Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CỦA BÀ TÙNG LONG - KỲ 2


1      2      3      4


CHƯƠNG 3: ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

Trong thời gian đang học bậc trung học đệ nhất cấp (chương trình Pháp) ở trường Gia Long, tôi đã tập viết những bài báo, tùy bút hoặc dịch các bài viết về phụ nữ của các báo Pháp, như LaFemme, Marie Claire, Rester jeune de corps, D’Âme et d’esprit… Tôi gởi bài đến báo Sài Thành (sau đổi tên là Sài Gòn Mới), ba tôi có quen mấy người làm việc ở đây do cùng sinh hoạt trong Hội Trung Việt ái hữu. Lại cũng có khi ở không, tôi tập viết truyện ngắn gởi đăng thử ở các báo và vẫn ký Bạch Vân, không có bút hiệu. Bài tôi gởi báo Sài Thành thường được đăng và sau đó tôi nhận được những lời khuyến khích của tòa soạn mời tôi tiếp tục viết. Nhưng tôi không có thời gian nhiều vì bận học thi.
Thế rồi trên mặt báo Sài Thành bỗng có đăng một mẩu quảng cáo: “Dạy viết văn, làm thơ, dạy cả chữ Hán, theo cách hàm thụ cho những ai yêu thích văn thơ hay thích nghề làm báo, do cô Nhứt Chi Mai (NCM) phụ trách. Bài vở gởi về địa chỉ báo Sài Thành”. Vài người bạn của tôi đã gửi thư xin học và rủ tôi cùng tham gia. Tôi đã ghi tên học hàm thụ viết văn ở trường Universelle bên Pháp, thì bây giờ ghi tên học lớp này cũng rất tiện lợi, một cơ hội tốt cho tôi chớ có sao đâu. Hỏi ý kiến cha tôi, cha tôi chỉ nói:


- Con coi có đủ thì giờ học không? Hãy viết thư hỏi thể thức học ra sao và tiền thù lao như thế nào rồi mới ghi tên. Con phải cẩn thận, không biết Nhứt Chi Mai là ai? Một người đàn bà ư? Hiện giờ có bao nhiêu phụ nữ viết báo mà giỏi cả Hán văn, Việt văn và cả Pháp văn? Cộng sự viên của báo Sài Thành thì cha quen nhiều, phần đông là người Trung ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, như Thiên Trà, Hoa Đường, còn hai anh em ông chủ nhiệm Bút Trà và ông chủ bút Hồng Tiêu đều là người Quảng Ngãi, cha thường gặp ở những ngày Hội Trung Việt ái hữu nhóm họp.



Cha tôi chỉ nói vậy chớ không cấm nên tôi liền viết thư xin điều lệ và được gởi ngay một bản hướng dẫn cách thức học, gởi bài một tuần một lần và chỉ trả học phí khi nào cô NCM thấy học viên có đủ trình độ theo học. Bản điều lệ được đánh máy và ghi rất rõ.



Tôi xin học viết báo, viết những bài xã luận về phụ nữ, viết truyện ngắn và không học làm thơ. Và tôi gởi ngay một truyện ngắn. Chỉ ba ngày sau tôi nhận được bài đã chấm và phê bình rất kỹ, chứng tỏ cô NCM là người có tài và rất am hiểu văn chương. Cô khen tôi viết khá, chỉ cần học sáu tháng, nhưng nên học làm thơ vì một nhà báo cần phải biết đủ các thể văn, và thơ sẽ làm cho con người có một tâm hồn cao thượng hơn. Tôi viết trả lời là chuyện học làm thơ hãy để sau, bây giờ chỉ học viết văn cho thông đã, vì tôi học chương trình Pháp từ nhỏ nên ít có giờ Việt văn. (Theo chương trình này thì Việt văn chỉ là một môn ngoại ngữ).



Nhưng sau khi bài đã được chấm và trả về, tôi để ý một điều là cô NCM nhất định không phải là phái nữ. Vì nét chữ của cô rất bay bướm, có khi rất cứng nét nhưng có khi lại mềm và rất khó đọc. Việc này tôi chưa nói cho cha tôi biết. Nhưng truyện ngắn ấy của tôi đã được chọn đăng ngay trên tờ Sài Thành.



Trong khi đó, tôi có một người bạn ở Cần Thơ, tên Lê Thục Nữ, con một điền chủ ruộng đất cò bay thẳng cánh, trong lớp cũng rất thích văn chương và có lần đã cho tôi biết là chị có viết thư qua lại với Nguyễn Tiến Lăng, hồi đó chưa làm bí thư cho bà Nam Phương Hoàng hậu. Nguyễn Tiến Lăng vừa thi xong bằng tú tài Pháp ở trường Albert Sarraut Hà Nội và là con đỡ đầu của một nhân vật Pháp trong chánh quyền thực dân. Lê Thục Nữ không đẹp, người hơi thấp, trán trợt và lưng tôm, nhưng da trắng, mắt đẹp, răng rất đều đặn. Người không đẹp nhưng Thục Nữ cứ nghĩ mình là một giai nhân tuyệt thế, nên đi đứng làm điệu rất khó coi, bạn bè ít ai thích. Đã vậy Thục Nữ còn tự phụ mình giàu, sau này sẽ hưởng ba phần gia tài, một của cha, một của ông bà ngoại và một của mẹ (đã sống riêng). Năm đệ tứ, Thục Nữ thi rớt Diplôme và bỏ học luôn định ra Hà Nội tìm cách làm văn với Nguyễn Tiến Lăng. Thục Nữ rất mến tôi và có tâm sự gì đều kể cho tôi nghe, làm việc gì cũng bàn với các bạn của tôi như Như Hằng, Nguyễn Thị Yến, và Nguyệt lưng gù. Vì bỏ học không có ý thi lại Diplôme nên Thục Nữ về Cần Thơ. Lúc ấy, tôi bỗng nhận được thư của Thục Nữ. Thục Nữ kể cho tôi nghe là còn thấy cái quảng cáo dạy viết văn làm báo của cô NCM ở tờ Sài Thành, đã viết thư xin học, gởi bài và nhận được bài sửa. Tôi còn nhớ rõ nguyên văn Thục Nữ viết:



“Bạch Vân ơi! Vân có học hàm thụ với cô NCM nào đó quảng cáo trên Sài Thành không? Mình nghe là Vân có ghi học rồi! Thế ý kiến của Vân ra sao? Mình không nói về tài và học thức của cô ta vì chắc chắn đây là người có học nhiều, cả cổ lẫn kim, tuổi cũng trên 30 rồi, không trẻ đâu. Mà mình nói thật cho Vân nghe, cô NCM này không phải là cô đâu mà là thầy đó. Vân nghĩ sao nếu ông ta không phải là cô? Mình không học đâu! Sợ lắm! Văn chương là một thứ bùa chú mà do đầu óc người ham mê văn chương vẽ ra, không ai xóa bỏ được bằng thứ bùa chú nào khác. Qua cách sửa bài và giảng trên giấy, ông này dạy giỏi lắm đấy, nội nét chữ cứng rắn mà mềm mại như vẽ của một người chắc đã từng học chữ Hán, sau đổi qua học chữ Việt. Vân ơi! Thục Nữ không học nữa đâu! Vân muốn học thì cứ học, bởi vì Vân chưa có ai là tri kỷ, còn mình, mình đã chọn anh Lăng rồi. Khi nào thất bại sẽ hay, bây giờ thì đang còn hy vọng! Cẩn thận nhé, người bạn yêu dấu của ta ơi!”.



Chính tôi, tôi cũng có ý nghĩ như Thục Nữ, nhưng tôi vẫn tiếp tục học và cứ nghĩ mình học qua hàm thụ có gặp ai đâu mà ngại, có gì thì ngừng không học nữa là xong. NCM dạy rất nghiêm túc, bài phê phán kỹ lưỡng, dạy từng cách dùng chữ Hán vào bài viết và ý nghĩa những câu thơ chữ Hán, rồi đề nghị tôi nên học chữ Hán, học làm thơ. NCM còn nhận xét cách viết văn của tôi khá hay, chỉ thiếu phần kinh nghiệm sống và phần đọc sách, đọc báo hàng ngày để tiếp xúc với trào lưu văn học trong nước và trên thế giới…



Thế là tôi học làm thơ thêm với NCM. Tôi tự biết mình không thích môn này và cũng không có khiếu, lại thêm đầu óc tôi rất thực tế, mà muốn làm một thi sĩ phải sống rất đam mê, mơ mộng, yêu trăng yêu gió, thích trời cao đất rộng, đi đó đi đây… Những thứ lúc nhỏ tôi đều được hưởng, nhưng bây giờ lớn lên là một thiếu nữ, lại là một thiếu nữ Việt Nam phải khép mình trong bao nhiêu lễ giáo gò bó, khó lòng làm được một nhà thơ như ý muốn của mình. Nên tôi có viết cho cô NCM là tôi không thích làm thơ, chỉ thích viết văn.



Thời bấy giờ trong Nam chỉ có một tờ Phụ Nữ Tân Văn mà chủ nhiệm lại là một người đàn ông (cùng tên Nguyễn Đức Nhuận với anh chồng tôi – bút hiệu Bút Trà – sau này). Ngoài Bắc thì có tờ Phụ Nữ Đàm cũng do một số cây bút phái nam viết và ký tên cô này bà nọ. Từ lâu tôi đã nuôi mộng viết văn như nhóm Tự Lực Văn Đoàn mà tôi là độc giả trung thành lúc bấy giờ. Tôi cũng không bỏ sót một tác phẩm nào của các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Thanh Châu, Lê Văn Trương, và cả nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Như vậy tôi đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của các nhà văn ngoài Bắc lúc bấy giờ, trong đó có cả các đàn anh, đàn chú như Ngô Tất Tố, Chu Thiên, Tản Đà, Thế Lữ …Ôi! Tôi đọc tất cả.



Trong khi đó cha tôi cũng đã điều tra về NCM khi đi dự các cuộc họp của Hội Trung Việt ái hữu. Cha tôi nói, theo Hoa Đường – một cộng sự viên của báo Sài Thành – thì NCM chính là Hồng Tiêu, tên thật là Nguyễn Đức Huy, chủ bút của báo và là người giữ mục Tranh Xã Hội với bút hiệu Như Hoa, một cây bút đang nổi tiếng lúc ấy, được nhiều độc giả ở Sài Gòn cũng như ở lục tỉnh, miền Trung mến phục. Cha tôi dặn: “Con liệu coi nếu không tiện thì nghỉ học, kẻo rủi có chuyện rắc rối sau này”. Nhưng rồi cha tôi lại tiếp: “Nhưng mình học qua hàm thụ, có ai gặp ai đâu, muốn học tiếp hay nghỉ cũng dễ dàng thôi”. Thế là tôi tiếp tục học với NCM. Tôi thấy ông ta chấm bài cho tôi rất kỹ, giảng về thơ rất hay. Đã biết NCM là đàn ông, nên mỗi khi viết bài gởi đi, tôi đều rất cẩn thận.



Cô em thứ sáu của tôi tên Hạnh, rất đẹp và cũng rất rắn mắt, đề nghị để em đem bài của tôi xuống thẳng nhà báo đưa cho NCM để biết mặt ông ta. Lúc đó, Hạnh mới 14 tuổi nhưng rất lanh lợi, nói là làm. Hạnh đã gặp một người đàn ông ngoài 30 tuổi ra nhận bài và nhìn em thật lâu. Hạnh chào ra về và nói với tôi: “Ông NCM mặt mày quạu quoi, có vẻ khó chịu lắm. Thôi chị Hai ơi, đừng học nữa. Chị không thấy chị Thục Nữ bỏ học rồi đó sao?”.



Nhưng kỳ thi lần đó, tôi và Như Hằng, cô bạn thân có họ hàng với nhóm Đông Hồ-Mộng Tuyết, ngồi chung một phòng, một bàn, và cả hai đều rớt. Khi làm toán, ngoài trời đang mưa mà căn phòng lại dột, chúng tôi ngồi mỗi đứa một góc. Như Hằng rất giỏi toán nên viết không ngừng, còn tôi thì đọc đi đọc lại đầu bài không tìm ra lối thoát. Đã vậy ông giám khảo coi thi lại cứ ngồi nhìn tôi trân trối, thỉnh thoảng còn đứng lên đi xuống đứng bên tôi, cầm tấm thẻ học sinh của tôi mà ngắm. Rồi trở lại lên bàn ngồi nhìn xuống, rồi đi xuống nhìn hình, cứ thế làm tôi hết sức khó chịu, nhất là khi tôi vẫn chưa tìm ra cách giải bài toán hình học (tôi vốn rất kém môn này). Rồi trời đổ mưa, bài Như Hằng làm xong bị ướt, chép lại không kịp … Sau đó Như Hằng phải trở về Trà Ôn ôn lại bài vở thi kỳ nhì. Trước khi về, Hằng ghé ở chơi với tôi mấy ngày và cố ý nói xa gần về một người anh bà con tên Trúc Hà, đang dạy ở các trường tư thục và cũng có viết văn làm thơ, cộng tác với Đông Hồ trên báo Sống.



Cũng vì việc tôi thi rớt kỳ 1 mà cha tôi không muốn tôi học viết văn với NCM nữa, để có thì giờ tập trung học lại bài vở thi kỳ 2. Nghe lời cha, tôi viết thư báo với NCM vì bận học thi, tôi phải nghỉ tạm lớp “cô” dạy và chờ một cơ hội khác. Vừa báo nghỉ thì vài ngày sau đó, các em tôi thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng tay cầm cây can ngồi chễm chệ trên một chiếc xe kéo cứ chạy qua chạy lại trước nhà. Hạnh chạy lại nép sau tấm màn trúc nhìn ra và chỉ cho tôi: “Đúng rồi, chị Hai ơi! Cô NCM đó! Hí hí!”. Nhiễu, cô em thứ ba bình luận: “Cô NCM này gan lì thiệt!”. Tôi vừa thấy sợ vừa thấy vui vui trong lòng.



(Sau này, khi đã thân, NCM mới nói cho tôi biết là do từ đầu rất khâm phục văn chương của tôi nên anh đã nhờ những người đi phát báo – cha tôi đặt mua thường xuyên và tòa soạn cho người phát tận nhà – xem thử mặt mũi tôi ra sao. Họ đều nói tôi rất đẹp. NCM liền tự đi tìm hiểu và thú nhận là đã thương tôi ngay trong lần đầu biết mặt).



Cha tôi biết tin này càng cương quyết không cho tôi học nữa.



Từ đó, trên trang văn nghệ báo Sài Thành bắt đầu xuất hiện những bài thơ đại loại như thế này:



NHẮN AI



Từ khúc 1



Yêu nhau mới biết văn là nợ
Mến tiếng cần chi phải gặp người
Trăng tỏ bên trời
Hoa tỏ bên người
Trăng trong không vết hoa đua thắm
Biểu hiện lòng ta với ý người
Làm bạn lạ trên đời



Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước nước non non biết mấy tình
Mỏi mòn ngày sáu khắc
Trằn trọc trống ba canh
Nhớ ai nào biết ai thương nhớ
Chỉ nặng riêng ai một khối tình
Non xanh xanh
Nước xanh xanh



NHẮN AI



Từ khúc 2



Gió khóc mây kêu khắp bốn bề
Đôi vai một gánh nặng nề
Đừng làm hoa trước gió
Làm con oanh gọi cái xuân về
Đừng làm hoa trước gió
Làm con quyên gọi để đời nghe
Biển Manche mặc kẻ đua tài lội
Biển học mong em học được nghề
Em yêu chị lắm
Chị bảo em nghe



Từ đường tân học bước ra đời
Mặc đẹp ăn sang biết mấy người
Mong em chị chẳng mong em vậy
Chị chỉ mong em chuyện vá trời
Non thăm thẳm, biển khơi khơi
Mây sầu sông thẳm khắp nơi nơi
Em ơi! Ráng học cho ra vẻ
Học một thay ai, em học mười.



N.C.M



NCM làm nhiều bài thơ liên tiếp đăng trên báo (tôi chép lại tất cả là 25 bài), còn chiều nào thì cũng ngồi xe kéo chạy qua nhà. Nhà tôi trên đường Lareynière (bây giờ là đường Trương Định), chỉ cách trường Gia Long chừng mấy trăm thước, nên tôi đi học hay về nhà đều đi bộ, mà khổ thay dọc đường nhất là vào buổi chiều, trước các căn phố, nhiều thanh niên, học sinh có, công chức có, cứ ra đứng chờ coi tôi đi qua với chiếc xe kéo chở người đàn ông chạy theo, nên tôi thấy khó chịu và viết thư than phiền, yêu cầu đừng làm như vậy nữa, NCM cuối cùng đành nghe theo. Anh còn gởi thư xin tôi cho gặp mặt nói chuyện, mời tôi đi chơi vườn Bách Thú…, tôi đều từ chối. Sau đó trên báo Sài Thành thỉnh thoảng có nhiều hôm mục Tranh Xã Hội bị bỏ không ai viết với lời cáo lỗi tác giả Như Hoa đang bị bệnh. Những tin này cũng có làm tôi phân vân lo nghĩ, rồi tự cho mình có lỗi. Tuy vậy tôi vẫn nghe lời cha, không liên lạc với NCM qua thư từ nữa.



Những bài thơ trên báo lại bày tỏ nỗi lòng một cách khác. Chẳng hạn có bài:



HỎI NGƯỜI BÊN ĐƯỜNG



Đường ra Hà Nội bao xa?
Anh ơi, đứng lại cho ta hỏi cùng.
Dù cho muôn núi ngàn sông,
Núi rào sông đón cũng không ngại gì.
Lòng ta đã quyết tìm đi,
Thì xa xôi chẳng khác gì tấc gang.
Đường đây lên bóng thái dương,
Anh ơi, cho biết có đường lên không?
Cao mù cao mút ngàn không
Dù đi không tới nhưng trông thấy thường
Ở đời lắm cảnh đau thương
Có người không thấy, có đường không qua
Đêm ngày giọt lệ nhỏ sa
Khóc ai mà lại hóa ra khóc mình
Ai lên ta hỏi ông xanh
Bày chi lắm cảnh thương tình đớn đau.



Trong giai đoạn này NCM làm thơ nhiều lắm, biết thế nào tôi cũng đọc. Nào đau nặng không làm việc được, nào rạch tay lấy máu đã bao phen, thư viết vừa gửi xong gởi ngọn đèn… Tôi đọc tất cả nhưng đành im lặng. Thật tình lòng tôi cũng xúc động, khi thấy một người tài hoa, nổi tiếng, lại si mê mình như vậy. Nhưng tôi còn quá trẻ, lại còn đang đi học, gia đình lễ giáo, làm sao tôi dám đón nhận tình cảm này? Tôi chỉ thấy vừa thương xót vừa ăn năn đã vô tình gây ra chuyện đau lòng như vậy.



Thấy làm cả mấy chục bài thơ mà tôi vẫn không nao núng, chắc NCM nghĩ tôi bị áp lực của cha tôi, bèn thay đổi chiến thuật không khóc than trên báo mà tìm đến gặp cha tôi để trình bày một chuyện có lợi cho tôi và xin nhận tôi làm em gái. NCM nói gần đây có một góa phụ, trước kia là vợ một ông tham tá làm ở tòa sứ dưới Lục tỉnh, còn trẻ chưa quá ba mươi tuổi, thuộc vào hạng đẹp mà lại giàu nhất tỉnh lúc bấy giờ, lên tìm ông Như Hoa (cũng chính là NCM) và đề nghị sẽ bỏ tiền ra cho Như Hoa làm một tờ báo hằng ngày, bà ta quản lý và hai người sẽ đi đến hôn nhân. Vì có chuyện này nên NCM trình bày với cha tôi là từ nay sẽ chỉ xem tôi như em gái, nếu nhận lời người đàn bà kia thì bà ta sẽ cho tôi đi du học.



Đó cũng là lần đầu tiên NCM được chính thức gặp và trò chuyện riêng với tôi, sau khi nói chuyện với cha tôi và được cha tôi cho phép gặp tôi. Lúc đó tôi rất run, còn NCM có vẻ xúc động lắm. Anh lớn hơn tôi 13 tuổi, vào đời đã hơn 10 năm, thân tự lập thân, lăn lội cũng nhiều, nhưng trước tôi, anh lúng túng thấy rõ. NCM thú thật là rất thương tôi, nhưng hoàn toàn không muốn tôi phải khổ tâm giữa tình và hiếu, vả lại hiện nay trong làng báo có mấy đồng nghiệp đang công kích NCM và khen tôi đủ can đảm dứt khoát một chuyện tình thơ mộng như vậy. Trong lãnh vực văn chương, những chuyện tình như thế xưa nay không phải không thường xảy ra. Bên Pháp có Victor Hugo với Juliette Adam yêu nhau và giúp nhau trong sự nghiệp văn chương, Anatole France với De Caillavet cũng là đôi bạn yêu nhau vì tài, mến nhau vì sự nghiệp văn chương. Alfred de Musset với George Sand, chuyện tình thơ mộng đã để lại cho đời bao tác phẩm tuyệt tác.



Sau đó NCM tiếp tục nói chuyện với cha tôi rất lâu và hứa sẽ để yên cho tôi học thi học kỳ 2, trong thời gian này sẽ tìm hiểu chuyện bà tham tá góa chồng và những đề nghị của bà. Và NCM đã giữ đúng lời hứa ba tháng không ngồi phếch đốc trên xe kéo chạy qua chạy lại trước đường Lareynière nữa, nhưng thỉnh thoảng trên báo vẫn có những bài thơ Nhắn ai bày tỏ tình cảm sâu đậm và chân thành giữa một người nam và một người nữ, khi thì ký NCM khi lại ký một bút danh khác, chắc anh tin tôi đọc sẽ hiểu.



Cha mẹ tôi cũng tạm yên lòng không để ý nhiều về chuyện tôi vì văn chương mà không thể quên NCM. Cha mẹ tôi biết tôi là đứa con có hiếu, là chị cả của một bầy em, nên ra sức săn sóc chiều chuộng tôi để tôi học vì cũng gần ngày thi rồi. Lúc bấy giờ tôi cũng được nhiều người theo đuổi, toàn là những thanh niên con nhà giàu có, chức phận trong xã hội để ý và ngỏ lời muốn cùng tôi kết hôn sau khi tôi thi xong dù đậu hay rớt.



Trong khi ấy có nhiều người kể cho mẹ tôi nghe là NCM có tiếng là người tốt, thường hay giúp đỡ anh em, có khi đem cả gia đình một người ở cùng quê thất nghiệp về nhà nuôi cho đến khi tìm được việc làm. Vốn là người có lòng tốt, thường giúp đỡ người nghèo, không thích làm bạn với người nhà giàu mà chỉ chọn những người thiếu thốn cần giúp đỡ, mẹ tôi nghe kể về NCM như vậy thì cũng có ý nể nang, nhưng ngặt vì mẹ tôi không tin một người đàn ông đã ngoài ba mươi mà lại chưa có vợ con nên thường dò hỏi về chuyện này. Cũng có nguồn tin cho biết NCM đã có vợ con, điều này càng làm mẹ tôi thêm lo ngại và không đồng tình chuyện NCM theo đuổi tôi.



Ba tháng NCM để cho tôi học nhưng thật sự tôi có yên tâm mà học chút nào! Những người mến mộ tôi ở đâu mà lúc này hiện ra quá nhiều. Ngoài Trúc Hà mà Như Hằng đã giới thiệu ra, còn có con một ông tỉnh trưởng ở Lục tỉnh xin cha mẹ đi hỏi tôi. Rồi thì quanh xóm cũng có nhiều gia đình có con học ở các trường nam như Chasseloup Laubat, Pétrus Ký… cũng đến gặp mẹ tôi để dò hỏi về gia đình và ngỏ ý cưới tôi khi con họ ra trường và được bổ làm đâu đó.



Riêng Trúc Hà thì ngày nào cũng đi ngang qua nhà tôi và nhìn qua bức màn trúc mà phía sau là một phòng lớn mỗi chiều tôi dạy đứa em trai thứ bảy đang học ở Chasseloup Laubat học. Rồi tôi nhận được một bài thơ của Trúc Hà:



Mỗi bận đi ngang trước cửa nhà
Dưới rèm trông thấy bóng tiên nga
Nhìn ai nào biết ai nhìn lại
Chỉ khổ cho mình lủi thủi qua



Lẽ dĩ nhiên tôi không trả lời. Sau đó một tuần, Trúc Hà đến gặp cha tôi và đặt vấn đề xin cưới tôi, nói rõ vì cha mẹ chết hết nên Trúc Hà phải tự dấn thân đến trình bày với cha tôi về công việc làm hiện nay, về nhà cửa, bà con… ở Hà Tiên. Hôm ấy cha tôi từ chối ngay không cần hỏi ý kiến tôi vì cha tôi thấy Trúc Hà quá yểu tướng. Sau này quả thật thế. Trúc Hà cưới chị Thương, một người bạn trong nhóm Đông Hồ-Mộng Tuyết, chưa được mấy năm thì anh đã qua đời.



Vì có chuyện Trúc Hà đi hỏi tôi, nhiều đám khác cũng cho người mai mối. Cha mẹ tôi đều từ chối, nói để tôi học và thi xong đã. Biết chuyện nhiều người muốn xin cưới tôi, NCM rất lo ngại nên tiếp tục làm nhiều bài thơ ký tên khác đăng trên báo Sài Thành.



Kỳ thi thứ 2, Như Hằng đậu cả ba bằng Diplôme, Brevet Elémentaire và Brevet D’Enseignement, còn tôi lại rớt, vẫn vì môn toán. Cha mẹ tôi hơi buồn về việc này nhưng không rầy la tôi vì trong thời kỳ này tôi không hề liên lạc thư từ gì với NCM cả.



Bỗng một hôm NCM lên gặp cha tôi và nói là chuyện của bà tham tá nào đó không xong, vì bà ta quá tham lam khi bàn công việc làm ăn, lại không hề tin NCM có thể quên tôi. Lần này NCM nói là sẽ kiếm thầy dạy toán cho tôi học thêm để thi lại, khuyên tôi vô Gia Long học lại lớp đệ tứ để năm sau thi. Nhưng tôi không muốn học lại ở trường, vả lại tôi nói chuyện học hành của tôi hãy để tự tôi tính toán.



Tôi trở vô trường Gia Long gặp bà Saint Marty là hiệu trưởng. Bà rất thương tôi vì tôi dạy bà học tiếng Việt, bà thi đậu bằng thứ hai và đang học để thi bằng ba. Bà đã khuyên tôi cứ ở lại lớp. Tôi nghe lời ghi tên ở lại lớp, nhưng vô học được hai tuần tôi thấy học thế này thì tôi không thể giỏi môn toán được. Các môn kia thì tôi chỉ cần ở nhà ôn lại, còn toán thì phải tìm thầy học thêm.



Giữa lúc này NCM bỗng có một người học trò mà ngày trước đã học với anh ở trường tư thục Nguyễn Phan Long, bây giờ đi Pháp về với bằng cử nhân toán, tên là Vita (lấy tên mình là Vị với tên vợ là Tâm – cũng học Gia Long ra trước tôi một năm). NCM trình bày với cha mẹ tôi để Vita đến dạy toán cho tôi mỗi ngày một giờ và dạy suốt cho tới ngày tôi thi kỳ 1. Chuyện tiền nong NCM sẽ chịu.



Cha mẹ tôi phân vân về chuyện tiền thì Vita nói xin ông bà yên lòng , con mà đi Pháp được cũng nhờ thầy con (tức NCM) giúp đỡ lúc ban đầu.



Mỗi chiều Vita đều đến dạy tôi, từ ba đến bốn giờ. Trong lúc này NCM mỗi tuần lên thăm tôi một lần vào ngày thứ năm là ngày mà Vita nghỉ. Khi NCM đến, lúc nào cũng có mẹ tôi ngồi trên bộ ván gần salon, làm bộ cắm cúi may nhưng thật sự là để nghe chúng tôi nói chuyện. Có một lần NCM đến gặp lúc mẹ tôi đang lên cơn suyễn nhưng vẫn ra nằm trên bộ ván. NCM thấy vậy liền hỏi:



- Hôm nay má không được khỏe à?



Tôi trả lời:



- Má lên cơn suyễn.



- Vậy lâu nay má uống thuốc ở đâu, thuốc Nam, thuốc Bắc, hay đi bác sĩ?



- Má uống thuốc Bắc, một ông thầy quen của gia đình em. Mỗi khi em đau, em cũng uống cả hai, ba chục thang.



NCM nghe vậy liền nói:



- Vậy là ông thầy này không giỏi hoặc không chuyên về bệnh suyễn rồi. Anh có quen ông thầy chữa bệnh suyễn rất giỏi, nếu má cho phép thì anh sẽ rước ông ta lên coi mạch cho má.



Mẹ tôi nghe vậy liền lên tiếng:



- Thôi, bác không dám làm phiền cháu.



NCM liền nói:



- Dạ có chi mà phiền, bây giờ con về đi rước liền.



Mẹ tôi không cản kịp, nên khi NCM đi rồi, bà thở dài: “Nó kiếm chuyện ở ngoài sân lần vô bếp đó”. Tôi không rõ là mẹ tôi khi nói câu ấy đã cười thầm hay tức giận.



Đúng hai giờ sau, NCM đưa ông thầy đến. Ông thầy này bắt mạch cho mẹ tôi rất lâu rồi kết luận: “Suyễn quá lâu rồi, không chữa ngay gốc bệnh mà chữa bổ thì bị nặng hơn là phải rồi!”.



NCM lấy toa thuốc đi bổ, dặn sau khi uống ba thang NCM sẽ rước ông lên bắt mạch lại. Dù muốn hay không thì việc làm của NCM cũng được mẹ tôi đồng ý, vì trong thâm tâm mẹ tôi đã cho là ông thầy thuốc mà cha tôi gọi là thầy thuốc gia đình vốn không giỏi, chỉ chữa tạm bớt mà không lành hẳn. Ngay như con em thứ năm của tôi tên Nhẫn, mỗi lần bệnh cha tôi rước ông ta đến bắt mạch cho toa thì nó không bao giờ đi hốt thuốc mà nói với tôi: “Em bọc cái toa của ổng trong túi mấy ngày là lành bệnh liền. Sợ quá mà lành chứ em đâu có uống!”.



Mẹ tôi uống ba thang của ông thầy mà NCM đem lại, hết lên cơn suyễn, ngồi dậy ăn uống được, và lần sau khi NCM đến thăm tôi thì mẹ tôi lại ra ngồi trên bộ ván với ô trầu và quyển sách Đông Châu Liệt Quốc. Mẹ tôi nói với NCM:



- Ông thầy mà cháu đưa đến chữa cho bác đó giỏi lắm, nhưng tiền thuốc chắc mắc. Tốn bao nhiêu cháu để bác gởi lại cho cháu.



NCM nói, mặt nghiêm trang:



- Thưa bác, tiền bạc có là bao, huống chi ông thầy này ở ngoài Trung vào chưa có khách, con giúp ông ta cũng nhiều, bác đừng ngại.



Thế là trên con đường tiến dần vào sự chấp thuận chuyện hôn nhân của chúng tôi sau này, NCM đã chiếm được một phần cảm tình của mẹ tôi, nhưng mẹ tôi không bao giờ để tôi thấy là mẹ tôi đã bằng lòng hay đã có chút cảm tình với NCM.



Mẹ tôi lúc nào cũng nói, nét mặt không vui:



- Dù sao con cũng còn nhỏ và còn nhiều nơi xứng đáng, thương chi người quá sành sõi, cuộc đời của con sau này sẽ khổ nhiều hơn là sung sướng. Con là chị cả, nếu hôn nhân của con tốt đẹp, may mắn, thì các em con gả cưới cũng dễ dàng, con ạ.



Mẹ tôi nói như vậy là buộc tôi vào một trách nhiệm rất lớn. Hễ tôi gặp chuyện hôn nhân trắc trở thì các em tôi khó có chồng! Nhưng tôi nghĩ, chị em mỗi đứa có một số phận khác nhau, đâu phải như mẹ tôi nghĩ. Mẹ tôi nói tôi chỉ nghe chứ không dám có ý kiến, vì chuyện đâu còn có đó kia mà.



Lúc đó là vào cuối năm 1934. Một hôm NCM đến thăm tôi khá bất ngờ, không phải vào ngày thứ năm như thường lệ. Vô cửa gặp ngay mẹ tôi đang ngồi trên bộ ván phòng ngoài, NCM liền hỏi:



- Bác thật khỏe chưa? Bác có cần con mời ông thầy thuôc hôm nọ tới xem mạch lại không? Vì mai con có công việc phải đi Đà Lạt một thời gian.



Mẹ tôi nói:



- Bác đỡ nhiều rồi. Bác vẫn còn giữ cái toa của thầy Năm cho, khi nào trở trời thì uống vài thang. Cháu đi Đà Lạt để làm gì?



NCM nói:



- Nhà báo phải đi xa mới kiếm được đề tài để viết, bác ạ. Lên Đà Lạt khí hậu tốt, con lại có nhiều bạn bè trên ấy. Lúc này con thấy mệt nhiều, định lên đó nghỉ một thời gian và xem có gì viết không.



Gặp tôi, NCM cũng nói sẽ đi nghỉ ở Đà Lạt ít lắm cũng vài tuần. Trên đó anh có bạn bè đông và độc giả mến mộ cũng sẵn lòng mời anh đến nhà ở chơi. Nhà họ rộng rãi, có vườn hoa, chuồng ngựa, rẫy cà phê… Phong cảnh hữu tình, bạn bè yêu mến cũng nguôi nỗi lòng phần nào.



NCM hỏi tôi về cách dạy của thầy Vita và nói:



- Vita dạy giỏi lắm, vì ở Pháp mới về chưa kiếm ra trường, nên anh nhờ lên đây dạy em.



Anh nói thêm dăm phút nữa rồi đứng lên ra về, dặn tôi:



- Anh phải đi gấp, không gặp ba được. Ba về em thưa giùm anh. Khi nào về anh sẽ tới thăm ba má và em. Ráng học nghe chưa? 



Mấy hôm sau trên mặt báo Sài Thành đã có ngay bài của NCM, ký tên Hồng Tiêu, đăng mỗi ngày. Anh viết về Đà Lạt, tả phong cảnh luôn luôn kèm thơ, có khi có thơ của các bạn cùng họa. Bạn của NCM toàn là giáo sư, giáo viên, công chức… Họ đi chơi khắp nơi, mỗi lần đi là một lần có thơ, có bài tả cảnh, nói về các sinh hoạt ở Đà Lạt. Cha mẹ tôi và tôi qua báo đã theo dõi được việc đi đứng của NCM. Còn độc giả thì rất thích những phóng sự của NCM mỗi khi anh rời Sài Gòn đi viết đâu đó. Có lần anh đi Phnôm Pênh cũng viết được rất nhiều bài và gầy được khá nhiều bạn bè bên ấy.



Hàng ngày đi làm về, cha tôi thường đem tờ Sài Thành ra đọc bài của NCM. Cha tôi rất phục cách viết văn của Như Hoa khi viết mục Tranh Xã Hội, còn những lần NCM đi xa viết phóng sự thì cha tôi đều theo dõi. Tôi biết thâm tâm cha tôi nhìn nhận Như Hoa có tài và là một trong những cây bút nổi tiếng nhất lúc bấy giờ.



Một hôm cha tôi đi họp ở Hội Trung việt ái hữu về, nói với mẹ tôi và tôi:



- Hôm nay có người vừa nhắc cha nhớ là năm 1925, khi con ra ở học tại nhà bà ngoại thì Hồng Tiêu có vô Tam Quan xuống tận nhà gặp cha để bàn về phong trào chống thuế cao và tìm những mạnh thường quân bỏ tiền giúp những người hoạt động trong bóng tối. Lúc đó Hồng Tiêu ăn nói hoạt bát, lanh lợi, cử chỉ tự nhiên, tướng mạo phương phi, rất dễ gây cảm tình với mọi người…



Cha tôi nói tiếp là trước kia cha cũng có góp phần trong phòng trào của ông Phan Thành Tài nhưng rồi công việc đổ bể, nhờ anh em thương tình không khai, che chở vì có mẹ già con dại. Vì chữ hiếu mà cha phải đi làm gì như thế này, và bây giờ thì vì các con nên không thể làm gì được hơn là thực hiện bổn phận làm cha làm chồng. Kết luận, cha tôi nói:



- Cha cũng rất mến Hồng Tiêu, nhưng trong cảnh này cha không biết làm sao. Con là con gái mới lớn, Hồng Tiêu thì quá từng trải. Sống với một người quá từng trải như vậy, liệu con có hạnh phúc không? Chớ cha thấy mấy chục bài thơ của nó cũng có tình có nghĩa và thành thật lắm.



Thì ra cha tôi cũng đọc không sót bài thơ nào của NCM!



Tôi nói:



- Nhà thơ mà cha. Nhưng Victor Hugo hay Alfred de Musset, Lamartine, có ai bạc tình bạc nghĩa bao giờ. Họ lấy mối tình ấy để củng cố sự nghiệp văn chương của họ và để cho đời những bài thơ kiệt tác cho tới ngày nay không cây bút nào viết nổi. La lac của Lamartine, Aimer của Alfred de Musset, L’enfrant của Victor Hugo từ thế kỷ này qua thế kỷ nọ vẫn là những tuyệt phẩm.



Nghe giọng tôi có ý bênh vực NCM, cha tôi bèn chấm dứt câu chuyện bằng cách hỏi tôi sắp tới tính sao, có muốn học thêm nữa hay không. Cha nói:



- Cha có thể lo cho con học thêm đến nơi đến chốn mà. Học Pétrus Ký hay Chasseloup Laubat gì cha cũng lo được. Con là đứa con đầu nên lũ em sẽ noi theo gương.



Nhưng điều tôi lo nhứt lúc ấy lại là sức khỏe của mẹ tôi. Mẹ tôi bị suyễn nặng mà khí hậu Sài Gòn lại không có lợi cho bệnh này.



Tôi học với Vita mỗi chiều một giờ về môn toán, học xong tôi xuống bếp phụ lo bữa cơm tối, có khi tôi đi thư viện mượn sách về đọc. Từ khi học trường Gia Long mỗi tuần tôi đều đi thư việc một lần và mỗi lần mượn về hai cuốn sách để đọc. Tôi thường đi một mình, đi xe kéo của người quen đậu trước nhà, họ rất tử tế với gia đình tôi vì mẹ tôi mỗi lần có giỗ chạp là đem cả mâm thức ăn ra tặng họ. Ngoài ra tôi còn dạy thêm cho em trai thứ bảy của tôi là Lê Đình Hải đang học ở Chasseloup Laubat, đi chợ mua sắm vật dụng cho gia đình…



NCM đi Đà Lạt, không hề có thư từ riêng cho tôi và mãi đến Tết mới trở về, lên chúc Tết cha mẹ tôi, nói chuyện vui vẻ với tôi và các em tôi, đưa bao lì xì cho từng đứa. NCM nói rất lâu với cha tôi và luôn nhắc tôi phải học để đậu ba bằng cấp với thứ hạng cao như Như Hằng. Anh nói:



- Em không thể thua ai được.



Sau lần thăm Tết, NCM lại đi công tác nhiều nơi, lên Phnôm Pênh gặp các bạn học cũ và cổ động cho báo Sài Thành, rồi viết bài kể chuyện người Việt sinh sống ở Phnôm Pênh như thế nào.



Sau Tết, tôi học rút và lo việc nộp đơn, liên lạc với các chị bạn đang học ở trường để làm đơn và hỏi thăm các tin tức quan trọng có liên quan đến chuyện thi. Việc nộp đơn thi cũng có phần rắc rối. Đơn thi Diplôme thì trường Gia Long nhận, nhưng đơn thi hai cái bằng Brevet thì bà hiệu trưởng Saint Marty thương tôi đến thế vẫn nhứt định không nhận. Bà còn nói:



- Tụi bây học chương trình Việt thì thi Diplôme được rồi, thi Brevet là giành bằng cấp của các trường Pháp.



Vì vậy tôi và một người bạn nữa phải xuống Tòa Đô chánh xin chứng nhận để thi hai bằng Brevet.



Trước khi tôi thi một ngày, thầy Vita đến ôn bài vở cho tôi và chúc tôi thi đậu. Thầy nói khi thi xong cả ba bằng thầy sẽ lên mừng tôi, bây giờ nhân lúc rảnh thầy sẽ đưa chị Tâm, vợ thầy, về thăm bà con hai bên. Thầy Vị khi học bên Pháp có viết thư tìm bạn ở VN, nên quen chị Tâm lúc ấy đang học ở Gia Long, hai bên cha mẹ không hay. Bây giờ cả hai đều có sự nghiệp nên về quê ra mắt cha mẹ.



NCM cũng lên thăm và chúc tôi thi đậu cả ba bằng như Như Hằng trong kỳ thi năm ngoái. NCM nói với tôi là anh cũng đang lo một số giấy tờ và nhờ người giúp xin ra một tờ báo hằng ngày, chớ cứ làm cho Sài Thành sẽ chẳng dư dả chút nào. Mẹ tôi nghe vậy liền nói:



- Chớ làm bao nhiêu lo nuôi bạn bè bấy nhiêu, không nợ nần là may còn đâu mà dư.



NCM nghe vậy nhìn mẹ tôi ra vẻ cảm ơn vì hiểu hoàn cảnh và tính tình của anh.



Mấy hôm sau tôi nhận được giấy gọi đi thi, thi Diplôme tại trường Gia Long và thi Brevet cả hai bằng tại trường Pétrus Ký.



Viết đến đây tôi bỗng nhớ tới một chuyện thật buồn cười và thật trẻ con. Số là trước ngày thi Diplôme, mặt tôi bỗng nhiên mọc một cái nhọt to bên má trái, khiến gương mặt đang đẹp đẽ bỗng bị méo mó, nhìn vào gương thấy mà buồn. Cha tôi biết tôi rất âu sầu nên bằng mọi cách giúp tôi làm cái nhọt ấy xẹp. Thôi thì cha tôi xuống Chợ Cũ vào các tiệm thuốc Bắc mua loại thuốc dán đặc biệt về dán, rồi xoa dầu, rồi đắp nước nóng cho nó tan bớt. Nhưng làm gì thì làm, cái nhọt vẫn không vỡ, cứ sưng húp, và cả vùng má bị đen sạm. Cha tôi lo tôi bỏ cuộc thi. Với con gái mỗi năm là thêm một tuổi lớn bộn! Sáng dậy tôi thấy mình quá vô lý, nên lò mò lấy giấy tờ và mặc áo đi thi. Mẹ tôi thấy vậy rất mừng, đòi kêu xe cho tôi đi, tôi nói đây đến trường Gia Long đi xe làm gì, rồi ra đi trước sự nhẹ nhõm của cha mẹ tôi và sự vui mừng của các em. Sau khi làm các bài thi, tôi biết tôi sẽ đậu phần thi viết, nên chuẩn bị để vô vấn đáp. Lần thi đó tôi đậu cao: mention Assez-bien (hạng Bình thứ).



Thi xong bằng Diplôme, tôi lại chuẩn bị thi hai cái bằng Brevet tổ chức tại trường Pétrus Ký. Vô môn đầu, luận văn và chính tả, tôi gặp bà Ventournouz, thầy cũ của tôi khi tôi học đệ tứ ở Gia Long. Gặp thì gặp chớ ai dám chào hỏi. Bà giáo sư này khi dạy tôi thương tôi lắm. Những ngày Chủ nhật bà kêu tôi đến nhà chơi để nghe bà kể chuyện xứ Corse quê hương của bà.



Học sinh trường Marie Curie có nhiều người là dân Việt Nam, chỉ có vài cô đầm thôi. Có mấy cô Việt Nam ngồi sau lưng tôi khi nghe bà Ventournouz đọc bài chính tả thì lắc đầu vì có nhiều chữ bà đọc giọng đảo Corse họ nghe không rõ. Tôi thì quen nghe rồi nên không lấy làm lạ, bài chính ta không hề lấy một lỗi.



Thi cái bằng này thật vui vì phải biết âm nhạc, biết vẽ, biết may cả bộ quần áo – riêng môn âm nhạc là thí sinh các trường sợ nhất.



Kết quả làn thi này, tôi đậu cả hai bằng Brevet Elémentaire và Brevet D’enseignement Supérieur cũng với mention Assez-bien. Lần thi nào cha tôi cũng đi coi kết quả, đứng chờ cả mấy giờ ngoài sân trường với đám học sinh. Buồn cười là bà hiệu trưởng Saint Marty của trường Gia Long, khi xin bà ký cho tôi đi thi Brevet thì bà không ký mà còn rầy la là bọn tôi đi giành bằng cấp của học sinh trường Pháp, nhưng đến khi có kết quả thì bà lại lái xe đến trường Pétrus Ký để xem học trò mình đậu mấy đứa. Thấy hai đứa học trò của mình đều đậu cả, bà sung sướng lên xe ra về.



Lần thi này tôi đã làm cha mẹ tôi vui mừng, nhưng chưa tính tôi có học lên nữa hay không. Khi được cha tôi hỏi ý kiến, tôi nói sức khỏe tôi kém, học lên nữa e chịu không nổi. Vả lại học Pétrus Ký thì phải đi xe kéo hàng tháng, tốn kém nhiều cho cha mẹ. Tôi định kiếm việc làm hay xin đi dạy ở các trường tư. Ở thời buổi ấy, có những bằng cấp như tôi thì kiếm việc làm rất dễ, có thể giúp được cha mẹ phần nào trong việc nuôi các em ăn học.



Trong lúc tôi còn đang phân vân, thì mẹ tôi bỗng ngã bệnh. Một bệnh gì đó chớ không phải suyễn, có lẽ vì suy nhược thái quá. Mẹ tôi là một người nội trợ giỏi, lo hết mọi việc nhà, nấu nướng ngày hai buổi, may vá áo quần cho con cái, dọn dẹp nhà cửa, việc gì mẹ tôi cũng tự làm mới vừa ý, vì tánh khó nên rất khó tìm được người làm vừa ý. Năm đó may sao có người giới thiệu một chị bếp giỏi nên cũng đỡ phần nhọc mệt cho mẹ tôi, vậy mà lần này mẹ tôi lại đau nặng. Khổ nỗi là mẹ tôi không chịu đi nhà thương hay đi bác sĩ, cứ nằm nhà mời ông thầy thuốc Bắc của gia đình đến bắt mạch bổ thuốc.



Trừ tôi ra, ai săn sóc mẹ tôi cũng không bằng lòng. Một tháng trời như vậy mẹ tôi nằm có khi mê man, việc rửa ráy, thay áo quần, cho uống thuốc… đều do tôi lo. Các em tôi không đứa nào giúp được việc gì. Tôi lo sợ không biết có phải vì chuyện của tôi và NCM đã khiến mẹ tôi phát bệnh chăng. Khi tôi tỏ ý này với cha tôi thì cha tôi nói:



- Mẹ con yếu quá, do sinh đẻ nhiều lần. Mà biết đâu cũng có thể vì mẹ con lo nghĩ nhiều về chuyện của con.



Nghe cha nói thế, tôi lo lắm, nên có lần tôi viết mấy chữ dặn NCM đừng lên vì mẹ tôi đau nặng. Lúc ấy NCM đang đi các tỉnh để quảng cáo cho báo Sài Thành, không có ở nhà.



Tôi săn sóc mẹ tôi suốt một tháng trời như vậy mẹ tôi mới bớt dần, ngồi dậy rồi ăn uống lại được. Một hôm tôi đang ngồi đọc sách ở phòng trong thì nghe mẹ tôi hỏi em tôi:



- Mấy lúc nay NCM có tới đây không?



Em tôi nói:



- Anh ấy đi đâu rồi không thấy đến. Nhưng thỉnh thoảng thấy cha tôi đọc bài viết của anh viết về các tỉnh ở đâu đâu con không biết.



Mẹ tôi làm thinh, không hỏi tôi về chuyện này, nhưng mẹ tôi thương tôi lắm. Thấy cách tôi nuôi bệnh mẹ tôi và săn sóc từng li từng tí, ngồi suốt từ sáng đến chiều trong phòng tối, mẹ tôi rất thương. Một hôm mẹ tôi hỏi:



- Gần hết nghỉ hè chưa con? Con có định ghi tên học nữa không?



Tôi thẳng thắn trả lời:



- Con không học nữa đâu mẹ. Con ở nhà, khi nào mẹ thật khỏe, con sẽ kiếm việc làm để giúp các em học cao hơn con.



Mẹ tôi thở dài không nói gì.



Khi mẹ tôi khỏe được mấy tuần, đi chợ Sài Gòn được, mẹ tôi mua hàng vải về nói là để thưởng tôi thi đậu, và nếu tôi có đi làm thì sẽ có áo quần đẹp. Rồi mẹ tôi nói với vẻ ngậm ngùi:



- Con gái thì dù có học đến đâu rồi cũng phải lấy chồng, mà lấy chồnbg thì đâu còn ở với cha mẹ nữa!



Tôi cầm lấy tay mẹ:



- Con còn lâu mới lấy chồng.



Tụi em tôi đứng gần đó cũng nói:



- Tụi con cũng vậy đó mẹ.



Mẹ tôi cười nói vui vẻ:



- Như vậy người ta lại nói là các con của mẹ ế chồng!



Em kế của tôi là Nhiễu tánh hay đùa giỡn liền nói:



- Gì mà khó chịu vậy? Cái gì cũng nhắm vào các cô gái, còn mấy ông đàn ông thì sao? Con gái ế chồng thì đàn ông ế vợ.



Mấy mẹ con đang vui vẻ nói cười thì tôi bỗng nghe chóng mặt. Tôi nói:



- Con phải vô trong nhà nghỉ một chút để còn xuống phụ chị bếp nấu cơm. Hôm nay hình như chị ấy làm nem nướng đó mẹ. Cha con đi chơi tennis về thì bữa cơm sẽ xong và ngon lành lắm.



Nhiễu nói:



- Mấy hôm nay chị mệt nhiều rồi, để em xuống phụ cho. Chị lên nghỉ đi.



Một ngày Chủ nhật thật vui vẻ và tối đó chị em tôi kéo ra trước sân ngồi chơi đến khuya. Khi vào đi ngủ, Nhiễu chợt ghé tai tôi hỏi nhỏ:



- Mà thật sự chị không yêu anh NCM chớ?



Tôi im lặng đi về phòng mình mà con tim bỗng nghe như đang bị ai bóp chặt. Trong bóng tối, tôi nằm nghe bên tai mình cứ vang lên câu hỏi của cô em gái:



- Mà thật sự chị không yêu anh NCM chớ?



Rồi tôi thao thức nhớ lại hết bài thơ này đến bài thơ khác của NCM:



Gió lọt sương sa ngọn nến mờ
Trăm chiều tâm sự rồi đường tơ
Đường trong gang tấc, trời đôi ngã
Tình nặng non sông, giấy một tờ
Vườn cúc gió lồng hoa nép mặt
Non thần mây khuất khách đương mơ
Hỏi người tri kỷ hay chăng tá
Có biết lòng ai nỗi đợi chờ…



Nhiều nhứt là những bào viết cho tôi in trên báo chứ không gởi, mà NCM biết thế nào tôi cũng dọc. Những bài thơ này NCM viết lúc đi Đà Lạt hoặc các tỉnh khác, lấy sự gặp bạn bè làm vui.



Trăm lạy trời xanh chớ phụ phàng
Muôn nghìn đau khổ dám từ nan
Dọn đường chị quét xong gai góc
Để bước em đi được nhẹ nhàng



Tình ái xưa nay vật thế nào?
Bây giờ mới biết nó ra sao!
Yêu em, yêu lắm nên ham sống
Sống để dìu em cái bước đầu



Vốn nhà thi lễ bực trâm anh
Đâu dám như ai thói bộc tình
Rìu búa ngửa vưng lời trách móc
Đá vàng không lợt dạ đinh ninh…



Đến khi quá mệt mỏi, tôi mới chợp mắt được và sáng ra không dậy nổi. Trong giấc ngủ mê mệt ấy, tôi mơ màng nghe mẹ tôi nói: “Đừng kêu chị con dậy. Chắc nó mệt cả tháng với mẹ, cứ để nó ngủ thêm đi”. 



Nhưng đến trưa tôi cũng không dậy được. Khi cha tôi đi làm về nghe nói tôi không dậy được thì lo lắng nói:



- Nó bị bịnh rồi! Đi mới thầy Năm đi.



Nhiễu lẩm bẩm:



- Lại thầy Năm!



Mẹ tôi nói:



- Đêm qua tụi nó ngồi ngoài sân lâu quá, chắc nó bị trúng gió rồi.



Có lẽ chỉ có Nhiễu biết là tôi suốt đêm qua đã nghĩ đến NCM, nên bây giờ không dậy nổi, rồi Nhiễu tự trách cũng tại mình, nhắc làm chi, có khác nào bươi đống tro tàn… Nhiễu nói một mình khi đi qua đi lại bên giường tôi: “Không phải đống tro tàn đâu, than đỏ vùi trong tro đó!”.



Đến chiều cha tôi đi làm về, tôi vẫn nằm mê man. Mẹ tôi gọi dậy ăn cơm, tôi vẫn không nhúc nhích, sờ đầu thì nóng như lửa, hai chân lạnh ngắt. Lại một đêm làm cha mẹ và các em lo sợ. Qua ngày thứ ba thì cha tôi không chịu được nữa, cha tôi nghĩ chắc là tôi nhớ NCM vì từ ngày mẹ tôi đau, tôi không hề nhắc đến tên NCM, còn tỏ vẻ ra vui vẻ cho mẹ mau lành bịnh. Sáng hôm sau, trước khi đi làm, cha tôi dặn em Hạnh: “Từ nay đến chiều không có NCM lên thì đúng năm giờ con xuống nhà báo mời anh lên cho cha bảo, có chuyện”.



Cả ngày tôi vẫn nằm mê, đến năm giờ em Hạnh xuống tòa soạn báo Sài Thành thì thấy có một mình NCM đang ngồi sửa một đống bài. Thấy Hạnh, anh giật mình như biết có điều không lành. Anh hỏi:



- Có việc gì vậy em?



Hạnh nói:



- Chị Hai đau li bì bốn hôm nay rồi, ba biểu em đi kiếm anh.



Lúc đó là giờ các cây bút lục đục đến lo bài vở cho tờ báo ra ngày mai. Chắc NCM đang viết Tranh Xã Hội. Hạnh nghe anh dặn một người nào đó:



- Nếu anh về không kịp thì Đồng viết thế anh bài Tranh Xã Hội. (Đồng đây là nhà báo Jean Batipste Đồng).



Đến nhà, NCM vô phòng khách ngồi nói chuyện với cha tôi, hỏi thăm mẹ tôi mấy câu nhưng mẹ tôi không trả lời. Chờ cha tôi cho phép vô thăm tôi, anh mới dám đứng dậy đi theo và nhắc cái ghế ở bàn học của tôi để xa xa phía dưới chân, ngồi nhìn tôi một cách lo lắng. Sau đó, theo Nhiễu kể, anh đi ra ngoài và xin phép ra về để sáng mai đem thầy đến. Mẹ tôi nghe vậy toan phản đối nhưng cha tôi nói:



- Thì mình cứ để NCM rước thầy, chớ mình có biết ông thầy nào khác thầy Năm đâu. Mà thầy Năm thì sáng hôm qua đã chạy, lắc đầu rồi.



Ba bốn hôm sau tôi tỉnh lại rồi ngồi dậy ăn uống được. Tôi khỏe nhưng mẹ tôi lại lo vì thấy câu chuyện đã đổi chiều: Nào NCM lo rước thầy dạy tôi học để đậu ba bằng cấp, nào NCM khăng khăng đòi cho tôi đi du học, nào hứa với cha mẹ tôi không lên thăm thường nữa mà lo làm ăn chớ không bỏ đi khắp nơi mà không biết là đi đâu… NCM không làm gì trái ý cha mẹ tôi cả năm nay từ ngày đưa Vita lên dạy tôi học, và chỉ lên thăm tôi một lần khi tôi thi đậu.



Tôi dậy và tiếp tục công việc như mọi ngày, phụ làm bếp, chiều thì đi thư viện đổi sách mỗi tuần một lần. Không có bạn bè gái và càng không nhận được thư từ của Thục Nữ hay Như Hằng, nghĩa là tôi không làm gì để cha mẹ phải kiểm soát.



Lúc này cha tôi có mua một quyển sách bằng tiếng Pháp dạy yoga và cũng dạy cách chữa bệnh qua thôi miên. Tôi đọc suốt ngày và tập nhiều môn sách dạy để tự chữa bệnh. Tôi cố dùng cho hết thì giờ, ngày đọc đêm đọc thực hiện các cách dạy trong sách, để quên NCM. Trong một lần NCM đến thăm tôi trong khi tôi nằm bệnh, tôi nghe anh nói với cha tôi là anh đang tìm một người thật xứng đáng, con nhà tử tế để đưa đến giới thiệu với tôi, nhưng người nào cũng nói:



- Anh yêu chị ấy như thế và chị ấy cũng yêu anh như thế thì ai mà chịu, anh làm chuyện mất công. Anh nên nhờ người có uy tín để nói cho hai bác hiểu hoàn cảnh của anh, để ông bà thỏa thuận, như thế có lẽ hay hơn. Thật sự anh vẫn còn yêu chị Bạch Vân quá mà!



Rồi khi cha tôi đi họp ở Hội Trung Việt ái hữu, ông Phan Bá Lân mời cha tôi ra nói riêng:



- Tộâi nghiệp Hồng Tiêu, lúc này cứ vắng tòa soạn luôn, thỉnh thoảng tôi gặp thì nói không biết làm sao thuyết phục bác gái chấp nhận vì bác gái nghe nói Hồng Tiêu đã có vợ con. Sự thật chuyện này không phải khó giải quyết. Hồng Tiêu ở với người đàn bà đó là một sự bất đắc dĩ, anh em người Trung ai mà không biết câu chuyện đáng buồn cười này. Nhưng nếu Hoa Đường hay Thiên Trà nói, bác gái sẽ không tin đâu. Để tôi nghĩ thử ai biết rõ đầu đuôi gốc ngọn nói có chứng có cớ thì may ra bác gái mới chịu.



Về nhà, cha tôi suy nghĩ rồi quyết định cứ hỏi thẳng NCM, không cần dò hỏi ai làm gì, vì NCM là con người trung thực, nóng nảy, nói điều gì là có điều đó, cũng như nói là làm, không bày điều đặt chuyện hoặc làm mà đổ lỗi cho ai. Trong làng báo ai cũng biết tánh NCM. Thế là cha tôi cho gọi NCM tới. Thấy anh, mẹ tôi đứng lên định bỏ đi thì NCM nói:



- Xin má ngồi cho con thưa chuyện.



Mẹ tôi nói, vẻ mặt không vui:



- Chuyện gì cứ nói với ba con Vân được rồi.



Cha tôi mở lời trước:



- Hôm qua tôi đi họp trên Hội Trung Việt có gặp Phan Bá Lân.



NCM nói:



- Dạ, con cũng có nghe anh Phan Bá Lân kể. Hôm nay con đến đây để thưa rõ những điều hai bác cần biết về con. Con thật tình yêu em Vân, nhưng vì đời con trong lúc chân ướt chân ráo bước vào Sài Gòn, gặp nhiều chuyện may cũng có mà gặp một chuyện rủi khó gỡ cũng có.



Đúng là con có ăn ở với một người đàn bà và đã có ba con với người này. Nguyên là hồi đó con đang làm ở báo Opinion (Ngôn Luận – một tờ báo của Pháp, xuất bản một bản tiếng Pháp, một bản tiếng Việt), có đến ở ăn cơm tháng nhà một người đàn bà gần 50 tuổi, không chồng mà có năm con. Theo hàng xóm kể con nghe thì bà này mỗi người con là của một ông khác nhau. Đã ở lỡ rồi, đợi đủ tháng kiếm chỗ khác thì từ đâu ba bốn người bạn ngoài miền Trung vào, chưa có công ăn việc làm cũng tấp vô, hy vọng con kiếm được việc cho họ để họ có tiền trả tiền cơm, tiền trọ. Nào ngờ báo Opinion đóng cửa và chính con cũng bị thất nghiệp luôn.



Người đàn bà này biết tụi con thất nghiệp nhưng cứ để tụi con ở và vẫn nấu nướng cho ăn tử tế. Cho đến một hôm bà ta mời con ra và hỏi: - Tiền ăn ở mấy tháng chưa trả, bây giờ các cậu tính sao đây?



Con nói:



- Xin bác cho cháu một tháng nữa, kiếm được việc cháu sẽ giải quyết hết.



Bà ta cười:



- Còn nếu không kiếm được việc thì sao? Tôi nói huỵch toẹt ra các cậu nghe. Tôi có đứa con gái, con Lan đó, nó cũng không đến nỗi xấu, đã đến tuổi có chồng nhưng ai hỏi nó cũng không ưng, chỉ ưng có chồng làm báo. Vậy trong các cậu ai chịu cưới nó thì tôi miễn nợ, khi nào có việc làm rồi sẽ hay.



Con liếc mắt nhìn Hoa Đường và Hoa Đường gật đầu thì bà ta nói:



- Ngặt là nó chỉ ưng ông Hồng Tiêu.



Cô Lan không đẹp, được cái da trắng nhưng ít học, ăn nói lừng khừng, câu nào cũng không hết ý. Con đang nghĩ đến bà nội con, con nhà quyền quý, cô của ông Phạm Liệu, làm quan ở triều đình Khải Định, rồi nhớ đến hai ông bác con cũng làm quan lớn và bị xử tử trong vụ vua Duy Tân chống Pháp. Còn ông nội con làm quan án sát ở Phan Thiết cũng bị kêu về để cùng bị xử với hai anh. Nhưng khi ghe đi đến Quảng Ngãi thì ông nội con qua đời, ghe phải ghé vào Quảng Ngãi chôn cất rồi bà nội con cùng cha con ở lại nhận Quảng Ngãi làm quê hương.



Trong khi con đang nghĩ về gia thế của mình thì bà này lại giục:



- Thế nào Hồng Tiêu? Cậu nhận lời hay không, hay chê con gái tôi quê mùa?



Lâm vào hoàn cảnh ấy, con phải chịu, nhưng nói:



- Tôi nhận, nhưng với nhiều điều kiện.



Bà ta mừng rỡ: 



- Mấy điều kiện cũng được. Cứ nói đi.



- Tôi chịu nhận cô ta làm vợ nhưng không làm hôn thú. Lại nữa, sau nầy khi tôi gặp người vừa ý, có học thức, có nghề nghiệp, thì tôi có quyền chánh thức làm đám cưới. Cô lấy tôi đừng có con càng tốt, nếu rủi để cho có con thì con phải lấy họ mẹ, sau này dù tôi có vợ, các con này tôi cũng không cho theo về gia đình tôi. Lại nữa, công việc tôi tôi làm, không được hỏi đến hay cản trở.



Con ra các điều kiện ngặt nghèo như vậy là để họ chạy, nhưng hai mẹ con và bốn người anh trai đều chịu hết. Các bạn con thở dài nói:



- Tụi này làm khổ anh rồi Hồng Tiêu ơi!



Con nói:



- Miễn là tụi bây làm chứng cho tao việc này được rồi.



Nhưng rồi vì là tuổi trẻ, thêm lúc đó có biết cách ngừa thai đâu, mấy năm sau đó Lan đã có ba con, hai gái một trai, tất cả đều theo họ Trần của mẹ. Sau đó con kiếm được việc, các bạn con cũng đi mỗi đứa một nơi. Vì không phù hợp tính tình, trình độ, xung khắc nhiều thứ, mấy năm nay con và Lan coi như ly thân, Lan về Gia Định ở với bà con. Chị Bút Trà thấy vậy mới đem ba đứa nhỏ về nuôi, hiện chúng đang ở với anh chị con. Nếu hai bác cho phép con cưới em Vân thì con sẽ nhờ anh chị Bút Trà đứng làm chủ hôn, lập hôn thú ở Tòa Đô chánh Sài Gòn hẳn hoi.



Cha tôi làm thinh nghe kể, nhưng cha tôi là người rất ngại dư luận, nên vẫn phân vân về việc con gái lại gả cho người đã có gia đình, còn mẹ tôi thì phản đối ra mặt.



NCM nói tiếp:



- Việc con đã trình bày xong, nếu hai bác nghĩ thương chúng con thì chị Bút Trà sẽ lên thưa thêm nhiều việc, vì đây cũng là trách nhiệm của anh con.



Cha tôi nói:



- Bác thấy chuyện này thật không phải dễ. Nhưng thôi, để bác tính lại với bác gái.



NCM ra về rồi thì mẹ tôi la ầm lên: - Không việc gì phải tính lại với tôi cả! Tôi đã nói là tôi không bằng lòng kia mà, vì tôi thấy nhiều chị bạn lâm vào cảnh này hay gặp phiền phức lắm, dù các chị ấy chỉ góa vợ.



Nhưng rồi sau đó, khi vợ chú Huấn tôi đến thăm nghe đầu đuôi câu chuyện, đã dỗ dành mẹ tôi. Thím người Bồng Sơn, con nhà giàu, lại giỏi về buôn bán, ăn nói khôn ngoan. Thím lần lần trình bày câu chuyện tuy khó nhưng không phải không giải quyết được. Hồng Tiêu đã hứa như vậy thì chắc sẽ làm như vậy. Và nghĩ lại cũng tội nghiệp cháu Vân hiền lành, nó thương anh chị, anh chị không bằng lòng nó đâu dám cãi, nhưng rồi nó đau khổ âm thầm sẽ nguy đến sức khỏe, tánh mạng…



Khi bà Bút Trà lên, mẹ tôi không chịu ra, để cha tôi và thím tôi tiếp. Hồi cha tôi dẫn tôi lên Bồng Sơn thi sơ học yếu lược, chú Huấn đang học trường trung học Qui Nhơn, cha tôi thấy cô Thuận (sau này là thím tôi) giỏi giắn thì để ý là sẽ cưới cho chú tôi. Gia đình bên ấy bằng lòng liền mặc dù chưa thấy chú tôi bao giờ. Sau hau người thư từ qua lại, hiểu nhau và gia đình bên thím tôi chịu gả, đưa dâu xuống tận cửa biển Tam Quan và rất nể nang cha mẹ tôi vì nuôi em cô cậu cho học hành thành tài còn đứng ra dựng vợ gả chồng. Thím tôi trình bày những khó khăn, việc gì bà Bút Trà cũng nói:



- Ông bà đòi hỏi thế nào thì tôi cũng lo được, không làm cho ông bà mất mặt, cho em gái phải mang tiếng. Cưới hỏi có hôn thú bậc nhất làm tại Tòa Đô chánh, có luật sư Diệp Văn Kỳ làm người chứng. Chúng tôi sẽ thay mặt cha mẹ cưới cho em. Danh chánh ngôn thuận, đâu ai chê bai được. Huống chi vừa nghe Hồng Tiêu cưới vợ là bốn tiệm thuốc lớn ở đây đã cho mượn bốn cái xe hơi lớn (ở Sài Gòn lúc ấy chỉ có bốn tiệm thuốc Võ Văn Vân, tiệm bà Phan Thị Bạch Vân và hai tiệm khác trong Chợ Lớn là có xe hơi lớn mà thôi), còn xe nhỏ thì các chủ báo đều có cả.



Thím tôi nói chuyện với bà Bút Trà khá lâu để giải quyết những chuyện khó khăn có thể xảy ra, và hứa sẽ trình lại với mẹ tôi. Thím tôi còn nói, Hồng Tiêu hứa vậy nhưng khi đã ăn ở với cháu tôi rồi, muốn làm gì thì cháu tôi hiền lắm, làm sao cãi được? Một trăm cái hôn thú mà lòng dạ đổi thay, tình cũ nghĩa xưa, con cái làm sao mà bỏ, cháu tôi làm sao tự đối phó được? Chuyện thơ văn chỉ để tô điểm cuộc sống, mê hoặc con người, còn thực tế có chạm trán mới biết ra sao. Cháu tôi bà thấy đó, nó hiền lành nết na, chỉ biết có học. Chưa ra đời, chưa hiểu đời muôn mặt nghìn lòng, lúc đó muốn rút lui cũng không phải dễ. Huống chi một cuộc hôn nhân được rất nhiều người quan tâm, các báo lớn nhỏ đều nói đến, nếu sau này không tốt đẹp thì sẽ bị người đời cười chê…



Bà Bút Trà thấy thím tôi còn nhỏ mà ăn nói rất chí lý cũng mến phục. Bà thì ít học nên cứ nói đi nói lại, cứ hứa:



- Chúng tôi là anh chị thay mặt cha mẹ chẳng lẽ lại không biết điều hay sao thím? Thím thưa với ông bà là chúng tôi cũng phải giữ lời hứa và tiếng tăm của chúng tôi chớ. Chuyện trước đây của Hồng Tiêu đúng là như vậy, và dù chú ấy được hoàn toàn tự do kết hôn đúng luật, chúng tôi cũng vẫn sẽ thu xếp mọi chuyện thật êm đẹp, không để xảy ra chuyện gì không hay cho em Vân hết.



(Sau đó quả bà Bút Trà đã giúp chị Lan mở một nhà thuốc tây và chị đã lâïp gia đình khác, được thêm ba người con nữa. Dù đã có điều kiện từ trước, ba người con đầu của anh Hồng Tiêu vẫn trở về với anh, tôi đều phụ anh nuôi dạy cho đến khi nên người).



Khi bà Bút Trà ra về rồi, mẹ tôi lại làm trận với cha tôi và còn rầy thím tôi: - Với bà Bút Trà mà mình tin được sao? Có phải là cha mẹ Hồng Tiêu đâu. Bà ta cũng đã có chồng, chắp nối với ông Bút Trà nghe đâu đã có hai ba đời vợ, bà còn một gia đình riêng trong Chợ Lớn. Uy tín một người như vậy ai dám tin?



Nhưng rồi cha tôi và thím tôi phân tích phải không với mẹ tôi cả một ngày một đêm thì mẹ tôi cũng bớt tức giận và nghĩ thương tôi, mẹ tôi nói:



- Ừ, thì để coi họ tính sao đây.



Cuối cùng, chắc cũng chỉ vì thương tôi mà mẹ tôi đã chấp nhận chuyện hôn nhân này.



Được tin, Hồng Tiêu (từ đoạn này tôi xin không dùng tên NCM nữa) liền thu xếp về Quảng Ngãi làm khai sinh để làm hôn thú. Hôm đi anh có lên từ giã ba má tôi và vui vẻ cười nói với tôi: - Cái thời trước vậy đó, thi ba bốn bằng chữ nho, hai ba bằng chữ Pháp, mà chẳng cần khai sanh, bây giờ 33 tuổi phải có nó mới cưới được vợ!



Hồng Tiêu về Quảng Ngãi lần này không phải đi bộ như hồi anh còn trẻ từ đó tay trắng vào Sài Gòn lập nghiệp. Anh đi xe lửa, về đến tỉnh liền thuê xe kéo xuống Cổ Lũy. Trong khi đứng đợi đò ở Cổ Lũy về Trường Yên, nơi mà bà, cha mẹ cùng anh chị em của anh từng sống ở đó, cám cảnh anh xuất khẩu đọc thành thơ:



Qua sông ta gọi con đò
Lòng ta như nắm chỉ vò trong tay
Lìa quê từ bấy đến nay
Biết rằng cảnh có như ngày ta đi
Mây xanh trăng bạc từ khi
Bây giờ lại thấy mặt mày cố nhân
Ngậm ngùi thân lại tủi thân
Bốn phương nặng nợ mười ân lỗi nghì
Cây xưa nọ gốc bồ đề
Nhà xưa chủ mới mình nầy ngươi xưa
Mơ màng trong cõi nắng mưa
Đòn cân tạo hóa trừ thừa biết sao
Để chân về chốn chôn nhau
Mà như khách lạ nơi nào đến chơi
Cố hương ơi! Cố hương ơi!
Người con mặt biển chân trời về đây
Tư bề lặng lẽ nước mây
Vô tình nước chảy mây bay một chiều



Làm xong khai sanh, anh trở về liền và đi thuê ngay một căn phố lầu ở đường Alsace Lorraine (bây giờ là Đặng Thị Nhu) để làm chỗ ở cho chúng tôi và dự định sau này làm báo. Trên lầu là phòng ngủ và phòng khách riêng, dưới dành cho tòa soạn tương lai. Bạn bè kẻ cho bộ salon, người cho bộ bàn ăn, anh Phan Bá Lân thì cho một bộ giường nệm với một cái mùng kiểu treo trên tường phủ xuống… Nhà bếp đầy đủ đồ dùng, chén bát, soong nồi…, không thiếu một cái gì.



Chúng tôi đăng ký làm đám cưới tại Tòa Đô chánh Sài Gòn vào ngày 16-10-1935. Bên phía anh Hồng Tiêu, anh chị Bút Trà làm chủ hôn, luật sư Diệp Văn Kỳ, một luật sư học ở Pháp về nổi tiếng thời bấy giờ, và nhà báo Thanh Phong làm hai người chứng. Bên phía tôi, cha mẹ tôi, chú thím tôi làm người chứng.



Đồ sính lễ cũng rất trọng thể, hai áo nhung dài và đầy đủ nữ trang. Tiệc đãi tại một tửu lầu ở Chợ Lớn, chị Bút Trà đặt cả chục bàn đãi khách cả đằng trai lẫn đằng gái. Xe đến rước dâu, khách khứa lên chật cả bốn chiếc xe lớn mà các hãng thuốc cho mượn. Hôm ấy tôi nhìn cha tôi mà thương cảm vô cùng, một thời thơ ấu sống với cha như vậy đến khi vừa học xong trung học, chưa đền đáp được một ngày công ơn cha mẹ đã đi lấy chồng… Tôi cúi mặt cố nuốt nước mắt, nhưng hai giòng lệ cứ tuôn chảy. Đây là lần đầu tiên tôi khóc. Trong đời tôi, tôi chỉ khóc có bốn lần, mà lần này là lần thứ nhất.



Sau đám cưới, một tiệm chụp hình ở đường Bonard (Lê Lợi) đến mời chúng tôi đi Sở Thú và chụp cho chúng tôi cả mấy trăm kiểu hình và khi rửa xong mang đến mừng chúng tôi. Thế mới thấy độc giả của anh NCM thương anh đến bậc nào.



Hôm đám cưới, ai cũng xì xầm hỏi cô phụ dâu là ai vậy. Có phải là bạn cùng học với tôi không. Họ bảo cặp dâu và phụ dâu đẹp nhất trong đám cưới. Đây cũng là một câu chuyện hơi lạ, vui vui mà tôi xin kể ra đây trong hồi ký:



Nguyên cha tôi có một người bạn tên Tân, chúng tôi thường gọi là chú Tân. Chú cũng làm Sở Thương chánh nhung ở Hội An. Chú góa vợ đã hai năm rồi và chú đem lòng yêu một cô, nhưng khi nói ra thì chẳng những cô này không ưng mà cha mẹ, bà con ai cũng phản đối. Khi có đám cưới của tôi, chú liền xin phép cha tôi cho cô vô dự, làm phụ dâu để cô thấy khi đã thật lòng yêu thì mọi việc đều có thể thu xếp và đi đến hôn nhân hạnh phúc. Sau đám cưới của tôi, cô trở về Hội An và bằng lòng làm vợ chú. Chú Tân viết thư vô cảm ơn cha mẹ tôi và gởi lời chúc chúng tôi luôn hạnh phúc.



Trở lại chuyện đám cưới, khi tiệc tan xe đưa chúng tôi về nhà cùng một số khách thân như vợ chồng Băng Dương, Thụy An, gia đình bên tôi… Cha mẹ tôi xem qua nhà cửa, kiểm lại mấy món quà bà con ban bè biếu. Rồi mọi người lần lượt ra về. Khi đưa cha mẹ tôi xuống lầu, cha tôi nói:



- Nhà cửa như vậy cha thấy cũng được, nhưng chưa mướn được người làm phải không?



Hồng Tiêu nói:



- Hiện giờ thì con muợn đỡ một em nhỏ, nay mai sẽ có chị bếp trước làm cho Batipste Đồng đến giúp việc



Khi mọi người về rồi, anh Hồng Tiêu nói với tôi:



- Anh mệt đừ, ba ngày nay em biết không, anh chỉ ăn có ba tay cầm cháo trắng mà chạy hết đầu này đến đầu nọ, mệt quá em ơi! Cho anh đi ngủ vài giờ đã.



(Sau này khi sống với anh, tôi mới biết tay cầm cháo mà anh ăn là như thế nào! Một tay cầm lớn nấu được một lon rưỡi gạo và anh ăn hết, chỉ với muối. Anh nói người Tàu cho là ăn bạch chúc (cháo trắng) sẽ bổ ngũ tạng.



Nhưng khi tôi vừa dọn xong thì anh bỗng thức dậy. Anh ra ngồi ở chiếc ghế salon và chỉ tôi ngồi xuống ghế đối diện. Anh nói: - Chúng ta nói chuyện được không? Em có buồn ngủ không?



Tôi lắc đầu và ngồi xuống đối diện anh. Anh nói:



- Trước khi mình sống chung với nhau suốt đời, em có gì hỏi hay ra điều kiện gì với anh không?



Tôi suy nghĩ một chút rồi nói:



- Có chớ. Em nói có điều gì anh thấy không hạp ý, thì mình bàn lại. Điều thứ nhất là gia đình em ba đời rồi không hề có tiếng chửi thề, cha em giận thì chỉ nói: “Sao mà ngốc thế!”.



Hồng Tiêu nói:



- Gia đình anh cũng vậy. Bà nội anh dòng dõi quí tộc, nghiêm lắm, có giận đến đâu cũng chỉ nói: “Củi mục một bè, củi tre một bọn!”. Còn gì nữa không?



- Cha mẹ em không bao giờ đánh em. Chỉ có một lần mẹ giận đánh em chỉ bằng cái đuôi quạt mà cha em cũng không bằng lòng. Em nghe nhiều người nói, anh nóng như Trương Phi, đến như chị Phương Lan, vợ của anh Bùi Thế Mỹ, lúc anh làm chung với chị ở báo Opinion, anh dám vác cái khuôn chữ in liệng vào mặt chị, đúng không? Chuyện này ai mà không biết, cái gì không vừa ý anh là anh la hét om sòm, anh mà hét thì ngoài đường cũng nghe. Anh không được đánh em dù chỉ là một cái tát nhẹ, và bớt la hét đi, kỳ lắm.



Hồng Tiêu hỏi:



- Khi giận làm sao dằn được? Rủi anh không dằn được thì sao, em đánh lại hả?



Tôi buồn cười nhưng vẫn bình tĩnh nói:



- Anh thì như Trương Phi, còn em, anh thấy thân em có bằng chị Bút Trà của anh chưa mà dám đánh lại? Nhưng ai lại vợ mà đánh chồng, vô duyên lắm. Em nói rồi, anh không được đánh em. Người Pháp lịch sự với đàn bà và nói không bao giờ đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa.



Anh nhìn tôi rồi nói:



- Mình có phải người Pháp đâu.



- Kìa, em đã nói anh không được đánh em.



Anh ngẫm nghĩ rồi nói:



- Thôi được rồi, anh sẽ ráng giữ điều cấm kị này. Hễ anh giận định giơ tay đánh em thì anh rút tay lại, lấy nón ra đi, đi bậy bạ đâu đó, hay qua nhà báo, hết giận thì về, được chưa?



- Được, đây không phải là chuyện giỡn đâu mà cười.



Sau này, mỗi khi anh giận đưa tay lên định đánh tôi, thấy tôi giương mắt nhìn thì chợt nhớ ra lời hứa, liền rút tay lại, lấy nón đội lên rồi ra đi. Có khi đi cả ngày mới về, có lần qua bên chị Bút Trà thấy họ đánh tứ sắc, nhào vô chơi suốt đêm, ăn cả túi tiền mới về, còn kêu theo một gánh thịt nướng và một gánh chè bột khoai, đãi cả xóm.



Anh hỏi:



- Còn gì nữa, nói hết đi để anh còn đi ngủ. Em đi tắm rửa, thay đồ mát, rồi vô ngủ sau, việc gì cũng để ngày mai sẽ tính. Ba năm trời mới lo được việc rước em về, giờ rước được rồi, đã là vợ chồng thì ngày tháng là của mình, có gì mà gấp phải không em?



Và anh đã giữ đúng lời, suốt 50 năm chung sống 1, anh không bao giờ đánh tôi, mọi việc nặng nhọc anh đều giành lấy làm, không xâm phạm vào quyền tự do của tôi, tôi có công việc của tôi, anh có công việc của anh. Anh nói tôi là quyển từ điển tiếng Pháp của anh, cần lúc nào, dù tôi đang ngủ, anh cũng đánh thức dậy trong lúc anh viết bài để hỏi tên một tỉnh thành nào đó bên Pháp hay một nhân vật nào đang làm Tổng thống ở đâu đâu bên châu Âu.



Còn tôi, lúc nào tôi cũng xem anh như một người thầy, một người anh, một người bạn, một người chồng.



Đó là mối tình đầu tiên và cuối cùng của tôi.

--------------------------------
1
Anh mất ngày 26-3-1985 tại nhà, thọ 84 tuổi.

CHƯƠNG 4. VUI BUỒN NGHỀ VĂN – NGHỀ BÁO
1.TÔI TÌM Ở ĐÂU ĐỀ TÀI ĐỂ VIẾT?



Trong hai mươi năm tôi làm báo và viết văn, người ta nói đùa là tôi đã viết 1001 truyện ngắn. Còn tiểu thuyết dài và vừa thì gần cả 100 bộ. Sự thật thì tôi đã xuất bản độ 70 bộ truyện dài và truyện vừa. Truyện đã đăng báo nhưng chưa in thành sách vẫn còn khoảng chục bộ. Truyện nhi đồng viết vì yêu cầu của nhà xuất bản Nhi đồng khoảng vài chục truyện. Còn truyện ngắn cũng vài trăm cái.



Vì vậy người ta mới lấy làm lạ, tôi lấy đề tài từ đâu mà viết được nhiều như vậy? Lấy đề tài ngoài đời mà mắt tôi thấy, tai tôi nghe khi tôi bắt đầu hiểu. Quanh tôi có bao nhiêu chuyện đáng để ý, đáng suy nghĩ và đáng nhớ. Tiếp đó là những chuyến đi xa, đi khắp miền Nam Trung Bộ từ Huế trở vô. Từ khi còn nhỏ tôi đã biết quan sát, cái gì không hiểu đã có cha tôi hướng dẫn, dạy dỗ. Rồi cuộc sống ở các trường học, tiếp xúc với bạn bè. Đã tiếp xúc, lẽ dĩ nhiên là có va chạm, có cách đối phó, có những suy nghĩ gây mầm, thu góp hành trang để đi vào đời sau này.



Xã hội của tuổi trẻ thời học trò có nhiều gay cấn, biến động không ngừng và chính tình cảm con người với con người nảy sinh vào thời kỳ này rất quan trọng. Tình bạn, tình thầy trò, tiếp nối tình yêu thương ở gia đình, tình phụ tử, mẫu tử, huynh đệ đã cho tôi thêm một mớ hành trang để đi vào đời viết văn. Nói như Victor Hugo, con người nào mà trái tim rung động, linh hồn nhạy cảm mới có thể cầm bút viết dễ dàng. Nếu trái tim chúng ta như một khối hình ảnh thì rồi cũng có một lúc những điều tra ta tiếp nhận được sẽ đầy ắp, một lúc nào đó bị rung động sẽ trào ra ở ngọn bút hay cây cọ, tiếng nhạc…



Lúc nhỏ, thấy thân phụ tôi viết bài, làm thơ, tôi thường nghĩ những điều ấy một ngày nào đó tôi có thể làm được không? Làm một nhà văn chắc là thích thú lắm? Nhưng cha tôi viết văn là chỉ để dùng thì giờ nhàn rỗi vào chuyện giải tỏa tâm hồn, chứ thật sự cha tôi chỉ là một công chức ngày hai buổi đi làm ở công sở.



Cha tôi thường nói với tôi: “Đây là một cách giải trí lành mạnh, một cách nuôi dưỡng trí óc, tâm hồn trong sáng, chứ nghề viết văn ở xứ ta ở thời buổi này (vào những năm 1920-1925) không thể nuôi người viết một cách tự do và đầy đủ. Vào thời kỳ lệ thuộc ấy, muốn viết những gì mình cảm nhận, những gì mình muốn nói, không phải là chuyện dễ. Viết văn để kiếm ăn ở thời kỳ ấy đều phải tùy thời, thậm chí phải đánh mất tự do của mình là khác”.



Khi còn đi học, tôi cũng thử viết những truyện ngắn, tập dịch những bài hay của các nhà văn Pháp, và thấy làm việc ấy không mấy khó khăn. Viết lách đối với tôi cũng không đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều công sức. Tôi làm công việc ấy dễ dàng như khi tôi viết những bài luận văn hay Pháp văn để góp cho các giáo sư, mà lần nào tôi cũng nhận được những lời khen hay những điểm lớn.



Những cuộc thi văn chương chung với các trường Pháp như Chasseloup Laubat (bây giờ là Lê Quý Đôn), trường Marie Curie, trường Sư phạm (Ecole Normale), tôi vẫn được giải thưởng cao nhất. Vì vậy đặt bút viết khi mới 16, 17 tuổi, tôi vẫn không dùng giấy nháp, y như lúc tôi cầm bút viết báo sau này. Một thiên phú chăng? Nếu vậy thành thật cảm ơn các đấng sinh thành đã cho tôi cái thiên phú ấy.



Thật ra viết đối với tôi không phải là khó, vì ngay từ nhỏ tôi đã quen viết. Mới chín tuổi tôi phải xa nhà để ra Đà Nẵng học, vì vậy mỗi tuần cha tôi bắt buộc tôi phải viết một bức thư về nhà, không được dưới bốn trang giấy học trò. Mới chín tuổi tôi bới đâu ra để mà viết dài dòng như vậy ngoài những lời hỏi thăm thường lệ? Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận thấy đây cũng là một cách cha tôi luyện cho tôi viết văn, mà lúc ấy tôi không nghĩ đến.



Cha tôi cho tôi một cái dàn bài phải viết như thế nào, viết có thứ tự và có những đề tài để viết. Cái nào phải viết trước, cái nào phải viết sau. Và luôn luôn đọc kỹ thư cha tôi để trả lời những câu cha hỏi. Đó cũng là một cách dạy tôi cách viết thư và có chuyện để nói dông dài mới chiếm được bốn trang giấy.



Chẳng hạn cha tôi hỏi về sức khỏe bà ngoại tôi, bà tôi tuần này buôn bán ra sao, có thâu hàng thêm không? Bà tôi có thường đi chùa không, và khi bà tôi đi vắng, ở nhà tôi có coi cửa hàng và bán những thứ lặt vặt cho bà tôi không? Rồi đến chuyện tôi đi học. Bạn bè của tôi có những ai? Tôi có bạn để cùng đến trường không? Trường cách xa nhà không? Tôi đi bộ mỏi chân không? Tôi có tiền ăn quà bánh không? Tôi làm gì những ngày chủ nhật? Có đi chơi xa không? Tôi có gì vui hay buồn phải kể cho cha tôi biết. Rồi đến chuyện học hành trong lớp có theo kịp bạn bè không? Cha tôi còn nhắc có khi nào tôi quên gia phong, thốt lên lời chửi rủa một ai đó không? Thí dụ như một người bạn làm mình bực mình hay một người nghèo cứ luẩn quẩn bên mình để xin tiền… Với bao nhiêu lời dặn, với bao nhiêu câu hỏi, tôi trả lời còn khó hơn làm một bài luận văn. Thư nào tôi quên một câu hỏi là thư sau bị rầy và bị nhắc lại.



Bây giờ ngồi viết lại những trang nhật ký này tôi thấy cách cha tôi huấn luyện viết thư cũng là một cách tập cho tôi viết văn. Mà các bạn biết không? Tôi ở Đà Nẵng với bà tôi cả ba năm, một tháng viết bốn lá thư. Lần lần tôi quen, tôi kể đủ chuyện cho cha tôi nghe.



Sau Đà Nẵng, tôi còn ra Huế học ở trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng phải viết thư về nhà. Những thư viết ở ký túc xá thường bị kiểm duyệt, nên tôi không còn viết dài dòng nữa. Có những chuyện bực mình muốn nói mà không dám nói. Nếu có việc gì cần nói riêng, hay than thở chuyện trong trường thì tôi phải viết rồi nhờ bạn ngoại trú bỏ giùm ở bưu điện.



Các bạn thấy đó, mới trên chín tuổi đầu tôi đã quen viết những bức thư về nhà như vậy thì khi ngồi trước bài luận, tôi không còn sợ đầu óc mình khô khan. Và tôi có thể viết hết bốn trang giấy ở các phòng thi sau này một cách dễ dàng mà không sợ bị lạc đề.



Viết đến những dòng này, tôi bỗng dưng thấy thương nhớ cha tôi quá. Một người vừa là thầy, vừa là cha, vừa là bạn. Tôi học ở cha tôi đủ thứ, cả cách trồng hoa, nhất là hoa hồng, săn sóc cây kiểng và ươm cây, chiết nhánh. Tôi học ở cha tôi cái đam mê đọc sách. Nhưng tôi lại không học được cái thú tiêu khiển bằng cây đàn nguyệt, mà em gái kế tôi, em Nhiễu, những lúc tôi đi học xa, ở nhà đã được cha tôi dạy môn âm nhạc ấy. Tôi không có khiếu âm nhạc nhưng em tôi lại không có khiếu văn.



Chính nhờ được luyện viết từ lúc nhỏ, nên khi vào làng báo, tôi không cảm thấy bỡ ngỡ lắm, trái lại còn được tiếp đón một cách niềm nở là khác.



Những câu chuyện từ trường học cũng cho tôi nhiều đề tài để viết. Ví dụ như truyện Gương Vỡ Lại Lành, tôi lấy ngay đề tài ở trường Gia Long nơi tôi học, mà nhân vật chính lại là một chị bạn học năm cuối của trường. Chị đi thi trung học và về kể lại một chuyện khá vui. Chị vào thi vấn đáp môn toán với một giáo sư người Việt còn trẻ và ông này cứ theo nhìn chị hoài và sau cùng hỏi địa chỉ của chị. Chị không cho thì ông ta cười và nói cô giấu làm gì, trong cái thẻ học sinh này, tôi đã thấy địa chỉ của cô mà. (Sự thật thì trong thẻ học sinh làm gì có địa chỉ riêng!).



Vậy mà sau đó ông ta cũng tìm ra được địa chỉ nhà chị ở Mỹ Tho. Ông ta tìm xuống tận nơi, để rồi một cuộc tình thơ mộng đã nung nấu hai tâm hồn trẻ. Họ yêu nhau lại được cha mẹ ưng thuận, nên sau đó mấy tháng một đám cưới đã tổ chức trọng thể vì hai bên cha mẹ đều là chủ đồn điền, mà nhà trai có tiếng là gia đình phúc đức, một điền chủ không bóc lột. Rồi họ lên Sài Gòn mua một căn nhà ở gần chỗ Thạch, chồng chị dạy. Họ sống trong hạnh phúc không gặp ai, không tiếp bạn bè, thỏa thuận cùng nhau. Nhà chỉ có hai cái chén, hai đôi đũa, cái gì cũng hai. Không tiếp cả cha mẹ, chị em.



Một chuyện tình tốt đẹp quá, thơ mộng quá, nhưng cũng lãng mạn quá. Họ sống riêng biệt bên nhau cả mấy tháng trời. Thạch đi dạy thì chị ở nhà lo nấu nướng, thêu may, dọn dẹp và khi Thạch về thì cả hai như đôi chim ríu ra ríu rít, cười đùa không ngớt. Đến nỗi cha mẹ cả hai bên phải than phiền là con cái tệ quá, quên cả cha mẹ. Vậy mà có ai ngờ được chuyện tình ấy lại dang dở vì một trận đau kéo dài của chị, bệnh lao phổi. Rồi cô em gái của chị lên thăm, lấy cớ ở với chị để phục vụ việc nhà, và cũng để học tiếp ở trường nữ Gia Long, xin chuyển từ Mỹ Tho lên.



Ở đời không có chuyện gì là bất ngờ cả. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người. Cô chị thì đau yếu, cô em lại mạnh khỏe, ông chồng thì thiếu người trông nom, thiếu tình thương, nên đã bị cô em lôi kéo vào một chuyện yêu thương tội lỗi.



Câu chuyện kể từ bạn bè đó đã cho tôi đề tài để viết một quyển tiểu thuyết, một chuyện có thật ở xã hội, với những tình cảm éo le, nhưng lại rất thường tình: Gương Vỡ Lại Lành. Sau này tôi đổi tên lại là Còn Vương Tơ Lòng, là vì gương vỡ không lành chỉ hàn tạm, chứ sự thật thì tình chồng vợ của hai người đã từng yêu nhau tha thiết, nay không còn nữa. Thay vào đó họ chỉ còn vương lại một chút tơ lòng. Sau 1975, tôi định viết lại chuyện này hoàn toàn theo sự thật. Vì tôi rất cảm động trước cư xử rất khoan dung, rất ưu ái của bà mẹ chồng đứng giữa hai người yêu của con trai mình. Người dâu đầu bà cưới, chỉ do con trai bà thương. Nhưng sau đó bà thật sự cảm mến cô dâu ấy vì lòng yêu thương chân thành và sâu đậm cùng tánh trung hậu, đàng hoàng của cô. Nhưng cô đau yếu, mang một bệnh ngặt nghèo mà vào thời ấy, cho là khó chữa lành, nguy hiểm, lây lan. Và bà thương cảnh con trai mới có vợ ba năm, chưa có đứa cháu nội nào cho bà bồng ẵm, bây giờ phải phòng không gối chiếc còn phải lo cho vợ ở bệnh viện. Đến khi có cô em vợ xen vào, và đã lén lút yêu thương con trai bà, bà biết nhưng giả vờ như không hay biết. Bà là người rất sành tâm lý. Bà hiểu cô em chỉ ghen với hạnh phúc của cô chị, thấy cô chị được thương, được ở nhà cao cửa rộng, nên cố ý đoạt hạnh phúc của chị. Chứ thật sự không yêu thương Thạch như cô chị.



Rồi cô ta có thai. Thật là một chuyện khó xử, nhưng lại là một tin mừng cho bà. Thạch là con một, bà sắp có cháu trai để nối dõi tông đường. Bà ráng thu xếp việc này cho thật yên. Nhưng trong khi cô chị âm thầm đau khổ, cô em lại khai thác ưu thế của mình một cách quá trớn, nay đòi ẵm con về nhà mẹ, mai đòi ra sống bơ vơ ngoài đời. Thạch thì không biết phải làm sao cho ổn thỏa. Bà mẹ chồng nảy ra cái ý đưa cô dâu lớn qua Pháp chữa trị và để nhà cửa lại cho cô em và cậu con trai.



Một mối tình chân thật, một mối tình có tính toán, một bà mẹ chồng vì quyền lợi của mình, nhưng cũng vì yêu thương cô dâu đức hạnh nên cố dàn xếp. Đây là một cốt truyện rất thường tình trong xã hội.



Cũng từ những câu chuyện hồi đi học, tôi đã viết truyện Bóng Người Xưa, mới vài tuần đầu đã gây được tiếng vang khắp nơi, độc giả nam cũng như nữ theo dõi, bàn tán, có kẻ nóng lòng muốn biết kết cục, đã gửi thư hỏi thăm. Thật là một điều đáng khích lệ. Truyện này tôi viết về một chị bạn cùng học ở trường Đồng Khánh năm 1930-1931. Chị học lớp đệ tứ, trong khi tôi mới vào ký túc xá năm đệ thất. Chị là người Nghệ An hay Quảng Bình gì đó, học rất giỏi. Tuy ở ký túc xá nhưng chị không có bao nhiêu bạn. Lúc nào tôi cũng thấy chị thui thủi có một mình. Giờ ra chơi cũng như những giờ được nghỉ, chị thường thơ thẩn một mình, lúc nào cũng có vẻ suy tư và lo lắng về một chuyện gì đó. Chị lại là người thương bị phòng kế toán gọi hối thúc đóng tiền học. Có lần bị bà giám thị mắng nhiếc, chị buồn và chui vào một xó phòng thể dục, lau nước mắt. Tôi thấy hoàn cảnh chị nên rất thương và tìm cách làm quen với chị. Tên chị ở trường không phải Lệ Hằng như tên tôi đặt trong tiểu thuyết. Bây giờ ngồi viết lại những kỷ niệm cũ, tôi vẫn còn thấy mến phục chị, thương chị vô cùng. Không biết ở một phương trời xa xôi nào đó, chị có còn sống không? Chị lớn hơn tôi khoảng ba, bốn tuổi. Có lần thấy chị đan một cái khăn len màu ngà, rông cỡ 1m2, tôi đến làm quen với chị. Chị thấy tôi lại gần, mỉm cười nhưng không bỏ đi như có lần một vài chị khác đến làm quen. Chị hỏi tôi: “Dân mới về trường phải không? Ở đâu đến vậy? Tên chi?”.



Chị hỏi một hơi dài, làm như hỏi cung không bằng. Tôi vẫn vui vẻ trả lời: “Dân mới về trường nhưng không bị ăn hiếp vì có các chị cùng quê ở đây che chở. Ở Đà Nẵng đến và tên là Bạch Vân”.



Chị gật đầu: “Tên hay đấy!”.



Rồi chị nói: “Mình ra băng đá ngồi đi, ngồi trong hốc này tụi giám thị tưởng đâu mình âm mưu gì”.



Lúc đó tôi chưa hiểu nên hỏi:



- Âm mưu gì? 



- Tụi nó nghi mình làm chính trị.



- Làm chánh trị? – Tôi ngạc nhiên hỏi lại. Chị cười và nói:



- Thế là em chưa biết chị. Tụi nó nghi chị vào đây để truyền bá chủ nghĩa cộng sản đó em.



Chị kéo vào tôi ra bàn đá giữa sân, trên đường ra cổng và nhìn về giòng sông Hương đang lờ đờ chảy ở phía trước xa xa.



Tôi hỏi: “Chị đan làm gì cái khăn len quá rộng như vậy? Mà sao em thấy chị đan hoài nó vẫn không dài thêm tấc nào. Em ra đây đến nay là ba tháng rồi!”.



Chị cười xòa:



- Đan cho qua thì giờ. Mình vừa đan vừa suy nghĩ, không ai để ý, chớ ngồi ngây người ra tụi nó lại nghĩ, mình định âm mưu gì.



Rồi chị cười lớn ra vẻ thích chí. Tôi nhìn sững chị và thấy chị có một vẻ đẹp quý phái, nhưng bên trong vẻ đẹp ấy là một nét buồn kín đáo.



Chị bỗng đưa cái khăn đang đan lên và bảo:



- Tụi nó đang theo dõi em đó. Tốt hơn em không nên gặp chị thường, chị dễ gây tai họa cho người khác lắm.



Có lần cũng thấy chị ngồi đan một mình trên ghế đá, tôi đi ngang và nói:



- Chị đan hoài không xong, chị làm như bà Pénolope trong chuyện cổ La Mã, ngày đan đêm tháo.



Chị trợn mắt nhìn tôi, rồi cười xòa:



- Em cũng biết chuyện bà Pénopole sao?



- Em đọc sách thấy nói bà ta là một hoàng hậu thật đẹp, một ông vua nước khác si mê bà, bắt bà về ép phải làm hoàng hậu của ông. Bà hứa để bà dệt xong tấm vải may chiếc áo cưới thì sẽ nhận lời. Thế rồi ngày bà dệt, đêm bà tháo, cứ vậy nên tấm vải còn mãi chỗ cũ không bao giờ xong. Bà chờ đến ngày chồng bà đem quân cứu bà ra khỏi tay vị vua kia.



Chị khen tôi kể chuyện hay và thở dài:



- Chị đâu phải là hoàng hậu, chị là người phải làm một nhiệm vụ…



Có lần cô giáo dẫn học sinh ký túc xá đi dạo chơi ngắm cảnh. Chị và tôi cùng là dân không có bà con ở Huế, ít khi Chủ nhật ra ngoài, đã được đi núi Ngự Bình.



Ra tới đây, cô giám thị vào quán ăn bánh bèo, kéo theo một số học sinh, vì bánh bèo ở chân núi Ngự Bình lúc ấy có tiếng là ngon nhất xứ Huế. Tôi thấy chị Lệ Hằng (tên tôi đặt cho chị trong tiểu thuyết) dẫn hai người bạn leo lên núi Ngự Bình. Họ đi thoăn thoắt, tôi chạy theo mà cũng không bắt kịp.



Núi có những bậc tam cấp được người ta đục sẵn, đi lên không khó lắm. Núi lại không cao, nên không dốc lắm. Tôi lên tới đỉnh, thấy sau một bụi cây rậm rạp, chị Hằng ngồi cùng với ba chị khác và họ trao cho nhau những bó giấy, rồi mỗi chị nhét nó vào quần trong áo dài. Nghe tiếng còi báo hiệu tập hợp ra về, chị Hằng và ba người bạn đợi mấy chị khác lên núi xem cảnh chạy xuống trước, rồi họ mới chia nhau chen vào đám đông đi xuống.



Đêm hôm ấy bên Phủ Doãn (nhà giam tù chính trị) đã qua trường Đồng Khánh và bắt chị Hằng cùng ba cô bạn khác về tội rải truyền đơn dọc đường khi ở Ngự Bình về. Trong ba chị bị bắt, một chị được thả về vì có cha làm quan lớn trong triều. Các bạn kể tôi nghe là chị Hằng đã bị theo dõi từ lâu. Năm học đệ ngũ, chị có bị bắt một lần nhưng không tìm ra bằng chứng nên người ta thả chị ra và có hai người bà con làm công chức đứng ra bảo lãnh chị mới được tiếp tục học lại.



Một chị kể:



- Việc lộ ra là hôm chủ nhật khi lớp nam sinh Quốc Học đi phía sau thì lớp nữ sinh Đồng Khanh đi trước đã chờ đợi tốp nam đi qua. Hai bên trao đổi giấy tờ gì đó mà các giám thị bên Quốc Học đã lục soát bọn đi chơi về và bắt được tài liệu. Vì vậy ở bên Quốc Học đêm qua cũng có một số học sinh bị bắt.



Lúc bấy giờ đang có phong trào truyền bá chống thực dân Pháp, đề cao lòng yêu nước trong học sinh sinh viên, rồi phong trào Nguyễn Thái Học ngoài Bắc, các hoạt động của các cụ Phan Sào Nam, Phan Chu Trinh ở miền Trung. Cả chủ nghĩa cộng sản cũng đang phát triển trong nhân dân. Và tụi Pháp đã ra tay đàn áp tàn bạo. Đây là thời điểm các nhà cách mạng nhắm vào thanh niên ở các trường, các trí thức trong hàng ngũ công chức… để vận động.



Chị Hằng bị kêu án ba, bốn năm tù, mấy chị kia lãnh án vài năm. Và chị Hằng bước vào con đường cách mạng từ đó. Nhờ có vài thế lực nào đó, chị được bảo lãnh ra tù, nhưng không được học lại. Chị gia nhập một tổ chức yêu nước và hoạt động trong bóng tối. Bỗng nhiên sau đó một vài chị bạn trong trường kể tôi nghe là chị sắp kết hôn với một kỹ sư và dọn về ở một vùng quê nào đó…



Chính câu chuyện này đã cho tôi đề tài để viết Bóng Người Xưa và quyển này đã giúp tôi có những bước đi thật vững chắc vào làng văn lúc bấy giờ. Sách in lần đần bán chạy, người ta lại tái bản, cả hai ba lần sau đó. Và sau 1975, Nhà xuất bản Văn Nghệ TP.HCM cũng đã tái bản Bóng Người Xưa (năm 1989). Sách in 15.000 quyển đã bán sạch.



Thật ra, tôi đưa nhân vật Lệ Hằng ra, rồi nhân vật Thúy Ái sau đó là để đề cao người phụ nữ trong phòng trào đấu tranh cho đất nước. Một phụ nữ xông pha với tù đày, đấu tranh vất vả, và một phụ nữ sống trong gia đình, dưới bóng mát của tình yêu thương nhưng không quên bổn phận đóng góp phần nào vào công việc đấu tranh giành độc lập cho nước nhà.



Cũng có khi tôi lấy đề tài từ chuyện trong chính gia đình mình, như chuyện Mẹ Chồng Nàng Dâu, truyện Giang San Nhà Chồng, là hai truyện tôi lấy từ cảnh sống, làm dâu của bà chị chồng và của cô em gái tôi. Cả hai phải đối phó thế nào để vượt qua cảnh khó khăn khi làm dâu với một bà mẹ chồng ỷ giàu và thiếu học.



Quyền Giang San Nha Chồng được chị em phụ nữ theo dõi trên báo hằng ngày. Và khi in thành sách, bán rất chạy. Chị chồng tôi là người có học, xuất thân từ một gia đình nho giáo. Cha chồng tôi là con nhà nho, một thời làm chính trị không thành, trở về dạy học. Chị chồng tôi đa mưu tốc kế, nhưng tánh tình rộng rãi, thương người, sẵn sàng giúp đỡ những ai nghèo khổ. Trái lại, bà mẹ chồng là một nhà giàu keo kiệt, độc ác, gian xảo. Về làm dâu nhà này, bà chị tôi đã phải khổ sở, thức khuya dậy sớm, ăn đói nhịn khát không thua gì một kẻ ở đợ. Về nhà chồng, chị tôi không được mang guốc, không được mặc áo dài, không được ngồi ăn chung mâm với cha mẹ chồng và các anh, chị em chồng. Khi nhà có cúng giỗ, chị tôi phải thức cả đêm để làm bánh, nấu nướng, rồi khi dọn xong thức ăn lên bàn để thờ để họ cúng lạy và khi bày ra bàn để đãi khách thì bà mẹ chồng ác nghiệt kia lại sai chị chồng tôi đi gánh lúa. Đến khi về nhà thì chả ai nghĩ để phần thức ăn, họ đã ăn sạch sành sanh… Những chuyện như vậy mà chị tôi chịu đựng được để rồi tìm cách đối phó và cảm hóa được bà mẹ chồng phải thay đổi thái độ.



Ôi! Chuyện mẹ chồng nàng dâu ở thời phong kiến không bút mực nào ghi cho hết. Không phải ở Việt Nam mà cả bên Trung Hoa, bên Nhật Bản, như trong truyện của nữ sĩ Quỳnh Dao ở Đài Loan, truyện Ôsin của nữ sĩ Nhật. Sau quyển Giang San Nhà Chồng, tôi viết tiếp quyển Mẹ Chồng Nàng Dâu và cả hai truyện này đều bán chạy.



Tôi còn khai thác nhiều đề tài xã hội, nhờ vào mục Gỡ Rối Tơ Lòng và Tâm Tình Cởi Mở mà tôi giữ trên hai báo hằng ngày Sài Gòn Mới và Tiếng Vang. Câu chuyện bạn đọc kể thường chỉ vỏn vẹn vài trang giấy, nhưng là chuyện rất thường tình ngoài đời. Hằng ngày nếu chịu khó quan sát, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều nhân vật đem vô tiểu thuyết. Xã hội là một sân khấu với tất cả các vai diễn, độc ác có, hiền hậu có, gian xảo có, trung thực có. Cứ nhìn quanh ta là thấy những người có thể nhập vai, rồi thêm sức tưởng tượng và tài liệu khi ta đọc sách của nhà văn các nước.



Trong khi phụ trách hai mục Tâm Tình Cởi Mở và Gỡ Rối Tơ Lòng, tôi gặp biết bao nhiêu cảnh đời éo le, đau đớn khó xử, rứt không ra rời không được, để làm tài liệu đem vào những trang tiểu thuyết hằng ngày, thì một chuyện thình lình đã cho tôi một đề tài thật độc đáo mà từ xưa chưa ai khai thác: Cảnh cha ghẻ con vợ.



Số là một hôm trời nóng nên tôi không viết được bèn nhắc ghế ra sân nhìn trăng, ngắm sao và cũng để tập trung tư tưởng về một bài xã luận phải viết cho tờ Phụ Nữ Diễn Đàn trong ngày mai. Bỗng đứa con gái út của tôi năm ấy lên mười tuổi, đang học tiểu học, chạy ra nói với tôi là con làm bài xong rồi, mẹ cho con qua nhà con Lan – bạn cùng lớp và ở cùng xóm – chơi nghe mẹ. Chúng tôi ở trong cư xá Chu Mạnh Trinh, lô F. Nó đi một lát dẫn về con bé Lan, rồi hai đứa kéo ghế ngồi bên tôi năn nỉ tôi kể chuyện Trạng Quỳnh. Tôi chưa kịp kể thì nhà tôi lại gọi bé Phương Chi vô nhà đọc báo cho ông nghe. Cón bé phải vâng lời. Thành ra bé Lan chỉ ngồi một mình bên tôi. Bỗng nhiên nó thở dài và nói: “Con buồn lắm bác ơi!”. Tôi ngạc nhiên hỏi:



- Buồn chuyện gì nói bác nghe đi. Bác sẽ khuyên con.



Nó do dự một hồi lâu rồi toan đứng lên bỏ về. Tôi ngạc nhiên hỏi:



- Chuyện gì vậy Lan, bộ chị Hương không đi chơi với con sao?



Nó nói cộc lốc:



- Đi chơi rồi. Ba mẹ chở mấy anh chị đi xem hát bóng cả rồi.



- Thế tại sao con không đi?



- Ai cho mà đi! Bác ơi, toàn là chuyện bất công thôi! Không một lần nào con được đi chơi cả. Xem hát hay đi Thủ Đức gì cũng phải ở nhà.



Tôi chưa kịp nói gì thì con bé nói:



- Bác cho con về. Mẹ cấm không cho con qua nhà hàng xóm, mẹ sợ con đem chuyện nhà nói với người ta.



Tôi khuyên nó đừng nên nghĩ vậy về người mẹ của mình, con cái không nên phê phán việc làm của cha mẹ vì các con còn nhỏ quá, chưa hiểu gì đâu.



Nó nhất định không để tôi nói:



- Thưa bác, trường hợp của con là khác, con không biết có nên kể cho bác nghe không? Và liệu bác có tin con không? Con đọc báo thấy nhiều người lớn, cả đàn ông, đàn bà, các cô gái khi có chuyện gì khó xử thường viết thư hỏi bác. Bác vui vẻ trả lời họ. Thế còn con, con có được phép kể cho bác nghe không? Chuyện của con là chuyện thật, không phải bịa đặt đâu. Con còn nhỏ làm sao bịa đặt được một chuyện quá lớn như vậy.



Tôi không ngờ con bé lại ăn nói khôn ngoan quá. Tôi nghĩ chuyện hàng xóm, mình không nên biết, sợ bà Tuyết, mẹ con bé, hiểu lầm. Tôi còn đang suy nghĩ thì bé Lan đứng lên:



- Bác sợ mẹ con hiểu lầm là bác tò mò tìm hiểu chuyện gia đình con phải không? Nhưng con cứ nói: Con không phải là em chị Hương và mấy chị khác. Con là con của chị Mai, chị lớn và là con riêng của mẹ con. Chị ấy bây giờ đang ở trong tu viện. Người con đang gọi là mẹ thật ra là bà ngoại của con.



Con bé nói xong ôm đầu chạy. Nhưng bỗng nhiên nó hốt hoảng quay lại và nói với tôi:



- Bác ơi! Bác đừng có viết chuyện này lên báo nghe bác. Bà ấy mà biết được thì bà ấy đánh con chết.



Tôi thật bàng hoàng và thấy câu chuyện cũng khá hấp dẫn, nên nằm suy nghĩ mãi. Quả là một đề tài xã hội khá hấp dẫn, nhưng khai thác ngay thì tôi chưa thể làm được. Nhà bé Lan cùng cư xá với tôi, ngày nào bà má của Hương cũng đi ngang qua nhà tôi để ra đường đón xe đến công sở.



Nhưng rồi tôi cũng tìm hiểu được câu chuyện, không phải do bé Lan kể mà là do bé Hương, cô chị cùng tuổi với nó.



Thì ra, bà Tuyết vốn xuất thân một gia đình vọng tộc, khi học xong ở trường Đồng Khánh thì kết hôn với một tham tá dòng hoàng tộc. Cuộc hôn nhân này có kết quả là một đứa con gái nhưng sau đó ông tham tá qua đời vì một cơn bạo bệnh. Gia đình bên nội rất quí em bé vì nó đẹp kỳ lạ và khôn ngoan trước tuổi. Vì vậy bằng mọi cách gia đình bên nội cố giữ cô dâu ở chung được ngày nào hay ngày nấy, hy vọng khi cô ta có muốn tái giá thì bắt đứa cháu nội.



Nhưng chỉ hai năm sau, vừa mãn tang chồng, mẹ của bé Lan liền xin phép cha mẹ chồng để lập gia đình, làm lại cuộc đời với một người bạn trai ngày xưa đã có lần xin cưới Tuyết nhưng gia đình Tuyết không chấp nhận vì lẽ gia thế không bằng cha của Mai. Bên nội muốn bắt đứa cháu nhưng mẹ Mai không chịu nhượng bộ, viện lẽ con bé mồ côi cha nay sống xa mẹ thì tội nghiệp. Lại nữa, nó là hình ảnh của một cuộc tình mà bà ta suốt đời không thể nào quên. Thấy con bé là thấy mối tình đẹp của bà, là tình yêu lý tưởng của bà. Bà còn nói lẽ ra bà không nên đi thêm bước thứ hai, bà không muốn mất cái gia đình này và cũng không muốn đứa con của mình phải sống xa gia đình bên nội, một gia đình quan gia thế phiệt.



Nhưng rồi sau ngày cưới, ông chồng mới của bà đã xin đổi vào Nam, làm việc ở Bộ ngoại giao và sống một cuộc đời khác hẳn nếp sống của bà trước đây. Ông sống hoàn toàn theo Âu Mỹ, có làm thì có chơi, ngày nghỉ ông không bao giờ không tổ chức những cuộc đi chơi xa hay ra ngoại ô sống cả ngày trên sông nước hay trong các vườn cây ăn trái.



Đứa con riêng tên Mai của bà lúc nào cũng được ông nuông chiều yêu thương, cho đến khi bà sinh cho ông liên tiếp cả đám con gái và hai đứa con trai thì Mai đã lên 16 tuổi. Bà bàn nên cho Mai vô ký túc xá ở để dễ học, khỏi phải lo cho đám em nhỏ, vì bà thấy Mai càng lớn càng đẹp, đẹp một cách sắc sảo. Bà cũng thấy hơi lo vì bắt gặp cái nhìn say mê của ông mỗi khi thấy Mai đi qua trước mặt ông hay mang đến cho ông một vật gì. Ông lại rất nuông chiều và thương yêu con bé hơn cả mấy đứa con của ông, khiến lũ nhỏ nhiều lần ghanh tị với Mai: “Ba cứ cho chị ấy nhiều tiền để mua sách, mua chỉ thêu, và may áo quần. Ba không bao giờ cho tụi con tiền, ba nói đã có mẹ lo. Vậy chị Mai là con của ba hay của mẹ?”.



Và bà rất đau khổ phải theo giữ Mai từng bước. Nhưng rồi khi bà sanh bé Hương thì ở nhà đã xảy ra chuyện bất hạnh cho Mai. Mai ngây thơ, khờ dại làm sao giữ mình trước những cám dỗ và mưu toan thường luân bại lý của ông cha ghẻ.



Khi việc đổ bể, bà âm thầm cùng chị bếp, một người tin cẩn, đưa Mai lên Đà Lạt ở với người cô ruột của Mai. Bà thường lên xuống Đà Lạt và mấy tháng Mai gần sanh, bà ở luôn trên ấy. Khi Mai sanh, bà ẵm đứa bé về và tuyên bố vì lần có thai này bà yếu đau thường nên phải tịnh dưỡng ở Đà Lạt, nhờ một bác sĩ Pháp chuyên khoa đem đứa bé ra vô sự. Còn Mai thì bà ép buộc phải vào một nhà tu kín ở Thủ Đức, thỉnh thoảng bà đi thăm, nói với mọi người là con bé tự nhiên sùng đạo và không thích sống ở ngoài đời.



Lúc đầu thì không ai ngoài vợ chồng bà, bà cô và chị bếp hay biết việc này. Con bé Lan, con của Mai và ông chồng sau của bà, sống trong gia đình cùng các con bà và được coi như là con gái bà. Dĩ nhiên bà không yêu thương nó bằng mấy đứa khác. Riêng ông thì ông rất thương nó. Rồi vì chuyện ông bênh nó mỗi lần bà hành hạ, bạc đãi nó, không một lần cho nó đi nghỉ mát với các con khác. Con bé bắt đầu hiểu đã cảm nhận sự bất công trong gia đình và mỗi khi bà la rầy nó, ông lại bênh vực che chở nó, khiến bà lại tức giận và rồi chuyện thâm cung bí sử đã bùng ra trong gia đình, khiến các con hay biết và khiến bé Lan đau khổ muốn bỏ nhà ra đi.



Bé Hương đã kể cho tôi nghe, nhưng tôi không lấy đề tài này để viết tiểu thuyết, dù là một đề tài rất hấp dẫn, vì chúng tôi ở chung một cư xá. Nhà bà Tuyết là độc giả thường xuyên của tôi. Cho đến khi ông này đi làm ở một tòa đại sứ Việt Nam ở nước ngoài, không còn ở trong cư xá của tôi nữa. (Ông xin đi làm ở nước ngoài khi bé Lan nhất định vào nhà tu thăm chị Mai mà bây giờ nó đã biết là mẹ nó. Và một hai đòi chị Mai phải xin với mẹ bề trên ra đời để lo cho nó), tôi mới đem đề tài này viết thành tiểu thuyết cho báo Phụ Nữ Ngày Mai.



Đến năm 1990, khi các nhà xuất bản ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh xin phép in một số tiểu thuyết của tôi đã xuất bản trước 1975 và những truyện dài tôi viết trước 1975 nhưng chưa xuất bản thành sách, tôi liền cho xuất bản quyển Đời Con Gái. Sách vừa ra là bán hết ngay, được nhiều cảm tình của độc giả, và nhiều nhà văn bên phái nam đã lên tiếng cho rằng từ trước đến nay chưa một nhà văn nào khai thác đề tài cha ghẻ và con riêng của vợ một cách độc đáo như tôi. Quyển sách này đã làm sống lại tên tuổi của tôi, thật ra thì nó cũng chưa hề mai một và càng ngày độc giả các tỉnh càng yêu cầu có thêm sách tôi trên thị trường. Nhờ vậy mà tôi bán được tất cả 17 bộ sách.



Sách vừa in ra ở Việt Nam là bên Pháp, bên Mỹ cũng đã thấy xuất hiện ngay. Có một thời kỳ sau 1975, những nhà văn nhà báo bỏ quê hương chạy ra nước ngoài, mang theo các tiểu thuyết của tôi (như Việt Định Phương), qua bên ấy họ in nhiều quyển, nhất là quyển Bóng Người Xưa (do Nhà xuất bản Đại Nam bên Mỹ phát hành) mà nào họ có trả cho tôi một đồng xu nào! Vào thời điểm ấy, gia đình tôi cũng như bao gia đình khác sống dưới chế độ cũ lâm vào tình trạng như thế nào các bạn cũng hiểu. Vậy mà cái bọn chạy ra nước ngoài còn lợi dụng tên tuổi sách vở của tôi để bán lấy tiền sống phè phỡn, nghĩ thật là vô lương tâm.



Nhiều người cũng tức giận thay về việc này. Nhưng riêng tôi, tôi nghĩ có lẽ Việt Định Phương lúc còn ở Sài Gòn vốn bất tài, sống được chỉ nhờ chạy chọt, nay chạy ra nước ngoài làm sao mà sống? Vốn liếng học hành không có, tiếng Mỹ không biết, sống nhờ tiền trợ cấp đâu có là bao, cho nên phải kiếm cách sống, in đại các sách mang theo qua bên ấy, bán kiếm tiền. Mình không nên trách mà nên hiểu cho hoàn cảnh của họ. Huống chi có một số người lớn tuổi, qua bên ấy không biết làm gì, không biết đi đâu, ngồi giữ nhà cho con cái, một tiếng Mỹ cũng không biết, làm sao đọc sách đọc báo? Có được những quyển sách bọn này in, họ mừng rỡ, mua đọc để khỏi buồn, khỏi nhớ quê hương. Như vậy, tên tuổi của mình được sống lại bên Mỹ, bên Pháp cũng là chuyện hay, có sao đâu?



Bây giờ tôi kể tiếp các bạn nghe, tôi còn viết một quyển tiểu thuyết nữa với nhân vật sống mà tôi đã gặp trong một lần đi về thăm một quân y viện. Đó là quyển Tình Thương, in trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn năm 1971 và sau năm 1975 khi xuất bản thành sách đã lấy tên Chỉ Một Lần Yêu.



Tháng 11-1960, một bộ phận quân đội miền Nam đứng lên lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm mà lúc đó bị chỉ trích là chánh phủ độc tài, gia đình trị. Vì trong nước chánh biến, sự chết chóc không sao tránh khỏi vì sự xô xát giữa hai bên thân chánh phủ và chống chính phủ. Do vậy mà ở các bệnh viện, nhất là quân y viện, có nhiều thương bệnh binh. Tôi không nói nhiều về những diễn biến chính trị, chuyện này đã có nhiều người viết sử nói đến. Tôi chỉ nêu ra đây một chuyện là nhờ có việc này mà tôi có dịp tiếp xúc với các thương phế binh. Có dịp đi ủy lạo, thấy tận mắt cảnh thịt đổ xương rơi không phải tại chiến trường mà tại các quân y viện.



Số là bà Bút Trà, chị dâu tôi, làm chủ nhiệm báo Sài Gòn Mới. Chuyện lật đổ chính quyền ngụy là tin sốt dẻo, một dịp bán báo chạy, hốt bạc. Có nhiều báo cứ đăng tin và mạ lỵ những kẻ độc tài. Có báo đăng hình ông Ngô Đình Diệm và viết những câu mạt sát. Nhưng cuộc đảo chính này bất thành và chính quyền ngụy đã nắm lại quyền kiểm soát. Các báo lúc bấy giờ mới hốt hoảng, thôi đi tìm đủ cách để chuộc lỗi. Tiêu hủy các báo chưa ra, in lại những số báo ca tụng chính quyền ngụy đàn áp được cuộc đảo chính.



Ôi! Thật là những cảnh bát nháo đáng buồn cười. Các chủ báo như bà Bút Trà, ông Đinh Văn Khai (báo Tiếng Chuông) phải lánh mặt, kẻ khai bệnh đột ngột phải đi nằm bệnh viện, người bảo đi công tác xa, để đàn em tay chân dàn xếp với chánh quyền cho êm thấm, tránh tội. Vì vậy tôi nguyên là cây bút chuyên viết tiểu thuyết và các trang mục phụ nữ, tham gia nhiều công tác xã hội, được các anh em trong nhà tòa soạn, theo lời chỉ dẫn của bà chị dâu tôi, đề cử tôi thay mặt tờ Sài Gòn Mới đi ủy lạo các thương bệnh binh ngụy đã bị tai biến trong những ngày đảo chính hụt này. Và thế là tôi có dịp đi thăm và ủy lạo họ.



Từ bé tôi chưa bao giờ thấy cảnh chết chóc hay cảnh máu đổ, người bị thương. Đây là lần đầu tiên tôi đến một quân y viện và thấy tận mắt cảnh thịt nát xương rơi. Cảnh chiến tranh tàn khốc diễn ra trước mắt tôi một cách kinh hoàng. Và cũng trong một chuyến đi thăm này, tôi gặp một thiếu nữ mang hoa vào thăm một thương phế binh từ mặt trận miền Tây đưa về. Khi phát quà xong ra về, trên xe lam chở khách, tôi lại gặp cô thiếu nữ này. Cùng đi với cô là bà mẹ của thương phế binh. Nét mặt cô buồn bã vô vọng khó tả. Cô có nét đẹp tự nhiên, làn da trắng nuột, dù là người ở tỉnh. Cô không hề nhìn lên, nét mặt suy tư, đăm chiêu trong một thế giới riêng biệt không cần biết quanh mình xảy ra chuyện gì.



Một bà đứng tuổi ngồi gần tôi hỏi người đàn bà đi với cô:



- Cô ấy là con gái của bà?



Bà này lắc đầu.



- Nó là bạn học của con trai tôi. Con trai tôi đi lính thì nó cũng thôi học. Con tôi vừa ra trận đã bị mất một cánh tay, một cái chân.



- Cậu con bà được bao nhiêu tuổi?



- Mới 22 tuổi. Đã đậu trung học, định học nữa thì bị kêu lính.



- Còn cô này chắc ở gần nhà bà?



- Không cháu nó ở Sa Đéc, còn tôi ở Vĩnh Long.



Bà nói đến đây thì xe đến một trạm ở Phú Nhuận, cô gái ngước mắt lên nói với bà:



- Thưa bác, con phải xuống đây để gặp dì con, ngày mai con sẽ đến bác để cùng đi thăm anh Quân một lần nữa rồi về quê.



Cô nói xong xách cái giỏ rồi cúi đầu chào tôi, chào bà nọ, đoạn xuống xe. Khi cô này đi rồi và xe bắt đầu chạy thì bà nói với tôi bằng một giọng rất cảm động:



- Tội nghiệp con nhỏ. Nó đang học lớp 11, lại bỏ ngang vì chuyện thằng con tôi bị thương ngoài mặt trận. Nó phải lặn lội khắp nơi mới biết được tin thằng con tôi và chính nó cho tôi hay và kéo tôi đi thăm. Trong cảnh này thiệt tôi không biết nói gì. Hồi đó ba má nó không bằng lòng cho nó thư từ qua lại với con trai tôi, ông bà nói đi lính dễ chết lắm, có khôn thì dang ra sớm chớ không thì góa phụ mất con ơi! Hai bên gia đình tương đối dư ăn, thằng con tôi thương nó lắm. Chúng tôi không ngăn cản nhưng thấy thái độ không vui của cha mẹ nó, tôi không thích. Bây giờ câu chuyện xảy ra như vậy, tôi không dám tiến tới nữa. Thằng con tôi thấy mình ra nông nỗi ấy cũng khuyên cô ta đừng thăm viếng thường, trở về học tập, chớ chẳng lẽ đi yêu một phế binh như nó?



Ai trên xe nghe kể cũng thở dài. Bà liền nói:



- Vậy mà con nhỏ thật có tình có nghĩa, nó bỏ học, xin cha mẹ lên Sài Gòn để dễ bề đi thăm nuôi. Nó nói: Nó đã hứa làm vợ thằng con tôi là nó giữ lời.



Bà kể đến đây thì xe cũng đã ngừng ở ngã tư Phú Nhuận, tôi vội xuống xe và lòng không khỏi phân vân về chuyện bà nọ vừa kể.



Trong thời buổi chiến tranh, đất nước nào cũng có những chuyện tình cao thượng đáng quí như vậy. Như cô gái mà tôi gặp ở trên chưa phải là vợ chánh thức của anh thương binh kia, nhưng vẫn giữ một lời thề sống bên nhau khi chàng trai gặp chuyện tai biến. Mặc dù cha mẹ phản đối, mặc dù chàng trai khuyên lơn hãy quên chàng ta đi, cô này vẫn lặn lội đi nuôi. Rồi sau đó theo lời một người quen kể lại tôi nghe, cô dọn hẳn lên ở Sài Gòn đi học may, để tính chuyện lâu dài với anh chàng thương binh xấu số mà lại may mắn. Mỗi khi người ta đưa anh chàng này đi đâu đó là cô cũng dời chỗ ở đi theo và tìm nơi cư ngụ gần đó. Suốt mấy năm trời như vậy, cha mẹ cô tìm bắt cô về để gả chồng cô cũng không chịu. Đến khi anh chàng thương binh đã chữa lành các vết thương, được một cơ quan từ thiện nước ngoài làm cho bộ chân tay giả và đưa về Bình Dương học nghề làm sơn mài, vẽ tranh, thì cô liền dọn lên Bình Dương và mở một tiệm may gần đó. Trước mối tình chung thủy của cô, cha mẹ hai bên đành phải đứng ra làm lễ cưới và rồi họ sống bên nhau có được hai con, một trai một gái.



Tình yêu không phải chỉ tìm đến những nơi giàu có sang trọng, thanh lịch, yêu kiều, mà nó xuất phát từ con tim và như thế tình yêu mới có cái giá trị cao quí của nó. Khi quả địa cầu này còn có bóng người và dù là dân châu Âu da trắng hay dân châu Á da vàng, châu Phi da đen, châu Mỹ da đỏ, thì tình yêu cũng là bửu bối quí báu để loài người sát lại với nhau, tạo cho đời những con người cao thượng giữa xã hội vật chất phù phiếm.




2. NHỮNG KỶ NIỆM VỚI LÀNG BÁO SÀI GÒN 



Lúc đầu khi viết tiểu thuyết tôi cứ nghĩ là để nuôi con, không ngờ khi cắm cúi viết hằng ngày, có nhiều chuyện xảy ra khiến tôi phải nghĩ là mình có quyền sinh sát đối với những nhân vật tiểu thuyết của mình.



Có lần tôi đang viết một câu chuyện dài, có chiều hướng không cho hai nhân vật yêu nhau đi đến hôn nhân, thì một buổi sáng vừa để cái cặp lên bàn, toan ngồi lại làm việc thì bà Bút Trá – chị dâu của tôi mà cũng là chủ nhiệm của báo Sàigòn Mới lúc bấy giờ – cho người mời tôi vào và nói:



- Thím không định cho Yến và Thanh kết hôn sao?



Thấy tôi cười mà không trả lời thì chị tôi nói:



- Thím nên cho tụi nó kết hôn với nhau, như thế mới hợp tình hợp lý và mới đúng với cái tên tiểu thuyết mà thím đặt Gương Vỡ Lại Lành.



Nhưng chuyện tôi đang viết lại là một chuyện thật – đó là chuyện gia đình của một cô bạn cùng học ở Gia Long nhưng là bạn về vai chị. Khi viết nửa chừng tôi bỗng có ý nghĩ không để cho họ “làm lành”, và để trừng phạt người đàn ông phụ bạc, tôi không cho họ gặp nhau lại. Vì thế sau này in thành sách, tôi đã đổi tên từ Gương Vỡ Lại Lành thành Còn Vương Tơ Lòng.



Viết tiểu thuyết là một nghề mà như một nhà văn Pháp tự hào:



Muốn cho ai chết là chết.
Muốn cho ai sống là sống.



Lại một lần nữa, một bạn đồng nghiệp cùng dạy ở trường Tân Thịnh cũng là độc giả trung thành theo dõi tất cả những tiểu thuyết của tôi trên các báo, gặp tôi ở văn phòng giáo sư đột nhiên hỏi: “Chị định cho kỹ sư Kiệt chết hay sao?”.



Tôi giật mình, bỡ ngỡ không biết kỹ sư Kiệt nào. Nhưng sau đó kịp nhớ ra thì ra ông bạn nầy nói đến một nhân vật trong tiểu thuyết Bóng Người Xưa mà tôi đang viết. Tôi bật cười hỏi lại: “Anh mà cũng đọc tiểu thuyết của tôi sao? Anh có biết một nhóm nhà văn nghĩ mình là đàn anh nên nói rằng tôi viết văn chỉ như người kể chuyện?”.



Lúc bấy giờ có anh Chỉnh, một giáo sư đậu cử nhân văn khoa vừa ở Pháp về cùng dạy ở trường, Chỉnh còn trẻ và ít tham gia vào câu chuyện của các giáo sư cùng ngồi chờ vào lớp. Nhưng lúc đó anh chợt nói:



- Bộ kể chuyện là không có tài sao? Kể chuyện mà không ai nghe thì sao?



Tôi nói:



- Họ còn nói tôi nghe lỏm những câu chuyện của các nhà văn Pháp rồi viết lại, chứ thậm chí không biết đọc chữ Pháp đó anh.



Các anh ấy cười xòa:



- Thì ra họ ganh tị với chị. Chứ chị dạy môn gì ở đây nào?



Sau này có lần một bà bạn rủ tôi đi nghe một buổi diễn thuyết về đề tài: “nhà văn cũng là một sứ giả gửi một thông điệp đến độc giả”. Diễn đàn là linh mục Thanh Lãng, Hội Văn bút tổ chức. Lúc ấy Phạm Việt Tuyền làm Chủ tịch. Thính giả toàn là hội viên của hội Văn bút cùng một nhóm sinh viên học sinh của các ông Thanh Lãng, Việt Tuyền, và một số nhà văn, nhà báo.



Khi ngồi vào chỗ, chị bạn của tôi, chị Nghệ, một nữ trí thức từng làm chính trị vừa ở Pháp về, nói với tôi:



- Mình không ngờ được dự một buổi nói chuyện lý thú, xem thử họ nói cái gì.



Trong bài diễn thuyết của mình, Thanh Lãng đã đi đến một kết luận đề cao vai trò của nhà văn: Một nhà văn là một sứ giả gởi một thông điệp đến cho độc giả khắp nơi. Vì thế vai trò của nhà văn là một sứ mạng cao quí. Quanh vấn đề này, nhiều người được mời lên phát biểu ý kiến. Toàn là những ông có cấp bằng cao, viết những quyển sách triết học hay những tác phẩm bình luận khó hiểu. Rồi bỗng trong đám thính giả ngồi ở hàng ghế sau cùng, một sinh viên ở một phân khoa nào đó nói giọng Bắc xin lên phát biểu ý kiến. Cậu ta khen những sách lý luận cao siêu và chê các nhà văn tiểu thuyết ở Sàigòn lúc bấy giờ, và nêu tên Dương Hà, Trọng Nguyên và… bà Tùng Long. Thật bất ngờ! Cậu ta bảo tôi không biết một chữ Pháp nào và chỉ nghe người ta kể các chuyện tiểu thuyết Tây rồi viết lại. Viết như vậy thì tại sao lại có báo chịu mua đăng, có độc giả chịu khó đọc?



Chắc khi nói cậu ta không ngờ trong đám thính giả lại có bà Tùng Long. Trong số người có mặt, còn có Nguyễn Hữu Ngư, nhà văn cộng tác với báo Bách Khoa (ký hiệu Nguyễn Ngu Í) và cũng là đồng nghiệp cùng dạy trường Tân Thịnh với tôi. Nguyễn Hữu Ngư dạy sử địa, còn tôi thì dạy Việt văn và Pháp văn. Cũng có cả Trần Dạ Từ, chồng của Nhã Ca, đang là phóng viên Đài phát thanh Việt Nam lúc bấy giờ, ngồi ở hàng ghế đầu và đang thu thanh buổi diễn thuyết cho đài. Cậu sinh viên này vừa nói xong thì ông Nghiêm Xuân Việt, một luật gia và cũng là một giáo sư trường Đại học Luật khoa, liền đứng ra trả lời vì ông có tên trong Hội Văn bút và cũng là nhóm tổ chức cuộc diễn thuyết ngày hôm ấy. Ông Việt cao giọng tán thành ý kiến của sinh viên nọ là nên đọc những sách thuộc loại nghiên cứu, sách có giá trị văn chương do những nhóm gọi là uyên bác cao thâm sáng tác, bởi họ mới thật là những sứ giả gởi đi các thông điệp cho quốc dân đồng bào. Còn loại sách nhảm nhí như sách của các tác giả mà cậu sinh viên nọ vừa nói xong thì có quyền đừng đọc đến. Ông Việt vừa nói xong thì Nguyễn Hữu Ngư và Trần Dạ Từ đều quay xuống nói với tôi (khi tôi vào giảng đường trường Quốc Gia Âm Nhạc họ có thấy và có chào): “Chị cứ để đó, tụi nầy sẽ lên trả lời cho chị”.



Nhưng tôi đã đứng lên và lên chỗ bàn thư ký để xin ghi tên phát biểu. Lúc ấy Minh Đức Hoài Trinh ngồi ghi. Minh Đức nhìn tôi cười, còn chị Nghệ thì nói:



- Chị không soạn bài mà dám phát biểu ngay à? Tôi thì không có tài ấy đâu.



Tôi cười và chờ đến phiên mình lên phát biểu. Không chờ đợi, tôi được mời lên ngay, vì ai chớ Phạm Việt Tuyền hay Minh Đức Hoài Trinh thì có lạ gì tôi. Phạm Việt Tuyền cùng dạy ở trường Tân Thịnh với tôi, và khi Phạm Việt Tuyền làm tờ Tự Do thì chính anh đã mời tôi giúp cho một tiểu thuyết và tôi đã viết chuyện Gió Ngàn Phương (đã xuất bản trước 1975).



Tôi còn nhớ rõ hôm ấy tôi mặc bộ áo dài trắng (tôi luôn mặc áo dài trắng khi đi dạy, khi đến các tòa soạn báo hay đi dự lễ hội, dự hội nghị), và sự hiện diện của tôi trước micro đã gây cho hội trường một sự ngạc nhiên, nhất là khi Phạm Việt Tuyền trịnh trọng giới thiệu tôi là một cây bút có nhiều tác phẩm cộng tác với nhiều tờ báo hằng ngày và làm thư ký tòa soạn cho tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, cộng tác với báo Văn Nghệ Tiền Phong và còn là giáo sư dạy ở các trường tư thục. Hội trường bỗng im bặt và chờ tôi phát biểu. Đầu tiên tôi cảm ơn ban tổ chức cho phép tôi có cơ hội lên để nói vài ý nghĩ thô thiển, và tôi thành thật cám ơn cậu sinh viên vừa phát biểu đã nói đến tôi. Trong đời tôi, chê tôi cũng quí như khen vì giúp tôi có kinh nghiệm tốt hơn khi sử dụng ngòi bút. Xong tôi đi ngay vào đề tài của Thanh Lãng, một nhà văn là một sứ giả gởi thông điệp đến mọi người. Nhưng sứ điệp ấy phải như thế nào để mọi người dù tầng lớp nào cũng có thể đọc hiểu được thì mới có thể tiếp nhận. Chứ những quyển sách viết quá cao, đầy triết lý sâu xa thì đâu phải ai cũng có thể tiếp nhận một cách vui vẻ và nồng nhiệt. Tôi nói tiếp: “Tôi không có khả năng để viết những loại sách cao siêu, cao thật cao ấy (và tôi giơ tay lên ra dấu khỏi đầu) nhưng tại sao tôi lại chấp nhận số phận của người cầm bút? Tôi có đọc một đoạn văn trên một tờ báo Pháp thấy có một nhà văn nam nào đó tuyên bố rằng: “Nếu tôi có một ngai vàng thì tôi sẵn sàng đổi nó để tìm hiểu tâm lý phụ nữ”. Như thế thì tôi, một phụ nữ, tại sao không viết để nói lên tâm lý của phụ nữ? Vì tôi đã trải qua thời kỳ niên thiếu dưới mái ấm gia đình của cha mẹ, bên các em thân yêu, tôi đã từng là một thiếu nữ, tôi hiểu những ước muốn, những buồn vui của giới thiếu nữ, của tuổi mới lớn. Tôi đã từng là một người vợ, một người mẹ. Tôi hiểu tâm sự của người vợ khi gặp cảnh ngộ ngang trái, khi sống trong hạnh phúc, khi nuôi dạy các con, và hiểu những đòi hỏi của các con mình. Tôi lại còn là một cô giáo từng đứng trên bục giảng và tìm hiểu những đôi mắt thơ ngây, vô tư của lũ học trò đang muốn gì, ao ước được những gì. Vì những ước mong thế đó mà tôi mạnh dạn cầm bút. Nói rằng tôi không biết một tiếng Pháp nào, chỉ nghe người ta kể chuyện trong các quyển tiểu thuyết Pháp rồi viết lại, thì nếu được như vậy kể ra tôi cũng có chút tài cỏn con nào đó, vì tôi kể chuyện như vậy mà vẫn có người đọc, người nghe, nhà báo chấp nhận mời viết thì thật là chuyện lạ trên đời phải không các bạn? Về chuyện tôi có đọc được sách Pháp hay không, lúc nãy qua lời giới thiệu của anh Phạm Việt Tuyền chắc các bạn cũng hiểu là lời chỉ trích kia có đúng hay không, tôi không cần đính chính. Nhưng tôi không dám tự phụ mà nói lên rằng thông điệp của tôi gửi cho phụ nữ, cho các bà mẹ, cho các học sinh chắc chắn là được đón nhận. Nrếu không vậy làm sao tôi viết, làm sao có người thuê tôi viết? Nói lên cái tâm lý của phụ nữ vì mình là một phụ nữ, tôi đã mạnh dạn nhận lấy vai trò của tôi, một phụ nữ”.



Chỉ có năm phút để phát biểu nên tôi kết luận:



- Qua số thư từ tôi nhận được hằng ngày trong đó phần đông là thư của bạn gái, kế tiếp là thư của độc giả nam, của học sinh sinh viên, tôi chỉ lấy làm lạ là tại sao ông Nghiêm Xuân Việt lại có thể nói rằng những cuốn sách viết dở của các nhà văn như bà Tùng Long, Dương Hà, Trọng Nguyên thì vứt đi đừng đọc là xong. Riêng tôi, gặp một quyển sách ở tầm tay, đọc qua nếu là dở tôi vẫn cố gắng đọc cho hết để thấy nó dở chỗ nào. Một nhà văn ở châu Âu đã viết: “Trong một quyển sách dở vẫn có thể tìm thấy một câu hay hoặc một ý kiến khá”.



Tôi cảm ơn thính giả, ban tổ chức và đi xuống trong tiếng hoan hô vỗ tay của cả thính đường. Khi đi ngang qua hàng ghế của Nguyễn Hữu Ngư và Trần Dạ Từ, cả hai đứng lên nói: “Hoan hô chị Tùng Long!”.



Tôi ngừng lại và nói: “Cảm ơn các anh đòi trả lời cho tôi, nhưng mà chuyện của tôi để tôi nói là phải”.



Sau đó Phạm Việt Tuyền lên nói tiếp lời tôi và kết luận: “Không phải ai gửi thông điệp cũng có người nhận. Ngay Đức giáo hoàng gửi thông điệp cho toàn giáo dân trên thế giới mà vẫn còn có người không chịu tiếp nhận nữa thì sao?”.



Buổi nói chuyện kết thúc lúc 7 giờ tối. Chị Nghệ và tôi ra đường đứng đón taxi về nhà thì ông Nghiêm Xuân Việt chạy theo mời để ông được lấy xe đưa chúng tôi về nhà.



Chị Nghệ vốn có quen với ông Việt liền nhận lời ngay, và tôi xin đỗ xuống đầu hẻm Chu Mạnh Trinh để ông Việt còn đưa chị Nghệ về đường Ngô Tùng Châu (nay là đường Nguyễn Văn Đậu ở Bình Thạnh). 



Tôi ít có thì giờ để theo dõi chương trình phát thanh của đài, nhưng sau đó anh Quốc Phong, chủ nhiệm báo Tiếng Vang mà tôi cộng tác, gọi điện thoại cho tôi và nói:



- Đêm qua cháu gái ở nhà nghe đài đến đoạn nói về buổi diễn thuyết của Thanh Lãng có nêu lời phát biểu của chị, nó gọi tôi đến nghe và tôi thật vui mừng thấy chị đã trả lời thật hay và xác đáng.



Tôi cũng cảm thấy vui vui là mình đã có dịp nói lên mục đích viết văn của mình. Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi. Ngay khi được báo Saigon Time (Thời báo Sài Gòn) phỏng vấn, tôi cũng đã nói tôi viết văn là để nuôi con. Khi nào các con tôi trưởng thành, đứa lớn lo được cho đứa nhỏ thì tôi sẽ nghỉ viết.



Nhưng việc ấy rồi cũng qua đi trong ngay tuần lễ sau đó vì tôi quá bận rộn với công việc dạy học, viết báo. Nào ngờ sau đó vài tuần, vào một buổi tối, ông Nghiêm Xuân Việt đã tìm đến nhà tôi và đưa cho tôi xem số Bách Khoa mới ra, trong ấy có bài chính ông ta viết để xin lỗi về những lời của ông phát biểu trong cuộc diễn thuyết, vô tình đã nói những lời xúc phạm đến tôi. Sau đó tôi mới biết chính ông ta là giáo sư giảng dạy cho con trai tôi Nguyễn Đức Lập đang học năm thứ ba ở Đại học Luật khoa – nhưng việc này ông ta không biết và tôi cũng không cần nói làm gì, vì sau lần gặp gỡ nầy tôi không còn lần nào khác có dịp gặp ông ta. Nguyễn Hữu Từ làm ở tòa soạn báo Bách Khoa sau đó gặp tôi, tôi có hỏi bộ anh chỉû nhà cho ông Việt hay sao mà ông ta biết vậy? Nguyễn Hữu Ngư cười hì hì và nói: “Chị ở cư xá Chu Mạnh Trinh ai mà không biết, chị không đọc bài báo của Duyên Anh sao? Duyên Anh nói anh ta ở cư xá Chu Mạnh Trinh, cái rốn của vũ trụ”.



Tôi hỏi:



- Tại sao lại là cái rốn của vũ trụ?



- Là vì ở cái cư xá này có lắm nhân tài.



- Ai là nhân tài vậy?



Nguyễn Hữu Ngư chỉ tôi và nói: “Duyên Anh kể Phạm Duy bên lô E cùng với Hồ Anh chủ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong. Lô C thì có Năm Châu cùng vợ là Kim Cúc. Lô B có Nguyễn Mạnh Côn, lô F có bà Tùng Long và chồng là thi sĩ Hồng Tiêu, Phan Quang Đán, Hoàng Nguyên, lô G thì có Hoàng Thi Thơ, Văn Quang. Như vậy không phải là cái rốn của vũ trụ là gì? Nơi đây hằng ngày tụ tập nào Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, các nhà văn, nhà báo, và các nghệ sĩ sân khấu, các nhạc sĩ…



Tôi nhún vai nói:



- Hân hạnh, hân hạnh. Nhưng nói lớn lối như vậy, chỉ tổ cho thiên hạ ghét.



Nguyễn Hữu Ngư là bạn về vai em của tôi. Tôi thường gọilà Ngư là chú, chú em, nhưng sau này các con tôi có đứa gọi Ngư là anh, vì Ngư cưới Thoại Dung, một cô bạn của cô gái lớn của tôi.



Làng báo lúc bấy giờ có những người thích châm chọc, có dịp là họ viết trêu ghẹo trên các số báo Xuân hay trong mục Chuyện hằng ngày khi thiếu đề tài.



Như trong một tờ báo Xuân, anh Đỉnh cùng làm việc ở trường Tân Thịnh với tôi (anh ở ban giám thị, sau viết cho Văn Nghệ Tiền Phong lấy bút hiệu là Tử Vi Lang) đã viết:



Năm nay mưa thuận gió hòa, ông Đinh Văn Khai viết sách, bà Bút Trà làm thơ…



Ý Tử Vi Lang ngạo Đinh Văn Khai, chủ nhiệm báo Tiếng Chuông, vì ông nầy mới ra một quyển sách ký tên mình mà sách ấy lại do người khác viết.



Còn bà Bút Trà, trên báo Sàigòn Mới do bà làm chủ nhiệm năm nào cũng có một bài thơ mừng Xuân đăng ở trang đầu tờ báo Xuân Sàigòn Mới ký tên bà, nhưng lại do ông Bút Trà, chồng bà, một nhà thơ nổi tiếng, viết.



Ngoài Tử Vi Lang còn có Chu Tử, Nguyễn Duy Hinh có dịp là châm biếm dân trong làng báo, cũng như chồng tôi là Hồng Tiêu vớt bút hiệu Như Hoa ở mục Tranh Xã Hội trên mặt báo Sàigòn Mới.



Lẽ dĩ nhiên Tử Vi Lang không bao giờ viết châm biếm tôi vì quá hiểu tôi và là đồng nghiệp ở hai lãnh vực viết báo và dạy học. Trái lại, còn rất nể tôi và khi cưới vợ, có đưa vợ đến thăm tôi. Thỉnh thoảng Lang ghé thăm Hồ Anh bên lô E cũng tạt qua thăm tôi ở lô F. Vả lại sau nầy, Trịnh Viết Thành, tổng thư ký báo Tiếng Vang, cũng dọn về ở lô F, góp thêm một thành viên cho “cái rốn vũ trụ”.



Nguyễn Duy Hinh trong làng báo có tiếng là tay phá làng phá xóm, ai anh ta cũng dám viết bài kêu đích danh mà chê bai nêu không vừa ý việc làm của họ.



Thế mà hai lần Nguyễn Duy Hinh đề cập đến tôi bị tôi lên tiếng là chấm dứt ngay. Lần đầu không biết có phải là do Tế Xuyên nói về gia đình tôi – Vì có lần Tế Xuyên thất nghiệp, anh Hồng Tiêu của tôi đem về nhà giúp đỡ, còn giới thiệu cho ông Nguyễn Văn Sâm để viết tờ báo Đuốc Nhà Nam. Hinh viết là anh Hồng Tiêu không có lương tâm, cưới tôi rồi giao cả bầy con cho tôi nuôi nấng, tôi phải viết bài bù đầu bù cổ trong khi nhà tôi nghêu ngao làm thơ và tụ tập bạn bè chuyện nhảm suốt ngày không làm gì để phụ giúp tôi. Thật ra có ai hiểu được chuyện gia đình tôi, đèn nhà ai nấy sáng mà! Anh Hồng Tiêu không hợp tác với Pháp rồi với Nhật, và sau này với Mỹ. Anh mà cầm lấy cây bút là viết bài chửi lung tung khiến báo bị đóng cửa, riết rồi các ông chủ nhiệm không dám mướn dù họ biết nhà tôi có tài. Đọc thấy những lời của Hinh viết trên báo, tôi liền gọi điện thoại cho Hinh và chỉ nói một câu:



- Anh Hinh, anh lại định nói bậy bạ gì vậy? Đừng nhé, đừng có nghe lời của Tế Xuyên!



Hinh ú ớ qua điện thoại:



- Tôi viết có lợi cho chị.



- Không, cảm ơn!



Thế là bài báo ấy lý ra kéo dài cả bốn kỳ thì chấm dứt nửa chừng.



Một lần nữa, sau khi chính phủ ông Diệm bị đổ do nhóm quân nhân đảo chánh, quốc hội bị giải tán, Nguyễn Duy Hinh cũng có viết một bài báo nói về cái ghế ba chân của quốc hội, mà khóa III quốc hội lại quy tụ được 25 phụ nữ do bà Ngô Đình Nhu mời tham gia, trong ấy có tôi (tôi ứng cử ở Quảng Ngãi, quê chồng tôi). Tôi mong khi đắc cử sẽ làm một việc gì đó có ích cho tỉnh nhà, nơi mà tôi đã sống những năm 1944 đến 1952, đã có được một số học trò. Nhưng vừa đắc cử được một tháng thì chế độ Ngô Đình bị lật đổ, tôi lại trở về làm báo, dạy học như cũ.



Vừa đọc bài của Hinh, tôi liền gọi điện thoại cho Hinh và khuyên Hinh nên chấm dứt bài phóng sự ấy vì công kích làm chi, bươi móc làm gì những phụ nữ bị ép buộc phải ra quốc hội kỳ ấy? Và tôi có nói với Hinh để tôi viết một bài phóng sự khác trên báo Sàigòn Mới để trần tình…



Hinh nghe lời tôi không viết nữa và tôi cũng biết đây là một thiệt thòi lớn cho Hinh. Vì không viết thì không có tiền, mà Hinh thì rất cần tiền, lúc nào cũng cần vì ăn xài lớn quen rồi.



Sau đó tôi có viết bài phóng sự như tôi đã hứa với Hinh, nhưng vừa viết được hai kỳ, hai kỳ này tôi mới nói về trường hợp của tôi và chị Nguyễn Phước Đại, thì các bà cùng ra khóa III và là phu nhân của các nhân vật thân cận với chế độ Ngô Đình liền chạy tới năn nỉ chị Bút Trà bà đòi gặp tôi để xin tôi đừng viết tiếp nữa.



Còn Chu Tử, anh ta trong những bài “phim hằng ngày” thỉnh thoảng cũng có nhắc đến tôi với giọng hài hước như đã hài hước với bà Châu Phố khóc chồng ở Đà Lạt. Thuở ấy người ta thường nói về Đông Hồ khóc vợ ở Hà Tiên, còn Châu Phố thì khóc chồng ở Đà Lạt. Chu Tử khoe khoang là bà Châu Phố sẽ xuống Sài Gòn hợp tác với Chu Tử để Sống, Yêu và Loạn. Sống, Yêu và Loạn là ba quyển tiểu thuyết mà Chu Tử đã viết trên báo Sống và đã xuất bản, thuộc về loại sách bán chạy được người đọc trẻ lúc ấy hưởng ứng nhiệt liệt.



Tôi cũng gọi điện thoại cho Chu Tử – Tôi và Chu Tử không quen, chỉ gặp nhau vài ba lần trong các cuộc họp báo ở Bộ Thông Tin, không ai nói với ai lời nào, chỉ gật đầu chào thôi.



Tôi nói: - Anh Chu Tử ơi! Anh lại bày trò gì nữa đây? Xin anh cho tôi hai chữ bình an. Tôi viết văn là để nuôi con thôi, không có cái mộng văn sĩ, văn siếc gì đâu.



- Vâng, vâng, chị đã dạy thì xin nghe – Bên kia đầu dây, Chu Tử đã nói như vậy. Chu Tử tuy viết văn đôi khi có giọng thô lỗ, hỗn xược, nhưng bề ngoài phong độ rất nho nhã và lịch sự.



Sau đó có lần Chu Tử đến nhà nhạc sĩ Hoàng Nguyên, cùng ở lô F với tôi, chỉ đối diện cách hai ba nhà, nhờ vợ Hoàng Nguyên, một cây bút ngiệp dư cộng tác với Sống của Chu Tử, đưa qua thăm tôi. Ngoài mục đích thăm viếng, Chu Tử còn nhờ tôi giữ cho tờ báo Sống hai mục như ở báo Tiếng Vang và Sàigòn Mới, là một truyện dài mà mục Tâm Tình Cởi Mở. Chu Tử có bao giờ hạ mình mời tôi như thế vì anh ta tự hào về tờ báo Sống của anh qui tụ toàn những cây bút viết hay, có học thức cao. Tôi nói với anh được mời như thế nầy tôi rất cảm động và lấy làm hân hạnh, nhưng tôi hỏi lại anh:



- Anh thử nghĩ xem tôi còn thì giờ đâu để mà viết cho Sống nữa chớ? Tiếng Vang rồi Sàigòn Mới, rồi hai tờ báo tuần Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Đàn (làm thư ký tòa soạn), Phụ Nữ Ngày Mai với một truyện dài và một truyện ngắn hằng tuần.



Chu Tử thêm:



- Ngoài ra chị còn đi dạy học nữa phải không? Và còn làm cho nhiều hội như Hội Phụ nữ, Bảo vệ Luân lý và các hội phụ huynh có các con chị học.



Tôi nói:



- Đúng thế. Nhưng anh cũng nên hiểu cho, không viết được cho anh, tôi rất tiếc.



Trong thâm tâm tôi, lúc ấy tôi nghĩ và mỉm cười với mình. – Viết cho cái ông trời này, nay mai ổng lại quảng cáo rùm beng bà Tùng Long đã về với báo Sống, để Sống – Yêu và Loạn như ông đã viết về bà Châu Phố, thì có nước bị ông chồng cả ghen của tôi làm tội làm tình cho mà chết.



Nói cho đúng, trong làng báo từ khi tôi vào nghề đến năm 1972 tôi nghỉ viết, anh chị em văn nghệ sĩ đều đối xử với tôi rất tốt, xem tôi như một người chị, vì thật ra ai cần gì thì tôi đều giúp trong khả năng. Tôi sẵn sàng giúp cho một tờ báo mới ra đời một truyện ngắn không cần tiền nhuận bút, hoặc giới thiệu cho một số em út vào làm ở các tờ báo mà tôi hợp tác. Thành ra lúc bấy giờ Nguyễn Ang Ca, Thanh Phong, Hoài Trinh của báo Phụ Nữ Diễn Đàn với bút hiệu chị Ba Sún Răng, Nguyễn Duy Hinh, Tế Xuyên, Hoài Thanh, Huỳnh Thanh Vị… đều xem tôi như một người chị. Anh em trong làng báo đối với tôi thật tử tế.



Có thể nói thời kỳ thành công và phồn thịnh nhất của tôi bắt đầu từ năm 1957 đến năm 1963. Năm 1963, vào khoảng tháng 11 vì có cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, trong làng báo cũng phải chịu một sự thay đổi và khủng hoảng, nên tôi cũng gặp phần khó khăn, nhưng sau đó lấy lại uy tín cũng rất nhanh chóng. Và rồi từ 1964 đến năm 1972, tôi vẫn viết đều đều ra một loạt sách nữa, sau đó mới nghỉ hẳn.



Năm 1963, vì công việc ở nhà báo thu hút quá nhiều thì giờ lại thêm công việc ở các đoàn thể cũng rất bận rộn, nên tôi phải nghỉ dạy, đó là một điều mà tôi rất tiếc. Sức khỏe kém, theo lời bác sĩ Pháp Boucheron đang điều trị cho tôi thì một lá phổi bị nám không thể dạy, vì vậy tôi phải lên Đà Lạt nghỉ một thời gian, và chữa trị xong chỉ còn viết và viết.



Trong thời kỳ phồn thịnh nhất của tôi, có nhiều sự việc đáng ghi lại. Việc thứ nhất là Nhất Linh đã viết về tôi: “Bà Tùng Long là cây bút ăn khách hiện nay”.



Đối với Nhất Linh, lúc nào tôi cũng xem như một bậc đàn anh. Mà thật thế. Khi nhóm Tự Lực Văn Đoàn cùng với báo Ngày Nay, Phong Hóa ra đời thì tôi còn học ở Gia Long và là độc giả trung thành của nhóm nầy cũng như của báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Tôi đọc tất cả Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thanh Châu, Lê Văn Trương… Sau này khi nhóm Tự Lực Văn Đoàn chạy vào miền Nam thì những cây bút nầy không còn mạnh, và độc giả miền Nam không hâm mộ như lúc trước nữa. Một phần cũng tại nhóm nầy phần đông là Việt Nam Quốc dân Đảng, hay Đại Việt, mà đất này thì họ khó có chỗ dung thân vì lý do chính trị.



Lúc bấy giờ khi sách được xuất bản, các tác giả thường gửi tặng tôi với những lời ưu ái. Như nhà thơ Thanh Tâm Tuyến với tập thơ đầu tay, sách đóng thật đẹp, đã viết: “Kính tặng chị Tùng Long, một cây bút đang làm mưa làm gió trên văn đàn miền Nam”.



Ôi! Thật là hãnh diện cho tôikhi chính tôi lúc bước vào con đường văn nghiệp đâu dám nghĩ mình là một văn sĩ mà chỉ mong sao đóng góp một phần nào đó xây dựng cho nữ giới và nuôi chín đứa con để chúng trở thành những công dân tốt.



Rồi Ban tổ chức cuộc thi văn chương toàn quốc (miền Nam Việt Nam) lần thứ hai vào năm 1961 hay 1962 mời tôi tham dự trong ban chấm thi. Ban giám khảo năm ấy có anh Đông Hồ, anh Phú Đức, và nhiều người khác nữa mà tôi không nhớ.



Trước đó, khi nghe đến cuộc thi văn chương toàn quốc, tôi có gửi dự thi hai tác phẩm, đó là quyển Bóng Người Xưa và quyển Nhị Lan. Nhưng khi kẹt vào Ban giám khảo, tôi liền rút sách lại không dự thi nữa. Cử chỉ nầy của tôi được Ban giám khảo ca ngợi, vì lẽ có nhiều người trong Ban giám khảo mà vẫn có sách dự thi và lại được chấm lãnh giải như ở kỳ đầu.



Năm tôi làm giám khảo, có tác phẩm của Nguyễn Vỹ dự thi, có sách của một người nào đó trong nhóm Văn Bút, mà khi phát giải, chị Nguyễn Thị Vinh lên lãnh thế vì người ấy đang ở Pháp.



Nhờ có tên trong ban giám khảo cuộc thi văn chương toàn quốc năm ấy mà tôi có thêm uy tín với làng văn làng bút và độc giả thân yêu của tôi. Tuy vậy tôi không hề lấy chuyện nầy làm hãnh diện, tôi cũng biết sức học của mình đâu bằng ai mà đi chấm môn tiểu thuyết. Có những nhà văn tên tuổi ra đời trước tôi như Nguyễn Vỹ gửi tác phẩm dự thi. Tuy vậy, dù tài sức không bằng ai nhưng đọc một tác phẩm và biết nó hay dở, chắc chắn là tôi làm được.



Sau buổi phát thưởng ở dinh Độc Lập, tôi được ông Nguyễn Đăng Thục tìm đến làm quen do nhà văn và nhà giáo Phạm Việt Tuyền giới thiệu. Ông Thục mời tôi vào hội nghiên cứu của ông, giao tôi phần nghiên cứu tiểu thuyết. Tôi trình bày với ông là tôi bận lắm. Như ông biết, rồi phụ trách nhiều tờ báo hằng ngày và hằng tuần, rồi còn có chân trong nhiều đoàn thể, hội phụ huynh, chắc tôi không đảm đang nổi. Đã vậy là một người phụ nữ, tôi còn nhiệm vụ đối với gia đình.



Ông Thục có lẽ cũng hiểu cho tôi như vậy, nên sau mấy lần hội họp tôi không đến dự được, ông cũng thông cảm cho tôi.



Rồi nhân trong một cuộc họp do Bộ thông tin tổ chức, lúc ấy bác sĩ Thọ làm giám đốc, bà Bút Trà có một bài thơ mừng sự nhận chức của bác sĩ, nhưng bà lại không dám đọc vì bà nghĩ rằng ai cũng biết bài thơ ấy là của ông Bút Trà làm cho. Bà giỏi về quản lý và điều khiển tờ báo, chớ làm thơ viết văn thì còn ai không biết bà học lực ra sao mà thơ thẩn gì! Bà liền nhờ tôi đọc giùm. Trong một buổi tiệc như vậy, có đông đảo mọi người, tôi làm sao từ chối được, vả lại bà là chị dâu mà cũng là chủ nhiệm của tôi. Thế là tôi đứng lên và trước khi đọc tôi tuyên bố rõ ràng là của chị tôi. Khi tôi đọc xong, tiếng vỗ tay không ngớt, có lẽ họ nghĩ do tôi viết, còn bác sĩ Thọ thì rất vui vì những lời ca ngợi ấy. Sau đó bác sĩ Thọ đã đứng lên bỏ chỗ ghế chủ tọa của mình để xuống ngồi ở bàn của các nhà văn nhà báo. Bác sĩ ngồi gần bên tôi và hỏi thăm tôi về công việc viết lách và đời sống ra sao. Việc nầy khiến cho nhiều người càng nể tôi, và bà Bút Trà cũng phải thay đổi cách đối xử với tôi sau này.



Nhân chuyện nầy mà một phóng viên của báo Times ở Sài Gòn là Trần Quân có đến ngỏ ý với tôi muốn viết một bài phóng sự về cuộc đời viết văn của tôi và xin phép tôi cho Trần Quân đến nhà vào một ngày do tôi định. Thế là bài phỏng vấn ấy xuất hiện trên một kỳ báo Times. Với những câu trả lời của tôi, nay ngồi nhớ lại tôi vẫn không quên. Tôi có nói là tôi viết văn như một người thư ký làm có giờ giấc nhất định, không thức khuya dậy sớm vàkhông phải tìm nguồn cảm hứng một cách khó khăn. Tôi có thể viết bất cứ lúc nào và ở chỗ nào khi có nhu cầu. Tôi không dám cho mình là một nữ văn sĩ vì tôi viết văn để nuôi con. Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi viết theo thị hiếu của độc giả và sự yêu cầu của các ông chủ báo với mục đích để bán chạy, bán nhiều. Nếu phải viết một quyển sách có phần tụy lạc, hay tình cảm ướt át, thì dù trả tiền cho tôi gấp đôi tôi cũng không viết. Nhưng nếu một tờ báo mới ra đời, tài chính kém cỏi mà nhờ tôi viết cho một truyện ngắn, tôi cũng sẵn sàng viết ngay, không đặt vấn đề tiền bạc.



Bài báo ấy viết rất đặc sắc bằng tiếng Anh, được dịch ra như sau:



Bà Tùng Long và sự tự nhiên được bênh vực



Sự việc xảy ra thật sớm vào buổi sáng trong một cái chòi nằm chen chúc trong những con hẻm của một khoảnh đất ở vùng dân cư đông đúc và nghèo nàn của Sài Gòn. Buổi sáng, mặt trời chiếu trên những nóc nhà một cách yếu ớt, những người dân ở đó còn mơ màng trong giấc ngủ chập chờn vì cuộc sống quá khó khăn, thiếu không khí của những người dân lao động phải thức dậy lo công việc. Khi tiếng gà vừa gáy đợt đầu, một người đàn bà đã già mở cánh cửa của cái chòi và sai một đứa bé trai chạy đi mua cái gì đó cho bà. Mấy phút sau đứa bé chạy về, với hai bàn tay không và sẵn sàng chống đỡ những lời chỉ trích rầy la của bà. Bà ta đã đưa cho nó hai đồng bạc để mua cho bà một tờ báo Sàigòn Mới, tờ báo mà ai cũng biết xuất bản buổi sáng, và thằng bé lại lấy tiền đó để mua một khúc bánh mì cho đỡ đói.



Người đàn bà ấy không dằn được sự tức giận bèn la hét thằng bé, bảo tại sao nó không chịu ăn sáng với cơm như mọi người trong gia đình và để hai đồng bạc ấy mua cho bà một tờ báo. Tờ báo đối với và thật sự là một bữa điểm tâm tinh thần, cũng như một hơi thuốc lá và một cái tách cà phê đen và nóng vào buổi sáng của những người thượng lưu.



Nếu bạn may mắn và có dịp để hỏi cái gì trong tờ báo đã khiến cho bà quan tâm chiếu cố đến vậy, bà sẽ nói với bạn không một chút ngần ngại là không phải những chuyện tranh đấu không ngừng của Lumumba, hay cuộc tranh chấp không bao giờ chấm dứt của Phoumi và Phouma, và cũng không phải sự ra đời của một hoàng nam kế vị ngai vàng của xứ Iran, mà chỉ là tiểu thuyết ra hằng ngày trên báo của một cây bút nữ được cả nước nghe tên, được cả nước đọc với bút hiệu Bà Tùng Long, một người bạn trung thành của những người nghèo, của những người vô sản trong xã hội Việt Nam của chúng ta hiện giờ.



Không phải là một nhà văn



Bà Tùng Long là một trong rất ít phụ nữ viết văn hiện nay đã gặt hái được sự thành công, bà đã làm cho bao nhiêu con tim của cả nghìn vạn người từ mọi miền đất nước phải hồi hộp, khi bà xuất hiện vào năm 1955 như là một cây bút viết feuilleton nổi tiếng nhất trong kỹ nghệ làm báo lúc bấy giờ. Mặc dù không được giới trí thức (cao cấp) và giới trẻ còn quá vô tư với cuộc đời tiếp nhận, nhưng những tiểu thuyết của bà dễ đọc, dễ hiểu, với những tình tiết khéo léo và hấp dẫn, đã được theo dõi bởi phần đông độc giả của giới bình dân. Những quyển tiểu thuyết mà bà viết trên các báo đều được các nhà xuất bản mua và in thành sách cũng được độc giả hoan nghênh không kém. Độc giả của bà thuộc nhiều thành phần khác nhau, phần đông ở giới lao động, ít học, những người nội trợ muốn tìm cái chìa khóa hạnh phúc, những kẻ không có phương tiện để đến trường nghe lời giảng dạy của các thầy giáo, cả những quân nhân ở những vùng xa xôi hay những thủy thủ thiếu mái ấm gia đình. Mặc dù không có một quyển sách nào của bà được các nhà phê bình đem ra phê bình như một tác phẩm văn học của những nhà văn được coi là trí thức lúc bấy giờ, chính bà Tùng Long cũng tự nhận mình không phải là một nhà văn, mà bà chỉ viết cho những người thiếu học, những người không may mắn đến các trường Trung học Đại học, vậy mà tên tuổi của bà đã giúp bà kiếm được khá nhiều tiền trong cái thế giới làm văn của thời kỳ lúc bấy giờ.



Một tâm hồn nhạy cảm



Ngoài những bộ tiểu thuyết feuilleton mà bà Tùng Long đang viết ở báo Sàigòn Mới và tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, bà con có những tác phẩm in lại thành sách cả 12 bộ vào năm 1963, đây là một kỳ công mà không một cây bút nữ nào hiện giờ ở đây có thể làm được. Hai tác phẩm được nổi tiếng nhất là Giang San Nhà Chồng và Bóng Người Xưa. Quyển thứ nhất nói về một phụ nữ Việt Nam sống trong địa ngục của bà mẹ chồng và gia đình chồng, chịu đựng bao điều khổ sở nhục nhã, nhất là bà mẹ chồng cay nghiệt cổ hủ, cho đến khi cô dâu này với ngày tháng đã chiếm được cảm tình và sự khâm phục của những kẻ đã đầy đọa mình. Quyển thứ hai mô tả cuộc đời sôi động của một đảng viên chánh trị chống lại sự cai trị của ngoại xâm. Nữ đảng viên này lập gia đình với một kỹ sư giàu có để có tiền giúp cho phong trào và các đồng chí trong đảng, nhưng rồi phải bỏ chồng khi cuộc hoạt động không thành vì sự tan rã của các đảng viên trước kẻ thù quá mạnh. Cả hai tiêu biểu cho hai tâm hồn cao thượng trước những khó khăn của một xã hội phong kiến, nhưng vì tác giả phải viết từng ngày một cho báo hằng ngày nên đôi khi lời văn kém sâu sắc, hình ảnh không được chú trọng kỹ càng hơn, tuy vậy vẫn nói lên được những vấn đề hằng ngày của giới phụ nữ, trong gia đình, ngoài xã hội, chuyện tình cảm riêng tư một cách thiết thực và cách đáp ứng lại một cách khôn khéo thông minh, đã làm cho những cuốn tiểu thuyết của bà Tùng Long như những tấm gương hằng ngày của hàng vạn phụ nữ và cả hàng vạn nam giới nữa.



Đến lúc tự động phải cầm bút



Sanh năm 1915 tại Đà Nẵng (Trung phần Việt Nam), Lê Thị Bạch Vân, bút hiệu Tùng Long, là chị cả của bảy đứa con trong một gia đình trung lưu. Sau một thời thơ ấu bên bờ biển của một tỉnh lỵ và tại cô đô Huế với giòng sông Hương nước chảy lờ đờ, bà đã theo cha mẹ vào miền Nam và tiếp tục học ở trường Nữ trung học Gia Long nổi tiếng lúc bấy giờ, luôn luôn chiếm giải nhất về hai môn Pháp văn và Việt văn. Nhưng cái điều bà ao ước lúc này khi còn ngồi ghế nhà trường, là trở thành một nữ giáo viên ở một tỉnh yên tĩnh nào đó “có nền trời xanh trên những mái nhà và nơi đó có chim kêu ríu rít trên các cành cây tươi mát…”. Bà đã trở thành một nữ giáo viên vào năm 1934 sau khi thi đậu ra trường. Năm sau bà lập gia đình với nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy. Khi còn đi học bà đã tập tành viết những truyện ngắn, những tùy bút và những bài nói về phụ nữ, bây giờ bà lại viết trong những lúc rảnh rang, nhưng là viết cho mình đọc mà thôi.



Cho đến năm 1951, sau những năm dài đằng đẵng sống trong vùng kháng chiến, làm quen với những thiếu thốn vật chất và sự cô quạnh của những đêm không trăng, trong những hang đá của rừng núi, và những ngày đen tối bên những con đường nhỏ hẹp ngút ngàn của rừng rậm, mà nữ giáo viên tầm thường này nuôi cái mộng phải viết, phải nói lên những gì mà tâm hồn mình đã cảm nhận và con tim rung động.



Trở về Sài Gòn với chồng và các con, bà liền cầm bút viết một cách say sưa và hứng thú, và đã thành công ngay với cuốn tiểu thuyết đầu tay, rồi những quyển liên tiếp trên các báo hằng ngày và hằng tuần. Bà đã chinh phục được một diễn đàn rộng rãi và đến lúc ấy bà liền mở mục Giải Đáp Tâm Tình cho bạn đọc. Mục Gỡ Rối Tơ Lòng và Tâm Tình Cởi Mở như các mục Coeur A Coeur bên các báo La Femme hay Marie Claire của Pháp. Nhờ các mục này mà bà đã làm quen nhiều hơn với các độc giả và những chuyện tâm tình của họ.



Bốn giờ mỗi ngày



Ngày hôm nay, là mẹ của chín đứa con, người đàn bà viết văn này đã ước vào tuổi 45 và vẫn viết thường xuyên, đều đặn mỗi ngày bốn giờ, ngừng ngay khi cuối giờ thứ tư mặc dù đang lúc nguồn cảm hứng đang ở lúc cao độ. Bà nói bà phải ngừng lại theo một thời khóa biểu đã vạch sẵn để lo cho các con và còn một số học trò mà bà đang dạy ở các trường trung học tư thục Sàigòn.



“Tôi không nghĩ rằng mình là một nữ sĩ, một nhà văn, và tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có một thực tài như vậy. Tất cả những gì tôi làm là ghi lại những gì tôi đã nghe và thấy xung quanh tôi, để có tiền nuôi các con tôi”. Bà đã xác nhận một cách thành thật như vậy. Có thể bà nên viết một cách sâu sắc hơn, một lối văn trau chuốt hơn với những tình cảm dạt dào của sự sống, bớt đi những lời đối đáp không cần thiết thì bà còn có thể chiếm được một chỗ đứng đáng kính nể hơn trong lịch sử của nền văn chương hiện đại. Nhưng bà cũng như các cây bút nữ khác rất hiếm hoi lúc bấy giờ được độc giả biết đến cũng chỉ vì phương diện tình cảm con người như con đường duy nhất mà họ đeo đuổi để tạo được sự hòa thuận trong các gia đình, sự hòa bình trong xã hội.



Bà Tùng Long có thể tự hào là bà đã nhận lấy trách nhiệm quan trọng khi cầm bút là vạch ra cho phụ nữ đương thời con đường phải đi để được cùng tham gia với nam giới xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ hơn.



Mặc dù bà Tùng Long không nghĩ mình là một nữ sĩ, một nhàvăn có biệt tài, nhưng bà thật sự có một quần chúng độc giả đông đảo khắp các miền đất nước và bà đã làm cho bao con tim hồi hộp, chờ đợi một cái kết thúc khéo léo của quyển tiểu thuyết mà bà đang viết từng ngày một và bà cũng đã nổi tiếng trong suốt 20 năm và đảm nhận vai trò của mình, và cũng kiếm được một số tiền không nhỏ với những tác phẩm đã được in lại thành sách mà độc giả vẫn đón nhận một cách nhiệt tình.



Trần Quân (1963)



Trong bài phỏng vấn ấy, tôi có nói với Trần Quân tôi viết văn là để nuôi con. Hiện tôi có tất cả chín đứa, ba đứa ở đại học, ba đứa ở trung học, còn ba đứa sắp vào tiểu học. Khi nào các con lớn của tôi thành tài và ra đời thì tôi sẽ nghỉ viết.



Trần Quân hỏi tôi về tác phẩm mà tôi thích nhất thì tôi nói tôi không thấy một tác phẩm vừa ý, mà chỉ vừa ý một tác phẩm… Nói xong tôi vào bồng con bé út của tôi lúc ấy đã một tuổi ra khoe với Trần Quân. (Bé Phương Chi của tôi, hiện giờ đang ở Đức. Nó sang Tây Đứa năm 1980 và định cư ở đó, học ở trường Điện Tử đậu kỹ sư và lập gia đình với một kỹ sư Việt Nam ở Thụy Sĩ).



Tất cả những bài báo, phỏng vấn hiện tôi không còn, vì năm 1975 tôi đã mất cả một tủ sách có giá trị và rất nhiều tác phẩm, tài liệu của tôi chưa in ra thành sách. Hồi đó trên báo Bách Khoa có phỏng vấn tôi hai lần, một lần về viết văn, một lần về dạy học. Linh Giang trên một tuần báo nào đó cũng có viết một bài về tôi và anh Hồng Tiêu của tôi.



Tôi không phải ngồi nhà mà viết tiểu thuyết, và cũng không phải như Phú Đức, phải nhờ vào ả phủ dung để viết những quyển tiểu thuyết dày năm sáu pho với cốt chuyện nhiều tưởng tượng hơn là thực tế. Tôi cũng không phải như Lê Văn Trương, như Trương Tửu, như một số nhà văn khác phải mượn rượu để giúp đầu óc có thêm hứng thú. Tôi có rất nhiều đề tài, những đề tài sống thực do các bạn đọc của tôi kể về cuộc đời làm dâu, làm vợ, về những cảnh ngang trái mà con cái phải chịu như cảnh dì ghẻ, con chồng, dượng ghẻ với con riêng của vợ. Còn nữa, còn nhiều nữa, những chuyện yêu thương của tuổi trẻ, những chuyện bơ vơ giữa chợ đời của những kẻ mồ côi… v.v và v.v. Đề tài thì nhiều, viết không sao hết, tài của mình, ngòi bút của mình đâu có chạy kịp với cả trăm nghìn chuyện như thế? Tôi lại được may mắn là viết rất dễ, viết cả chục trang không cần phải sửa. Trước khi viết tôi phải suy nghĩ về đề tài tôi sắp viết cả tháng như vậy, bất cứ lúc nào, ngồi trên taxi đến trường, ngồi giặt đồ ngoài sàn nước, đứng nấu thức ăn cho các con tôi, tôi tập sao cho đầu óc của tôi có nhiều ngăn như cái tủ của tôi, mỗi chuyện tôi viết cho báo này phải ở ngăn nào khi cần đến tôi kéo ngăn ấy ra.



Khi còn đi học, mỗi lần thầy cô cho đề luận, một hai tuần mới nộp bài, trong thời gian ấy tôi luôn suy nghĩ đến cái đề luận. Khi trên đường đến trường, khi ra chơi, vừa thức giấc, tôi liền nghĩ đến cái đề bài ấy, mình phải vô đề như thế nào, kết luận ra sao…



Và khi còn nhỏ, khi tôi tưới cây hay chăm sóc mấy bụi hồng cho cha tôi, tôi vẫn nghĩ đến những bài luận phải làm. Tôi không thích học toàn, chớ thật sự tôi không đến nỗi dốt toán, cho nên có những bài toán tôi cũng phải nghĩ cả tuần.



Tôi tự tập cho tôi giờ giấc làm việc, giờ nào làm việc nào và đêm phải ngủ vào lúc nào và sáng phải dậy mấy giờ, không cần đồng hồ báo thức. Cho đến ngày nay đã trên 80 tuổi, nhưng ngày nào phải dậy 6 giờ để đi bác sĩ là tôi tự động dậy đúng 6 giờ, không cần ai kêu và không cần đồng hồ báo thức.



Tôi làm việc gì cũng có thứ tự và rất ghét một điều là bị ai đó thúc giục. Tôi không làm được việc gì mà bị người ta hối. Vì vậy từ ngày viết feuilleton, tôi không bao giờ để thợ phải hối bài. Ngay khi sắp sanh, tôi cũng chuan bị trước bài vở và lần tôi bị mổ, tôi đã nghiêng mình viết vào ngày thứ ba đến nỗi bác sĩ Trần Đình Đệ phải ngạc nhiên.



Tôi tập vừa nghe nhạc vừa viết, vừa dạy con học vừa viết, vừa cả vừa nghe tin tức đài BBC hay VOA vừa viết tiểu thuyết. Tôi ăn uống có giờ giấc và làm việc cũng vậy. Tôi tập có ngăn nắp từ nhỏ, để không bao giờ phải mất thì giờ tìm một cái gì. Ngay bây giờ, khi cần nằm nhiều hơn ngồi, tôi sắp đặt xung quanh trong phòng tôi tất cả những gì mà tôi cần, như cái kéo, con dao, cái ly nước, hộp đồ may, quyển kinh nhật tụng, hay tất cả thuốc men cần uống, hộp giấy viết thư, hũ kẹo, nghĩa là tất cả những gì tôi cần đến là có mà không cần phải sai ai. Tôi rất ghét cái tật sai vặt của nhà tôi hồi đó.



Cho đến ngày nay khi ngồi viết những trang giấy nầy, tôi cũng vẫn còn giữ được tính ngăn nắp và ít khi làm phiền đến con cái, các cháu, ít sai ai làm những việc nhỏ cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày của tôi…


1      2      3      4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét