tôi một buổi riêng ăn tại nhà hàng L’ Orée du Bois ở Bois de Boulogne. Đây
là một buổi chiêu đãi có tính cách riêng tư. Đại sứ Lâm là bạn học của cha tôi
thời cả hai người học tại trường Collège Mỹ Tho.
Nhưng chuyện đáng nhớ
nhất trong chuyến đi này là khi đến nước Anh. Trong nhiều hoạt động của đoàn có
buổi dự chiêu đãi do đảng cầm quyền lúc bấy giờ (Công Đảng) tổ chức tại Điện
Westminster, trụ sở quốc hội Anh. Phía chủ nhà, ngoài các lãnh tụ của đảng, còn
có hai đại diện đoàn thanh niên của Công Đảng. Trước khi buổi tiệc bắt đầu, chủ
nhà phát biểu rồi đến khách phát biểu. Nhưng đại diện của đoàn miền Nam là Hà
Thúc Ký chưa kịp nói gì thì một trong hai đại biểu thanh niên Công Đảng đứng
lên phủ nhận tính cách đại diện miền Nam Việt Nam của đoàn, anh cho rằng đại
diện hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam. Trên ngực của anh thanh niên người Anh có đeo một huy hiệu của
MTDTGPMN. Tôi nhìn qua anh thanh niên ngồi bên cạnh, cũng thấy một huy hiệu
MTDTGPMN trên ngực. Rồi cả hai đồng loạt đứng lên hô to khẩu hiệu phản đối đoàn
nhân sĩ trí thức Sài Gòn và hoan hô MTDTGPMN. Đến đây người chủ trì buổi chiêu
đãi cho gọi bốn viên cảnh sát vào, cứ hai viên cảnh sát “kẹp” một chàng thanh
niên, đưa ra khỏi phòng ăn một cách khá êm. Vào lúc đó, trong đầu tôi xuất hiện
một suy nghĩ mà trước đây còn lờ mờ: rõ ràng chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã bị đánh
bại trên mặt trận ngoại giao nhân dân.
Tại CHLB Đức, đoàn đã
được đưa đi xem “bức tường Berlin”. Đứng trên một vọng gác sát tường bên phía
Tây, tôi nhìn qua Đông Đức. Đó là một thế giới xa lạ và đầy “bí hiểm” đối với
tôi. Sự hiểu biết của tôi về “chế độ cộng sản” nói chung và về Đông Âu nói
riêng, lúc đó còn lờ mờ lắm.
Nên lúc đó nhìn qua bên
kia “bức tường Berlin”, tôi cảm thấy điều gì đó không yên ổn. Những con chó
berger có mặt dọc theo chân tường phía bên Đông Đức càng làm sự cảm nhận nặng
nề hơn. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980 tôi có dịp sang thăm Liên Xô
trong đoàn trí thức miền Nam (cùng các anh chị: Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng,
giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, tiến sĩ Trần Xuân Danh, nữ nghệ
sĩ Phùng Há, tiến sĩ Tôn Nữ Thị Ninh, nhà báo Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn
Hữu Ba v.v…). Ước ao của tôi lúc đó là được đến CHDC Đức, được viếng “bức tường
Berlin” từ phía Đông, để đối chiếu cái nhìn từ hai phía. Nhưng tôi không có cơ
hội đạt được mong muốn đó trước khi bức tường bị triệt hạ. Tuy nhiên chuyến đi
Liên Xô năm 1980 đã để lại trong ký ức tôi những ấn tượng đẹp về một đất nước
xã hội chủ nghĩa (dù nhiều mặt chưa hoàn chỉnh và yếu kém). Tôi có cảm tình với
Liên Xô của năm 1980 mà tôi có dịp đến và thăm viếng nhiều nơi. Từ Moscow, tôi
đoán được phần nào phía bên này “bức tường Berlin”. Sau khi “bức tường Berlin”
được hạ xuống, hai nước Đức thành một, khi những thực tế đối chiếu hai chế độ xã
hội trở thành trực diện thì người ta mới nhận ra rằng ở chế độ cộng sản ngày
trước cũng có thật nhiều điều tốt đẹp để cho người dân Đông Đức cũ thật sự
nhung nhớ, luyến tiếc. Các tờ báo thuộc cánh hữu ở châu Âu cũng nhìn nhận thực
tế này bên cạnh những gì mà họ chỉ trích, tấn công.
Khi đoàn trí thức nhân
sĩ miền Nam rời châu Âu tiếp tục chuyến đi sang Mỹ, lúc ấy cận Tết nên tôi
không theo đoàn. Từ nước Anh, tôi về thẳng Sài Gòn. Không đến Mỹ trong dịp này,
tôi không có dịp nào khác đến nước Mỹ. Sau năm 1975, hai lần tôi xin nhập cảnh
vào Mỹ để thăm mẹ của tôi đã 82 tuổi nhưng đều bị Tổng lãnh sự Mỹ tại TP. HCM
từ chối.
Các thành viên của đoàn
trở về Sài Gòn đều lần lượt tham gia chính phủ Thiệu hoặc đứng vào tập hợp đảng
phái của Thiệu. Chỉ có hai người vẫn đứng ngoài chính quyền là bà nghị sĩ
Nguyễn Phước Đại và tôi. Trong buổi chiêu đãi đoàn tại Dinh Gia Long (nay là
Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh đường Lý Tự Trọng) sau chuyến đi, tôi có nghe tổng
thống Thiệu chính thức mời bà Đại tham gia chính phủ nhưng bà Đại khéo léo từ
chối. Riêng với tôi, qua trung gian là giáo sư Nguyễn Xuân Oánh đến gặp tôi tại
tòa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc ông Thiệu mời tôi tham gia đảng
do ông sắp sửa thành lập và đứng đầu. Tôi nói với ông Oánh cảm ơn lời mời này
nhưng sự chọn lựa chính trị của tôi vẫn là đứng ngoài chính quyền, tiếp tục
hoạt động đối lập với chính phủ. Ngày 25-5-1969, Nguyễn Văn Thiệu cho ra mắt
mặt trận 6 đảng do ông đứng đầu, trong đó có Đại Việt Cách Mạng, Lực lượng Đại
Đoàn Kết (Công giáo di cư), Dân Xã (Hòa Hảo), Việt Quốc… Trái với mong mỏi của
ông Thiệu, mặt trận không được dư luận ủng hộ và bị báo chí nước ngoài tại Việt
Nam gọi là “liên minh sáu quả trứng ung”!
Trong thời gian này,
ông Hoàng Đức Nhã, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân vận chiêu hồi là cánh tay mặt của
ông Thiệu, cũng tiếp cận tôi qua sự móc nối của Phạm Ngọc Kha, đã từng quen
biết tôi khi còn học chung ở Lycée Yersin Dalat (Kha từng là đổng lý văn phòng
Bộ Phát triển sắc tộc). Bản thân ông Nhã cũng là một cựu học sinh trường
Yersin. Nhã mời hai vợ chồng tôi cuối tuần đến Suối Tre, địa điểm giải trí của
Plantation SIPH trên đường đến Xuân Lộc, ăn trưa, đánh quần vợt và bơi lội.
Cùng tham gia có một số tổng trưởng thuộc cánh của Nhã. Có lẽ Nhã thăm dò để
lôi kéo tôi đứng về phía Nhã và chính phủ Thiệu. Hai vợ chồng tôi tham dự những
Weekend như thế khoảng ba, bốn lần thì không đi nữa. Lý do: giữa tôi và Hoàng
Đức Nhã không thể liên kết với nhau. Bởi cho dù có những buổi đi chơi chung
cuối tuần, tôi vẫn liên tục viết báo và lên diễn đàn Hạ nghị viện tấn công
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Hoàng Đức Nhã có liên
hệ gia đình rất gần với ông Thiệu (hình như là anh em cô cậu) đã từng học tại
Mỹ nên có phong cách làm việc và suy nghĩ rất Mỹ. Khi Nhã về nước và được Thiệu
sử dụng, Nhã đã gặp sự phản ứng bất lợi từ giới trí thức và công chức thuộc thế
hệ cũ. Nhã đã không mang lại cho ông Thiệu thêm một sự ủng hộ nào, trong guồng
máy chính quyền cũng như ngoài quần chúng. Nhã đưa vào chính phủ một loạt bộ
trưởng trẻ được đào tạo tại Mỹ như ông ta. Thiệu hi vọng với Nhã ông sẽ “nắm”
các chính khách Mỹ và chính trường Mỹ sâu sát hơn. Nhã đã từng cáo giác với ông
Thiệu: “Người Mỹ là những người có đầu óc kinh doanh (businessmen) họ sẽ bán
đứng tổng thống nếu tổng thống không còn mang lợi cho họ”. Trong quyển No
peace, no Honor, Larry Berman đã kể lại một đoạn đối thoại giữa Kissinger
và thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu về Hoàng Đức Nhã ngày 4-8-1973 tại sân bay
Kennedy ở New York như sau:
Kissinger nói với Lý
Quang Diệu “Nhã ghét tôi lắm”, rồi hỏi ông Lý Quang Diệu “Cảm tưởng của ông thế
nào về Nhã?”. Lý Quang Diệu trả lời “Hắn sáng sủa và tham vọng. Đầy tự tin, hắn
tự cho rằng những điều hắn nói đều có trọng lượng đối với Thiệu”. Kissinger kết
luận “Điều đó đúng. Nhưng hắn vẫn còn non nớt (immature)”.
Các cuộc tiếp xúc với
Hoàng Đức Nhã không để lại ở tôi một ấn tượng đặc biệt nào. Hoàng Đức Nhã có
thể là một người có nhiều năng lực nhưng không phải là một chính khách có sức
thuyết phục.
CHƯƠNG 12: TỪ TIẾNG NÓI DÂN TỘC ĐẾN ĐIỆN TÍN
Cho đến khi ra tờ Tiếng
Nói Dân Tộc, tôi làm tất cả 5 tờ báo: Đuốc Thiêng, Buổi Sáng, Thanh
Việt, Bình Minh, Sài Gòn Tân Văn. Tờ Sài Gòn Tân Văn do
tôi làm chủ nhiệm bị chính phủ Phan Huy Quát đóng cửa. Tờ Tiếng Nói Dân Tộc là
tờ thứ hai tôi trực tiếp làm chủ, ra ngày 17-12-1968 đến trước Tết năm 1970 thì
bị chính quyền Thiệu đóng cửa. Lý do đóng cửa chính thức như đã nói: tờ báo
chống lại vụ án “Châu–Hồ- Trúc”.
Tôi xin nói thêm về ba
người này. Ông Trần Ngọc Châu từng làm trung tá tỉnh trưởng ở Bến Tre có người
anh là Trần Ngọc Hiền đại tá tình báo Việt cộng. Qua sự tiếp tay của CIA, Thiệu
tìm ra bằng chứng Trần Ngọc Châu có liên lạc với người anh của mình (thời đó
tội liên lạc với cộng sản là tội nặng nhất). Nhưng nhiều người cho rằng đó
không phải là lý do chính. Châu có quan hệ sâu với nhiều nhân vật Mỹ có thế lực
tại Việt Nam và cả tại Mỹ. Theo nhà báo Zalin Grant, người đã từng có mặt tại
miền Nam từ 1964 đến 1973 và sau đó đã gặp và trao đổi với Trần Ngọc Châu nhiều
lần tại Mỹ (sau 1975) thì ông Châu là người đã từng làm việc chặt chẽ với CIA.
Một trong những người rất thân với ông Châu là Edward G. Lansdale, nhà hoạt
động tình báo nổi tiếng nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Lansdale từng
là cố vấn của tổng thống Ngô Đình Diệm, năm 1966 trở lại Việt Nam làm trợ lý
đặc biệt cho đại sứ Henry Cabot Lodge và sau đó cho đại sứ Elslworth Bunker.
Grant nói rõ điều này trong quyển sách của ông có tên “Facing the
Phonenix” (xuất bản năm 1991). Theo Grant, Trần Ngọc Châu còn là người
ảnh hưởng chính đối với John Paul Vann trong đường lối bình định. Vam là một
loại quan theo kiểu thực dân Pháp, tự gán cho mình “sứ mạng khai hóa” (mission
civilisatrice). Đến Việt Nam từ thập niên 60, Vann đã có mặt tại Ấp Bắc sau khi
Mỹ thất bại thảm hại trong trận đánh bằng máy bay trực thăng.
Vào thời điểm Châu bị
bắt, năm 1970, đại sứ Bunker và CIA tại Sài Gòn tin rằng Thiệu có thể chiến
thắng cộng sản và chương trình bình định của chính quyền Thiệu (chiến dịch
Phượng Hoàng) là một thành công. Nhưng Châu và “một số người bạn Mỹ” của ông
thì chỉ ra chiến lược mà Thiệu va những người Mỹ ủng hộ Thiệu áp dụng trong
cuộc chiến giành dân ở nông thôn là một sai lầm. Đó cũng là một trong những lý
do tòa đại sứ Mỹ và CIA đã bật đèn xanh cho Thiệu loại Châu.
Theo Grant, chính Ted
Shackley thuộc văn phòng CIA tại Sài Gòn đã theo dõi Châu một thời gian dài và
thu thập tài liệu về mối quan hệ giữa Châu và anh mình là Trần Ngọc Hiền để
cung cấp cho chính quyền Thiệu có lý do bắt và kết án Châu. Ted Sackley không thuộc
cánh của Lansdale, ngược lại còn ác cảm với Lansdale. CIA đã từng dùng Trần
Ngọc Châu nhưng khi thấy Châu trở thành một trở ngại cho đường lối của họ ủng
hộ chế độ Thiệu thì họ không ngần ngại chối bỏ mối quan hệ này và hy sinh Châu!
Trong khi đó Edward G. Lansdale và John Paul Vann vẫn nhất quyết cho rằng dân
biểu Châu là “người yêu nước quốc gia” có đầu óc chống cộng mặc dù có quan hệ
với anh mình là sĩ quan tình báo Việt cộng.
Tôi không thân lắm với
ông Châu khi còn là đồng viện. Trong thời gian ở Quốc hội, tôi thường tránh
những quan hệ mà tôi thấy phức tạp. Nhưng với tư cách đồng viện, tôi phản đối
quyết liệt việc chính quyền Thiệu bắt Châu, vi phạm quy chế bất khả xâm phạm
của đại diện dân cử. Cũng theo nhà báo Zalin Grant, khi biết được chính quyền
Thiệu có ý định sẽ bắt Châu, “những người bạn Mỹ” của Châu trong đó có John
Paul Vann, tìm cách giấu Châu tại Cần Thơ trong một khu nhà dành riêng cho
người Mỹ chỉ cách trụ sở CIA Cần Thơ vài bước. John Paul Vann có ý định đưa
Châu ra khỏi Việt Nam qua đường Campuchia. Nhưng dân biểu Châu từ chối, cho
rằng trốn đi là tự xóa sinh mệnh chính trị của mình. Khi cảnh sát rằn ri và
cảnh sát chìm ùa vào bắt Châu (26-2-1970), một số dân biểu đối lập cố gắng ngăn
chặn, đặc biệt là Kiều Mộng Thu chiến đấu đúng nghĩa để bảo vệ ông Châu tới
cùng. Lúc đó trên ngực Trần Ngọc Châu có đeo Bảo quốc huân chương – huân chương
cao quí nhất của chế độ Sài Gòn – và hai tay cầm cái huy hiệu Quốc hội to bằng
gỗ lấy ra từ bục diễn đàn Hạ nghị viện để che chắn cho mình. Nhưng cảnh sát của
Thiệu vẫn lôi xềnh xệch Châu từ phòng họp ra tận cửa lớn và kéo anh như một con
vật xuống các bậc thang trước Hạ nghị viện rồi ném lên xe chở đi. Dù phía sau
vang lên những lời la hét, chửi bới chế độ dữ dội của dân biểu Kiều Mộng Thu.
Dân biểu thứ hai bị tòa
án quân sự của Thiệu kết tội liên lạc với cộng sản là ông Hoàng Hồ, một nhà
báo, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ “Trinh Thám”. Thể loại báo của ông Hoàng
Hồ lúc đó khá độc đáo, chủ yếu khai thác chuyện các vụ án trong nước và thế
giới, có những bài nghiên cứu khá sâu về tội phạm học là ngành chuyên môn mà
ông đã theo đuổi khi ông du học ở Pháp. Tôi không rõ tại sao ông bị kết án và
làm thế nào ông biến mất khỏi Sài Gòn trước khi chính quyền Thiệu ra tay.
Người thứ ba là Phạm
Thế Trúc, cũng là một dân biểu, được giáo hội Phật giáo cử sang Tokyo để nhận
tiền và quà của người Nhật gửi tặng cho nạn nhân bão lụt miền Trung. Nhưng tại
Nhật, Trúc tham gia các cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn và đã tự tay
đốt một hình nộm của Thiệu. Dĩ nhiên ông Thiệu không hề tha thứ hành động này.
Nếu Phạm Thế Trúc trở lại Sài Gòn, anh sẽ bị bắt ngay. Trong ba người bị chính
quyền Thiệu kết án, tôi thân Trúc nhất vì tôi và Trúc cùng học một trường –
Lycée Yersin Đà Lạt – và có một năm học chung một lớp (lớp 4ème).
Trong lớp- đa số là Tây con – chỉ có hai chúng tôi biết mê các bài thơ của
Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, TTKH, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử… Mỗi đứa có một tập
thơ chép tay, từng câu từng chữ được viết một cách nắn nót. Sau chuyện xảy ra ở
Tokyo, tôi không có dịp gặp lại anh. Trúc sống luôn tại Pháp.
Lý do chính thức đóng
cửa tờ Tiếng nói Dân tộc là vì tôi đã viết bài phản đối vụ án
Châu–Hồ-Trúc. Nhưng nguyên nhân tiềm ẩn là từ khi tờ báo xuất bản, đường lối
của TNDT ngày càng đi ngược lại đường lối của chính phủ Thiệu,
nhất là các vấn đề liên quan đến chiến tranh và hòa bình. Chính phủ Thiệu dồn
tất cả nỗ lực của mình, lúc đầu để ngăn cản Washington không ngừng ném bom miền
Bắc. Khi thất bại thì tìm cách ngăn trở và trì hoãn cuộc hòa đàm tại Paris. Ông
Thiệu cũng phủ nhận sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và sự
thành lập của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Trong
khi đó Báo TNDT thúc đẩy quá trình chấm dứt chiến tranh, thương lượng hòa bình
và đề cao tinh thần hào giải hòa hợp dân tộc. Một bộ phận người dân miền Nam,
vào thời điểm 1968-1969, không ràng buộc quyền lợi và địa vị với chính quyền
Thiệu có khuynh hướng chung là chờ đợi sự rút quân của Mỹ và một cuộc hòa đàm
vời miền Bắc để kết thúc chiến tranh.
Những người như tôi
thuộc loại được ưu đãi ở xã hội miền Nam bấy giờ vậy cớ gì chống chế độ, đòi
hỏi một kết thúc chiến tranh mà không đoán được nó sẽ ra sao đối với số phận
chính trị của mình? Sẵn sàng đánh đổi cái lợi lộc trước mắt rất đảm bảo cho
mình để đấu tranh cho một tương lai gần như là một ẩn số hoàn toàn đối với
mình, tại sao? Tôi vẫn nhớ cái tâm trạng của mình lúc đó: tôi không tưởng tượng
được chỗ đứng chính trị của mình ở đâu khác hơn là vị trí đối lập với chính
quyền. Cuộc sống với tôi sẽ mất đi tất cả ý nghĩa nếu không bày tỏ thái độ đối
với cuộc chiến, thái độ trước thực trạng đất nước chia đôi mà theo tôi là nỗi
bất hạnh lớn nhất của thế hệ mình. Tôi say sưa đấu tranh cho các mục tiêu ấy.
Tôi cảm nhận những ưu đãi mà mình đang được hưởng là phù du và trước tình cảnh
đất nước đang bị giằng xé đó, mình không thể an lòng thụ hưởng những ưu đãi ấy.
Những tấn công của các
đồng nghiệp trong làng báo Sài Gòn như Chu Tử (báo Sống), linh mục
Nguyễn Quang Lãm (Xây Dựng) hay Đặng Văn Sung (Chính Luận) cho
rằng tôi “ngây thơ chính trị” cũng chẳng làm tôi lung lay.
Những người có suy nghĩ
như tôi lúc ấy khá đông, trong giới trí thức, kể cả trong quân đội, trong hàng
ngũ công chức và trong dân thường. Suy nghĩ và lập luận của họ rất đơn giản dù
chưa biết người cộng sản ra sao nhưng có một điều chắc chắn họ là người Việt
Nam. Nếu chiến tranh kết thúc thì cái lớn nhất đạt được là chấm dứt máu đổ. Vấn
đề ưu thế chính trị thuộc về ai trở thành thứ yếu. Một trong những nguyên nhân
thất bại của chế độ Thiệu trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt
với người cộng sản và đồng thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu khi
quyết định rút chân khỏi Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó không có hậu
thuẫn dân chúng và các lực lượng chính trị có uy tín.
Lật lại hồ sơ chiến
tranh Việt Nam của FBI và CIA (mà thời gian bảo mật không còn) người ta nhận ra
rằng cuộc đối đầu chế độ Thiệu với đường lối Washington – muốn rút chân khỏi
Việt Nam – đơn độc làm sao! Gần như chỉ có ông Thiệu và Hoàng Đức Nhã chiến
đấu. Chính phủ Thiệu không dấy lên được một phong trào quần chúng đúng nghĩa
làm hậu thuẫn cho quan điểm chính trị của mình. Tại Mỹ ông Thiệu chỉ có “đầu
cầu” rất trơ trọi là đại sứ Bùi Diễm tiếp tay. Phó tổng thống Kỳ cũng đứng về
phía hai anh em ông Thiệu, chống lại đường lối hòa đàm của Washington, nhưng
không có sự phối hợp thật sự giữa hai ông Thiệu và Kỳ. Mâu thuẫn quyền lực giữa
Thiệu và Kỳ vẫn quá nặng nề.
Do đó cái cảnh lạc lõng
của phái đoàn VNCH tại Paris càng thảm hại. Trên tờ Tiếng Nói Dân Tộc ngày
5-01-1969 tôi có ghi lại lời thuật của luật sư Vương Văn Bắc, một thành viên
của đoàn, về tình hình của đoàn tại Paris như sau:
“… Paris rất lạnh, như
chưa bao giờ lạnh như thế vào dịp Giáng Sinh, lạnh nhất kể từ năm 1873 đến nay.
Tuyết rơi trắng trên thân xe và trên mặt đất rừng Boulogne. Anh Nguyễn Xuân
Phong, anh Nguyễn Ngọc Huy và tôi thường đi bộ trong rừng để bàn những vấn đề
đất nước, một lúc cả giày lẫn tất đều ướt thẫm. Trở về phòng riêng không thể
được vì lẽ đơn giản là không có phòng riêng. Mấy người ở chung nhau một phòng
lớn. Những lúc đêm khuya, tôi tiếp tục đọc sách vì không ngủ được. Giáo sư Huy
phải dùng khăn lông lớn che mắt ngủ. Buổi sáng chúng tôi xếp hàng để sử dụng
phòng tắm độc nhất. Phải nói chúng tôi hoạt động trong một môi trường ghẻ lạnh,
đối đầu những kẻ thù hăm hở và bên cạnh những người bạn ngập ngừng.
“Hôm đầu tiên, anh Huy
và tôi xuống phố mua áo len, mũ khăn về để chống cái lạnh của Paris. Về tới
nhà, vừa mới mở cửa xe bước xuống, hai tay lễ mễ bưng gói đồ thì mấy ông phóng
viên đã xuất hiện, chụp hình và quay phim lia lịa. Kinh nghiệm “thập mục sở
thị” ấy làm cho chúng tôi không muốn đi đến đâu.
“Tôi thấy rạp chiếu
bóng chiếu mấy phim có tiếng như La Chamade của Francoise Sagan hay La
Prionniere của Clouzot cũng muốn đi coi nhưng rồi lại thôi vì người ta cho là
du hí. May chúng tôi có vài cuộn băng nhạc Việt Nam và báo chí ở bên nhà gửi
sang. Chị Vui (tức Nguyễn Thị Vui) nóng lòng muốn biết dư luận ở bên nhà ra sao
đối với cuộc hòa đàm. Ngoài ra dĩ nhiên chị cũng nóng lòng muốn biết số phận
của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ra sao”.
Nhớ lại mấy chục năm,
đọc đoạn này, tôi thấy lòng mình chua xót thế nào ấy. Họ đơn độc và chẳng có
chút khí thế gì khi “ra trận”. Họ đến Paris nhưng đã thấy trước sự thất bại,
bởi họ phải bảo vệ cho một chế độ không thể bảo vệ nữa. Tôi nhớ như in những
gương mặt xưa: một Vương Văn Bắc lúc nào cũng mặc bộ đồ vét với cà vạt chỉnh
tề, ngay cả khi đi dạy ở Học viện Quốc gia Hành chính. Thời tôi còn là sinh
viên HVQGHC, chỉ có giờ của giáo sư Bắc là tôi không cúp cua. Ông chuẩn bị bài
giảng nghiêm túc, nói trực tiếp chứ không cầm tài liệu đọc lê thê như các giáo
sư khác. Bỏ qua vấn đề khác biệt chính kiến – ông là người miền Bắc di cư, lập
trường chống cộng – thì theo tôi, ông là một trí thức có tư cách. Chị Nguyễn
Thị Vui, luật sư, là một trường hợp khá phức tạp. Chị đã từng gần gũi với những
người cộng sản trong thời chống thực dân Pháp nhưng rồi tách dần ra nhưng vẫn
chưa thật sự tìm ra một bến bờ mới cho cuộc sống tinh thần của mình. Chị vẫn
bơi giữa dòng. Trong giới trí thức ở miền Nam bấy giờ chị được đánh giá là một
nhân vật trong sáng, có nhiều thiện chí với đại cuộc. Nghe đâu cả hai vợ chồng
chị đều từng đứng trong hàng ngũ phong trào thanh niên Việt Nam cộng sản ở Châu
Âu những năm 50 khi đi du học ở Pháp. Chồng chị là kỹ sư Lâm Văn Sĩ. Có lúc chị
tự nhận mình là một “người Việt đứng giữa”. Chị tiết lộ riêng với tôi về sự
thân thiết với một vài nhân dân trong MTDTGPMN. Có người đã đến tiếp xúc với
chị ngay tại văn phòng luật sư của chị ở đường Nguyễn Du trước 1975. Khi chế độ
Sài Gòn sụp đổ, chồng chị, anh Lâm Văn Sĩ, có đến sinh hoạt ở Hội trí thức yêu
nước ở đường Nguyễn Thông, nhưng chị thì ở nhà, hạn chế các cuộc tiếp xúc, nhất
là tránh gặp những người quen từ trong rừng trở về.
Khi ông Thiệu giao cho Nguyễn
Cao Kỳ thành lập phái đoàn đại diện VNCH tại Hội nghị Paris, ông Kỳ đã thuyết
phục được luật sư Vui tham gia. Có lẽ chị nghĩ đây cũng là một cách đóng góp
cho viêc chấm dứt chiến tranh. Nhưng ông Kỳ thì có ý đồ là dùng chị Vui để “đối
xứng” và đối đầu với một nhân vật nữ ở trong phái đoàn chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam là bà Nguyễn Thị Bình. Không hiểu từ đâu, lúc đó lại có
dư luận cho rằng bà Vui và bà Bình là bạn cũ với nhau. Kỷ niệm 30 năm ký Hiệp
định Paris (năm 2003) tôi có dịp gặp bà Bình trong một buổi tiệc do Ủy ban Việt
kiều tại TP. HCM tổ chức tại nhà khách số 1 đường Lý Thái Tổ. Tôi tò mò hỏi bà
Bình chuyện xưa, thì được bà xác nhận là không quen biết bà Nguyễn Thị Vui và
bà nói thêm: “Ở Sài Gòn trước đây có người lẫn lộn tôi với một người khác cũng
tên Nguyễn Thị Bình nhưng là con gái của nhà báo cách mạng Nguyễn An Ninh”.
…Tháng 3-1969, tổng
thống Nixon gửi Bộ trưởng quốc phòng Mervin Laird sang Sài Gòn gặp ông Thiệu,
cùng đi có tướng Wheeler, mang theo một thông điệp: nhân dân Mỹ muốn chính
quyền mới (tức Nixon) đưa cuộc chiến đi đến một kết thúc mĩ mãn và “kết thúc mỹ
mãn” ấy đối với đa số người Mỹ có nghĩa là đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến. Trở
về Mỹ, Laird gặp Nixon và bàn về kế hoạch “Termination Day” (Ngày kết thúc), một
chương trình chi tiết rút quân Mỹ và đồng thời chuyển giao thiết bị cho chính
quyền Sài Gòn. Kế hoạch của Nixon là “de- Americanize the war” (phi Mỹ hóa cuộc
chiến) nhưng khi được đưa ra công khai nó lại trở thành “Vietnamisation” (Việt
Nam hóa chiến tranh), mà theo Nixon có nghĩa xây dựng cho quân đội VNCH đủ mạnh
để chủ động được chiến trường để quân đội Mỹ rút dần. Theo tác giả Larry Berman
trong cuốn No Peace, No Honor, Thiệu lúc đầu tin rằng Nixon sẽ giúp
VNCH đứng vững trong 8 năm, thời gian đủ để chế độ Thiệu củng cố và vững mạnh.
Ngày 9-7-1969 đơn vị
quân đội Mỹ đầu tiên trở về nhà, tại căn cứ không quân McChord, gần Tacoma-
Washington. Tướng William Westmoreland có mặt đón họ. Theo tôi dù 30-4-1975 mới
là ngày chính thức Mỹ cuốn cờ chạy khỏi Việt Nam nhưng chính cái ngày 9-7-1969
Mỹ đã bắt đầu “tháo chạy” và cũng đã quyết định số phận của chế độ Sài Gòn rồi…
Tờ Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa; dân biểu Trần Ngọc Châu bị
bắt bất kể ông được hưởng quyền bất khả xâm phạm của Quốc hội, chủ nhiệm tờ báo
tiếng anh Saigon Daily News, ông Nguyễn Lâu, cũng bị bắt trong lúc
này cùng một lý do (ngoài ra còn có 26 trí thức khác). Đó là thời kỳ Thiệu siết
lại đời sống chính trị ở miền Nam để củng cố quyền lực của mình. Dĩ nhiên phong
trào sinh viên không thể không bị đàn áp. Tôi có dự buổi họp báo của ban chấp
hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn (khóa 1967 -1968) bị cảnh sát Thiệu tấn công
tại số 4 Duy Tân (hiện nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên) do Nguyễn Đăng Trừng
(hiện là trưởng đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh) làm chủ tịch. Chính quyền Thiệu
không công nhận Ban chấp hành này. Buổi họp báo này nhằm phản đối chính quyền
Thiệu bắt sinh viên Nguyễn Trường Cổn. Nhưng cuộc họp báo vừa bắt đầu thì cảnh
sát tấn công bằng lựu đạn tay và ập vào. Trừng nhanh chân chạy thoát. Sau cuộc
tổng công kích đợt 2, Trừng rời Sài Gòn ra vùng giải phóng đi theo Liên minh
Dân tộc Dân chủ Hòa bình của luật sư Trịnh Đình Thảo. Sinh viên Nguyễn Trường
Cổn bị tòa án quân sự Sài Gòn kết án 5 năm tù về tội phản nghịch. Tòa án quân
sự cũng tuyên án tử hình khiếm diện Nguyễn Đăng Trừng khi biết được anh đã vào
rừng theo Việt cộng. Vào thời điểm này một số đông trí thức và sinh viên cũng
có chọn lựa như Trừng.
Để nắm chặt hơn nữa
tình hình chính trị và quân sự trong lúc quân Mỹ rút, ông Thiệu lèo lái Hạ nghị
viện bỏ phiếu bất tín nhiệm thủ tướng Trần Văn Hương để bổ nhiệm người bạn thân
và đáng tin cậy nhất của mình là tướng Trần Thiện Khiêm vào chức thủ tướng
(23-8-1969). Cũng từ lúc này, các dân biểu đối lập như tôi không còn được cấp
hộ chiếu xuất ngoại. Bởi Thiệu biết rất rõ các dân biểu đối lập thường lợi dụng
các chuyến ra nước ngoài để hoạt động chống chính phủ.
Nhật báo Tiếng
Nói Dân Tộc bị đóng cửa, tôi hợp tác với nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm tờĐiện
Tín. Hợp đồng giữa anh Đông và tôi khai thác Điện Tín được
ký ngày 1-4-1971. Anh Đông là chủ nhiệm, tôi làm chủ bút và là người bỏ tiền ra
khai thác tờ báo. Nói bỏ tiền ra nhưng thực tế tiền đầu tư chẳng là bao. Do làm
báo lâu năm được sự tin cậy trong làng báo, tiền ban đầu chúng tôi phải bỏ ra
rất ít, không như các nhà tài phiệt làm báo. Anh Hồng Sơn Đông là một cựu đại
tá quân đội, đắc cử nghị sĩ trong liên danh của tướng Trần Văn Đôn. Tuy nhiên
ông Hồng Sơn Đông còn là một người thân thuộc và trung thành của tướng Dương
Văn Minh.
Làm tờ Điện Tín,
tôi mời anh Trương Lộc đảm trách vai trò tổng thư ký tòa soạn. Khi chúng tôi
cùng học ở Đại học Khoa học, năm PCB (Physique – Chimie - Biologie) thì tôi đã
bắt đầu viết báo thể thao. Tôi không mê ngành khoa học, (sau chuyển sang học
Hành chính) ít khi vào trường, chủ yếu dành thời gian đi viết báo, còn Lộc tiếp
tục học cho đến khi đậu bằng cử nhân khoa học. Vài năm sau, tôi rất bất ngờ khi
gặp lại Lộc cộng tác với một hãng thông tấn của Nhật. Anh Lộc đi cùng họ đến
phỏng vấn tôi. Rồi chỉ một hai năm sau, anh lại gia nhập làng báo Sài Gòn.
Trước năm 1975, anh Lộc
là một trong những nhà báo hiếm hoi sớm quan tâm tới một hình thức trình bày
hiện đại cho tờ báo – từ cách đặt tít cho đến cách giới thiệu từng trang báo,
bài báo. Sau 1975, anh tiếp tục làm báo với tôi ở tờ Tin Sáng, tiếp
đó anh phụ trách bộ phận quốc tế cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau
này anh lại chuyển sang lĩnh vực kinh doanh về quảng cáo và tiếp thị (Công ty
VMC).
Tờ Điện Tín có
nhiều mục rất được độc giả ưa chuộng và gây tiếng vang. Chẳng hạn mục “Ký sự
nhân vật” do anh Trần Trọng Thức viết, mục “Văn tế sống” theo thể loại thơ châm
biếm của anh Cung Văn tức Nguyễn Vạn Hồng. Mỗi ngày Điện Tín còn
có một tranh châm biếm của họa sĩ Ớt tức nhà báo Huỳnh Bá Thành. Người giới
thiệu anh Huỳnh Bá Thành với tôi là anh Trần Trọng Thức. Trong buổi gặp đầu
tiên tại tòa soạn ở đường Võ Tánh (bây giờ là Nguyễn Trãi), tôi hỏi anh Thành
có thể làm được gì trong tờ báo. Anh cho biết trước đây anh có sửa bản in,
ngoài ra anh cũng có thể vẽ tranh. Thế là tôi gợi ý cho anh Thành vài đề tài để
anh về vẽ thử. Hôm sau anh mang tranh đến, rất đạt. Lúc bấy giờ anh Thành chưa
chọn bút danh cho mình. Tôi và anh Lộc cùng tìm một bút danh để anh Thành ký
trên tranh. Và bút danh Ớt ra đời. Lúc đầu bên dưới tên Ớt, anh Thành còn vẽ một
trái ớt trông rất vui!
Thời kỳ này, tranh của
Ớt nhắm chủ yếu vào hai mục tiêu: tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon, với
cách vẽ đơn giản, chỉ cần vài nét nhưng Ớt đủ làm cho độc giả nhìn ra Thiệu và
Nixon. Tôi nhớ mãi bức tranh Ớt vẽ Nixon nằm trong cái quan tài không đậy nắp,
thò tay ra ngoài kéo Thiệu cùng vào. Đó là thời điểm tổng thống Nixon phải từ
chức vì vụ xì- căn- đan Watergate. Ý của Ớt: Nixon ra đi sẽ kéo theo Thiệu. Vụ
thảm sát ở Sơn Mỹ cũng bị Ớt lên án trên tranh của mình: tên trung úy đồ tể
William Calley được Ớt cho mặc một bộ sĩ quan đại lễ với từng cái cúc áo là sọ
người! Khi tôi không còn làm tờ Điện Tín nữa, chuyển sang các
anh Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận phụ trách, họa sĩ Ớt và các anh Trương Lộc,
Minh Đỗ, Cung Văn… vẫn tiếp tục cộng tác với tờ Điện Tín bộ
mới.
Ở bất cứ tờ báo nào tôi
làm tòa soạn, bao giờ tôi cũng dành cho tranh biếm họa một vị trí quan trọng
nơi trang nhất. Với tờ Sài Gòn Tân Văn (tôi làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút năm 1964), cây vẽ tranh liên hoàn trên mỗi số báo là Cát Hữu với nhân
vật Tám Sạc Ne. Đến tờTiếng Nói Dân Tộc, tranh liên hoàn được giao
cho họa sĩ Diệp Đình với nhân vật có tên Tư Cầu Kho. Các tranh của Ớt cũng luôn
chiếm vị trí quan trọng trên trang nhất tờ Điện Tín. Sau năm 1975,
phụ trách tòa soạn báo Tin Sáng, tôi rất thích thú các tác phẩm
biếm được vẽ rất kĩ lưỡng của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi. Cố họa sĩ Chóe đạt đỉnh
cao của mình về thể loại biếm họa cũng là lúc anh cộng tác với báo Lao
Động: Tranh được đăng với kích thước to và ngay trên trang nhất, mỗi tranh
có sức nặng như một bài xã luận.
Trương Lộc, Trần Trọng
Thức, Nguyễn Vạn Hồng, Huỳnh Bá Thành lúc đó đều là những nhà báo trẻ, đại diện
cho một cách viết báo và làm báo mới mẻ và tiến bộ trong làng báo Sài Gòn.
Trước khi đến với
tờ Điện Tín, anh Trương Lộc đã làm thư ký tòa soạn cho các tờ Đất
Mớivà Tìm Hiểu- cả hai đã đánh dấu những bước cải tiến đầu
tiên về cách trình bày, đặt tít, viết tin trong làng báo Sài Gòn.
Các bài “Văn tế sống”
của Nguyễn Vạn Hồng với bút hiệu Cung Văn dữ dội và độc đáo, đả kích lần lượt
các nhân vật trụ cột của chế độ gần như không thiếu một ai. Anh tế sống họ. Lúc
đầu tôi không tin anh tài hoa như thế và có lần tôi nói nửa đùa nửa thật với
anh: “Có phải người ở “trỏng” viết sẵn và mang ra cho anh, rồi anh nộp bài cho
tòa soạn không?”. Nhà của anh Hồng lúc đó nằm trong làng báo chí bên kia cầu
Sài Gòn, coi như vùng ven đô. Tôi nói “ở trỏng” là ngầm ý nói trong vùng giải
phóng. Ngay thời điểm đó dù chưa biết Cung Văn có quan hệ với người cộng sản,
tôi vẫn cảm nhận khá rõ tình cảm của anh với “bên kia”.
Anh Trần Trọng Thức,
được đào tạo chính qui tại Việt Tấn Xã bởi các nhà báo nước ngoài (Philipines
và Mỹ) có một phong cách viết rất chặt chẽ và luôn giàu thông tin. Các bài “Ký
sự nhân vật” của anh ký tên Trần Văn Lê là những chân dung nhân vật tiêu cực
lẫn tích cực, được viết một cách sinh động và độc đáo – có thể coi là những tài
liệu phong phú giúp những ai muốn tìm hiểu về bộ mặt xã hội Sài Gòn những năm
đầu thập niên 70.
Nhân đề cập chuyên mục
“Ký sự nhân vật” của anh Trần Trọng Thức, không thể không nhắc: Chính từ chuyên
mục này mà nữ nghệ sĩ Kim Cương và anh Thức có dịp quen biết nhau và sau đó trở
thành vợ chồng. Nghệ sĩ Kim Cương là một trong những “nhân vật tích cực” được
nhà báo Trần Trọng Thức đưa lên mục “Ký sự nhân vật”. Bài báo đã chinh phục
“kiều nữ” Kim Cương lúc đó đang rất nổi tiếng về tài năng diễn kịch và cả về
hoạt động xã hội.
Anh Trần Trọng Thức là
nhà báo Việt Nam đã phát hiện và đưa lên mặt báo Điện Tín vụ
lính Mỹ thảm sát dân thường ở Sơn Mỹ, là sự tố cáo đầu tiên tội ác chiến tranh
này trên báo chí Sài Gòn. Sau đó một hãng tin Mỹ trích đăng lại, góp phần làm
nổ bùng thông tin về vụ tàn sát này tại Mỹ.
Sự việc này bắt đầu từ
một số nạn nhân chiến tranh chạy từ miền Trung vào Sài Gòn, sống chui rúc ở một
khu tồi tệ thuộc vùng Tân Định đã đến tòa soạn kêu cứu. Anh Thức đến tận nơi
điều tra và phát hiện vụ thảm sát tại Sơn Mỹ. Nhưng vì ngại Bộ thông tin tịch
thu khi báo ra, nên mẩu tin chỉ có khoảng 300 chữ. Sau đó khi vụ thảm sát đã
được đưa ra quốc hội Mỹ dưới sức ép của dư luận Việt Nam, quốc hội Sài Gòn mới
tiền hành điều tra, gửi một phái đoàn do nghị sĩ Trần Văn Đôn dẫn đầu đi Quảng
Ngãi. Với tư cách phóng viên Việt Tấn Xã, anh Thức tháp tùng phái đoàn này và
viết bài cho Điện Tín dưới một bút danh khác.
Khi tổng thống Mỹ Nixon
ân xá cho trung úy William Calley, báo Điện Tín đã phản ứng
quyết liệt bằng bài viết và bằng tranh biếm của họa sĩ Ớt. Truyền hình Mỹ (hình
như là CBS) có phỏng vấn tôi với tư cách là chủ bút báo Điện Tín về
phản ứng đối với quyết định ân xã Calley của Nixon. Lúc đó tiếng Anh của tôi
còn rất yếu, tôi phải nhờ anh Trương Lộc chuẩn bị sẵn cho tôi một số ý trước,
để thể hiện sự cực lực phản đối việc Nixon bao che tội ác!
Với Calley thật sự
không thể ân xá. Hắn nói: “Tôi coi cộng sản cũng như người Mỹ miền Nam nhìn một
tên mọi đen (negro). Cá nhân tôi, ngày hôm đó tôi không có giết một người Việt
Nam nào cả. Tôi nói rõ – cá nhân tôi. Tôi đại diện cho Hoa kỳ. Quê hương tôi”.
Hắn cho rằng giết cả trẻ em vì lớn lên chúng sẽ là VC như cha mẹ chúng. Theo
Calley, nếu hắn chỉ giết đàn bà, ông già, con nít – đều đó có nghĩa cha chúng
đã đi chiến đấu. Chúng đều là VC. Calley lập luận chuyện bắn giết của hắn không
có gì tồi tệ hơn so sánh với chuyện ném bom 500 pound từ một pháo đài bay B52.
Hay khi chính quyền Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki… Những lời
lẽ khủng khiếp này của Calley được in trong quyển “VietNam – A war lost
and won” của Nigel Cawthorne (nhà xuất bản Capella).
Về chuyện tàn sát dân
thường của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đạo diễn điện ảnh Mỹ Oliver
Stone (các phim Platoon và Born on the Forth of July)
có phát biểu như sau:
“Tôi rất phẫn nộ khi
nghe các cựu chiến binh nói: “Ồ! Đây là chiến tranh, có thể làm bất cứ điều gì
mình muốn. Mẹ kiếp! Bọn dân thường khốn nạn làm gì biết được điều đó”, lập luận
này không thể lọt vào tai tôi một giây nào. Tôi chán nghe bọn ngu xuẩn đó nói
rằng trong chiến tranh họ có thể tàn sát bất cứ ai. Dù rằng chiến tranh khơi
dậy những bản năng xấu xa nhất của con người, nhưng ở đó vẫn còn có chỗ của đạo
đức. Chúng ta (người Mỹ) đi đến sự thất bại không tránh khỏi vì cuộc chiến này
không có mục tiêu đạo đức và chúng ta chiến đấu mà không có một lý tưởng trong
sáng nào”.
Oliver Stone đến miền
Nam Việt Nam hai lần. Lần đầu năm 1965, lúc đó 19 tuổi làm giáo viên Anh văn
tại Chợ Lớn. Lần sau năm 1967 trong hàng ngũ quân đội Mỹ.
Nhắc những người cộng
tác với tờ Điện Tín mà quên nhà văn Thiếu Sơn là một thiếu sót
lớn.
Nhà văn Thiếu Sơn rất
lựa chọn báo để viết. Không phải báo nào mời ông cũng viết, dù đời sống vật
chất của ông không dư dả. Mặt khác, theo ông thà không viết, còn nếu đã viết
ông luôn đòi hỏi nhuận bút rất cao, nhất là với những tờ báo mà ông biết họ có
tiền. Nhưng khi viết cho báo Điện Tín có lập trường gần gũi
với ông, ông sẵn sàng nhận số tiền nhuận bút tượng trưng mà thôi. Ông nói với
tôi: “Báo ông bị tịch thu liên miên, đâu có tiền để trả nhuận bút cao”. Tôi nhớ
rất rõ hình ảnh quen thuộc của ông mỗi khi tạt ngang tòa soạn: bao giờ cũng
xách theo một cái túi đệm đơn sơ, trong đó có một cái khăn lau mặt, một cái
quần cụt, một áo thun ba lỗ và một cái bàn chải đánh răng. Ông giải thích với
tôi: “Bất cứ lúc nào bị bọn chúng lượm thì mình cũng sẵn sàng”. Tôi có một kỷ
niệm riêng với ông vừa hài vừa bi: một hôm ông đến gặp tôi và chờ khi không có
ai, ông nói nhỏ vào tai tôi một cách bí mật: “Tới nơi rồi ông Chung”. Ý ông
muốn nói: Quân giải phóng sắp vào đến thành phố rồi. Nhưng chỉ một ngày sau,
chưa thấy quân giải phóng đâu mà tôi lại nhận được tin ông bị cảnh sát chìm
Tổng Nha bắt. Rồi ông bị “cất” luôn cho đến ngày 30-4!
Trong cuộc đời làm báo
có hai lần tôi được hợp tác với hai ê kíp viết báo gồm những đồng nghiệp tài
giỏi, có thể gọi đó là những “Dream team”: Lần đầu với ê kíp Điện Tín (1970-1971),
lần thứ hai với ê kíp Lao Động (1991-1994).
Làm tờ Điện Tín sau khi
tờ Tiếng Nói Dân Tộc bị đóng cửa, trước hết tôi muốn duy trì
tiếng nói đối lập của mình. Một dân biểu đối lập mà không có tờ báo trong tay
thì như cua không có càng. Năm 1970 là năm bầu cử bán phần Thượng nghị viện và
năm chuẩn bị bầu cử lại Hạ nghị viện (1971). Do lời mời hợp tác của trung tướng
– nghị sĩ Trần Văn Đôn, chấm dứt nhiệm kỳ ba năm của ông và có ý định ra tranh
cử trở lại, bấy giớ tôi cũng có ý định ứng cử vào Thượng nghị viện. Theo thế
thức tổ chức Thượng nghị viện thì cứ ba năm, một nửa trong số 60 nghị sĩ phải
được bầu lại. Sự phân định ở đợt đầu 30 nghị sĩ ra đi và 30 nghị sĩ ở lại do
một cuộc rút thăm (có nghĩa sẽ có ba liên danh mới đắc cử). Sau khi bàn bạc
giữa tướng Đôn và tôi thỏa thuận đạt được như sau: liên danh mười người ra ứng
cử sẽ gồm hai thành phần, một do tướng Đôn đứng đầu với năm ứng cử viên là cựu
nghị sĩ (tướng Trần Văn Đôn, tướng Tôn Thất Đính, bà Nguyễn Phước Đại, tướng
Nguyễn Văn Chuân, ông Tôn Ái Liêng), và một gồm năm dân biểu đang tại chức (Lý
Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Thạch Phen). Tuy
liên danh có đến ba cựu tướng lãnh nhưng họ đều có quan điểm chống tổng thống
Thiệu. Đây là một liên danh đối lập, có nhiều khả năng sẽ thắng cử với số phiếu
cao.
Nhưng khi liên danh sắp
sửa đăng ký ứng cử thì phát hiện có vấn đề về điều kiện tuổi: tôi thiếu một
ngày! Luật bầu cử Thượng nghị viện qui định muốn ra ứng cử phải đủ 30 tuổi tròn
tính đến ngày bầu cử. Ngày bầu cử là 30-8-1970 nhưng tôi lại sinh ngày
1-9-1940. Như thế chưa “tròn” 30 tuổi tính từng ngày bởi tháng Tám có 31 ngày.
Lúc đầu có ý kiến phớt lờ chi tiết này nhưng tướng Trần Văn Đôn thận trọng đã
tham khảo ý kiến của thẩm phán Trần Văn Linh, chủ tịch Tối cao pháp viện, nơi
sẽ phân xử tính hợp hiến các đạo luật và cả sự vận dụng nếu có sự khiếu nại
hoặc tranh chấp. Dự đoán các đối thủ, nhất là phe chính quyền, chắc chắn sẽ
không bỏ qua cơ hội khai thác điểm sơ hở này để loại liên danh chúng tôi, nên
cuối cùng tôi phải rút tên. Có lúc tướng Đôn đề nghị đưa cha tôi (Lý Quí Phát)
có nhiều quen biết với cử tri người Việt gốc Hoa, thay tôi. Nhưng sau đó thấy
không ổn, liên danh dự kiến không thành. Bà Nguyễn Phước Đại vẫn muốn tiếp tục
ra tranh cử đã thành lập một liên danh khác không có năm dân biểu có mặt trong
danh sách trước nhưng rồi bà đã thất bại. Lúc đó tôi cũng tiếc vì thiếu chỉ một
ngày trong điều kiện tuổi nên mất cơ hội hoạt động ở Thượng nghị viện. Tiếc
không vì cái danh xưng nghị sĩ mà tiếc vì với cương vị nghị sĩ tiếng nói đối
lập ở Thượng nghị viện của mình sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.
Với tờ Điện Tín,
sự tách biệt về lập trường chính trị của tôi với chế độ Thiệu càng dứt khoát
hơn xuất phát từ diễn tiến của tình hình lẫn chuyển biến ở lập trường chính trị
cá nhân. Tờ báo liên tục bị Bộ Thông tin ra lệnh tịch thu. Có tuần, tờ Điện Tín phát
hành lậu đến 3 ngày, có nghĩa là dù số báo được lệnh của Bộ Thông tin cấm phát
hành nhưng chúng tôi vẫn chuyền báo qua nóc nhà kề bên và tuồn báo ra phía sau
tòa soạn ở đường Lê Lai, để bán ra ngoài. Trong lịch sử báo chí ở Sài Gòn, dưới
thời chế độ Thiệu, chỉ có tờ Tin Sáng vượt qua Điện
Tín về số lần bị tịch thu và ra tòa. Dĩ nhiên các lần tịch thu như thế
đều làm kiệt quệ tài chính của vợ chồng tôi bởi có tuồn được báo ra ngoài bán
đi nữa thì số lượng không thể nhiều được. Chúng tôi mắc nợ nhà in, mắc nợ nơi
cung cấp giấy in và nợ cả tiền lương của các anh em nhà báo. Không thể trả
lương cho mọi người cùng một lúc, vợ tôi – đảm trách khâu quản lý, kế toán đã
nghĩ ra một cách giải quyết khá đặc biệt: anh em nào có đời sống khó khăn thì
lãnh lương trước, còn những anh em ít khó khăn thì lãnh trễ hơn vào giữa tháng.
Thường thì Minh Đỗ, Trần Trọng Thức là những người lãnh sau cùng.
Nhưng khi làm tờ Điện
Tín, tôi còn nhắm một mục tiêu nữa: hỗ trợ giải pháp Dương Văn Minh thay
thế tổng thống Thiệu, nhằm thành lập một nội các hòa bình, góp thêm một điều
kiện thuận lợi để chấm dứt chiến tranh. Lúc này, tướng Minh đã chấm dứt thời kỳ
bị bắt buộc sống lưu vong (tại Bangkok, Thái Lan). Chính thái độ công khai ủng
hộ giải pháp Dương Văn Minh khiến cho Bộ Thông tin của chính phủ Thiệu càng tỏ
ra gắt gao với tờĐiện Tín. Tờ Điện Tín, sau hơn một năm xuất
bản, tạm đình bản không do một quyết định chính thức của Bộ thông tin mà do một
cuộc tấn công phá hoại của “kẻ giấu mặt” theo tôi không ai khác hơn là “tay
chân” của chính quyền. Vào lúc 5 giờ sáng, một chiếc xe máy chạy ngang tòa
soạn Điện Tín ném một bọc có chứa chất cháy vào cửa. Bác bảo
vệ ngủ bên trong không hay biết gì cả. Nếu vụ cháy không được tri hô kịp lúc
thì chẳng những tòa báo bị thiêu rụi mà cả sinh mạng của bác vệ cũng không còn.
May mắn là khi bên trong tòa báo vừa bén lửa thì người ở nhà đối diện bên kia
đường Võ Tánh là phóng viên nhiếp ảnh Lỗ Vinh phát hiện nên vụ cháy đã được
ngăn chặn. Lúc xảy ra vụ phá hoại tòa soạn Điện Tín, nghị sĩ Hồng
Sơn Đông, chủ nhiệm tờ báo, đang đi công tác ở nước ngoài. Gia đình anh Đông
sống ở Thủ Đức nghe tin phá hoại này bị lung lạc tinh thần, yêu cầu tôi tạm
ngưng xuất bản tờ báo và chờ anh Đông về quyết định tiếp.
Sau đó có vài trục trặc
trong sự bàn luận hợp tác trở lại khi anh Đông về, tôi rút lui khỏi tờĐiện
Tín và chuyển sang thuê “manchette” tờ Bút Thần (của
anh Nguyễn Văn Phương làm chủ nhiệm) làm tiếp. Tôi không thể không buồn về sự
gián đoạn với tờ Điện Tín. Sau thời gian tự đình bản, tờ Điện
Tín đã xuất bản trở lại (tháng 2-1972) do ê kíp Tin Sáng sang
khai thác. Tờ Tin Sáng vắng chủ nhiệm – anh Ngô Công Đức –
không thể tồn tại. Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, bạn thân của anh Đức, giám đốc chính
trị tờ Tin Sáng chuyển sang làm chủ bút tờ Điện Tín.
Cùng chủ biên tờ Điện Tín ở giai đoạn này còn có giáo sư Lý
Chánh Trung, cựu dân biểu Dương Văn Ba. Họa sĩ Ớt phụ trách phần trình bày.
Người điều khiển thật sự tờ Điện Tín là anh Dương
Văn Ba, năm đầu làm việc trực tiếp tại tòa soạn nhưng sau đó chính quyền Thiệu
truy nã anh vì anh bị thất cử ở nhiệm kỳ dân biểu kế tiếp và chống lại lệnh gọi
đi lính. Do đó anh Ba phải lẩn trốn trong Dinh Hoa Lan, tư dinh của thủ tướng
Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần). Nhưng từ đây anh
vẫn phụ trách tòa soạn cho tờ Điện Tín. Mỗi ngày anh biên tập và
chuẩn bị đủ bài vở cho số báo rồi chuyển ra tòa soạn cho Huỳnh Bá Thành thực
hiện. Người làm liên lạc giữa anh Ba và tòa soạn Điện Tín hàng
ngày là Triệu Bình, em trai của Cung Văn. Sau 1975, Triệu Bình làm phóng viên
báo Tin Sáng rồi làm ở báo Sài Gòn Giải Phóng.
Tờ Điện Tín của
các anh Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, Huỳnh Bá Thành nối tiếp
tờ Điện Tín do tôi làm trước đó cũng có chung một mục đích:
Tăng cường tiếng nói đối lập, chống chiến tranh và vận động cho giải pháp Dương
Văn Minh. Trên báo này còn có sự đóng góp tiếng nói của nữ dân biểu Kiều Mộng
Thu, linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Các bài bút ký của anh Lý Chánh Trung dưới tiêu
đề chung “Bọt biển và sóng ngầm” thu hút một số đông độc giả và gây một ảnh hưởng
lớn trong cách suy nghĩ của nhiều giới tại Sài Gòn về tình hình đất nước, về
thân phận của những người dân không có quyền tự quyết. Các bài của linh mục
Nguyễn Ngọc Lan luôn làm cho chính quyền Thiệu phải nhức đầu.
Tôi không trực tiếp làm
tờ Điện Tín nữa nhưng vẫn tham gia tờ báo với anh em ở hai
mục: viết một “feuillenton” (chuyện dài nhiều kỳ có tên “Nhật ký nàng Kiều
Dung” tố cáo buộc sống đa đọa của giới trưởng giả Sài Gòn) và một tuần góp một
bài xã luận.
CHƯƠNG 13: TẨY CHAY QUỐC HỘI NGUYỄN VĂN THIỆU
Trong năm 1971 Sài Gòn
có hai cuộc bầu cử: cuộc bầu cử hạ Nghị viện nhiệm kỳ 2 vào tháng 8 và bầu cử
tổng thống vào tháng 10. Muốn tiếp tục hoạt động ở nghị trường, tôi phải ra
tranh cử trở lại, lần thứ ba trong vòng năm năm (hai lần trước là Quốc hội lập
hiến năm 1996, Hạ nghị viện kỳ 1 năm 1967). Còn cuộc bầu cử tổng thống, đại
tướng Dương Văn Minh có ý định tham gia với tư cách ứng cử viên đối lập, lập
trường kết thúc chiến tranh bằng thương thuyết. Tôi được ông Minh mời làm đại
diện báo chí.
Cuộc bầu cử Hạ nghị
viện lần này không lơi lỏng như hai cuộc bầu cử trước. Chính quyền Thiệu quyết
tâm kiểm soát tối đã Hạ nghị viện sắp tới, nên các dân biểu đối lập trở ra ứng
cử ở các đơn vị thuộc các tỉnh đều bị các chính quyền địa phương thẳng tay gian
lận. Các thùng phiếu bị đổi một cách trắng trợn. Trong các dân biểu đối lập là
nạn nhân của cuộc bầu cử gian lận có hai người bạn của tôi là anh Ngô Công Đức
(đơn vị Trà Vinh) và Dương Văn Ba (đơn vị Bạc Liêu). Biết rằng mình có thể bị
bắt sau khi thất cử, anh Đức chọn con đường vượt biên và sống lưu vong ở Thuỵ
Điển (nhưng phần lớn thời gian anh sang Paris hoạt động). Cuộc vượt biên của
anh đi qua biên giới Campuchia với sự hướng dẫn của dân biểu Thạch Phen (gốc
Campuchia), rồi từ đây sang Thái Lan. Tại Bangkok, lúc đầu anh được nhà báo
Pháp Jean Claude Pomonti vận động cho anh sang tỵ nạn tại Pháp nhưng không hiểu
tại sao Pháp từ chối. Cuối cùng anh được tỵ nạn tại Thụy Điển.
Anh Dương Văn Ba thì
không đi đâu, không còn làm dân biểu đối lập, anh chuyển sang làm báo đối lập.
Nhưng anh chỉ được tự do làm báo không đầy một năm thì chính quyền Thiệu có
lệnh truy nã anh. Ông Dương Văn Minh đưa ra ý kiến cho anh Ba “tỵ nạn” trong
dinh của ông. Lúc đó trốn trong dinh Hoa Lan (biệt thự của ông Minh có tên này
vì trồng nhiều phong lan, thú đam mê của ông Minh) còn có cựu dân biểu Phan
Xuân Huy (đơn vị Đà Nẵng), ông Nguyễn Văn Cước (hoạt động công đoàn) và nhà báo
Kỳ Sơn (tức Nguyễn Đình Nam).
Chính quyền Thiệu chỉ
“chừa” cho các đơn vị ở Sài Gòn bầu cử tương đối tự do, coi đó là những “tủ
kính dân chủ” để đối phó với dư luận quốc tế, đặc biệt với dư luận Mỹ. Một dân
biểu đối lập thân thiết với tôi lúc đó là Nguyễn Hữu Chung, do đã chuyển đơn vị
bầu cử từ Bến Tre lên Sài Gòn nên tránh được đòn gian lận của chính quyền
Thiệu. Phần tôi chỉ xê dịch từ đơn vị 2 Sài Gòn gồm các quận 4, 7, 8, 11 sang
đơn vị 1 Sài Gòn gồm các quận 1, 2, 4 và 9. Các anh Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận
ứng cử lại ở đơn vị 2, dựa vào thế mạnh của mình ở quận 8 mà cả hai từng đầu tư
uy tín trong một chương trình xã hội có ảnh hưởng lớn trong dân chúng địa
phương. Hai anh đã tái đắc cử một cách vẻ vang.
Nhiệm kỳ Hạ nghị viện
đầu tiên (1967), tôi tranh cử với slogan: “Một miền Nam trung lập trong một
Đông Dương trung lập”. Lần này chủ đề chính trị của tôi là: “Chống chủ trương
hòa bình trong chiến thắng của tổng thống Thiệu”. Cái áp phích với hàng chữ
slogan ấy do họa sĩ Ớt thiết kế. Thời đó chưa có vi tính, anh Ớt phải tự tay kẻ
từng chữ trên áp phích. Ước mơ của Ớt lúc đó không phải trở thành một nhà báo
nổi tiếng mà là một họa sĩ gây được tiếng vang quốc tế. Anh vẽ chân dung khá
đẹp, đặc biệt anh nghiên cứu cách khắc chân dung trên đá từ những chấm nhỏ li
ti (như kỹ thuật tranh sơn dầu của Seurat) theo lối truyền thống của quê hương
Quảng Nam – Đà Nẵng của anh. Anh có thực hiện một chân dung như thế cho vợ tôi.
Giữa anh Ớt với tôi có nhiều gắn bó. Chuyện làm báo và cả chuyện tư riêng,
trước 1975 và cả sau 1975. Trong thời gian Ớt làm báo với tôi, anh cưới vợ. Vợ
chồng tôi lấy chiếc ô tô riêng của mình chở anh xuống Mỹ Tho rước dâu.
Đơn vị 1 Sài Gòn có trên
80 người ra ứng cử, tranh ghế dân biểu. Một cuộc cạnh tranh hết sức gay go. Tôi
không có tiền để thuê người cổ động, dán áp phích. Rất may là nhiều sinh viên
đã tự nguyện tiếp tay. Trong số này nhiều người là bạn bè của các em gái tôi,
số khác ủng hộ lập trường đối lập và chống chiến tranh của tôi. Nữ nghệ sĩ Kim
Cương đã vào chợ Bến Thành phát các tờ bướm vận động bỏ phiếu cho tôi. Nghệ sĩ
Trần Văn Trạch (em trai của giáo sư Trần Văn Khê) vào các khu lao động phát các
tờ bướm của tôi tận tay cử tri. Trong số các thanh niên phụ trách khâu dán áp
phích còn có Trương Quốc Khánh, tác giả bài hát bất hủ “Tự nguyện”.
Trương Quốc Khánh là bạn của em gái tôi. Những tình cảm đó cả đời tôi không thể
quên.
Ở kỳ bầu cử này tôi về
nhì trước khoảng 85 ứng cử viên! Đầu tiên tôi đạt số phiếu về đầu. Nhưng các
biên bản kiểm phiếu giờ chót liên tục bị sửa chữa. Chính quyền rõ ràng có ý đồ
ngăn chặn một ứng cử viên phe đối lập về nhất ở đơn vị quan trọng nhất tại Sài
Gòn. Tôi đã phải mời thừa phát lại đến lập biên bản sự vi phậm tại Trung tâm tổ
chức bầu cử đặt tại Tòa Đô Chính (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh). Nhưng chẳng làm được gì. Cuối cùng tôi kém hơn người về nhất chỉ vài
chục phiếu!
Trong thời gian vận
động bầu cử này tôi có một tuyên bố trên truyền hình (mỗi ứng cử viên được phát
biểu trong 3 phút) và cả trên báo chí rất dứt khoát.
“Nếu tôi đắc cử Hạ nghị
viện và sau đó ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đắc cử tổng thống một trong cuộc bầu
cử độc diễn, thì tôi sẽ từ nhiệm và rút khỏi Hạ nghị viện để phản đối cuộc bầu
cử không dân chủ của ông Thiệu”.
Ba mươi năm sau nhắc
lại quyết định này, tôi vẫn không chắc mình đã hành động đúng hay sai. Ở ngoài
hay ở trong Hạ nghị viện có lợi hơn trong hoạt động của mình? Nhưng vào thời
điểm đó tôi phẫn nộ thật sự và thấy mình chỉ còn là một con rối trong bàn cờ
gian lận trắng trợn của chế độ Thiệu nếu tiếp tục ngồi lại trong Hạ nghị viện.
Hoạt động chính trị của tôi lúc đó trước hết là thỏa mãn nhu cầu bản thân: được
đứng trong quần chúng tiến bộ, được quần chúng chấp nhận. Con đường chính
nghĩa, với một ít người hoạt động khá đơn độc như tôi lúc đó quả thật không dễ
dàng nhận ra, nhưng tôi luôn tìm cách tiếp cận nó, coi đó là mục tiêu phấn đấu.
Sinh mệnh chính trị của mình không thể tách khỏi con đường tìm kiếm ấy.
Ngày 29-8-1971, tôi đắc
cử dân biểu Hạ nghị viện, đến ngày 3-10-1971 ông Thiệu cũng đắc cử tổng thống
trong cuộc độc diễn như nhiều người dự đoán. Đã hứa với cử tri của mình khi ra
tranh cử, tôi phải giữ lời. Vả lại, đó cũng là cách gần như duy nhất để gây
tiếng vang tố cáo chế độ dân chủ trá hình của tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu.
Sau phiên họp khai mạc
của Hạ nghị viện mà chương trình nghị sự chính là hợp thức hóa tư cách dân biểu
của các ứng cử viên vừa đắc cử, ở phiên họp kế tiếp tôi lên diễn đàn đọc lá thư
gửi cho chủ tịch Hạ nghị viện chính thức xin từ nhiệm, thực hiện đúng lời tuyên
bố của mình trong khi ra tranh cử. Đơn từ nhiệm không được chủ tịch Hạ nghị
viện chấp thuận với lý do đơn giản: nhiệm kỳ dân biểu do nhân dân ủy thác bằng
lá phiếu, do đó chủ tịch Hạ nghị viện không có thẩm quyền giải quyết sự từ
nhiệm của người đắc cử. Dù không được chính thức từ nhiệm, tôi vẫn giữ quyết
định “tẩy chay” quốc hội của Nguyễn Văn Thiệu. Thế là tuy vẫn giữ tư cách dân
biểu nhưng tôi không dự các phiên họp của Hạ nghị viện. Hoạt động chính thức
của tôi lúc này là báo chí. Ngoài ra tôi mở một nhà hàng bên đường Trương Định
do vợ tôi quản lý và phụ trách kế bếp. Kể cũng hiếm ở Việt Nam có một nhà hàng
được dân biểu trực tiếp phục vụ như thế: tôi tham gia cả việc bưng bê các thức
ăn cho khách để tiết kiệm cả việc thuê người. Các nhà báo cộng tác với tờ báo của
tôi được khuyến khích ăn uống tại nhà hàng và chỉ ký bông – cuối tháng trừ vào
lương!
… Cuộc độc diễn của
tống thống Thiệu, đó là điều ngoài ý muốn của Washington. Vào lúc này
Washington rất cần một chính quyền Sài Gòn được dư luận quốc tế công nhận, bộ mặt
dân chủ dù là giả hiệu đi nữa cũng hết sức cần thiết để tổng thống Nixon có một
cơ sở nào đó tiếp tục biện hộ cho chế độ Sài Gòn trước quốc hội Mỹ. Nhưng
Nguyễn Văn Thiệu vẫn muốn giới hạn số người ra ứng cử, và ngày 3-6-1971, Quốc
hội Sài Gòn mà đa số là người của Thiệu đã nhào nặn ra một luật bầu cử tổng
thống buộc mỗi ứng cử viên phải hội được một trong hai điều kiện: có 40 dân
biểu, nghị sĩ hoặc 100 nghị viên hội đồng tỉnh ký tên giới thiệu.
Luật bầu cử này thật sự
nắm trực tiếp vào tướng Nguyễn Cao Kỳ. Theo bộ tham mưu của Thiện, cuộc tranh
cử tay ba giữa Thiệu, Kỳ, Minh sẽ là cuộc bỏ phiếu giữa hai khuynh hướng. Một
bên là khuynh hướng có thể thỏa hiệp với cộng sản mà ông Minh là đại diện. Một
bên là khuynh hướng chống cộng tích cực mà hai ông Thiệu và Kỳ đều là đại diện
tiêu biểu. Theo nghiên cứu của ban tham mưu của ông Thiệu, một cuộc đầu phiếu
trong điều kiện như vậy sẽ dọn đường cho ông Minh vào ghế tổng thống, vì Thiệu
và Kỳ sẽ chia nhau số phiếu của những người chống cộng. Thấy rõ nguy cơ đó, phe
Thiệu tìm cách chặn ông Kỳ ra tranh cử.
Nhân vật được Thiệu
giao công việc ngăn chặn Kỳ ra ứng cử là phụ tá Nguyễn Văn Ngân, người thay chỗ
phụ tá Nguyễn Cao Thăng sau khi ông này chết vì bị ung thư. Ngân cũng là tác
giả của luật bầu cử tống thống, phó tổng thống biểu quyết ngày 3-6-1971.
Trước khi luật bầu cử
được các dân biểu thân chính quyền thông qua và chính phủ ban hành, phụ tá Ngân
cho đi thu chữ ký của các đại biểu dân cử. Ngân đã tính trước: Minh sẽ có đủ 40
chữ ký dân biểu nghị sĩ (con số chữ ký chính xác mà ông Minh có được là 42) và
Kỳ sẽ không có cách nào lấy đủ chữ ký trong Quốc hội như luật định. Kỳ chỉ có
mỗi con đường lấy chữ ký của các nghị viện hội đồng tỉnh.Ở khu vực này Ngân
cũng thu gom tất cả các chữ ký về phía Thiệu. Gần hết hạn nộp đơn, Kỳ thu được
101 chữ ký của các nghị viện nhưng vẫn bị Tối Cao Pháp Viện họp ngày 6-8 bác vì
trong số 101 chữ ký giới thiệu Kỳ có đến 39 chữ ký đã có trong danh sách ủng hộ
Thiệu. Coi như 39 chữ ký này bất hợp lệ. Do đó trong danh sách ứng cử viên tổng
thống niêm yết lần thứ nhất chỉ có hai ông Thiệu và Minh.
Tướng Kỳ tố cáo rằng
một số nghị viện các tỉnh đã bị tỉnh trưởng và thị trưởng ép ký vào tờ “bạch
khế” (giấy trắng) từ trước khi có luật bầu cử mà không biết là giấy đó sau này
dùng để ủng hộ Thiệu ứng cử tổng thống. Những nghị viện muốn chuyển sang ký ủng
hộ Kỳ đều bị kẹt những tờ giấy ký… trắng trước đây.
Nhưng điều mà ban tham
mưu của Thiệu không đoán trước: ngày 20-8-1971 ông Minh tuyên bố rút tên. Lý do
đưa ra: Thiệu đã bố trí guồng máy gian lận kết quả của cuộc bầu cử. Ông Minh có
trong tay một tài liệu về việc Phủ tổng thống chỉ thị cho các tỉnh trưởng những
cách thức để đảm bảo Thiệu thắng cử. Ông Minh đã trao tài liệu này cho đại sứ
Mỹ Bunker. Nghe đâu đại sứ Mỹ xác nhận đây là một tài liệu có thật.
Ông Minh rút tên làm
cho phe Thiệu bối rối vì đứng trước nguy cơ chỉ có mỗi mình Thiệu tranh cử với
chính… mình. Thế là “quân sư” Nguyễn Văn Ngân phải tính tới chuyện đưa Kỳ ra
tranh cử trở lại để tránh tình trạng độc diễn bằng cách trả lại cho Kỳ 39 chữ
ký trước đây. Tối Cao Pháp Viện tuyên bố bất hợp lệ vì có sự khiếu nại của phe
Thiệu. Kết quả màn “ảo thuật” này là ngày 21-8-1971, Tối cao Pháp Viện cho niêm
yết danh sách ứng cử viên “lần thứ hai và là lần chót” trong đó có tên Nguyễn
Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Nhưng ngày 23-8, Kỳ tuyên bố không tranh cử nữa và
còn đề nghị Thiệu cùng Kỳ từ chức để cho Chủ tịch Thượng Viện Nguyễn Văn Huyền
tạm điều khiển chính phủ với nhiệm vụ tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống khác
trong vòng ba tháng. Dĩ nhiên ông Thiệu bác bỏ đề nghị này. Ngày 1-9, Tối cao
Pháp Viện đồng ý cho Kỳ rút tên.
Khi Kỳ từ chối “ân huệ”
của Thiệu cho ra ứng cử, ông tuyên bố với báo chí: “Tôi không tiếp tay cho một
trò hề bẩn thỉu, càng làm cho người dân vỡ mộng với chế độ dân chủ”. Đại sứ Mỹ
Ellsworth Bunker cố gắng thuyết phục ông Kỳ tiếp tục ra tranh cử nhưng ông dứt
khoát từ chối.
Trường hợp ông Dương
Văn Minh, tuy đã công bố ra ứng cử Tổng thống từ tháng 6 (với ứng cử viên Phó
tổng thống là bác sĩ Hồ Văn Minh, dân biểu quốc hội) nhưng ê kíp của ông vẫn
tiếp tục quan sát tình hình để quyết định. Khi hay tin ông Minh rút lui, đại sứ
Bunker hối hả xin gặp ông Minh nhằm cứu vãn tình thế cho chế độ Sài Gòn. Tôi có
mặt trong buổi tiếp Bunker của ông Minh. Ông Minh phân tích cho Bunker thấy
rằng không có sự công bằng và trung thực trong cuộc bầu cử giữa các ứng cử
viên. Ông Minh nói:
“Trong cương vị tổng
thống, ông Thiệu có cả guồng máy quân đội và hành chánh khổng lồ hỗ trợ ông ta,
không kể tiền bạc thuộc ngân sách quốc gia gần như không hạn chế. Chúng tôi,
với phương tiện cá nhân quá kém cỏi, không thể đối đầu ông Thiệu trong một cuộc
bầu cử hoàn toàn bất bình đẳng”. Bunker với kiểu suy nghĩ thực dụng của người
Mỹ nghĩ ngay rằng ông Minh gián tiếp đặt điều kiện được Mỹ “hỗ trợ”. Bunker hỏi
lại ông Minh: “Theo Đại tướng dự trù một cuộc tranh cử như thế cần bao nhiêu
tiền?”. Ông Minh trả lời thẳng thắn để cho viên đại sứ Mỹ thấy rằng cuộc tranh
cử này nằm ngoài khả năng của ông: “Ít nhất một triệu đô la”. Và thật bất ngờ,
Bunker nói ngay: “Thưa ngài đại tướng, nếu ông ra tranh cử, ông sẽ có một triệu
đô la đó”. Ông Minh xua tay: “Tôi không thể nhận số tiền ấy và tôi cũng không
thay đổi quyết định rút lui khỏi cuộc bầu cử”.
Chung quanh sự kiện
này, trong quyển Vietnam: A History, nhà báo Mỹ kỳ cựu Stanley
Karnow viết, “Đại sứ Ellsworth Bunker” tìm cách gián tiếp đút lót ông Minh ra
tranh cử để làm cho cuộc bầu cử có vẻ “dân chủ” (Ambassador Ellsworth Bunker
reportedly tried to bride Minh to run in order to make the exercise look
“democratic”). Dù có những vận động như thế từ phía Mỹ để tránh xảy ra cuộc độc
diễn, nhưng trong thâm tâm các nhà lãnh đạo Washington lúc bấy giờ đã nghiêng
về sự chọn lựa Thiệu – người mà Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của
Nixon, ca ngợi hết lời trong quyển hồi ký của ông (Ending The Vietnam War):
“Không phải tình cờ mà Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống. Không thể chối
cãi ông ta là vị lãnh đạo quân sự xuất sắc nhất ở miền Nam, có lẽ là người có
năng lực nhất trong tất cả các nhân vật chính trị”. Còn về ứng cử viên Dương
Văn Minh thì Kissinger viết như sau “Minh có thể là người mà Hà Nội chấp nhận,
lý do chắc chắn nằm ở chỗ yếu mềm nhất trong các bộ mặt chính trị. Nều Hà Nội
chấp nhận ông – điều này cũng không rõ ràng – chỉ vì ông là người dễ dàng lật
đổ nhất trong các ứng cử viên nếu ông trở thành tổng thống”. Washington thường
có đánh giá không đúng về con người ông Dương Văn Minh. Theo họ ông là con
người nhu nhược, thiếu quyết đoán. Trong cuốn sách “Saigon 1975-3 ngày
và 3 tháng”, nhà báo Tiziano Terzani đã từng tiếp xúc với ông Minh, có một
đánh giá khác về ông Minh:
“Không như rất nhiều
đồng nghiệp của ông – những tướng lãnh hèn nhát và phản bội luôn bị tố cáo tham
nhũng và dính líu vào những vụ làm ăn mờ ám nhất – ông Minh là một người lính
lương thiện. Được binh lính dưới quyền kính trọng, ông là một con người có dũng
khí và có một ý thức danh dự truyền thống. Ông Minh từng bị quân Nhật bắt tra
tấn nhiều ngày, đánh gãy cả hàm răng nhưng ông không chịu khuất phục. Ông nói
với tôi ‘Đất nước tôi đáng giá hơn cái hàm răng’”.
Bản thân ông Minh không
hề xa lạ trước cách đánh giá của người Mỹ đối với ông. Bởi nhiều lần ông đã làm
họ thất vọng với một lập trường không chịu khuất phục họ. Người Mỹ càng không
“tha thứ” cho ông Minh khi ông tiết lộ với báo chí Mỹ điều mà vị đại sứ của họ
đã đề xuất trong “mật nghị” với ông. Sau cuộc bầu cử độc diễn của Thiệu, ông
Minh tiếp chủ bút tờ Washington Post, Ben Bradley, cây cổ thụ trong
làng báo Mỹ. Washington Post là một tờ báo chống chiến tranh
Việt Nam có ảnh hưởng lớn ở Mỹ. Ông Minh giao cho tôi chuẩn bị buổi tiếp này và
chọn người làm phiên dịch. Tôi đích thân đi mời nhà báo Phạm Xuân Ẩn, đang làm
cho văn phòng đại diện tuần báo Time Magazine tại Sài Gòn. Tôi
quen biết anh Ẩn từ khi vào quốc hội (1966). Chỗ “đóng đô” mỗi sáng của anh Ẩn
là nhà hàng Givral. Anh ít khi ăn mà chỉ gọi một tách cà phê đen. Chiếc xe
Renault 4 ngựa cũ xì của anh luôn đỗ ngay trước cửa Givral bên phía đường Lê
Lợi. Thường bao giờ cũng có một hai nhà báo nước ngoài “đeo” theo anh với hi
vọng hiểu thêm tình hình chính trị và quân sự đang diễn ra tại miền Nam. Anh
luôn phân tích tình hình một cách sắc sảo. Dĩ nhiên những điều anh “xì” ra đều
có chủ đích. Lúc đó tôi hoàn toàn không nghĩ rằng anh là người của cộng sản.
Thực tế anh có rất nhiều bạn bè là tay chân thân thiết của Hoàng Đức Nhã, cố
vấn của Thiệu, thường xuyên đến Givral, uống cà phê với anh. Các vị tai to mặt
lớn của chế độ đều liên lạc mật thiết với anh, trong đó người nổi tiếng nhất là
bác sĩ Trần Kim Tuyến, đứng đầu ngành tình báo của chế độ Ngô Đình Diệm.
Tôi cũng nằm trong số
người thường uống cà phê với anh Phạm Xuân Ẩn tại Givral vì Hạ nghị viện (hiện
nay là Nhà hát thành phố) nằm bên kia đường đối diện với Givral. Khi Hạ nghị
viện bàn về những đề tài chán phèo, những đạo luật không quan trọng thì tôi (và
nhiều dân biểu khác) bỏ sang Givral. Ngoài ra trong một số trường hợp báo chí
Mỹ phỏng vấn tôi, họ cũng nhờ anh Ẩn dịch (lúc đó tôi sử dụng chủ yếu tiếng
Pháp). Anh Ẩn thông dịch rất chính xác, không thiếu mà cũng không dài dòng, rất
chậm rãi, dễ theo dõi.
Anh Ẩn nhận lời mời của
ông Minh nhờ anh thông dịch trong buổi tiếp chủ bút báoWashington Port.
Ngoài ông Minh và Ben Bradley, chỉ có tôi và anh Ẩn có mặt. Chính trong buổi
phỏng vấn này của báo Washington Post, ông Minh đã kể cho nhà báo
kỳ cựu Bradley biết đề nghị của đại sứ Bunker đưa cho ông một triệu đô la nếu
ông ra ứng cử. Và người ta không ngạc nhiên khi sau đó tin này được báo Washington
Post tung ra, gây xì-can-đan trong chính trường và dư luận Mỹ.
Sau năm 1975, tôi gặp lại
anh Phạm Xuân Ẩn nhiều lần, khi đi ăn sáng, khi đi ăn trưa, thường có mặt anh
Ngô Công Đức. Tôi vẫn gặp một Phạm Xuân Ẩn của hơn 30 năm về trước, hoàn toàn
không thay đổi về mặt con người: vẫn vui tính, kể chuyện phong phú và duyên
dáng, pha trộn giọng “móc lò” và hài hước của người Nam Bộ chính cống. Anh luôn
tạo cho người tiếp xúc với anh sự thoải mái và tự nhiên. Nói chuyện với anh,
tôi quên hẳn anh là một vị tướng cộng sản tình báo nổi tiếng trên thế giới. Một
nhà báo nước ngoài đã phong cho anh danh hiệu “nhà tình báo dễ thương nhất”
(l’espion le plus aimable) mà tôi vẫn nghĩ danh xưng này rất xứng đáng được làm
tựa cho một bộ phim tình báo hấp dẫn.
… Trước khi rút lui,
ông Dương Văn Minh đã tổ chức họp báo và ra một tuyên bố bằng ba thứ tiếng –
Việt, Anh, Pháp – nói rõ lý do rút tên và tố cáo cuộc bầu cử không đảm bảo công
bằng và dân chủ. Một đòn khá đau cho chế độ Thiệu và Washington. Trong cuộc họp
báo này, lần đầu tiên báo chí trong và ngoài nước được nhìn thấy đầy đủ các
nhân vật hình thành ê kíp làm việc (staff) của ông Minh. Họ ngồi sau lưng ông
đông đủ. Tôi nhớ có nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, giáo sư Lý Chánh Trung, bác sĩ dân biểu
Hồ Văn Minh, luật sư Trần Ngọc Liễng, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, các dân biểu Hồ
Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu Chung và tôi…
Cuối cùng thì ông Dương
Văn Minh rút tên ứng cử nhưng bộ máy tranh cử được tổ chức trước đó vẫn được
giữ nguyên và duy trì cho đến ngày 30-4-1975! Ê kíp Dương Văn Minh không là một
tập hợp có tính chất đảng phái nhưng tự nó trở thành một nhóm áp lực chính trị
làm điên đầu chính phủ Thiệu. Trước các vấn đề nhân quyền, dân chủ, hòa bình
làm người dân bức xúc, nhóm Dương Văn Minh đều lên tiếng bày tỏ thái độ. Và như
thế, nhóm Dương Văn Minh được báo chí trong và ngoài nước coi như một tiếng nói
đối lập chính yếu tại miền Nam.
Trong khi chuẩn bị cuộc
vận động cho liên danh Dương Văn Minh, với tư cách đại diện báo chí cho liên
danh này, tôi đã tiếp cận với Phật giáo Ấn Quang tìm sự ủng hộ của lực lượng
Phật giáo có hậu thuẫn quần chúng lớn nhất. Tôi không nhớ rõ tôi tiếp xúc với
thượng tọa Thích Trí Quang lần đầu nhân cơ hội nào. Rất có thể do tôi tham gia
vào Lực lượng hòa giải dân tộc do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu có mối quan hệ
chặt chẽ với chùa Ấn Quang. Lực lượng này còn có nghị sĩ Bùi Tường Huân, cư sĩ
Võ Đình Cường… tham gia. Hình như dân biểu đơn vị Huế là Trần Ngọc Giao cũng có
giới thiệu tôi với thượng tọa Thích Trí Quang lúc này đang ở tại chùa Ấn Quang.
Đến chùa Ấn Quang, dọc
theo hành lang dẫn vào phòng riêng của thượng tọa Trí Quang ở lầu một thuộc dãy
nhà nằm sát bên trái của ngôi chùa, luôn luôn có ít nhất hai hay ba cảnh sát
chìm theo dõi những người đến thăm viếng thượng tọa Trí Quang. Lần đầu tôi gặp
“Người làm rung chuyển nước Mỹ” – báo Newsweek đã gọi thượng
tọa Thích Trí Quang như thế trên trang bìa một số báo thời Phật giáo đối đầu
chế độ Ngô Đình Diệm – trong một căn phòng riêng của thượng tọa nhỏ hẹp, trang
trí rất đơn sơ. Tôi đã đối diện một người giản dị và rất bình thường, nhưng khi
đã tiếp xúc thì con người ấy toát lên một thứ thần sắc khác thường. Ánh mắt như
sao băng, chiếu thẳng vào người đối thoại như nhìn thấu những suy nghĩ của họ.
Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu tiên ấy khi lần đầu gặp nhà tu nổi danh.
Tôi không theo đạo Phật
hay bất cứ một tôn giáo nào, chỉ thờ cúng tổ tiên, nhưng mẹ tôi thỉnh thoảng đi
chùa. Tôi không hiểu nhiều về đạo Phật nhưng trong chốn tôn nghiêm của chùa
chiền mà tôi đặt chân đến bao giờ cũng gây cho tôi sự xúc động. Tôi tin tưởng
rằng tôn giáo chân chính nâng tâm hồn con người, đặt con người ở một trách nhiệm
cao hơn đối với đồng loại.
Nhưng mỗi lần gặp
thượng tọa Trí Quang, hầu như chẳng bao giờ tôi nói chuyện tôn giáo, mà thích
tượng tọa cũng thế. Có lẽ nhà tu đoán rằng tôi không thạo và cũng không thiết
tha lắm đề tài này. Chúng tôi chủ yếu bàn về tình hình đất nước, cuộc chiến
tranh chưa thấy lối thoát. Có một lần tôi đến thăm thượng tọa, cánh cửa kính
khóa bên trong, tôi nhìn thấy nhà tu đang lạy trước bàn thờ Phật đặt trong một
góc phòng. Tôi chờ suốt 15 phút, bên trong phòng thượng tọa Trí Quang vẫn tiếp
tục quỳ xuống đứng lên, tôi đếm đến gần cả trăm lần. Khi thượng tọa bước ra mở
cửa mời tôi vào, tôi tò mò hỏi ông mỗi lần lạy Phật như thế thì lạy bao nhiêu
lần. Thượng tọa Trí Quang thản nhiên trả lời tôi: “Lạy Phật nhưng đồng thời
cũng để giữ gìn sức khỏe”. Thượng tọa Trí Quang cho rằng chế độ Thiệu không đại
diện người dân miền Nam, cần có một chính phủ biết cách chấm dứt chiến tranh và
mang lại hòa bình. Khi tôi đề cập với thượng tọa về giải pháp Dương Văn Minh,
thượng tọa không hào hứng lắm nhưng cũng không bác bỏ. Thượng tọa đưa ra nhận
định: “Bây giờ cần một người cầm cờ, ông ấy có thể làm được chuyện đó trong lúc
này”. Sau đó thượng tọa gián tiếp bình luận: tướng Dương Văn Minh không phải là
người làm chính trị có bản lĩnh.
Để tiếp tay cho cuộc vận
động giải pháp Dương Văn Minh, thượng tọa Trí Quang sẵn sàng giúp tôi thực hiện
một chuyến ra Huế gặp một số vị cao tăng đang lãnh đạo phong trào Phật giáo đấu
tranh. Đặc biệt thượng tọa viết một thư tay cho tôi cầm theo ra Huế để được Đức
Thăng thống Thích Tịnh Khiết tiếp tại chùa Bảo Quốc. Chùa Bảo Quốc nằm trên một
ngọn đồi yên tịnh, xa thành phố, về hướng các lăng. Đường từ ngoài cổng vào đến
chùa, đi lên một ngọn đồi khoảng 300m. Vào đến chùa, người hướng dẫn đưa tôi
gặp Đức Tăng thống đang ngồi im lặng trên một bộ ván đặt ngoài hiên chùa. Đức
Tăng thống đang ăn sáng – tay cầm một mẩu bánh mì, ly sữa để ở bên cạnh – thỉnh
thoảng Hòa thượng rứt ruột bánh mì ra từng miếng nhỏ ném cho các con chim đang
nhảy nhót quanh ngài. Nhiều con ăn trong lòng bàn tay hòa thượng, một hai con
thản nhiên đậu trên vai ngài. Tôi tưởng như mình lạc bước nơi cõi tiên.
Trong chùa Bảo Quốc chỉ
treo một bức ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung của thượng tọa
Trí Quang. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang với người lãnh đạo tinh
thần cao nhất Giáo hội Phật giáo là như thế nào. Khi Đức Tăng thống đọc thư của
thầy Trí Quang giới thiệu tôi, rõ ràng Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tỏ ra ân cần
và thiện cảm ngay. Nên sau đó Hòa thượng không từ chối lời đề nghị của tôi xin
phép được chụp chung một bức ảnh với ngài tại sân sau của chùa.
Trong chuyến ra Huế lần
đó tôi cũng có dịp đến viếng thăm Thượng tọa Thích Huyền Quang, tại chùa Từ
Đàm. Dĩ nhiên cũng với mục đích trình bày với vị lãnh đạo Phật giáo lập trường
hòa bình và chống chế độ Nguyễn Văn Thiệu của nhóm Dương Văn Minh. Anh Trần Ngọc
Giao còn đưa tôi đi gặp một vị tu có uy tín lớn ở Huế và trong cả Giáo hội Phật
giáo, đó là Ôn Trúc Lâm. Đặc điểm các vị cao tăng này là đều quan tâm đến tình
hình đất nước, không tán đồng chế độ Thiệu, chống triệt để sự hiện diện của
người Mỹ ở Việt Nam.
Sau này khi Hiệp định
Paris được ký kết, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu cùng nghị sĩ Bùi Tường Huân, cư sĩ Võ
Đình Cương… thành lập một tổ chức chính trị hoạt động mời tôi cùng tham gia và
làm thuyết trình viên của lực lượng.
…Trở lại cuộc bầu cử
tổng thống biến thành cuộc độc diễn, ngày 3-10-1971, liên danh Nguyễn Văn Thiệu
– Trần Văn Hương đắc cử với 94,3% số phiếu bầu. Trong nước và cả ngoài nước coi
kết quả đó như một trò hề chính trị. Nhưng cũng chưa bao giờ, Thiệu và tay chân
của ông ta tỏ ra hung hăng như lúc này. Chính quyền Thiệu càng siết chặt sự
kiểm soát trong quân đội, cảnh sát, báo chí và cả trong Quốc hội. Phe đối lập
đứng trước hai sự chọn lựa: để Thiệu xóa sổ hoặc đối đầu để tồn tại. Và họ đã
chọn cách thứ hai. Lúc này nhiều phong trào và tổ chức dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng có chung mục đích chống chiến tranh và chống Thiệu đã nổi lên.
Các cuộc biểu tình, xuống đường chống Thiệu bắt đầu nổ ra gần như hằng ngày.
CHƯƠNG 14: NHỮNG HÌNH THỨC ĐẤU TRANH ĐA DẠNG CỦA NGƯỜI SÀI GÒN
Giữ lời hứa lúc ra
tranh cử quốc hội lập pháp nhiệm kỳ hai, tôi “tẩy chay” Hạ nghị viện mặc dù đơn
từ nhiệm của tôi không được Chủ tịch Hạ nghị viện chấp nhận. Những ngày tháng
đầu tiên của thời kỳ này thật chán nản đối với tôi. Bỗng chốc nhận ra sự bất
lực của hoạt động chính trị nghị trường và thân phận làm “đối lập kiểng” của
mình, tôi cảm nhận mình không khác gì một con gà bị trụi lông, chẳng còn cái
lớp ngoài để che giấu đi cái thực trạng đáng tội nghiệp của mình.
Không đi họp Hạ nghị
viện, tôi lại ra báo: thuê manchette tờ Bút Thần của anh
Nguyễn Văn Phương tiếp tục làm sau khi gián đoạn với tờ Điện Tín.
Từ 1971, sau khi Nguyễn
Văn Thiệu tái cử trong cuộc độc diễn, cho đến tháng Tư 1975, ngày Mỹ cuốn cờ,
là một thời kỳ dài khá u ám nhưng rất sôi động đối với các thành phần đối lập
và các trí thức yêu nước tại miền Nam. Chính quyền Thiệu tăng cường các biện
pháp siết chặt phe đối lập, đồng thời tiến hành triệt để đàn áp, bắt bớ các
phần tử bị coi là thân Cộng. Diễn đàn quốc hội, nằm trong tay phe Thiệu, không
còn là nơi hoạt động có ảnh hưởng của những tiếng nói chống chế độ. Còn báo chí
bị chi phối bởi một đạo luật mới được phe của Thiệu biểu quyết – luật 007 – vô
hiệu hóa hầu hết báo chí đối lập, vì không có tiền đóng ký quỹ để tiếp tục xuất
bản nên năm 1972 chỉ còn là mảnh đất riêng dành cho báo chí của Thiệu và thân
Thiệu. Trong tình hình bế tắc ấy, các thành phần chống Thiệu không còn sự lựa
chọn nào khác là phản đối chính quyền Thiệu bằng cách xuống đường biểu tình,
làm báo lậu, tổ chức báo nói v.v…
Những người tích cực
nhất thúc đẩy các hoạt động chống chế độ Thiệu trên đường phố phải kể đến: lực
lượng Phật giáo Ấn Quang, phong trào học sinh sinh viên tiến bộ và các cá nhân
như bà Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, các dân biểu đối lập trong đó người hăng
hái nhất và cũng có óc tổ chức liều lĩnh nhất là anh Hồ Ngọc Nhuận. Tôi không vào
Hạ nghị viện họp nữa và mỗi khi các đồng viện của mình tổ chức xuống đường, tổ
chức báo nói v.v.. tôi không bao giờ vắng mặt. Trước mỗi cuộc xuống đường,
không thể nào không nghĩ đến sự ác liệt của những trận tấn công lựu đạn cay,
dùi cui, những cú đánh lèn tàn bạo của cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm… đang
chờ đợi mình. Nhưng rồi đúng hẹn mọi người đều có mặt. Khi hai phía – những
người biểu tình và cảnh sát chống biểu tình – xáp vào nhau thì tức khắc những
suy nghĩ do dự ban đầu đều biến mất, không khác tâm lý của các chiến binh ngoài
mặt trận sau khi súng đã nổ. Thật sự không phải bao giờ cảnh sát cũng hăng hái
ra tay đàn áp những người biểu tình khi mà đa số là trí thức tay không, là phụ
nữ, người tu hành, học sinh sinh viên ở tuổi con em của họ. Do đó các tay chỉ
huy cảnh sát ác ôn phải nghĩ ra những đòn ma giác để biến các nhân viên cảnh
sát bình thường thành những “con thú dữ”: họ cho những tên cảnh sát chìm (mặc
thường phục) len lỏi vào đám đông biểu tình, rồi từ đây chúng ném đá và các vật
cứng khác có thể gây thương tích về phía lực lượng cảnh sát đang dàn ra để ngăn
chặn biểu tình. Thế là lực lượng cảnh sát điên lên vì cho rằng những người biểu
tình đã tấn công họ, họ bắt đầu phản ứng lại và đàn áp không còn nương tay.
Trong sự hỗn loạn này, nguy hiểm nhất cho những người tham gia biểu tình là sự
can thiệp của bọn cảnh sát chìm. Chúng tấn công từ phía sau đầy bất ngờ, với
gậy gộc và những khúc gỗ dài có đóng đinh nhọn ở đầu. Cảnh sát sắc phục dù sao
vẫn còn e ngại những hành động quá tay của mình có thể bị báo chí nước ngoài
chụp ảnh, lên án làm ảnh hưởng xấu chế độ. Còn cảnh sát chìm nếu có quá tay thì
được chính quyền đổ thừa cho sự bộc phát của “quần chúng” chống lại các phần tử
thiên cộng (!).
Sau khi liên danh
Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương trúng cử trong cuộc bầu cử độc diễn, cuộc
biểu tình phản đối đầu tiên được tổ chức mấy ngày sau đó với sự kết hợp giữa
các dân biểu đối lập và các tổ chức quần chùng như “Phụ nữ đòi quyền sống” của
bà Ngô Bá Thành, Lực lượng Hòa giải Dân tộc của Phật giáo Ấn Quang. Đoàn biểu
tình tập hợp tại cao ốc nằm bên cạnh trụ sở Hạ nghị viện, phía sau khách sạn
Caravelle. Cao ốc này được dùng làm văn phòng cho ác Ủy ban chuyên môn của Hạ
nghị viện. Sáng sớm, khoảng 7 giờ, tôi có mặt ở điểm hẹn này. Tôi đoán trước chính
quyền Thiệu sẽ đàn áp không nương tay. Để ngăn ngừa mọi toan tính phủ nhận kết
quả cuộc bầu cử và các biểu lộ khác có thể phá vỡ uy tín bốn năm cầm quyến sắp
tới của mình, Nguyễn Văn Thiệu sử dụng triệt để quân đội và cảnh sát để duy trì
quyền lực. Biết như thế nhưng tất cả những gương mặt dân biểu đối lập chính
quyền đều có mặt: Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Văn Minh,
Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu, Dương Văn Ba, Vũ Văn Mẫu, Bùi Chánh Thời, Võ Đình
Cường. Ngoài ra còn có bà Ngô Bá Thành, chị Trần Thị Lan v.v…
Nhóm biểu tình đông
khoảng từ 40 đến 50 người với những biểu ngữ tố cáo cuộc bầu cử gian lận, phủ
nhận sự trúng cử của liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương v.v… tiến từ
bên hông khách sạn Caravelle sang mặt trước của Hạ nghị viện. Vừa đến khoảng
trống trước Hạ nghị viện, nơi dành cho các dân biểu đậu ô tô, tôi nhìn thấy
ngay phía bên kia đường Tự Do (bây giờ là đường Đồng Khởi), dọc theo công viên,
cảnh sát dã chiến xếp “dàn chào” sẵn đó từ lúc nào. Họ giăng hàng ngang, súng
phóng phi tiễn hướng thẳng qua tiền đình Hạ nghị viện, nơi nhóm biểu tình sắp
sửa tiến về hướng ra chợ Sài Gòn. Tôi vẫn nhớ cái cảnh đầy đe dọa ấy: cảnh sát
dã chiến trong tư thế sẵn sàng nổ súng, một đầu gối chịu xuống đất, súng đưa
lên tầm ngắm với túi đạn phi tiễn đeo bên người, phía sau là bức tượng khổng lồ
đen xì của hai Thủy quân lục chiến dùng chĩa súng M16 về phía tòa nhà lập pháp
(tượng này đã bị quần chúng giật sập sau ngày 30-4-1975). Thoạt đầu, tôi không
nghĩ cảnh sát dã chiến dám nổ súng.
Nhưng lệnh được một tên
chỉ huy nào đó phát ra và súng nổ. Các quả phi tiễn được bắn thẳng về phía đám
biểu tình, xé toạc các biểu ngữ và làm vỡ kính cửa chính của tòa nhà Hạ nghị
viện. Anh em dân biểu lúc đó mới nhận ra rằng nếu lãnh một quả phi tiễn vào người
thì cũng khó sống. Thế là mọi người phải chạy tản ra tránh đạn. Tôi chạy dạt ra
hướng bên phải sân trước Hạ nghị viện, nép mình phía say mấy chiếc ô tô đậu tại
đây. Đúng lúc đó một quả phi tiễn bay thẳng đến tôi. Tôi chỉ kịp nghiêng người
để không phải lãnh trọng quả đạn. Nó trúng sớt vào bả vai tôi. Phản xạ tự nhiên
của tôi lúc ấy là ngả người xuống đất, phía sau một chiếc ô tô. Nhưng tôi chợt
nghĩ chúng có thể tiếp tục bắn phi tiễn về hướng tôi và một trong những quả đó
mà bắn trúng bình xăng ô tô thì khó tránh tai họa. Tôi liền cố gắng đứng lên,
nhắm hướng khách sạn Continental bên kia đường mà chạy a vào. Hai mắt tôi sưng
lên, nhức nhồi vì hơi cay. Những người phục vụ trong nhà hàng Continental xếp
sẵn khăn ướp lạnh và chanh cắt lát trên những cái mâm tặng miễn phí cho những
người biểu tình vào lánh nạn. Chanh rất hiệu quả để hóa giải hơi cay ở mắt.
Trong khi tôi đã vào
sân bên trong Continental – khu vườn dành cho khách nước ngoài ăn sáng và uống
cà phê – thì anh Ngô Công Đức vẫn còn ở bên ngoài. Anh nhặt các quả phi tiễn
còn xì hơi cay, ném lại về phía cảnh sát. Anh chạy díc dắc trên đường Tự Do,
len vào khu Passage Eden (Thương xá Eden), vừa chạy vừa “chọc giận” bọn cảnh
sát dã chiến để chúng bắn theo. Đây là cuộc biểu tình cuối cùng anh Đức có mặt.
Vì không tái cử ở đơn vị bầu cử Trà Vinh và có thể bị chính quyền Thiệu bắt như
anh Trần Ngọc Châu, nên anh quyết định vượt biên qua Campuchia, sang Thụy Điển
định cư cho đến ngày 29-4-1975. Anh Phạm Xuân Ẩn là người đã khuyên anh Đức nên
rời đất nước vì có khả năng – theo đánh giá của Ẩn – phe Thiệu sẽ “mần thịt”
anh.
Trở lại cuộc biểu tình
trước Hạ nghị viện, lúc này anh Hồ Ngọc Nhuận đang hộ tống bà Ngô Bá Thành và
chị Trần Thị Lan. Cảnh sát chìm đang tìm cách bắt hai phụ nữ này bởi họ không
được hưởng quyền bất khả xâm phạm như các dân biểu. Anh Nhuận cũng đoán biết
nguy cơ đang chờ đợi họ, nên đưa hai chị vào lánh mặt trong khu vườn của khách
sạn Continental, nơi có nhiều nhà báo nước ngoài tụ tập. Anh hi vọng với sự có
mặt của giới báo chí, bọn cảnh sát chìm sẽ không dám ra tay. Nhưng không lâu,
chúng đánh hơi và bắt đầu siết vòng vây chung quanh khu vực hai người phụ nữ
lẩn trốn, bất kể sự có mặt của các nhà báo nước ngoài. Anh Nhuận phải tính giải
pháp khác: tìm cách đưa bà Thành và chị Lan vào bên trong Hạ nghị viện, họa may
tại đây cảnh sát mới chịu bó tay. Nhưng khi anh Nhuận vừa đưa hai người băng
qua đường, hướng về phía Hạ nghị viện, thì tức thời một chiếc xe Jeep ập tới,
kèm theo là một trận mưa lựu đạn cay khiến anh Nhuận chẳng nhìn thấy gì. Khi
anh bình tĩnh lại thì bọn cảnh sát đã ném hai chị lên xe Jeep và chở đi rồi.
Theo tôi thì các nhân
vật trí thức miền Nam gan lì, có sức chịu đựng gần như phi thường trước sự đàn
áp của nhà tù chế độ Sài Gòn trước 1975 thì không ai bằng bà Ngô Bá Thành. Ở tù
bà vẫn tiếp tục hoạt động chống chính quyền. Hàng ngày bà vẫn làm báo nói trong
xà lim bằng ba thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp. Đúng giờ là giọng bà vang lên, đọc
tin tức và bình luận chính trị, bất kể sự đàn áp của các cai ngục. Để làm im
tiếng người phụ nữ này, chúng ném vôi vào xà lim, rồi tạt nước vào. Nhưng với
bà Thành vẫn chẳng ăn thua gì. Kể cả khi bà bị đưa ra tòa án quân sự ở bến Bạch
Đằng (nay là đường Tôn Đức Thắng), người biện hộ cho bà là luật sư Vũ Văn Mẫu,
lúc ấy đang là nghị sĩ Thượng nghị viện cũng không lay chuyển thái độ chính trị
của bà. Trong các nhân chứng mà luật sư yêu cầu có mặt tại tòa có tôi và anh Hồ
Ngọc Nhuận. Thế là tôi có dịp chứng kiến tận mắt bà Thành đấu tranh với tòa án
của Thiệu như thế nào. Vốn trước đây bà có bệnh suyễn, nên bà nhất quyết từ
chối ra tòa như một người bình thường. Bà yêu cầu bác sĩ riêng của bà có mặt và
bà xuất hiện trước tòa trên cái băng ca. Tòa vừa bắt đầu làm thủ tục thì cơn
xuyễn- thật hư không rõ cũng bắt đầu tấn công bà. Rồi cơn đau tim dữ dội như
sắp sửa cướp đi mạng sống của bà khiến bác sĩ cuống cuồng lên, yêu cầu tòa phải
ngừng ngay phiên xử. Dĩ nhiên luật sư Vũ Văn Mẫu tuyên bố thân chủ của ông
không thể dự phiên tòa trong tình trạng sức khỏe như thế này và yêu cầu tòa dời
một ngày khác khi thân chủ ông có đủ điều kiện sức khỏe.
Trong giai đoạn này bà
có nhiều hình thức đấu tranh rất độc đáo và kiên cường. Trước khi bị bắt, bà
Thành đã từng dùng nhà mình để họp báo quốc tế, trưng bày tài liệu, hình ảnh
chống chính quyền.
…Khi luật sư Ngô Bá Thành
chưa bị bắt, người ôm sách và tài liệu của chị em phổ biến cho báo chí nước
ngoài và cho bạn bè, không ai khác hơn chính là cô con gái của chị (tên Thiện)
giỏi cả hai sinh ngữ Pháp và Anh. Đến khi chị Thành bị bắt cầm tù, cô con gái
của chị vẫn tiếp tục làm người liên lạc và phân phát tài liệu của chị một cách
tích cực và gan lì. Một mình hai mẹ con bà Thành cũng góp phần làm rung chuyển
chế độ Thiệu.
Cũng cần nhắc lại, sau
khi Hiệp định Paris được các bên ký, bà Ngô Bá Thành chính thức tự nhận mình là
“nhân viên dân sự Thực thể Chính trị thứ ba”. Tại cuộc tiếp tân do dân biểu
Kiều Mộng Thu tổ chức tại nhà hàng Continental ngày 8-10-1973 “để mừng ngày trở
về đời sống tự do của bà Ngô Bá Thành”, bà Thành đã choàng qua người một dải
băng xanh thêu chữ trắng “Thực thể chính trị thứ ba” và phía sau lưng có ghi
“Phong trào phụ nữ Việt Nam Đòi Quyền Sống”. Tôi có mặt trong cuộc tiếp tân này
cùng luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Lý Chánh Trung, cụ Đặng Văn Ký, linh mục
Phan Khắc Từ, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, các dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Phan Xuân
Huy, Trần Văn Tuyên, Ni sư Huỳnh Liên, Hòa thượng Thích Pháp Lan, giáo sư
Nguyễn Văn Trung v.v…
Sau khi đất nước thống
nhất, năm 1991, tôi tổ chức cuộc triển lãm tranh sơn dầu cá nhân tại Gallerie
Tràng Tiền Hà Nội. Một trong những người khách khá bất ngờ của cuộc triển lãm
chính là bà Ngô Bá Thành, lúc bấy giờ là đại biểu Quốc hội của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tôi vui mừng gặp lại nhau. Sau bao nhiêu thăng
trầm tại mảnh đất Sài Gòn đầy biến động và trắc trở, có lúc tưởng rằng thế hệ
mình mãi mãi không bao giờ được nhìn thấy đất nước thống nhất thế mà nay có dịp
hội tụ ngay tại thủ đô đất nước, quả thật với tôi không khác một giấc mơ. Sau
đó chị Thành dành cho tôi thêm một bất ngờ khác: chị quyết định mua một bức
tranh của tôi là bức “Bến Cảng Nhà Rồng” theo phong cách “bán trừu tượng”, giá
500 USD. Chị nói: “Tôi có hai lý do mua tranh của anh: Thứ nhất vì tôi muốn ủng
hộ một trí thức Sài Gòn, thứ hai tiền này tôi có được do dịch một quyển sách
luật của Việt Nam ra tiếng Mỹ chứ bình thường làm gì tôi có đô la để mua
tranh”. Năm sau tôi trở ra Hà Nội được chị mời dùng cơm tại nhà riêng. Tự chị
làm bếp. Trong phòng khách chật hẹp, bức tranh của tôi chiếm một vị trí trang
trọng.
Tuy hoạt động tại Sài
Gòn, nhưng sau khi đất nước thống nhất, chị Thành sống luôn tại Hà Nội. Chị yêu
Hà Nội và thích hợp với đời sống chính trị ở thủ đô.
Trở lại với các hình
thức đấu tranh đa dạng của người Sài Gòn chống chế độ Thiệu trước 1975 không
thể không nhắc đến một hình thức rất độc đáo: xuống đường làm báo nói. Ai có
sáng kiến đầu tiên về hình thức đấu tranh này: dân biểu Hồ Ngọc Nhuận hay linh
mục Nguyễn Ngọc Lan? Hoặc cả hai kể rằng anh đã lấy sáng kiến từ những chiếc xe
bán dạo “mì Ba Con Cua” (một loại mì ăn liền).
Tôi xin kể chuyến đi
làm “báo nói” ở Mỹ Tho và Cần Thơ gồm chị Kiều Mộng Thu, nhà thơ nhà báo Cung
Văn, nhà báo trẻ Mỹ John Spragens, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận…
Thời điểm diễn ra các
cuộc “báo nói” là sau khi ông Thiệu tái cử tổng thống trong cuộc bầu cử độc
diễn, Hội nghị Paris đã có sự thương lượng tích cực giữa phái đoàn Hà Nội và
Washingtonn. Sáng sớm, chúng tôi hẹn nhau ở một địa điểm bí mật để xuất phát.
Tôi nhớ, ngoài chúng tôi còn có anh Triệu Quốc Mạnh (lúc đó đang là chánh biện
lý tòa án Gia Định của chế độ Sài Gòn), Kỳ Nhân (phóng viên ảnh tự do, nhưng kỳ
thật là một phóng viên Việt cộng!) và hai linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín.
Lúc xuất phát, hai linh mục cải trang người thường để tránh con mắt theo dõi
của cảnh sát chìm. Nhưng chiếc ô tô của anh Nhuận, chở cả đoàn, trực chỉ miền
Tây, sắp đến tỉnh Mỹ Tho thì đột ngột dừng lại một căn nhà xưa nằm sát quốc lộ
(hình như thuộc làng Tân Hội Tây) là nhà của cha mẹ anh Nhuận. Tại đây hai linh
mục Lan và Chân Tín mặc trở vào chiếc áo linh mục của mình. Trong chiến lược
đối phó với lực lượng cảnh sát ở tỉnh, hai vị tính toán rằng cảnh sát sẽ lúng
túng trước các linh mục. Mà thật thế, đối diện với các linh mục mặc áo đen,
cảnh sát tại Mỹ Tho tỏ ra lúng túng thật sự.
Chiếc xe đến Mỹ Tho vào
lúc 9 giờ sáng, bấy giờ chợ Mỹ Tho vẫn còn buôn bán đông đúc. Chiếc xe đậu ngay
ở đầu chợ. Mọi người nhảy xuống xe trong chớp mắt. Máy phát điện hoạt động cấp
kỳ, loa phóng thanh hướng về phía chợ. Tôi là người xung phong “phát thanh”
trước. Trong khi tôi báo cáo, đồng bào tụ lại càng lúc càng đông. Tôi nói về
những tin tức trong nước và thế giới bị chính quyền Thiệu bưng bít và sau đó là
bình luận về tình hình hội đàm Paris, kêu gọi đồng bào cùng tham gia đấu tranh
cho hòa bình, còn các thành viên khác trong đoàn làm công việc phát truyền đơn
cho đồng bào. Cảnh sát Mỹ Tho quá bất ngờ không kịp phản ứng ngay. Chúng tôi
“phát thanh” được hơn 10 phút thì cảnh sát mới rầm rộ kéo đến. Hôm đó là một
sáng chủ nhất, trưởng ty cảnh sát Mỹ Tho là trung tá Đỗ Kiến Nâu (em của đại tá
Đỗ Kiến Nhiễu, đô trưởng Sài Gòn) về Sài Gòn thăm gia đình nên cảnh sát Mỹ Tho
như rắn không đầu, chẳng biết phải đối phó ra sao với nhóm “báo nói” gồm cả
linh mục. Có nên mạnh tay đàn áp không? Hay chỉ cần cô lập họ với đồng bào?
Cuối cùng thì đám cảnh sát chọn giải pháp thứ hai. Mặt khác họ cũng lúng túng
tới sự hiện diện của một nhân vật không biết là “ta hay địch”: ông ta đứng tách
ra khỏi nhóm đang “phát thanh” và phát truyền đơn, thỉnh thoảng quay lại phía
cảnh sát (đang vây thành vòng tròn chung quanh chiếc xe) đưa tay ra hiệu như
chỉ đạo họ: “Anh em cứ đứng yên xem sao”. Người đó chính là biện lý Triệu Quốc
Mạnh, người có thẩm quyền đích thực chỉ đạo cảnh sát, nhưng thực ra đang đứng
về phía những người hoạt động chống chính quyền! Ông có thể bị cách chức như
chơi. Mãi sau này khi cuộc chiến hạ màn, người ta mới biết ông tránh biện lý
tòa Gia Định đó là một đảng viên cộng sản!
Khi cảnh sát còn đang
chờ chỉ thị từ cấp trên thì chúng tôi đã nhảy lên xe rút đi hướng ngã ba Trung
Lương. Trên đường đi lại tiếp tục rải truyền đơn. Nhưng đến nga ba Trung Lương,
ô tô không chạy thẳng vào Sài Gòn mà rẽ trái, tiếp tục đi xuống miền Tây. Ý
định của chúng tôi là đến Cần Thơ gây một cuộc nữa.
Vì trời sắp tối lại
phải qua hai cái phà bắc Cần Thơ và Mỹ Thuận mới về đến Sài Gòn mà đi đêm cũng
không biết chuyện gì xảy ra (Cảnh sát làm gì đó chúng tôi rồi đổ thừa cho Việt
cộng thì sao?) cho nên đoàn báo nói quyết định ngủ lại ở Cần Thơ. Sáng hôm sau,
ăn sáng xong mới lên xe trở về Sài Gòn. Khi chúng tôi rời Tây Đô, cảnh sát “đưa
tiễn” rầm rộ như đưa tiễn đoàn nguyên thủ quốc gia. Xe cảnh sát chạy trước chạy
sau hú còi inh ỏi. Họ đưa chúng tôi đến bắc Cần Thơ, thở phào nhẹ nhõm khi thấy
ô tô của chúng tôi đã lên phà. Cảnh sát Cần Thơ coi mình đã làm xong phận sự.
Bên kia bờ thuộc trách nhiệm của cảnh sát Vĩnh Long. Tâm trạng của tôi lúc đó
là coi như “thua cuộc” ở Cần Thơ. Quang cảnh trên phà thật rộn rịp với mấy trăm
con người là hành khách của bốn chiếc xe đò và hai xe du lịch, chưa kể chiếc
của chúng tôi. Nhìn số người đông đúc ấy, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ: đây
một nơi lý tưởng để làm “báo nói”. Tôi liền bàn với anh Nhuận và linh mục Lan.
Hai anh tán đồng. Thế là máy phát điện lại nổ trước sự ngơ ngác của hành khách
trên phà. Tôi cầm ngay mi-crô, nhảy lên đứng trên đầu xe và bắt đầu nói chuyện
với bà con về tình hình đất nước, về hội đàm Paris v.v… Các thành viên khác
trong đoàn lại phát truyền đơn bươm bướm. Cảnh sát trên bờ Cần Thơ bắt đầu đoán
được chuyện gì xảy ra trên phà, nhưng đã quá trễ để ra lệnh phà quay trở lại.
Khi phà sắp đến bờ bên
kia, chúng tôi dẹp tất cả đồ nghề. Cảnh sát ở hai bên bờ chắc chắn có liên lạc
vô tuyến với nhau, cho nên xuống phà chúng tôi lại được “đón” rất long trọng.
Lại cái cảnh xe cảnh sát chạy trước chạy sau xe chúng tôi, còi hụ inh ỏi. Nhưng
đến Bắc Mỹ Thuận, các xe cảnh sát lại dừng ở bờ bên này, cũng coi như mình đã
làm xong phận sự. Phà rời bến được một khoảng cách an toàn, nghĩa là không thể
ra lệnh quay lại bờ, đoàn báo nói của chúng tôi lại hoạt động. Chuyến đi đó
được phóng viên nhiếp ảnh Kỳ Nhân ghi lại hình ảnh đầy đủ. Không biết sau này
anh có giữ được hình ảnh đó hay không?
Cũng trong chuyến đi
này tôi có một phát hiện: đồng nghiệp và là người bạn của tôi, nhà báo – nhà
thơ Cung Văn đúng là có quan hệ với cộng sản. Trên đường đi, khi anh Nhuận lái
xe, tôi ngồi phía sau với Cung Văn. Anh đã đọc bài thơ “Thăm lúa” của nhà thờ
Trần Hữu Thung cho tôi nghe. Đọc xong bằng cái giọng Đà Nẵng quen thuộc, anh
nói thêm: “Bài này đoạt giải thưởng Vacxava”. Trước đây khi tôi nói với anh Cung
Văn rằng các bài “Văn tế sống” của anh trên báo Điện Tín chắc
là do “ở trỏng” đưa ra cho anh, tôi chỉ nói đùa, nhưng đồng thời cũng muốn ngầm
nói với anh rằng tôi hiểu “khuynh hướng chính trị” của anh. Nhưng sau chuyến đi
làm báo nói đó thì tôi quả quyết Cung Văn là người có quan hệ “ở trỏng” thật!
Kiểu xuống đường làm
“báo nói” – như chuyến đi Mỹ Tho và Cần Thơ ấy – thời gian sau khi Hiệp Định
Paris đã ký kết chúng tôi mang tận ra Huế để “diễn” rất thành công ngay tại chợ
Đông Ba.
CHƯƠNG 15: “BÚT THẦN” TỜ BÁO CUỐI CÙNG TÔI LÀM CHỦ BÚT
Tính chung, trước khi
tôi làm tờ Bút Thần, tôi đã đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút hai
nhật báo (Sài Gòn Tân Văn và Tiếng Nói Dân Tộc), chủ
bút một tuần báo (Buổi Sáng do ông Mai Lan Quế làm chủ nhiệm) và
một nhật báo (Điện Tín), còn cộng tác với tư cách phóng viên thì với bốn
tờ: báo thể thao Đuốc Thiêng, nhật báo Thanh Việt, tuần
báo Bình Minh, nhật báo Buổi Sáng (thời ông Nguyễn
Văn Mại làm tổng thư ký tòa soạn).
Tờ Bút Thần do
anh Nguyễn Văn Phương làm chủ nhiệm (nói theo thời đó anh là người đứng
tên manchette). Tên tờ báo do anh Phương chọn từ trước. Tôi là
người mướnmanchette của anh sau khi tôi ngưng khai thác tờ Điện
Tín. Anh Phương nhận một số tiền hàng tháng không nhiều, chỉ hơn phóng viên
chút ít. Nhưng anh đã đi cùng với chúng tôi suốt thời gian tồn tại của tờ báo,
cho đến khi nó bị rút giấy phép xuất bản. Phải liên tục hầu tòa với tư cách chủ
nhiệm, vì báo liên tục bị tịch thâu, anh Phương không bao giờ than phiền hay tỏ
ra sợ hãi. Ngày ra số cuối cùng tôi viết một xã luận của tôi tố cáo quyết liệt
chính sách báo chí của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Lúc làm tờ Bút
Thần, tôi đã ‘‘tẩy chay’‘ quốc hội Sài Gòn, không còn dự các phiên họp của
Hạ nghị viện và mở một quán ăn trên đường Trương Định, trước cửa công viên Tao
Đàn, sát bên cơ quan PX – một siêu thị dành riêng cho nhân viên và lĩnh Mỹ,
giao dịch bằng đồng đô la đỏ chỉ được sử dụng tại miền Nam Việt Nam. Đó quán ăn
đầu tiên mà vợ tôi, Nguyễn Thị Quỳnh Nga – làm chủ.
Một sáng đứng trước
quán, tôi nhận ra một người cao gầy, miệng móm xọm ngồi đánh cờ dưới một gốc me
trên lề đường. Đó là nhà báo Tô Nguyệt Đình (tên thật Nguyễn Bảo Hóa), tác giả
cuốn tiểu thuyết được rất nhiều người đọc vào những năm 50: “Bộ áo cà sa đẫm
máu”. Khi tôi mới gia nhập làng báo, còn là một phóng viên tập sự ở hai tờ
báo Thanh Việtvà Bình Minh (năm 1963 - 1964) tôi
đã có cơ hội làm việc chung và học hỏi với bác Đình (tôi gọi ông Đình bằng bác
vì tuổi ông Đình lớn hơn cha tôi). Tánh tình bác Đình rất hiền từ, kín đáo
nhưng vui vẻ. Tôi nhớ mãi nụ cười móm xọm và hồn nhiên của ông.
Tôi bước ra khỏi quán
và đi lại chỗ ông. Khi đứng sát bên ông tôi lấy tay khều nhẹ. Không phải vì quá
mê đánh cờ mà ông không thấy tôi đến gần. Thật sự, tuy ngồi có vẻ chăm chú đánh
cờ nhưng ông quan sát chung quanh và từ xa rất kỹ. Khi tạm ngưng chơi cờ, bước
ra một mình nói chuyện với tôi, ông hỏi nhỏ: “Có việc gì không ông Chung?”. Đã
nhiều ngày nay, tôi có ý định cho đăng lại tiểu thuyết “Bộ áo cà sa đẫm máu”
trên tờ Bút Thần dưới hình thức một “feuilleton”, tức truyện đăng nhiều kỳ.
Truyện này đăng lại vẫn “ăn khách”, nhưng mặt khác cũng là cách giúp thêm thu
nhập cho ông. Ông lại nói: “Tụi nó đang theo dõi tôi. Ông Chung nên xem lại có
tiện cho tờ báo hay không?”. Tôi trả lời: “Bác cứ yên tâm, đó là việc của tôi”.
Và sau đó chuyện “Bộ áo cà sa đẫm máu” xuất hiện lại trên tờ Bút Thần.
Tờ Bút Thần tồn
tại chỉ được nửa năm thì phải đóng cửa do sắc luật báo chí 007/72 của chính
quyền Thiệu ban hành với mục đích hết sức rõ ràng là tiêu diệt các tờ báo đối
lập, chỉ duy trì các tờ báo của chính phủ (tờ Dân Chủ), của quân
đội (tờ Tiền Tuyến), và của đảng phái đồng minh với chế độ như
tờ Bình Minh, sau này là cơ quan ngôn luận chính thức của Phong
trào Cấp Tiến. Tờ Bình Minh ra đời năm 1963 ngay sau khi nhóm
tướng lãnh đứng đầu là Dương Văn Minh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Tướng Minh
và Võ Văn Ứng (chủ nhiệm Bình Minh) là bạn của nhau, từ thời ông
Minh còn là thủ môn đội bóng đá Thủ Dầu Một (bây giờ là Bình Dương), còn ông
Ứng là ông bầu đội này. Giai đoạn đầu (1963-1964), tôi có tham gia tờ báo, lúc
đó tờ Bình Minh có một lập trường tiến bộ. Do
những năm sau này không có liên lạc gì với ông, tôi không biết lý do gì ông
tham gia chính trị và có tên trong ban lãnh đạo của Phong trào Cấp Tiến, thực
chất là đảng Tân Đại Việt trước đây (lãnh tụ của đảng này là giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy giảng dạy tại Học viện quốc gia Hành chánh).
Sắc luật 007/72 bắt
buộc mỗi tờ nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (lúc ấy tương đương 47.000
USD), còn báo định kỳ thì 10 triệu. Nếu không nạp đủ số tiền đó, thì tờ báo bị
rút giấy phép. Luật có điều khoản ưu đãi đặc biệt cho những tờ báo thuộc các
đảng phái được chính quyền cấp phái lai (tức cho phép hoạt động). Các đảng phái
hợp pháp này, đương nhiên thân chính quyền, báo của họ chỉ đóng phân nửa tiền ký
quỹ, 10 triệu đồng (như tờ Bình Minh). Các tờ báo có đủ tiền, đóng
ký quỹ tại Tổng nha Ngân khố trong một trương mục có lãi. Trương mục này do chủ
nhiệm, chủ bút, hoặc quản lý đứng tên dành để bảo đảm việc thanh toán các “ngân
hình án phí” và tiền bồi thường thiệt hại cho dân sự nguyên cáo định kỳ trong
những bản án tuyên xử liên quan đến những vi phạm điều khoản luật này. Ông tổng
giám đốc Ngân khố sau khi nhận được bản án, đương nhiên khấu trừ số tiền ký
quỹ. Số tiền ký quỹ phải luôn luôn đầy đủ theo luật định. Khi số tiền ký quỹ bị
khấu trừ thì ngay sau khi nhận được thông báo của tổng giám đốc Ngân khố, tờ
báo phải đóng thêm cho đủ số tiền ký quỹ trong thời hạn 15 ngày. Nếu không, tờ
báo bị coi như tự đình bản, hoặc cơ sở phát hành bị coi như tự ý ngưng hoạt
động. Nếu tiếp tục hoạt động sẽ bị truy tố.
Ngoài sắc luật 007/72
còn qui định tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc
gia và trật tự công cộng sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn (trước khi có luật này, chẳng
hạn tờ Điện Tín lúc tôi làm chủ bút 1970-1971, mỗi tuần ít
nhất cũng bị tịch thu một, hai lần; ra tòa chỉ bị phạt miệng và tờ báo chẳng
đóng phạt đồng nào!). Có vài con số thống kê đáng chú ý như sau: từ vụ xử đầu
tiên theo sắc luật 007/72 (tờ báo bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu
thủ đô đầu tiên là Điện Tín ngày 18-8-1972) cho đến hết năm
1973 có tất cả 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc
luật 007/72, từ tháng 12-1969 đến tháng 8-1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật
báo chí” cũ (luật 019/69).
Theo dõi phiên đầu tiên
của Tòa án Quân sự Mặt trận xử tờ báo Điện Tín, chiếu theo Sắc luật
007/72, có thể thấy phần nào sự vận hành của tòa án lúc đó trong một vụ án báo
chí. TờĐiện Tín do ê kíp mới phụ trách nội dung gồm các anh Hồ Ngọc
Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Chánh Trung với tiền đóng ký quỹ do một tư sản trong
ngành in ấn hỗ trợ.
Lý do Điện Tín bị
đưa ra tòa: vi phạm an ninh quốc gia. Ngày 18-8-1972 nhật báo Điện Tínđăng
tải một thống kê về trọng lượng và số bom mà các phi cơ Mỹ đã ném xuống Đông
Dương và Việt Nam. Theo tài liệu ấy số lượng bom được sử dụng ở đây nhiều hơn
cả số lượng bom mà Mỹ sử dụng trong đại chiến thế giới thứ hai. Bộ nội vụ yêu
cầu Công tố viên truy tố tờ Điện Tín. Tội danh trong vụ truy tố này là ‘‘phổ
biến tin tức và tài liệu có thể phương hại đến an ninh quốc gia’‘ (vi phạm điều
28 đoạn a trong sắc luật 007/72). Sau đây là tường thuật phiên tòa do các báo
lúc đó ghi lại:
‘
‘Phiên xử báo chí đầu
tiên trước tòa theo sắc luật 007/72 diễn ra lúc 9 giờ sáng ngày thứ sáu
22-9-1972. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Điện Tín là nghị sĩ Hồng Sơn Đông do có tư
cách nghị sĩ nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm, vì vậy bà quản lý của tờ
báo phải thay mặt chủ nhiệm, bị coi là ‘‘chánh phạm’‘.
Câu hỏi đầu tiên của
tòa là: ‘‘Quản lý nhật báo Điện Tín, bà có kiểm soát bài vở trước khi cho in
không?”. Bà quản lý trả lời: ‘‘Tôi chỉ biết lo về tiền bạc cho tờ báo, không có
thẩm quyền kiểm soát bài vở của tòa soạn”. Tòa mời đại diện bộ Nội vụ ra xác
nhận có yêu cầu truy tố nhật báo Điện Tín hay không. Vì đại diện bộ Nội vụ cho
rằng số lượng bom phi cơ Mỹ dội xuống Việt Nam là con số quá lớn, nhật báo Điện
Tín phổ biến con số đó gây hoang mang cho dư luận, làm phương hại cho an ninh
quốc gia. Tòa hỏi bộ Nội vụ có con số nào để so sánh hoặc làm mức đo lường sự
quá đáng, bộ Nội vụ trả lời không có. Tòa hỏi xuất xứ tài liệu được đăng tải.
Trái với dự đoán của những người có mặt, báo Điện Tín không dựa vào điều 22 qui
chế báo chí (được Sắc luật 007 thừa nhận) để từ chối trả lời câu hỏi này mà
luật sư thay mặt tờ báo xuất trình bản chính tài liệu xuất xứ từ Viện Đại học
Cornell (Hòa Kỳ). Tòa hỏi ủy viên chính phủ có ý kiến gì. Vị này trả lời:
‘‘Tài liệu có thật
nhưng phổ biến có hại cho an ninh quốc gia”.
Tranh luận trước tòa và
biện hộ cho nhật báo Điện Tín, luật sư Bùi Chánh Thời nêu lên ba phản biện quan
trọng:
a) Tranh luận vài trò
của người quản lý
Ai cũng biết, trong một
nhật báo, chịu trách nhiệm về bài vở là chủ nhiệm hay chủ bút. Đó là bàn về
phương diện lý thuyết. Trong thực tế, thư ký tòa soạn đảm nhận công việc ấy.
Không một nhật báo nào trên thế giới để người quản lý kiểm soát bài vở. Vai trò
thuần túy của quản lý là điều hành tờ báo về mặt hành chánh. Bắt người quản lý
chịu trách nhiệm về bài vở là một điều vô lý.
b) Nguyên tắc cá biệt
của hình phạt.
Theo nguyên tắc tổng
quát của luật hình thì chỉ có hành vi là bị trừng phạt. Cá nhân không có hành
vi phạm tội thì không thể bị trừng phạt. Từ điểm này ta đi tới một nguyên tắc
lớn hơn nữa là sự cá biệt của hình phạt. Viên quản lý nhật báo Điện Tín không
có hành động phạm tội lại bị coi là chánh phạm.
c) Yếu tố phổ biến
Biên bản của bộ Nội vụ
có ghi rõ là tịch thu báo Điện Tín trên máy in. Số báo đề ngày 16 tháng 8 năm
1972 nhưng bị tịch thu tất cả trong buổi chiều ngày 15 tháng 8 năm 1972. Như
vậy không hề có yếu tố phổ biến để buộc tội nhật báo Điện Tín theo điều 28 đoạn
a Sắc luật 007/72 ghi lại (dùng báo chí phổ biến).
Cần phải nhắc nhở ở đây
là luật báo chí 1881 của người Pháp đã sửa đổi vào năm 1945 có ghi rõ: “Muốn
viết gì thì viết nhưng nếu chưa phổ biến thì vẫn còn nằm trong tư tưởng, do đó
chưa thành tội phạm và không thể bị trừng phạt”. Người làm báo mong muốn được
nghe giải thích thế nào là gây hoang mang, thế nào là phá hoại an ninh quốc
gia, nhưng sự giải thích đó không bao giờ có được. Điều này có thể làm nhà báo
nghĩ rằng đây là trường hợp ‘‘người ta tịch thu trước rồi tìm lý do truy tố
sau”. Để kết luận, luật sư Bùi Chánh Thời xin tòa tha bổng cho nhật báo Điện
Tín và chiếu điều 20 sắc luật 007/72, luật sư Thời xin phản tố trước tòa để đòi
bồi thường 1.000.000 đồng thiệt hại.
Về điểm này ủy viên
chính phủ trả lời:
“Theo văn bản tổ chức
của Tòa án Quân sự Mặt trận thì tòa này không có thẩm quyền truyền bồi thường”.
Sau khi nghe ủy viên
chính phủ buộc tội gắt gao, tòa nghị án và trở ra tuyên án: phạt quản lý tờ
nhật báo Điện Tín 01 năm tù ở và 1.000.000 đồng tiền vạ.
Tranh luận qua lại có
vẻ dân chủ nhưng thực tế tòa án vẫn nằm trong tay của chế độ Thiệu và khi tuyên
án dứt khoát theo ý muốn của chính quyền.
Sắc luật 007 được ông
Thiệu ký ngày 5-8-1972 khiến cho 16 tờ báo ngày và 15 tờ báo định kỳ phải đóng
cửa.
Về phần tôi với tờ nhật
báo Bút Thần, dĩ nhiên không đào đâu ra số tiền tương đương 47.000
USD để đóng ký quỹ, duy trì công cụ đấu tranh của mình. Phẫn nộ, uất ức nhưng
cũng đành chịu. Tôi cùng dân biểu Nguyễn Hữu Chung tổ chức họp báo tại trụ sở
Hạ nghị viện tố cáo tổng thống Thiệu đang dùng bàn tay sắt siết chặt báo chí và
bóp nghẹt dân chủ. Mặt khác tôi không thể chờ ngày hết hạn xuất bản tờ Bút
Thần (theo luật 007) và chấp nhận lệnh đóng cửa tờ báo một cách ngoan
ngoãn. Tôi quyết định đóng cửa Bút Thần trước ngày hết hạn,
đánh lạc hướng chính quyền và tổ chức một số báo cuối cùng với bài xã luận nẩy
lửa lên án chế độ. Theo luật lúc ấy các báo phải nộp lưu chiểu và đưa lên Bộ
thông tin kiểm duyệt đầu giờ chiều (2 giờ) rồi hai tiếng đồng hồ sau mới được
phát hành. Tuy nhiên thường các báo vừa nộp lưu chiểu là phát hành ngay, phòng
ngừa trường hợp bị tịch thu thì cũng thoát ra khỏi tòa soạn một số lượng báo
khá lớn rồi. Trong trường hợp bị kiểm duyệt nhiều chỗ thì điều chỉnh ngay và
cho in lại một số lượng báo tượng trưng để nộp cho Bộ thông tin đợt hai. Những
chỗ bị kiểm duyệt, đục trắng, tòa soạn phải in thêm vào đó hàng chữ viết tắt:
TYĐB, có nghĩa ‘‘Tự ý đục bỏ”. Đây là chuyện làm rất khôi hài của Bộ thông tin
bởi không có độc giả nào (kể cả báo chí nước ngoài) lại không biết rằng những chỗ
bị đục ấy là do lệnh của Bộ thông tin chứ có báo nào…tự ý đục bỏ đâu!
Ngày Bút Thần ra
số cuối cùng, tôi cho in báo rất sớm. Chưa đi nộp lưu chiểu, tôi cho báo phát
hành luôn lúc 12 giờ chưa. Khi lệnh tịch thu đến thì trong nhà in chẳng còn tờ
báo nào. Hàng chục cảnh sát ập vào, lúc soát tứ tung. Không còn báo để tịch
thu, họ tịch thu những bản chì còn nằm trên các máy in. Một nhóm truyền hình
Mỹ, do tôi điện thoại mời, có mặt đúng lúc để ghi nhận cảnh tịch thu báo và
cũng là sự phản kháng công khai đầu tiên của báo chí đối với sắc luật 007/72
của chính quyền Thiệu. Tôi còn nhớ khi truyền hình CBS phỏng vấn tôi bên cạnh
máy in thì chủ nhà in đứng gần đó như muốn nói điều gì. Tôi nghĩ chắc ông chủ
nhà in phản ứng lại tôi vì để cho báo chí nước ngoài vào nhà in của ông mà
không hỏi ý kiến ông và ông sợ rằng sẽ bị chính quyền gây khó khăn về việc này.
Cuộc phỏng vấn vừa kết
thúc, tôi liền đến gần ông. Thật là một bất ngờ: ông không hề phản đối những gì
đang xảy ra mà còn bảo tôi “Ông dân biểu nhắc họ nhớ quay cái bảng hiệu nhà
in”. Bảng hiệu nhà in là Tường Anh, nằm trên đường Gia Long (nay là Lý Tự
Trọng), ngay ở ngã tư cắt ngang bởi đường Thủ Khoa Huân hướng từ chợ Sài Gòn đi
lên. Ông chủ nhà in xuất thân là một cậu bé bán báo dạo, lớn lên làm đại lý
“báo cổ động”. Lúc này tại Sài Gòn có ba hệ thống chính phát hành các báo:
1. Hệ thống cổ động, chỉ phát hành trong Sài Gòn với hàng trăm trẻ
em nhỏ ôm báo chạy bán khắp nơi. Đây là hệ thống tiêu thụ báo mạnh nhất, và
cũng hoàn tiền cho các báo sớm nhất (chỉ một hai ngày sau khi báo phát hành).
‘‘Trùm’‘ hệ thống này là ông Hai Chí. 2. Hệ thống Đô thành, cũng
phát hành chủ yếu trong Sài Gòn nhưng qua các sạp báo cố định. Các báo thâu
tiền thường chậm hơn, khoảng một tuần. Đứng đầu hệ thống này là ông Tư Paul
3. Hệ thống Nam Cường, phát hành khắp các tỉnh miền Nam. Thường
15-20 ngày sau, Nam Cường mới hoàn tiền cho các báo. Ngoài báo, Nam Cường còn
phát hành sách.
Ông chủ nhà in Tường
Anh đã lập nghiệp bằng sức lao động của mình từ một đứa trẻ bán báo cổ động.
Sau này tôi mới biết trong số các con của ông có người hoạt động trong hàng ngũ
những người cộng sản.
Trong số báo Bút
Thần cuối cùng, ngoài sự lên án sắc luật 007/72 dành độc quyền ra báo
cho những kẻ giàu có- báo chí của giai cấp tư bản – tôi còn có một tuyên bố
trong bài xã luận: vĩnh viễn không cầm viết nữa. Thế là sau khi “tẩy chay” Quốc
hội – không đi họp nữa – tôi “tẩy chay” viết! Cùng một lúc tôi mất đi hai diễn
đàn đấu tranh. Nhiều năm sau nhìn lại, tôi vẫn không biết mình có những quyết
định đó đúng hay sai. Nếu xét về mặt áp lực chính trị tức thời, dĩ nhiên các
quyết định “tẩy chay” quốc hội để phản đối cuộc độc diễn của ông Thiệu và tự
đóng cửa báo để tố cáo sắc luật 007/72 đều có tác dụng. Nhưng tính đường dài
thì tiếp tục hoạt động trong Quốc hội và tìm cách duy trì tờ báo vẫn có lợi hơn
chăng?
Từ cuối năm 1972, tôi
chỉ có hai hoạt động để tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần của mình: dự các buổi họp
hàng tuần vào ngày thứ sáu trong nhóm Dương Văn Minh và tham gia các cuộc xuống
đường do anh Hồ Ngọc Nhuận chủ xướng.
Nhưng cuộc xuống đường
mà tôi sắp kể lại sau đây – “Ngày ký giả đi ăn mày” – thì không do anh Nhuận
nhúng tay vào mà thuộc 4 tổ chức báo chí ở Sài Gòn đứng ra tổ chức: Hội chủ
báo, Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam và Hội ái hữu ký
giả. Cũng cần nói qua về hai Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt và Việt Nam. Nghiệp đoàn
ký giả Nam Việt được thành lập trước, trước khi có Hiệp định Genève 1954. Các
hội viên gồm tất cả các nhà báo hoạt động tại Sài Gòn. Sau 1954, nhiều nhà báo
miền Bắc di cư vào Nam xuất bản nhiều tờ báo mới và thành lập Nghiệp đoàn ký
giả Việt Nam. Có một sự khác biệt ngấm ngầm giữa giới cầm bút tại Sài Gòn và
giới cầm bút từ miền Bắc di cư vào. Các ký giả Sài Gòn đa số có thái độ chính
trị hoặc độc lập hoặc chống chính quyền, rất nhiều trong số họ là những cựu
kháng chiến, không kể một số không ít đang hoạt động bí mật cho cộng sản. Trong
khi đó đa số ký giả từ miền Bắc vào năm 1954 đều có lập trường chống cộng và
ủng hộ chính quyền, từ thời Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu. Trước
‘‘Ngày ký giả ăn mày’‘, hai Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt và Việt Nam hầu như
không hợp tác với nhau. Chính do sự ra đời của sắc luật 007/72 đã làm họ xích
lại gần nhau. Nhưng sâu xa hơn, sự đoàn kết giữa hai Nghiệp đoàn còn xuất phát
từ tình hình suy sụp uy tín và thế lực của chính quyền Thiệu vào cuối năm 1974.
Khi sắc luật 007/72 được ban hành vào năm 1972, đó là thời điểm quyền lực của
tổng thống Thiệu được củng cố mạnh mẽ nhất. Ông ta dùng bàn tay sắt để kiểm
soát báo chí (trước đó ngày 11-5-1972, tổng thống Thiệu đã ban hành lệnh thiết
quân luật). Nhưng sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-01-1973, chính
quyền Thiệu yếu dần. Các lực lượng chống cộng tại miền Nam hiểu rằng Mỹ đang
chuẩn bị bỏ rơi chính quyền của Thiệu nên sự điều chỉnh lại thái độ chính trị
và giữ một khoảng cách nào đó đối với chính quyền là cần thiết. Những người ủng
hộ Nguyễn Văn Thiệu đang lần lượt bỏ ông.
“Ngày ký giả đi ăn mày”
là cuộc xuống đường lớn nhất và được quần chúng công khai ủng hộ đông nhất
trong thời kỳ chống Mỹ và chính quyền Thiệu. Về mặt công khai, cuộc xuống đường
này như đã nói có bốn tổ chức báo chí khởi xướng, nhưng chỉ cần nhìn vào những
nhân vật dẫn đầu cuộc biểu tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử này
của báo chí miền Nam: ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn Nam Việt Nguyễn Kiên Giang,
các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần Chung và sau
là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội
Miền Nam và là người khởi xướng giải Thanh Tâm cải lương) còn có nhà
văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại (cựu tổng thư
ký tòa soạn báo Buổi Sáng), Quốc Phượng, nhà thơ – nhà
báo Kiên Giang Hà Huy Hà đều là cán bộ cộng sản chính cống!
Chính quyền Thiệu đã
biết trước cuộc xuống đường này vì trong làng báo có khá nhiều ký giả giả, ký
giả chỉ điểm, ký giả làm việc cho trung ương tình báo. Nhưng chính quyền vẫn
không ngăn chặn hoặc phá vỡ cuộc tổ chức xuống đường. Cuộc xuống đường lấy hình
ảnh “ký giả ăn mày” để tố cáo sắc luật 007/72 đã khiến cho nhiều ký giả phải
chịu cảnh thất nghiệp do nhiều tờ báo bị đóng cửa vì không có tiền đóng ký quỹ.
Chính vì vậy nên mỗi ký giả tham dự cuộc xuống đường đều được Ban tổ chức phát
cho một nón lá, một bị đệm của người ăn xin (đeo vào cổ) và một cây gậy. Lực
lượng chính hỗ trợ cho các nhà báo là các dân biểu – nghị sĩ đối lập, trong đó
có nhiều người đồng thời là nhà báo như anh Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và
tôi. Cuộc xuống đường diễn ra ngày 10 tháng 10 – 1974, xuất phát từ trụ sở của
Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là
đường Đồng Khởi). Lộ trình dự định của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ
Lê Lợi, nhắm thẳng chợ Bến Thành là nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi. Nhưng
ngay trước trụ sở Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, một rừng dày đặc cảnh sát dã
chiến án ngữ không cho đoàn biểu tình vượt qua đường Nguyễn Huệ. Tôi có mặt
cùng một số dân biểu và nhà báo lão thành ở hàng đầu, cũng nón lá, bị, gậy;
chạm mặt trực tiếp với hàng rào cảnh sát. Về phần mình, tôi chủ trương dùng
tình cảm và sự thuyết phục để đột phá qua hàng rào. Tôi nói với người cảnh sát
đứng trước mặt tôi với cái khiên tre chắn ở giữa: “Anh có nhiệm vụ của anh là
ngăn chặn biểu tình, tôi có nhiêm vụ của tôi với tư cách đại biểu của dân. Giữa
tôi và anh chẳng có thù ghét gì. Tôi đẩy tới, anh đẩy lùi lại thì có sao đâu”.
Thật sự trước các nhà báo, các dân biểu – nghị sĩ và nghệ sĩ – trí thức rất
hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ
không bị khiêu khích hoặc kích động làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông
“ký giả ăn mày” rướn tới một cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và
dòng người biểu tình cuồn cuộn đổ ra đại lộ Lê Lợi như dòng sông đổ ra biển.
Người dân hai bên đường hoan hô đoàn biểu tình, nhiều người hào hứng nhập vào
đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những người buôn bán
trong chợ ào ra “bố thí” các ký giả ăn mày, nhét vào bị của chúng tôi đủ thứ
bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng đậm nét. Trên
báo Điện Tín ngày 10-10-1974, anh Lý Chánh Trung ghi lại cảm tưởng của anh như
sau: “Trong một tiếng đồng hồ, từ công trường Lam Sơn đến chợ Bến
Thành, rồi từ chợ Bến Thành về công trường Lam Sơn tôi có cảm tưởng đang bềnh
bồng trôi trên biển, bị cuốn ra khơi rồi đưa trả về bờ”.
Cả hai đài VOA (Tiếng
nói Hoa Kỳ) và BBC (Anh) nhìn nhận đây là cuộc biểu tình lớn nhất kể từ 3 năm
qua.
Tuy nhiên, cuộc xuống
đường của ký giả ăn mày ngày 10-10-1974, dù rầm rộ và gây một ảnh hưởng lớn
trong dư luận vẫn diễn ra khá hòa bình. Trái hẳn với màn ‘‘hậu ký giả ăn mày”
diễn ra tối hôm đó và ngày hôm sau, ‘‘chiến tranh’‘ đã thật sự nổ ra giữa đoàn
biểu tình và lực lượng cảnh sát, sự đàn áp không nương tay và có cả máu đổ.
Sau khi đoàn biểu tình
giải tán, một số anh em nhà báo và dân biểu lui về trụ sở của Nghiệp đoàn ký
giả Nam Việt ở đầu đường Lê Lợi, đối diện với trụ sở Hạ nghị viện (tức Nhà Hát
Thành Phố). Lý do tập hợp tiếp ở đây là để canh giữ những quà biếu nhận được từ
quần chúng. Điều mà anh em không ngờ là phía lực lượng cảnh sát bị khiển trách
nặng sau cuộc biểu dương lực lượng khá tự do của các nhà báo, đang chuẩn bị
‘‘chuộc tội’‘. Cảnh sát đặt bộ phận chỉ huy dã chiến của họ trên lầu nhà hàng
Rex ngó xéo qua trụ sở Nghiệp đoàn ký giả. Giám đốc cảnh sát Đô thành Trang Sĩ
Tấn là người trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp này. Tôi không có mặt tại trụ sở
Nghiệp đoàn lúc đó vì phần sau không nằm trong kế hoạch chung, mà do một số anh
em tự biên tự diễn.
Sáng sớm hôm sau tôi
trở vào Hạ viện mới hay chuyện xảy ra đêm qua. Thời đó đâu có điện thoại cầm
tay để thông báo cho nhau những sự kiệc bất ngờ như thế. Anh em kể: lúc giờ
giới thiệu, cảnh sát tập trung lực lượng, từ phía chợ Bến Thành ào tới trụ sở
Hạ Nghị Viện và Trung tâm báo chí. Hàng rào của anh em dân biểu mới lập ra bị
xé bởi một trận mưa dùi cui. Nhiều anh em bị đánh rất đau. Nặng nhất là danh
dân biểu bác sĩ Đinh Xuân Dũng, đơn vị Bình Thuận. Anh Dũng còn bị cảnh sát túm
lôi và ném lên xe, chở đi mất. Anh em nhanh chóng trao đổi với nhau. Anh Hồ
Ngọc Nhuận đề nghị, nếu anh Đinh Xuân Dũng không được trả về trước khi trời
sáng, thì ta sẽ mở đợt tấn công mới thật “bốc lửa”. Tất cả tán thành. Chiếc
LaDalat được chất đầy một đống vỏ xe cũ và mấy can xăng. Nếu bị tấn công, anh
Nhuận sẽ lái xe phóng vào sân Hạ Viện, rồi sẽ tính tiếp… Chuẩn bị xong đâu đấy
thì có một chiếc xe Jeeps cảnh sát chạy tới trước trụ sở Ủy ban. Từ trên xe,
anh Đinh Xuân Dũng bị ném xuống. Anh em vội chạy ra khiêng vô.
Tôi được nghe anh Đinh
Xuân Dũng nói với anh em “Tui đã mổ và cứu sống cho nhiều đứa tụi nó, vậy mà
tụi nó vẫn thẳng tay với tôi. Chẳng có tình nghĩa gì”. Dân biểu Dũng từng là
bác sĩ quân y. Trên mặt và trong người anh có nhiều thương tích nhưng cũng
không quá nặng. Anh em – không chịu thua ông Thiệu và giám đốc cảnh sát Trang
Sĩ Tấn – đã nghĩ ra kế độc để đánh trả lại, hoặc ít ra cũng tạo được một xì
–can-đan để hạ uy tín của chính quyền Thiệu. Tham gia vào kế hoạch này có các
bác sĩ giám đốc và phó giám đốc Bệnh viện Sùng Chính: Bác sĩ Lê Khắc Quyến và
bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn (Bác sĩ Mẫn từng là thị trưởng Đà Nẵng trong cuộc nổi
loạn tại miền Trung năm 1966 của quân đội và Phật giáo).
Bác sĩ Dũng được bí mật
đưa vào bệnh viện Sùng Chính rồi từ đó được đưa trở lại Hạ viện bằng xe cứu
thương và trên một băng ca.
Xe cứu thương không đưa
dân biểu Dũng (được băng bó kín mít như đang trong tình trạng nguy kịch) thẳng
đến trụ sở Hạ viện vì lúc này cảnh sát tập trung rất đông trên đường Tự Do, đối
diện với trụ sở. Chiếc xe cứu thương xuất hiện từ đường Hai Bà Trưng, ở phía
sau Hạ viện, hoàn toàn bất ngờ, khiến cho cảnh sát canh chừng trụ sở Hạ viện
không kịp trở tay. Một số dân biểu và nhà báo được báo trước đã trực sẵn ở đó.
Ba dân biểu, trong đó có tôi, cùng một nhà báo vội vàng kê vai vào khiêng chiếc
băng ca đi vòng ra phía trước Hạ viện và đặt xuống ngay tại tiền sảnh. Trên
thềm Hạ viện nhìn thẳng con đường Lê Lợi dài đến chợ Bến Thành không thấy bóng
một người dân thường nào. Toàn cảnh sát rằn ri và cảnh sát chìm. Trung tâm Sài
Gòn lúc này không khác một thành phố ma. Tôi đoán biết giám đốc cảnh sát Đô
thành Trang Sĩ Tấn đã được lệnh thẳng tay đàn áp, kể cả báo chí nước ngoài nếu
tìm cách quay phim cuộc biểu tình. Mấy hôm trước, tay quay phim người Mỹ của
hãng truyền hình CBS ghi hình cuộc đàn áp một số nữ sinh tham gia cuộc biểu
tình đã bị cảnh sát chìm đánh ‘‘bề hội đồng’‘ một cách hết sức dã man, máy quay
phim bị đập nát còn bản thân anh thì các đồng nghiệp phải đưa vào nhà thương
cứu cấp.
Biết chuyện gì đang chờ
đợi mình, nhưng anh em không chùn bước và tiến hành giai đoạn tiếp theo của kế
hoạch đã định: khiêng chiếc băng ca có bác sĩ Dũng nằm trên đó đến Tòa án Sài
Gòn trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để nằm vạ đòi công lý. Đoàn
biểu tình sẽ trực chỉ đại lộ Lê Lợi, sau đó rẽ sang đường Công Lý và tiến tới
hướng Tòa án. Tôi là một trong bốn người khiêng băng ca. Vào cái tuổi 34, chơi
quần vợt mỗi ngày không dưới ba set đơn, có ngày chơi đến bốn set, sức khỏe của
tôi cực tốt. Khi đoàn biểu tình di chuyển ngang qua bùng binh Nguyễn Huệ, thẳng
xuống đường Lê Lợi, cảnh sát dàn hai bên đường với đầy đủ binh khí chống biểu
tình, nào súng phóng lựu đạn cay, lựu đạn ói, khiên, gậy v.v… vẫn nhẹ tay cho
qua. Bọn “cảnh sát chìm”, mặt lầm lì lăm le tấn công đám đông biểu tình nhưng
vẫn chờ lệnh. Những người biểu tình ngán nhất là bọn này. Chúng được Trang Sĩ
Tấn dùng vào những việc mà cảnh sát sắc phục không thể hành động công khai!
Khi đoàn biểu tình sắp sửa
đến ngã tư Lê Lợi – Công Lý thì lực lượng cảnh sát mới can thiệp quyết liệt.
Bọn cảnh sát chìm cũng được tung vào. Chúng tấn công từ mọi phía. Nào lựu đạn
cay, lựu đạn ói, gậy gộc v.v… ập vào đoàn biểu tình. Chúng kéo những cuộn kẽm
gai “concertina” ra, đầu tiên là rào quanh đoàn người biểu tình để ngăn chận di
chuyển. Rồi chúng siết vòng rào “concertina” mỗi lúc một hẹp lại như kéo lưới
bắt cá trong đìa. Tôi và anh em không thể tiếp tục khiêng cái băng ca tiến lên
nữa, phải đặt băng ca xuống đường để đối phó với dây kẽm gai kéo giăng tứ phía.
Một cuộn kẽm gai “concertina” kéo sát vào chỗ băng ca, gần chạm vào mặt của bác
sĩ Dũng nhưng bác sĩ Dũng vẫn gan lì bất động như không hay biết chuyện gì xảy
ra. Cảnh sát “nắn gân” bệnh nhân chính trị. Thấy bác sĩ Dũng không động đậy,
chúng dừng tay. Đúng lúc đó, tôi nghe một tiếng “huỵch” ở phía sau, quay lại
thấy linh mục Lan nằm sóng xoài dưới đất, người vắt ngang lề đường, đầu trút
xuống mặt đường còn hai tay thì bụm ngay “chỗ đó”. Anh vẫn còn bình tĩnh để thông
báo với anh em “Tụi nó đánh trúng Dinh Độc Lập của tôi rồi”. Tình hình đang
căng thẳng nhưng anh em không thể nín cười được. Tôi định đến đỡ cha Lan lên
thì bỗng linh cảm có chuyện bất thường ở sau lưng. Tôi vội nhìn lại thì đúng
lúc một tên cảnh sát chìm cầm gậy định tấn công tôi. Tôi trừng mắt nhìn anh ta
“Anh định đánh lén tôi à? Tôi và anh có thù oán gì với nhau đâu?”. Dùng những
lời lẽ như thế với một cảnh sát chìm rõ ràng là không phù hợp nhưng nó lại có
tác dụng làm hắn ta phải khựng lại.
Cha Lan người rất gầy,
cao 1,66 – 1,67 mét và chỉ cân nặng khoảng 42-43 ký, nhưng khi tham gia biểu
tình thì hăng nhất và cũng “ăn đòn” nhiều nhất. Trước khi bị đánh trúng “Dinh
Độc Lập”, cha Lan bị cảnh sát của Thiệu cho “nhảy sóng” trên cạn ngay tại công
trường Lam Sơn, sát bùng binh có đài nước nằm giữa ngã tư Lê Lợi và Nguyễn Huệ.
Cha Lan lái chiếc xe ô tô kiểu “con cóc” – tôi không nhớ hiệu gì – đi từ hướng
chợ Bến Thành đến Hạ viện, nơi đông đảo anh em tập hợp để chuẩn bị một cuộc
xuống đường. Nhưng ô tô của cha Lan vừa đến địa điểm trên thì bị lực lượng cảnh
sát chặn lại. Lúc này cả khu vực trung tâm thành phố đều cấm các loại xe và
người đi bộ qua lại. Đường vắng tanh. Những người làm việc ở tầng trên các cao
ốc xung quanh núp sau các cửa sổ nhìn xuống.
Sau khi buộc ô tô dừng
lại, cảnh sát yêu cầu cha Lan xuống xe. Nhưng cha Lan nhất định không xuống. Họ
định lôi anh xuống xe, nhưng cha Lan nhất định không xuống. Họ định lôi anh
xuống xe, nhưng cha Lan khóa các cửa xe từ bên trong. Thế là cảnh sát không làm
sao “túm” được ông, dù vẫn nhìn thấy ông ngồi tỉnh bơ trong xe. Họ tức điên
lên. Từ trên thềm Hạ viện, các dân biểu theo dõi diễn tiến cuộc đối đầu của
cảnh sát với ông Lan không khác hình ảnh mấy con mèo đang tìm cách vồ con chuột
trong cái lồng. Một đoạn phim Tom và Jerry cho người lớn. Để áp lực với ông
Lan, họ hè nhau nhấc chiếc ô tô lên, cho nó nghiêng qua bên này rồi bên kia,
liên tục như chiếc tàu con bị các cơn sóng dữ vồ liên tục. Bên trong xe, cha
Lan khi thì bị hất văng qua bên trái, khi thì văng qua sát vào phía cửa bên
phải, tội nghiệp làm sao, nhưng bạn bè ông không làm sao can thiệp vì cả khu
vực này đã bị lực lượng cảnh sát cô lập. Ông Lan chịu đựng như thế cho đến khi
mấy người “bạn dân” tay chân rã rời phải tự bỏ cuộc…
… Trở lại cuộc xuống đường
với ý định đưa chiếc băng ca có bác sĩ Dũng trên đó đến Tòa án nhưng bị hàng
rào “concertina” chận lại – cuối cùng thì đoàn biểu tình không đến được mục
tiêu, phải trở lại Hạ viện, nhưng ảnh hưởng của cuộc xuống đường này rất lớn.
Thêm một cú đấm hạ uy tín chính quyền Thiệu đang sa sút vào thời điểm này
(1974).
… Trong bài tố cáo sắc
luật 077/72 trên báo Bút Thần số cuối cùng, tôi có
viết: dứt khoát không làm báo, viết báo trong chế độ Thiệu. Nhưng thực tế không
dễ dàng như thế, cái nghiệp báo chí vẫn đeo đẳng tôi. Sau khi nghỉ làm báo một
thời gian ngắn, kỹ sư Võ Long Triều, cựu bộ trưởng Bộ thanh niên dưới thời
chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, có kế hoạch xuất bản một tờ nhật báo lấy tên Đại
Dân Tộc. Anh Triều, khá mạnh về tài chính, chấp nhận đóng tiền ký quỹ như
sắc luật 007/72 qui định (20 triệu). Biết rằng hai tờ báo Tiếng Nói Dân
Tộcvà Tin Sáng, trước khi đóng cửa, là những tờ báo
có nhiều độc giả, anh Triều thuyết phục tôi cùng anh và anh Hồ Ngọc Nhuận ký
chung một “tuyên ngôn” trên số báo ra mắt. Đây là một cách quảng cáo tờ Đại
Dân Tộc là sự kết hợp hai tờ Tiếng Nói Dân Tộc và Tin
Sáng. Lúc đầu tôi từ chối vì biết rằng tuy lúc này anh Triều cũng hoạt động
đối lập nhưng anh vẫn có khá nhiều quan điểm về chính trị khác tôi. Nhưng anh
Nhuận cùng anh Triều đến tận nhà tôi hai lần “lôi” tôi cho được vào tờ báo.
Cuối cùng tôi nhận lời vì nể anh Nhuận là chính. Tờ Đại Dân Tộc ra
được một thời gian ngắn, tôi không lui tới tòa soạn nữa. Còn anh Nhuận theo nó
một thời gian rồi cũng rút vì cuối cùng nó lộ ra là tờ báo có lập trường chống
cộng rất dứt khoát.
Nhưng cuối cùng tôi vẫn
cầm bút trở lại theo lời mời của anh Lý Chánh Trung và anh Dương Văn Ba khi hai
anh này làm tờ Điện Tín. Thực tế vào cận thời điểm này, việc tìm
kiếm một diễn đàn để bày tỏ quan điểm là hết sức cần thiết. Tiếp tục giữ thái
độ “tẩy chay” chính quyền mà treo bút là không thiết thực và hoàn toàn bất lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét