Chương 15 BIẾN CỐ PHẬT GIÁO
Biến cố Phật giáo là một biến cố lớn không những cho chế độ
Ngô Đình Diệm vào năm 1963 mà còn cho cả chính đạo Phật tại Việt nam. Biến cố
này cũng đã đóng góp vào sự vươn mình của dân tộc cũng như cho những chuyển
động trí thức nhân bản hơn của nhân loại trong thập niên 60. Rất nhiều máu đỏ
đã chảy trong biến cố này, cũng nhiều như mực đen đã chảy ra biến cố đó đã
chảy trong biến cố này, cũng nhiều như mực đen đã chảy sau biến cố đó để ghi
chép và lưu tru lại những chứng tích và những suy nghiệm về các tội ác của
chế độ Ngô Đình Diệm trong lần trở mình hùng tráng của Dân tộc và Phật giáo
tại Việt nam.
Với những biện pháp hành chính quỷ quyệt, những thủ đoạn chính
trị tàn ác và các chủ trương văn hoá gian hiểm, trong chín năm trời, chế độ
Diệm đã tìm mọi phương cách để tiêu diệt dần dần lực lượng và ảnh hưởng Phật
giáo Việt nam theo kế hoạch tằm ăn dâu. Đến những năm 1962, 1963, chế độ Diệm
lại có thêm chương trình ấp chiến lược mà họ thêm tin tưởng vừa có thể chiến
thắng được Cộng sản, lại vừa có thể Công giáo hoá toàn dân nông thôn. Chiếm
được nông thôn là chiếm được địa bàn căn bản và lâu đời nhất của Phật giáo
Việt nam, họ sẽ bao vây Phật giáo, cô lập Phật giáo trong các chùa chiền, các
đô thị và Phật giáo sẽ như cá trong ao khô hồ cạn, không còn nước nữa để bơi
lội vẫy vùng.
Nếu anh em Ngô Đình Diệm kiên nhẫn dùng kế hoạch trên thì có
lẽ biến cố Phật giáo năm 1963 đã chưa xảy ra vì một lý do rất dễ hiểu là mặc
dù nỗi thống khổ của Phật tử đã đến cùng cực nhưng Phật tứ vẫn cắn răng chịu
đựng. Nhưng mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên, nhà Ngô đi ngược lòng dân
và đi ngược ý trời nên mới lấy quyết định cấm treo cờ Phật giáo nhân ngày lễ
Phật Đản, một quyết định ban đầu nhà Ngô tưởng là không mang lại hiệu quả
đáng kể nhưng thật sự lại đưa chế độ Diệm vào đường cùng. Với những người tin
vào thuyết lý số và thuyết âm đức thì năm 1963 đúng là năm chót trong cái đại
vận “Phát giả như lôi” thụ hưởng phú quý tột đỉnh của anh em nhà Ngô để bước
vào chu kỳ "Tán gia bại quốc" mang lại nhục nhã cho dòng họ.
Thật thế, nếu Ngô Đình Thục còn ở Vĩnh Long thì có lẽ vụ cấm
treo cờ Phật giáo đã chưa xảy ra không ngờ Toà thánh La mã dưới trĩu đại Giáo
Hoàng Paul 6 lại thuyên chuyển Ngô Đình Thục ra giáo phận Huế, nơi mà đại đa
số dân chúng đều theo đạo Phật, nên nhà Ngô mới bị sa lầy sớm. Đổi Ngô Đình
Thục ra Huế, Toà thánh La mã chỉ muốn Thục, vốn đã làm cho Giáo hội chịu
nhiều tai tiếng xấu xa trong cộng đồng thế giới phải xa lánh thủ đô, xa tai
mắt ngoại giao đoàn, xa ký giả quốc tế và xa khối trí thức Việt nam đông đảo
tại Sài gòn, không ngờ các hảo ý của Toà thánh La mã lại biến thành cái đại
hoạ cho nhà Ngô.
Tất cả bắt đầu vào ngày 6-5-1963 khi Tổng giám mục Ngô Đình
Thục đi thăm nhà thờ La Vang. Dọc đường, đâu đâu Thục cũng thấy cờ Phật giáo
tung bay khắp thị thành thôn xóm để chào mừng Phật Đản trong hai ngày nữa. Cờ
Phật mà còn nhiều thì cái mộng Hồng y của Thục khó sớm thành sự thực vì đã
nhiều lần Thục lỡ phúc trình với Toà thánh là dân Việt nam ngày càng cải đạo,
càng hướng về Giáo hội La mã. Nhưng thực tế hôm đó hiện diện trước mắt là cờ
Phật giáo tràn ngập khắp nơi đã làm cho Thục giận lắm nên khi trở về Huế,
Thục cho gọi Đại biểu Chính phủ Trung phần là Hồ Đắc Thương đến Toà giám mục
để Thục khiển trách rồi gọi điện thoại viễn liên vào Sài gòn báo cho em là
Tổng thống Diệm biết tình hình, và đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Phật tử
cũng như các chùa đã không tuân theo luật lệ quy định thể thức treo cờ của
chính phủ. Theo luật lệ treo cờ của chính phủ Diệm, cờ tôn giáo không được
treo ngoài khuôn viên chùa chiền, nhà thờ hoặc các cơ sở tôn giáo... Khốn nỗi
thể lệ treo cờ của chính phủ đã được ban hành từ lâu mà không một tôn giáo
nào tuân theo, nhất là chính tôn giáo của ông Tổng thống đã nêu gương vô kỷ
luật trước hết và nhiều nhất. Hơn nữa, năm ngoái, năm 1962, Phật giáo cũng
treo cờ như năm nay mà không thấy chính phủ khuyến cáo gì cả. Tôi còn nhớ năm
1959, từ ngày 16 đến 18 tháng 2, tại thủ đô Sài gòn và khắp cả nước, Giáo hội
công giáo Việt nam tổ chức đại hội Thánh Mẫu và lễ nâng nhà thờ Đức Bà Sài
gòn lên hàng Vương Cung thánh đường vô cùng trọng thể dưới quyền chủ toạ của
Hồng y Agagianan (đại diện Toà thánh La mã). Cờ Toà thánh và ảnh tượng Đức Mẹ
trưng bày khắp thủ đô, tràn ngập cả công viên trước dinh Độc lập từ đường
Công Lý đến tận Sở Thú. Ngày 17 tháng 8 năm 1961 tại La Vang, nhân dịp kỷ
niệm lễ Đức Mẹ hiện ra cách đây 160 năm và khánh thành Vương Cung thánh đường
La Vang, những khải hoàn môn trưng bày ảnh tượng Đức Mẹ và cờ Công giáo kéo
dài từ thành phố Huế đến thành phế Quảng Trị dọc theo Quốc lộ một.
Rồi đến lễ khánh thành ngôi nhà thờ Huế do Ngô Đình Thục xây
cất, và tiếp theo là lễ Ngân khánh của Ngô Đình Thục, cờ Công giáo lại tràn
ngập cả thành phố Huế, nhất là về phía hữu ngạn sông Hương. Dân cả nước ai
lại không thấy rằng hễ mỗi lần Công giáo có lễ lạt là cờ Công giáo treo ra
ngoài khuôn viên nhà thờ, trên đường phố công cộng và nhiều khi trên cả các
cơ sở quốc gia. Dưới chế độ Diệm, trong mỗi doanh trại quân đội đều có nhà
thờ mà hễ đến ngày lễ Noel là cờ Công giáo treo khắp doanh trại, trước cổng
trại lại có cả khải hoàn môn. Dân chúng làm sao quên được hình ảnh những vùng
như Hố Nai, Gia Kiệm, Ngã Ba ông Tạ, Ngã Ba Chú ía, chung quanh Lăng Cha Cả,
cả những vườn hoa, những đại lộ trước toà Đô chính Sài gòn tràn ngập ảnh
tượng và cờ Công giáo trong những ngày lễ Giáng Sinh. Chính vì Công giáo đã
đầu tiên và liên tục đạp lên trên luật lệ treo cờ của chính phủ đến nỗi sau
vụ cờ Phật giáo tại Huế, ngày 15 tháng 5 năm 1963, Giám mục Nguyễn Văn Bình
đã phải ra thông báo nhắc nhở giáo dân: "Cờ của Toà thánh Vatican chỉ
được treo trong nhà thờ hoặc những cơ sở của Hội Thánh".
Người Công giáo trắng trợn vi phạm luật treo cờ thì anh em ông
Diệm chẳng những không bao giờ đả động đến mà còn lấy làm sung sướng vì sự ưu
thế có tính cách hình thức đó, thế mà năm 1963, Phật tử treo cờ nhân ngày
Phật Đản thì Ngô Đình Thục tức giận đặt vấn đề thể lệ treo cờ.
Sau khi nghe ông anh phiền trách việc Phật kỳ tung bay khắp
nơi, ông Diệm nổi nóng gọi ngay Đổng lý Văn phòng là ông Quách Tòng Đức (hiện
ở Pháp) bảo đánh điện cho toà Đại biểu Chánh phủ tại Huế và khắp các tỉnh ra
lệnh phải hạ cờ Phật giáo. Một lần nữa, quyết định này cho ta thấy anh em nhà
Ngô rõ ràng thiếu ý thức chính trị vì đã không đánh giá được bản chất và hệ
quả của một quyết định liên hệ đến một nhân văn rất tế nhị, nhất là tại một
địa phương như Thừa Thiên; và không có khả năng lãnh đạo quốc gia vì đã không
nắm vững được giá trị của quyết định trên cả hai mặt hành chính pháp lý và
thực trạng xã hội. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó, ngày 7 tháng 5, trong
lúc dân chúng Huế và Thừa Thiên sửa soạn làm lễ Phật Đản thì cảnh sát đến tận
nhà buộc dân chúng phải hạ cờ Phật giáo. Trước biện pháp bất công và bất minh
đó của chính quyền, vài ngàn Phật tử bèn tự động tổ chức kéo tới toà Tỉnh
trưởng Thừa Thiên và yêu cầu Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đăng can thiệp để Phật kỳ
khỏi bị hạ. Tỉnh trưởng giải thích “đã có sự hiểu lầm của cấp trên", rồi
ra lệnh cho treo Phật kỳ trở lại nên dân chúng tự động giải tán ra về. Sở dĩ
có biện pháp đó là Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đăng đã gặp Ngô Đình Cẩn và được
Cẩn ra lệnh “Phật tử đã lỡ treo cờ rồi thì cứ để cho họ treo”. Vấn đề đặt ra
là tại sao một người đã làm đến Tổng giám mục như Ngô Đình Thục, tại sao một
người đã làm đến Thượng thư Bộ Lại rồi làm đến Tổng thống như Ngô Đình Diệm
mà lại sai lầm một cách tuy ấu trĩ nhưng lại trầm trọng đến thế? Câu trả lời
dĩ nhiên nằm trong cái liên hệ sống chết và cốt tuỷ quá chặt chẽ giữa dòng họ
Ngô Đình với Hội truyền giáo hải ngoại Pháp, vì anh em nhà Ngô đã được đào tạo
và nuôi dưỡng bởi một Giáo hội có quá nhiều cấp lãnh đạo coi “chấp ngã"
như một tôn chỉ bất di bất dịch, là một phần của cái bản ngã có tính thiên
hựu, chỉ thấy cái Ta đúng, ngoài Ta ra tất cả đều sai lầm. Sử liệu đã cho ta
vô số sự kiện nói về bệnh chấp ngã của Toà thánh La mã. Ở đây, ta hãy nghe
một lời dẫn chứng của học giả Merle Sever trong bài The World of Luther: Toà
thánh La mã đòi hỏi một sự phục tùng bất khả tư nghị. "Tôi sẽ phải tin
rằng vật màu trắng mà tôi thấy là màu đen, nếu Giáo hội quyết định đó là màu
đen”. Ông Ignatius Loyala, sáng lập dòng Jesuite đã nói như thế. Giáo hoàng
Paul IV cũng xác định rằng: “Ngay nếu cả cha ruột tôi là người phản đạo tôi
cũng se đi lượm củi để đốt ông ta”. Và đặc biệt trên tương quan thế quyền và
giáo quyền, để chính xác áp dụng cho trường hợp của anh em ông Diệm, ta hãy
nghe giáo sư Malachi Marin, một vị tu xuất dòng Jesuite, viết về niềm tin
giáo điều sắt đá của Giáo Hoàng Leo III: "Xác định một cách công khai
rằng tất cả các quyền lực chính trị trên thế gian này yêu do Chúa ban cho; và
chỉ được ban cho cá nhân nào hay chính phủ nào qua trung gian của vị đại diện
Đức Chúa Trời vốn là vị Hồng y La mã, mà cũng là kẻ kế vị thánh Pherô".
Cho nên mù quáng trước điều mà họ cho là chân lý bất di bất
dịch đó, rồi lại riêng cá nhân Thục mang tham vọng trở thành Hồng y, anh em
ông Diệm chỉ thấy khi cờ Phật giáo treo không đúng với thể lệ nhà nước là một
hành động thách thức chân lý đó mà không cần biết đến chính tôn giáo của mình
và chính Tổng giám mục Ngô Đình Thục đã vi phạm trắng trợn luật treo cờ từ
chín năm nay rồi.
Ngày 8 tháng 5, các chùa tại Huế cứ hành lễ Phật Đản và rước
Phật trọng thể từ chùa Từ Đàm qua chùa Diệu Đế. Sau lễ Phật, trong bài thuyết
pháp, Thượng toạ Trí Quang đề cập đến chủ trương kỳ thị của chính quyền nhằm
đàn áp Phật giáo từ 9 năm qua, nay lại ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo, rõ ràng
nhắm riêng vào Phật giáo. Thượng toạ Trí Quang cũng có nhắm đến cờ Công giáo
treo khắp đường phố vào các dịp lễ sao không cấm mà lại cấm đúng vào ngày
Phật Đản. Nhiều đoàn thể Phật tử yêu cầu chính quyền cho phát thanh lại bài
thuyết pháp của Thượng toạ Trí Quang, nhưng Giám đốc Đài phát thanh Huế là
ông Ngô Ganh, một công giáo Cần lao, không chịu nên vài ngàn Phật tử kéo đến
đài để trực tiếp yêu cầu. Phó Tỉnh trưởng Nội an là thiếu tá Đặng Sĩ, một
“Cần lao công giáo” khác, cũng huy động lính Bảo an và cả thiết giáp tới để
thị uy.
Không ngờ trong lúc Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đăng, ông Ngô Ganh
và Thượng toạ Trí Quang đang thảo luận để tìm một giải pháp dung hoà thì
nhiều tiếng súng và một quả lựu đạn phát nổ làm cho 7 thường dân chết, 5 binh
sĩ và một thường dân bị thương. Máu đã đổ, cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt
nam bắt đầu, biến cố Phật giáo mùa hè năm 1963 phát động từ đó.
Tôi cần phải nói rõ và nói lớn ở đây rằng cuộc đấu tranh của
Phật giáo tuy phát động từ sự kiện treo cờ nhưng nguyên uỷ thật sự, động cơ
sâu sắc của nó thật ra đã xuất hiện từ lâu, từ khi anh em ông Diệm tiến hành
chính sách tiêu diệt các tôn giáo khác cho Thiên chúa giáo được ngôi vị độc
tôn trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của người Việt.
Sau vụ đàn áp Phật tử tại Đài phát thanh Huế, tăng ni, Phật tử
họp tại chùa Từ Đàm đưa ra năm nguyện vọng để xin chính phủ giải quyết:
1) Xin chính thức rút lại lệnh cấm treo cờ.
2) Xin được tự do hành đạo như Thiên Chúa giáo.
3) Xin bãi bỏ dụ số 10 xem Phật giáo như là hiệp hội.
4) Xin chấm dứt các vụ khủng bố, đàn áp Phật giáo.
5) Xin bồi thường cho các nạn nhân tại Đài phát thanh Huế, và
trừng trị kẻ đã gây ra đổ máu.
Nguyện vọng gởi đi đã 8 ngày mà chính phủ vẫn không hồi âm, đã
thế còn ra thông cáo bảo rằng thủ phạm ném lựu đạn là một tên Việt cộng dù
không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào. Năm nguyện vọng đó rõ ràng chỉ nhằm
vào một mục tiêu rất chính đáng và hợp pháp là công bằng xã hội (điều 2, 4 và
5) và chấm dứt chủ trương đàn áp tôn giáo của thực dân Pháp để lại (điều 1 và
3).
Nhận thấy rằng Tổng thống Diệm không có một chút thiện chí
nào, tăng tín đồ Phật giáo ngày 10 tháng 5 năm 1963 công bố bản Tuyên ngôn để
minh định lập trường và xác định lại những nguyện vọng của mình. Ngày 16
tháng 5, Phật giáo mở một cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi có bộ trưởng Công dân
Vụ Ngô Trọng Hiếu tham dự, để trình bày năm nguyện vọng và nói rõ thái độ của
Tổng thống Diệm trong cuộc hội kiến hôm qua tại dinh Gia Long. Trong cuộc họp
báo này, ông Ngô Trọng Hiếu chỉ lặp đi lặp lại một lối giải thích: Tổng thống
Diệm chỉ muốn cho “quốc kỳ được tôn trọng” mà không hề đề cập đến những
nguyện vọng của Phật giáo.
Ngày 23 tháng 5, trước những đánh phá độc hại của bộ máy thông
tin của chính quyền với luận điệu cho rằng cuộc đấu tranh của Phật giáo đổ là
do Cộng sản điều động và chỉ làm lợi cho Việt cộng, Phật giáo cho phổ biến
bản Tuyên ngôn thứ nhì với một bản phụ đính xác định rất rõ ràng vị thế nạn
nhân của Phật giáo trong những thủ đoạn tuyên truyền của chính phủ. Ba tuần
lễ trôi qua, chính phủ vẫn quyết liệt giữ lập trường cũ và ra thông tư xác
nhận quan điểm về vấn đề tôn giáo là "không kỳ thị, tôn trọng tự do tín
ngưởng, chỉ huy định việc treo cờ vì tôn trọng quốc kỳ", thông tư cũng
không hề đả động đến năm nguyện vọng chính đáng và khiêm tốn của Phật giáo.
Trong lúc đó thì ngày 29 tháng 5, lực lượng an ninh vẫn siết chặt vòng đai ở
chùa Từ Đàm, nơi mà sinh viên và Phật tử thường tụ hợp đông đảo để ủng hộ cho
những đòi hỏi của Phật giáo. Đồng thời chính quyền cho cắt điện và nước ở
ngôi chùa này.
Trước thái độ ngoan cố của chính phủ, ngày 30 tháng 5, Phật
giáo tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại chùa Xá Lợi và chùa ân Quang,
các tăng ni và Phật tứ tuyệt thực 48 giờ, đồng thời 300 tăng ni biểu tình
trước Quốc hội với những khẩu hiệu yêu cầu của chính phủ thoả mãn năm nguyện
vọng của Phật giáo.
Thấy tình hình đã bắt đầu căng thẳng, ngày 1 tháng 6, chính
phủ Diệm thay đại biểu Trung phần Hồ Đắc Thương, Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn
Văn Đáng, là những người mà chính phủ cho là nhu nhược, bằng các ông Nguyễn
Xuân Thượng (nguyên Tổng giám đốc điền địa) và thiếu tá Nguyễn Mâu (Cần lao
công giáo) để hai nhân vật này hành động quyết liệt hơn trong việc đàn áp
Phật giáo. Chính phủ cũng triệu hồi thiếu tá Đặng Sĩ về Bộ Nội vụ “để chờ
lệnh”.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bác sĩ Trần Kim Tuyến, dù lúc
này đã bị thất sủng không còn quyền hành ảnh hưởng gì nữa, nhưng phần vì ông
quen biết nhiều trong giới Phật giáo như Thượng toạ Tâm Châu, các cư sĩ Phật
giáo người Bắc di cư, cụ Mai Thọ Truyền (vốn là chuyên viên Phủ Tổng thống)
phần vì muốn hoà giải thật sự giữa chính phủ và Phật giáo nên ông đưa ra sáng
kiến thành lập Uỷ ban cao cấp của hai bên để thảo luận hầu giải quyết mọi vấn
đề. Do đó bên chính phủ thành lập Uỷ ban Liên Bộ, và bên Phật giáo hình thành
Uỷ ban liên phái có tư cách đại diện chính thức và có thẩm quyền thương nghị.
Uỷ ban Liên Bộ có Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và các ông Bộ trưởng Nội vụ
Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần. Còn Uỷ ban liên phái
do Thượng toạ Tâm Châu cầm đầu với các Thượng toạ Thiệu Hoa, Thiện Minh,
Huyền Quang và Đại Đức Thích Đức Nghiệp. (Sáng kiến của Bác sĩ Tuyến được Bộ
trưởng Nguyễn Đình Thuần trình cho hai ông Diệm-Nhu). Trong khi hai Uỷ ban
đang tiến hành những buổi hợp thì lực lượng an ninh vẫn bao vây chùa chiền và
gia tăng các biện pháp cắt điện, cắt nước tại các chùa lởn ở Huế và Đà Nẵng.
Riêng tại chùa Tỉnh Hội Nha Trang, cảnh sát và công an còn chăng kẽm gai chặn
đường các Phật tử vào chùa và cản trở việc đi lại của các tăng ni từ Sài gòn
về các tỉnh và ngược lại. Cho đến ngày 7 tháng 6, Uỷ ban Liên bộ mới công
nhận sự kiện thiếu nghiêm chỉnh đó và gởi văn thư trả lời cho Uỷ ban Liên
phái là đã cho cấp lại điện nước và quân đội không chặn đường vào chùa nữa.
Tất cả những văn thư của hai Uỷ ban đều có đăng tải trên báo Việt ngữ tại Sài
gòn.
Nhưng dù có văn thư chính thức của Uỷ ban Liên bộ, những hành
động chống phá Phật giáo vẫn tiếp tục xảy ra tại các địa phương và ngay giữa
thủ đô Sài gòn. Độc hại hơn nữa, chính quyền đã cho một số công an và cảnh
sát cạo đầu, giả vờ mặc áo nâu hay áo lam của tăng sĩ để ra chợ chọc gái, ăn
thịt, uống rượu, mua hàng không chịu trả tiền... nhằm mục đích bôi lọ các nhà
sư và xuyên tạc cuộc đấu tranh của Phật giáo.
Để đối phó với thái độ phá hoại đó của chính quyền, Phật giáo
đành phải lấy những hành động hy sinh quyết liệt hơn mong cảnh tỉnh chính phủ
để khai thông đâu óc giáo điều của cấp lãnh đạo chính phủ. Ngày 11 tháng 6
năm 1963, trước vài trăm tăng ni tụ họp tại ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình
Phùng, Sài gòn, Hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu, hy sinh nhục thể để
hiến mình cho chánh pháp. Người ta thấy Hoà thượng từ trong một chiếc xe bước
ra và từ từ tiến tới đám đất trống quì xuống, hai tay chấp trước ngực, miệng
khoan thai tụng niệm. Một nhà sư trẻ khác xách một thùng xăng tưới và thân
thể Ngài. Hoà thượng châm lửa đốt. Lửa đỏ bốc lên cao nhưng Hoà thượng vẫn
ngồi trong tư thế kiết già cho đến khi ngọn lửa bao trùm lấy thân thể. Ngài
mới té nghiêng mà hai tay vẫn chắp vào nhau trong sự biểu hiện của Từ Bi, Trí
Tuệ và Đại Hùng. Sự hy sinh cao cả của Hoà thượng Thích Quảng Đức, sự hy sinh
mà suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm của Phật giáo, lần đầu tiên mới xảy ra
đã làm chấn động tâm thức của dân tộc:
Lửa! Lửa cháy ngất toà sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành thơ quì cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòe lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
ánh đạo vàng phơi phới đang bùng lên, dâng lên.
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người về phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật giáo chẳng rời tay...
(Trích từ "Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương, sáng tác để
tưởng niệm Hoà thượng Thích Quảng Đức).
Anh em Ngô Đình Diệm và những kẻ chỉ biết dùng bạo lực để đối
phó với tình thương đã không biết hoặc không thèm để ý đến nghĩa cao đẹp và
mục tiêu vị tha đó nên sự hy sinh cao quý của Hoà thượng Thích Quảng Đức đã
bị chính quyền Ngô Đình Diệm đánh giá như một sự khiêu khích mà thôi.
Trên mặt quần chúng, ngọn lửa tự thiêu của Hoà thượng Quảng
Đức đã thúc đẩy thêm ngọn lửa chống đối chế độ Cần lao công giáo. Tổng thống
Diệm vội vã gởi thông điệp kêu gọi dân chúng bình tĩnh, trong đó có câu: Mọi
sự khó khăn sẽ được giải quyết trên "căn bản lương tri và ái quốc, trong
tình đoàn kết huynh đệ. Không nên tin có âm mưu trì hoãn giải quyết các vấn
đề sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn Hiến pháp, nghĩa là có tôi".
Sau khi thông điệp của Tổng thống được công bố vào ngày
14-6-1963, hai Uỷ ban liên bộ và liên phái lại tái họp tại Hội trường Diên
Hồng. Cũng ngày ấy, Hội đồng tướng lĩnh ra thông báo kêu gọi "đoàn kết,
bình tĩnh, tránh sự hiểu lầm, đặt quyền lợi quốc gia trên hết, và mong các
vấn đề được giải quyết trong tình huynh đệ.
Ngày 16-6-1963, để tìm hậu thuẫn của công luận khách quan của
thế giới và để bảo đảm thêm sự an toàn của cuộc đấu tranh, gần 200 tăng ni đã
tập họp biểu tình trước Toà đại sứ Hoa kỳ yêu cầu ủng hộ Phật giáo đạt được
năm nguyện vọng. Đồng thời, độ ba ngàn đồng bào đến chùa Giác Minh để dự tang
lễ Hoà thượng Quảng Đức, nhưng đám tang đã phải dời lại vì bị cảnh sát dã
chiến dùng lựu đạn cay giải tán. Sự xô xát này gây cho cảnh sát bị thương 12
người và dân chúng bị bắt 251 người. Cũng cùng ngày, hai Uỷ ban liên bộ và
liên phái, sau ba ngày đêm thảo luận, đã hình thành một bản thông cáo chung
xác định những điểm đã thoả thuận về cách thức treo Quốc kỳ và Phật kỳ, xét
lại dụ số 10 về quy chế tôn giáo, điều tra các vụ bắt bớ và khoan hồng với
những người tranh đấu cho Phật giáo, dành mọi dễ dàng cho các hoạt động tôn
giáo, trừng trị nhân viên có lỗi, bồi thường cho các nạn nhân. Bản thông cáo
này có mang chữ ký và triện của Tổng thống Diệm.
Sau bản thông cáo chung đó, để chứng tỏ thiện chí hoà hợp với
chính phủ, Uỷ ban liên phái bèn quyết đính hạn chế số người tham dự đám tang
Hoà thượng Quảng Đức chỉ còn 300 tăng ni và các nhà báo mà thôi để tránh sự
tụ họp quá đông đảo của quần chúng, là cơ hội cho những phần tử phá hoại hoặc
đặc công Việt cộng lợi dụng xách động. Do đó tang lễ của Hoà thượng Quảng Đức
đã được cử hành một cách tranh trọng trong trật tự, không có một đụng độ nào
giữa nhân viên công lực và dân chúng. Sau khi nhục thể của Hoà thượng được
hoả thiêu tại lò An Dưỡng Địa Phú Lâm, Xá Lợi của Ngài được đựng trong bình
mang về thờ ở chùa Xá Lợi.
Rõ ràng là với sự hình thành của bản thông cáo chung và hình
thức trang nghiêm giản dị của tang lễ Hoà thượng Quảng Đức, Phật giáo đủ để
xác định một thái độ chính trị, nếu gọi đó là chính trị, rất minh bạch và hợp
lý.
Với thiện chí của Uỷ ban liên phái, nếu chính phủ quả thật
muốn giải quyết vấn đề Phật giáo theo tinh thần “huynh đệ” thì chỉ cần chính
phủ thi hành ngay những điều khoản trong thông cáo chung, những điều khoản
đơn giản, hợp pháp, chính đáng, mà với tư cách một Tổng thống đã được Quốc
hội uỷ cho toàn quyền hành động, có thể giải quyết ngay vụ Phật giáo trong
một ngày là xong.
Khốn nỗi thông cáo chung ra đời ngày 16-6-1963 mà mãi đến 28
tháng 6, nghĩa là 12 ngày sau, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ mới thông báo
cho Uỷ ban liên phái biết rằng: "Bộ nội vụ sẽ ra nghị định về việc treo
cờ, dụ số 10 sẽ được áp dụng “linh động”, một số sinh viên và Phật tử đã bị
bắt sẽ được thả nhưng có một số sinh viên phải ra Toà, chỉ Bộ Nội vụ mới được
quyền kiểm tra các chùa chiền, hồ sơ tạo mãi sẽ được xét mau lẹ, việc bồi
thường các nạn nhân phải đợi điều tra”.
Nội dung bức thư đã nói lên một cách dứt khoát thái độ của
chính phủ không muốn thi hành thông cáo chung: tại sao dụ số 10 lại được áp
dụng một cách “linh động”?, tại sao chưa chịu bồi thường cho các nạn nhân mà
còn phải đợi điều tra?, tại sao không nói đến trường hợp của thiếu tá Đặng
Sĩ, người đã gây ra vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế? tại sao chính phủ chỉ lo
thể lệ treo cờ, lo kiểm tra chùa chiền còn những nguyện vọng căn bản và hành
đạo của Phật giáo lại không được thoả mãn? Trong lúc đó bà Ngô Đình Nhu lặp
đi lặp lại nhiều lần lời tuyên bố vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu mà bà ta
gọi là những vụ nướng thịt" (barbecue) và "nếu ai còn muốn tự thiêu
mà thiếu dầu xăng thì tôi sẽ cho". Sau văn thư của Phó tổng thống Nguyễn
Ngọc Thơ lộ rõ âm mưa trì hoãn việc thi hành Thông cáo chung lại đến những
thủ đoạn của chính quyền muốn tiêu diệt lực lượng Phật giáo Việt nam mà lúc
bấy giờ Uỷ ban liên phái đang là đại diện. Một trong những thủ đoạn đó là
xuyên tạc tính chất đại diện chính thức và chính đáng của Uỷ ban liên phái.
Ngày 20-6-1963, nghĩa là mười ngày sau khi thông cáo chung ra đời, chính phủ
tập hợp các tăng sĩ thuộc phái Cổ Sơn Môn tại Phú Thọ Hoà dưới quyền chủ toạ
của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương để lập kiến nghị ủng hộ chính phủ và
đặc biệt đánh điện qua Tích Lan yêu cầu Giáo hội Phật giáo Thế Giới "can
thiệp và ngăn cản” cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt nam. Đồng thời cũng được
phối hợp trong ngày hôm đó, Ngô Đình Nhu và Cao Xuân Vỹ huy động Thanh niên
cộng hoà tổ chức một cuộc biểu tình có cảnh sát hộ tống, yêu cầu Tổng thống
Diệm duyệt lại bản thông cáo chung. Ngày 26-6 Thượng toạ Thiện Minh gởi văn
thư lên chính phủ phản đối sự kiện “bản Thông cáo chung không được thi hành
và chính quyền đã có những hành động, những âm mưu không muốn thoả hiệp”. Tại
miền Trung, các chính quyền địa phương vẫn tổ chức mít tinh lên án Phật giáo
vẫn cản trở việc đi lại của các tăng ni, vẫn phong toả chùa chiền"...
Trong lúc cuộc tranh chấp đang đi vào giai đoạn căng thẳng vì
thái độ ngoan cố của chính quyền và nhất là vì các thành phần khác của dân
tộc, ý thức được tính cách liên đới ruột thịt với Phật giáo dở dang chống bạo
quyền nên đã công khai và đông đảo ủng hộ, thì ngày 5 tháng 7, chính phủ Diệm
lại phạm thêm một lỗi lầm chính trị lớn khác bằng quyết định đem 19 quân nhân
và 34 nhân sĩ của vụ "phản loạn Nhảy dù 11-11-60" ra xét xử tại Toà
án quân sự đặc biệt Sài gòn. Quyết định của anh em ông Diệm nhằm vào thời
điểm đặc biệt để phát xuất từ tính chủ quan mù quáng tưởng có thể dùng vụ án
như một hình thức cảnh cáo để hăm doạ trí thức, sinh viên và đảng phái đang
mỗi ngày một đông đảo ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo. Từ đó, vấn đề đang
được giới hạn trong một tôn giáo và những qui chế đặc thù có tính xã hội bỗng
trở thành một cuộc khủng hoảng của tính chính trị và liên hệ đến mọi thành
phần khác của đại khối dân tộc.
Ngày 7 tháng 7, trong lúc dinh Gia Long đang hân hoan yến tiệc
kỷ niệm “Song Thất” thì trong một căn phòng cô đơn của Thủ đô Sài gòn nhà văn
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống độc dược để kết liễu đời mình với lời di chúc
sang sảng hào hùng như bản án kết tội phản quốc của chế độ Ngô Đình
Diệm: Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử cả. Sự việc đem
các đảng phái quốc gia đối lập ra xét xử là một trọng tội với quốc gia, chỉ
đưa đất nước rơi vào tay Cộng sản. Vì thế tôi tự huỷ mình cũng như Hoà thượng
Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do. Ký
tên: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, ngày 7-7-1963.
Ngày 12-7, đại tá Đỗ Cao Trí, em ruột của Dân biểu gia nô Đỗ
Cao Minh, được thăng thiếu tướng, và được đặc cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn I
thay thế cho tướng Lê Văn Nghiêm bị nghi ngờ thân Phật giáo, để Trí thẳng tay
đàn áp cuộc tranh đất ở Huế và miền Trung.
Ngày 23-7, trung tá Trần Thanh Chiêu, một Cần lao công giáo
giám đốc nha Dân vệ, điều động 100 dân vệ và thương phế binh đến biểu tình
trước chùa Xá Lợi chăng biểu ngữ đòi hỏi "đoàn kết để tránh sự lợi dụng
của Việt cộng”.
Ngày 3-8, trong lời hiệu triệu Phụ nữ bán quân sự bà Ngô Đình
Nhu lên án những vụ tranh đấu tôn giáo và qua ngày 8-8, để gián tiếp trả lời
câu khiển trách “thiếu lễ độ đối với Phật giáo” của thân phụ là Đại sứ Trần
Văn Chương trên đài VOA ngày 6-8, bà Nhu nhận là có thiếu lễ độ nhưng cho đó
là một thái độ cần thiết. Bà cũng cám ơn ông Đại sứ đã cho bà một dịp để bà
tỏ ý kiến(?). Ngày hôm sau, 9-8 bà Nhu lại trả lời cuộc phỏng vấn của tờ New
York Times bằng lập trường: "Quyết liệt đối phó với cuộc tranh đấu hiện
nay của Phật giáo”.
Theo David Halberstan, sau khi thông cáo chung ra đời, trong
một buổi ăn sáng tại dinh Gia Long, bà Nhu đã nặng lời trách móc ông Diệm:
"Anh đã đánh tan Bình Xuyên, đánh bại Hoà Hảo, dẹp yên Nhảy dù mà bây
giờ anh lại chịu thua mấy tên nhà sư khốn nạn không có một tấc sắt trong tay.
Anh là đồ hèn, anh là sứa". Bị bà Nhu nặng lời chỉ trích, ông Diệm chỉ
còn biết phân trần với em dâu: "Thím không hiểu rõ vấn đề, vụ Phật giáo
còn liên hệ rắc rối với quốc tế, chúng ta sẽ giải quyết".
Không riêng ở Sài gòn ông Nhu đòi "duyệt lại bản thông
cáo chung", bà Nhu đòi "đối phó quyết liệt với vụ tranh đấu của
Phật giáo”, mà tại Huế, ông Ngô Đình Thục cũng khinh thường cuộc đấu tranh
của Phật giáo, coi quyết tâm vùng lên sau bao năm bị áp bức đó chỉ như “một
ngọn lửa rơm, bừng lên rồi tắt, có chi mà sợ" (theo "Bên dòng
lịch sử" của Cao Văn Luận). Trước dã tâm của anh em nhà Ngô và mặc
dù lực lượng an ninh được tăng cường khắp nơi (riêng tại Sài gòn, chính phủ
đưa về hai tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến và hai tiểu đoàn Nhảy dù) phong trào
đấu tranh càng trở nên kiên cường, toàn diện và mãnh liệt hơn. Tại nhiều
tỉnh, các Đại Đức, ni cô tiếp tục tự thiêu, các Phật tử tiếp tục biểu tình,
tuyệt thực, các sinh viên y khoa, luật khoa, học sinh các trường Chu Văn An,
Trương Vĩnh Ký, Gia long, Trưng Vương... xuống đường hội thảo. Sư bà Diệu
Huệ, thân mẫu của Đại sứ Bửu Hội cũng đòi tự thiêu và nữ sinh Mai Tuyết An,
18 tuổi ở Nghị Nghè, sau khi đi chùa về đã cầm dao chặt tay để phản đối lời
tuyên bố của bà Nhu. Nhiều đảng viên của các đảng Đại Việt, Việt Quốc, Duy
Dân ở Sài gòn và các tỉnh đã tích cực hoạt động yểm trợ cho Phật giáo. Đặc
biệt giới trí thức và nhân sĩ dù âm thầm hay công khai đều chống lại nhà Ngô
mà điển hình là giáo sư Phạm Biểu Tâm, Khoa trưởng đại học Y khoa, một nhân
vật có uy tín lớn lao được giới trí thức và sinh viên rất trọng vọng (đã hai
lần được ông Diệm mời làm Bộ trưởng mà vẫn từ chối) và một số giáo sư bị bắt.
Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, vì ủng hộ phong trào
sinh viên tranh đấu nên cũng bị cắt chức ngày 16-8-1963.
Đến đây thì cuộc tranh đấu đã thật sự có tầm vóc quốc gia.
Những phẫn uất câm nín, những đày đoạ nhọc nhằn, những áp bức tàn bạo bị dồn
nén từ chín năm nay trên mọi miền đất nước, trong mọi tấm lòng của nhân dân
đã nổ bùng lên, kết hợp với phong trào đấu tranh của Phật tứ để trực diện đối
phó với một chính quyền lạnh lùng và hiểm độc. Những danh từ mỹ miều của ông
Diệm như “lương tri”, như “giải quyết trong tình huynh đệ” đã bị chính ông và
tập đoàn Cần lao công giáo do anh em ông lãnh đạo chà đạp xuống đất. Dân cúng
vốn đã không tin vào "thành tín" của ông, vốn đã kinh qua trăm đắng
ngàn cay do chế độ ông tác hại, thì giờ đây sự công phẫn tích tụ từ lâu chỉ
có thể biểu hiện bằng một thái độ mà thôi: Những kẻ bị đàn áp cũng đứng chung
một chiến tuyến để chống lại tập đoàn thống trị.
Ngay cả nhà tôi dù suốt đời vẫn quen sống trong nhà thủ phận
nuôi chồng nuôi con, một năm chỉ lên chùa vào ngày Tết và lễ Phật Đản, lễ Vu
Lan, và dù biết chồng là một cán bộ rường cột của Tổng thống Diệm nhưng trước
hành động hung hãn của nhóm " Công giáo Cần lao" khi đối với các
nhà tu hành cô thế, cũng đã bí mật gia nhập vào các hoạt động quần chúng để
giúp các chùa trong cơn Pháp nạn tại Nha Trang nơi nhà tôi và các con nhỏ
đang cư ngụ lúc bấy giờ. Tại thành phố nhỏ này, từ ba tháng nay nhiều chùa đã
bị canh phòng theo dõi, riêng chùa Tỉnh Hội, ngôi chùa lớn nhất Khánh Hoà bị
cô lập, cúp điện, cúp nước và bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế của Phật tử. Nhiều
tăng ni bị đánh đập, trói lại và giam tại quân lao, còn Thầy trụ trì và Thầy
Hội trưởng Thích Đức Minh thì bị tra khảo mang thương tích nặng nề. Do đó,
một mặt nhà tôi bí mật liên lạc với các nhân sĩ có uy tín tại Nha Trang như
gia đình cụ Thượng thư Trí Sĩ Tôn Thất Toại, cụ Phủ Tâm, Huyện Tùng (thân
sinh của lãnh tụ sinh viên trường Luật Nguyễn Hữu Doãn), cụ Bùi Liên (thân
phụ giáo sư Bùi ái hiện ở Pháp), gia đình cụ Võ Đình Dung, Võ Đình Thuỵ, gia
đình bác sĩ Trần Kiêm Phán, gia đình ông Phó Tỉnh trưởng Lê Bá Chân, gia đình
Giáo sư Ưng Trung... bí mật lập Uỷ ban cứu đói gần 300 tăng ni và Phật tử
đang bị bao vây trong ngôi chùa Tỉnh Hội. Nhà tôi còn tác động tinh thần đại
uý Lê An có nhà ở cạnh chùa để dùng làm trạm liên lạc với chùa và để chứa
thực phẩm hầu chuyển vào chùa trong đêm khuya.
Mặt khác cùng với một số đông đảo quân nhân Phật tử, nhà tôi
tổ chức một cuộc "vượt ngục" cho các nhà sư đang bị giam ở quân
lao, đưa thầy Hội trưởng về nhà riêng ẩn trốn để thầy tiếp tục lãnh đạo cuộc
đấu tranh cho đến ngày 1-11-63 bùng nổ.
Trong lúc đó thì bề ngoài tôi vẫn hành xử như một Giám đốc nha
An ninh quân đội của chế độ nhưng bề trong thì con người cán bộ tiền phong xa
xưa của tổ chức Ngô Đình Diệm bắt đầu trỗi dậy để tìm phương thế cứu lấy thầy
mình trong cơn hoạn nạn. Nếu con người của chế độ đã chán chường bất mãn thì
con người cán bộ lại thao thức băn khoăn vì thương thế duy nhất mà tôi suy
nghĩ phải đủ cứng rắn để tỉnh thức ông Diệm dù trong cái liên hệ thắm thiết
giữa ông và tôi từ 20 năm qua chỉ có một điểm không tương đồng, đó là niềm
tin tôn giáo.
Thật vậy, từ lâu, theo lời trung tá Nguyễn Văn Châu ở cạnh nhà
tôi biết ông Diệm thường dò hỏi nếp sống trong gia đình tôi đặc biệt là việc
thờ tự. Châu cho ông biết trong nhà tôi có bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà rất
tôn nghiêm, nhất là vào các dịp tết nhất cúng kỵ rất trang trọng. Trong thư
phòng của tôi lại có tượng Đức Khổng Tử tỏ ra tôi là con người nặng lòng với
nền Tam Giáo. Ông Diệm đã biết thế mà nhiều đêm thầy trò đàm đạo, có lẽ vì
muốn thuyết phục tôi nên ông không ngại ngùng mỉa mai chỉ trích đạo Phật là
thứ đạo mê tín dị đoan, còn các nhà sư thì quê mùa dốt nát, chẳng qua vì
nghèo đói, không có nghề nghiệp sinh nhai nên mới phải nương thân nơi cửa
chùa lo việc gánh nước quét lá để kiếm nắm xôi miếng oản rồi lâu ngày thành
ra sư nọ sư kia. Ông lại ca ngợi đạo Thiên Chúa là thứ đạo văn minh khoa học,
thứ đạo quốc tế với bảy, tám trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới năm châu.
Rồi ông khuyến dụ tôi nên theo đạo Chúa. Nghe ông phê phán như vậy, tôi chỉ
cười thầm trong bụng, tôi biết ông cũng có đọc Nho, Lão, Phật nhưng ông không
thể hiểu cái tinh tuý của đạo Phật, cái triết lý cao thâm của Phật giáo.
Trước hoàn cảnh khó xử đó và trong khi tìm phương cách giải
quyết cuộc khủng hoảng, tôi giữ thái độ trung lập, không theo chế độ để phản
lại niềm tin nhân bản của mình, mà cũng không theo Phật giáo để phản lại vị
thầy cũ. Hơn nữa, dù ông Diệm có nghi ngờ tôi nhưng ông vẫn chưa đối xử với
tôi một cách cạn tàu ráo máng như tôi đã đối với tướng Lê Văn Nghiêm, một
người bạn thân của tôi. Trái với thái độ đó của ông Diệm, ông Nhu cứ muốn đẩy
tôi vào chân tường, dùng độc kế ly gián để cho Phật giáo và đồng bào hiểu lầm
tôi.
Lần thứ nhất, ông Nhu điện thoại ra lệnh cho tôi bảo dùng máy
viễn liên gọi thẳng tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn I, về Sài gòn trình
diện ngay Tổng thống. Về Sài gòn, tổng thống ra lệnh cho ông Nghiêm phải tức
khắc giao chức Tư lệnh Quân đoàn I cho tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Nghiêm bất mãn
bèn đến gặp tôi và tức giận hỏi tôi đã báo cáo những gì làm cho ông ta bị mất
chức một cách vô lý, nhục nhã như vậy Lúc đó tôi mới hiểu vì sao ông Nhu
không gọi thẳng tướng Nghiêm mà lại ra lệnh cho tôi gọi. Tôi đã hết sức phân
trần nhưng có lẽ đã không giải toả được thắc mắc của tướng Nghiêm, cái thắc
mắc vì sao Phủ Tổng thống không gọi thẳng cho ông ta, một Thiếu tướng hai
sao, vào trình diện mà phải qua Giám đốc An ninh quân đội một đại tá.
Lần thứ nhì, cũng bằng điện thoại, ông Nhu ra lệnh thẳng cho
tôi phải bắt giam giáo sư Trần Quang Thuận, một trí thức Phật giáo nổi tiếng
chống đối chế độ. Làm như vậy ngoài việc ông Nhu muốn ly gián tôi với hàng
ngũ Phật tử và thành phần trí thức, ông còn muốn ném đá giấu tay vì Trần
Quang Thuận thuộc con nhà dòng dõi cụ Thân Thần, vốn là bạn thân của cụ Ngô
Đình Khả, Thuận lại là cháu rể của ông Tôn Thất Thiết đang giữ chức Giám đốc
Sở Nội Dịch Phủ Tổng thống, lần này biết được thủ đoạn của Ngô Đình Nhu và vì
muốn giữ thái độ trung lập, tôi cho mời Trần Quang Thuận đến văn phòng cho
ông ta biết tôi được lệnh của ông Cố vấn để bắt giam ông ta. Tuy nhiên, tôi
chỉ khuyên ông nên hoạt động kín đáo hơn, nhất là bớt những dấu hiệu chống
đối nhà Ngô đi, rồi tôi để cho ông ta về ngay mà không giam giữ một giờ phút
nào.
Lần thứ ba, qua tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu trưởng Bộ
Tổng tham mưu, ông Nhu trao cho tôi một danh sách gồm độ vài mươi nhân vật
trí thức tại Sài gòn, ra lệnh phải bắt giữ và điều tra vì họ có tội hoạt động
chống chính phủ. Một lần nữa, tôi biết Ngô Đình Nhu muốn tôi nhúng tay vào
tội ác qua việc bắt những nhân vật dân sự không thuộc thẩm quyền của tôi. Dù
vậy, vì hệ thống chính quyền còn chặt chẽ nên tôi vẫn phải thi hành lệnh của
ông Cố vấn Tổng thống quyền uy tuyệt đỉnh đang điều khiển mặt trận tiêu diệt
Phật giáo.
Vì số người định bắt giữ quá đông, tôi chia ra làm nhiều đợt
và bắt giữ nhiều nơi. Đối với số nam nữ giáo sư của trường Chu Văn An, Petrus
Ký, Trưng Vương, Gia Long, Võ Trường Toán... và một số luật sư, bác sĩ, đích
thân tôi mời họ lần lượt đến văn phòng và cho họ biết do lệnh của ông Cố vấn,
tôi phải bắt giữ họ. Tôi tha họ về ngay sau khi nói cho họ biết nếu hoạt động
không kín đáo thì công an của Dương Văn Hiếu hay lực lượng đặc biệt của Lê
Quang Tung sẽ bắt lại và trong trường hợp đó, hậu quả sẽ tàn khốc vô cùng.
Nhìn lại từ đầu biến cố cho đến những ngày đầu tháng 8 năm
1963, lập trường của Phật giáo đồ và chính sách của chính phủ vẫn không có gì
thay đổi nếu không muốn nói càng lúc càng quyết liệt hơn. Nghĩa là một bên
tranh đấu cho công bằng xã hội mà cụ thể là quyền tự do tín ngưỡng, và một
bên là duy trì nguyên trạng đàn áp mà cụ thể là Kỳ thị tôn giáo. Yếu tố mới
trong cuộc khủng hoảng là sự xuất hiện của các lực lượng khác của dân tộc,
các thành phần khác của xã hội. Từ học đường đến đảng phái, từ văn nghệ sĩ
đến nhân công, từ thương gia đến chuyên nghiệp. Hai lực lượng khác rất đáng kể
vì vai trò và sức mạnh của nó là Giáo hội Thiên chúa giáo Việt nam và quân
lực Việt nam cộng hoà, cho đến giờ phút đó và ít nhất trên mặt chính thức như
một tổng thể, vẫn chưa có những xáo động sâu sắc hoặc lập trường công khai
nào cả, nghĩa là vẫn đứng về phía chính quyền, mặc dầu trong quân đội không
thiếu những sĩ quan hoặc binh sĩ đã âm thầm ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật
giáo, hay một vài linh mục cũng đã bí mật liên lạc với các Thượng toạ tại Sài
gòn.
Chiến thuật vừa đánh vừa đàm của chính quyền đó là để kéo thời
gian cho lực lượng siêu chính quyền của Cần lao công giáo chuẩn bị một trận
xung kích cuối cùng, một trận phải có máu đổ xương rơi để chấm dứt vĩnh viễn
sự hiện diện của Phật giáo không phải chỉ trong biến cố này mà còn cho cả mai
sau nữa.
Đêm 20 tháng 8, anh em ông Diệm điều động cảnh sát dã chiến và
lực lương đặc biệt tấn công các chùa ở Sài gòn như Xá Lợi, Ấn Quang,
Theravada, Giác Minh, Từ Quang... Ở các chùa Huế như Bảo Quốc, Từ Đàm, Linh
Quang... và nhiều chùa lớn ở các tỉnh khác. Tại chùa Xá Lợi, đội quân xung
phong của chính quyền đập phá bàn thờ, tượng Phật và lấy mất thùng công
quả... gây thương tích cho hàng trăm tăng ni. Riêng Hoà thượng Hội chủ Thích
Tịnh Khiết thì bị xô té và bị thương nặng ở mắt, tại Sài gòn chúng bắt tất cả
hơn 1400 tăng ni, Phật tử, kể cả Thượng toạ Tâm Châu, cụ Mai Thọ Truyền, sư
bà Diệu Huệ, Thượng toạ Trí Quang... Cuộc tấn công kinh hoàng đó của chế độ
Diệm được một người bạn Mỹ của ông ta là nhà viết sử Buttinger ví von như một
cuộc tấn công của đội xung kích Nazi.
Gần 5 giờ sáng ngày 21 tháng 8, Tổng thống Diệm triệu tập khẩn
cấp Hội đồng Chính phủ rồi ra tuyên cáo: "Phải hành động quyết liệt và
lãnh trách nhiệm trước lịch sử vì có tin Việt cộng sắp tràn ngập Thủ đô, ban
hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ, ra lệnh cho quân đội bảo vệ an ninh
trật tự (Sắc lệnh số 84/TTP), tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân đoàn III được
cử kiêm Tổng trấn Sài gòn - Gia định có nhiệm vụ thi hành lệnh thiết quân
luật. Lệnh giới nghiêm cấm dân chúng đi lại từ 9 giờ đêm đến 5 giờ sáng. Cuộc
tấn công chùa chiền bằng võ lực và lời tuyên bố xuyên tạc của Tổng thống Diệm
nói rằng Việt cộng sắp tràn ngập thủ đô để biện minh và hợp pháp hoá hành
động bất hợp pháp, bất hợp hiến của mình, đã nói lên sự thất bại về chính trị
và nhân tâm của chế độ. Ngoài ra phương cách đối phó liều lĩnh của anh em ông
Diệm càng tạo thêm những phản ứng vô cùng bất lợi của nhân dân và quốc tế mà
phản ứng đầu tiên lại là hành động xuống tóc và từ chức của Bộ trưởng Ngoại
giao Vũ Văn Mẫu. Sau cuộc tấn công tàn ác vào các chùa chiền, bắt bớ tăng ni
Phật tử và giam giữ một số sinh viên, đồng thời đóng cửa các trường học và
phi trường Tán Sơn Nhất, anh em ông Diệm bèn lợi dụng sự giao động của quần
chúng để phóng tay phát động những thủ đoạn tàn nhẫn hơn của họ.
Sáng ngày 22-8, ông Nhu kêu gọi Thanh niên cộng hoà phải làm
"rạng tỏ chính sách". Đồng thời chính phủ ra thông cáo cho biết đã
khám xét và tịch thu được một số khí giới và dụng cụ bất hợp pháp tại chùa Xá
Lợi, Ấn Quang, Theravada.
Ngày 24-8, anh em ông Diệm lại tạo ra một bức thư giả mạo của
Hoà thượng Thích Tinh Khiết nói rằng Hoà thượng giới thiệu một số Thượng toạ
trong Giáo hội Tăng Già Toàn Quốc để trông nom Phật sự, trong lúc thật sự Hoà
thượng Tịnh Khiết còn đang bị thương và đang bị giam lỏng tại quân y viện
cộng hoà. Họ đã tái diễn một cách trơ trẽn trò viết thư giả mạo như họ đã làm
đối với bác sĩ Phan Quang Đán sau vụ Nhảy dù trước đó vài năm.
Ngày 26, họ ép buộc Thượng toạ Thích Thiện Hoà thành lập một
Uỷ ban Liên hiệp Bảo vệ Phật giáo thuần tuý gồm toàn các thầy chùa Cổ Sơn Môn
để hành xử như các hội "Phật giáo yêu nước" hoặc "Công giáo
yêu nước" của Cộng sản sau 1975.
Ngày 27, các đoàn thể tay sai của họ và các Tỉnh Trưởng gởi
kiến nghị bày tỏ lòng trung thành và ủng hộ lên Phủ Tổng thống.
Ngày 31 tháng 8, Tổng thống Diệm viếng thăm ngôi chùa Sư Nữ ở
Gia định, nhưng cũng đúng giờ đó, họ tổ chức Thanh niên cộng hoà biểu tình ở
công trường Lê Lợi để ủng hộ chính phủ.
Ngày 1 tháng 9, có tin đồn ảnh của Tổng thống Diệm bị tháo gỡ
ở vài công sở và được thay thế bằng ảnh của Cố vấn Tổng thủ lãnh Thanh niên
cộng hoà. Có tin đồn cố vấn Nhu sẽ đảo chính để thi hành một chính sách đanh
thép, độc tài hơn. Ngày 10-9, bà Ngô Đình Nhu dẫn một phái đoàn Dân biểu đi
dự Hội nghị quốc tế nghị sĩ tại Nam Tư nhưng mục tiêu chính là ghé thăm nhiều
nước Âu-Mỹ để giải độc dư luận quốc tế về vấn đề Phật giáo. Theo Đại sứ Cabot
Lodge và nhiều ký giả quốc tế thì bà Nhu đã nghi ngờ sự khôn ngoan của Đức
Giáo Hoàng Paul VI sau khi Ngài bày tỏ sự bàng hoàng trước sự khủng bố tôn
giáo của anh em ông Diệm. Bà Nhu tuyên bố rằng: Đức Giáo Hoàng thật cũng lo
âu một cách quá dễ dàng. Là một người Công giáo, tôi chỉ buộc phải tin vào
tín điều của tôn giáo tôi và tin vào Đức Giáo Hoàng mà thôi. Đức Giáo Hoàng
sẽ không sai lầm khi Ngài tuyên bố về những điều về tôn giáo đặc thù. Tôi
không tin rằng Ngài sẽ đứng ở tư thế của mình mà chối bỏ tôi, vì làm như thế
quả là Ngài đã làm hại lớn cho đạo Công Lời tuyên bố ngạo mạn này phản ánh
hai sự kiện rất đặc thù về bà Nhu mà người anh chồng đang là một vị phẩm số
một của Hội Thánh Thiên chúa giáo Việt nam. Thứ nhất là quan điểm về tính xa
cách giữa đào và đời xác định sự bất lực của giáo lý Thiên Chúa khi đi vào
hiện thực xã hội, nhất là một xã hội tràn đầy khổ đau và áp bức. Thứ hai là
dùng một thức "politique de chantage" với vị giáo chủ của Hội Thánh
khi bắt Giáo Hoàng phải chọn lựa giữa sự chấp nhận hành động của mình, nếu
không thì sẽ "làm hại lớn" cho Thiên chúa giáo.
Điểm đau đớn cho Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt nam là sau lời
tuyên bố đó của bà Nhu cho toàn thế giới biết, Giáo hội đã không có một lời
giải thích nào. Đừng nói đến một lời phản đối!
Ngày 25-8, hàng vạn sinh viên học sinh của thủ đô Sài gòn ào
ạt xuống đường biểu tình trước chợ Bến Thành. Cảnh sát dã chiến can thiệp và
gây ra xô xát làm cho một số bị thương, riêng nữ sinh Quách Thị Trang cầm
biểu ngữ đi đầu bị cảnh sát bắn chết và 1.300 sinh viên bị bắt đưa đến giam
tại trại Quang Trung. Đồng thời sinh viên học sinh tại Huế, Đà Nẵng, Nha
Trang cũng biểu tình, mít tinh lên án chế độ Diệm. Ngày 7-9, để xoa dịu học
sinh, nhà Ngô cho mở cửa lại các trường trung học, nhưng học sinh, nhất là
của các trường Chu Văn An, Trưng Vương, Võ Trường Toàn... quyết định phản đối
không chịu vào lớp.
Nhiều tăng ni trẻ tuổi tiếp tục tự thiêu như Đại Đức Thích
Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành ngày 5-10, Đại Đức Thích Thiện Mỹ,
vị sư thứ bảy tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà. Và ngày 31 tháng 10, cảnh sát
kịp thời ngăn chặn ba vụ tự thiêu trước Quốc hội. Trong khi đó phái đoàn giải
độc dư luận quốc tế cũng gặp những phản ứng bất lợi. Bà Ngô Đình Nhu và Dân
biểu Hà Như Chi đến La mã ngày 25-9 bị một số người Việt đón đường phản đối,
đến Paris bị đông đảo Việt Kiều và sinh viên Việt nam biểu tình đả đảo, ném
trứng thúi và cà chua; đến Washington không được thân phụ là đại sứ Trần Văn
Chương cho gặp và không được Tổng thống Kennedy tiếp kiến. Bà đã họp báo phản
đối người Mỹ và phân trần chế độ gia đình trị của bà không hề đàn áp Phật
giáo mà không nhớ rằng đã nhiều lần bà tuyên bố với phóng viên đài VOA và New
York Times là "phải quyết liệt đập tan phong trào Phật giáo", khiến
buổi họp trở thành một buổi đối chất căng thẳng..
Giám mục Ngô Đình Thục bị Toà thánh bắt rời khỏi Việt nam; có
tin đồn khi tới La mã ông không được phép bệ kiến Giáo Hoàng và theo William
thì ông bị Toà thánh cấm không được tuyên bố những lời khiêu khích và mâu
thuẫn chống đối Phật giáo.
Ngày 17-10, một số ký giả ngoại quốc bị công an bành hung vì
chụp ảnh các vụ cảnh sát đàn áp sinh viên và các vụ xô xát với tăng ni trên
đường Sài gòn. Cùng ngày này, cựu Đại sứ Trần Văn Chương lên tiếng tại
Washington công kích kịch liệt chính sách của Tổng thống Diệm.
Sau nhiều phiên họp, hội viên các quốc gia trong tổ chức Liên
hiệp quốc quyết định gửi một phái đoàn đến Việt nam để điều tra. Ngày
24-9-1963, tuy đại sứ Bửu Hội đại diện chính quyền Ngô Đình Diệm phản đối
quyết định đó, nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận cuộc điều tra của phái
đoàn Liên hiệp quốc. Chấp nhận không chỉ vì áp lực quốc tế mà còn vì Ngô Đình
Nhu đã nuôi sẵn thủ đoạn đánh lừa và mua chuộc nhân viên phái đoàn LHQ. Trong
những mưa mô của Ngô Đình Nhu thì thủ đoạn dơ bẩn nhất là tổ chức cho nhân
viên phái đoàn chăn gối với gái điếm để rồi chụp hình làm
"chantage". Nghĩa là nhân viên nào không chịu bênh vực lập trường
của nhà Ngô thì Ngô Đình Nhu sẽ đưa những tấm hình kia ra trước công luận để
bôi nhọ nhân viên ấy, đồng thời làm mất uy tín của quốc gia của nhân viên đó.
Những tấm hình này đã bị Thuỷ quân lục chiến tịch thu được tại phòng giấy của
Ngô Đình Nhu trong dinh Gia Long ngày 2-11-1963. (Năm 1976, trung tá cảnh sát
tên Hoàng, người phụ lễ cho Linh mục Nguyễn Văn Vi tại Saramento, California,
cùng với Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức nhân đến thăm tôi đã thú nhận chính ông
Nhu chủ trương dùng thủ đoạn “chantage” các nhân viên phái đoàn LHQ như vừa
nói trên vì biết rằng đa số nhân viên phái đoàn đã thu lượm được nhiều tài
liệu rõ ràng chứng minh Phật giáo bị chế độ Diệm kỳ thị, đàn áp, khủng bố.
Trung tá Hoàng là một "Công giáo Cần lao", từng chỉ huy trại giam bí
mật P.42 ở Sở Thú. Cũng vì thủ đoạn trên đây mà ông Đoàn Thêm mới ghi vào tác
phẩm của ông rằng: "Phái đoàn Liên hiệp quốc đã được chính phủ Diệm tiếp
đãi chu đáo và chiều chuộng đặc biệt bằng đủ mọi cách”.
Ngày phái đoàn điều tra của LHQ ra Huế, chính quyền địa phương
đã tìm đủ mọi thủ đoạn để ngăn cản phái đoàn không tiếp xúc được với đồng bào
Phật tử để tìm hiểu sự thật. Trong dịp này, nữ sinh ái Khanh của trường nữ
trung học Đồng Khánh và cũng là đoàn viên trong phong trào đấu tranh sinh
viên học sinh đã âm thầm lên lầu ba của trường Đồng Khánh để nhảy xuống đất
hy sinh thân mạng hầu tạo tiếng vang cho phái đoàn lưu ý. Ái Khanh chỉ bị gãy
xương chân và chấn động nội tạng nhưng hành động can trường của người nữ sinh
yếu đuối này đã vạch trần được bộ mặt tàn độc của chế độ trước phái đoàn LHQ.
Cuộc tấn công chùa chiền đêm 20-8 của chính quyền đã làm tê
liệt các cơ cấu lãnh đạo và khả năng tổ chức của Phật giáo nhưng lại nhờ thế
mà Phật giáo đốt được ngọn lửa tỉnh thức trong lòng đại khối quần chúng.
Những chiến dịch khủng bố và đàn áp dã man nhằm vào giới tăng sĩ lãnh đạo đã
làm cho các tăng sĩ Phật giáo trở thành biểu tượng tiền phong hơn là thành
viên lãnh đạo của phong trào tranh đấu. Trong số những tăng sĩ lãnh đạo cuộc
đấu tranh chống chế độ Diệm, Thượng toạ Thích Trí Quang là nhân vật bị anh em
nhà Ngô đánh giá là nguy hiểm hơn cả Năm 1963, Ngô Đình Nhu đã nói với ký giả
Jerrold Scheeter rằng: "Năm 1961 Trí Quang thuyết phục em tôi là Ngô
Đình Cẩn chi tiền cho Trí Quang xây dựng một cơ cấu chống Cộng trong Giáo hội
Phật giáo vì Cộng sản đã xâm nhập vào Giáo hội. Cẩn bằng lòng giúp Trí Quang
và sự giúp đỡ đó đã thành yếu tố làm cho em tôi suy sụp, Trí Quang là người
thủ đoạn nhất và đã có âm mưu lật đổ chính phủ từ lâu rồi. Có lẽ trong tương
lai chưa biết khi nào tên tuổi của Trí Quang sẽ đồng nghĩa với âm mưu”.
Đêm 20 tháng 8 khi chùa Xá Lợi bị tấn công, Thượng toạ Trí
Quang cũng ở trong số tăng ni bị bắt giải đi nhưng nhờ ông khéo cải trang lẫn
lộn vào đám tăng ni Phật tử cho nên mặc dù công an mật vụ dày công tìm kiếm,
phân cách, chọn lựa mà ông vẫn không bị bắt giải về trại giam Võ Tánh như
trường hợp Thượng toạ Tâm Châu, Thiện Minh v.v... hay cư sĩ Mai Thọ Truyền.
Tình cảnh của Phật giáo đồ Việt nam lúc bấy giờ là tình cảnh chim ông cá
chậu, riêng đối với Thượng toạ Trí Quang quê hương mênh mông mà ông không có
đất dung thân. Hai ngày sau ông trốn được vào Toà đại sứ Mỹ, chủ trương của
ông là ẩn nấp vào nhà người Cha khi ông bị người con đánh đuổi để dùng cái uy
của người Cha mà kiềm chế đứa con hung hăng. Cùng trốn với ông có Đại Đức
Tính Nhật Thiện, một nhà sư trẻ biết nói tiếng Anh thành thạo. Theo Đại sứ
Cabot Lodge thì trong thời gian Thượng toạ ở trong Toà đại sứ, ông rất ít
nói, nhiều khi đã làm cho Đại sứ phải bực mình. Một nhân viên Toà đại sứ giải
thích rằng những nhà sư Việt nam thường có thái độ “nói không hết lời”. Họ
nhận họ là người Việt nam trước đã rồi mới là nhà sư. Họ có những đức tính và
cả những khuyết điểm, những khuyết điểm do dân tộc tính gây nên, không phải
do đạo Phật, vì thế cho nên họ tự cho họ trước khi nhà sư họ là người Việt,
thứ người Việt yêu thương gia đình và yêu thương phần đất quê hương mình
trước hết.
Trong lúc đó thì chính quyền Kennedy dựa vào bản phúc trình
của tình báo Mỹ, biết Phật giáo không phải là Cộng sản nên đã cố gắng khuyến
cáo Tổng thống Diệm nên thoả hiệp với Phật giáo để công cuộc chống Cộng khỏi
bị ngừng trệ nếu không thì miền Nam sẽ vó cùng bất ổn. Tờ trình của tình báo
Mỹ ngày 10 tháng 7 năm 1963 đã nghiên cứu và phân tách rõ ràng qua ba nhận
định chiến lược sau đây:
A- Biến cố Phật giáo tại Việt nam đã làm nổi bật và gia tăng
nỗi bất mãn lâu dài và sâu rộng của dân chúng đối với ông Diệm và cung cách
cai trị của ông ta. Nếu ông Diệm không chịu thành thực và mau chóng giải
quyết vụ Phật giáo thì tình hình trở nên vô cùng bất ổn, một cuộc ám sát hoặc
một cuộc đảo chính sẽ có thể xảy ra dễ dàng hơn bao giờ hết.
B- Vì biến cố Phật giáo mà chính phủ Diệm đã làm cho sự hiện
diện và sự tham chiến của Mỹ tại miền Nam Việt nam mất chính nghĩa. Tình
trạng này buộc Hoa kỳ phải giảm bớt mức độ hiện diện tại miền Nam trong tương
lai.
C- Rõ ràng cho đến bây giờ Phật giáo chưa bị Cộng sản lợi dụng
và khai thác và biến cố Phật giáo chưa có một hậu quả nào có lợi cho hoạt
động phiến loạn của “Mặt trận Giải Phóng Miền Nam”. Chúng tôi không tin rằng
ông Diệm sẽ bị lật đổ bởi Cộng sản. Và chúng tôi cũng không tin rằng Cộng sản
cần lợi dụng biến cố Phật giáo nếu ông Diệm bị lật đổ bởi những phần tử đối
lập không Cộng sản... Một chế độ không Cộng sản nối tiếp chế độ Diệm lúc đầu
sẽ thiếu hiệu năng chống Cộng nhưng nếu được Hoa kỳ tiếp tục ủng hộ và xây
dựng một sự lãnh đạo có khá năng thì có thể có một chính phủ tốt.
|
Đánh máy: Nguyễn Học
|
|
Ngày 29 tháng 2 năm 1947, cựu Đại sứ Hoa kỳ William Bullit
viết trên tờ Life Magazine một bài báo gọi chiến tranh Đông Dương là
"Trận chiến tranh buồn thảm nhất" (The saddest war), ông kêu gọi
Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt nam dù là một Việt nam do Đảng Cộng
sản Đông Dương lãnh đạo.
Lời kêu gọi cửa William Bullit tuy ngây dại nhưng phát xuất từ
khuynh hướng "giải phóng dân tộc" nên đã đánh động được dư luận Hoa
kỳ, cho nên khi Điện Biên Phủ lâm nguy (tháng 5 năm 1954) và khi chính phủ
Pháp yêu cầu Hoa kỳ yểm trợ bằng lực lượng không quân thì Tổng thống
Eisenhwer và ngoại trưởng Foster Dulles từ chối. Quan điểm của Ngoại trưởng
Dulles lúc bấy giờ là nếu Pháp muốn Hoà Kỳ cứu viện thì phải chịu hai điều
kiện: một là phải trả độc lập hoàn toàn cho thành phần quốc gia Việt nam
không Cộng sản và hai là Mỹ phải giành lấy trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến
tranh Đông Dương. Tuy nhiên, phần vì chính phủ Anh không chấp thuận việc đồng
minh tham chiến tại Đông Dương, phần khác vì cả Pháp lẫn khối Cộng sản đều
muốn giải quyết mau chóng vấn đề Việt nam nên chủ trương của Ngoại trưởng
Dulles đã không được thực hiện.
Qui ước của hội nghị Genève 1954 đã tạm thời chia đôi đất nước
tại vĩ tuyến 17. Phản ánh đúng đắn đường lối ngoại giao của mình, Hoa kỳ can
thiệp mạnh mẽ vào vấn đề Đông Dương mà cự thể là giúp ông Diệm về nước để xây
dưng một tiền đồn để chống Cộng tại Đông Nam A. Hoa kỳ đã không ngại ngùng
dùng mọi kế sách và phương tiện để ủng hộ cho miền Nam. Kể cả việc không tôn
trọng hai điều khoản quan trọng của hội nghị Genève về vấn đề Tổng tuyển cử
(năm 1956) và về vấn đề quân đội ngoại nhập. Quân viện và kinh viện Hoa kỳ đổ
vào miền Nam như thác đổ, chuyên viên và phương tiện Hoa kỳ như một kho tàng
bất tận cho nhà cầm quyền miền Nam sử dụng: tiếc thay anh em ông Diệm đã
không biết vận dụng sức mạnh đó để bổ túc cho sức mạnh cốt lõi của dân tộc
hầu phòng Cộng và phát triển quốc gia.
Ngay từ năm 1957, vị Đại sứ Hoa kỳ tại Việt nam là ông Ellridge
Durbrow đã thấy ông Diệm tiến hành một chính sách độc tài trong việc quản trị
miền Nam cũng như đã hành xử một cách quan liêu phong kiến, khiến cho nhân
dân bất mãn và làm đình trệ các chương. trình phát triển kinh tế, xã hội. Ông
Durbrow cũng đã thấy được thái độ lộng quyền thất nhân tâm và phản tuyên
truyền của bà Nhu, nên đã khuyến cáo ông Diệm nhiều lần. Đặc biệt ông đề nghị
giảm bớt các hình thức làm dân bất mãn và tạo cơ hội cho địch tuyên truyền
như giảm thiểu đoàn xe hộ tống đông đảo ồn ào, như đừng bắt dân bỏ công ăn
việc làm cả ngày để chờ chực đón chào Tổng thống, như không nên ngồi chễm chệ
trên ghế bành đặt trên thuyền để sĩ quan lội nước đẩy thuyền. Ông cũng khuyên
nên để bà Nhu ra nước ngoài một thời gian hầu xoá dịu lòng căm phẫn của dân
chúng.
Nhưng những lời khuyến cáo của Đại sứ Durbrow đã không có hiệu
quả nào vì lúc bấy giờ Washington vẫn còn tin tưởng vào "uy tín và tài
năng” của ông Diệm nên không muốn tạo ra những mâu thuẫn cá nhân giữa hai
người, làm phương hại đến mối giao hảo đang tốt đẹp giữa hai quốc gia. Đã
thế, ông Diệm lại bày tỏ sự bất mãn đối với Washington về thái độ của Đại sứ
Durbrow mà ông cho là "hay sinh sự" để Bộ ngoại giao Hoa kỳ làm áp
lực ngược lại ông Durbrow.
Quan hệ giữa ông Diệm và Đại sứ Durbrow càng lúc càng trở nên
căng thẳng và lên đến cao điểm sau biến cố ngày 11-11-1960, biến cố mà vì
những hằn học cá nhân ông Nhu cứ nhất định cho là do Mỹ chủ xướng và Đại sứ
Durbrow là người đóng vai trò quan trọng. Dù lúc bấy Washington đã thấy sự
suy sụp của chế độ mà Đại sứ Durbrow đã báo trước từ lâu, nhưng vì muốn duy
trì mối liên hệ ruột thịt giữa chế độ Diệm và Hoa kỳ cũng như vì muốn làm hài
lòng ông Nhu, Tổng thống Kennedy đã kéo Đại sứ Durbrow về nước và cử Đại sứ
Nolting qua Sài gòn thay thế, dù ông này không có nhiều hiểu biết hoặc kinh
nghiệm về Việt nam cũng như về Đông Nam Á.
Đại sứ Nolting là một nhà trí thức hoà nhã, một nhà ngoại giao
tế nhị mà Bộ ngoại giao đã chỉ thị nên dùng những thái độ mềm mỏng trong khi
khuyến cáo chính phủ Diệm để khỏi phạm tự ái của những nhà lãnh đạo miền Nam.
Ông Nolting đã thi hành quá chỉ thị của thượng cấp đến độ tại Washington
người ta có cảm tưởng ông ta bị lôi cuốn bởi bà Nhu để trở thành một vị Đại
sứ của ông Diệm bên cạnh người Mỹ hơn là một vị Đại sứ của Mỹ tại Sài gòn.
Cảm tưởng đó hẳn không sai lầm vì ông Nhu đã thành công trong việc điều động
viên Đại sứ dễ vận dụng này và đã có lần khen ông Nolting là vị Đại sứ thông
minh nhất của Hoa kỳ tại miền Nam từ trước đến nay.
Người Mỹ đã tìm mọi cách để nâng uy tín ông Diệm lên cao, một
uy tín đang bị sụp đổ và đang cần phải xây dựng lại gần hầu duy trì khả năng
chống Cộng của chính quyền miền Nam.
Thật vậy, vừa làm lễ nhậm chức cuối tháng Giêng năm 1961 thì
ngày 15 tháng 5 Tổng thống Kennedy đã gởi vị Phó tổng thống của mình qua miền
Nam để thẩm định lại tình hình tại chỗ, một tình hình không mấy lạc quan vì
sự gia tăng hoạt động của Việt cộng và những báo cáo bi quan về các thất bại
chính trị của chính quyền miền Nam. Đồng thời Tổng thống Kennedy cũng nhờ ông
Johnson trao lại một lá thư riêng cho ông Diệm tái xác định quyết tâm của Hoa
kỳ tiếp tục ủng hộ ông Diệm và yểm trợ nhân dân miền Nam chống Cộng... Lá thư
nói rõ rằng Hoa kỳ chỉ giúp phương tiện và ngân phí mà thôi, còn việc chiến
đấu bảo vệ quê hương là do chính nhân dân miền Nam nhận lấy trách nhiệm.
Trong chuyến viếng thăm này, để làm hài lòng bản chất tự tôn
và tính kiêu hãnh của vị lãnh đạo miền Nam, ông Johnson khi đến Sài gòn đã
không ngại ngùng công khai ca ngợi "Tổng thống Diệm là Churchill của
thập niên này". Nếu ta so sánh cuộc đời cũng như sự nghiệp chính trị của
Thủ tướng Churchill và ông Diệm thì ta sẽ thấy lời đề cao quá lố này chỉ là
một lời tuyên bố thuần tuý thuộc ngôn ngữ ngoại giao rất cần thiết nhằm gây
lại uy tín cho ông Diệm vốn đã suy sụp quá nhiều, và đồng thời vừa để chứng
tỏ cho Cộng sản cũng như nhân dân miền Nam biết rằng Hoa kỳ vẫn cương quyết
ủng hộ chế độ Ngô Đình Diện dù những sai lầm và thất bại của chế độ đó. Cũng
chuyến viếng thăm này, khi ngồi trên phi cơ bay thị sát các quân khu và bị ký
giả Mỹ chất vấn về lời tuyên bố đó, Phó tổng thống Johnson đã trả lời:
"Xì! Diệm là đứa duy nhất mà ta có ở đây” ( “Shit? Diems the only boy
weve got out there”).
Loại ngôn ngữ ngoại giao đầy thủ đoạn chính trị đó, sau này
cũng đã được Nixon dùng để khen Thiệu là "một trong bốn lãnh tụ tài ba
nhất thế giới" tại vườn hoa Toà Bạch ốc vào năm 1973. Nhưng điểm khác
biệt đáng chú ý là Nixon khen Thiệu để khuyến khích thi hành hiệp định Paris
cho Mỹ có thể giải kết khỏi miền Nam trong “danh dự”, và Thiệu biết lời khen
đó là giả dối, còn Johnson khen ông Diệm là để mong tạo uy tín thêm cho ông
Diệm hầu cuộc chiến chống Cộng có thể thành công, trong lúc trong thâm tâm
thì lại nghĩ khác, nhưng ông Diệm lại không biết điều đó. Vì không biết,
nghĩa là không phát hiện ra sự giả dối và không thấy uy tín mình đang bị mất
nên ông Diệm mới dại dột tuyên bố trong một bài diễn văn đáp từ Johnson rằng:
Biên giới của thế giới tự do chạy dài từ Alaska đến sông Bến Hải, tạo cơ hội
cho Đài phát thanh Hà Nội lợi dụng tuyên truyền về bản chất tay sai của chính
quyền miền Nam trong quan hệ Mỹ- Diệm, và đã đập tan cái luận cứ độc lập và
dân tộc chống Cộng của chính nghĩa miền Nam trong nhân dân.
Mặc dù uy tín và sức mạnh chính trị bắt đầu bị tổn thương sau
vụ thất bại tại “Vịnh Con Heo” ở Cuba vào tháng 4 nhưng Tổng thống Kennedy đã
theo lời yêu cầu của ông Diệm, tiến hành chiến dịch tăng cường số quân nhân
tham chiến (nguỵ trang dưới hình thức cố vấn quân sự và chuyên viên cứu trợ
nạn lụt) tại miền Nam Việt nam sau chuyến điều nghiên của Tướng Mazwell
Taylor và cố vấn Walt Rostow vào tháng 10 năm 1961. Chiến dịch này đã được
ông Diệm và chính quyền Mỹ đồng thuận thi hành một cách tích cực mà sự ra đời
của Bộ Chỉ Huy Yểm Trợ quân sự Mỹ (Ameriean Military Assistance Command) vào
ngày 6 tháng 2 năm 1962 đã cho phép ông Diệm nhận thêm từ 700 "cố
vấn" đến 12.000 “cố vấn” vào giữa năm 1962. Nghĩa là gia tăng 1700 phần
trăm trong vòng 8 tháng. Tất cả chiến dịch đó đã được chính quyền Mỹ khôn
khéo trốn tránh chính Quốc hội và báo chí Hoa kỳ (vốn đang bắt đầu có khuynh
hướng chống việc gửi quân nhân Mỹ tham chiến tại ngoại quốc sau vụ thất bại
tại Cuba) để mạo hiểm một mặt thoả mãn lời yêu cầu của chính phủ Diệm và mặt
khác để bảo đảm sự thành công của cuộc chiến thống Cộng lại miền Nam: Thật
vậy, mặc dù trong cuộc thảo luận với Phó tổng thống Johnson trước đó năm
tháng, ông Diệm đã không muốn đem quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, nhưng khốn
nỗi vào tháng 10, khi tướng Taylor đang trên đường đến Sài gòn thì Việt cộng
phát động các đợt tấn công dữ dội vào tỉnh lỵ Phước Thành, đốt phá các cơ sở,
giết hại cả Tỉnh trưởng lẫn Phó Tỉnh trưởng và rất nhiều binh sĩ, cán bộ,
công chức, đồng thời Việt cộng lại tấn công nhiều quận ly của tỉnh Daklak và
tung ra nhiều đơn vị lớn đánh phá khắp miền Nam, công hãm các đồn bốt chiến
lược dọc quốc lộ số 4 và gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng VNCH. Tình hình
an ninh suy sụp đã khiến cho ông Diệm sợ hãi một cuộc tổng nổi dậy của Việt
cộng nên ông bèn đưa ra lời tuyên bố chính thức rằng chiến tranh thật sự đã
xảy ra tại miền Nam.
Vì không còn giữ ý định chống lại việc quân đội Mỹ tham chiến
tại miền Nam nữa nên ông Diệm đã yêu cầu Mỹ đem một số “quân chiến đấu tượng
trưng” vào miền Nam và lớn tiếng kêu gọi Hoa kỳ cùng với Việt nam cộng hoà ký
một hiệp ước phòng thủ song phương. Trước lời kêu gọi đó của ông Diệm, và
trước tình hình an ninh suy thoái một cách trầm trọng của miền Nam, Bộ Tổng
tham mưu Hoa kỳ cũng khuyến cáo Tổng thống Mỹ nên gởi quân qua Việt nam tham
chiến. Ý kiến này được Thứ trưởng Quốc phòng William P. Bundy ủng hộ mạnh mẽ
vì theo ông Bundy, sách lược "tốc chiến tốc thắng" có thể giúp ông
Diệm nhiều may mắn hơn và có thể lật ngược thế cờ. Nhưng vì việc quân đội Mỹ
công khai tham chiến tại Việt nam có thể gây nhiều phức tạp trong nội bộ chính
trị Hoa kỳ cũng như có thể gây các phản ứng quốc tế nguy hiểm nên Toà Bạch ốc
bề ngoài đã phải giảm thiểu những thúc giục ồn ào tại cả Sài gòn lẫn
Washington, bằng cách giả vờ lộ một số tin tức cho nhật báo New York Times,
tiết lộ rằng "các cấp lãnh đạo ở Ngũ giác đài cũng như Đại tướng Taylor
đều tỏ ra miễn cường về việc gởi các đơn vị chiến đấu Mỹ sang Đông Nam Á”.
Bài báo này đã chặn đứng được những tuyên bố quá lộ liễu của ông Diệm.
Sự thật rõ ràng là chẳng những ông Diệm đòi quân Mỹ vào miền
Nam, mà còn nhờ Mỹ vận động với Trung hoa dân quốc gởi một sư đoàn qua Việt
nam tham chiến. Tài liệu mật của Ngũ giác đài dưới đây tiết lộ một bản mật
điện của Toà đại sứ Mỹ tại Sài gòn gởi về Washington trình bày về cuộc thương
thảo giữa Đại sứ Nolting và ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm
Bộ trưởng Phủ Tổng thống, cho thấy những bí ẩn đó:
Những đòi hỏi vào năm 1961 của Việt nam về những đơn vị tác
chiến Hoa kỳ.
Điện văn từ Toà đại sứ Mỹ tại Sài gòn gởi Bộ ngoại giao
13-10-1961 về những đòi hỏi của Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Quốc phòng của
miền Nam Việt nam. Bản sao gởi Bộ Tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương và Toà
đại sứ Mỹ tại Bangkok Thailand và Taipei Taiwan.
Trong buổi họp 13-10 Thuần đã đưa ra những đòi hỏi sau đây:
1 Thêm phi đoàn AD-6 thay vì phi đoàn T-20 như đã dự định và
gởi qua càng sớm càng tốt.
2- Yêu cầu cung cấp phi công dân sự Mỹ để lái máy bay trực
thăng và phi cơ C-47 để bay những phi vụ tác chiến.
3- Nhiều đơn vị tác chiến Hoa kỳ, hoặc những đơn vị gọi là
"huấn luyện tác chiến" vào miền Nam Việt nam. Một phần để đóng ở
phía Bắc gần vĩ tuyến 17 để thay các lực lượng QĐVNCH ở đó phải bận đi chống
du kích ở vùng Cao nguyên. Và cũng để đóng ở nhiều tỉnh của vùng Cao nguyên
Trung Việt.
4- Phản ứng của Hoa kỳ về dự định của Việt nam yêu cầu Trung
Hoa quốc gia gởi một sư đoàn tác chiến cho mặt trận Tây Nam.
Tài liệu mật của Ngũ giác đài trên đây và sự gia tăng nhảy vọt
của số lượng “cố vấn” Mỹ tại chiến trường Việt nam sau đó, không những đã cải
chính sự huênh hoang tội nghiệp của những phần tử Cần lao công giáo đang cố
bám víu vào cái huyền thoại "Ngô Tổng thống không chịu cho quân Mỹ vào
Việt nam nên bị Mỹ lật", mà còn làm nổi bật lên một sắc thái đặc thù của
liên hệ Mỹ-Việt vào năm 1962 của chính phủ Ngô Đình Diệm: đó là dù ông Diệm
bất lực trong việc chống Cộng, chính phủ Mỹ vẫn yểm trợ, bao bọc ông Diệm. Và
ông Diệm đã công nhận, đã chấp thuận sự bảo bọc đó một cách quá trớn, nhất là
trong trường hợp can thiệp lộ liễu của "cố vấn" Mỹ trong những
quyết định quân sự, đến nỗi sau này lúc hồi tưởng lại năm 1961, khi còn làm
phóng viên tiền tuyến theo dõi các cuộc hành quân, ký giả Ngô Đình Vận đã
viết: "Tôi thấy rõ quân đội trong thời Đệ nhất cộng hoà đã không thực sự
có được độc lập, có được đầy đủ sự chủ động ngay cả trong lúc giao tranh của
địch quân”.
Sự yểm trợ và bao che đó lại càng nổi bật hơn nữa trong trận
ấp Bắc mà kết quả thảm bại, dù rất rõ ràng hiển nhiên, đã được ông Diệm và bà
Nhu đổi ngược thành chiến thắng, và trong liên hệ thắm thiết Mỹ-Việt lúc bấy
giờ, đã được một số nhân vật chủ yếu của chính quyền Kennedy đồng loã công
nhận.
Thật vậy: Từ đầu năm 1962, khi các cố vấn quân sự Mỹ và số khí
cụ tối tân mới được tăng viện cho miền Nam trong kế hoạch Taylor-Rostow thì
quân đội VNCH đã thu lượm một số chiến thắng tại châu thổ sông Cửu Long và
lần đầu tiên đã tiến vào được chiến khu Đ, rừng U Minh, vốn là những căn cứ
bất khả xâm phạm của Việt cộng. Những chiến thắng thuần tuý quân sự đã gây
phấn khởi cho cả Sài gòn lẫn Washington. Để yểm trợ cho mặt trận tuyên truyền
tại Hoa kỳ, ông Diệm đã cho phép đại tá Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư đoàn 7,
diễu hành tại thủ đô Sài gòn với sự tham dự của một số Dân biểu Quốc hội.
Trong lúc đó tại Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara họp báo tuyên bố miền
Nam Việt nam của ông Diệm đang lật ngược thế cờ. Nhưng những chiến thắng đó
chỉ như bọt sóng bắn lên tung tóe rồi sau đó tan vơ mất vì ngay cả chỉ trên
mặt thuần tuý quân sự mà thôi, ưu thế lưu động của hai chiến thuật trực thăng
vận và thiết vận xa M113 đã không được khai thác đúng mức, hơn nữa. chúng lại
không hiệu dụng trong một trận chiến mà kẻ thù đã khôn khéo phối hợp được các
kỹ thuật du kích chiến với những vũ khí tối tân do Nga viện trợ.
Đầu năm 1963, ba cán bộ "Cần lao công giáo" của ông
Diệm là Tư lệnh Vùng 4 Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bùi Đình Đạm và thiếu
tá Tỉnh trưởng Định Tường Lâm Quang Thơ, với quân số đông hơn, với vũ khí
hiện đại hơn, lại hứng chịu thảm bại nhục nhã tại áp Bắc trước tiểu đoàn 514
của địch không đến 400 quân.
Thảm bại rõ ràng này không những đã khiến cho Tướng Lê Văn Tỵ
phải đích thân xuống điều tra tại chỗ mà chính các cố vấn quân sự Mỹ, đặc
biệt là trung tá John Paul Vann - người phối hợp các phương tiện hoả lực gồm
M113, trực thăng UH-1A, trực thăng CH-21, các đơn vị quân đội Mỹ trong vùng
cho trận ấp Bắc này - đã phải nhục nhã gọi là "Một thành tích khốn
nạn" vì tướng Cao đã "chọn lựa tăng cường sự thất bại thay vì nỗ
lực để chiến thắng”.
Báo chí Mỹ tức giận vì sự bất lực của quân đội VNCH và sự vô
hiệu của các chiến cụ viện trợ đã phanh phui sự thất bại đó và còn quá khích
đòi hỏi chính quyền Mỹ phải giành lấy quyền lãnh đạo chiến tranh tại Việt nam
để tiêu diệt Cộng sản. Thảm bại đã rõ ràng như thế, nhưng để tránh cho cuộc
khủng hoảng chính trị tại Sài gòn khỏi lan rộng thêm vì một thất bại quân sự
nặng nề, ông Diệm - và ngay cả bà Nhu, người không có thẩm quyền về các vấn
đề quân sự - đã tuyên bố rằng ấp Bắc là một chiến thắng oai hùng của Sư đoàn
7.
Các nhà lãnh đạo Mỹ, đặc biệt là Bộ trưởng Quốc phòng Mac
Namara, Đại sứ Nolting, Đại tướng Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt nam Paul
Harkins, đành phải bênh vực ông Diệm bằng cách xác nhận đó là một chiến
thắng. Thái độ bưng bít sự thật để tiến hành chính sách - mà trong giai đoạn
đó là chính sách ủng hộ "người hùng" Ngô Đình Diệm - còn tiếp diễn
dài dài sau này suốt cuộc chiến Việt nam.
Chương trình ấp chiến lược là do sáng kiến của ông Thompson
người Anh, Cố vấn du kích chiến của Toà Bạch ốc. Chương trình này đã được
Tổng thống Kennedy hết lòng yểm trợ và đặt hết hy vọng vào hiệu quả của nó mà
sự thành công đã được chứng nghiệm tại Mã Lai dù điều kiện ứng dụng có khác.
Khi Mỹ đề nghị thực hiện chương trình này trong mục đích tiêu diệt hạ tầng cơ
sở của Việt cộng tại nông thôn thì bị ông Ngô Đình Nhu bác bỏ. Mỹ phải vận
động mãi và đặc biệt phải tăng tài phí lên rất cao Ngô Đình Nhu mới chấp
thuận.
Khi tiền viện trợ bắt đầu được tháo khoán, Nhu đích thân nắm
lấy việc điều khiển thực hiện chương trình và cho áp dụng kế sách riêng của
ông ta theo đường hướng của chủ nghĩa “Nhân vị” và đặc biệt để tạo một bộ máy
nhân sự trung thành với chế độ. Mà bộ máy trung thành đó có mục đích quyết
liệt nhất là gì nếu không phải là nhân danh công cuộc chống Cộng đã phát động
và thực hiên cho được âm mưu Công giáo hoá nhân dân trong các ấp chiến lược
như tôi đã trình bày ở một chương trước.
Trước sự thất bại và hệ quả nguy hại rõ ràng đó, ông Rufus
Phillips, nhân viên cao cấp nhất của Mỹ đặc trách về chương trình ấp chiến
lược đã phải phúc trình trực tiếp với Tổng thống Kennedy để yêu cầu tái xét
lại ngay cả sự cần thiết của chương trình này. Nhưng một lần nữa, những nhân
vật rường cột của chánh sách Mỹ tại Việt nam như Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng
Mac Namara, Đại sứ Nolting, Tướng Harkins, và ngay cả Thứ trưởng Ngoại giao
Roger Hillsman (người sau này quyết liệt ủng hộ việc lật đổ chế độ Diệm) vẫn
bênh vực ông Diệm và cho rằng chương trình ấp chiến lược đã thành công.
Nhìn mối bang giao Mỹ - Việt, đặc biệt là liên hệ giữa chế độ
Diệm và các cấp lãnh đạo Hoa kỳ, trong suốt chín, mười năm trời cai trị miền
Nam, anh em ông Diệm đã phạm không biết bao nhiêu lỗi lầm trầm trọng, ta thấy
dù những lỗi lầm đó đã đưa đất nước từ thanh bình đến rối loạn, từ cảnh an
ninh đến tình trạng chiến tranh thật sự, thế mà người Mỹ vẫn một lòng ủng hộ
ông Diệm và chế độ của ông ta.
Mãi cho đến đầu năm 1963, trước cuộc khủng hoảng chính trị
trầm trọng tại miền Nam Việt nam mà hệ quả có thể là sự suy sụp toàn diện sức
mạnh chống Cộng của cả nước, và trước những áp lực của quần chúng Hoa kỳ, của
chính giới Hoa kỳ, của công luận thế giới, của các nước đồng minh, của Toà
thánh Vatican..., giới lãnh đạo Mỹ mới bắt đầu áp dụng những biện pháp cứng
rắn trong lãnh vực chính trị và viện trợ để vừa làm áp lực vừa giúp đỡ chính
quyền miền Nam sửa sai.
Nói chung, về chính trị, người Mỹ đòi hỏi phải tôn trọng và
thực thi nguyên tắc phân quyền và chính sách tản quyền để tránh tình trạng
trung ương tập quyền đang làm mù quáng và tê liệt khả năng điều hành của dinh
Gia Long. Cụ thể là để cho thành phần đối lập được tự do sanh hoạt tại nghị
trường Quốc hội cũng như trong chính giới, xét lại hệ thống bổ nhiệm nhân sự
ở các địa phương để tránh tình trạng lạm dụng quyền hành nhờ có liên hệ đặc
biệt với gia đình Tổng thống, các cuộc bầu cử từ trung ương đến địa phương
phải thực sự tự do và trong sạch... Lẽ dĩ nhiên những đòi hỏi này chỉ được
người Mỹ trình bày dưới hình thức khuyến cáo để tránh tình trạng "can
thiệt vào nội tình của nước khác", ngược hẳn với những biện pháp khác
táo bạo và mạnh mẽ hơn trong việc kiểm soát việc sử dụng tài phí viện trợ.
Vấn đề kiểm soát tiền viện trợ này không phải chỉ vì chính quyền Mỹ muốn hiệu
năng hoá công cuộc chống Cộng mà còn vì muốn biện minh với Quốc hội Hoa kỳ
trong những điều trần về tình trạng tham chiến tại Đông Dương.
Đặc biệt chính quyền Mỹ muốn được biết về số tiền tài trợ cho
Lực lượng đặc biệt, các cơ quan công an, mật vụ, và những mật phí đó được sử
dụng đúng đắn cho các công tác tình báo chống Cộng không. Đòi hỏi này đã bị
ông Nhu xem như là một áp lực của Hoa kỳ nhằm kiểm soát những bí mật quốc
phòng và đã bị ông quyết liệt từ chối, vì ai cũng biết phần lớn của số tiền
đó được chi tiêu để xây dựng bộ máy đàn áp đối lập, xây dựng những tổ chức
kinh tài cho anh ông và cho những hoạt động mờ ám khác.
Trong quân đội, các cố vấn Mỹ tỏ ra khắt khe hơn trong việc sử
dụng các phương tiện của Hoa kỳ khi hành quân và họ cũng tham dự nhiều hơn và
trực tiếp hơn vào những trận đụng độ càng lúc càng lớn với quân Việt cộng.
Tình trạng này đã tạo ra nhiều va chạm giữa sĩ quan Việt nam và sĩ quan cố
vấn Mỹ về chiến thuật giao tranh với kẻ thù. Cho nên trong thời gian đó đã có
những sĩ quan Việt nam không cần tiếp cận của Mỹ và vì tự ái dân tộc đã sáng
tạo ra những chiến thuật tiêu diệt địch oai hùng, nhưng cũng có rất nhiều đơn
vị trưởng khác nhất là các sĩ quan thuộc hệ thống Cần lao chuyên lạm dụng
quyền để thủ lợi, không dám hành quân mà chỉ lui về thế phòng ngự giữ chặt
lấy các tỉnh ly cho an toàn, và để mặc nông thôn Việt cộng thao túng.
Dù chính Mỹ đã khai sinh và nuôi dưỡng chế độ Diệm từ năm
1953, dù người Mỹ trong các cơ quan then chốt đã đóng những vai trò quan
trọng trong các chính sách từ nhiều năm qua... nhưng đến khi cần chống Mỹ thì
Nhu lại nêu những khuyến cáo và những biện pháp đó làm lý do để cho rằng “bị
Mỹ làm áp lực, bị Mỹ chen vào nội tình quốc gia" dù đã 8, 9 năm đè đầu
dân tộc nhờ tiền bạc và thế lực của Mỹ.
Suy luận rằng Mỹ chống Cộng nên sẽ không bỏ rơi miền Nam, ta
thấy điều đó không phải là Nhu hoàn toàn sai lầm. Thật vậy, cho đến cuối
tháng 8 năm 1963 (nghĩa là cho đến ngày Nhu hung bạo tấn công các chùa chiền
và bắt giam các tăng sĩ Phật giáo) dù liên hệ Việt - Mỹ đã trở nên rất căng
thẳng vì những hành động và những lời tuyên bố của Nhu, dù tình báo Mỹ đã
khám phá ra âm mưu của Nhu muốn thoả hiệp với Cộng sản, chính quyền Kennedy
vẫn chưa có ý định ủng hộ một cuộc thay đổi cấp lãnh đạo tại miền Nam Việt
nam. Nhưng điểm sai lầm căn bản nhất của Nhu là đã không nhận định được sự
vận hành của một cường quốc. Một cường quốc thì phải đặt chính sách ngoại
giao trong một quan điểm toàn cầu và dài hạn. Ngăn chặn Cộng sản
(containment) là triết lý ngoại giao chỉ đạo mọi sách lược của Hoa kỳ lúc bấy
giờ, và giúp Việt nam trở thành tiền đồn chống Cộng hay yểm trợ ông Diệm (năm
1953) về nước chống Cộng chỉ là những thể hiện có tính cách chính sách của
triết lý ngoại giao đó mà thôi. Cho nên dù chế độ Diệm - Nhu có độc tài, tham
nhũng, thì trong quá khứ Mỹ vẫn ủng hộ và sẽ còn ủng hộ mãi cho đến khi Diệm
- Nhu không chống Cộng nữa hoặc làm lợi cho Cộng thì Mỹ mới can thiệp, vì làm
lợi cho Cộng là đi ngược lại với cái triết lý ngoại giao chỉ đạo đó
Sự can thiệp đó có thể là chấm dứt tư cách đồng minh, có thể
là vận động để thay thế bằng cấp lãnh đạo mới. Nhu không thấy rằng Mỹ giúp
miền Nam chống Cộng chứ không phải chỉ giúp riêng một gia đình họ Ngô chống
Cộng, cho nên cứ đinh ninh là có thể làm "chantage" Mỹ được. Nhu cứ
tưởng rằng đối với Mỹ thì trong 15 triệu dân miền Nam, chỉ có gia đình họ Ngô
là có quyết tâm và có khả năng chống Cộng mà thôi nên muốn yêu sách gì cũng
được. Và Mỹ đã không giải kết khỏi miền Nam trong năm 1963 đó, nhưng đã bỏ
rơi gia đình họ Ngô.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét