|
|
Nhà văn Nguyễn Thụy Long sinh năm 1938 tại Hà
Nội
Nhà văn Nguyễn Thuỵ Long, nổi tiếng với các
tác phẩm trước năm 1975 ở Sài Gòn, vừa qua đời tại Việt Nam ngày
03/9 vừa qua.
Ông sinh năm 1938 tại Hà Nội và là tác giả của
nhiều cuốn truyện ngắn hoặc tiểu thuyết nổi tiếng như: Vác Ngà Voi, Loan Mắt
Nhung (từng được dựng thành phim), Chim Trên Ngọn Khô, Trong Vòng Tay Ðàn Ông.
Ngoài ra, các tác phẩm Vết Thù, Bà Chúa Tám Cửa
Ngục, Ðêm Ðen, Gái Thời Loạn, Nữ Chúa, Nợ Máu, Ven Ðô, Sầu Ðời, Gió Hú...cũng
được rất nhiều người đón đọc.
Trong khoảng 30 tác phẩm được xuất bản trước năm
1975 của ông, có chừng 20 tác phẩm hiện được lưu tại thư viện của Viện Ðại
Học Cornell, New York.
Trong truyện "Người Xây Lò" viết
mùa đông năm 2001, ông mô tả cảnh lao động thời sau 1975 và thân phận
của người tù cải tạo, và bày tỏ nỗi đau của những người Việt bỏ
nước ra đi.
"Như những người vượt biên bằng chiếc thuyền
chỉ dài mười hai thước, mỏng manh như chiếc lá giữa đại dương, có thể bị sóng
to gió lớn vùi lấp bất cứ lúc nào, không kể bọn côn đồ trên biển, bọn hải tặc
Thái Lan mất nhân tính, đe dọa tính mạng, trinh tiết của phụ nữ."
"Người ta vẫn cứ ra đi, tâm niệm tất cả những
người ấy đều giống nhau qua câu "tự do hay là chết".
"Đồng bào tôi đau khổ quá, như tôi vậy, bỗng
nhiên mang thân tù tội, không biết ngày nào ra, dù rằng từ cái lồng nhỏ ra cái
lồng lớn hơn."
Theo báo Người Việt tại California, ông
Nguyễn Thụy Long học trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sau bỏ để vào Trường
Cao Ðẳng Mỹ Thuật Gia Ðịnh theo nghề bố, một họa sĩ.
Tuy nhiên sau khi thân phụ mất ông vào đời rất sớm,
kể cả đi bụi “sống với tầng lớp dao búa, sống ở những nơi hạ lưu của xã hội,”
như lời của chính nhà văn.
Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật Khởi Hành, của
chủ nhiệm, chủ bút Viên Linh, với trụ sở tại Nam California, đã trao giải “Văn
Chương Toàn Sự Nghiệp” cho nhà văn Nguyễn Thụy Long vào năm 2005.
Vẫn theo Người Việt, nhà thơ Du Tử Lê, người
từng gặp nhà văn Nguyễn Thụy Long tại tòa soạn báo “Sống” của Chu Tử trước
1975, nói rằng ông Nguyễn Thụy Long là người "chân thành với bằng hữu".
CHƯƠNG
MỘT
Nhiều
khi tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao mình còn sống bình yên được đến ngày
hôm nay, điều này chúng tôi từng nói với nhau, những người bạn đồng cảnh ngộ
lúc trà dư tửu hậu. Muốn tìm hiểu phải ôn lại, nhớ lại tất cả những gì xảy
ra cho mình từ sau ngày 30-4-1975, còn có thể trước nữa, nghĩa là trước
ngày miền Nam bại trận với quân đội miền Bắc. Tôi không chối cãi một điều rằng
tôi là người Bắc di cư 1954. Mặc dầu tôi không phải người di cư thực sự mà
vào Nam trước di cư hai ba năm gì đó Tôi không đổi được giọng Bắc nên nhiều
anh em bạn bè người Sài Gòn gọi tôi là Bắc kỳ di cư. Bắc kỳ di cư thì đã
sao? Tôi chấp nhận. Cũng là người Việt Nam cả, tôi là người Bắc chuyển
vùng. Đời sống nên dễ dãi như thế dễ chịu cho mình, cho người.
Trước năm 1975 ở Sài gòn tôi đã hoàn thành phần nào mộng ước của mình là được
làm nhà báo nhà văn. Tôi gặt hái được ít nhiều kết quả trong nghiệp báo
cũng như nghiệp văn. Tôi chỉ nói thế thôi chứ không tự đánh giá mình bao giờ.
Nhưng tôi hãnh diện vì nghề mình đã đeo đuổi đôi khi cuồng tín với nghiệp
dĩ. Chúng tôi là người làm báo được hưởng quyền thứ tư. Nhưng phải đòi mãi
có thể có chứ không bỗng dưng mà có được.
Tôi nhớ thuở làm báo trước năm 75. Những tờ báo đứng vững được, và đám người
làm báo chúng tôi sát cánh cùng nhau để có tự do trong hành nghề không phải
là dễ. Cũng rất gian nan. Những tờ báo bị tịch thu, bị đục trắng khi vừa ra
khỏi nhà in. Những tờ báo bị đóng cửa rút giấy phép, ký giả bị bắt bớ, bị
ám sát cũng đã có, không biết lừ phía nào. Nhà báo lêu bêu từ tòa soạn này
sang tòa soạn khác nhiều lắm. Có năm tôi nhảy đến ba bốn tờ báo, cũng có thể
năm sáu gì đó. Nhưng vẫn vui, vẫn sống, vẫn hành nghề được
Chế độ Ngô đình Diệm bị lật đổ, quân nhân lên cầm quyền. Chế độ quân nhân
muốn báo chí vào khuôn vào phép, không được nói lên điều dở điều chướng
tiêu cực của nhà nước, đặt ra một số điều lệ bắt nhà báo phải tuân theo.
Tôi nhớ một buổi họp báo của một ông tướng cầm quyền ở phủ thủ tướng. Ông
tướng họp báo nói lên điều lợi điều hại gì đó. Ra luật lệ kinh khủng lắm.
Buổi họp báo chiều hôm ấy chỉ một mình ông tướng nói, chẳng một nhà báo nào
đứng lên đặt câu hỏi. Rồi một nhà báo lớn tuổi, tôi nhớ là ký giả Tô Văn đứng
dậy vỗ tay, lây lan sang hàng mấy chục ký giả khác cũng đứng dậy vỗ tay
theo. Chấm dứt cuộc họp báo. Các nhà báo ra về trên lối đi có hai hàng lính
cận vệ ghìm súng. Chúng tôi coi cuộc họp báo ấy như pha, như không có, qua
sự chứng kiến của những nhà báo nước ngoài. Cuộc họp báo chỉ có thế thôi,
nhưng đã nói lên thật nhiều, thực tế chẳng ký giả nào nói gì.
Tôi đã sống qua những kỷ niệm ấy, tôi trang trọng nghề nghiệp mình. Sau năm
75, anh em đồng nghiệp của tôi xảy đàn tan nghé. Tôi còn lại trên đất nước
quê hương, dù còn yêu nghề lắm nhưng không hòa nhập được. Có muốn cũng đành
chịu. Lý do tại sao tôi cũng đã nói rồi nên không nói lại, tôi đành gác cây
bút lên một thời gian dài, để tìm đường tự cứu sống mình và gia đình.
Đến tuổi già hết sức lao động, chòm xóm có đưa giấy mời vào hội phụ lão, từ
mấy năm nay, nhưng tôi vẫn chưa tham gia, vì tôi nghĩ tôi không có thì giờ
ngồi đánh cờ với các cụ, hay đi dự những cái gọi là quan hôn tang tế gì đó
trong chòm xóm. Hoặc phải viết một bài điếu văn theo đơn đặt hàng, vì tôi
cũng có chút chữ nghĩa viết được ra câu ra cú, xài tàm tạm vậy. Mà đụng đến
giấy búi tôi ngứa nghề kinh khủng, có lẽ cũng là cái bệnh, hoặc hình như chứng
nan y. Tôi leo lên căn gác bút ọp ẹp, xuống cấp trầm trọng của tôi múa bút
vung vít, chẳng có mưu đồ gì hết. Tôi múa may một mình thật cô đơn, nhưng
thật là tự do. Vũ điệu cũng có thể là múa rối mà tưởng rằng mình vũ ballet.
Hiểu sao cũng được. Cũng vui được tuổi già, dù cô đơn trên căn gác bút. Đêm
chán viết thì đập muỗi, ngắm sao trên trời, nghĩ ngợi vẩn vơ: thương ông bạn
này vừa nằm xuống, nhớ thằng bạn kia còn phải bon chen với đời. Rồi thương
mình, thấy mình trẻ lại như hồi nào, hà tất phải ngồi đánh cờ với các vị bô
lão, lẩn thẩn nói chuyện dở người. Xin lỗi hội phụ lão đã có lời mời gọi. Lạy
các cụ ạ! Nhà cháu còn trẻ lắm, dù rằng có người đã hỏi ba đứa con nhỏ của
tôi là chúng phải gọi tôi là ông nội hay ông ngoại? Tôi bị sốc" là
chuyện của tôi. Tôi sinh ra chúng trong cảnh nghèo khó và muộn màng, có thế
thôi.
|
Nguyễn Thụy Long |
Đúng thời gian đất nước mở cửa, kinh tế thị trường thì tôi bị dời khỏi ao
cá, nói đúng ra tôi bị đuổi khỏi nơi ấy. Dĩ nhiên người ta có vin vào một
lý do, một cái cớ nào đó và cũng nhân tiện không trả tôi mười hai tháng tiền
lương khi tôi làm nghề coi ao cá mà phường còn thiếu chịu của tôi. Tôi thấp
cổ bé miệng mà miệng nhà quan thì có gang, có thép. Vợ chồng con cái lếch
thếch dời túp lều ao cá trên chiếc xe đạp thồ, con chó ghẻ lẽo đẽo chạy
theo.
Tôi lại hy vọng ở một cuộc đời mới, một chốn ở mới. Không lẽ trời đất bao
la mà ta không có chỗ dung thân. Tôi vẫn luôn luôn nuôi một hy vọng nào đó
nên mới sống dai. Kể cả những lúc thập tử nhất sinh trên giường bệnh, tôi vẫn
không chán sống. Mỗi năm, giờ giao thừa leo lên căn gác bút, tự chúc thọ
mình sống lâu trăm tuổi. Hãy cạn chén đắng, còn người ta muốn tính toán gì ở
tôi thì cứ làm đi. Tôi lại nhớ đến một đoạn nhỏ trong Thánh Kinh của Chúa,
cầu nguyện lại vườn Ghét-sê-ma-nê, sau buổi liếc ly. Cũng là lời Chúa nói với
Giu đa.
ở trên căn gác bút, tôi có thì giờ nghĩ ngợi về đời sống, về tôn giáo, xã hội,
chế độ. Mặc dầu tôi không là tín đồ của một tôn giáo nào, nhưng kính trọng
tất cả những thánh nhân. Trước bàn làm việc của tôi có hình của Gandhi. Những
lời lẽ ấy, những tư tưởng ấy giúp cho tôi khởi sắc trở lại và tha thiết với
cuộc sống, mà tôi cho là quá ngắn ngủi với một kiếp người. Tôi có thể nói
thật nhiều hoặc không nói gì. Chẳng phải vì hãi sợ hay lý do gì khác. Thường
thì tôi hay bông đùa với cuộc đời, vì tôi yêu đời, tha thiết với đời. Đơn
giản như bốn phép tính. Cộng, trừ, nhân, chia. Một cộng một là hai, hai
nhân hai là bốn, bốn chia hai được hai, hai trừ hai không được gì cả. Hết.
Tức là zéro. Tôi cứ tưng tửng giữa cuộc đời, coi là nghiệt ngã thì nó nghiệt
ngã, không đáng gì cả thì thôi, mặc kệ nó, không phải là chuyện cấp bách,
quần áo mặc sao cũng được, nhà cửa có chỗ chui ra chui vào, cơm nước có muối
mè gạo hẩm là xong. Không rượu chè, cờ bạc, hút xách. Nhu cầu cần thiết
chăng, có các con tôi, chúng cần học hành để biết lấy tí chút chữ thánh hiền
là quí rồi. Tôi đã từng lao động để nuôi con, cho đến ngày không còn đẩy nổi
chiếc xe bán xôi vò nữa thì mới nghỉ. Trước đây, gần hai chục năm trước,
sau ngày đi học tập cải tạo về, mà trả lời với Công An phường kiểu này thì
mệt đó. Anh nói anh không lao động mà vẫn sống nhăn, chẳng ai tin hết.
Nghiêm túc lên nào. Có làm mới có ăn, không làm mà có ăn, đích thị anh là kẻ
phạm pháp, phi ăn cắp thì cũng ăn trộm, ăn cướp, nói chung là ăn... bẩn. Kẻ
ăn bám xã hội hèn hạ như loài ký sinh trùng. Phải truy nguyên tróc nã cái
mà anh đang hưởng thụ đến nơi đến chốn, có nguồn có gốc, theo lý thuyết tam
đoạn luận.
Bây giờ thì dễ dãi rồi, anh có thể trả lời tiền có để tiêu, để thưởng thức
một tô phở xuất xứ từ Đô do người thân từ nước ngoài gửi về cho, bất kể đó
là người thân hay bạn bè thương tình. Anh không bị kết tội là liên lạc với
người nước ngoài nữa. Chuyện đó bây giờ bị coi là chuyện chẳng hơi sức đâu.
Kể từ ngày tôi phi lao động, nằm dài chờ Chúa thu hồi hộ chiếu trên giường
bệnh, nếu tôi không có bạn bè giúp đỡ lo lắng cho thì đã lận số rồi. Chưa
biết lên Thiên Đàng hay xuống địa ngục.
May mà tôi cũng chưa húp lầm cháo Lú ở bến đò sông Nại Hà để quên sạch sự đời.
Lấy đâu ra tư liệu để viết Hồi Ký Viết Trên Gác Bút. Thì ra tôi vẫn còn sống,
vẫn còn minh mẫn. Không như anh bạn của tôi, thi sĩ Tú Kều, nổi tiếng một
thời ở Sài Gòn trước 1975. Anh đã húp lầm cháo Lú ngay khi còn sống nhăn ở
thế gian. Khiến anh quên tất cả: Quên đời, quên gia đình, quên tất cả những
người thân, thậm chí không biết mình là ai...Vợ anh kể rằng, anh vừa ăn cơm
xong, lại đòi ăn nữa vì quên biến rằng mình vừa ăn rồi. Chứng bệnh đó, người
ở thế gian, bên cõi Âu gọi là bệnh Alzheimer, tên của vị bác sĩ tìm ra chứng
bệnh đó. Đi ra đường mà không ai đưa dắt là Tú Kều đi lạc, không biết đường
về tổ ấm của mình. Sống cứ ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng ra sao hết. Anh ngồi với
người thân nào đó cũng như với người xa lạ. Hệt như phim Bay xuống vùng đất
lạ mà tôi mới được xem trên truyền hình. Hai người phi công bị rơi ở một
vùng đất xa lạ úc châu. Nhiều ngày tháng lạc lõng đói khát, khổ cực, cô
đơn. Cuối cùng được trở về với thế giới văn minh. Một trong hai người trở
nên điên khùng, quên hết mọi sự đời, vĩnh viễn sống trong u tối, sống như một
cục thịt, một nắm xương tàn đến trọn đời. Nhưng dù muốn dù không tôi cũng
phải kiểm chứng lại chuyện này, tìm xem lý do nào khiến Tú Kều lại rơi vào
tình trạng ấy. Tại sao tâm hồn anh lại tê tái đến vô cảm. Thuở Tú Kều còn tỉnh
táo, anh có đưa tôi đọc tập thơ anh làm trong tù, những bài thơ cay đắng phẫn
nộ, những cảnh trông thấy trong những ngày tù tội dài dằng dặc. Nhà thơ yếu
đuối đó được trở về sớm hơn bản án anh phải mang, không biết do ân huệ từ
đâu tới. Anh người xứ Sơn Tây, từng kể chuyện quê hương anh cho tôi nghe, đọc
thơ của Tản Đà, Quang Dũng. Anh đọc bài thơ Quang Dũng, ánh mắt người Sơn
Tây:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều se sắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc tàn chinh chiến cũ
Thì có bao giờ em nhớ la
Buồn, buồn quá đi thôi khi ngồi trước Tú Kều, một nhà thơ sinh ra ở đấl Sơn
Tây, bây giờ có lẽ đã quên rồi. Rất may có một dạo, sau khi ra tù, Tú Kều
đưa vợ con về thăm quê nội, còn sót lại gì trong anh không? Hãi hùng quá
trước một sự trống rỗng thăm thẳm.
Đây cũng là những gì cần trả lời cho Khanh, cháu của cậu Nhiên (lên tục của
Tú Kều). Cháu viết thư về thăm hỏi cậu Nhiên, cậu Long, mơ ước một ngày về
thăm quê hương được cùng cậu thăm lại xứ Sơn Tây. Cháu Khanh bé nhỏ hồi
nào, thương cậu Nhiên, thương cả bạn thân của cậu Nhiên là cậu Long. Khi đó
hai cậu theo đuổi nghề viết văn làm báo, nghèo lắm, và có lẽ cái nghèo, cái
khốn khó ấy đeo đuổi suốt đời
Cho đến bây giờ, sau mấy chục năm trời, sau khi Hồi Ký Viết Trên Gác Bút của
tôi ra mắt độc giả ở bên ngoài quê hương, tôi nhận được thư của Khanh. Bức
thư của Khanh từ nước ngoài, xứ Texas xa xôi về được địa chỉ của tôi ở ấp
Đông Ba Gia Định xưa thật khó khăn, vì Khanh chỉ nhớ mài mại đến căn nhà của
tôi ở đó. Thư cũng đến nơi nhưng mất một thời gian dài, công lao của người
đưa thư tìm ra. Tôi biết hoàn cảnh của Khanh ở nước ngoài. Lời lâm sự của
Khanh trong thư nói đến gió mưa ở xứ người và nhớ mưa Sài Gòn. Tình cậu
cháu nhưng không thể coi là lãng mạn của thời mới lớn. Khanh chưa đến tuổi
về hưu, nhưng cũng có cháu nội và sắp có cháu ngoại rồi. Bây giờ thì Khanh
sống cô đơn trong một căn nhà ở xứ người, nhớ Sơn Tây, Sài Gòn, thèm nghe
tiếng nói Việt Nam nên vẫn thường phải mở đài phát thanh Little Sài Gòn để
nghe tiếng Việt. Tôi quí mến cô cháu gái như thuở nào. Tôi ngồi vào bàn viết
thư hồi âm cho Khanh. Đang viết thư thì nhận được tin Trần Lê Nguyễn mất.
Trần Lê Nguyễn là một nhà văn, đúng ra là một kịch lác gia, nổi tiếng với
cuốn Bão Thời Đại của anh xuất bản từ năm 1956. Sau năm 1975 anh không còn
cầm bút nữa, không đụng chạm gì đến chữ nghĩa, văn chương. Anh đi chạy chợ
trời như những nhà văn nhà thơ hết thời khác. Nhưng tôi vẫn thấy anh luyến
tiếc cái gì đó ở nghệ thuật, tìm lại những bức tranh sơn dầu, tranh lụa,
tranh sơn mài của những họa sĩ quen tên xưa: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn,
Tạ Tỵ, Nguyễn Trung. Tôi nói với anh nếu những bức tranh này phải bán đi
thì tiếc thật. Anh cười, chuyện mua bán mà. Tôi làm nghề sửa xe đạp, thường
hay sưu tầm đồ phụ lùng xe đạp cũ nổi danh một thời. Tôi thấy anh đi một
chiếc xe đạp cũ đờ mi cuốc, có cái khung xe, cặp vành và cặp đùm quí giá
quá. Tôi hỏi anh kiếm được ở đâu. Anh nói anh sưu tầm từng thứ một để ráp
thành cái xe này. Anh nhắc tôi cố sưu tầm cho anh một cặp đùm hiệu
Campagnelo của ý, giò đĩa hiệu Stronglight, phải "din" từ con ốc,
vít. Tôi hứa với anh mà tôi không làm được trọn vẹn, vì tôi đổi nghề như
cóc nhảy. Một buổi chầu gần tàn, nơi chốn chợ trời tôi với Trần Lê Nguyễn vẫn
ngồi say sưa "đấu những món đồ xe đạp quí. Tôi nghe ngóng được từ người
ta, bèn nói đến một cặp mừng làm bằng gỗ, dai, dẻo, cứng, nhẹ của một tay
đua nổi danh thuở xa xưa, câu chuyện cứ y như chuyện "bốc phét".
Cặp niềng đó vẫn còn lưu lạc trong dân gian mà tôi chưa tìm ra. Tôi nói với
anh ở Đà Năng có người vẫn giữ được chiếc xe đạp của tay đua nổi tiếng
trong cuộc đua Đông Dương, vượt đèo Hải Vân. Phượng Hoàng Lê Thành Các. Có
một người vẫn còn giữ được đến bây giờ. Trần Lê Nguyễn thì nói với tôi về
những bức tranh với nỗi đam mê, trời tối lúc nào không biết. Lúc chia tay
nhau anh Nguyễn còn nói: "Nếu chúng ta còn những đam mê như thế thì
khó mà hòa nhập được với nền văn minh chợ trời". Chợ trời là phải chụp
giật nhau mà sống, có lời thì bán, mua rẻ bán đắt bán đồ dởm đồ giả, cần
thì bóp cổ nó cho mình trúng mánh. Bán mà không tiếc, coi nghệ thuật đồ quí
như pha. Phải coi bức tranh sơn dầu, tranh lụa này là miếng giẻ cũ, bức sơn
mài của Nguyễn Gia Trí là một tấm ván. Nói chuyện nghệ thuật ở đây là chuyện
vô ích.
Trong một lần khác gặp lại Trần Lê Nguyễn, tôi khoe tìm lại được quyển kịch
Bão Thời Đại của anh ở gánh ve chai. Anh hỏi người ta cho hay mua lại. Tôi
nói mua lại. Anh lại hỏi có đắt không, bao nhiêu tiền? Tôi nói chỉ có năm đồng
bạc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Anh nói vậy thì đáng giá rồi, chỉ
thế thôi, có khi hớ đấy, nếu không người ta cũng xé ra để gói xôi. Mua thế
được giá cho người bán, mẹ ve chai trúng mánh. Cả cuốn sách chỉ cân nặng lối
hai trăm gờ ram, bán giấy vụn giá cũng chỉ vài đồng bạc một ký lô, đủ mua một
gói xôi bắp ăn ấm lòng. Tôi bỗng thấy nhói lên ở trong lòng. Con người
chúng tôi nếu có được đánh giá cũng là giá "bèo" huống chi là những
tác phẩm. Bức tranh sơn dầu chỉ là mảnh vải cũ, bức tranh sơn mài chỉ là tấm
ván cũ. Trước đây người ta đốt đi cũng là phải.
Theo cái lý của người ta. Tôi chẳng nói đến cái lý phải quấy ấy làm chi.
Một ngày khác nữa, Trần Lê Nguyễn đến ngôi nhà cũ của tôi ở ấp Đông Ba xưa,
xem xét căn nhà hoang của tôi, rồi biết tôi vẫn thất nghiệp, anh khuyên tôi
nên nuôi chim cúi. Tôi nói tôi chẳng có kinh nghiệm gì về chim cút hết, anh
rủ tôi đến nhà anh ăn sáng, căn nhà gác chật chội ở bến Chương Dương kê đầy
chuồng chim cúi, đẻ trứng lia chia.
Anh mời tôi ăn bánh mì "ớp la " trứng chim cút. Tôi đếm được mỗi
đĩa trứng có sáu cái. Trong khi bà vợ anh nhặt một giỏ trứng mang xuống chợ
bán mỗi ngày. Anh nói gia đình anh vẫn có thịt ăn. Anh chỉ bầy chim cút
trong chuồng. Thế rồi suốt ngày hôm ấy Trần Lê Nguyễn và tôi đi lang thang,
lên tận Gò Vấp, vào nhà Tô Thùy Yên để học kinh nghiệm nuôi chim cúi của
nhà thơ này. Một nhà thơ mới ở tù ra và được coi là hết thời, đang chờ ra
đi nước ngoài theo diện HO.
Cái vốn liếng tù tội của Tô Thùy Yên có lẽ dư thừa còn vốn liếng kinh nghiệm
nuôi chim cút của anh thì tôi không biết có từ bao giờ. Nhưng nghe nói anh
cũng dầy dạn kinh nghiệm lắm. Tôi thì không theo nghề ấy, vì một lần nuôi
gà bị chết toi cả bầy. Sạch luôn cả vốn liếng mà bạn bè có lòng giúp đỡ.
Nói tóm lại, tôi không có tay nuôi gia cầm.
Tôi vẫn lang thang kiếm sống qua ngày, xa lánh chợ trời mà có lần tôi đã
coi là chốn gió tanh mưa máu. Tôi đi bán xôi đến lúc quị ngã vì mất sức lao
động. Một cơn tai biến mạch máu não, tí nữa thì chết, nếu không chết thì
cũng bán thân bất toại, tê liệt nửa người. Tôi qua khỏi cơn bệnh như có
phép lạ. Bây giờ di chứng chỉ còn nói ngọng và khó khăn khi nói. Chẳng được
một câu nào gãy gọn. Còn một tay chưa tê tôi bèn viết. Kệ nó muốn ra sao
cũng được.
Tôi bị tai biến mạch máu não phải nằm bệnh viện, ngoài vợ con ra tôi chỉ có
bạn bè, những người bạn nghệ sĩ nghèo, góp nhặt cho tôi từng đồng để trả viện
phí. Tôi mang ơn bằng hữu hoặc thân hoặc sơ. Khi đó tôi tường mình đi đứt rồi.
Chỉ có những khuôn mặt bạn bè cúi xuống tôi. Tôi nhớ mãi những khuôn mặt ấy,
những đôi mắt ấy không bao giờ quên được. Tôi làm sao quên được chú em bạn
tù Võ Bá Yên, nguyên là huynh trường Hướng Đạo Sinh, khi khiêng tôi vào
phòng cấp cứu phải mang cầm Chứng Minh Thư Nhân Dân (căn cước) để có tiền
đưa tôi qua cửa ải này. Trước khi mê man, tôi còn ghi nhận được hình ảnh ấy.
Nay thì Võ Bá Yên không còn nữa, chú em ấy bị nhồi máu cơ tim cũng đã chết
rồi.
Tôi đưa Yên đến phần mộ ở Bình Hưng Hòa. Tôi đã khóc. Tôi quì trong chùa
cùng các sư cầu siêu cho Yên. Ôm hai đứa con nhỏ của Yên, khuyên nhủ chúng
cố giúp mẹ chúng duy trì nghề bán cơm bình dân ở căn nhà cạnh chợ Cây Quéo.
Bố chúng chết rồi, hàng cơm thiếu người bưng tô rửa chén, các cháu phải thay
bố ngoài giờ đi học.
Khi tôi rời bệnh viện ít ngày thì vợ tôi cũng giở dạ đẻ, đứa con út tôi hiện
nay. Lúc ấy tôi không có tiền. Mẹ con nó may mắn mẹ tròn con vuông và vợ
tôi chịu đoạn sản để lấy tiền thưởng đóng thay viện phí. Vậy cũng xong.
Chuyện cũng như người phải bán máu mình để lấy tiền mua cơm ăn. Như cây nến
tự ăn mình đề duy trì ngọn lửa.
Mấy năm sau, tôi nghe Trần Lê Nguyễn bị bệnh. Bệnh tai biến mạch máu não
như tôi đã từng bị. Anh đau khổ hơn vì bị bán thân bất toại, nói năng ngọng
nghịu. Vợ anh Nguyễn phải làm thông ngôn mỗi khi đi đâu hay có người tới
thăm.
Có hôm tôi với Tú Kều đang ngồi ở quán báo của Nguyễn Kinh Châu ở đường Bà
Huyện Thanh Quan thì Trần Lê Nguyễn đi xích lô đến. Anh nói chuyện với
chúng tôi mà chúng tôi chẳng nghe được câu nào. Anh bị ngọng quá sức rồi.
Một lần khác anh đi xích lô đến nhà Tú Kều, bà vợ đi cùng, hôm ấy tôi cũng
có mặt. Chị Nguyễn phải thông ngôn chúng tôi mới hiểu. Nội dung anh hỏi nhà
Tú Kều còn tranh không, nếu bán thì anh mua. Trời đất, anh vẫn còn nghĩ đến
chuyện ấy, chuyện nghệ thuật mà anh đam mê từ mấy chục năm trước, thuở lêu
bêu chợ trời. Buôn bán mà không bao giờ có lời, bán một tác phẩm mình mua
được tiếc đứt ruột. Con người Trần Lê Nguyễn thế đó.
Hôm chợ Cầu ông Lãnh cháy, ngay vào khu anh ở từ bao nhiêu năm trên đường bến
Chương Dương, tôi lo lắng suốt một đêm. Sáng sớm tinh mơ tôi đạp xe xuống
phía nhà anh, may quá ngọn lửa không lan đến, tôi an tâm ra về. Tin Trần Lê
Nguyễn mất đột ngột đến với tôi. Khi đó là buổi chiều, sáng sớm ngày hôm
sau gia đình sẽ đưa anh đến nhà thờ làm lễ rồi đưa anh lên lò thiêu Bình
Hưng Hòa. Đến khi đó tôi mới biết tên thật của anh là Nguyễn Huy Tạo, sinh
năm 1924, mất ngày 7-7-1999. Thế có nghĩa là anh 75 tuổi, sao mà tâm hồn
anh trẻ thế. Những người đi đưa tiễn anh lần cuối cùng hầu hết là những văn
nghệ sĩ chế độ cũ. Ngoài những nhà văn nhà báo mà đếm được trên đầu ngón
tay, tôi thấy còn có các họa sĩ như Cù Nguyễn, Rừng, Hồ Thành Đức mới ở nước
ngoài về thăm quê hương. Đưa đám anh đến tận lò thiêu Bình Hưng Hòa, có một
người con trai chống gậy, tôi cứ ngỡ là con trai của anh, nhưng hỏi ra thì
biết cậu đó là cháu, con trai người em trai anh. Một bài điếu văn ngắn, cảm
động do Hoàng Vũ Đông Sơn đọc trước quan lài, rồi cửa lò thiêu mở, quan tài
anh từ từ hạ xuống. Thôi, thế là vĩnh biệt Trần Lê Nguyễn. Tiếng khóc của
người thân anh òa lên. Tôi cũng không cầm nổi nước mắt. Tấm hình của anh vẫn
toe loét nụ cười
Buổi trưa về nhà anh, trên tường tôi thấy còn nhiều bức tranh nghệ thuật.
Căn nhà đó ở bến Chương Dương, trước khi anh tới cư ngụ, tôi biết nhiều họa
sĩ đã đến ở đó, có cả Cù Nguyễn. Năm 1963 tôi đến đó nhờ họa sĩ Nguyễn
Trung vẽ cho tấm bìa tập truyện ngắn Vác Ngà Voi, tập truyện ngắn đầu lay của
tôi thuở đầu đời. Trên đường về, buổi trưa trời ập xuống một cơn mưa. Tôi bị
cảm nằm liệt mất mấy ngày. Đêm nay ngồi ghi lại những dòng này trời vẫn còn
mưa. Những con muỗi đói sự ướl cánh ùa đầy vào phòng. Vừa đụt mưa vừa kiếm
ăn, chúng bu vào đốt tôi tơi lả. Tôi đập tan xác chúng, máu lóe trên bàn
lay.
Trong đêm trường này chỉ mình tôi còn thức, trên căn gác bút đam mê cô quạnh.
CHƯƠNG
HAI
Chỉ
còn sáu tháng nữa thì đến năm 2000, bước sang thế kỷ 21. Sự cố máy tính Y2K
của thế giới hình như đã khắc phục được. Tôi nghe phát thanh truyền hình
nói thế. Lâu nay tôi ít để ý đến tình hình trên hành tinh này, vì loài người
đánh đấm, ăn thua đủ với nhau lùng tùng xòe. Địa cầu huyên náo. Tôi cũng có
sự huyên náo của riêng tôi. Những bức xúc có căn nguyên, những buồn vui, những
hậm hực, tôi nhả ra hết, có sao nói vậy quên luôn cả lời mẹ từng dậy:
"Tránh voi chẳng xấu mặt nào" hoặc "Một điều nhịn là chín điều
lành". Tôi cóc cần rồi, tôi có thể "khùng - điên - ba trợn".
Tôi sợ húp nhầm cháo lú thì khổ. Tôi không muốn sống như cục thịt hoặc như
một nấm xương khô. Tôi tự vả vào miệng mình, tự bới xấu mình, nhiếc móc cái
thân phận bất hạnh của mình thôi. Chẳng thèm đụng chạm đến ai. Than thân
chúng tôi (kể cả bạn bè):
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Những câu thơ này của ai, thi sĩ nào thuở có trào lưu lãng mạn, chán đời hồi
đầu thế kỷ 20 trên đất nước Việt Nam, tôi nhớ tác giả là Vũ Hoàng Chương
nhưng không dám chắc lắm. Xin lượng thứ cho tôi. Bạn bè tôi ai thấy mình
không ở trong hoàn cảnh này cứ việc tự do phủ nhận. Tôi không kéo bè kết đảng
hay làm tha hóa bất cứ ai.
° ° °
Ngày
hôm nay Sài Gòn mưa từng chặp, gần như suốt ngày. Tôi nằm nhà vì cơn bệnh ập
đến với tôi hơn một tuần nay. Tôi bị cao áp huyết nên máu lên xuống bất thường.
Bà vợ tôi sợ nguy hiểm cho tôi, khi leo lên leo xuống trên căn gác bút, nên
đề nghị tôi ở căn buồng dưới nhà, một căn phòng nhỏ có thể tránh được gió
máy. Điều ấy hợp lý quá, tôi đành chấp nhận. Thôi, không ở trên căn gác bút
nữa thì xuống hầm ninh chữ" vậy. Tôi gọi chỗ làm việc mới của tôi là hầm
ninh chữ, cũng là bút hiệu của bạn tôi đã chết. Thi sĩ Ninh Chữ. Rảnh thì
giờ tôi dọn dẹp tí chút. Mơ ước mở được cái cửa sổ để có lỗ thông gió, nhìn
ngôi mả đá xưa mấy trăm năm. Nhìn thấy những con ốc sên to bằng nắm tay trẻ
con mà người ta gọi là ốc ma bám trên mả đá. Tôi không còn thấy nữa vào những
ngày mưa từ mấy chục năm nay. Hình như chúng đã bị tiệt chủng. Đang ngồi buồn
và suy nghĩ vẩn vơ thì nhận được tờ báo Khởi Hành của Viên Linh gửi qua đường
bưu điện. Tôi đọc ngấu nghiến. Tôi thấy sự hiện diện của một người bạn im
hơi lặng tiếng suối bao nhiêu năm trời, nay cũng có lên anh viết về những
dòng sông ở Việt Nam, con sông Đáy ở Sơn Tây làm nền cho bài viết. Người viết
nói: Nhắc đến sông Đáy, nhắc đến Sơn Tây, người ta nhắc đến thơ Quang Dũng,
những bài thơ của một cuộc chiến, một cuộc chiến có tiếng hát, cuộc chiến ấy
đã dứt để hôm nay là cuộc chiến khác, một cuộc chiến không có tiếng hát,
không có thơ.... Tại sao lại có hai cuộc chiến khác nhau?
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Hiu hắt chiều sương lạnh đất Tề....
Tôi đọc bài Tạp ghi của Ký Giả Lô Răng, Bạn tù Sơn La. Cảm động và buồn
không chịu được Vì tôi cũng từng là người tù, từng chứng kiến những cảnh đầy
đọa như thế, từng ăn đói mặc rách, từng đi đào trộm khoai sắn, biết chia
nhau với bạn tù một con rết núi nướng, mơ ước một miếng cơm cháy ăn cho
thơm miệng, và điếu thuốc lào đỡ vã. Điều ấy tôi đã viết chưa nhỉ? Tôi viết
rồi. Thành nguyên một cuốn truyện dài kia. Tôi tin rằng không bị lỗi thời.
Không gây hận thù để tuyên truyền cho một thời điểm hay giai đoạn nào đó.
Tôi nghĩ đến cái lâu dài của con người với con người. Trong Bạn tù Sơn La,
Ký giả Lô Răng có nhắc đến thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc Nha
Tuyên úy Phật giáo). Cũng là một người tù. Tôi chưa từng biết vị này. Nhưng
chùa mà ngài có thời gian trụ trì tôi biết, chùa Viên Giác trong ấp Đông Ba
Gia Định xưa, nghĩa là rất gần với nhà tôi bây giờ. Nhắc đến nhà sư này,
tôi không thể không nhớ đến bạn tôi, Lý Phật Sơn, Trần Kỳ Hùng, Trần Quang
Bạch, đã khuất bóng, tôi đã viết trước đây, trong Hồi Ký Viết Trên Gác Bút.
Anh đã ở trong ngôi chùa đó sau ngày 30-4-75, khi thầy trụ trì đi học tập cải
tạo ngoài Bắc Việt Nam.
Tôi với Lý Phật Sơn từng ăn chuối thay cơm ở dưới mái hiên ngôi chùa đó.
Nói chuyện trời đất bông lông, nhắc lại một số bạn xưa mà tởng chừng như
không bao giờ gặp lại nữa. Nghĩ đến bạn đã khuất bóng sau khi đọc bài Bạn
tù Sơn La tôi bắt gặp cũng trong tờ báo ấy hai bài thơ, một của Thuyên Du,
bài Chiêu Niệm, một của Nguyễn Quan Hà, Chiêu niệm Ly phật Sơn. Thì ra hai
vị này là bạn thân của Lý Phật Sơn tự thuở nào, còn biết cả tên tục của Lý
Phật Sơn là Trần Quang Bạch. Nhân đọc hồi ký của tôi. Tôi không thể không
ghi lại những câu thơ khóc bạn, lấy ra những điều tôi ghi nhận về Lý Phật
Sơn:
Dưới mái rêu phong người tá túc
Hôi người, người nhắm mắt không thưa
Hỏi thầy: thầy cải tạo ra Bắc
Hỏi Phật: Chùa hoang phế khác xưa
(thơ Thuyên Du)
Vắt kiệt máu xương ngọn đèn sắp tắt
Nửa đốm linh anh leo lét đợi thời
Thời chẳng chiều ngươi,
Trời cao không mắt
canh bạc nhân sinh ngươi đã thua rồi.
Đã đến đã đi đã còn đã mật,
Bạch ơi Bạch ơi! sao phận con người.
(thơ nguyễn Quan Hà)
Khoảng gần mười năm sau 1975, tôi nghe nói nhà sư trụ trì chùa Viên Giác ở ấp
Đông Ba cũng là Tuyên úy Phật Giáo đã học tập cải tạo được trở về. Ngài tiếp
tục tu hành tại ngôi chùa, đệ tử đến thật đông, rồi ngài cũng viên tịch thời
gian ngắn sau đó. Tôi thấy đám ma của ngài đi trong ấp Đông Ba (nay là phường
7 quận Phú Nhuận) ra đường lớn, đường Chi Lăng cũ (nay là đường Phan Đăng
Lưu). Đông đệ tử đi đưa tiễn. Tôi tự hỏi không biết vị sư trụ trì sau học tập
cải tạo về có bị quản chế không, nghĩa là mỗi tuần, có khi hàng ngày phải dẫn
xác lên phường để Công An thấy mặt, nghiêm chỉnh báo cáo về mình, trong một
cuốn sổ.
Với tôi đã từng phải ghi những trang nhật ký như thế, tốn khá nhiều giấy
búi. Cuối tuần được ban cho quyền được Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, như công
việc quét phường, nhặt rác hoặc sai bảo linh tinh. ấy cái tính tôi cứ nói
năng lẩn thẩn. Nhưng đó là sự thật, không nói điêu và cũng không có gì mờ
ám. Bây giờ mỗi buổi sáng tôi có nhiệm vụ đưa thằng con trai út đi học ở
trường tiểu học Đông Ba. Lần nào cũng đi qua chùa Viên Giác, tôi dừng lại
mua một cái bánh tiêu hay dầu cháo quẩy cho con, trước cổng chùa có bà bán
chuối, tôi nhớ bà ta đã ngồi ở đây lâu lắm rồi. Tôi không biết bạn Lý Phật
Sơn của tôi đã ăn chuối của bà lần nào chưa. Hành lang chùa trống vắng. Tôi
nhớ cái giường sắt của Lý Phật Sơn kê ở chỗ đó. Tôi và anh ta có bữa làm hết
cả một nải chuối, ngồi nhìn kiểng chùa tiêu điều.
Thời gian đó cũng xa xôi rồi... Những gì tôi ghi lại đều là hồi ký. Những
chuyện linh tinh trong cuộc đời mà tôi nghĩ rằng với tuổi đời tôi đủ tư
cách để ghi lại. Mà sao những kỷ niệm ấy lại buồn thế. Trong năm Mậu Dần vừa
qua bao nhiêu chuyện để ghi lại. Nào là tiễn bạn lên đường đi định cư ở nước
ngoài, đón bạn về thăm quê hương. Tiễn bạn vĩnh viễn xa lìa trần thế, lên
lò thiêu hoặc xuống mồ. Đường nào cũng xuống âm phủ.
Mỗi bước chân điều chuyển là mỗi kỷ niệm, tính ra tôi đã sống ở thành phố
Sài gòn này hơn bốn mươi năm, từ khi tôi còn là một thiếu niên, nay đang về
già. Cũng từ Sài gòn tôi bung ra khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam thuở viết
văn làm báo.
Sau 30-4-1975 tôi quanh quẩn trong Sài gòn, ngoại trừ một lần lưu lạc xuống
Cà Mau làm cu ly, khoảng thời gian ngắn. Một lần khác ra khỏi Sài gòn đi học
tập cải tạo, tức là đi tù. Tôi học tập không tối hơn mà hình như xấu đi nhiều.
Sau một thời gian bị quản chế lại còn xấu hơn nữa. Hằng triệu điều bức xúc ở
trong đầu tôi, hình như không thể nào tẩy rửa sạch được. Muôn đời tôi cũng
chẳng trở thành con người mới có tư duy mới để thích nghi với cuộc sống.
Tôi tự ăn mình để sống, như ngọn nến ăn sáp, tiêu hao nhiên liệu của chính
mình để duy trì ngọn lửa, ánh sáng, trong cái chết dần mòn.
Tôi yêu mến Sài Gòn, yêu mến những kỷ niệm. Một ấp Đông Ba nhỏ xíu, với những
kỷ niệm cỏn con. Yêu mến bạn bè, chẳng may bạn bè có điều gì tôi đến ngay
dù chỉ với tấm lòng. Còn những cái lôm côm khác bỏ luốc, ai nói sao cũng được.
Những lúc tôi thập tử nhất sinh, có bạn thì ngược lại, khi bạn gặp điều
không may cũng có tôi. Không phải là sự tính toán, vì không tính toán gì suất
cả.
Ngồi mãi trên gác bút hay trong hầm ninh chữ này cũng chán, tôi lang thang
ra ngoài xóm, nhìn những căn nhà bị giải tỏa dưới cù lao Rạch Miễu mà chán
hơn. Tôi lấy xe đạp đi xa. Tôi muốn tìm đôi vỏ xe cho chiếc xe Solex già
nua của tôi, mà các cửa hàng bán vỏ xe ở Sài Gòn không còn nữa, tôi đoán
trúng ở Xóm Mới may ra còn. Xóm Mới nổi tiếng một thời sau ngày 30-4- 75 sản
xuất vỏ xe các loại, kể cả nghề làm pháo lậu. Một thời sau khi đi học tập cải
tạo về, vì miếng cơm manh áo tôi đã tham gia với những người anh em Xóm Mới
làm nghề sản xuất vỏ xe lậu. Thời buổi đó thật khó khăn, cái gì không phải
của nhà nước, quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, nghề lậu,
"chui". Khi đó tôi còn sức khỏe, đủ sức chịu đựng gian nan vất vả,
kể cả hiểm nguy để kiếm lấy miếng ăn. Tôi không giống như con mèo ướt hay
con gà chết như bây giờ.
Xóm Mới qui tụ hầu hết là dân Bắc kỳ công giáo di cư nhà quê từ năm 1954, mộ
đạo và người dân ấy có nết chịu thương chịu khó. Đất canh tác ít ỏi, chỉ đủ
đất trồng thuốc lào, nên dân chúng xoay ra làm nghề buôn bán, hoặc làm
công.
Hồi trước năm 1975, Xóm Mới cũng đã làm đủ ngành nghề, trong đó có nghề làm
pháo, nghề mổ hco. Khi không được chính thức làm ăn nữa thì bị coi là làm
pháo lậu, thịt chui. Năm nào cũng xảy ra lai nạn vì sơ xảy. Pháo phát nổ,
nhà xập người chết bị thương cũng nhiều. Nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Chẳng
phải người dân Xóm Mới ngang chướng gì, hay cố tình không tuân hành luật
pháp. Hay nói một cách khác là tham tiền, tham lời. Của đáng tội không phải
vậy đâu. Dân Xóm Mới, dân Hố Nai Biên Hòa hay dân Cái Sắn dưới miền Tây,
không đủ tư cách và điều kiện để hội nhập với chế độ mới, không làm chui
làm lậu lấy gì mà sống. Chúa dậy phải đổ mồ hôi mới có được miếng ăn, Chúa
chỉ cấm không được ăn cắp ăn trộm, gian dối hay lừa đảo thôi. Con chiên
ngoan đạo là con chiên biết nghe lời dậy tốt lành của Chúa. Tôi chỉ thấy
người dân Xóm Mới nhẫn nại, ngoan cường như loài kiến. Cái thân tôi từng lê
lết xuống vùng ấy làm nghề ve chai nên rất rành. Từng chở keo, cao su lậu từ
nhà máy vượt qua bao nhiêu trạm kiểm soát kinh tế lúc đêm khuya mưa gió để
mang vào Xóm Mới nguyên vật liệu làm ra chiếc vỏ xe đạp, xe xích lô rất cần
thiết lúc bấy giờ.
Thuở đó mua được một chiếc vỏ xe đạp hiệu Sao Vàng hoặc vỏ xe quốc doanh
nào đó thật khó khăn, anh có năn nỉ vã bọt mép ra cũng kệ anh, nếu anh
không có giấy giới thiệu, không được "thủ trưởng " nào đó chứng
nhận thì không bán. Mặt mấy đứa thương nghiệp cứ vác lên như mặt thớt. Bực
quá anh văng tục hay chửi thề, liệu cái thần hồn nhà anh.
Tôi là người có bệnh cận thị kinh niên, chẳng may vỡ mất một bên mát kính,
làm thế nào tôi cũng không thay được tròng mất kính bể suốt nhiều năm trời.
Vì tôi không là nhân viên gì hết nên không có giấy giới thiệu, chuyện đó
không ai giải quyết cho. Tôi đành làm kẻ mù dở. Nhìn đời, nhìn người mờ ảo
như trong cơn mê hoặc lệch lạc ráo trọi.
Người Xóm Mới làm ra được cái vỏ xe mới tài tình chứ, đáng ra được trao huy
chương vàng. Thời đó cả Xóm Mới, già trẻ, lớn bé lao vào nghề làm vỏ xe, mỗi
người làm một khâu, một công đoạn, rút ra những chỉ bố từ vỏ xc hơi phế thải,
nối chỉ rồi lên bồ quay, bàn căng ghép ta-lông, dán keo mang hấp, khuôn hấp
chạy điện hay chạy than. Điện thường là câu trộm, phải thú thật như thế. Bị
bắt, bị phạt, bị tịch thu khuôn hấp cũng nhiều, được tha cũng không ít vì lễ
độ biết điều, biết nói câu thông cảm đậm đà, biết mời thuốc có cán, điếu
đóm cẩn thận. Vỏ xe tung ra thị trường bán đắt như tôm tươi, và tất nhiên
theo ngả buôn lậu bán chui rồi. Tôi thành thật khai báo rằng vào thời gian ấy
tôi cũng đã theo người ta làm ăn kiếm sống cái kiểu này. Nếu không thì đã
chết đói từ lâu rồi.
Một buổi trưa, khi tôi còn theo nghề mua bán ve chai, lang thang xuống tận
Xóm Mới kiếm ăn, tôi rao đến rát cổ nổ họng mà chẳng ai mang đồ ra bán. Một
người dàn ông vẫy tôi vào nhà, nói:
- Chẳng mua bán gì được đâu, vô đây làm bát nước chè tươi, điếu thuốc lào
cho đỡ vã đã. Biết hút thuốc lào chứ?
- Biết, cái món này tôi hẩu lắm.
Tôi làm đến ba bi thuốc lào, say la đà, đỡ vã thật. Trong căn nhà đó tôi thấy
đông người làm việc, đàn bà trẻ con ngồi kéo chỉ, nối chỉ, người khác đứng
khuôn, người đàn ông khi nãy phụ trách khuôn hấp. Thì ra anh ta là chủ cơ sở.
Tôi quan sát từng khâu một, tôi thấy làm ra chiếc vỏ xe chẳng mấy khó khăn.
Anh chủ cơ sở nói với tôi:
- Muốn làm không, nếu muốn thì ngồi xuống mà làm, tôi trả công cho, còn hơn
đi rao ve chai. Không kiếm nổi bữa cơm chiều nay đâu, nhưng nếu anh làm từ
giờ đến chiều, chắc chắn anh kiếm được ba chén cơm.
- Vậy thì được, nhưng tôi làm gì bây giờ?
Việc đầu liên anh ngồi tuốt chỉ từ cái vỏ xe cũ này ra, tôi tính công qua từng
ký lô, coi người ta làm sao thì anh làm vậy.
- Cần làm giấy tờ thủ tục gì không?
- Khỏi, tôi chẳng cần biết tên anh thì cần biết lý lịch anh làm chi. Làm đi
rồi chiều lãnh lương, ngon như óc chó.
Tôi nhập nghề làm vỏ xe, chỉ làm vỏ xe thôi chứ không biết kinh doanh. Tôi
xin thề rằng tôi đã biết thêm được một nghề nữa trong hàng chục nghề tôi
đeo đuổi suốt 23 năm qua, ngoài nghề cầm bút của tôi đã bị coi là lỗi thời,
phế thải. Tôi quen với sinh hoạt làm vỏ xe từng ngày. Cái kính trắng tôi
đeo có một tròng mắt nên được gọi là ông mù, như tên gọi trong trại học tập
cải tạo của tôi
Tính tôi ưa phiêu lưu mạo hiểm, nên đề nghị với chủ để được chở keo mướn.
Việc làm đơn giản nhưng không kém phần gian nan nguy hiểm. Khâu quan trọng
nhất trong nghề làm vỏ xe là cao su, mà nghề nghiệp gọi là keo. Tôi phải lấy
keo từ nhà máy cán keo ở Chợ Lớn mang về Xóm Mới. Trạm kiểm soát kinh tế
giăng mắc khắp ngả đường như thiên la địa võng. Vô ý một tẹo thôi là sa lưới,
mất cả chì lẫn chài. Những cuộn keo nặng hàng tạ chất lên chiếc xe đạp thồ
của tôi, tôi vừa đạp xe vừa cầu Chúa cầu Phật phù hộ độ trì cho để lọt lưới.
Tôi tự tìm ra những con đường xuyên xóm, xuyên sân bay Tân Sơn Nhất, qua ngả
chợ Cầu về Xóm Mới, ngả kho đạn qua An Nhơn. Thường là lúc một hai giờ đêm,
trời mưa to gió lớn càng tốt, một mình tôi với chiếc xe thồ chở hàng tạ
hàng lậu. Cùng với lời cầu nguyện tai qua nạn khỏi, trong túi áo tôi luôn
luôn có gói thuốc lá điếu có cán, thuốc lẻ thôi, để nếu không may gặp
"sự cố thì hát bài "con cá nó sống vì nước, con sống vì các ông
các bà, xin các đồng chí thông cảm cho". Thời gian đó tôi vừa láo vừa
biết nói dối như cuội.
Xóm Mới khi đó còn heo hút lắm, những trại lính của chế độ cũ chạy dài từ
Ngã Năm Chuồng Chó đến tận An Nhơn, những nghĩa địa hoang, ruộng vườn ngả Hạnh
Thông Tây, ban đêm, nhất là những đêm mưa, ễnh ương kêu y uống sao mà buồn
thế. Người ta nói trắng con đường ấy có ma. Thây kệ. Hằng đêm tôi phải đi
qua những ngả đó. Những trạm kiểm soát cũng ở những góc đường đó. Tôi gần
như in thở đạp xe qua. Vậy mà cũng có lần có người xồ ra chiếu đèn pin vào
mặt tôi, súng chĩa vào ngực. Tôi bèn hát bài con cá, hòa điệu cùng tiếng ễnh
ương, rồi rất lễ độ xin thông cảm, tôi làm mặt khổ đến thảm hại. Có lẽ tôi
diễn xuất cũng tài nên các cán bộ thông cảm. Nhác nhở tôi:
- Này khắc phục nhé, lần sau mà tái phạm không tha đâu.
Tôi vâng dạ rồi cút thẳng. Hy vọng rằng hơi thuốc có cán làm ấm lòng chiến
sĩ. Nhưng tôi vẫn nghe lời ba người đó cãi nhau phía sau:
- Đúng thằng đó rồi, hôm trước nó chạy qua cầu có con suối đầu An Nhơn rồi
biến mất chứ ma quỉ gì. Quân này láo thật.
Đúng là tôi chứ chẳng sai. Đêm hôm đó chính tôi chở keo qua chốt kiểm soát
này, qua trạm được chừng chục thước, nghe tiếng hô hoán:
- Hàng lậu, hàng lậu bắt lấy nó, đứng lại không tao bắn!
Để bảo đảm nguyên vật liệu không hiểu sao tôi lại liều đến thế. Nhấn bàn đạp
đạp bừa. Xe lao xuống dốc vun vút, ở một khúc quanh tôi lạc tay lái, thay
vì qua cầu tôi lao ngay xuống con suối cạn, chỉ một cái ngã đau điếng người
nhưng tôi cũng chui được vào gầm cầu. Rồi tôi nghe tiếng người tao nhao,
đèn pin chiếu loang loáng:
- Rõ ràng nó mới ở đây mà biến đi đâu nhanh thế. Ma à?
Đèn pin chiếu xuống suối đúng ra là cống thoát nước từ khu Hoàng Mai chảy
ra:
- Hay là nó rơi xuống đây?
- Rơi xuống thì gãy cổ sống sao nổi. Đấy, đồng chí thấy không, có gì đâu
nào!
Đèn pin chiếu ngay sát chỗ tôi nằm cùng chiếc xe đạp, nhưng không phát hiện.
Rồi toán người ấy bỏ đi. Vừa đi vừa bàn chuyện ma quỉ hiện hình rồi biến mất.
Tôi là một con ma, có sao đâu.
Chuyến chở hàng lậu ấy của tôi trót lọt về đến Xóm Mới. Nhà chủ banh những
cuộn keo ra, cắt cắt dán dán, vô khuôn hấp mớ hàng lúc năm giờ sáng. Lái
buôn vỏ xe đã trực sẵn đầy nhà chờ lấy hàng. Tôi mệt quá vì mất gần một đêm
không ngủ nghỉ, lại đau nhức cả một bên bả vai, vì cái ngã hồi đêm. Tôi lảo
đảo ra đầu xóm ăn bát cháo lòng, đánh hết hai bát tiết canh mới thấy người
khỏe ra. Tôi còn cần một ly cà phê, điếu thuốc nữa mới đủ đô, phục hồi sức
khỏe. Tôi có tí tiền trong túi đủ nghỉ ngơi nguyên ngày. Chẳng làm giầu làm
có gì nên tôi không tranh cướp vỏ xe đi bỏ mối. Dù tôi có lấy cũng được coi
là ưu tiên số một. Tôi mệt mỏi quá rồi, đúng với nghĩa của nó. Tôi đạp xe
ra cuối Xóm Mới, quán cà phê sát mé sông mở sớm. Ly cà phê nóng hôi hổi và
thơm tho làm sao, tôi tự thường cho mình điếu thuốc có cán thơm râu, hưởng
lấy không khí trong lành buổi sớm mai. Nhìn ra mặt sông xem những thuyền
câu xuôi ngược hoặc đang giăng lưới. Tôi thường nghe người ta đồn rằng,
trên bến sông này nhiều thuyền câu "giả dạng thường dân" làm taxi
đưa người Xóm Mới ra "cá lớn" đậu ngoài biển, hoặc ếm gà ở Cần Giờ,
đủ "quân số" ra biển, bỏ quê hương mà đi, kiếm ăn xứ người, nếu
may mắn thoát chết, không chui vào bụng cá thì gửi "thùng " về cứu
giúp gia đình còn kẹt lại trên quê hương. Chính tôi cũng mang trong lòng giấc
mơ đen tối ấy. Những mong mình chính là những con người đó. Được tốt lành
hay bất hạnh gửi số mệnh cho ông Trời định đoạt. Những phút giây mơ mộng đã
giúp tôi sống, dù là lây lất qua những chuyến đổ hàng lậu thập tử nhất sinh
như đêm qua. Một tiếng nói sau lưng làm tôi giật mình.
Tôi mới mang chứng bệnh hãi sợ này từ khi đi học tập cải tạo về:
- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, có phải anh đấy không?....
Tôi ngẩng lên, nhân vật Đức râu, chú em ít tuổi cùng ở chung trong trại học
tập với tôi. Anh ta là người ở Xóm Mới, được ra về sau tôi một thời gian ngắn.
Bây giờ anh cũng là chủ cơ sở làm vỏ xe lậu, mang lên Sóng Thần", tên
của một tờ báo hồi chế độ cũ tôi từng cộng tác. Đức râu cũng hẩu món văn
nghệ lắm, tính nết thì bộp chà bộp chộp, nhưng không phải là người xấu. ở
trong trại học tập, Đức râu từng nổi tiếng qua bài hát Nửa hồn thương đau của
Phạm Đình Chương. Trong phim Chân trời tím, truyện phim của nhà văn Văn
Quang. Giọng anh to, ồm ồm, đặc sệt thổ âm Xóm Mới, mang từ miền Bắc di cư
vào. Anh ta hát như thế này: "Rắm mắt... cho tôi tìm một thoáng hương
xưa...".
Thật là hết ý, nhắm mắt mà anh ta cứ hát thành rắm mắt thì có chết người ta
không chứ. Anh em cười cái rần, Đức râu cứ tiếp tục hát cho đến hết bài.
Vui đáo để, ai yêu cầu hát là anh hát liền, râu ria cứ mọc ra tua tủa nên mới
có tên là Đức râu. Thường mở đầu câu nói bằng câu "Rê su ma, lạy Chúa
tôi". Anh là một con chiên ngoan đạo. Tôi thường thấy anh lần chuỗi
Mân Côi lầm rầm cầu nguyện, khi ngừng lao động, dù là ít phút ngắn ngủi.
Năng cầu nguyện tức là tăng thêm sức mạnh. Anh nói thế và tin thế, cũng tốt
thôi khi đang ở trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Những nhát cuốc phăng phăng
trên sỏi đá, sườn đồi tóc lửa. Mảng đất sắt cũng phải bật lên thành luống.
Tôi chậm rãi nói:
- Ngồi xuống đã nào, tôi bao cậu cà phê sáng nay.
Đức râu ngồi xuống:
- "Rê su ma, lấy Chúa tôi", anh làm gì mà có tiền, trúng mánh nào
hả?
- Chẳng mánh mung gì hết, vẫn chở keo lậu như mọi khi thôi. Đêm qua bị bể một
chuyến tí chết....
Tôi kể cho Đức râu nghe chuyến đi hàng gian nan đêm trước. Đức râu chăm chú
nghe và luôn miệng "Rê su ma ". Đôi mắt của Đức râu nhìn tôi và
những tiếng "Rê su ma" của anh, tôi biết anh xót xa cho thân phận
tôi lắm. Bàn tay anh đang xoa bóp nhè nhẹ trên cái vai đau của tôi. Tôi
nói:
- Tao tưởng bị gãy cổ rồi, may mà cái ngã lăn tròn, cái vai chịu đựng tất cả,
nếu không chắc là đi đứt!
- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, em cũng đang tính nhờ anh một chuyến
hàng, nhưng nghe anh nói em không dám nữa.
- Hàng cho nhà Tốt còn chuyến được chuyến không, tao sức đâu mà đưa cho
mày. Mày nhờ người khác đi, cũng nhiều tay liều mạng lắm. Vỏ hồi này bán chạy,
bọn xe thồ và xích lô tín nhiệm là ăn bứt, tao không ngờ Xóm Mới lại thành
công trong việc làm này... Anh thông thạo việc làm vỏ chưa?
- Tao có thể làm được từ A đến Z.
- Vậy tại sao anh không ra nghề, mình làm chủ lấy mình.
- Tao có nghĩ đến chuyện đó, nhưng không có vốn để làm ăn, vả lại tao không
có tài làm chủ, chỉ có khiếu làm cu li thôi.
- "Rê su ma" anh hận đời đen bạc nên cay đắng thế thôi. Nhưng em
biết rồi, anh nguyên là một nhà văn nên anh làm thế này để lấy chất liệu
trong thực tế, biết đâu một ngày nào đó em lại không được đọc truyện của
anh. Trong anh còn âm ỉ một đốm lửa, chưa biết lúc nào bùng lên. Em sống
bên anh trong trại học tập suốt mấy năm trời, em biết chứ?
- Thế hả, cậu có thể gia nhập ngành Công an được đấy.
- "Rê su ma" anh nói thế thì chết nhà em mất, anh em mình cứ
thành thật với nhau, với kẻ khác thì chẳng nên, không khôn khéo sao em sống
được đến ngày hôm nay, em còn phơi thay thầy em trông coi cả mấy mẫu thuốc lào,
mấy cái ao nuôi cá rô phi, rồi cái xưởng làm vỏ Sóng Thần của em nữa. Từ
lâu em đã có ý định giúp anh mở một xưởng nữa lấy tên là Vỏ xe Sống. Vỏ xe
Sống và Sóng Thần bon bon chạy khắp các ngả đường Việt Nam.
- Con lạy bố, con sợ ở tù lắm rồi, làm ơn khẽ cái mồm một tí nào. Bố trẻ cứ
hứng lên phát ngôn bừa bãi là khốn đó. Có mồm thì cắp có nắp thì đậy.
- Xin nghe anh, nhưng cũng phải hỏi anh có ngày nào anh viết về cái Xóm Mới
này không?
- Có chứ, những ngày tao chở keo lậu cho dân Xóm Mới làm vỏ xe lậu, ghi lại
những chuyến chở keo lậu, gian nan nguy hiểm không kém gì đường Trường Sơn.
Tao đặt tên cho nó là đường mòn Cao Su. Cuộc chiến đấu của riêng tao, đơn độc
nhưng cũng không kém vẻ hào hùng đâu.
Buổi sáng hôm ấy tôi đã hứng chí mà bốc phét như thể với Đức râu. Đã mười
lăm năm qua rồi. Mười lăm năm trong 23 năm của một đời người, hôm nay tôi mới
thực hiện được lời hứa ấy khi nó đã ngấu, đã chín rục.
Cũng buổi sáng hôm ấy tôi hứng chí nói năng lung tung, hình như về một chuyến
ra đi nào đó. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Nhưng cuối cùng tôi vẫn còn ở lại
trên quê hương. úi chà chà, sao buổi sáng hôm ấy tôi lại hùng biện như vậy,
phải chăng vì cái ngã đau suýt toi mạng đêm trước. Nên quên cả sợ, có những
cơn bốc đồng thành bốc phét. Phải chăng tôi nhiễm bệnh khùng-điên-ba trợn.
Sài Gòn bị ảnh hưởng một cơn bão rớt nên đẹp như mùa thu Hà nội. Tôi nhẩn
nha đạp xe xuống Xóm Mới, từ đầu Nguyễn Kiệm qua sân "gôn" xưa,
qua bệnh viện Cộng Hòa, đến Ngã Năm Chuồng Chó, thẳng đường xuống An Nhơn
là nhập Xóm Mới. Tôi là người sống ở Sài Gòn mà ngạc nhiên vì sự thay đổi của
Sài Gòn. Sự thay đổi đó mới có từ khi nền bao cấp cáo chung, bước sang đổi
mới rồi kinh tế thị trường. Một sự giầu sang mà người ta nói là phồn vinh,
nhưng là thứ phồn vinh gì đó. Chưa phải là một sự bình sản, chênh lệch nhau
thấy rõ nhất từ xưa tới nay. Nếu có chút hiểu biết người ta không thể vỗ
tay hay hết lời ca tụng thành quả kinh tế phát triển tốt đẹp. Cứ chờ đợi rồi
biết ngay thôi.
Với tôi mỗi bước chân di chuyển trong thành phố Sài Gòn xưa là mỗi kỷ niệm,
dấu ấn đậm nét dĩ vãng. Thường thì không mấy tốt đẹp, bệnh viện Cộng Hòa
xưa, nay là bệnh viện 175. Buổi chiều ngày 30-4-75, tôi chứng kiến hàng
hàng lớp lớp thương bệnh binh của quân đội chế độ Cộng Hòa bị lùa ra khỏi bệnh
viện, thằng mù cõng thằng què, thằng đổ ruột đựng trong bao ni lông ôm bên
hông. Tôi không theo dõi kỹ nên không biết số phận họ ra sao, cũng không biết
họ bị lùa ra khỏi bệnh viện rồi đi đâu, vì bệnh viện Cộng Hòa không còn là
chỗ nằm dưỡng bệnh cho họ nữa. Nhưng khách quan mà nói tôi thấy thê thảm
quá. Một chút mủi lòng trong cái xô bồ của thời thế.
Cái xóm trước bệnh viện Cộng Hòa xưa, nay mọc lên những căn nhà khang trang
buôn bán tấp nập. Trại lính kéo dài từ Ngã Năm Chuồng Chó đến An Nhơn đã bị
phá đi, mọc lên một khu thương mại, cả bên ngả Hạnh Thông Tây cũng vậy.
Xóm Mới nhỏ bé cũng khác xưa nhiều lắm. Dĩ nhiên là nhà cửa mọc lên, xây cất
kiểu cọ đàng hoàng. Nhà thờ cũng nhiều và khang bang hơn trước. Dòng sông
xưa, nay cũng có một cây cầu xi măng bắc qua, xe vận tải hạng nặng chạy được.
Quán cà phê xưa, bên bờ sông tôi từng ngồi mỗi buổi sáng tinh mơ không còn
nữa. Con đò dọc trên dòng sông đã triệt tiêu luôn ý nghĩ vẩn vơ của tôi mơ
ước một lần nào đó đưa mình ra cửa biển, nhưng thực tế cũng có đấy. Không
riêng gì dòng sông này mà nhiều dòng sông Việt Nam khác đã chảy ra biển,
cũng đã từng mang theo nhiều con người ra đi. Có những nguồn tin mất tích
và cũng có tin được hồi âm. Có hợp rồi tan, tan rồi hợp như truyền thuyết Lạc
Long Quân, Âu Cơ.
Suốt buổi sáng hôm ấy tôi rong chơi ở Xóm Mới. Tìm lại những kỷ niệm xưa, rất
rõ nét trong tôi thời làm vỏ xe lậu. nhưng lại rất mơ hồ trong thực tế. Tôi
không thể nào tìm mua được chiếc vỏ xe Solex vừa lỗi thời vừa cũ rích của
tôi. Một món đồ đáng để vào viện bảo tàng. Hỏi một người làm vỏ xe cũ thì
được biết khuôn hấp dó không còn nữa, người ta đã nấu chảy nó ra làm khuôn
bánh xe Honda Dream rồi. Tôi từng thấy có đám trẻ con ùa ra xem chiếc xe của
tôi, đôi mắt chúng nhìn chiếc xe quái dị. Chúng có nhìn thấy chiếc xe này
bao giờ đâu. Đơn giản vì đương thời của chiếc xe Solex chúng chưa ra đời.
Nên chiếc xe Solex chẳng là gì cả đối với chúng. Tôi buồn cười khi nghĩ đến
câu nói của anh Tây già đóng tuồng quảng cáo cho tủ lạnh Electronic trên ti
vi:
Bốn mươi năm vẫn chạy tốt!
Tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận tôi, như thân phận một số bạn bè cầm bút
của tôi thuở nào. Tưởng là chìm đắm vĩnh viễn trong quên lãng, người ta muốn
thế. Có người đã nói vào mặt tôi:
- Anh đừng tưởng bảnh, mười năm người ta không quên anh thì hai mươi năm.
Phải chăng tôi hai mươi ba năm mới hồi sinh, một giấc ngủ đông quá dài của
loài gấu. Tôi có nghề làm vỏ xe, tôi có thể tái sinh được cái vỏ xe cũ rích
của tôi, bằng cách này hay cách khác để chạy thêm được một khúc đường dài nữa.
Tôi sẽ chạy suốt con đường hồi ký cho đến khi nó "xúm bã chè".
Cũng trong ngày hôm ấy tôi đi qua một nhà thờ trong xóm đạo. Tôi nghe thấy
bài kinh "lậy cha ":
Lậy Cha chúng con ở trên Trời
Chúng con nguyện danh cha cả sáng
Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện
dưới Đất cũng như trên Trời.
Xin Cha cho chúng con
lương thực hàng ngày và cha nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
A men!
Lại là những ngày rong chơi trong thành phố. Sài Gòn đang ảnh hưởng một cơn
bão. Ninh Thuận, bão đánh chìm xuống, tốc nhà, người chết. Nước sông Tiền
sông Hậu dâng cao. Cả một vùng rộng lớn ở Đông Nam á bị đe dọa. Tôi nghĩ đến
tập kịch Bão Thời Đại của Trần Lê Nguyễn vừa nằm xuống, mà anh đã viết cách
dây bốn mươi năm.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét