Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CỦA LOẠN TƯỚNG ĐỖ MẬU: VIỆT NAM MÁU LỬA QUÊ HƯƠNG TÔI - KỲ 5

1      2      3     4     5     6     7     8
Chương 11
Năm 1960- bắt đầu của sự sụp đổ

Vào khoảng đầu xuân năm 1968, như đã nói trong một chương trước, tôi được chỉ định đi thanh tra các đơn vị Công binh trong khi chờ đợi một vụ thường trực hơn sau thời gian một năm ở Pháp. Tuy công tác có tính cách tạm thời và tuy không có một kiến thức nào về ngành chuyên môn này nhưng nhờ dịp đó và bằng những thẩm định thuần tuý an ninh quốc phòng xuyên qua ngành công binh, tôi đã được đi khắp miền Nam và nghiên cứu một cách khá chính xác về tình hình đất nước.

Tôi còn nhớ vào tháng 3 năm đó, tôi cầm đầu phái đoàn thanh tra xuống Sa Đéc định thăm trung tá Nguyễn Bảo Trị đang chỉ huy một sư đoàn tại đây nhưng Trị đi vắng. Thiếu tá Trần Thanh Chiêu, Tham mưu trưởng Sư đoàn, tiếp tôi. Chiêu còn trẻ tuổi, chưa bao giờ chỉ huy đơn vị tác chiến, nhưng nhờ gia đình Công giáo, có liên hệ nhiều với ông Ngô Đình Diệm nên được anh em ông Diệm hết sức thương yêu, tín nhiệm, nâng đỡ Chiêu ham đọc sách, thích lý luận về chính trị và quân sự đúng với phong cách tính tình của người dân vùng quê hương Nam Ngãi.
Chiêu cho tôi biết chỉ mới năm 1958, nghĩa là chưa đầy 4 năm sau hiệp định Genève mà Việt cộng đã thực hiện xong giai đoạn giáo dục quần chúng và tổ chức hạ tầng cơ sở cho nên tình hình nông thôn tuy bề ngoài có vẻ an bình nhưng bề sâu thật sự đã có những đợt sóng ngầm chuyển động. Theo Chiêu thì dân chúng vùng Hậu Giang, trừ những làng Hoà Hảo, đều đã theo Việt cộng hết nhưng chính quyền địa phương thì vẫn chủ quan và vẫn báo cáo láo với Tổng thống là tình hình an ninh tốt đẹp. Chiêu thành khẩn nói với tôi: "Em biết đại tá rất trung thành với Tổng thống, đại tá nên nói cho ông biết sự thật kẻo ông cụ bị các tỉnh trưởng lừa bịp hoài".
Tôi tin Chiêu không phóng đại tình hình bởi vì ngay giữa Sài gòn vào tháng 10 năm ngoái (1957), trong một ngày mà Việt cộng dám đặt hai quả mìn tại đường Trần Hưng Đạo, một tại chợ An Đông làm nổ tung một chiếc xe chở Mỹ và làm sập đổ một góc khách sạn có sĩ quan Mỹ trú ngụ. Vào tháng 11 năm 1957, trong cuộc hành quân ở Ô Môn (Cần Thơ), quân chính phủ đã bắt được 12 tên Việt cộng và tịch thu được nhiều võ khí khá hiện đại. Về Sài gòn tôi trình bày tình hình an ninh chung, kể lại những lời Trần Thanh Chiêu đã nói cho Tổng thống Diệm nghe nhưng tôi bị ông "tạt ngang một gáo nước lạnh lên đầu” như ông đã thường la rầy trung tá Nguyễn Văn Châu, Giám đốc Nha chiến tranh tâm lý là hay bi quan: "Anh chớ nghe thằng Chiêu nói tầm bậy".
Thật vậy, trong lúc anh em ông Diệm tự hào tự mãn vì những lời ca ngợi của một số chính khách tướng lĩnh Mỹ, và lạc quan vì những buổi đón tiếp đông đảo của dân chúng mỗi lần ông đi kinh lý, thì tình hình an ninh của miền Nam đã thật sự đến hồi đáng lo ngại. Nhìn lại toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc chiến Việt nam, không ai có thể tưởng tượng được rằng sau Hiệp định Genève 1954, trong khi Cộng sản Bắc Việt bị kiệt quệ về mọi mặt và trong lúc miền Nam Việt nam được đệ nhất cường quốc Hoa kỳ yểm trợ tận tình và dồi dào mà chỉ 5 năm sau (1960) tình trạng an ninh ở miền Nam đã bị thui chột ở hạ tầng vì bị sức mạnh công phá của kẻ thù ở nông thôn cũng như ở các vùng biên đô thị. Ngày 26 tháng giêng năm 1960, một trung đoàn thuộc sư đoàn 21 đóng quân ở Trạng Sập, cạnh tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 12 cây số, bị Việt cộng tấn công gây thiệt hại nặng nề cả nhân mạng lẫn vũ khí.
Ngoài tác dụng quân sự dĩ nhiên của nó, thảm bại của sư đoàn 21 còn chứng tỏ thêm hai điểm rất rõ ràng trong chính sách cai trị của ông Diệm đó là chính sách sử dụng nhân sự qua việc lựa chọn và chỉ định trung tá Trần Thanh Chiêu, một tay chân "Cần lao công giáo" thân tín, giữ chức Tư lệnh Sư đoàn dù. Chiêu không có kinh nghiệm chiến trường (chỉ trong 5 năm Chiêu được thăng chức từ trung uý lên trung tá vào giai đoạn mà tình trạng đặc cách và tình hình chiến sự chưa đến nỗi sôi bỏng như vào những năm 1970 sau này), và dù quân đội lúc bấy giờ không thiếu sĩ quan cấp Tá đã từng lăn lộn trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Thứ hai là thảm bại này cũng chứng tỏ rất rõ cái hệ quả tất yếu của chính sách kỳ thị và đàn áp Cao Đài của chính phủ Diệm. Cao Đài là một tổ chức yêu nước chống Pháp từng là hậu thuẫn của Kỳ ngoại hầu Cường Để Giáo chủ Phạm Công Tắc từng bị thực dân lưu đày ở Comeres mấy năm trường.
Dưới chế độ của Quốc trưởng Bảo Đại, lực lượng võ trang Cao Đài chiến đấu sinh tử chống Việt minh và giữ vững an ninh cho những làng mạc (nhất là miền Đông Nam phần), nơi có tín đồ Cao Đài sinh sống. Nhưng kể từ ngày 5 tháng 10 năm 1955, khi anh em ông Diệm mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương rồi một mặt cho tấn công vào Toà thánh Cao Đài Tây Ninh tước khí giới 300 hộ vệ quân của Phạm Công Tắc, một mặt cho báo chí và đài phát thanh Sài gòn đưa ra chiến dịch bôi lọ Giáo chủ Cao Đài nào là dâm ô, tham nhũng, việt gian, thì Giáo chủ Phạm Công Tắc tướng Lê Văn Tất và một số tín đồ trốn qua Cao Miên. Từ đó Cao Đài bỏ chủ trương chống Cộng quay qua chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo giáo sư Douglas Pike thì sau khi Phạm Công Tắc lưu vong qua Cao Miên, trong số 11 hệ phái theo Việt cộng chỉ còn một hệ phái ủng hộ Diệm mà mục đích chỉ là để bảo vệ lấy Thánh thất Cao Đài cho đến khi chế độ Diệm bị lật đổ, toàn thể lực lượng Cao Đài lại trở về hợp tác với những chính phủ sau Diệm.
Tuy nhiên dù có một hệ phái Cao Đài ủng hộ chế độ Diệm nhưng chỉ là sự ủng hộ bên ngoài mà thôi bởi vì họ đã không hợp tác với Sư đoàn 21, không thông báo những hoạt động của Việt cộng trong vùng họ sinh sống cho Sư đoàn, do đó Sư đoàn mới bị tấn công bất ngờ, bị thiệt hại hết sức nặng nề, mất toàn bộ vũ khí của cả một Trung đoàn. Chính trung tá Trần Thanh Chiêu, Tư lệnh Sư đoàn 21 đã công nhận thái độ thiếu thân thiện của Cao Đài khi tôi đến Tây Ninh đích thân điều tra vụ thất bại này.
Ngoài trận tấn công vào Sư đoàn 21 làm cho mọi giới Việt - Mỹ bàng hoàng, trong năm 1960, những hoạt động của Việt cộng cũng đã xảy ra rất nhiều nơi đã cho ta thấy lực lượng quân sự cũng như chính trị của Việt cộng quả thật đã trưởng thành và gia tăng mau chóng, Quân đội VNCH đã chạm trán với Việt cộng ở vùng U Minh Hạ (Cà Mau). Ở Thái Lai (Phong Dinh), ở Bầu Răm (Long An), ở Phong Phú (Kiến Tường), ở Đức Huệ (Long An), ở Gia Rai (Ba Xuyên), ở Cai Lậy (Định Tường), ở Phước Tân và Bầu Sen (Tây Ninh), ở Cao Lãnh (Kiến Phong)... và rất nhiều nơi khác Việt cộng còn dám tấn công vào quận Đức Hoà gần thủ đô Sài gòn vào ngày 28 tháng 5 năm 1960. Có nhiều nơi Việt cộng đã hành quân với cấp tiểu đoàn như trận đánh ngày 22 tháng 6 năm 1960 ở Cóc Rinh (Đức Huệ, Long An), Biệt động quân đã phải kịch liệt chống cự với Tiểu đoàn 506 của Việt cộng. Ngày 21 tháng 10 năm 1960, các đồn Dakpek, Daksout, Dakso ở Kontum bị Việt cộng tấn công ồ ạt và bị tràn ngập, chính phủ phải gởi mấy tiểu đoàn Nhảy dù đến cứu viện. Thế mà ngày 28 tháng 10, nghĩa là 6 ngày sau, Việt cộng đã lại tấn công vào công trường làm đường Kontum - Quảng Ngãi, làm cho đại đội Công Binh, đại đội Bảo An bảo vệ công trường này và một số đồn Bảo An bảo vệ công trường lân cận bị đánh tan rã, xe cộ, dụng cụ công binh bị phá huỷ, và công trường bị bãi bỏ (tôi có nói công trường này vào mục trước). Việt cộng còn táo bạo hơn nữa khi chúng dám tấn công căn cứ quân sự Hiệp Đức ở Quảng Nam đóng trên một ngọn đồi vào ngày 29 tháng 8 năm 1960. Việt cộng đã đánh tan đội quân bố phòng, thu đoạt toàn bộ vũ khí, chiếm đóng căn cứ mấy tiếng đồng hồ và chờ quân tiếp viện đến để tấn công theo chiến thuật “công đồn đả viện”.
Rõ ràng mới năm 1960, nghĩa là sáu năm sau khi ông Diệm lên cầm quyền, bốn năm sau khi Việt cộng bắt đầu cuộc phát động cuộc đấu tranh võ trang mà bức tranh miền Nam đã ảm đạm và lực lượng du kích của Việt cộng đã dám công khai thách thức đối đầu với lực lượng chính quy của Việt nam cộng hoà.
Vấn đề đặt ra là tại sao quân đội VNCH và lực lượng võ trang Bảo An gồm phần đông những tướng tá binh sĩ có tinh thần chống Cộng rất cao, có kinh nghiệm chiến đấu suốt 6,7 năm trời dưới chế độ Quốc trưởng Bảo Đại (vốn được gọi là quân đội quốc gia), một quân đội đã trưởng thành trong khói lửa mà ngày nay dưới ngọn cờ độc lập hoàn toàn, thêm được sự hỗ trợ của một đồng minh mạnh nhất thế giới, lại không đè bẹp được lực lượng du kích của Việt cộng tại miền Nam dù sao cũng mới bắt đầu thử lửa.
Gác ngoài những sai lầm chưa trầm trọng về cách tổ chức và huấn luyện theo kiểu Mỹ vốn không phù hợp cho một cuộc chiến tranh nhân dân chiến tranh cách mạng vì những sai lầm đó chưa ảnh hưởng đến khả năng tác chiến của quân đội VNCH lúc bấy giờ, nếu ta xét thuần về sức mạnh quân sự thì lực lượng chính phủ đã nắm rất nhiều ưu thế: ưu thế về huấn luyện về võ khí trang bị về yểm trợ của pháo binh và không quân, về hệ thống truyền tin và liên lạc, và nhất là về một hậu phương dồi dào nhân, vật lực... vậy mà vẫn không khai dụng được những ưu điểm đó đến nỗi mới năm 1960 mà đã bị lui vào thế phòng ngự bị động. Như vậy rõ ràng sự trì trệ và yếu kém của quân đội chỉ có thể giải thích bằng chính sách lãnh đạo sai lầm của gia đình ông Diệm, chỉ muốn tập trung quyền hành điều động trong quân lực vào một thiểu số, và khống chế quân lực bằng một hệ thống bổ nhiệm bất công làm cho quân nhân các cấp mất hẳn tinh thần chiến đấu và quân đội trở thành một kẻ khổng lồ không tim óc, quờ quạng trong chiếc bẫy sập tinh vi của kẻ thù, một kẻ thù vừa sở trường về du kích chiến vừa được thôn dân nhiệt tình ủng hộ.
Thật vậy, quân đội VNCH yếu kém trước hết vì tính chủ quan khinh địch của anh em ông Diệm, những người chịu trách nhiệm trước tiên về việc lãnh đạo chiến tranh, về việc chỉ đạo đường lối chiến lược. Vì chủ quan khinh địch nên anh em ông Diệm đã không nắm vững tình hình lại còn muốn che giấu sự thật, nguỵ trang thành những thành quả để say sưa với các lời tôn vinh.
Hãy nghe lời ca ngợi của những người bạn ngoại quốc của ông Diệm thì thấy rõ cái chủ quan vô lý của ông ta. Chẳng hạn như giáo sư Wesley Fishel người Mỹ đầu tiên có công tạo uy thế cho ông Diệm trên chính trường Hoa kỳ vào tháng 6 năm 1958 đã viết: "Miền Nam Việt nam được liệt vào hàng quốc gia hoà bình, vững chãi nhất Á Đông”, Cố vấn cải cách điền địa của ông Diệm, ông Wolf Ladejinsfy cũng viết: “Cuộc nổi dậy tại miền Nam Việt nam chỉ là hoạt động rời rạc của cán bộ Việt cộng ở những vùng xa xôi hẻo lánh mà hôi". Ngay cả một nhân vật khả kính quốc tế người Anh, giáo sư Honey, mà cũng tuyên bố rằng vào năm 1959, Tổng thống Diệm đã củng cố vững chắc địa vị của ông ta và vô hiệu hoá những lực lượng chống đối”. Hậu quả của tính chủ quan khinh địch là sự mù quáng, mà đã mù quáng thì không biết địch tình, không biết phương đối phó địch thủ như cố nhân đã dạy từ xưa mà vẫn luôn luôn dùng: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Diệm và người Mỹ đã không biết đầy đủ “ta”, lại càng không biết gì hết về "người" thì thất bại là lẽ tất nhiên. Nhưng trên hết và quan trọng nhất là vấn đề lòng dân, yếu tố quyết định sự thắng bại thì dân đã lại càng ngày càng hướng về Việt cộng và người Mỹ lại cớ cho rằng nhân dân miền Nam vẫn ủng hộ ông Diệm và chế độ của ông ta.
Đối với quân đội thì quyết tâm hy sinh của binh sĩ là yếu tố căn bản cho một cuộc chiến đấu lâu dài thì người Mỹ lúc đầu lại cho rằng sức mạnh tinh thần không bằng sức mạnh của vũ khí. Còn ông Diệm thì lại không lãnh đạo quân đội theo tinh thần hy sinh cho Tổ quốc như truyền thống và binh thuyết dựng nước của lịch sử nước ta mà lại xây dựng quân đội theo chánh sách bảo vệ ngôi vị cho ông và phục vụ quyền lợi bất chính của gia đình và phe nhóm của ông ta.
Sau khi đánh tan các nhóm võ trang của các giáo phái, nhiều người cho rằng từ nay quân đội sẽ được thống nhất, nhưng bất hạnh thay, anh em ông Diệm lại xây dựng một thứ “quân đội giáo phái” mới: Giáo phái “Công giáo Cần lao”. Từ đó nội bộ hàng ngũ sĩ quan trong quân đội chia ra hai phe: một phe Cần lao và một phe không Cần lao gồm rất đông sĩ quan người của các đảng phái như Duy Dân, Đại Việt, Việt Quốc, Việt Cách và các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, hay người của Nguyễn Phước Tộc. Số sĩ quan đông đảo này coi chế độ Diệm là kẻ thù vì đảng phái của họ đã bị đàn áp hoặc tiêu diệt.
Quân đội có 9 sư đoàn bộ binh thì đã có đến 7 sư đoàn do sĩ quan Công giáo nắm chức Tư lệnh, mặc dù số sĩ quan không Công giáo vẫn chiếm đa số. Những sĩ quan Công giáo đó là Bùi Đình, Ngô Du, Nguyễn Văn Thiệu, Lâm Văn Phát, Bùi Đình Đạm, Lê Quang Trọng, Nguyễn Bảo Trị (đó là chưa kể đến Trần Thanh Chiêu và Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Thế Như cũng đều đã từng là Tư lệnh Sư đoàn).
Quân đội thiếu gì sĩ quan chuyên môn hoặc đã được đào tạo từ các ngành chuyên môn trong nước hoặc xuất thân từ các trường ngoại quốc về, có kinh nghiệm lâu năm trong ngành, thế mà anh em ông Diệm lại đặt Lê Văn Sâm giữ chức Giám đốc Nha Quân cụ. Quyết định này thật sự chỉ vì Sâm lấy em gái Bác sĩ Lê Khắc Quyến làm vợ mà Bác sĩ Quyến lại là thầy thuốc riêng của thân mẫu ông Diệm. Sâm nguyên chỉ là một thợ máy tàu đò chạy trên sông ngòi miền Lục Tỉnh. Sau đó lại được ông Nguyễn Ngọc Lễ, lúc đó đang chỉ huy Việt Binh Đoàn, đem về Huế cho điều khiển ba chiếc thuyền máy, cho đến khi ông Diệm về nước, Sâm gia nhập đảng Cần lao và phục vụ đắc lực cho quyền lợi của Ngô Đình Cẩn nên được Cẩn vận động với ông Diệm cho vào Sài gòn chỉ huy ngành quân cụ để làm kinh tài cho nhà Ngô.
Quốc gia thiếu gì nhân tài, thiếu gì những nhân vật xuất thân từ các đại học chuyên môn về môn kinh tế, tài chính, thương mại, luật pháp để giữ chức Tổng giám đốc Nha Hành Ngân Kế thuộc Bộ quốc phòng, một chức vụ vô cùng quan trọng có trách nhiệm quản trị điều hành một ngân sách lớn nhất của quốc gia để nuôi dưỡng tiếp liệu cho một quân đội đang trong thời kỳ chiến tranh. Thế mà anh em ông Diệm lại giao chức vụ khó khăn và quan trọng đó cho Nguyễn Đình Cẩn, nguyên chỉ là một thư ký toà sứ thời Pháp thuộc, trình độ văn hoá chỉ có bằng Thành Chung, nghĩa là bằng Trung học đệ nhất cấp. Sở đĩ Cẩn được giữ chức vụ đó vì Cẩn là người Công giáo Quảng trị, "bí thư đảng Cần lao tại Sài gòn", để làm kinh tài cho nhà Ngô.
Tôi chỉ đưa ra vài dẫn chứng cụ thể và nổi tiếng để cho thấy ông Diệm chủ trương “Cần lao hoá” quân đội song song với việc “Công giáo hoá” các cấp Công an, tỉnh trưởng mà tôi đã nói trong mục trước. Vì chủ trương "Cần lao hoá" của chế độ Diệm cho nên hầu hết các sĩ quan không còn tinh thần phục vụ nữa, không thấy binh nghiệp như một phương thế đóng góp tích cực và có ý nghĩa cho đất nước nữa. Họ tự hỏi đánh giặc cho toàn dân hay cho một gia đình, hy sinh tính mạng cho một quốc gia hang cho một phe nhóm? Không những tinh thần quân đội bị suy nhược mà các lực lượng bán quân sự cũng mất đi cái khí thế chống Cộng và hiệu năng tác chiến để chống lại lực lượng võ trang của Cộng sản.
Thưởng phạt nghiêm minh là yếu tố bảo toàn tinh thần và kỷ luật của quân đội nhưng anh em ông Diệm lại đối xử với quân nhân như tôi tớ, dùng việc thăng thưởng để ban phát ân huệ cho những gia nô trung thành với mình và với đảng Cần lao công giáo. Nhìn về hình thức thì việc đề nghị thăng thưởng hàng năm có vẻ công bằng cẩn trọng lắm, nhưng kết quả mỗi kỳ thăng thưởng đã làm mất hết ý nghĩa của cấp bậc và làm nổi bật sự bất công, nổi sự khinh thường hệ thống quân giai. Mỗi lần danh sách thăng thưởng được công bố là mỗi lần tăng thêm sự bất mãn và chống đối của sĩ quan và hạ sĩ quan.
Mỗi năm Nha Nhân viên Bộ quốc phòng thành lập một Hội đồng Thăng thưởng do một vị tướng làm chủ tịch và bốn sĩ quan cấp tá làm hội viên chỉ để lo việc thăng thưởng cho cấp đại tá trở xuống (còn cấp tướng thì do chính Tổng thống Diệm và ông Nhu quyết định lấy). Bốn sĩ quan cấp tá gồm có một là Giám đốc Nha Nhân viên có nhiệm vụ trình bày hồ sơ cá nhân của mỗi sĩ quan có đủ tiêu chuẩn để được đề nghị thăng thưởng: từ trình độ văn hoá, xuất thân từ trường Võ Bị nào, đã tu nghiệp những lớp huấn luyện nào, thâm niên quân vụ, thâm niên cấp bậc, khả năng chỉ huy, chiến công, huy chương, bằng tưởng lục, số ngày bị phạt, lời phê điểm của cấp chỉ huy trực tiếp; hai là Giám đốc Nha An ninh quân đội có nhiệm vụ trình bày về lý lịch an ninh, tư tưởng chính trị và tinh thần phục vụ của mỗi trường hợp; ba là Tư lệnh quân binh chủng hay đơn vị trưởng trực tiếp chỉ huy của đương sự, hội viên này có nhiệm vụ soi sáng Hội đồng vì ông ta cho biết rõ thuộc cấp của mình, sự hiện diện của hội viên này cũng như của hội viên thứ tư, một sĩ quan độc lập còn là để chặn đứng sự thiếu vô tư, nếu có, của vị Giám đốc Nha Nhân viên và của Nha An ninh quân đội. Sau mỗi trường hợp được trình bày, cân nhắc, thẩm định. Hội đồng bỏ phiếu kín để lấy kết quả. Danh sách lập xong được kèm theo biên bản của Hội đồng để đệ trình lên Tổng thống (sao cho Bộ quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu).
Hình thức đề nghị thăng thưởng tương đối hợp lý và vô tư nhưng nghị định thăng thưởng được ban ra có chữ ký của Tổng thống thì thường thường lại không ăn khớp với bản đề nghị của Hội đồng, bị thêm bớt rất nhiều. Lý do là vì ngoài bản đề nghị thăng thưởng chính thức của Bộ quốc phòng còn có những danh sách của Giám mục Ngô Đình Thục, của ông Nhu, ông Cẩn; còn có một số thư từ gởi gấm của rất nhiều linh mục khắp nơi. Vì thế người ta mới thấy hàng năm tuỳ phái viên của ông Nhu, người nuôi heo cho ông Cậu, người gác nhà cho Đức Cha... đều thăng cấp vù vù, đều lên lon trung uý, đại uý dù họ chưa có một thành tích binh nghiệp, chưa đổ một giọt mồ hôi nào trên thao trường cũng như một giọt máu nào ở chiến trường. Như nhiều người đã hiểu rõ, dưới chế độ Diệm, số sĩ quan và quân nhân được biệt phái phục vụ cho anh em ông Diệm, cho những tổ chức chính trị kinh doanh riêng tư rất nhiều, cho nên ân huệ phải được trang trải ra nhiều người, mà số sĩ quan được thăng cấp hàng năm thì lại có hạn theo bảng cấp đã qui định. Do đó số sĩ quan đủ tiêu chuẩn ở các đơn vị đáng được thăng cấp đã bị giảm thiểu xuống để nhường chỗ cho các sĩ quan gia nô. Cứ lấy việc ông Nhu phải tri ân cho các sĩ quan thuộc hệ thống buôn lậu thuốc phiện của ông ta, việc ông Cẩn lấy binh sĩ xây lăng cho ông ta cũng đã đủ thấy sự thăng thưởng bất công rồi.
Vì chế độ thăng thưởng như thế cho nên đại tá Linh Quang Viên, khi ông Diệm mời về nước thì đã là đại tá rồi, đã từng giữ chức Tư lệnh một quân khu rồi mà sau mười năm đại tá vẫn cứ là đại tá, trong lúc thiếu tá Trần Ngọc Tám, tay chân thân tín của Ngô Đình Thục và nguyên Tỉnh trưởng Vĩnh Long, thì từ năm 1958, đã được thăng ba cấp lên đến Thiếu tướng. Còn như Vĩnh Lộc, Huỳnh Văn Tôn và hàng trăm sĩ quan khác, khi ông Diệm mới về nước đã mang cấp thiếu tá mà sau gần mười năm quân vụ chỉ lên được một cấp mà thôi, lại không cho giữ chức vụ chỉ huy đơn vị chiến đấu. Ngay như tại Nha An ninh quân đội do chính tôi trách nhiệm, năm 1958 khi tôi về chỉ huy thì thiếu tá Trần Văn Kính đã khá thâm niên mà đến đầu năm 1963 mới được thăng trung tá. Đại uý Thăng mà trong ngành tình báo phản gián, giữ chức chánh sở một quân khu, có công khám phá và tiêu huỷ rất nhiều cơ sở binh vận của Việt cộng, là một đại uý thâm niên từ thời quân đội quốc gia, thế mà mười năm trời dưới chế độ Diệm đại uý Thăng chỉ được thăng lên có một cấp. Trong lúc đó thì sĩ quan Cần lao khắp nơi thăng quan tiến chức lên như diều, mà điển hình là Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Châu và Lê Quang Tung. Khi ông Diệm mới về nước vào tháng 7 năm 1954, Tung mới ra trường khoá 14 Trù Bị, thế mà đầu năm 1963 đã lên đến đại tá: tám năm lên sáu cấp, mặc dù Tung chưa bao giờ tham gia trận mạc mà luôn luôn ở Huế và Sài gòn.
Vì anh em ông Diệm đã xem việc thưởng phạt sĩ quan như đặc quyền cá nhân nhằm ban phát ân huệ cho gia nô nên binh thống, danh dự và quân kỷ của quân đội không còn nữa, mà chỉ tạo ra tình trạng bất công và ganh ghét trong quân đội, cho nên ngay tướng Dương Văn Minh kể từ năm 1960 đã tỏ ra bất mãn. Tôi còn nhớ năm 1960 hay 1961, khi làm Chủ tịch Hội đồng Thăng thưởng, ông đã không sợ tai vách mạch rừng khi tuyên bố thẳng lúc mới bắt tay vào việc: "Cấp trên chỉ định tôi làm Chủ tịch thì tôi phải làm, nhưng tôi biết rõ Hội đồng này chỉ là một trò hề. Dù sao tôi cũng yêu cầu anh em trong Hội đồng phải làm theo lương tâm, phải hết sức vô tư vì việc làm của chúng ta, chữ ký của chúng ta vẫn mãi mãi nằm trong hồ sơ lưu chiểu của quân đội”.
Phê phán về quân đội VNCH, giáo sư sử học Buttiger, người đã từng yểm trợ tối đa cho ông Diệm, cũng đành phải viết: "Không cần phải là một chuyên viên quân sự cũng thấy được rằng Quân đội VNCH đã được huấn luyện sai binh pháp cửa cuộc chiến tranh đương thời. Được tổ chức theo phương pháp Mỹ, Quân đội VNCH không đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật cho một cuộc chiến tranh nổi dậy. Sau năm 1960, một số cấp lãnh đạo (Mỹ) mới hiểu rằng chiến tranh du kích phải được đối phó theo phương thức riêng của nó, rồi đột nhiên nhiều người bàn đến sự cần thiết phải tổ chức những đơn vị phản du kích. Nhưng người ta chẳng làm được gì nhiều trước cung cách lãnh đạo chiến tranh thiếu khả năng và vô giá trị ".
Đêm Giao thừa tết Canh Tý trời đất bỗng nổi cơn u ám, một trận mưa lớn đổ xuống Sài gòn và kéo dài cho đến gần suốt sáng mồng Một. Đó là một hiện tượng thiên nhiên lạ lùng mà theo các bô lão thì đã mấy chục năm qua không bao giờ có. Thế rồi trong khi anh em ông Diệm hân hoan đón nhận những lời chúc tụng của văn võ đình thần trong dinh Độc lập thì nơi những xóm nhà lá nghèo nàn, dân chúng bàn tán đến cái điều Trời. Họ bảo năm nay “Trời khóc vào ngày mồng Một Tết" là điềm không lành sẽ đến với miền Nam. Tin hay không là một chuyện nhưng đối với người dân Việt nam thì những "giọt lệ" của Trời rơi xuống đúng vào ngày Nguyên Đán hình như là điềm chằng lành báo hiệu những biến cố trọng đại sẽ xảy đến sau này làm bật gốc nền móng chế độ của ông Diệm trong năm Canh Tý (1960), năm tuổi của vị nguyên thủ quốc gia. Biến cố chính trị đầu tiên là bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960, biến cố thứ hai là cuộc đảo chính của Nhảy dù ngày 11-11-1960, biến cố thứ ba là sự ra đời của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam Việt nam ngày 20 tháng Chạp năm 1960. Nhưng mở đầu tất cả chuỗi biến cố đó là cuộc tấn công của Việt cộng vào sư đoàn 21, ngày 26 tháng 1 năm 1960..
Phía các lãnh tụ dân sự, vì thực lực đã bị tan rã, cán bộ đảng viên của họ đã bị ông Diệm vô hiệu hoá hết nên chỉ còn khả năng phản ứng tiêu cực là gióng lên tiếng chuông cảnh cáo và báo động. Họ hội họp tại khách sạn Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960 ra tuyên ngôn cảnh cáo ông Diệm và đòi ông Diệm phải thực hiện tự do dân chủ, chấm dứt chế độ gia đình trị. Tuy những đòi hỏi của họ có vẻ khiêm tốn nhưng lời lẽ bản tuyên ngôn không thiếu phần dũng mãnh. Bản tuyên ngôn bắt đầu bằng những lời chỉ trích ông Diệm đã không đem lại cho dân chúng một cuộc sống tốt đẹp, tự do. Họ mỉa mai bản Hiến pháp chỉ là một tờ giấy lộn. Quốc hội chỉ là công cụ của chính phủ, bầu cử chỉ là trò bịp bợm, và tất cả là một sự bất nhược khuôn rập theo nền độc tài. Tất cả gồm 18 nhân vật tên tuổi tiêu biểu cho mọi khuynh hướng chính trị miền Nam như các ông Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui. Điều có ý nghĩa quan trọng là trong số 18 nhân vật kể trên đã có đến 10 người là cựu ân nhân, đồng chí, bạn thân và những Bộ trưởng đã từng hợp tác với ông Diệm thời ông chưa có quyền hành hay thời ông đang còn gặp những khó khăn với tướng Hinh và Bình Xuyên. Vì họ nhóm họp tại khách sạn Caravelle để thảo luận và tuyên ngôn cho báo chí quốc tế nên bị ông Nhu mỉa mai là "Nhóm Caravelle". Sở dĩ họ nhóm họp tại Caravelle là để an ninh họ được bảo đảm khỏi bị Công an mật vụ khủng bố trước khi bản tuyên ngôn được thành hình và phổ biến rộng rãi.
Tất nhiên, với chế độ như chế độ của ông Diệm, lời vàng ngọc của Thánh nhân cũng không làm sao cho đầu óc ngoan cố của anh em nhà họ Ngô xúc động thì bản tuyên ngôn của một số chính khách thất thế (mà Ngô Đình Nhu chê bai là chính khách xa lông) làm sao có thể lay chuyển nổi những con người hẹp hòi độc đoán đó. Cho nên từ sau khi bản tuyên ngôn ra đời, những thành viên can đảm của nhóm Caravelle dân lượt bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn.
Cố nhân dạy rằng Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách cho nên dù những nhân vật trong nhóm Caravelle không làm được gì thì việc đưa ra bản tuyên ngôn để phản đối một chế độ độc tài cũng đã là một hành động của kẻ sĩ hữu trách đối với quê hương dân tộc rồi.
Vì báo chí dưới chế độ Diệm hoặc bị mua chuộc hoặc bị kìm kẹp gắt gao nên bản tuyên ngôn của nhóm không được phổ biến cho dân chúng biết, nhưng tất cả những toà đại sứ ngoại quốc tại Sài gòn cũng như ký giả quốc tế đều nhận được bản tuyên ngôn đó và bắt đầu được bí mật phổ biến trong quần chúng Việt nam. Dù ai ngoan cố muốn bênh vực chế độ Diệm thì thực tế đã cho thấy bản tuyên ngôn Caravelle như những lời tiên tri báo trước sự sụp đổ của ông Diệm.
Và mặc dù anh em ông Diệm bắt bớ giam cầm nhóm Caravelle, vu khống cho họ là xuyên tạc chế độ nhưng ba cuộc binh biến liên tiếp xảy ra từ cuối năm 1960 đến cuối năm 1963 đã cho thấynhóm Caravelle và nhân dân xác nhận trước lịch sử sự bất mãn toàn diện của Quân dân miền Nam đối với chế độ Diệm rồi.
Về phần tôi với tư cách chỉ huy một cơ quan có nhiệm vụ theo dõi và bảo vệ tinh thần Quân đội thì tình hình chế độ Diệm năm 1960 đã làm cho tôi vô cùng lo âu.
Ngoài nông thôn thì tình hình an ninh ung thối, trong quân đội thì tràn ngập bầu không khí chia rẽ hận thù với số đào ngũ mỗi ngày một tăng, số cán bộ binh vận của Việt cộng mỗi ngày một lộng hành táo bạo hơn. Trong lúc đó thì anh em Diệm mỗi ngày một tham nhũng, cán bộ Cần lao càng hành động thất nhân tâm hơn, còn ông Diệm thì vẫn tiếp tục binh vực anh em bà con, vẫn cứ nghe lời một số linh mục thối nát, ngu xuẩn và hẹp hòi. Năm 1960 quả thật đất nước đang trên đà suy vong, chế độ đang trên đà sụp đồ. Cho nên sau khi bản tuyên ngôn của Nhóm Caravelle ra đời, tôi cảm thấy như được thúc đẩy phải có một hành động quyết liệt để đánh thức cơn mê muội của ông Ngô Đình Diệm. Vị Tổng thống mà tôi vẫn kính mến, trung thành.
Tôi nhớ lại hai năm về trước, năm 1958, trong một chuyến ông Ngô Đình Luyện từ Pháp về thăm nhà, ông đã mời một số anh em mà ông cho là tâm huyết trung thành nhất với ông Diệm như Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, các ông Uông Hải Thọ, Võ Văn Hải, Bùi Kiện Tín vân vân... và tôi vào Chợ Lớn ăn cơm trong một căn phòng kín đáo để ông tâm sự. Tôi còn nhớ mãi lời nói tha thiết, chân tình tuy thô lỗ của ông: "Nếu quả anh em có lòng thương yêu ông Cụ thì tôi thành khẩn yêu cầu anh em hãy nằm xuống "liếm chân" ông Cụ như thằng Cao. Thằng Cao nó "liếm chân" là để nó kiếm danh lợi còn anh em "liếm chân" ông Cụ là để nói thật tình hình đen tối của chế độ cho ông nghe may chi ông mở mắt ra”. Nhớ lại lời nói thô lỗ nhưng chân thành của ông Luyện, tôi bèn quyết định mời một số anh em tâm huyết cùng chí hướng như Linh mục Nguyễn Văn Thính, các ông Nguyễn Ngọc Lễ, Tôn Thất Trạch, Bùi Kiện Tín, Võ Văn Hải, Nguyễn Vinh, Uông Hải Thọ... cả thảy 10 người đến ăn cơm và họp tại nhà tôi ở đường Tân Hưng, Chợ Lớn. Tôi trình bày một cách chi tiết và đầy đủ tình hình bi thảm của đất nước, tình hình xuống dốc của chế độ, và kêu gọi lòng trung nghĩa của những cán bộ đối với lãnh tụ, đề nghị với Cha Thính và các anh em làm một bản điều trần ghi những sai lầm khuyết điểm của chế độ, mọi người sẽ ký tên rồi cùng vào dinh Độc lập đích thân đệ bản điều trần đến tận tay ông Diệm. Bản điều trần cũng sẽ ghi rằng nếu sau một thời gian nhất định nào đó mà ông Tổng thống không chịu sửa sai thì anh em sẽ bắt chước thái độ của ông ta ngày xưa là "cởi áo từ quan" và khước từ, xa lánh không coi ông là lãnh tụ nữa. Mọi người đều hoan nghênh ý kiến của tôi và hẹn trong lần gặp lại sắp tới, mọi người mang theo một dự thảo ghi lại những đề nghị của mình để tổng hợp làm bản điều trần chính thức.
Nhưng độ hai tuần sau Cha Thính đến tận nhà cho tôi biết rằng công việc đã bại lộ, ông Nhu đã biết hết và Cha Thính đã bị ông Nhu gọi vào văn phòng để cảnh cáo Theo Cha Thính thì ông Nhu tỏ ra rất thù ghét tôi, người mà ông cho là hay sinh sự, người mà ông muốn trừng phạt nặng nề nhưng chưa thi hành được độc kế chỉ vì tôi được ông Diệm hết lòng bênh vực. Sau đó tôi mở một cuộc điều tra riêng thì tìm ra rằng sở dĩ dự định làm bản điều trần bị bại lộ vì một số anh em quá hăng say đem bàn chuyện bản điều trần với một số bạn bè trong mục đích lấy thêm chữ ký. Do đó chuyện đến tai ông Ngô Đình Nhu.
Thế rồi một chủ nhật nọ, vào khoảng mười giờ sáng, sau giờ làm lễ của gia đình ông Diệm, tôi được sĩ quan tuỳ viên mời vào dinh để gặp Tổng thống. Vào đến nơi, tôi thấy hai anh em ông Diệm, Nhu đang ngồi nói chuyện trong phòng riêng.
Thấy tôi, ông Diệm ngẩng đầu lên hỏi liền: "Nghe nói anh sinh vì tướng, tử vì thần phải không?". Tôi tự nghĩ xưa nay ông Diệm với tôi nhiều đêm rảnh rang thầy trò thường đàm đạo chuyện đời không đề cập đến chuyện lý-số mà ông rất thích thú và tin tưởng. Nho học ông cao thâm hơn tôi nhiều, ông đã đọc Kinh Dịch cho nên mỗi lần hai thầy trò bàn đến Đông y, phong thổ, dịch lý và rất tương đắc. Những lúc đó, ông thường gọi già ấn, người đầy tớ trung thành, đem rượu lễ hay cà phê để hai thầy trò cùng uống và bàn bạc chuyện thế sự nhân tình. Khi tướng Hồ Văn Tố chết, ông giải thích rất nhiều về bệnh Thượng mã phong như có ý tỏ cho tôi biết rằng ông cũng thành thạo chuyện phòng the, nhưng rồi ông kết luận dù sao thì chuyện chết sống cũng đều do số mệnh. Thế mà hôm nay ông lại có ý mỉa mai tôi về chuyện tử vi. Tuy nhiên thấy ông vừa nói vừa mỉm cười, tôi đoán thầm rằng ông không có ý trách móc mà thật ra chỉ vì ông Nhu xúi giục. Tôi bèn tương kế tựu kế cho Ngô Đình Nhu một bài học về lý số cho vui nên trả lời với ông Diệm rằng: "Thưa Cụ, có lẽ vì anh em (tôi muốn nói đến nhóm Cần lao) nghe mấy thầy tử vi nói số của tôi là số "sinh vi tướng tử vi thần" rồi họ về báo cáo cho Cụ và ông Cố vấn biết chứ tôi đâu dám nghĩ tới chuyện “Tướng với thần”. Tôi liếc nhìn Ngô Đình Nhu và nói thêm: "Thưa cụ, tướng với thần là phải như Tiết Nhơn Quý đời Đường. Mặc dù xuất thân là kẻ hầu bàn hạ lưu nhưng Tiết Nhơn Quý gặp được và hết lòng khuông phò minh quân chân chúa, sống ông làm Nguyên soái, chết ông trở thành vị Thần thiêng liêng. Còn tôi xuất thân chỉ là một anh đội khố xanh theo Cụ làm cách mạng chống Tây, rồi đánh nhau với Cộng sản mười mấy năm trời, nay làm đến đại tá tôi tự cho là lớn lắm rồi, còn đâu dám nghĩ đến chuyện Thần với Tướng”. Ông Nhu bấy giờ mới bảo tôi: “Nhưng anh không nên đi đến nhà thầy bói để bị mê hoặc".
***
Ba giờ sáng ngày 11-11-1960, tôi đang ở nhà riêng tại Chợ Lớn thì chuông điện thoại reo vang. Đầu kia điện thoại đại uý Bằng, người sĩ quan cận vệ trung tín nhất của Tổng thống Diệm, hốt hoảng nói: “Cụ hỏi đại tá đơn vị nào đảo chính?”. Tôi trả lời: “Tôi chưa rõ, để tôi điều tra rồi sẽ trình Cụ sau".
Khi biết được lực lượng Nhảy dù tạo cuộc binh biến, tôi bèn gọi vào dinh thì đầu kia dây chính Tổng thống Diệm cầm ống nghe. Tôi nói: “Thưa Cụ, tôi chưa biết đầy đủ chi tiết nhưng biết chắc Nhảy dù là lực lượng chủ lực của cuộc đảo chính. Dù sao xin Cụ cứ ra lệnh cho đội phòng vệ phủ Tổng thống liều chết giữ vững dinh Độc lập rồi tôi sẽ có kế hoạch cứu viện”. Ông Diệm hỏi: “Anh có kế hoạch gì?" Tôi trả lời: "Xin Cụ cho gọi ngay lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung về, phần tôi sẽ gọi người em là đại uý Đỗ Như Luận đem tiểu đoàn 1 truyền tin cùng về tăng cường cho quân phòng thủ dinh Độc lập. Tôi cũng sẽ gọi Trung đoàn Thiết giáp ở Gò Vấp về tăng viện thì quân đảo chính khó mà xâm nhập được vào dinh. Giai đoạn hai thì xin Cụ cho gọi Huỳnh Văn Cao và Sư đoàn 13 ở Biên Hoà về để giải vây Đô thành, còn tôi sẽ gọi Tiểu đoàn I thuỷ quân lục chiến do cháu tôi là Nguyễn Bá Liên đang chỉ huy cuộc hành quân ở Kiến Hoà về phụ lực thêm". Tôi còn nói thêm: "Thưa Cụ, "cứu binh như cứu hoả", tạm thời như vậy đã rồi sẽ tính sau". Ông Diệm im lặng một phút rồi giục tôi: "Được rồi anh vào đây ngay“.
Độ hơn 6 giờ sáng thì em tôi Đỗ Như Luận và cháu rể tôi là đại uý Chu Văn Trung kéo Tiểu đoàn I truyền tin và một phần của Lực lượng đặc biệt về bố trí suốt dọc phía trái dinh Độc lập song song với đường Hồng Thập Tự (Sở dĩ Luận có thêm Lực lượng đặc biệt là vì Tiểu đoàn I truyền tin và lực lượng đặc biệt cùng ở chung một vị trí sau lưng Bộ Tổng tham mưu chỉ cách nhau một hàng rào kẽm gai; Luận rất thân với Tung và Tung thì vắng mặt).
Còn Trung đoàn thiết giáp ở Gò Vấp do thiếu tá Thẩm Nghĩa Bôi chỉ huy, khi nghe lệnh tôi liền tức tốc đưa đơn vị lên đường. Khốn nỗi Bôi bị trung tá Vương Văn Đông, lãnh tụ cuộc đảo chính, cùng với tướng Lê Văn Tỵ đích thân đến căn cứ của Trung đoàn khuyến dụ Bôi theo phe đảo chính, hai bên giằng co, cãi vã và làm cho Bôi mất rất nhiều thì giờ. Đã thế khi đoàn xe của Bôi đi ngang qua nhà Trung tướng Thái Quang Hoàng trên đường Ngô Đình Khôi còn bị đơn vị Nhảy dù đóng ở đây (để bắt tướng Hoàng) cản trở, làm cho Trung đoàn thiết giáp mãi tới 9 giờ sáng mới vào tới khuôn viên dinh Độc lập. Dù sao thì binh sĩ phòng vệ phủ Tổng thống cũng chặn đứng được đợt tấn công đầu tiên của một tiểu đoàn Nhảy dù rồi, và giờ phút này có thêm lực lượng hùng hậu của Thiết giáp, ông Diệm đã thấy vững tâm hơn rất nhiều.
Tôi phải nói rõ ở đây rằng về phương diện quân sự, việc bảo vệ Thủ đô do Trung tướng Thái Quang Hoàng (hiện ở Mỹ) Tư lệnh biệt khu Thủ đô phụ trách. Dưới quyền điều động của ông chỉ có một trung đoàn Bộ binh là Trung đoàn 135. Nhưng Trung đoàn này còn phải lo canh gác nhiều nơi và ông cũng không có một lực lượng trù bị nào cả. Thuỷ quân lục chiến và Nhảy dù, những lực lượng mà Trung tướng Hoàng có thể điều động được khi Thủ đô có biến thì Thuỷ quân lục chiến đã bận hành quân xa, còn Nhảy dù thì lại đang là lực lượng "phản loạn"!
Trên kia đã nói về tinh thần quân đội thì quân nhân hầu hết đều bất mãn với chế độ Diệm và sẵn sàng phát dộng hoặc tham dự đảo chính bất cứ lúc nào, cho nên ngay từ đầu năm 1960, tôi đã xin với Tổng thống Diệm phải đặt Nguyễn Xuân Vinh và Đỗ Khắc Mai (hiện đang ở hải ngoại) chỉ huy không quân và Thẩm Nghĩa Bôi chỉ huy Trung đoàn thiết giáp để nắm giữ lấy lực lượng “can thiệp” (force de frappe) đề phòng khi có đảo chính hoặc biến loạn do Việt cộng gây ra. Nguyễn Xuân Vinh, Đỗ Khắc Mai và Thẩm Nghĩa Bôi là những cộng sự viên, những đồng chí thân thiết của tôi từ thời còn ở Nha Trang. Nhưng sáng ngày 11-11-1960, Bôi thì đã điều động được Trung đoàn về cứu viện, còn Vinh, Tư lệnh không quân, thì bị nhóm lãnh đạo đảo chính bắt về bộ chỉ huy của họ và bị Nguyễn Cao Kỳ đang có mặt tại đó dụ dỗ theo phe đảo chính. Sáng ngày 12 tháng 11 năm 1960 Vinh mới trốn được xuống căn cứ không quân Biên Hoà để điều động phi cơ phóng pháo yểm trợ cho những đơn vị Bộ binh giải cứu Sài gòn.
Có lẽ nhờ tình hình đã tạm thời lắng dịu và biết rõ được chính tôi đã đưa ra kế hoạch chống đảo chính nên Ngô Đình Nhu gọi điện thoại cho tôi hỏi thêm tin tức rồi bảo tôi vào dinh ngay. Tôi nghĩ thầm đã gần 5 năm rồi nay Nhu mới có những lời lẽ êm dịu với mình. Phải chăng trước cơn nguy biến con người mới thấy được là mình yếu đuối không phải là thánh thần gì, như cọp dữ có mắc lưới mới thấy được tư cách ân nhân của con chuột đang cắn đứt mạng lưới cho mình. Tôi trả lời ông Nhu để tôi cho gọi cháu tôi là Nguyễn Bá Liên và liên lạc với Lê Văn Nghiêm chỉ huy trưởng trường Võ bị Thủ Đức rồi sẽ vào dinh ngay.
Sau khi liên lạc và dặn dò kỹ kế hoạch với mọi nơi, tôi bèn lên xe vào dinh. Nhưng trẽn đường vào dinh, vì muốn quan sát tình hình Nha Công an, tôi bị lọt vào một nút chặn của Nhảy dù ở đường Thành Thái, gần trường Pétrus Ký, và bị bắt giam tại điểm gác trước cống tư dinh tướng Nguyễn Văn Là, Tổng giám đốc Công an cảnh sát. Tôi bị giữ từ 9 giờ sáng ngày 11 cho đến trưa hôm sau mới được toán quân nhân cảm tử của Nha An ninh quân đội dựa theo đà tiến quân của Bộ binh đến giải thoát.
Độ 3 giờ chiều ngày 12-11-1960, tôi vào dinh Độc lập để trấn an Tổng thống Diệm. Tôi thấy chung quanh ông có ông Nhu, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, tướng Dương Văn Minh, và một số Bộ trưởng như Trần Lê Quang, Nguyễn Đình Thuần, Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu... ngoài ra còn có bác sĩ Trần Văn Thơ bận áo Treillis ngồi ở góc phòng. Khói thuốc lá và những tiếng nói cười ồn ào tràn ngập cả phòng có máy điều hoà không khí. Tổng thống Diệm và Nhu mặt mày hớn hở, thái độ cởi mở. Tổng thống Diệm bảo tôi kể lại chuyện bị Nhảy dù bắt cho ông nghe rồi ông Nhu giới thiệu cho tôi bác sĩ Thơ, khoe rằng bác sĩ Thơ không nề nguy hiểm đã làm liên lạc viên giữa dinh Độc lập với đại tá Trần Thiện Khiêm ở Phú Lâm, (Công lao bác sĩ Thơ như thế mà chỉ ba ngày sau, 14-11-60 ông được cử giữ chức Tổng giám đốc Nha Thông tin tuyên truyền). Trong lúc những nhà lãnh đạo quốc gia vui cười trước cơn đắc thắng thì nhóm lãnh tụ đảo chính đã lên phi cơ Dakota do đại uý Phan Phụng Tiên lái, trực chỉ Phnom Penh xin tị nạn chính trị, bắt theo cả tướng Thái Quang Hoàng làm con tin.
Thăm Tổng thống Diệm xong, tôi xuống tầng dưới thì thấy tướng Nguyễn Khánh đang lo việc điều động bố trí các đơn vị để bảo vệ Thủ Đô đề phòng Việt cộng thừa "nước đục buông câu” đột kích Sài gòn.
Cũng vào tối ngày 12-11-1960 đó, Quốc hội họp phiên họp bất thường để “thảo kế hoạch an ninh dâng lên Tổng thống" và sáng hôm sau một Uỷ ban Nhân dân Chống Đảo chính ra đời tập họp một số công chức và Dân biểu kéo đến Dinh Độc lập hoan hô chào mừng Tổng thống Diệm đã nhờ "Thượng đế ban phước lành mà nạn khỏi tai qua". Điều quái đản là mặc dù ông Nhu ra lệnh cho ông Lê Văn Thái, phụ tá của Bác sĩ Trần Kim Tuyến, (hiện ở San Diego) mời tôi tham dự vào Uỷ ban chống đảo chính đã bị tôi quyết liệt từ chối, thế mà vẫn có tên trong danh sách của Uỷ ban.
Cuộc đảo chính của Nhảy dù, theo lời tuyên bố của đại tá Nguyễn Chánh Thi, là để quật ngã một chế độ thối nát của gia đình họ Ngô mà từ lâu quân đội vẫn xem là thù nghịch mà không dám hở môi. Cuộc đảo chính cũng là một cơ hội tốt đẹp mà quân đội vẫn mong chờ để trút nỗi căm hờn của mình trả thù cho các chiến hữu đã hy sinh và rửa nhục cho quốc dân. Cuộc đảo chính cũng để đánh một dấu chấm hết cho trang sử ô nhục của nhà Ngô. Cũng theo đại tá Thi tuyên bố thì "mụ Nhu là người phản dân hại nước, có hành động bạo ngược ê chề lắm rồi". Còn trung tá Vương Văn Đông đã đòi hỏi Tổng thống Diệm phải "tuyên bố đầu hàng, giải tán chính phủ và thành lập một chính phủ quân nhân". Vương Văn Đông còn nhấn mạnh thêm "không thể để một bọn đĩ điếm ở trong dinh Độc lập được”.
Trong cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngoài quân đội là chủ lực do những sĩ quan trẻ xuất sắc như Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Huy Lợi... còn có những tổ chức dân sự như Liên Minh Dân chủ, Mặt trận Quốc gia đoàn kết. Lực lượng Nghiệp Đoàn của ông Bùi Lượng và nhiều nhân vật thuộc các đảng phái chính trị khác như các ông Lê Vinh (Duy Dân), Phan Bá Cầm, Nguyễn Bảo Toàn (Hoà Hảo), Vũ Hồng Khanh, Xuân Tùng (Việt Quốc)... cầm đầu, “Mặt trận Quốc Dân đoàn kết" do Nguyễn Tường Tam và các ông Phan Khắc Sửu (Cao Đài), Nguyễn Thành Vinh, Trương Bảo Sơn (Việt Quốc) lãnh đạo... Tất cả có hàng trăm nhân vật chính trị dân sự đại diện cho các đảng phái trực tiếp hay gián tiếp tham dự cuộc đảo chính của Nhảy dù. "Mặt trận Quốc gia đoàn kết" của Nguyễn Tường Tam còn liên lạc với Đức Cha Từ, Đức Cha Hiền, các linh mục như cha Oanh, cha Lộc, cha Phiên... "Mặt trận quốc dân đoàn kết" cũng đã chỉ thị cho lực lượng của Mặt trận sẵn sàng nổi dậy cướp chính quyền ở các địa phương một khi tại Sài gòn lực lượng quân đội lật đổ được chế độ Diệm.
Ngoài các lực lượng nói trên còn có bác sĩ Phan Quang Đán, lãnh tụ khối Tự do dân chủ được đại tá Nguyễn Chánh Thi mời trực tiếp tham dự quân đảo chính. Cũng như đại tá Thi, bác sĩ Đán đã lên Đài phát thanh Sài gòn đọc bản cáo trạng lên án nặng nề chế độ độc tài phản dân chủ của chế độ Ngô Đình Diệm. Thật ra sự thất bại của nhóm Thi- Đông không phải vì có Sư Đoàn 7, Sư đoàn 13, Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến, Trung đoàn thiết giáp, tiểu đoàn truyền tin, hay trường Trù Bị Thủ Đức... kéo về cứu nguy cho ông Diệm. Bởi vì, đúng như Trần Văn Đôn trong “Our endless war” đã nhận định, lực lượng đảo chính vẫn dễ dàng làm cỏ dinh Độc lập với pháo binh và thiết giáp của họ, ngoài ra họ còn có thể sử dụng không quân nếu họ muốn, trong không quân, ngoài Nguyễn Cao Kỳ ra có nhiều sĩ quan bất mãn với chế độ Diệm. Nhưng phần vì trong lúc tiến hành cuộc đảo chính đã có sự chia rẽ nội bộ giữa Thi và Đông, phần khác, và là phần quan trọng nhất, vì nhóm lãnh tụ đảo chính thiếu cương quyết và không có kế hoạch huy động quần chúng làm hậu thuẫn chính trị. Ngoài điểm quan trọng hơn cả phải kể đến “khổ nhục kế” của ông Diệm, cũng như sự kiện một nhân viên CIA là ông Miller (hiện đang ở San José) thuyết phục Đông nên tạm thời ngưng cuộc tấn công để đợi ông Diệm thương thuyết, nhờ vậy ông Diệm có thì giờ gọi quân cứu viện về cứu Sài gòn và làm nản lòng những đội quân đảo chính.
Cuộc đảo chính của Nhảy dù là một vụ binh biến xảy ra bất ngờ cho cả anh em ông Diệm lẫn cả người Mỹ, nhưng ông Nhu thì lại quyết đoán một cách công khai rằng chính Hoa kỳ đã chủ xướng cuộc tạo phản. (Tuy nhiên cũng phải ghi nhận rằng Đại sứ Hoa kỳ, ông Durbrow, và Tư lệnh Phái bộ viện trợ Mỹ, Đại tướng Me Garr, cảm thấy biến cố 11-11-1960 cũng không phải vô ích vì họ hy vọng rằng nó có thể gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh ông Diệm). Nhưng tại sao ông Nhu lại cứ đề quyết cho người Mỹ là thủ phạm châm ngòi cuộc đảo chính? Thì mãi ba năm sau, năm 1963, tôi mới hiểu được thủ đoạn của vợ chồng Ngô Đình Nhu, mà tôi sẽ nói tới ở một thương sau.
Cuộc đảo chính Nhảy dù năm 1960 đã được nhiều sách sử ghi chép, đặc biệt là cuốn Biến cố 11-11-1960 do nhiều nhân chứng tham gia vào biến cố này đồng ghi lại (có lưu chiểu tại nhiều thư viện tại Hoa kỳ). Ở đây tôi muốn ghi nhận một số giai thoại hay bí ẩn mà tôi thu lượm được, viết ra mong có thể sẽ bổ ích cho những nhà viết sứ sau này:
- Thứ nhất là câu chuyện về đại tá Trần Thiện Khiêm, Tư lệnh Sư đoàn 7 đang đóng tại Mỹ Tho và được ông Diệm gọi về cứu cấp. Khiêm đem quân về đến Phú Lâm, cửa ngõ của Đô thành vào khoảng 6 giờ chiều ngày 11 rồi dừng lại đó. Theo một sĩ quan thuộc đảng phái Đại Việt dưới quyền Khiêm kể lại thì Khiêm không thật lòng muốn cứu ông Diệm. Khiêm vốn người ít nói, tính tình thâm trầm từ lâu đã có thái độ bất mãn với chế độ Cần lao mặc dầu Khiêm vẫn được trọng dụng.
Cho nên khi về đến Phú Lâm, Khiêm cẩn trọng lượng định tình hình, thấy quân đảo chính đã không biết thực hiện kế hoạch "tốc chiến tốc thắng" và cuộc tấn công đã bị khựng lại, tức là Nhảy dù đã nắm phần thất bại rồi, Khiêm bèn đổi ý và đứng về phe ông Diệm. Sau cuộc đảo chính 11-11-1960, Khiêm được anh em ông Diệm coi như “người nhà", thăng Khiêm lên tướng và giao cho chức vụ quan trọng là Tham mưu trưởng Quân đội dưới quyền tướng Lê Văn Tỵ, để kiểm soát và nắm vững quân đội. Nhưng dù được mua chuộc, thâm tâm Khiêm vẫn không bao giờ thần phục nhà Ngô. Đã từ lâu Khiêm là người thân tín bí mật của Mỹ.
- Việc thứ hai là trường hợp tướng Huỳnh Văn Cao, Cao là một sĩ quan không có khả năng gì ngoài tài mồm mép khéo léo nịnh bợ. Nhờ là người Công giáo mà lại là thứ Công giáo Phú Cam thường mượn danh Đức Mẹ để mê hoặc anh em ông Diệm nên được ông Diệm coi như con cháu ruột thịt, đề bạt Cao lên thật mau để Cao có thể giữ chức Tổng tham mưu trưởng quân đội thay Đại tướng Lê Văn Tỵ trong chính sách “trồng người”, chính sách Công giáo hoá nhân dân và Quân đội miền Nam. Khi ông Diệm mới về nước, Cao chỉ mới mang cấp đại uý tạm thời rồi nhờ Thái Quang Hoàng lập chiến khu Đông sai Cao đi liên lạc với dinh Độc lập, từ đó Cao nên danh, nên phận. Vào Sài gòn, vì ông Luyện đau chân nên Cao đẩy xe lăn cho ông ta đi dạo mát và phục vụ cho gia đình ông Luyện như một tên gia bộc không hơn không kém, nên được thăng thiếu tá và giữ chức Tham mưu trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng thống thay thế cho đại tá Đang. Ở địa vị này, Cao đã đẩy một cán bộ trung kiên, từng đóng góp tiền bạc và nhiều phen sống chết cho ông Diệm thời phong trào Cường Để và thời ông Diệm gặp khó khăn với Bình Xuyên là thiếu tá Nguyễn Vinh ra khỏi Tiểu đoàn danh dự. Cao mượn việc cải tổ Tiểu đoàn danh dự thành ra Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống để đề nghị đưa bà con là trung tá Nguyễn Thế Như, người Công giáo Phú Cam về thay chỗ của Vinh, dù về khả năng quân sự cả Như lẫn Vinh đều xuất thân là Đội khố đỏ thời Pháp thuộc như nhau. Nhưng Nguyễn Thế Như mới chỉ huy Lữ đoàn được 3,4 tháng thì bị binh sĩ Lữ đoàn tố cáo là tham nhũng và tác phong bê bối nên bị cắt chức. Sau này trung tá Nguyễn Ngọc Khôi, người Công giáo Quảng Trị, về giữ chức Tư lệnh Lữ đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống (Nguyễn Thế Như và Nguyễn Ngọc Khôi hiện đang có mặt tại hải ngoại). Còn Nguyễn Vinh nhận thấy ông Diệm là người vắt chanh bỏ vỏ, từ đó không bao giờ gặp lại ông Diệm nữa (Những nhân vật ở hải ngoại hiện nay như ông Võ Như Nguyên, Tôn Thất Trạch, đại tá Phùng Ngọc Trưng, ông Trần Văn Hướng và Bác sĩ Bùi Kiện Tín đều biết rõ công lao và sự nghiệp của Nguyễn Vinh thời ông Diệm còn hàn vi, còn sa cơ thất thế).
Về trình độ văn hoá, Cao chỉ có bằng tiểu học, còn về quân sự Cao chưa bao giờ chỉ huy một đơn vị, dù chỉ là một trung đội. Cho đến năm 1954, vì thiếu sĩ quan nên Cao được đại tá Trương Văn Xương cho chỉ huy một tiểu đoàn khinh quân đang thụ huấn tại Ninh Hoà (Khánh Hoà). Mặc dù tiểu đoàn đóng ngay giữa thành phố nhưng Cao đã để cho tiểu đoàn bị Việt cộng tập kích thình lình làm tan nát cả một tiểu đoàn, vì vậy Cao bị tướng Hinh đưa ra toà. Nhưng nhờ có thiếu tá Hoàng Phúc Hải ở Nha Trang, một tay chân thân tín của tướng Hinh, xin xỏ nên Cao được miễn tố và chỉ bị cắt chức mà thôi.
Cao là người có tài len lỏi trong các ngõ ngách của thời thế cho nên ngày Nhảy dù đảo chính ông Diệm, mặc dù Cao đang chỉ huy Sư đoàn 13 đóng ở Biên Hoà chỉ cách Sài gòn 3 cây số, mà mãi đến sáng ngày 12, nhờ tướng Nghiêm thúc giục lắm và khi Cao đã thấy Nhảy dù yếu thế, Cao mới tiến quân về Thủ đô, Lực lượng đảo chính thất bại, Cao trở nên anh hùng giải phóng Thủ Đô.
Tội nghiệp hai ông Diệm-Nhu, 3 năm sau, ngày toàn quân toàn dân thật sự lật đổ chế độ hai ông vẫn còn tin tưởng vào đứa “con nuôi Huỳnh Văn Cao” đang là Tư lệnh Quân khu IV. Họ có ngờ đâu rằng nửa đêm mồng 1-11-1964, Cao đã đầu hàng cách mạng dù Cao vẫn còn 2 sư đoàn dưới trướng, còn có cả một giang sơn rộng lớn nếu muốn có thể dùng làm "đất Ba Thục” cho anh em ông Diệm nương thân hầu tu binh mã đợi ngày trở lại "Trung Nguyên". Tài trí, công nghiệp của Huỳnh Văn Cao như thế đó mà nhóm "Cần lao công giáo" ca ngợi Cao như một thiên tài...
- Việc thứ ba là trường hợp của thiếu tá Công giáo Lê Như Hùng (hiện sống ở Califorma). Khi xảy ra cuộc binh biến Nhảy dù, Hùng đang giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hoà. Kiến Hoà là căn cứ địa cơ bản vững chắc của Cộng sản, nổi tiếng từ năm 1940 khi Xứ uỷ Nam bộ Cộng sản Đông Dương khởi nghĩa chống chế độ thực dân Pháp. Vì Kiến Hoà bất an nguy kịch nên Tiểu đoàn I Thuỷ quân lục chiến do cháu vợ tôi là Nguyễn Bá Liên được biệt phái về Kiến Hoà để hành quân (Tiểu đoàn phó là đại uý Trần Văn Nhật hiện ở Mỹ).
Tổng thống Diệm biết rõ thân phụ của Liên là ông Nguyễn Bá Mưu vì cùng hoạt động trong phong trào Cường Để cho nên Liên rất trung thành với Tổng thống Diệm. Khi nhận được lời kêu gọi của tôi, Nguyễn Bá Liên vội vã tập họp Tiểu đoàn về Sài gòn cứu ông Diệm. Nhưng Liên bị tỉnh trưởng Lê Như Hùng cản trở không cho qua phà để qua sông, không cho quân xa để sử dụng. Hai bên cãi cọ xô xát đã định bắn nhau. Cuối cùng vì không được sử dụng phương tiện quân đội, Liên bèn thuê thuyền và xe đò dân sự để di chuyển Tiểu đoàn về Sài gòn. Vì sự cản trở của Hùng cho nên mãi đến 2 giờ sáng ngày 12 tháng 11, Tiểu đoàn I của Liên mới có mặt tại bến Bạch Đằng.
Khi ông Diệm làm Thủ tướng và bị Nguyễn Văn Hinh chống đối thì Hùng là đảng viên đảng “Con ó” của ông Hinh đang giữ chức Tư lệnh Thuỷ quân lục chiến. Tướng Hinh ra đi, ông Diệm cắt chức Hùng và Hùng bị theo dõi một thời gian. Nhưng ít lâu sau, tất cả đảng viên "Con ó" có đạo Thiên Chúa như Hùng đều được “phục hồi danh dự”, được trọng dụng và được thăng cấp mau chóng (chẳng hạn như Bùi Dinh, tay chân thân tín của tướng Hình, từng lên đài phát thanh quân đội năm 1954 công khai mạt sát Thủ tướng Ngô Đình Diệm giao cho chỉ huy một sư đoàn vì Bùi Dinh là người Công giáo Phú Cam).
Có lẽ Lê Như Hùng cũng không có ý phản bội ông Diệm khi cản trở Nguyễn Bá Liên, chẳng qua Hùng sợ vắng tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến thì Kiến Hoà sẽ bị nguy kịch. Nhưng Hùng quên rằng với bối cảnh ngày 11-11-60 thì dù tỉnh Kiến Hoà có mất vào tay Việt cộng cũng còn hơn Thủ đô Sài gòn địa vị Tổng thống của ông Diệm và chế độ Cần lao rơi vào tay bọn "phản loạn Nhảy Du". Cho nên vô tình hay cố ý, việc cản trở Nguyễn Bá Liên mang quân về Sài gòn cứu ông Diệm đã làm cho Lê Như Hùng - trước mắt ông Diệm- mang tội phản loạn tiếp tay quân đảo chính. Phỏng thể sau khi Nhảy dù thất bại, tôi mang tâm địa hèn mạt như bọn Cần lao tố cáo hành động phản bội của Hùng với ông Diệm thì Hùng đã bị ông Diệm đẩy ra Côn Đảo như số phận của các lãnh tụ vụ binh biến rồi.
Nhưng chẳng những Hùng không bị trừng phạt mà qua hệ thống Cần lao, Hùng còn được Tổng thống Diệm thuyên chuyển về Sài gòn, thăng cấp trung tá và giao cho chức vụ cận thần là Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống.
- Việc thứ tư là trường hợp của bà Ngô Đình Nhu. Ngày 12 tháng 11, sau khi tôi vấn an Tổng thống Diệm xong như đã nói ở trên kia, bèn xuống tầng dưới để ghé thăm tướng Nguyễn Khánh đang lo điều động bố trí những đơn vị quân đội đề phòng Việt cộng lợi dụng cảnh rối loạn mà tập kích Sài gòn. Vừa đến nơi tôi thấy bà Nhu và tướng Khánh đang to tiếng cãi vã ồn ào. Tôi chỉ còn nhớ lời tướng Khánh nói với bà Nhu: "Ở đây tôi chỉ huy chứ không phải bà, bà hãy đi chỗ khác để tôi làm việc". Nói xong, tướng Khánh gác hai chân lên bàn tỏ vẻ khinh bỉ bà Nhu ra mặt. Tôi thấy bà Nhu đỏ mặt tức giận, quay người thật nhanh rồi bỏ lên lầu, vừa đi miệng vừa lẩm bẩm những gì không rõ. Tất nhiên "Rồng Cái" (dịch chữ Dragon Lady của ký giả ngoại quốc gán cho bà Nhu) phải giận dữ lắm bởi vì lần đầu tiên trong cuộc đời uy quyền tột đỉnh của bà, bà đã bị một "anh ka ki" khinh khi miệt thị trước mặt rất đông binh sĩ và nhân viên dân chính. Cứ chỉ của tướng Khánh làm cho tôi cảm phục và hài lòng vì theo tôi biết trong triều đình nhà Ngô, ngoại trừ Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ thường tỏ vẻ lãnh đạm còn Bộ trưởng, Dân biểu, Trí thức, Giám mục, Linh mục có liên hệ với Ngô triều đều khép nép, cúi mình trước Đệ nhất phu nhân. Ngay cả chồng và ông anh chồng là vị nguyên thủ quốc gia mà còn phải chịu luỵ bà như tôi đã và sẽ trình bày thêm, thế mà kẻ "võ biền" Nguyễn Khánh lại đám sừng sộ xua đuổi bà đi chỗ khác.
Sau khi bà Nhu lên lầu rồi bà Thái Quang Hoàng (hiện ở Mỹ) vào dinh Độc lập để đòi hỏi chính phủ bằng mọi cách đem chồng bà từ Phonom Penh về lại Việt nam. Bà Hoàng la ó ầm ĩ, trách chính phủ và quân đội đã không bảo vệ nổi chồng bà để chồng bà bị nhóm lãnh tụ đảo chính bắt theo làm con tin. Có lẽ vì nghe tầng dưới ồn ào tiếng đàn bà, bà Nhu lại trở xuống "sân khấu", thế là một màn đấu khẩu xảy ra giữa hai mệnh phụ mà cố nhân thường gọi là thứ "phụ nhân nan hoá", thứ đàn bà "dễ có mấy tay". Tôi không còn nhớ nguyên văn lời bà Nhu nạt bà Hoàng, nhưng đại ý là tại sao dám huyên náo chốn tôn nghiêm, bà Hoàng bèn xông tới ngay trước mặt bà Nhu mà nói "nếu chồng bà bị bắt như chồng tôi thì bà có la hoảng lên không?", bà Hoàng còn nói tiếp "nếu chồng tôi có mệnh hệ gì thì tôi làm loạn lên cho bà xem". Bà Nhu không ngờ lại gặp phải địch thủ không vừa nên bà Nhu lại bỏ lên lầu, vừa đi miệng vừa lẩm bẩm những gì không ai nghe rõ nhưng chắc bà ta đang tính kế trừng trị những kẻ thuộc cấp đã dám coi thường bà.
Tướng Thái Quang Hoàng thời còn là thiếu tá (1954) đã có công đầu lập chiến khu Đông ở Phan Rang để chống tướng Nguyễn Văn Hình ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm nên được nhà Ngô coi như "khai quốc công thần". Tướng Hoàng liên tiếp chỉ huy Quân khu I Quân khu II, rồi Quân khu Thủ Đô với nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ thành trì Tổng thống Diệm. Chẳng may Nhảy dù "làm loạn", địa vị ông Diệm cơ hồ lung lay, lại thêm bà vợ mắng nhiếc bà Nhu cho nên sau khi Đô thành yên cơn bão tố, tướng Hoàng bị thất sủng, bị đổi tên lên Đà Lạt giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Đại học quân sự, một chức vụ ngồi chơi xơi nước cho đến ngày chế độ Diệm suy vong.
Tướng Thái Quang Hoàng là người ít nói nhưng là thứ người khí phách và can trường. Ông có một đức tính hiếm hoi là không bao giờ nói xấu ai với cấp trên. Thái độ quân tử nhiều khi vô lý của Thái Quang Hoàng đã làm cho tướng Lê Văn Tỵ phải bực mình.
- Câu chuyện thứ năm là về Võ Văn Hải, người Chánh văn phòng đặc biệt của ông Diệm. Hải theo ông Diệm từ hồi còn rất trẻ. Hải có một người em ruột là Võ Lăng (hiện đang sống ở Pháp) cũng hoạt động cho ông Diệm bên cạnh ông Ngô Đình Luyện từ thời ông Diệm còn ở Pháp. Hai anh em Hải, Lăng là con của cụ án Võ, mà cụ là bạn thân của ông Diệm từ thời làm quan cho Nam triều. Tuy nhiên trong thời gian ông Diệm cầm quyền, cụ án Võ đứng ngoài chính trường, xa lánh chính trị sống ẩn dật tại Đà Lạt chỉ lo lui tới nơi chốn thiền môn.
Ngày 11-11-60, trước cuộc tấn công của Nhảy dù, trong lúc những kẻ thường múa mép khua môi khoe khoang là trung nghĩa đều chạy trốn hết thì Hải không ngại gian nguy, mang thân đơn độc “vào hang hùm để gặp được cọp”, Hải gặp Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, những lãnh tụ của cuộc đảo chính với mục đích tha thiết xin cứu mạng cho vị lãnh tụ của mình. Gặp Đông, Hải thương thuyết:
"Tôi đồng ý việc làm của trung tá. Dinh Độc lập không thề để cho một bọn đĩ điếm ở được. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, kéo dài cuộc chiến đấu chỉ có lợi cho Cộng sản. Tôi xin là trung gian giữa ông Diệm và trung tá, tìm giải pháp ổn thoả để có thể tránh được sự lợi dụng của Cộng sản và đồng thời đáp ứng được đòi hỏi của phe nổi dậy. Giải pháp này có thể là tạm thời giữ ông Diệm ở lại làm đại diện quốc gia, không quyền hành pháp, gạt bỏ gia đình Nhu và Cẩn ra khỏi chính trường Việt nam và cải tổ chính phủ".
Hải là người nắm vững và nắm kỹ những bí mật quốc gia, những bí mật thầm kín nhất của anh em gia đình họ Ngô, những bí mật khó nói nhất của nhiều triều thần nhà Ngô, nhiều tay chân cốt cán trong đảng Cần lao công giáo, cho nên Hải thấy rất rõ bộ mặt xấu xa, dơ dáy, ghê tởm của chế độ, vì thế nên Hải thường tỏ ra ưu tư, buồn phen, giận dỗi.
- Câu chuyện thứ sáu nói về chính Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngày 11-11-60, trong đó đang bị nguy khốn nhưng qua sự vận động của Võ Văn Hải, của tướng Khánh và với sự tán đồng của tướng Lê Văn Tỵ, ông Diệm đã đồng ý với trung tá Vương Văn Đông là sẽ giải tán chính phủ hiện hữu để thành lập một chính phủ "liên hiệp quân dân". Những lời cam kết của ông Diệm đã được long trọng tuyên bố trên đài phát thanh kèm theo nhật lệnh của tướng Tỵ.
Nhưng khi sóng gió qua rồi thì ông Diệm lại nuốt những lời hứa. Nếu cuộc đảo chính đã làm ông mất nhiều uy tín thì thái độ thiếu thành tín của ông lại càng làm cho danh dự của ông sụp đổ thêm, trong quân đội cũng như ngoài nhân dân và trước quốc tế mà các ký giả ngoại quốc không quên nhắc lại
Từ khi cầm chính quyền ông thường đưa ra khẩu hiệu “thành tín" như một bảo đảm chắc nịch cho quan niệm “đức trị” của ông trong việc lãnh đạo quốc dân. Ông còn đặt quốc huy là tiết trực tâm hư, lấy cây trúc làm biểu tượng để tỏ ra mình là người chính nhân quân tử, thế mà hôm nay ông đã công khai và rộng rãi tuyên bố cùng đồng bào rồi chính ông lại thất tín không giữ lời đã hứa, cho nên không kể Việt cộng và những kẻ đối lập chính trị với ông có cơ hội phản tuyên truyền mà chính quân đội và nhân dân, sau đó, cũng đã mỉa mai ông là một kẻ đạo đức giả, bất tín, bất nghĩa.
- Việc thứ bảy là việc của tôi. Như đã nói trên kia, 9 giờ sáng ngày 11-11-1960 tôi bị một đơn vị Nhảy dù chặn bắt ở quan sát Nha Công an trước khi vào dinh Độc lập. Đã bị bắt mà với tư cách Giám đốc Nha An ninh quân đội, một cơ quan bị binh sĩ coi như là tay sai của chế độ, thì tôi chỉ còn chờ đợi giờ “đền tội”. Nhưng nhờ phúc đức còn vững còn dày nên tôi đã thoát chết.
Ngày Nhảy dù đảo chính, tất cả những nhân vật cầm đầu cơ quan An ninh Mật vụ có bổn phận ưu tiên bảo vệ sinh mạng và chế độ Tổng thống Diệm đều bị vô hiệu hoá hết mà chỉ riêng tôi là có hoạt động để cứu giúp ông Diệm, tôi cảm thấy hình như giữa ông Diệm và tôi trong những giờ phút nghiệt ngã của năm 1960 vẫn còn có một sợi dây thiêng liêng ràng buộc tình nghĩa thầy trò.
Thật là lạ lùng: trong lúc biến cố xảy ra, bác sĩ Trần Kim Tuyến, giám đốc Nha nghiên cứu chính trị, tướng Nguyễn Văn Là, Tổng giám đốc Công an, trung tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực lượng đặc biệt, đều là những nhân vật có quyền uy hơn tôi, được ông Nhu tín nhiệm hơn tôi, thế mà khi tiếng súng "phản loạn" bùng nổ thì đều không có mặt hoặc lẩn tránh hết, trong lúc đó thì tôi lại đóng góp được ít nhiều công tác trong việc bảo vệ sinh mạng ông Diệm được an toàn.
- Việc thứ tám, tôi muốn đề cập đến cái gọi là "Uỷ ban nhân dân chống phiến Cộng" do ông Trương Công Cừu là Chủ tịch, ông Ngô Trọng Hiếu là Phó chủ tịch, và trung tá Nguyễn Văn Châu làm Tổng thư ký. Sau khi sóng gió qua rồi, nhóm lãnh tụ đảo chính thoát thân an toàn qua Cao Miên, các đơn vị Nhảy dù, Biệt động quân đã trở về trại nép mình theo kỷ luật, thì tối 12.11.1960, Quốc hội nhóm phiên họp bất thường để (như báo chí tường thuật) “thảo kế hoạch an ninh dâng lên Tổng thống".
Sáng hôm sau, với sự hướng dẫn và tổ chức của trung tá Châu (Giám đốc Nha chiến tranh tâm lý), Quốc hội tham dự cuộc biểu tình trong khuôn viên dinh Độc lập để hoan hô chào mừng Tổng thống đã "nhờ ơn trên ban phép lành" nên tai qua nạn khỏi. Nhưng theo Dân biểu Huỳnh Thành Vị thì tối hôm đó Quốc hội nhóm họp đã không thảo luận gì hết mà thật sự chỉ để chỉ mặt điểm tên, tố cáo nhau là hèn nhát, là trốn tránh, là phản bội.
Cuộc binh biến 11.11.1960 như là mắt xích cuối cùng của một chuỗi dài những khủng khoảng chính trị và quân sự mà chế độ Diệm phải đối phó với rất nhiều vụng về và thiếu chuẩn bị.

Hai năm khốn cùng (1961-1962)

Năm 1960, như đã trình bày, nếu đã là năm mở đầu cho sự băng hoại tận gốc rễ của chế độ Diệm với 5 biến cố là sự thảm bại của sư đoàn 21, bức tranh chuột đục khoét quả dưa hấu miền Nam của báo Tự do, bản tuyên cáo của Nhóm Caravelle, cuộc binh biến 11.11 do binh chủng nhảy dù khởi xướng và sự ra đời đầy thách đố của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, thì năm 1961, Việt cộng phát động những trận đánh lớn nâng mức độ huỷ diệt của chiến tranh lên một tầng cao hơn để phát triển màng lưới chính trị ở lông thôn, xây dựng hạ tầng cơ sở tuyên truyền tố cáo những tội ác của chế độ để phát huy chính nghĩa và thanh thế thêm cho Mặt trận.

Tình trạng mất an ninh của miền Nam cũng như viễn tưởng huỷ diệt của chính chế độ rõ ràng và khẩn cấp đến nỗi thành phần rường cột trung kiên nhất của chế độ lúc bấy giờ cũng phải hốt hoảng lo lắng. Nguyễn Văn Châu, Giám đốc Nha chiến tranh tâm lý, chủ tịch Uỷ ban quân uỷ đảng Cần lao, Lê Văn Thái (hiện ở Mỹ), Phụ tá giám đốc Nha nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến và bác sĩ Lý Trung Dung, uỷ viên Trung ương Đảng Cần lao bèn vận động với ông Ngô Đình Nhu và một số chính khách nhân sĩ đối lập ôn hoà để thành lập Hội nghị Đại đoàn kết toàn dân chống cộng trong mục đích cải thiện chế độ và làm giảm bớt nỗi căm thù của quần chúng đối với chế độ ông Diệm.
Cuộc vận động bắt đầu từ 18.1.1961 mà mãi đến mồng 2.7.1961 mới thành hình và mới triệu tập được một buổi họp chính thức tại tư gia của bác sĩ Phan Huy Quát với sự tham dự của một số chính khách có cả bác sĩ Đặng Văn Sung (hiện ở Mỹ) và dưới sự chủ toạ của ông Ngô Đình Nhu. Người bạn trẻ của tôi anh Tạ Chí Diệp (con của cụ Tạ Chương Phùng, một cựu đồng chí của ông Diệm) vừa mãn tù ra và được Đại hội cử làm thuyết trình viên. Sau khi trình bày thực trạng nguy ngập của đất nước, những hiểm hoạ rõ ràng của Cộng sản. Đại hội đưa ra quyết nghị gồm các điểm: “công khai hoá hoạt động của các chính đảng, lập một diễn đàn chính trị, xét lại vấn đề chính trị phạm (vì người quốc gia chống Cộng bị bắt bớ giam cầm quá nhiều, nhất là ở thôn quê), lập một hội đồng chính trị có nhiệm vụ phê bình và chất vấn chính quyền, và cử một Uỷ ban vận động Đại đoàn kết gồm 11 người để thực hiện nghị quyết”.
Rõ ràng nghị quyết đó là một giải pháp chính trị ôn hoà và thực tế để cứu nước, một phương thức dân chủ gây lại tinh thần đoàn kết, xoá bỏ hận thù. Nhưng ông Nhu không những bác bỏ ngay hết mọi đề nghị của. Đại hội mà còn nặng lời chỉ trích các chính khách, đảng phải, và lên án họ đã phá hoại chế độ, không để cho chính quyền của ông ta rảnh tay lo đối phó với Cộng sản.
Sau lần gặp gỡ duy nhất đó, ông Nhu không bao giờ đi họp nữa và Đại hội cũng tan luôn. Tội nghiệp cho mấy vị chính khách nhiệt thành và mấy ông Cần lao ngây thơ; họ không biết kinh nghiệm đã cho thấy rằng đối với anh em nhà Ngô thì cả nước chỉ biết cúi đầu tuân phục. Những thiện chí, những sáng kiến dù có giá trị và xuất xướng từ người thân tín mà hễ đả động đến tự ái của anh em nhà Ngô thì chỉ là những giấc mơ không bao giờ thành sự thật. Nhiều kẻ đưa ra thiện chí, đưa ra sáng kiến còn mua lấy tai hoạ như trường hợp Tạ Chí Diệp vì quá hăng say trong việc cứu nước mà lấy cái chết sau này.
Sau Đại hội đoàn kết bất thành, Diệp bị bắt và bị thủ tiêu luôn. Được tin Diệp bị Công an sát hại, Bác sĩ Tuyến và tôi vô cùng bàng hoàng kinh khiếp. Chúng tôi gặp nhau than thở không ngờ nhóm Nguyễn Văn Y, Dương Văn Hiếu tàn ác đến thế.
Không ai có thể chối cãi được thái độ chính trị của Tạ Chí Diệp cũng như những đề nghị của anh ta trong Hội nghị đoàn kết là những đề nghị xây dựng để mong cứu lấy miền Nam, thế mà Diệp đã chết vì cái chủ trương đối lập xây dựng đó. Huống chi Diệp lại là con trai độc nhất của cụ Cử Tạ Chương Phùng, một đồng chí son sắt của ông Diệm trong phong trào Cường Để từng hy sinh thân thế, sự nghiệp, tiền của cho ông Diệm, từng bị mật thám Pháp tra tấn đến nỗi gẫy cả răng và điếc cả tai.
Diệp chết đi để lại một cha già gần 70 tuổi nghèo nàn và cô đơn, để lại một bà nội trên 90 tuổi già nua bệnh tật. Trước cảnh thương tâm đó chỉ còn cụ Huỳnh Minh Y bà bác sĩ Bùi Kiện Tín giúp đỡ cụ Tạ một phần nào mà thôi.
Cái chết của Tạ Chí Diệp cũng như cái chết của Nguyễn Tấn Quê, Vũ Tam Anh, Nguyễn Bảo Toàn v.v... và hàng trăm ngàn người dân vô tội ở thôn quê nằm trong chính sách tiêu diệt người quốc gia đối lập của chế độ Diệm. Ai cũng biết rằng cái chết oan khiên của hàng trăm ngàn người dân quê nhiều khi là do hành động lạm quyền của các cán bộ Cần lao công giáo còn việc sát hại những nhân vật chính trị tên tuổi tại Sài gòn là phải có lệnh của các ông Diệm, Nhu, Cẩn. Thế mà sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, trước Toà án Cách mạng, đại tá Nguyễn Văn Y dám khai rằng ông ta đã ra lệnh giết những nhân vật quốc gia kia chỉ vì "nghe không rõ lệnh của Tổng thống". Đó là một lời khai gian xảo tuy có ý bênh vực Tổng thống Diệm nhưng đồng thời cũng tố cáo Tổng thống Diệm đã liên hệ vào các vụ giết người. Dù sao thì một chế độ chủ trương sát hại, thủ tiêu những người quốc gia đối lập đã là một chế độ tàn bạo kiểu Nazi Đức Quốc Xã. Còn một chế độ mà ông Tổng giám đốc cầm đầu ngành Công an, Cảnh sát vì "nghe không rõ lệnh của ông Tổng thống" mà đem những nhân vật quốc gia chân chính đi trấn nước cho chết như trấn nước một con chó dại thì chế độ đó là chế độ gì? Đừng trách thống nhà văn Hiếu Chân, Chu Tử, Tư Chung buộc tội chế độ Diệm là thứ "Chế độ cầm phi thú”.
Trường hợp yếu tử của Đại hội đoàn kết nếu đã để lại những xót xa và phản tỉnh trong lòng một số người thì nó cũng đã xác nhận thêm cái chân tướng chính trị của Ngô Đình Nhu, một chân tướng được đúc nặn bằng tâm địa thâm độc chủ quan và óc tham quyền cố vị. Năm 1953 khi cần tạo uy thế cho anh mình để nắm chính quyền, Ngô Đình Nhu đã chủ trương chính sách Đại đoàn kết với các đảng phái đến nỗi Ngô Đình Nhu không ngại ngồi chung và cộng tác với những kẻ mà Nhu cho là "ăn cướp” như Năm Lửa, Bảy Viễn; thế mà khi nắm giữ được quyền hành rồi Nhu lại bác bỏ phương thức Đại Đoàn kết để cứu nước, chỉ điều hành sinh hoạt quốc gia bằng những luật lệ độc tài phản dân chủ, khinh thị quốc dân, chỉ trích mạt sát các đảng phái mặc dù đất nước đang rách nát đau thương do chính tay gia đình ông ta gây ra.
Đã không chịu thực hiện công cuộc Đại đoàn kết, liều thuốc cuối cùng và hợp lý nhất để cùng nhau đương đầu với kẻ thù chung là Cộng sản, nhà Ngô còn ngoan cố bác bỏ mọi đề nghị dân chủ hoá chế độ của người Mỹ, mọi đề nghị đoàn kết của quốc dân, còn khinh thường thái độ của quân đội và nhân dân đã nhiều phen tha thiết biểu lộ nguyện vọng xin chính quyền nới rộng bàn tay kìm kẹp. Thủ đoạn thành lập chính phủ mới dưới đây càng tỏ rõ thái độ ngoan cố và khinh thường ý kiến của người Mỹ và ý nguyện của nhân dân Việt nam.
Sau khi làm lễ tuyên thệ chức Tổng thống nhiệm kỳ II trước Quốc hội vào ngày 28-5-1961, anh em ông Diệm thành lập một chính phủ mới và tuy tuyên bố có cải tổ trong thành phần nhân sự nhưng thật sự cũng chỉ là những người thân tín cũ. Nếu có vài người mới thì cũng chỉ là thứ người chỉ biết uốn mình theo chế độ Cũng như mới nhìn thì có vẻ một sự tái phối trí về nhiệm vụ nhờ một số danh từ mới nhưng những danh từ này thật ra chỉ cốt để đánh lận con đen, không lừa dối được ai mà lại còn bày tỏ rõ ràng thêm những thủ đoạn chính trị ấu trĩ. Chính phủ mới có ba bộ đặc nhiệm gồm có Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ kiêm Bộ trưởng Đặc Nhiệm Phối Hợp Phát triển Kinh Tế, ông Nguyễn Đình Thuần, làm Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Phụ Tá Quốc phòng và Bộ trưởng Đặc nhiệm phối hợp An ninh là ông Trương Công Cửu, vốn là Dân biểu và chủ tịch "Uỷ ban chống phiến cộng", giữ chức Bộ trưởng Đặc nhiệm Văn Hoá Xã hội, Lúc đặt ra ba bộ Đặc nhiệm, anh em ông Diệm muốn chứng tỏ đang thực hiện chính sách tản quyền nhưng thiên hạ còn lạ gì thủ đoạn của họ Ngô vì trong lúc đưa ra ba bộ Đặc nhiệm do chính cộng sự viên thân tín nắm giữ thì đồng thời nhà Ngô cũng lại ban hành nhiều sắc luật đặc biệt để nắm chặt lấy quyền hành.
Ngoài ba vị Bộ trưởng Đặc nhiệm trên đây còn có các ông Vũ Văn Mẫu, Bộ ngoại giao, Bùi Văn Lương, Bộ Nội Vụ, Nguyễn Văn Lượng, Bộ tư pháp, Nguyễn Quang Trình, Bộ Giáo dục, Ngô Trọng Hiếu, Bộ Công dân Vụ, Hoàng Khắc Thành, Bộ Kinh Tế, Nguyễn Lương, Bộ Tài Chánh, Trần Lệ Quang, Bộ Cải Tiến Nông Thôn, Trần Đình Đệ, Bộ Y Tế, Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Lao động, Nguyễn Văn Dinh, Bộ Giao Thông Công chánh. (Đa số các vị trên đây đều có mặt tại hải ngoại). Ngoài một số Bộ trưởng được dư luận coi như nhân tài hay liêm chính như các ông Trần Lệ Quang, Vũ Văn Mẫu, Trần Đình Đệ, Nguyễn Văn Lượng... một số khác có những “huyền thoại riêng, tuy nhiên có hai nhân vật đặc biệt được dư luận bàn tán rất nhiều là các ông Huỳnh Hữu Nghĩa và Ngô Trọng Hiếu.
Ông Huỳnh Tấn Nghĩa (hiện ở Pháp) tuy rất trẻ tuổi và không có một bằng cấp văn hoá nào nhưng ông ta là "chiến hữu" của tướng Trịnh Minh Thế đã được đại tá CIA Lansdale thuyết phục kéo quân từ chiến khu Bà Đen về hợp tác với anh em ông Diệm từ thời 54-55. Giới báo chí và dân chúng thủ đô cho rằng ông lo việc bàn đèn cho ông Nhu tại Sài gòn cũng như một ông Thị trưởng lo bàn đèn cho ông Nhu tại Đà Lạt mỗi khi ông Nhu đi săn bắn. Dư luận đó không biết có đúng không nhưng theo ông Nguyễn Đình Thuần kể lại cho nhiều người Mỹ biết thì ông Nhu là người nghiện thuốc phiện. Ông Nhu có cặp môi xám đen như thường thấy nơi những người hút sách nghiện ngập, thường đến chơi và thường ăn cơm tại nhà ông Nghĩa. Những chuyện mà các chính khách và các văn nghệ sĩ ở Sài gòn bàn tán nhiều là vào năm 1956, ông Nghĩa đã cho ra đời một thi phẩm tự đề là "Việt nam ngày nay" để ca tụng Tổng thống Diệm như một “vĩ nhân giữa đời kết tinh ý trời và hồn sông núi" để trong phần kết luận tác giả đã chiêm ngưỡng thần tượng do mình tạo nên bằng cách "Cúi đầu lạy trước cao dày, cùng nhau kể lể những ngày sau xưa". Thi phẩm quái đản này và việc lo bàn đèn cho ông Nhu chắc chắn đã đóng góp vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Lao động mà ông Nghĩa đã nắm cho đến ngày tàn của chế độ Ngô triều.
Người ta chú ý đến ông Ngô Trọng Hiếu (hiện ở Mỹ), vì ông Hiếu làm Bộ trưởng cho chính phủ "Cách mạng Nhân vị" Việt nam cộng hoà mà gốc gác lại không phải là người Việt nam. Mẹ ông là người Việt nhưng cụ thân phụ của ông là người Phillippines có quốc tịch Pháp, và tuy ông sinh đẻ ở Thủ Dầu Một nhưng lại theo quốc tịch cha. Ông đã từng học luật ở Pháp và vì người Pháp nên ông được chính phủ Bảo hộ cử giữ chức Trưởng Ty ngân khố. (Dưới thời Pháp thuộc chỉ có người Pháp mới được giữ chức này). Ông được ông Thơ giới thiệu với anh em ông Diệm cho đi làm Đại sứ Việt nam ở Phnom Penh. Buồn cười thay những thất bại trong nhiệm vụ Đại sứ lại làm cho ông trở thành Bộ trưởng công dân Vụ cho đến ngày chế độ Diệm sụp đổ.
Dư luận đã cho rằng việc nhà Ngô trọng dụng ông Ngô Trọng Hiếu là một thái độ khinh thị quần chứng, coi quốc gia đã hết nhân tài nên mới dùng "con Tây" làm Bộ trưởng. Hai nhân vật Ngô Trọng Hiếu và Huỳnh Hữu Nghĩa trong tân Nội các của ông Diệm vào nhiệm kỳ Tổng thống thứ II đã biểu lộ một cách chính xác nhất bản chất chế độ Diệm chỉ là chế độ trung ương tập quyền và phong kiến quan lại chỉ tin dùng những bề tôi nịnh thần. Vì miền Nam đã thực sự suy yếu, chế độ Diệm đã thực sự lung lay ngay từ năm 1960 khi những biến cố chính trị và quân sự dồn dập xảy đến, nên khi mới bước chân vào toà Bạch ốc và đầu năm 1961, mối ưu tư hàng đầu của Tổng thống Kennedy là vấn đề Việt nam. Ông cấp tốc lấy những biện pháp cần thiết quan trọng để xây dựng lại uy tín cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và để cứu vãn miền Nam.
Tổng thống Kennedy vội vã phái Phó tổng thống Johnson qua Sài gòn để quan sát và nghiên cứu tình hình tại chỗ. Trước khi ra đi, Kennedy đã nói với Johnson rằng: "Miền Nam Việt nam đang rối rắm, ta cần phải giúp họ, mà chính họ cũng phải tự giúp họ nữa". Quả lời nói bao hàm nhiều ý nghĩa chính trị. Tổng thống Kennedy cũng nhờ Phó tổng thống Johnson trao cho Tổng thống Ngô Đình Diệm một bức thư đề nghị tăng quân viện và kinh viện, đặc biệt là đề nghị tăng quân số của quân đội VNCH thêm 20.000 người, tăng lực lượng giang thuyền và cận duyên, tăng cường sức mạnh cho Bảo an...
Cuộc viếng thăm ba ngày 11, 12, 13 tháng 5 năm 1961 của nhân vật thứ hai trong chính quyền Hoa kỳ không những chỉ để cho cấp lãnh đạo tố cáo Mỹ có một cái nhìn chính xác hơn về tình hình Nam Việt nam mà còn có mục đích chứng tỏ cho Hà nội và cho dân chúng miền Nam biết rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ VNCH dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Để tạo lại uy tín cho Tổng thống Ngô Đình Diệm vốn đã bị sứt mẻ quá nhiều, khi đến Sài gòn, Phó tổng thống Johnson đã đưa ra lời ca ngợi ngoại giao lố lăng là tôn vinh ông Diệm như một "Winston Churchill Á Đông”. Những lời tán tụng ông Diệm của Phó tổng thống Johnson đã làm cho ký giả Mỹ thêm thắc mắc và nhân dân Việt nam thêm bẽ bàng uất hận.
Tháng 11 năm 1961, Tổng thống Kennedy lại cử Đại tướng Taylor cố vấn quân sự, và ông Rostow, cố vấn an ninh, qua Sài gòn để cùng với chính phủ VNCH thiết lập dự án những nhu cầu viện trợ đa diện, đặc biệt là về phương diện quân sự. Hai nhà chức trách cao cấp Mỹ khi trở lại Washington đã báo cáo với Tổng thống Kennedy rằng tình hình quả thật nguy kịch nhưng vẫn còn có thể chiến thắng được Cộng sản, với điều kiện là Mỹ phải cấp tốc tạo lại tinh thần lạc quan và quyết chiến cho miền Nam Việt nam. Tờ trình nói rằng: "Viện trợ dồi dào và rộng lượng của Mỹ cả về tài lực, nhân lực cho mọi ngành thuộc các cơ cấu dân sự, quân sự có thể đưa đến kết quả là chế độ Diệm có thể được cải tiến để họ có ý chí quyết chiến”.
Trong những năm 61 và 62 đó, tuy chính quyền Kennedy có thật sự ưu tư và yểm trợ cho miền Nam Việt nam nhưng tiếc thay, chính sách yểm trợ đó chỉ củng cố thêm uy tín và địa vị riêng của ông Diệm đang bị lực lượng chủ lực của đất nước là quân đội chống đối. Chính quyền Kennedy đã không dám quyết liệt đòi hỏi ông Diệm phải thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng để trong sạch hoá và hùng mạnh hoá chế độ mà chỉ đề nghị những cải cách phiến diện đến độ anh em ông Diệm cũng không lưu tâm đến. Trong phần tư đầu của nhiệm kỳ, tuy vấn đề Việt nam tiềm ẩn những yếu tố phức tạp và nghiêm trọng nhưng Tổng thống Kennedy vẫn chưa lấy các biện pháp có tầm quan trọng thích đáng vì vẫn hy vọng miền Nam nói chung, và chế độ Diệm nói riêng, dù có sai lầm suy nhược nhưng vẫn còn có thể sửa sai để tự cường được.
Riêng đối với nhân dân Việt nam, với trên 7 năm cầm quyền của anh em ông Diệm, người quốc gia miền Nam đã kinh qua nhiều kinh nghiệm xương máu với chế độ ông Diệm nên hoàn toàn thất vọng, không còn tin tưởng nơi lời nói và việc làm của ông ta nữa. Rõ ràng nhất là anh em ông Diệm vẫn không học được một bài học nào sau một năm 1960 đầy sóng gió, không chịu cảnh tỉnh trước sự công phẫn công khai và quyết liệt của quân nhân để vẫn cứ ngoan cố tiếp tục tác phong khinh thị quốc dân và tiếp tục chính sách quản trị đất nước một cách hẹp hòi ngu xuẩn. Chứng cớ rõ ràng là những vụ lùng bắt, giam cầm sát hại người quốc gia đối lập, vẫn tiếp tục và tiếp tục quyết liệt hơn. Chứng cớ rõ ràng là vụ Ngô Đình Nhu khinh thị và mạt sát người quốc gia đối lập trong Hội nghị Đại đoàn kết. Chứng cớ rõ ràng là việc thành lập một chính phủ mới gồm toàn những tay chân thân tín, không có thành tích và ý thức cách mạng.
Trong lúc đó, Việt cộng lại khôn khéo khai thác những chiến thắng của năm 1960 để tung ra những đợt tiến công hung hãn hơn trong năm 1961 và những năm tiếp theo. Mới vào năm 1961 mà Việt cộng đã làm chủ tình hình nhiều nơi, đã liên tiếp tấn công hết quận ly này đến quận lỵ khác, đã sát hại nhiều quận trưởng, Dân biểu, Phó tỉnh trưởng và dám tấn công vào tỉnh ly Kiến Hoà (ngày l.4.1961). Đặc công Việt nam cũng đã liên tiếp khủng bố, đặt bom ném lựu đạn ngay giữa đô thành Sài gòn, Chợ Lớn, đã dám xua 2.500 dân các tỉnh lên Sài gòn biểu tình phá rối cuộc bầu cử Tổng thống (ngày 9-4-1961), Việt cộng cũng đã dám tấn công công trường Đa Nhim, một khu vực nổi tiếng an toàn chỉ thua thủ đô Sài gòn, bắt và hạ sát cả Quận trưởng Đơn Dương, ngày 28-6-196l. Trong cuộc hành quân của quân đội VNCH vào chiến khu Tô Hạp (biên giới tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hoà) quân lực ta đã phải đương đầu với một lực lượng 1.500 Việt cộng cũng đủ nói lên sức mạnh có tính cách quy mô của Việt cộng ở hai tỉnh thường được coi là an ninh nhất miền Trung. Ngày 16-7-1961, Tiểu đoàn 502 của Việt cộng dám công khai công hãm một tiểu đoàn nhảy dù giữa ban ngày tại Mỹ Quý (Kiến Phong). Ngày 18-9-1961, Việt cộng tấn công chiếm đóng, đốt phá tỉnh ly Phước Thành làm cho thiếu tá Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, Phó Tỉnh trưởng và nhiều viên chức dân sự, quân sự bị sát hại. Ngày 1-10-1961, đại tá Hoàng Thuỵ Nam, trưởng phái đoàn Việt nam liên lạc với Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến lên thăm trại riêng tại Thủ Đức, khu vực được coi là an toàn gần thủ đô Sài gòn, bị Việt cộng bắt cóc và giết chết. Việc này làm cho Tổng thống Diệm phải viết thư báo động với Tổng thống Kennedy về chủ trương xâm lăng của Hà nội...
Tôi chỉ kể qua một ít hoạt động của Việt cộng nhưng nhìn vào bản đồ miền Nam năm 1961 thì những vết đỏ giới hạn ban đầu đã từ từ lan toả khắp miền Nam, từ tuyến đầu Quảng Trị vào đến Cà Mau heo hút, từ Duyên hải trù phú đến Cao Nguyên màu mỡ rồi.
Trước hoàn cảnh bi đát đó, người quốc gia không thể cứ ngồi nhìn anh em ông Diệm và chế độ “Cần lao công giáo” bất lực và thối nát kia bám lấy địa vị và xé dần bản đồ Việt nam cho rách nát thêm. Họ nhận định rằng nếu chế độ Diệm tồn tại thì họ sẽ không có một cơ may nào để sinh tồn vì họ vừa phải chống giặc ngoài vừa dẹp thù trong.
***
Sáng ngày 27-2-1962, khoảng 7 giờ, tôi đang chuẩn bị đến văn phòng thì bỗng nghe tiếng nổ dữ dội, rồi một vùng khói đen nghịt cuồn cuộn từ phía dinh Độc lập toả lên cao, trong lúc trên bầu trời quận I và quận 2 thành phố, 2 chiếc chiến đấu cơ đang bay lượn theo đội hình tác chiến. Không cần phải kiểm chứng tôi cũng biết được dinh Độc lập đã bị ném bom như chỉ cách đây 2 năm, ngày 10-3-1960, dinh Tổng thống Sukarno ở Nam Dương cũng bị phi cơ bắn phá.
Tôi bèn lên xe chạy vào dinh Độc lập nhưng đến nơi thì thấy cửa dinh đã đóng kín, quân phòng vệ phủ Tổng thống đã bố trí trong tư thế tác chiến cả bốn mặt. Tôi gặp tướng Nguyễn Khánh dọc đường nên hai chúng tôi bèn trở lại theo phía cổng đường Nguyễn Du mà vào. Nhìn thấy cánh trái dinh Độc lập bị sụp đổ tôi nghĩ rằng vợ chồng Ngô Đình Nhu đã bị trúng bom rồi, không ngờ khi đến một căn phòng nhỏ hẹp ngay dưới cầu thang chính của phòng đại sảnh, nơi xây cất vững chắc nhất, thì thấy Tổng thống Diệm, gia đình Ngô Đình Nhu và tình cờ lại có cả giám mục Ngô Đình Thục nữa, đang ngồi chen chúc trú ẩn. Mọi người im thin thít, mặt mày xanh như tàu lá chuối. Trước cảnh tượng đó, Khánh và tôi vội chào rồi lui ra. Khoảng một giờ sau, một sĩ quan của Nha An ninh quân đội đến báo cho tôi biết hải quân đã bắn hạ một chiếc phóng pháo cơ của không quân trên sông Nhà Bè, cách hải quân công xưởng chỉ độ một cây số và đã biết được viên phi công là trung uý Phạm Phú Quốc, còn chiếc máy bay thứ hai thì đã mất dạng. Tôi vào "hầm" trình bày tự sự cho ông Diệm biết, bấy giờ mọi người mới lục đục đi ra. Và cũng cho đến lúc đó mới có một nhân viên của Phủ báo cho biết ngay trên vị trí trú ẩn còn một quả bom không nổ. Nhờ vậy mà cả gia đình ông Diệm đều được bình an chỉ trừ bà Nhu bị thương nhẹ vì gạch văng trúng vào ngực. Mới quan sát qua quang cảnh đó tôi đã biết ý định của nhóm phi công “phản loạn” vốn không có ý hạ sát ông Diệm mà chỉ muốn giết vợ chồng Ngô Đình Nhu mà thôi.
Sau đó mấy giờ, ông Diệm ra lệnh dời Phủ Tổng thống về dinh Gia Long tức khắc, chỉ để lại một số cơ quan phụ thuộc tại những ngôi nhà nhỏ trong Dinh.
So với biến cố 11-11-1960, vụ ném bon không xảy ra tuần tự có thứ lớp để ông Diệm có thì giờ đối phó. Tiếng nổ long trời lở đất (đúng là như "trời giáng" xuống dinh Độc lập) đến một cách bất thần không những đã làm sụp đổ cái kiến thức biểu tượng cho uy quyền của ông mà còn làm sụp đổ chỉ trong mấy giờ phút ngắn ngủi, cái niềm tin thiên mệnh thần bí đã từ lâu bám chặt lấy tâm lý của ông.
Chỉ độ vào khoảng vài tiếng đồng hồ sau tiếng sét chính trị đó, ông Diệm gọi tôi đi theo ông về ngôi nhà Trắng biệt lập ở góc đường Nguyễn Du- Công Lý trong vòng rào của Dinh. Trước đây vài phút, giữa đám đông ông đã cố gắng bình tĩnh để giữ thể thống của một nhà lãnh đạo gan lý không xao xuyến trước mọi thử thách, nhưng đến khi ngồi trong căn nhà vắng lặng chỉ có hai thầy trò, khuôn mặt của ông lộ hẳn vẻ buồn phiền. Ngồi im lặng đến hơn 5 phút ông mới hỏi tôi: “Mậu có biết thằng Quốc không?” Tôi biết ông muốn hỏi trung uý Phạm Phú Quốc nhưng vì chưa nắm vững tình hình nên tôi chỉ trả lời: "Thưa Cụ, nếu nói là Phạm Phú Quốc thì y là người Quảng Nam thuộc giòng dõi cụ Phạm Phú Thứ". Nghe tôi nói đến cái tên Phạm Phú Thứ, ông Diệm liền chau mày. Hơn ai hết, ông biết rõ tiên bối Phạm Phú Thứ đã từng làm quan Nam triều, từng làm Tuần Vũ Bình Thuận nơi ông đã có thời trấn nhậm, ông cũng biết cụ là người Quảng Nam nơi anh ruột ông đã từng làm Tổng đốc. Cụ Phạm Phú Thứ là một nhà nho tuy ra làm quan vào thời Tây bắt sau đô hộ Trung kỳ nhưng cụ luôn luôn hành xử một cách thanh liêm, cương trực và từng tỏ thái độ bất khuất đối với người Pháp nên được giới sĩ phu và nhân dân miền Trung hết lòng ngưỡng mộ. Ông Diệm là người mang nhiều tự ái, tính tình lại cao ngạo, ông tự cho mình cũng là nhân vật tên tuổi, tiếng tăm không thua gì Phạm tiền bối mà sao còn cháu dòng họ Phạm lại dám ném bom dinh Độc lập. Đoán biết tư tưởng của ông, tôi nghĩ thầm có lẽ ông Diệm đang uất ức lắm. Cái chau mày bất thình lình đó hàm chứa một sự tức giận cao độ vì bị sỉ nhục. Ông chỉ hỏi có ngần đó rồi lại ngồi im, lầm lý buồn bã. Cặp mắt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ lung lắm. Tôi muốn phá tan bầu không khí im lặng nặng nề rất khó chịu cho tôi trong giờ phút phải đối diện với vị nguyên thủ quốc gia đang buồn bực vì một cảnh ngộ vừa là gia biến vừa là quốc biến mà chính tôi ít nhiều đã có lỗi vì không chu toàn được trách nhiệm khám phá những âm mưu phản loạn trong quân đội. Để gián tiếp an ủi ông và cũng có ý để phân trần với ông, tôi nói: “Thưa Cụ, qua phương pháp và mục tiêu của vụ ném bom thì hình như bọn "phản loạn" chỉ muốn tốc chiến tốc thắng giết ông bà Cố vấn mà thôi, họ không muốn làm hại Cụ. Hơn nữa, quả bom trên đầu cầu thang đã không nổ, tức là số mạng của Cụ còn vững vàng lắm". Nói mấy lời đó tôi có ý muốn nhắc khéo cho ông Diệm biết rằng quân dân chỉ thù ghét vợ chồng Ngô Đình Nhu mà thôi. Nói cách khác tôi chỉ muốn nhắc cho ông biết chính anh em, bà con của ông mới là những nguyên nhân chính gây tai hoạ cho ông, và qua ông, họ gây tai hoạ cho đất nước.
Tôi đoán từ lâu rồi ông Diệm đã biết rõ ông Nhu không ưa tôi nhưng vụ ném bom dinh Độc lập mà chủ ý là để giết ông bà Nhu, như thêm một bằng chứng nói lên việc quốc dân thù oán ông bà Nhu tột độ để cho ông Diệm thấy rằng ông Nhu ghét tôi là một sai tâm thiếu sáng suốt. Có lẽ vì thế mà sau vụ ném bom ngày 27-2-1962; ông Diệm càng ngày càng tỏ vẻ thương mến tôi hơn.
Thời còn ở dinh Độc lập, thường thường vài tháng một lần, ông mới gọi tôi vào dinh ban đêm nói chuyện thế sự, nhưng từ ngày soạn về dinh Gia Long cứ vài tuần lễ ông lại cho gọi tôi vào để nói chuyện đời, có khi đến 2,3 giờ sáng mới chấm dứt, làm cho sĩ quan tuỳ viên và ông già ấn, người đầy tớ trung thành của ông, phải thức đêm chầu chực. Có lần gia đình tôi được gia đình một bạn Pháp cố vấn cho Phủ Tổng thống, là ông Mourer mời ăn cơm tối tại nhà riêng nhưng vào đúng giờ bắt đầu ăn cơm, ông Diệm cho gọi tôi vào Dinh làm cho chúng tôi phải đợi đến nửa đêm mới bắt đầu bứa tiệc dù trong lúc ngồi nói chuyện với ông, tôi đã vài lần nhắc khéo chuyện gia đình tôi đang đợi tại nhà ông bà Mourer (ông Mourer sau khi về Pháp là cố vấn hành chính cho Tổng thống Geoges Pompidou và hiện sống ở Paris). Nhiều đêm, hai thầy trò đang say sưa nói chuyện nhưng khi nghe tiếng dép của ông Nhu đi tới thì ông Diệm vội nhè nhẹ bảo tôi: "Thôi anh về đi kẻo ông Nhu tới đó “. Chính sách cư xử thân tình đó lại càng làm cho tôi thương mến ông nhiều hơn mặc dù tôi đã không còn tìm thấy nơi ông một người có vóc dáng xứng đáng để lãnh đạo quốc gia nữa.
Mối thâm tình thắm thiết kéo dài cho đến khi biến cố Phật giáo xảy ra, rồi vì ông Diệm quá bộn bề công việc, quá bối rối buồn bực, giữa ông và tôi không còn những dân tâm tình vào ban đêm như trước nữa. Tại ngôi nhà Trắng, ông Diệm và tôi đang ngồi im lặng mỗi người mang riêng một tâm sự và cặp mắt cả hai thầy trò như muốn ứa lệ trước một biến cố hết sức hãi hùng thì bỗng nhiên tướng Nguyễn Khánh bước vào. Tướng Khánh tỏ vẻ bớ ngớ rõ rệt khi chỉ thấy có ông Diệm và tôi, nhưng ông Diệm vội vã lấy bình tĩnh rồi bảo tôi: "Thôi Mậu về lo việc ở điều tra đi”.
***
Khi tôi về đến Nha An ninh quân đội thì Cục An ninh hải quân đã bắt được trung uý Phạm Phú Quốc và An ninh không quân đã bắt được trung uý Nguyễn Văn Đính, anh ruột của trung uý phi công Nguyễn Văn Cử rồi. Tối đó chúng tôi nghe được đài phát thanh Nam Vang thông báo việc chính phủ Cao Miên bắt được Nguyễn Văn Cử và chiếc phi cơ quân sự của VNCH do Cử lái. Tôi xuống phòng điều tra của đại uý Sinh (trung tá Sinh hiện ở Mỹ) thấy hai sĩ quan vừa bị bắt mặt mày thâm tím, sưng vù trông rất đáng thương. Tôi ra lệnh ngừng ngay cuộc hỏi cung và cho dân Quốc và Đính về phòng giam tạm của Nha. Ba hôm sau, bà mẹ của Phạm Phú Quốc (hiện ở Mỹ) từ Đà Nẵng vào xin gặp tôi để được phép thăm con. Luật pháp cũng như thông lệ không cho phép ai được thăm viếng một đại tội phạm vừa mới bị bắt, nhưng lương tâm riêng lại bảo tôi cứ để cho bà cụ được gặp con trong cơn hoạn nạn. Chính tôi đích thân dẫn bà cụ vào phòng giam thăm Quốc và khi vừa thấy Quốc, bà cụ vẫn giữ vẻ bình tĩnh lại còn mỉm cười rồi hỏi con: "Vì sao mặt con sưng cáy lên như thế? " Quốc trả lời: "Thưa mẹ, khi máy bay rớt xuống nước, mặt con đụng vào thân phi cơ". Tôi biết rằng nét mặt bình tĩnh và nụ cười trên môi bà cụ chỉ là thái độ gượng gạo bên ngoài để che giấu lòng dạ đang héo hon của bà. Cũng như việc Quốc không nói lên sự thật đã bị tra tấn cũng chỉ là lời che giấu để mẹ được yên tâm. Tôi khâm phục mẹ Quốc như một bà Mạnh mẫu, tôi cảm phục Quốc là người dũng sĩ, tôi tự nghĩ họ thật xứng đáng là dâu con, cháu chắt của gia đình Phạm Phú tiên sinh nơi quê hương của Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Trần Cao Cân... Tôi bèn thưa với bà cụ: "Thưa bác, anh Quốc muốn giấu bác đó, chính nhân viên điều tra của tôi đã tra khảo anh ta đến nỗi mang thương tích nặng nề. Tôi xin lỗi bác và xin bác cứ yên tâm, từ nay sẽ không có những vụ hành hạ đó với Quốc nữa đâu”.
Cử chỉ khiêm tốn của tôi đối với một gia đình can phạm trong tay mình đã được đền bù xứng đáng vì mười năm sau trong một phi vụ ném bom Bắc Việt, chỉ vì muốn cứu bạn mà Quốc phải vĩnh biệt quê hương đất nước tại vùng Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.
Vụ ném bom dinh Độc lập do ông Nguyễn Văn Lực tổ chức và lãnh đạo. Ông Lực là người miền Bắc, một đảng viên kỳ cựu của Việt nam Quốc dân Đảng và cũng từng quen biết nhiều với ông Ngô Đình Nhu. Ông Lực là tác giả bản "Tuyên ngôn con người" rất nổi tiếng trong giới chính trị Sài gòn. Ông phân giải hệ thống âm Dương Ngũ Hành trong kinh dịch Đông Phương để đưa ra thuyết “nhân chủ” chống lại quan niệm vũ trụ và nhân sinh của Các Mác cũng như các giáo lý tín điều của tôn giáo Tây phương, chủ trương thờ một Đấng Chú Tể vạn năng. Theo ông Lực thì muốn chống Cộng cứu nước, phải thực hiện chế độ nhân chủ dựa theo thuyết âm Dương Ngũ Hành...
Nguyễn Văn Lực là thứ người cương nghị, đảm lược nên ông ta dám có những hành động táo bạo, tốc chiến tốc thắng. Ông lý luận một cách tuy đơn giản nhưng rất hợp lý rằng đối với một gia đình tham tàn, độc đoán, đối xử; một đầu hàng họ để kiếm miếng đỉnh chung cho cá nhân mình, hai là đập nát đầu họ để cướp lấy chính quyền mà cứu nước. Còn thiện chí xây dựng, hoà giải hay đoàn kết thì chắc chắn đã không cảm hoá được họ mà nhiều khi còn rước hoạ vào thân.
Do đó, vào sáng 27-2-62, khi trung uý Phạm Phú Quốc được lệnh thực hiện phi vụ hành quân tại Quân khu Tư, khi vừa cất cánh khỏi phi đạo của căn cứ không quân Biên Hoà, hai phi công liền đổi hướng bay về Sài gòn để thực hiện cuộc ném bom vào giờ phút mà vợ chồng Ngô Đình Nhu đang say sưa giấc điệp. Trong lúc đó thì trung uý Nguyễn Văn Đính (anh ruột Nguyễn Văn Cử, một sĩ quan không quân thuộc căn cứ Tân Sơn Nhất) có nhiệm vụ giữ liên lạc giữa Bộ chỉ huy đảo chính và hai phi công "phản loạn" theo đúng kế hoạch đã định.
Sau này ông Lực cho tôi biết nếu cuộc ném bom thành công, tiêu diệt được vợ chồng Ngô Đình Nhu thì một trong hai trường hợp có thể xảy ra:
Một là ông Diệm sẽ vì mất em ruột, cánh tay mặt chính trị mà ông phải nương dựa nên buồn phiền rồi tự ý từ bỏ địa vị; hai là ông ta sẽ được người Mỹ khuyến cáo tiếp tục lãnh đạo quốc gia trong tư thế lâm thời cho đến ngày một "Quốc dân hội nghị" bao gồm các tôn giáo, đảng phái, các tổ chức quần chúng khác và quân đội được thành hình để nhận trách nhiệm lãnh đạo đất nước.
Ông Lực cũng cho tôi biết lý do ông không muốn giết ông Diệm là vì ông không muốn làm cho Hoa kỳ, vốn đang mạnh mẽ ủng hộ ông Diệm, phải xúc động dẫn đến những phản ứng bất lợi hoặc những hệ quả tiêu cực cho miền Nam.
Sau khi thất bại ông Lực trốn về Biên Hoà, xuống tóc và bận áo nâu sòng sống như một nhà tu hành ẩn nấp từ chùa này qua chùa khác, thỉnh thoảng ông về thăm nhà và liên lạc với các đồng chí của tổ chức.
Tổ chức của ông Lực, theo kết quả điều tra của Nha tôi, chỉ gồm có gia đình ông ta, một số đảng viên Việt Quốc như nhà báo tên tuổi Vũ Ngọc Các, giáo sư Nguyễn Mậu, trung uý không quân Phan Ngô và một số người khác. Ngoài ra còn có ông Nguyễn Xuân Kỳ (hiện ở Mỹ), trưởng nam của bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, linh mục Nguyễn Văn Dũng, và ông Phan Xứng là những người đã hết lòng ủng hộ ông Diệm trong những năm đầu khi ông Diệm mới cầm quyền. Riêng về phía quân đội, ông Lực tổ chức nhiều tiểu tổ trong các đơn vị nhưng họ chỉ có nhiệm vụ sẵn sàng đợi cuộc ném bom thành công là phát động phong trào binh sĩ nổi dậy hường ứng cuộc cách mạng để vận dụng quân lực yểm trợ cho tổ chức. Sau ngày ném bom độ một tuần lễ, về phía dân sự, nhân viên của Nha tôi chỉ mới bắt giáo sư Nguyễn Mậu, ông Nguyễn Xuân Kỳ và vài người nữa vì tôi được lệnh của ông Nhu phải bắt toàn thể gia đình của ông Lực về giam giữ để làm con tin hầu có thể làm áp lực để bắt chánh phạm. Tôi bèn phải đi bắt bà Lực, vợ con trung uý Cử, trung uý Đính, giam giữ tại Nha An ninh quân đội nhưng không bắt đại uý Nguyễn Văn Tâm và tiểu gia đình anh ta vì tôi cố tình để cho gia đình ông Lực còn có người thân tự do ở ngoài để lo lắng việc gia đình trong lúc toàn gia bị nằm trong vòng lao lý (đại uý Tâm là con trai trưởng của ông Lực lúc bấy giờ phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu, hiện sống ở Hoa kỳ). Sau Cách mạng 1.11.1963, gia đình ông Lực trở về đoàn tụ, đại uý Tâm thường làm người liên lạc giữa ông Lực và tôi lúc bấy giờ đã trở nên đôi bạn tri kỷ.
Mấy tháng trôi qua, tôi không bắt thêm ai nữa ngoại trừ những người đã kể, chẳng những thế tôi còn trả tự do cho giáo sư Nguyễn Xuân Kỳ (anh ruột trung tá Nguyễn Xuân Phát hiện ở San José) vì khi nghiên cứu hồ sơ thấy ông là trưởng nam nhà cách mạng Nguyễn Xuân Chữ mà tôi rất kính trọng. Tôi mời riêng ông Kỳ lên văn phòng vừa để an ủi vừa để tỏ lòng khâm phục chí hướng của ông, nhờ ông chuyển lời thăm hỏi của tôi lên thân phụ ông rồi trả tự do cho ông về nhà. Tôi cũng trả tự do cho trung uý không quân Phan Ngô sau khi biết được Ngô là con trai sử gia Phan Khoang một nhân sĩ Quảng Nam khả kính mà tôi đã quan biết hơn mười năm trước. (Gia đình ông Phan Ngô hiện sống tại San José Hoa kỳ).
Có lẽ hành động đó của tôi đã đến tai ông Ngô Đình Nhu cho nên tôi được lệnh văn phòng cố vấn chính trị phải chuyển nội vụ qua Nha Công an thụ lý, tôi chỉ giữ lại hai sĩ quan không quân là trung uý Phạm Phú Quốc và trung uý Nguyễn Văn Đính.
Biến cố ném bom dinh Độc lập như một vụ “trời giáng” làm xúc động nặng nề tâm tư anh em ông Diệm cho nên ông Diệm nghi ngờ nhiều người biết trước vụ ném bom trong đó có cả ông Đoàn Thêm.
Khi xảy ra vụ ném bom dinh Độc lập, Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thành và đại tá Nguyễn Xuân Vinh, Tư lệnh không quân, còn công du tại Đài Loan, hai ông vội trở về nước sau ngày xảy ra thảm hoạ. Về đến Sài gòn họ vội vã vào vấn an tổng thống liền bị ông Diệm hỏi ngay: "Có phải cái ông biết trước vụ ném bom nên bỏ đi ra nước ngoài có phải không?". Tất nhiên cả Bộ trưởng và Tư lệnh không quân đều lo sợ và ngạc nhiên.
Từ ngày xảy ra vụ ném bom dinh Độc lập, có lẽ Tổng thống Diệm không còn tín nhiệm đại tá Vinh nữa vì ông biểu lộ rõ rệt thái độ lơ là với vị Tư lệnh không quân. Nguyên nhân chính làm cho Tổng thống giảm bớt lòng tin với đại tá Vinh không phải chỉ vì Vinh có lỗi mà vì những lời gièm pha của một số người trong dinh Tổng thống, những người có cảm tình với trung tá Huỳnh Hữu Hiền, viên phi công được Tổng thống hết sức thương mến.
Tôi gặp Nguyễn Xuân Vinh từ ngày hai chúng tôi còn ở Nha Trang (năm 1955) lúc tôi giữ chức Tư lệnh Phân khu Duyên hải, còn Vinh là một chuẩn uý phi công ở căn cứ Nha Trang đồng thời cũng là giáo sư toán tại trường trung học Võ Tánh. Lúc bấy giờ tôi thường nghe nhiều phụ huynh học sinh và một số giáo sư ca ngợi Vinh, nên tôi nhờ trung uý Nguyễn Khắc Mai (một đồng chí của tôi), mời Vinh đến nhà để tôi hỏi thăm và ngầm điều tra về con người của Nguyễn Xuân Vinh hầu tổ chức ông ta vào Phong trào Cách mạng quốc gia.
Sau khi biết Vinh từng bị nhóm sĩ quan của tướng Nguyễn Văn Hinh chèn ép ganh ghét, biết Vinh có bằng cử nhân toán, biết phong cách đàng hoàng của Vinh, biết Vinh rất thông minh và có chí lớn, tôi thầm nghĩ phải tiến cử Vinh với ông Diệm để một nhân tài của quân đội khỏi phải bị mai một.
Nhưng rồi tôi bị mất chức Tư lệnh Phân khu Duyên hải, bị đổi đi Pháp, Vinh cũng đi Pháp để được trau dồi thêm kỹ thuật ngành không quân.
Năm 1958 khi tôi về chỉ huy ngành An ninh quân đội, Vinh phục vụ tại căn cứ Tân Sơn Nhất, tôi bèn đem hồ sơ của Vinh trình bày với ông Diệm và đề bạt Vinh làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh không quân. Tôi còn mang tham vọng đề bạt Vinh lên giữ chức Tư lệnh không quân vài năm sau nữa.
Trước khi "đẩy” Vinh lên nắm quyền chỉ huy binh chủng trọng yếu của quân đội, tôi muốn “soát xét” con người của Vinh một lần chót, tôi bèn rủ Vinh đi xem tử vi Thầy quỷ cốc đường Trần Quý Cáp, sau khi nói về gia thế của Vinh, thời thơ ấu của Vinh, tính tình của Vinh, bèn kết luận:
"Tuổi này hiện nay là một sĩ quan cao cấp, nhưng rồi đây sẽ giữ một địa vị rất lớn, địa vị chỉ huy quan trọng. Tuy nhiên vào năm (tôi không còn nhớ năm nào) tuổi này sẽ bỏ đường võ cách để tiếp tục học hành và sẽ trở thành một tiến sĩ, một giáo sư Đại học nổi tiếng trên trường quốc tế".
Quả thật hai năm sau, mặc dù còn mang cấp bậc trung tá, Vinh được ông Diệm cử giữ chức Tư lệnh không quân, lòng tôi rộn lên niềm sung sướng. Một hôm chủ nhật, hình như sau biến cố đảo chính của Nhảy dù, tôi còn ngồi uống trà với nhà tôi tại nhà riêng thì bỗng Vinh tới với quân phục trắng. Vinh cho biết vừa nhận được nghị định thăng cấp đại tá, rút trong túi ra cặp cấp hiệu có ba hoa mai trắng rồi nói:
- Từ ngày quen biết đại tá, biết đại tá là người có cặp mắt xanh, biết đại tá lo cho đại sự quốc gia đãi tôi như một hiền sĩ. Hôm nay nhận được nghị định thăng cấp đại tá tôi đến đây để nhờ đại tá đích thân gắn cặp “lon” đại tá lên vai để tôi được đền phút ơn tri ngộ.
Sau có hai chúng tôi chụp chung một tấm hình kỷ niệm.
Biết rằng Vinh rất cẩn mật không muốn ai biết cung cách xử thế khôn ngoan tế nhị đối với một người tri kỷ, nhưng mấy lời nói của Vinh làm cho vợ chồng tôi vô cùng cảm kích, tôi ôm choàng lấy Vinh tỏ lời cảm ơn và khen ngợi.
Vinh ra về, tôi ngồi độc ẩm nhớ lại câu chuyện Trương Lương từng giới thiệu Hàn Tín với Lưu Bang, mừng cho Tổng thống Diệm vị thầy của tôi có một trung thần văn võ toàn tài.
Nhưng rồi hoàn cảnh đất nước, bản chất của chế độ Diệm đưa đẩy đại tá Nguyễn Xuân Vinh không đi theo bước chân của Hàn Tín, làm kẻ ngu trung để khỏi phải chết oan khiên như Tể giả Vương họ Hàn.
Thái độ nghi ngờ của ông Diệm sau vụ ném bom dinh Độc lập và chết độ thất nhân tâm của Công giáo Cần lao buộc con người khí phách, có chí lớn như Nguyễn Xuân Vinh từ giã binh nghiệp, từ giã địa vị cao sang để tiếp tục con đường học vấn. Biết Tổng thống Diệm không còn tin tưởng mình nữa. Nguyễn Xuân Vinh xin từ chức, xin giải ngũ và xin đi học ở Hoa kỳ. Ông trở thành một khoa học gia tên tuổi đem lại vẻ vang cho đất nước quê hương đúng như lời tiên đoán của thầy quỷ cốc Sài gòn năm nọ.
Đối với tôi, từ ngày Vinh rời khỏi quê hương, giữa hai chúng tôi không còn liên lạc gì nữa cho đến năm 1976 tôi mới nhận được thư Vinh từ Michigan gởi lời thăm khi Vinh biết tôi cư ngụ tại Sacramento, Hoa kỳ.
Nguyễn Xuân Vinh không chỉ là một cựu Tư lệnh không quân Việt nam, không chỉ là một khoa học gia (có chân trong Hàn lâm Viện Khoa học Pháp), mà còn là một nhà văn. Anh từng viết cuốn Đời phi công với bút hiệu Toàn Phong nói lên tâm tình và chí hướng của một chàng trai thời loạn, một chiến sĩ tung mây lướt gió cho thoả chí bình sinh. Sách của anh được giới nam nữ thanh niên của thập niên 60 hết sức ngưỡng mộ. "Đời phi công” được giải nhất đông hạng với tác phẩm “Thần Tháp Rùa" của giáo sư Vũ Khắc Khoan trong giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1960, được triển lãm tại phòng Khánh tiết Đô thành Sài gòn, ngày 6-4-1961.
Quả thật cuộc đời sự nghiệp Nguyễn Xuân Vinh đáng làm cho người đời suy gẫm, đáng làm gương cho thế hệ thanh niên. Từ một hàn sĩ miền quê Việt Bắc, lớn lên thành lập gia đình với ái nữ của một vị đại thần Nam Triều, học hành đứt quãng mà rồi cũng thành tài rồi trở thành một nhân vật văn võ toàn tài; chỉ tiếc Vinh sinh bất phùng thời, không gặp được nhà lãnh đạo quốc gia anh minh lỗi lạc để Vinh phục vụ cho xứ sở quê hương trong thời ly loạn.
***
Sau cuộc viếng thăm miền Nam của Phó tổng thống Johnson và của hai ông Taylor và Rostow trong năm 1961, qua năm 1962, viện trợ hùng hậu của Hoa kỳ về mọi mặt đã tuôn đổ vào miền Nam sau khi ông Diệm hứa sẽ cải cách chế độ của ông ta.
Về quân sự, Hoa kỳ đã tăng cường thêm cho miền Nam 400 chuyên viên. Về quân cụ, Hoa kỳ đã trang bị thêm cho quân lực VNCH thiết vận xa M113, trực thăng chiến đấu CH21, phi cơ trinh sát, phóng pháo cơ, chiến hạm và nhiều võ khí, dụng cụ tân tiến đã cải tiến quân đội Việt nam Cộng hoà về mọi mặt từ huấn luyện đến tiếp liệu, từ tác chiến đến vận tải và truyền tin.
Đầu năm 1962, Việt Mỹ thoả thuận thành lập Bộ Tư lệnh Quân Đội Mỹ tại Sài gòn, thường được gọi là MACV, để điều hành và phối hợp chính sách viện trợ và hành quân tại Việt nam Việt nam, Hoa kỳ cũng giúp VNCH thiết lập một hệ thống tiếp liệu quy mô, cải tiến phương pháp sưu tầm, khai thác về tình báo.
Vào tháng 9 năm 1962, tất cả mọi cơ cấu chính yếu của quân đội VNCH khắp toàn quốc đều được Hoa kỳ giúp thiết trí một hệ thống truyền tin vô cùng tối tân để tiêu chuẩn hoá và phối hợp hoá việc liên lạc giữa các đơn vị quân đội với các trung tâm hành quân tại trung ương lẫn địa phương. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa kỳ mà lần đầu tiên quân đội VNCH mới xâm nhập sâu vào những căn cứ bất khả xâm phạm của Việt cộng như chiến khu D, như rừng già U Minh. Nhờ phương tiện hiện đại mà quân đội Việt nam Cộng hoà đã di động một cách tiện lợi mau chóng hơn, để có thể bao vây quân địch, đánh tập hậu quân địch dễ dàng nhanh chóng và làm cho Việt cộng thiệt hại nặng nề...
Ngoài ra Hoa kỳ còn giúp tăng cường lực lượng đặc biệt về cả nhân sự lẫn phương tiện để hoạt động tại Bắc Việt và Lào, giúp VNCH thực hiện chương trình ấp chiến lược, bỏ ra ngoài ngân quỹ 55 triệu đô la để mua phân bón, dây kẽm gai... Hoa kỳ cũng đã vận động với chính phủ úc gửi phái đoàn quân sự giúp huấn luyện du kích và chỉ trong đợt đầu vào tháng 8 năm 1962 đã có 30 sĩ quan úc đến Việt nam.
Chẳng những chính quyền Kennedy yểm trợ dồi dào về mặt vật chất cho VNCH mà còn hỗ trợ luôn cả về mặt chính trị. Để cải thiện mối bang giao Việt Mỹ cho thật tốt đẹp, Kennedy đã bổ nhiệm Đại sư Nolting, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, mềm dẻo, tế nhị qua Sài gòn thay thế Đại sứ Durbrow vốn có thái độ bất mãn với chế độ Diệm, với hy vọng ông Diệm có thể tiến hành những cải cách mà ông đã hứa hẹn. Đồng thời, Bộ ngoại giao Mỹ làm áp lực mạnh mẽ với các nước tại á Châu để các nước này nỗ lực nhiều hơn trong việc yểm trợ VNCH gia nhập các định tố trong công cuộc phát triển kinh tế của miền Nam Việt nam. Nhìn lại giai đoạn đó ta có thể nói rằng tuy chế độ Ngô Đình Diệm do Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Foster Dulles khai sinh, nhưng việc nuôi dưỡng, bảo bọc, săn sóc. nuông chiều tận tâm chu đáo là do Tổng thống Kennedy và chính quyền của ông ta.
Tuy nhiên, mặc dù viện trợ Hoa kỳ gia tăng dồi dào, tình hình miền Nam vẫn như cơn bệnh trầm kha không cải thiện được phần nào trái lại càng ngày càng thêm trầm trọng. Trong năm 1962, chẳng những Việt cộng tấn công các căn cứ quân sự, các quận ly, tỉnh ly, các ấp chiến lược khắp nơi mà còn tập kích vào các đoàn xe, vào những đoàn công voa lớn của VNCH gây thiệt hại nặng nề cho binh sĩ Việt nam và Mỹ. Ngày 27 tháng 7 năm 1962, không lực VNCH đã phải xuất trận đến 60 phi vụ, ném 1000 tấn bom xuống một cơ sở liên khu Tư ở ranh giới ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Komtum.
Ngay giữa thủ đô Sài gòn, đặc công Việt công liên tiếp gài chất nổ, đặt mìn gây thiệt hại đáng kể cho các cơ sở Mỹ và VNCH, tấn công bằng lựu đạn và cả khu triển lãm chiến lợi phẩm của quân đội trước toà Đô Chính, nơi được canh phòng vô cùng cẩn mật. Cũng trong năm 1962, mặc dù Việt cộng bị bất ngờ trước chiến thuật trực thăng vận của quân đội VNCH với sự yểm trợ của thiết vận xa M113, thế mà tại đồng bằng sông Cửu Long, Việt cộng vẫn dám mở các cuộc tấn công đánh phá bằng lực lượng hùng hậu của quân đội.
Chính sách ngoại giao bất lực, vụng về của anh em ông Diệm đối với Lào và Cao Miên lại gây tình trạng môi hở răng lạnh cho miền Nam, tạo thêm sức mạnh cho Việt cộng. Trong năm 1962, tình hình miền Nam bất an đến nỗi phải bãi bỏ nhiều cơ sở kinh tế ở những vùng xôi đậu như cơ sở khai thác nước suối Vĩnh Hảo ở Phan Rí, cơ sở khai thác Tôm ở Long Hải, và phải sử dụng cả một tiểu đoàn Bộ binh để bảo vệ công trường mỏ than Nông Sơn ở Quảng Ngãi mà khu công trường vẫn bất an. Mùa thu năm 1962, ông Diệm cũng phải bãi bỏ con đường hoả xa xuyên Việt mà ông mới khánh thành năm 1959, dân chúng phải giao thông bằng đường hàng không, quân đội phải di chuyển bằng công-voa hoặc hàng không quân sự. Ngay cả than Cà Mau muốn đưa lên Sài gòn mà cũng phải được chuyên chở bằng đường thuỷ và với chiến hạm của hải quân hộ tống...
Năm 1962, Việt cộng coi như đã làm chủ tình hình nông thôn đến nôi trong một bài tường thuật giáo sư danh tiếng Robert Scigliano đã phải than: "Vào năm 1962, Việt cộng đã chiếm được 80% nông thôn của VNCH”.
Miền Nam Việt nam như lá dâu bị tằm gặm nhấm dần cho đến cuối năm 1962 thì tình hình bi đát đến độ Tổng thống Diệm phải có những biện pháp hết sức quyết liệt để đối phó với Cộng sản. Dù từ năm 1957, các Tỉnh trưởng đã được toàn quyền bắt bớ, giam cầm và năm 1959 thêm một đạo luật (10/59) với 21 điều khoản quy định tội tử hình cho những ai có liên hệ với Việt cộng, một đạo luật mà các nhà viết sử tên tuổi của Hoa kỳ đều phải nhắc đến, nhưng vẫn không ngăn cản được sức mạnh bành trướng của Việt cộng, nên ông Diệm đã phải lấy thêm những biện pháp sau đây:
- Ngày 10 tháng 10 năm 1961, ông Diệm ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ VNCH (sắc lệnh 109-TTP)
- Ngày 29 tháng 10 năm 1961 Quốc hội uỷ quyền đặc biệt cho Tổng chống ban hành các sắc luật trong tình trạng khẩn cấp (luật số 13/61).
- Ngày 25 tháng 11 năm 1961 Quốc hội lại uỷ toàn quyền cho Tổng thống về ngân sách an ninh và các biện pháp tài chánh (luật số 15/61).
- Ngày 7 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Diệm gởi thư cho Tổng thống Kennedy xin tăng thêm viện trợ. Trong thư ông đã trình bày cho Tổng thống Mỹ về sự nguy ngập của VNCH cùng với sự lớn mạnh của Việt cộng và báo động việc Bắc Việt cho quân xâm nhập miền Nam. Ông Diệm nêu lên việc Việt cộng bắt cóc đại tá Hoàng Thuỵ Nam; riêng tháng 10 đã có đến 1.200 vụ khủng bố với 2.000 thương vong cho VNCH. Ông Diệm đã kết luận lá thư với lời lẽ vô cùng bi thiết: "Nói tóm lại, VNCH hiện nay đang phải đối đầu với một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử”. Bức thư của ông Diệm đã được Tổng thống Kennedy phúc đáp ngày 14-12-1961, hứa sẽ giúp đỡ VNCH để chống lại Cộng sản, bảo vệ độc lập cho miền Nam.
- Ngày 31-3-1962, ông Diệm gởi thông điệp cho 92 quốc gia trên thế giới yêu cầu ủng hộ VNCH chống xâm lăng Cộng sản, tố cáo Bắc Việt giật dây Cộng sản miền Nam.
- Ngày 27-10-1962, đặc quyền Tổng thống ban hành sắc luật về tình trạng khẩn cấp được Quốc hội gia hạn kể từ 19-1-1962 (sắc luật 18/62).
Những biện pháp và những thông điệp kêu cứa trên đây cho thấy mới năm 1962 mà tình hình Việt nam cộng hoà đã nguy ngập như thế nào rồi.
Mặc dù ông Diệm đã ban bố "tình trạng khẩn cấp" để cai trị bằng sắc luật, đã nắm hết vào trong tay toàn bộ quyền hành, và mặc dù viện trợ Mỹ gia tăng dồi dào, đặc biệt là đã dành một ngân khoản lớn giúp thực hiện ấp chiến lược (một chương trình mà cả Mỹ lẫn anh em ông Diệm đặt hết hy vọng có thể tiêu diệt được hạ tầng cơ sở địch, tiêu diệt lực lượng du kích địch) thế mà tình trạng miền Nam vẫn cứ mỗi ngày thêm bi đát, nguy kịch. Thế rồi tháng Giêng 1963 thảm bại ấp Bắc lại xảy ra chẳng những minh chứng rõ ràng sự yếu kém về khả năng lẫn tinh thần chiến đấu của quân lực VNCH mà còn báo hiệu sự khủng hoảng chính trị thê thảm của miền Nam Việt nam.
ấp Bắc là một làng được chính quyền coi là an ninh vì ở kế cận tỉnh lỵ Mỹ Tho, được bảo vệ bởi những ấp chiến lược và chỉ cách Sài gòn 50 cây số đường chim bay. Tháng chạp năm 1962, tình báo VNCH được tin một đại đội du kích Việt cộng đang hoạt động tại đó, đại tá Bùi Đình Đạm, Tư lệnh Sư đoàn 7, và tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Quân khu 4, quyết định mở cuộc hành quân. Một lực lượng mạnh mẽ của quân lực
VNCH gồm nhiều tiểu đoàn Bộ binh, Biệt động quân, trực thăng CH21, thiết vận xa M113, Pháo binh, Bảo an tỉnh Định Tường và 31 cố vấn Mỹ tham dự trận đánh. Không ngờ khi chạm súng, lực lượng của ta bị thiệt hại nặng nề và khám phá ra rằng tại ấp Bắc không phải chỉ có một đại đội du kích mà là tiểu đoàn 514 của Việt cộng có độ trên 400 người, cho nên khi bị thiệt hại quá nặng nề, Bộ chỉ huy hành quân bèn gọi một tiểu đoàn Dù đến cứu viện. Thay vì nhảy xuống phía Đông để chặn đánh địch thì tiểu đoàn Dù lại nhảy về phía Tây nên Việt cộng lợi dụng trời tối rút lui an toàn. Kết quả về phía ta có 5 trực thăng bị phá huỷ, 11 thiết bị hư hại nặng, 65 binh sĩ VNCH và 3 cố vấn Mỹ bị chết và vô số bị thương. Trận ấp Bắc, một thảm hại nhục nhã của quân đội VNCH mà 3 nguyên do chính là sự bất lực của cấp chỉ huy, tinh thần bạc nhược của quân sĩ và sự ước lượng sai lầm của tình báo. Ngược lại, thảm bại đó cũng chứng tỏ rõ rệt sự trưởng thành về lực lượng và tinh thần quyết chiến của Việt cộng tại miền Nam.
Bi thảm hơn nữa là cấp lãnh đạo Việt - Mỹ không chịu lấy ấp Bắc để làm bài học quý giá cho quân đội để sửa sai, không chịu trừng phạt những cấp chỉ huy bất lực gây nên cuộc thảm bại để cho quân kỷ được nghiêm minh và ngược lại, từ ông Diệm bà Nhu đến tướng Harkins, Đại sứ Nolting lại vẽ vời ca ngợi trận ấp Bắc là một chiến thắng của VNCH. Trong lúc đó thì trong nội bộ quân đội, chính Đại tướng Lê Văn Tỵ đã phải đích thân đến tại chỗ để điều tra và khiển trách Huỳnh Văn Cao để rồi Cao lại đổ lỗi cho Bùi Đình Đạm và tất cả các cố vấn Mỹ tại trận địa đều phúc trình trận đánh này như một thảm bại quân sự lớn của VNCH. Đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH đã phải kìm hãm lòng tự ái để hỏi một cố vấn Mỹ: “Đại tá Vann, tại sao quân đội chúng tôi chiến đấu tồi tệ đến thế?”.
Sỡ dĩ có mâu thuẫn trong việc tuyên bố kết quả trận đánh là vì ông Diệm muốn che giấu khả năng lãnh đạo yếu kém của mình nhất là về phương diện bổ nhiệm các sĩ quan, còn người Mỹ cao cấp thì che giấu sự thật trên mặt chính thức công khai để khỏi làm phật lòng ông Diệm. Nhưng báo chí Mỹ vì không bị ràng buộc bởi những thủ đoạn chính trị đó nên nổi giận và phanh phui sự thật ra ánh sáng, tạo nên luồng dư luận công phẫn chống lại ông Diệm và chống lại chính phủ Mỹ.
Nhiều báo chí Mỹ lên án chính phủ của họ đã bỏ ra 400 triệu Mỹ kim, hy sinh 50 quân nhân Mỹ mà không thu lượm được gì ngoài sự từ chối của ông Diệm trong việc cải tiến chế độ, mặc dù chính ông ta đã hứa cải tiến để được nhận viện trợ Mỹ. Báo chí Mỹ còn phanh phui rằng trong lúc Việt cộng đã chiếm hết nông thôn thì sĩ quan VNCH lại ngại ngùng không chịu thật tâm chiến đấu, do đó một số bình luận gia Mỹ đòi chính phủ họ phải nắm lấy toàn quyền lãnh đạo chiến tranh ở Việt nam.
Phân tách về thảm hại ấp Bắc cũng như về những thất bại của quân lực VNCH trên toàn lãnh thổ vào giai đoạn đó, ta thấy rằng yếu tố kỹ thuật và khả năng tác chiến chỉ là hệ quả tất nhiên của chính sách chọn lựa và sử dụng nhân lực sai lầm của dinh Độc lập. Chính sách này, vì bản chất "Cần lao công giáo" của nó, đã không chọn lựa sĩ quan theo tiêu chuẩn nào hơn là Công giáo và Cần lao: Cho nên quân đội không còn tinh thần chiến đấu, không còn muốn xông vào lửa đạn để hy sinh. Họ hy sinh cho ai và chết để làm gì, khi họ không được phục vụ cho Tổ quốc mà chỉ phục vụ cho một số thống trị vốn đã thụ hưởng chán chê còn chủ trương kỳ thị, đàn áp tất cả các thành phần khác của dân tộc, nhất là tôn giáo và đảng phái.
Huỳnh Văn Cao, Bùi Đình Đạm là những sĩ quan bất tài, nhưng chỉ vì là người Công giáo lại có tài nịnh hót bợ đỡ cho nên anh em ông Diệm đã trao vào tay họ cả một vùng đất trách nhiệm rộng lớn, một dân số đông đảo và một lực lượng quân sự lớn lao.
Khi còn chỉ huy sư đoàn 7 vào đâu năm 1962, nhờ trực thăng chiến đấu và thiết vận xa M113 mới được du nhập vào miền Nam Việt nam làm cho Việt cộng bỡ ngỡ lúc đầu. Cao thu hoạch được một ít chiến thắng, mặc dù mỗi lần Việt cộng rút lui, Cao không dám xua quan truy kích. Sau mỗi cuộc hành quân. Cao vội vã tổ chức lễ Tạ ơn Đức Mẹ tại nhà thờ rồi về ngay Sài gòn khoe với ông Diệm lý do chiến thắng là nhờ Đức Mẹ chỉ dạy cho Cao hành quân nơi nào, bày binh bố trận ra sao? Cao biết gãi vào chỗ ngứa của ông Diệm mỗi khi Cao dùng Đức Mẹ để mê hoặc ông ta. Những "chiến thắng nhờ Đức Mẹ”, những lễ “Tạ ơn” đó Cao đã trắng trợn ghi vào tập hồi ký "Lòng ái quốc" để khoe khoang.
Đức Mẹ đã bị đại tá Lansdale "bắt di cư" vào Nam năm 1954, lại bị Cao "bắt đi đánh giặc" vào những năm 1962-1963, bây giờ ra hải ngoại, vài tờ báo của "Cần lao" lại bắt Đức Mẹ làm thầy bói khi họ đăng tin Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ Fatima ở cầu Bình Triệu để chỉ cho giáo dân biết đến năm 1980-1981 thì Cộng sản sẽ bị tiêu diệt hết, và miền Nam sẽ thanh bình!
Trong lúc Cao bày trò đưa Đức Mẹ ra để mê hoặc ông Diệm và các linh mục địa phương với ý đồ sử dụng các vị này như một hệ thống tuyên truyền đến tai anh em ông Diệm, bày trò tổ chức chúc mừng chiến thắng, và đề nghị với ông Diệm cho kéo quân diễu hành tại các đường phố Sài gòn để khoe khoang công trạng thì Bùi Đình Đạm lại không phải là thứ người sinh ra để làm quân tác chiến vì Đạm chỉ biết nghề kế toán. Đạm chỉ có tài vâng lời Huỳnh Văn Cao, và theo ký giả Halberstam, lúc ngồi trong máy bay khi đi hành quân, Đạm chỉ biết lầm rầm cầu nguyện Đức Mẹ phù hộ cho Đạm được an lành mà thôi.
Nhìn lại cuộc chiến đấu từ đầu Xuân 1963, tình hình miền Nam quả thực đã đi vào tuyệt lộ, mặc dù lúc bấy giờ quân đội đã được gia tăng hùng hậu và viện trợ Mỹ vẫn ào ạt đổ vào. Bernard Fall cho biết rằng vào đầu năm 1963, dưới chế độ Diệm con số chính xác của quân đội VNCH gồm có 225.000 binh sĩ chính quy, 100.000 Bảo an, 90.000 Địa phương quân, 85.000 dân vệ... tất cả là 500.000 người.
Với một nửa triệu quân, chưa kể 100.000 nhân viên Công an, Cảnh sát, Cảnh sát dã chiến, nhân viên An ninh xã ấp, chưa kể sự hiện diện của 16.000 binh sĩ Mỹ, đoàn cố vấn người úc thế mà với lực lượng hùng hậu đó tình hình miền Nam vô phương cứu chữa nếu không có quân đội đồng minh nhập cuộc sau này.
Denms Warner, một ký giả tiếng tăm người úc đã được ký giả Hoa kỳ, ngay cả Bernard Fall cũng phải kính trọng, đã nói rằng: "Năm 1963, tướng lĩnh Mỹ gặp khó khăn về tình hình chiến sự tại đồng bằng sông Cửu Long cũng giống như năm 1951-1952 tướng lĩnh Pháp gặp khó khăn về tình hình chiến sự tại đồng bằng sông Hồng Hà", năm 1951-1952, tình hình chiến sự Bắc Việt nam nguy kịch đến độ chính phủ Pháp phải cử danh tướng số một của họ qua cầm quân ở Đông Dương. Và tuy danh tướng De Lattre de Tassingy có thu lượm được vài chiến thắng lúc đầu như vụ chặn đứng quân của Võ Nguyên Giáp tại Vĩnh Phúc, Phúc Yên chẳng hạn nhưng sau đó tình hình đã trở nên tồi tệ đến nỗi De Lattre phải thu quân về cố thủ sau dãy chiến luỹ khu tam giác nhỏ hẹp miền Trung châu mà vùng đó mỗi ngày một ung thối thêm.
Lời ví von của Dennic Warner cho thấy toàn thề lãnh thổ miền Nam vào năm 1963 cơ hồ đã nằm trong tay Việt cộng ngoại trừ những đô thị và những tỉnh ly. Và ngay cả trong những khu vực an toàn này, cán bộ nội thành của Việt cộng cũng đã lộng hành, phá hoại hoặc xâm nhập làm nội tuyến nằm vùng trong các cơ sở của chính quyền.
Đã thế, đầu mùa hè năm 1963, chế độ Diệm lại bị rơi vào một cuộc khủng hoảng chính trị vì biến cố Phật giáo, một biến cố do chủ trương kỳ thị tôn giáo của chính anh em ông Diệm gây ra, làm cho quân đội (Nhảy dù và Thuỷ quân lục chiến), Công an cảnh sát, An ninh quân đội bị huy động vào việc bao vây các chùa chiền, vào việc đàn áp các phong trào nổi dậy của sinh viên và phật tử. Bộ máy cai trị lúc bấy giờ chỉ chú tâm vào việc đối phó với tình hình chính trị nội bộ đã tạo ra nhiều sơ hở an ninh cho Cộng sản lợi dụng gia tăng hoạt động xâm nhập thêm người, thêm vũ khí vào miền Nam. Cho nên sau khi chế độ Diệm bị lật đổ thì vào những năm 1964-1965 chiến tranh miền Nam dĩ nhiên phải trở nên sôi động hơn vì lực lượng Cộng sản đã được gia tăng nhiều hơn từ những năm trước. (ở đây tôi chưa đề cập đến những yếu tố khác như những xáo trộn chính trị, những âm mưa của Cần lao sau khi ông Diệm bị lật đổ).
Tình hình miền Nam từ 1961 đến 1963 trầm trọng đến độ ông Diệm phải kêu gọi 92 nước ủng hộ, đã phải nhờ thêm phái đoàn quân sự úc đến giúp đớ, đã phải báo cáo với Tổng thống Kennedy là "VNCH đang phải đối đấu với thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử”, thế mà sau khi ông Diệm bị lật đổ, nhóm Cần lao lại cho rằng nếu ông Diệm còn cầm quyền thì miền Nam đã chiến thắng Cộng sản rồi. Tiếc thay trong nhóm Cần lao đưa ra luận điệu đó, đưa ra những lời buộc tội đảo chính 1-11-1963 lại có cả một người bạn cũ, một người đồng hương cùng tỉnh, cùng phủ với tôi, đó là cựu trung tá Nguyễn Văn Châu (hiện ở Pháp).
Trung tá Châu theo ông Diệm từ năm 1954, là lãnh tụ Quân uỷ Đảng Cần lao, giám đốc Nha chiến tranh tâm lý từ năm 1957, Tổng thư ký Mặt trận nhân dân Chống Phiến Cộng sau vụ đảo chính của Nhảy dù cuối năm 1960. Với tất cả thành tích của một "đại công thần” như thế, lại được tất cả các anh em ông Diệm thương yêu tin cậy, thế mà Châu lại vận động để bỏ nước, bỏ chức vị ra đi, trong khi Châu đang ngồi trên uy quyền và tiền bạc. Lại nữa, vào năm 1962, những năm khó khăn, rối rắm, hiểm nguy của quốc gia và chế độ đang cần sự hiện diện của một thành phần trung kiên, hăng hái hoạt động như Châu bên cạnh các lãnh tụ và đảng Công giáo Cần lao thay vì đi làm tuỳ viên quân sự tại Hoa kỳ, một nhiệm sở không phù hợp với khả năng của Châu.
Sự thật thì sau bao nhiêu biến cố bất lợi liên tiếp xảy ra cho đất nước và chế độ, Châu cảm nhận được chế độ đang trên đà suy vong mà Châu đã cố gắng cùng với các ông Lý Trung Dung, Lê Văn Thái tìm phương cứu chữa bằng "Hội nghị đoàn kết" nhưng lại bị ông Nhu khinh thường bác bỏ. Châu thất vọng hoàn toàn, nhìn thấy cơn bệnh trầm kha của quốc gia đã vô phương cứu chữa. Hơn ai hết, Châu biết thế nào chế độ cũng bị lật đổ mà Châu sẽ là cái bia đầu tiên cho Cách mạng nhắm bắn, Châu phải ra đi, phải xa quê hương để tránh một cuộc trả thù. Tâm sự này Châu đã bộc bạch với tôi vào tháng 4 năm 1963, khi tôi gặp Châu tại Washington.
Sự kiện đầu năm 1963 Châu cố vận động xin đi làm Tuỳ viên quân sự tại Hoa kỳ để lánh xa quê hương, lánh xa chế độ đã đủ nói lên tình thế chế độ Diệm chênh vênh như ngọn lá vàng chỉ chờ một cơn gió nhẹ lay động là rụng xuống. Nếu chỉ có thế thì cũng có thể khen Châu là khôn ngoan, thức thời nhưng điều cần phải nói lên để làm sáng tỏ lịch sử là sau khi chế độ Diệm bị lật đổ. Châu lại ca ngợi chế độ mà Châu đã chạy trốn, lại còn chỉ trích những người đã lật đổ nó.
Sự ra đi này chỉ được đánh giá như một hành động đào ngũ khỏi chế độ, khỏi nơi nương tựa đã bắt đầu lung lay, khác hẳn với trường hợp của công thần Nguyễn Thái, giám đốc Việt Tấn Xã, cũng ra đi vì muốn cảnh cáo một chế độ đang đi ngược lòng dân.
Ngược lại với Nguyễn Văn Châu thì Võ Văn Hải cũng nắm vững tình hình quốc gia, tình hình chế độ Diệm, cũng đã biết trước "phép lạ không xảy ra hai lần" cho chế độ Diệm sau biến cố Nhảy dù năm 1960, nhưng Hải không ra đi và sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, Hải không bao giờ tham gia những cuộc cúng kỵ do Cần lao tổ chức tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Hải chỉ âm thầm nhớ thương ông Diệm vì tình nghĩa thầy trò gần 20 năm trời, nhưng Hải không bao giờ lên án cuộc lật đổ ông Diệm ngày 1-11-1963 vì Hải biết trước được việc phải đến sẽ đến. Trái lại Hải còn ủng hộ Dương Văn Minh, người đã từng cầm đầu cuộc đảo chính ông Diệm. Cũng cần phải nói thêm rằng tháng 10 năm 1963, sau cuộc tấn công chùa chiền đêm 20 tháng 8, Châu tưởng rằng anh em ông Diệm đã làm chủ được tình hình nên xin về nước tham quan một chuyến không ngờ Cách mạng 1-11-1963 xảy ra, Châu bị Hội đồng tướng lĩnh nhốt vào khám Chí Hoà. Sau một tuần lễ tôi mới can thiệp được để trả tự do cho Châu và giúp Châu trở lại Hoa kỳ. (Đồng thời tôi cũng can thiệp trả tự do trung tá Nguyễn Ngọc Khôi cựu Tư lệnh Lữ đoàn Phòng vệ và trung tá Phạm Thu Đường bí thư của ông Ngô Đình Nhu).
Nếu trường hợp của Nguyễn Văn Châu, tôi chỉ muốn dẫn chứng thêm rằng, dưới chế độ Diệm tình hình miền Nam của năm 1963 đã tuyệt vọng hoàn toàn đến nỗi một trung thần như Nguyễn Văn Châu mà cũng phải đào thoát tìm đường sống và khi ông Diệm chết đi, đã để lại một hậu quả nguy kịch và tệ hại cho những chế độ kế tiếp.
Trên mặt trận an ninh quốc gia, hay một cách đặc thù hơn, trên mặt quốc phòng, hai năm 1961-1962 đã là hai năm khốn đốn cho chế độ, những khía cạnh đó cũng chưa đủ để cho miền Nam sau này kiệt quệ và buông súng đầu hàng vào mùa Xuân 1975.
Phải có những yếu tố khác sâu sắc hơn, trầm trọng hơn đã làm huỷ hoại sinh lực của dân tộc, đã làm tiêu huỷ mọi nỗ lực tội nghiệp cho nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu chống Cộng sản.
Những yếu tố đó là sự băng hoại xã hội do hệ thống tham nhũng có kế hoạch và có chỉ đạo của vợ chồng Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn; và chính sách kỳ thị tôn giáo có chủ trương và có sách lược của dòng họ Ngô Đình mà tôi sẽ trình bày trong các chương tiếp. Vì hai yếu tố có tính cách văn hoá cao nên bao trùm mọi sinh hoạt của xã hội và tác dụng lên mọi kích thước sinh sống của người dân, cho nên chính hai yếu tố này đã là những loại độc dược góp phần tiêu huỷ chế độ trong cấp kỳ, nhưng chậm rãi mà chắc chắn đánh gục quốc gia trong lâu dài.

CHƯƠNG 13
Dưới chế độ bảo hộ Pháp, nhà họ Ngô Đình có ba người làm quan cao cấp cho triều đình An nam. Ngoại trừ Tổng đốc Ngô Đình Khôi là mang tiếng tham nhũng, còn cụ Ngô Đình Khả và ông Ngô Đình Diệm thì vẫn giữ được đức tính “Cần, Kiệm, Liêm, Chính". Trong buổi hoàng hôn của triều đại nhà Nguyễn mà áo gấm bài ngà, dù có khi chỉ là kết quả của những dịch vụ mua quan bán chức, vẫn tiêu biểu cho đại gia vọng tộc; những ông Thông ông Phán tay sai cho Pháp, vẫn được gọi là trí thức thượng lưu, và hệ thống quan lại của Nam triều cũng như hệ thống ông chức của bộ máy Bảo Hộ hầu hết đều xây dựng sự vinh thân phì gia bằng những hoạt động tham nhũng, thế mà ông Diệm vẫn giữ được liêm chính quả là điều hiếm hoi. Hành động từ chức Thượng thư của ông Diệm, dù vì bất cứ một lý do nào, cũng là thái độ đáng ca ngợi.
Dưới chế độ Quốc trưởng Bảo Đại và kể từ khi cuộc chiến pháp-Việt bùng nổ, tất cả anh em ông Diệm đều giữ thái độ trùm chăn hay đối lập. Họ thường công khai chỉ trích và lên án những chính phủ thời ấy là tham nhũng. Họ tuyên bố nếu có chính quyền trong tay việc đầu tiên là phải tẩy uế cho sạch bộ máy công quyền và trong sạch hoá thành phần nhân sự để thoả mãn ước vọng của nhân dân.
Nhờ một quá trình được gọi là "thanh bạch" và một chủ trương cứng rắn nên khi ông Diệm từ quan rồi hoạt động cho phong trào Cường Để, một số công chức, quân nhân ở miền Trung mới hăng hái sống chết theo ông ta. Cũng nhờ vậy mà ngày lên cầm quyền năm 1954, ông đã được quân nhân ủng hộ và từ những khó khăn tưởng không vượt qua nổi, ông đã đắc thắng vẻ vang để trở thành Tổng thống nước Việt nam cộng hoà.
Tuy nhiên khi đã nắm được chính quyền, anh em ông Diệm phải đứng trước một thực trạng khó khăn về vấn đề nhân sự, làm thế nào để thay người cũ bằng người mới hầu trong sạch hoá chính quyền.
Khi mới lên cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm cũng như các Thủ tướng trong nước, đã đặt ngày vấn đê về nhân sự bỏ ai, dùng ai, và tìm đâu ra người khác. Ông Diệm và một số thân tín của ông yên trí là tất cả bộ máy cũ với những con người cũ đã bị mục nát hết và cần thẳng tay quét sạch. Tháng Bảy năm 1954, câu hỏi đầu tiên nêu cho Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí là ông Diệm làm thế nào để loại trừ tham nhũng và những phần tử xấu.
Nhưng sau khi nhận xét thực trạng lớp người của chế độ cũ (chế độ của Quốc trưởng Bảo Đại) ông Ngô Đình Nhu cho rằng chỉ có thế, không dùng thì chẳng bói đâu ra hiền tài: "Chúng ta chỉ có những con người mà lịch sử đã cho ta". Rồi ông kết luận: "Thôi thì chẳng có thép tốt mình nhặt sắt vụn mà xài. Chính sách mình theo là récupération de ferrailles. Đứa nào có tội thì đưa nó ra toà. Còn thì coi là có thể sửa, tốt hay xấu còn tuỳ mình. Mình tốt thì họ phải tốt. Việt minh nó lên nó lôi cổ ra mần cho nó, cứ bắt mần còn hơn để cho bất mãn ngồi dưng nói bậy. Được việc thì thôi. Mình chưa chi đã muốn thay đổi, nhưng mình làm cóc gì có người cho đủ. Mớ người bỏ nhà bỏ cửa vô đây theo mình mình phải nuôi chớ gạt ra sao? Ai đánh kẻ chạy lại dù nó ăn tiền ăn bạc...”.
Triết lý bi quan của ông Cố vấn được nghe theo. Không có công chức nào bị mất việc ngay, Bảo chính đoàn, Việt binh đoàn và Địa phương quân thành ra Bảo an đoàn, sau nhiều lần bác bỏ, ông Thủ tướng cho lập ban đặc biệt tại trường Hành chính để thâu dụng và huấn luyện các cựu Quận trưởng Bắc Việt mà ông đã dự tính loại bỏ khỏi chính quyền.
Nhờ những vận động chính trị mà nắm được chính quyền nên chẳng những đã không chuẩn bị được một đội ngũ cán bộ hành chính để vận hành bộ máy công quyền, mà khi gặp khó khăn, ông Nhu cung theo cái nề nếp chính trị cũ là thoả hiệp với khó khăn đó. Nghĩa là cứ dùng "sắt vụn mà xài" dù có đi ngược lại với những chủ trương lành mạnh hoá xã hội và trong sạch hoá chính quyền mà ông đã từng công khai hô hào và xem đó là một lợi khí để vận động quần chúng theo mình đấu tranh.
Tuy nhiên, trước rất nhiều vấn đề khó khăn của tân chính quyền, quần chúng miền Nam vẫn thông cảm được với những biện pháp phản cách mạng như thế nào trong sự bao dung nhẫn nhục để hy vọng khi tình hình ổn định thì chính quyền Ngô Đình Diệm sẽ thực thi những lời hứa mà họ đã long trọng tuyên bố trước kia, thời còn làm kẻ đối lập chưa nắm chính quyền.
Những biện pháp lành mạnh hoá xã hội đầu tiên thật ngoạn mục và đem sự phấn khởi lại cho toàn dân.
Tháng Giêng năm 1955, chính phủ đóng cửa sòng bạc Đại thế giới; tháng Chạp năm 1955, đóng cửa nhà mãi dâm Bình Khang, những tổ chức tội ác ở Bình Xuyên. Tháng tư năm 1956, chính phủ bắt giam Tổng giám đốc kinh tế Ung Bảo Toàn vì tội bán chợ đen hàng ngàn tấn gạo, tháng 8 năm 1956 bắt Vũ Đình Đa, một công chức cao cấp tại Ngân hàng quốc gia vì tội biển thủ hàng triệu bạc... Cũng từ đầu năm 1956, ông Diệm ban hành nhiều sắc luật để trừng phạt nặng nề tội tham nhũng, buôn lậu, cờ bạc, hối mại quyền thế, dĩ công vi tư, đặc biệt là luật cấm hút và mua hoặc bán thuốc phiện, đóng cửa tất cả tiệm thuốc phiện và bàn đèn. Thuốc phiện là tệ trạng nguy hại nhất cho xã hội, làm băng hoại sức mạnh của dân tộc, làm bạc nhược năng lực của con người nên Chính phủ Diệm muốn bài trừ triệt để. Chính quyền đã mở một chiến dịch rầm rộ bằng sách báo, kịch, thơ, đài phát thanh để giáo dục dân chúng về tác hại của món “thuốc độc” do thực dân và Ba Tàu để lại. Chính phủ đã cho tổ chức những buổi đốt bàn đèn tập thể tại Sài gòn và các đô thị để vừa đe doạ vừa khuyên răn những kẻ nghiện ngập...
Những sinh hoạt lành mạnh hoá xã hội trên đây được in thành một tập sách nhan đề Ngo Dinh Diem of Vietnam vào năm 1957 và được gởi đi khắp các quốc gia tự do trên thế giới để quảng bá “thành tích cách mạng" của Tổng thống Diệm. Nhiều chính trị gia, tướng lĩnh Mỹ đã không tiếc lời ca ngợi vị Tổng thống VNCH trước những việc làm tốt đẹp của ông ta. Từ đó các giới chính trị Mỹ lại tin tưởng nhiều hơn vào lãnh tụ Ngô Đình Diệm của miền Nam là người xứng đáng đương đầu với lãnh tụ Hồ Chí Minh của miền Bắc.
Nhưng trong khi chính sách bài trừ tham nhũng, bài trừ tệ đoan xã hội đang như một luồng sinh phong thổi khắp trời Nam thì một tiếng sét dữ dội nổ ra từ Cố đô Huế chấn động niềm tin mà mọi người đang đặt nơi chế độ của chí sĩ Ngô Đình Diệm đó là vụ buôn lậu hàng ngàn tấn gạo ra Bắc Việt do chính hai người em của Tổng thống là bà Cả Lễ và ông Ngô Đình Cẩn chủ trương. Vụ tiếp tế gạo cho Bắc Việt nguỵ trang dưới hình thức buôn lậu này bị Toà đại sứ Mỹ phát giác và thông báo cho Diệm nên ông không thể giấu nhẹm được và đành phải đưa nội vụ ra toà. Nhưng thay vì hai người em của ông Diệm phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật thì họ đã khôn khéo bắt một tay thân tín của họ là Bùi Quang Sơn, phó Tỉnh trưởng Quảng Nam, ra làm vật tế thần. Vì Mỹ đã biết rõ nội vụ và vì ông Diệm ra lệnh phải thẳng tay trong việc xét xử. Toà án kết Bùi Quang Sơn 12 năm khổ sai. Tại Huế, Ngô Đình Cẩn không ngờ Bùi Quang Sơn bị án quá nặng làm mất luôn cả sự nghiệp, lại sợ vì vậy mà Sơn có thể uất ức khai ra chính phạm nên Cẩn vội vã năn nỉ ông anh Tổng thống. Trước áp lực của người em và dù án lệnh đã chính thức thành văn, ông Diệm cũng bắt toà phải xử lại. Nhờ đó, từ ái án khổ sai 12 năm, Bùi Quang Sơn chỉ còn bị 6 tháng tù treo. Chỉ tội nghiệp cho chàng Trần Văn Mẹo bị mất chức Bộ trưởng kinh tế và ông Ung Bảo Toàn bị ba năm lao tù.
Và đây lại còn là điều tàn ác ghê tởm của anh em ông Diệm. Số là sau khi Bùi Quang Sơn bị toà án phạt mười hai năm tù khổ sai, để cứu vớt tay chân mình, Ngô Đình Cẩn bèn nói với ông Diệm là chính ông Ung Bảo Toàn, Tổng giám đốc Nha kinh tế mới là thủ phạm. Cẩn tráo trở bằng cách dùng những bao gạo trống của Bộ Kinh tế mang nhãn hiệu E.N (Economie Nationale) để chứng minh rằng chính ông Toàn bán gạo cho Việt cộng trong lúc ông Toàn là người miền Nam vốn xa lạ với miền Trung, vốn không có tay chân thuộc hạ tại miền Trung để có thể âm mưu làm những việc phi pháp. Thử hỏi làm sao ông Toàn có thể bán gạo cho Việt cộng tại miền Trung được trong lúc Ngô Đình Cẩn nắm toàn quyền sinh sát có nhân việc thuộc hạ, có đảng viên Cần lao có tai mắt khắp nơi từ thành thị đến thôn quê. Vụ hạm gạo này không chỉ dân chúng, đảng phái miền Trung biết rất rõ mà còn hai nhân vật là ông Trần Ngọc Liễn (hiện ở Pháp) Trưởng ty Kinh tế miền Trung có văn phòng đặt tại Đà Nẵng lúc bấy giờ và ông Lâm Lễ Trinh (hiện ở Mỹ) là đại diện Bộ tư pháp đến Huế để xin Ngô Đình Cẩn chỉ thị. Tuy là những nhân chứng trong cuộc, biết rõ việc gian manh của nội vụ nhưng ông Liễn và ông Trinh làm sao có thể làm trái ý lãnh chúa Ngô Đình Cẩn nên đành phải ngậm miệng để cho ông Ung Bảo Toàn và ông Trần Văn Mẹo phải chịu oan khiên, mang thân tù tội. Tuy nhiên dù anh em ông Diệm đã dùng quyền lực làm điều thất đức nhưng việc tham nhũng và tàn bạo đầu tiên này đã đem đến hậu quả tai hại cho họ Ngô. Đối với dân chúng miền Trung thì cái huyền. thoại "Thế gia vọng tộc" của họ Ngô bắt đầu sụp đổ ngay từ đó. Còn đối với trí thức miền Nam cũ cảm thông nỗi oan khiên và thống khổ của Trần Văn Mẹo và ông Ung Bảo Toàn hai nhân vật đồng quê hương với họ, thấy rõ bộ mặt tráo trở và kỳ thị của nhà Ngô từ đó dần dần xa lánh chế độ Diệm và có cảm tình với những người kháng chiến.
Vụ buôn lậu gạo cho Cộng sản làm rung động nhân tâm miền Nam và làm sụp đổ uy tín của ông Diệm ngay từ năm 1956, khốn khổ những người Mỹ thân với ông Diệm, những ký giả hoài Ngô như kiểu Margeurite Higgins, như kiểu Phạm Kim Vinh có bao giờ đề cập tội ác của anh em nhà Ngô đâu.
Vì mấy triệu bạc mà đã sẵn sàng giao thương với địch đó là một điều ghê tởm, lại chà đạp ngành tư pháp để đổi trắng thay đen án lệnh làm cho quần chúng, đặc biệt là tại miền Trung, nơi các thủ phạm vẫn ung dung hể hả, cảm thấy niềm tin vào chế độ bắt đầu lung lay. Việc ông Diệm khống chế và sử dụng luật pháp quốc gia như một dụng cụ riêng để bênh vực gia đình, lúc ông chỉ mới lên cầm quyền, đã làm cho niềm hy vọng của quần chúng về một miền Nam dân chủ, tự do, công bằng bắt đầu tan tành mây khói.
Ngày xưa, dưới thời Đệ nhất cộng hoà, đường Công Lý thì đi một chiều, đường Tự Do thì cấm xe xích lô xe đạp còn cổng chính Toà án thì đóng kín, thường dân phải đi cổng bên nên thời đó có câu truyền tụng rằng:
Công lý một chiều
Tự do hạn chế
Toà án đi cổng hậu
Trong lúc vụ buôn lậu gạo ở Bắc Việt do bà Cả Lễ và Ngô Đình Cẩn cầm đầu đang làm cho dân miền Trung, nơi "mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn” công phẫn thì tại Sài gòn, dư luận lại xôn xao về những hoạt động tham nhũng của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Xôn xao đến nỗi vợ chồng Nhu phải đăng báo cải chánh ngày 22-8-1957: "Không hề chuyển ngân ra ngoại quốc, không tham gia vào thương mãi, kỹ nghệ, tài chính ở Việt nam cũng như ở nước ngoài, không bao giờ nhận đồ lễ để can thiệp cho ai, chưa có đề nghị làm những việc bất hợp pháp..."
Khốn nỗi lời cải của chính vợ chồng Ngô Đình Nhu chỉ là "cái thúng không che nổi miệng voi", vì sự thật như chiếc kim trong túi áo mỗi ngày mỗi lòi ra ngoài. Trước hết là viện trợ Mỹ tại Việt nam bị đục khoét, bị thâm thủng, bị xử trái với nhu cầu, đồng thời với sự xuất hiện của những hiện tượng tham nhũng cho tới ngày 3 tháng 8 năm 1959, ký giả Colegrove của hãng thông tấn Seripps Howard phản đối tính bất hiệu dụng của viện trợ, và tố cáo những lạm dụng quĩ viện trợ của VNCH làm cho Quốc hội Hoa kỳ phải sôi nổi. Ngày 14-8-1959, Hạ nghị viện Mỹ sau khi gọi nhân chứng thuộc các giới khác nhau ra điều đình về việc sử dụng viện trợ Mỹ tại Việt nam, bèn biểu quyết uỷ cho Nghị sĩ Mansfield cùng một phái đoàn qua Việt nam để điều tra. Đại sứ Mỹ Durborow và giám đốc USOM Gardiner phải về Mỹ để phúc trình.
Nhiều ký giả, học giả Mỹ như nữ tiến sĩ Frances Fitagerald cho biết rằng chế độ Diệm đã lợi dụng chính sách ngoại thương (nhất là chương trình nhập cảng) và chương trình viện trợ Mỹ để bỏ túi và chuyển ngân ra nước ngoài: "Qua chương trình nhập cảng hàng hoá Mỹ, những nhà nhập cảng Việt nam nhận hàng từ Hoa kỳ và hàng đó Hoa kỳ phải trả bằng đô la để đổi lấy tiền Việt nam cho chính phủ Sài gòn sử dụng, nhưng chính phủ và những nhà nhập cảng Việt nam lại tuôn tiền bạc đó vào thành thị và vào túi của những nhân vật chính quyền và thương gia Việt nam mà thôi. Vì thế, đáng lẽ viện trợ Mỹ chu toàn đầy đủ cho ngân sách quốc gia Việt nam và thanh toán được số thiếu hụt 178 triệu đồng nợ của ngoại thương trong năm năm, thì số nợ cứ mỗi ngày mỗi tăng lên, ngược hẳn với niềm hy vọng của người Hoa kỳ".
Vì nạn tham nhũng qua chương trình viện trợ Mỹ tàn phá ngân quĩ quá độ nên ông Vũ Văn Thái (hiện ở Mỹ) phải chán nản, từ chức Tổng giám đốc Ngân sách và Ngoại viện rồi bỏ nước ra đi. Ông Thái là một chuyên gia kinh tế và tài chánh lỗi lạc đã từng được Tổng thống Diệm quý mến và thường được đưa ra khoe với người Mỹ như một nhân tài, một chuyên gia xuất sắc của Việt nam cộng hoà. Nhưng vì không chịu nổi nạn tham nhũng và sự chà đạp luật lệ của chính nhân vật lãnh đạo chế độ, những nhân vật bề ngoài có vẻ lương thiện nhưng bên trong chỉ đang lũng đoạn bộ máy kinh tài của quốc gia. Ông Thái bèn xin từ chức và đến Hoa kỳ trú ngụ. Ngày 24-11-1961, trả lời cuộc phỏng vấn của Nhật báo Washington Post ông Thái cho biết sở dĩ ông từ chức là vì "càng ngày tôi càng bị người ta dùng để tạo ra cái ảo tưởng chính phủ VN đang có một đường lối thông suốt (như vậy thì) tôi không còn có thể làm việc hữu hiệu được”.
Cho đến những năm đầu thập niên 60, có thể nói nạn tham nhũng dưới chế độ Diệm thuộc loại ghê tởm nhất trong lịch sử nước ta mà chính người anh em ruột thịt và bà con ông Diệm là những người tạo ra tệ hại xã hội đó. Hơn nữa, vì có sự tranh chấp giữa những người anh em ruột thịt của ông Diệm (những người có quyền hành nhất nước) trong việc vơ vét tài nguyên quốc gia, bóc lột đồng bào cho nên tệ hại kia lại càng phát triển hơn, báo bạo hơn và qui mô hơn.
Tôi xin lần lượt trình bày thành tích tham nhũng của các ông Ngô Đình Thục, vợ chồng Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn để thấy họ đã phản bội lại những mỹ từ, những lời tuyên bố cách mạng xã hội của họ đến mức độ nào. Ông Diệm vừa tuyên bố khai sanh nền cộng hoà thì vào cuối năm 1956, Ngô Đình Thục cho xây cất tại thị xã Vĩnh Long (gần toà giám mục của ông ta) một trung tâm huấn luyện Nhân vị. Khi lớp huấn luyện đầu tiên bắt đầu khai giảng, Ngô Đình Thục bèn cho xây cất thêm những quán ăn, quán giải khát gần trường để khoá sinh ăn uống, giải lao, hầu như Ngô Đình Thục thu lợi.
Rồi từ đó Thục bắt Tỉnh trưởng lấy đất, lấy vật liệu lấy công quỹ của tỉnh này để xây 50 căn nhà, mỗi căn Thục cho thuê 2.000 đồng một tháng hay là bán đứt với giá 50.000 đồng. Vì đã có chủ mưu từ trước nên Ngô Đình Thục sắp xếp cho những nhà cửa của Trung tâm Nhân vị, các quán ăn và 50 căn nhà mới xây thành một trung tâm thương mại mới tại Vĩnh Long để thu hút thương gia các nơi đổ về mua hết các căn phố mới xây. Nhờ vậy Ngô Đình Thục kiếm hơn hai triệu rưỡi đồng bạc một cách dễ dàng mà hầu như không bỏ ra bao nhiêu trong vốn đầu tư.
Đó là áp phe làm tiền công khai đầu tiên của Tổng giám mục Ngô Đình Thục mà kết quả cho thấy là khả năng và đầu óc lo cho giáo phận. Sự thành công ban đầu đó nhưng những kích lệ kim tiền khác, sau này sẽ được khuếch đại ra ở tầm mức quốc gia và nhiều lãnh vực rộng lớn hơn.
Ông Ngô Đình Thục đã cố tình che đậy con người chính trị của ông ta và giả vờ làm nổi bật con người nặng lòng với nền giáo dục Thiên chúa giáo để ông dễ dàng nhân danh tôn giáo và văn hoá xông xáo vào việc làm tiền, vào những hành động tham nhũng. Ông Nguyễn Thái, một trí thức Thiên chúa giáo, cho biết rằng theo nguyên tắc thì tất cả hàng giám mục Việt nam đều có quyền tham dự vào việc quản trị trường Đại học chính trị kinh doanh Đà Lạt, nhưng trên thực tế ông Thục đã giữ lấy độc quyền điều khiển nhà trường về mặt giáo dục lẫn tài chánh. Không riêng trường đại học Đà Lạt mà ngay cả khách sạn Caravelle, khách sạn lớn nhất giữa trung tâm Sài gòn, thời đó cũng do ông Thục một mình nắm giữ lấy việc quản trị tài chánh cho đến sau ngày lật đổ chế độ Diệm mới được giao lại cho Giáo hội do Đức Cha Bình chủ tịch Hội đồng quản trị. Tại Sài gòn, Ngô Đình Thục có thương xá Tax đường Nguyễn Huệ, một trung tâm thương mại nổi tiếng nhất thời Ngô Đình Diệm, nhà sách Xuân Thu đồ sộ ở đường Tự Do, một cư xá cho thuê ở đường Trần Hưng Đạo, và một ngôi biệt thự sang trọng ở bên kia bờ sông Thị Nghè đối diện với Sở Thú. Biệt thự này có vườn rộng, hồ tắm sang trọng, bến đậu cho thuyền trượt nước, và cây cảnh trong vườn thì được tổ chức trồng trọt như một công viên. Dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu, ngôi nhà này cho các Toà đại sứ ngoại quốc thuê. Vì thế một hôm ông bà Trần Văn Đỗ, ông bà Huỳnh Ngọc An, một số nhân vật ngoại giao đoàn và tôi được Đệ nhất Tham Vụ Toà đại sứ Đức mời ăn cơm tại ngôi biệt thự này của Ngô Đình Thục nên tôi mới biết tính cách xa xỉ và hoang phí của ngôi biệt thự nguyên là của một nhà tu hành.
Trong việc làm tiền của Ngô Đình Thục, có lẽ việc độc quyền khai thác gỗ ở Long Khánh và những khu rừng dọc đường Sài gòn - Đà Lạt là dịch vụ lớn lao nhất. Người Việt nam ta có câu nói "rừng vàng bể bạc" để chỉ cái nguồn lợi to lớn về lâm sản và hải sản của đất nước, cho nên Ngô Đình Thục và vợ chồng Ngô Đình Nhu đã nắm lấy quyền khai thác cây gỗ tại địa phương nổi tiếng nhất về gỗ quí đó. Công tác bảo vệ an ninh cho thợ rừng do quân đội và chính quyền địa phương phụ trách, mãi đến năm 1961, vì Việt cộng gia tăng hoạt động và lấn chiếm những khu rừng này chính quyền địa phương không bảo đảm nổi an ninh, vì thế nên anh em ông Diệm bèn cho phép nhóm khai thác cây gỗ cứ đóng thuế cho Việt cộng để việc làm ăn được trôi chảy. Việc làm giàu phi pháp này của anh em ông Diệm đã được đại uý Đỗ Thọ, sĩ quan tuỳ viên của Tổng thống Diệm trình bày:
"Từ đó việc khai thác làm gỗ ở Long Khánh, Định Quán, Đức Cha không nhờ vào quân đội giữ an ninh nữa. Trong giai đoạn này tình hình chiến tranh sôi sục lắm rồi. Bọn người được Đức Cha giao việc khai thác gỗ trở nên giàu có. Chúng nó nói rằng chúng gặp Việt cộng hàng ngày, vui vẻ lắm không việc gì đáng lo vì đóng thuế rất sòng phẳng. Tuy nhiên tôi không hiểu đóng thuế như thế nào, bao nhiêu. Số gỗ chở về nhiều lắm, xe xúc không ngày nào dừng bánh nghỉ ngơi.
Trong thời gian đó những người chuyên sống về nghề gỗ rất đỗi ngạc nhiên. Họ được chính phủ cho khai thác những vùng rừng không lấy gì đẹp, gỗ tốt lại ít, bị Việt cộng quấy nhiều nên có người phải giải nghệ vì phải đóng thuế nặng.
Thế mà Đức Cha Thục và bộ hạ vẫn đốn gỗ hàng ngày, lập trại ngay trong rừng, cơ sở càng ngày càng lớn, khi vỡ lẽ ra thì bọn đàng dưới của Đức Cha tiếp xúc với Việt cộng rất thân và đóng thuế với một số tiền vượt mức cho hàng ngàn mét gỗ.
Đến cuối 1962, Tổng thống Diệm bắt đầu bực mình về công việc khai thác gỗ của Đức Cha. Tổng thống Diệm đã có lần xin Đức Cha dừng lại cho dân chúng làm. Đức Cha giận Tổng thống, không nói năng gì cả bỏ về Vĩnh Long rồi ra thẳng Huế. Đức Cha giận chuyện này lắm nên nói lại với cậu Cẩn, vì thế cậu Cẩn lo lắng đêm ngày sợ Tổng thống bất thần không cho cậu Cẩn độc quyền khai thác quế ở Quảng Ngãi thì bực mình lắm".
Việc Ngô Đình Thục và Ngô Đình Nhu độc quyền khai thác gỗ trong Nam đã làm cho Bộ trưởng Canh Nông Lê Văn Đồng bị Ngô Đình Cẩn thù ghét ra mặt mặc dù ông Đồng là uỷ viên Trung ương Đảng Cần lao. Cẩn cho rằng ông Đồng chỉ lo phục vụ quyền lợi “nông lâm súc” cho Thục và Nhu mà không đếm xỉa đến Cẩn nên Cẩn phải biểu lộ thái độ bất mãn của mình cho Đồng biết. Một hôm ông Đồng được Tổng thống Diệm phái ra Quảng Trị để quan sát và nghiên cứu tình hình "nông lâm súc" của tỉnh này. Được tin, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đông (Công giáo Phú Cam) phải hạ nhục Bộ trưởng Đồng bằng cách không thèm tiếp đón ông ta. Không có Tỉnh trưởng tiếp đón để trình bày và thảo luận công việc, trưởng sở Nông Lâm Súc lại không dám chuyên quyền, nên Bộ trưởng Đồng lủi thủi lên máy bay trở về Sài gòn mang theo mối hận nhục. Tôi vốn không quen biết ông Đồng nhưng vì lý do công vụ nên có gặp ông vài lần tại văn phòng Bộ trưởng để từ đó dần dần trở nên quen biết. Nhiều lần Bộ trưởng Đồng đã tâm sự với tôi về nỗi bất mãn chán chường của ông trước sự lộng hành của nhóm " Công giáo Cần lao".
Ngô Đình Thục không từ bỏ một hành động bần tiện nào trong việc làm tiền. Ông ta đã nhờ Tổng thống Diệm ra lệnh cho đại tá Phùng Ngọc Trưng, đang chỉ huy ngành Quân nhu ở Quân khu I, phải mua nước mắm thối của các bà "sơ" ở Phan Thiết, thứ nước mắm lâu ngày không bán được, bị hư thối để bán lại cho gia đình binh sĩ. Tất nhiên đại tá Trưng phải thi hành mệnh lệnh trên để rồi chịu lấy sự nguyền rủa của vợ con binh sĩ. Ngô Đình Thục còn bắt thân phụ tướng Trần Văn Đôn là Đại sứ Việt nam tại Italia, phải đứng tên cho các chương mục tại ngân hàng ngoại quốc giùm Thục, nhưng ông Đại sứ nhất định từ chối, không chịu làm tay sai cho một nhà tu hành bất lương. Ông Diệm không những biết được sự từ chối này mà còn biết cả thái độ khinh bỉ của ông Đại sứ nên năm ngày sau, ra lệnh cắt chức Đại sứ mặc dù hai gia đình đã từng quen nhau lâu ngày. Nhưng nếu ông Đại sứ họ Trần không chịu làm tay sai cho Ngô Đình Thục trong việc chuyển tiền vào Ngân hàng ngoại quốc thì đã có nhiều người khác sẵn sàng lo, trong đó có cả các linh mục người Italia. Năm 1965, báo chí ở Italia và Pháp đã làm ồn ào lên về vụ một linh mục người ý cướp của Ngô Đình Thục 98 ngàn đô la trong chương mục do linh mục ý này đứng tên đã là một bằng chứng rõ rệt về chuyện Ngô Đình Thục chuyển tiền ra nước ngoài. Tất nhiên Ngô Đình Thục phải có nhiều chương mục khác nhau tại nhiều quốc gia khác nhau, và do nhiều người khác nhau đứng tên như trường hợp vợ chồng Ngô Đình Nhu mà tôi sẽ đề cập đến sau này.
Vụ tu bổ nhà thờ La Vang tuy là một công tác cho tôn giáo cũng trở thành một cơ hội cho Ngô Đình Thục làm tiền. Tập san Đức Mẹ La Vang số phát hành năm 1962 trình bày một danh sách dài tên tuổi những "ân nhân" đã cúng tiền cho việc kiến thiết nhà thờ. Từ Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ trở xuống, dù công giáo hay không (nghĩa là có hay không có liên quan gì đến nhà thờ La Vang) đều có tên trong bảng danh sách đó. Ngô Đình Thục lại còn tổ chức xổ số Tombola rồi giao cho cảnh sát để lợi dụng các vụ xe cộ phạm luật đi đường, ép tài xế phải mua vé Tombola của Thục thay vì nộp tiền phạt cho chính phủ. Trong việc nhà thờ La Vang này, chẳng những ngân sách quốc gia đã mất đi số tiền phạt xe lại còn mất cả số tiền vé xe hoả vì nhân ngày lễ khánh thành "Trung tâm Đức Mẹ La Vang", Ngô Đình Thục đã can thiệp để nha Hoả xa hạ giá một nửa vé xe để khuyến khích dân chúng đi dự lễ tại La Vang cho đông. Rõ ràng chẳng những Ngô Đình Thục luôn luôn dựa vào uy quyền của người em làm Tổng thống để hối mại quyền thế, mà còn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo của ông ta, lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền, không khác gì Huỳnh Văn Cao lợi dụng Đức Mẹ để được ông Diệm cho thăng quan tiến chức. Đối với những tên giáo gian đó thì Đức Mẹ chỉ là một chiêu bài cho chúng buôn bán.
Năm 1963, khi trú nhiệm tại giáo phận Huế, Ngô Đình Thục dự định lấy khu Cồn Hến và khu Ngũ Viên tại Gia Hội để xây cất cơ sở tôn giáo và nhà riêng nhưng việc đang tiến hành thì biến cố 1-11-1963 xảy ra làm vỡ tan cái tham vọng muốn biến cố đô Huế thành căn cứ địa của Thục. Thật vậy, dân Huế đã biểu lộ sự tức giận mỗi lần Thục vi hành đến hai vùng này để quan sát, đo đạc và vẽ hoạ đồ. Nhất là mỗi lần Thục di chuyển thì không khác gì cung cách của một vị nguyên thủ quốc gia, cũng tiền hô hậu ủng cũng có đoàn xe mô tô hộ tống, xe cảnh sát trước sau hú còi dẹp đường, trong khi đó thì dân chúng phải dạt ra hai bên đứng yên để khỏi làm mất cái uy nghi của nhà tu hành nổi tiếng bóc lột, tham nhũng và kỳ thị tôn giáo này.
Bất chấp nỗi cơ cực và phẫn uất của nhân dân, bất chấp sinh mệnh của đất nước đang bị cộng sản đe doạ, lòng tham vô đáy của Ngô Đình Thục cứ dựa vào chế độ mà trở thành to lớn hơn và vô liêm sỉ hơn. Thục chỉ biết tiền, tiền và tiền. Tuy nhiên những vụ kể trên vẫn chưa đáng kể khi so sánh với vụ Ngân khánh xảy ra vào những ngày dao động cuối cùng của chế độ. Ngày 29 tháng 6 năm 1963, Ngô Đình Thục tổ chức lễ Ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của ông ta. Thay vì tổ chức trong phạm vi tôn giáo và gia đình thì Ngô Đình Thục trong mục đích làm tiền một vố thật lớn đã biến lễ Ngân khánh của mình thành một quốc lễ. Tại Sài gòn, Ngô Đình Thục giao cho Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc hội, thành lập "Uỷ ban Trung ương mừng lễ Ngân khánh" mà Lễ là chủ tịch và tất cả mọi ngành, mọi cơ cấu của định chế gọi là Quốc hội đều tham dự vào việc đóng góp tiền bạc. Còn tại các Bộ thì Bộ trưởng phải đứng đầu các tiểu ban.
Chẳng hạn như tại Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình (hiện ở Mỹ) làm trưởng tiểu ban cho Bộ và cho các trường Đại học. Tại các tỉnh hay thị xã thì Tỉnh trưởng hay Thị trưởng làm trưởng Uỷ ban. Các tiểu ban, Uỷ ban... phải nhận một số phiếu dự tiệc mừng trị giá 5.000 đồng cho những người khá giả, cao cấp, và 2.500 đồng cho công chức như Chủ sự, Trường phòng hay sĩ quan cấp uý. Tất nhiên hạng người như công chức, sĩ quan vốn không dư giả, và có ai muốn mất tiền cho một hành động tham nhũng đâu, nhưng rồi áp lực trực tiếp hay gián tiếp từ trên đè xuống quá nặng nề, nên cũng đành phải bóp bụng bỏ ra 2.500 đồng như cúng cô hồn để được yên thân.
Tuy không ai biết cái "áp phe Ngân khánh" Ngô Đình Thục thu hoạch được bao nhiêu nhưng cứ lấy con số các Bộ trưởng, Tổng Giám đốc, Giám đốc, sĩ quan cấp tướng, tá, Dân biểu, Tỉnh trưởng, Phó tỉnh trưởng, giáo sư các trường Đại học Huế, Sài gòn, Đà Lạt, các chánh sự vụ, chủ sự, Trưởng ty... của Đô thành Sài gòn và 43 tỉnh, thị của miền Nam thì ta cũng đã có thể hình dung được số tiền to lớn như thế nào. Đó là chưa nói đến Ngô Đình Thục còn bán vé bữa tiệc này cho thương gia, kỹ nghệ gia, chủ ngân hàng, chủ xí nghiệp Sài gòn - Chợ Lớn và 43 tỉnh, thị tại miền Nam nữa, mà lớp người này không những chỉ mua vé bữa tiệc mà thôi, họ còn cúng thêm rất nhiều để được lòng Đức Cha. Tôi không nhớ ai đó đã cho tôi biết một bữa tiệc tại Chợ Lớn gồm toàn những Bang trưởng và đại phú gia Hoa Kiều, Ngô Đình Thục không ngại ngùng tuyên bố: "Hôm nay tôi muốn "bóc lột" quí vị... để tôi có đủ số tiền lo việc văn hoá, xã hội..." Câu tuyên bố nửa đùa nửa thật của vị Tổng giám mục Niên trưởng Giáo hội Thiên chúa giáo Việt nam, lại là anh ruột của Tổng thống VNCH phải được các phú gia Hoa Kiều nghĩ là Ngài muốn mình dốc hầu bao đóng góp từ bạc triệu trở lên.
Biết biến lễ Ngân khánh của mình thành một lễ chung cho cả nước để tiến hành kế hoạch làm tiền đại qui mô như thế, hẳn Ngô Đình Thục đã thu được bạc tỷ và chắc chắn Ngô Đình Thục xứng đáng được gọi là thứ người kinh doanh có đầu óc lý tài số một không những trong Giáo hội mà còn cả trong miền Nam nữa.
Tuy vậy điều quan trọng nhất của Lễ Ngân khánh chưa phải là số bạc tỷ mà Thục đã thu lượm được, điều quan trọng liên hệ đến sinh mạng của chế độ là Thục đã tổ chức Lễ Ngân khánh của ông ta như một quốc lễ ngay trong lúc cuộc đấu tranh của Phật giáo đến hồi sôi động, tạo cho cuộc đấu tranh của Phật giáo thêm chính nghĩa, thêm hào hùng, thêm được đa số nhân dân ủng hộ.
Vậy Ngô Đình Thục, người đã đóng góp một tay đẩy chế độ xuống vực sâu của lịch sử, là ai?
Sau cái chết của người anh trưởng là ông Ngô Đình Khôi vào năm 1945, Ngô Đình Thục trở thành người anh lớn nhất của dòng họ Ngô Đình, vì thế ảnh hưởng "quyền huynh thế phụ" của ông ta trên các người em thật to lớn. Ngô Đình Thục là người Việt nam đầu tiên được thụ phong Giám mục, và vào thời ông Diệm làm Tổng thống, Thục giữ chức Tổng giám mục nghĩa là đứng đầu hàng giáo phẩm Việt nam. Năm 1933, sau khi ông Diệm từ chức Thượng thư Bộ Lại, chính nhờ ông Thục bảo đảm và che chở cho ông Diệm được yên thân với người Pháp cho đến khi có đủ bằng chứng ông Diệm hoạt động cho quân đội Nhật, người Pháp và Phạm Quỳnh mới bắt ông ta. Năm 1949-50, khi làm giám mục ở Vĩnh Long, ông Thục đã vận động để ông Diệm được xuất ngoại đi dự lễ Năm thánh tại Vatican nhưng thật sự là để đi Hoa kỳ gặp Hồng y Spellman, người bạn đồng khoá với Thục thời còn học tại Vatican. Nhờ sự tiến cử và gởi gắm đó mà Spellman mới giới thiệu ông Diệm với chính giới Hoa kỳ. Như một số sách sứ Mỹ, Pháp đã nêu ra Ngô Đình Thục nắm vững được kỹ thuật vận động và khuynh loát chính trị mà không cần phải nắm chính quyền như người bạn Spellman của ông ta vốn rất có ảnh hưởng với chính trường Hoa kỳ nhưng bề ngoài thì vẫn tỏ ra chỉ quan tâm đến tôn giáo mà thôi. Trên thực tế thì dưới chế độ Ngô Triều, Ngô Đình Thục là người có ảnh hưởng nhất tại miền Nam. Quyết định của ông ta là tiếng nói cuối cùng của gia đình vì không những cá nhân ông Diệm phải nghe lời Thục mà Thục lại biết lôi kéo gia đình Ngô Đình Nhu để Thục thêm vây cánh. Và tuy không tham dự trực tiếp vào chính quyền, tại giáo phận Vĩnh Long trước kia cũng như tại Huế năm 1965, tư dinh của Ngô Đình Thục vẫn là trung tâm quyền lực to lớn để hàng ngày Thục tiếp những nhân vật quan trọng không khác gì ông Diệm tiếp Quốc khách tại dinh Độc lập hay dinh Gia Long.
Ngô Đình Thục được Tổng thống Diệm kính nể và vâng lời nhưng khốn nỗi chính lòng tham tiền bạc của ông ta, tham vọng làm Hồng y của ông ta và tinh thần kỳ thị tôn giáo nặng nề của ông ta đã là những yếu tố đưa đẩy chế độ Ngô triều đến sụp đổ và đưa đến tình trạng vong mạng của những người em đúng như nhận xét của người sĩ quan tuỳ viên thân tín nhất của ông Diệm.
Xét về trường hợp của Ngô Đình Thục ta thấy rõ ràng ông tiêu biểu một cách trọn vẹn nhất cho sự tổng hợp của những tệ đoan mà thực dân và phong kiến đã để lại trên phong hoá nước ta: cái tệ đoan hối mại quyền thế qua hệ thống đẳng cấp phong kiến của triều đình nhà Nguyễn lúc mạt vận và cái tệ đoan dĩ công vị tư qua chính sách bòn rút tài nguyên của thực dân bảo hộ lúc xua quân xâm chiếm nước ta. Vì thừa hưởng cái gia tài đó vào tận trong tim óc cho nên khi em lên làm Tổng thống là anh phải tận dụng quyền thế để biến của đất nước thành của riêng mình. Điều đáng buồn là chiếc áo tu sĩ và những năm dài học giáo lý Thiền chúa giáo không đủ sức mạnh để đánh bật được những gốc rễ của các tệ đoan đã bám quá sâu vào tâm thức của Ngô Đình Thục, con chiên ghẻ của Giáo hội Việt nam và Giáo hội La mã.
Ngô Đình Thục không phải chỉ tham tiền mà còn tham quyền hành và địa vị. Đầu năm 1956, sau khi ông Diệm truất phế Bảo Đại bước lên ngôi vị Tổng thống rồi, Giáo Hoàng Pie XII bèn thăng Đức Cha Nguyễn Văn Hiền lên chức Tổng Giám mục Sài gòn. Quyết nghị của Đức Thánh Cha làm cho hai anh em ông Diệm hết sức phẫn uất vì Giáo Hoàng đã không chấp thuận ứng viên mà ông Diệm đòi hỏi là người anh Ngô Đình Thục đang là Giám mục Giáo phận Vĩnh Long.
Mối căm giận đối với Giáo Hoàng đã đưa ông Diệm lấy những biện pháp quyết liệt.
Thông báo cho Toà thánh La mã từ nay tất cả các giáo sĩ ngoại quốc đến hành đạo tại Việt nam phải tuyên thệ trung thành với ông Diệm bằng không sẽ được coi như là thành phần thân Cộng. Bắt giữ Giám mục Sieltz của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp, định bỏ tù ông ta nhưng Vatican can thiệp kịp thời.
Ra lệnh cho sở kiểm duyệt phải kiểm soát những thư từ đến Vatican, mở những văn kiện của Toà thánh thông báo việc Đức Cha Hiền được thăng chức, làm phó bản những văn kiện ấy, giữ lại một thời gian trong khi Giám mục Ngô Đình Thục bay sang Rome để xin Giáo hoàng thay đổi quyết địinh.
Dù vậy nhiều Giám mục, nhiều linh mục Việt nam cũng đã biết được việc Giáo Hoàng thăng chức cho Đức Cha Hiền nên đã rao giảng cho các lớp đạo, còn Đức Cha Hiền thì lên tiếng buộc tội ông Diệm dáng phải bị dứt phép thông công.
Tuy nhiên như nhiều người vào thời đó đều biết rằng Đức Cha Hiền chỉ giữ chức vụ Tổng Giám mục Sài gòn được vài tháng rồi bị thuyên chuyển lên Đà Lạt sống âm thầm để gặm nhắm mối tình đời bạc đen cho đến khi Ngài tạ thế. Còn các Linh mục thân cận với Đức Cha như cha Oanh, cha Thiêng, cha Của đều bị anh em ông Diệm vu khống đủ thứ tội, có vị bị đưa ra toà án (Cha Của hiện nay là một Giám mục sống tại Hoa kỳ).
Trình bày về gia đình họ Ngô, George Menant (trong tuần báo Paris Match ngày 23-11-1963) đã viết: Nền gia dình trị của nhà Ngô như hậu quả đã cho thấy là chính quyền thì Ngô Đình Diệm, cảnh sát công an thì Ngô Đình Nhu còn vợ ông ta thì tham nhũng áp phe, ngoại giao thì Ngô Đình Luyện, buôn lậu lúa gạo thì Ngô Đình Cẩn. Lãnh vực tôn giáo thuộc về Ngô Đình Thục, một nhà tu hành mà làm chủ vô số đất đai, và tư dinh ông ta thì có bố trí súng phòng không. Nhưng cái mũ Hồng y chưa phải là tham vọng cuối cùng của ông ta mà phải là "ngôi vị Giáo Hoàng"- phải là một Giáo Hoàng không thể kém hơn.
Theo truyền thống của Vatican muốn chọn một Giáo Hoàng cầm đầu Giáo hội La mã thì Hồng y được bầu lên phải xuất thân từ các quốc gia mà người công giáo phải là đại đa số. Cũng vì vậy mà chính quyền ông Diệm đã cho phát hành những bản thống kê nói rằng tại Việt nam có 70% dân số theo Thiên chúa giáo, 20% theo đạo Phật và 10% thuộc các đạo linh tinh khác. Đáng lẽ những bản thống kê như thế vẫn tiếp tục công bố nếu không có phái đoàn đại diện Toà thánh đến Việt nam nhận thấy rằng cờ Phật giáo tung bay khắp nơi, con số 70% là Phật tử chứ không phải là giáo dân. Ông Diệm giận lắm nên mới có lệnh cấm treo cờ Phật giáo với bộ máy đàn áp không lay chuyển nổi đưa đến việc tự thiêu công khai và đầy xúc động của các nhà sư...
Những sự kiện trên đây không chỉ làm nổi bật lòng dạ tham-sân-si vô độ của anh em nhà Ngô mà còn cho thấy họ luôn luôn là hạng người gian trá, phản phúc. Mỗi lần hễ quyền lợi cá nhân của họ không được thoả mãn là họ có chủ trương phản bội ngay dù kẻ bị phản bội là một vị Giáo Hoàng. Họ đã phản bội nhà Nguyễn, cựu hoàng Bảo Đại, người Pháp, sau này họ phản bội người Mỹ, phản bội quân dân miền Nam, và cả ân nhân, bằng hữu, đồng chí, thuộc cấp đã từng ủng hộ hoặc phục vụ cho họ. Thời kỳ hành đạo ở Tây ban nha, Ngô Đình Thục đã hai lần "phản loạn" để tranh chức Giáo Hoàng, bị Toà thánh trừng phạt nặng nề càng cho thấy bản chất phản bội vốn đã nằm sâu thẳm trong tâm, can, tì, phế của anh em nhà Ngô rồi. Một con người, một Tổng giám mục như thế mà trong cuốn sách "Làm thế nào giết một Tổng thống" ông Cao Thế Dung đã ca ngợi là đạo đức, là không dính vào chính trị!
Tuy Ngô Đình Thục là một thứ sâu mọt ghê tởm rồi thế mà chủ trương tham nhũng của Ngô Đình Nhu lại còn ghê tởm hơn, còn làm hại cho đất nước khủng khiếp hơn.
Ngô Đình Nhu là một nhà khoa bảng, một nhà chính trị trông bề ngoài có vẻ khắc khổ. Trong những năm dưới thời chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954), vợ chồng ông đã phải sống một cuộc sống cần kiệm, không vương giả lắm. Dưới chế độ Diệm, lương dân biểu của hai vợ chồng mỗi tháng khoảng 5, 6 chục ngàn, ông Diệm lại xuất tiền mật phí cho mỗi tháng một triệu đồng. Các viên chức trong phủ Tổng thống cũng như theo tác phẩm "Những ngày chưa quên" của Đoàn Thêm cho biết vào những năm đầu của chế độ, ông Nhu sống thanh bạch, không có cả một văn phòng riêng để làm việc. Với những sự kiện ban đầu đó, lúc bấy giờ ai có ngờ được Ngô Đình Nhu sau này lại trở thành tay đại tham nhũng và sau 8, 9 năm cầm quyền đã trở thành tỷ phú, của chìm của nổi đầy dẫy từ trong nước ra đến ngoài nước. Thì ra nhà khoa bảng Ngô Đình Nhu chỉ là kẻ đạo đức giả.
Tại Sài gòn, vợ chồng Ngô Đình Nhu có hai biệt thự lớn, một ở góc đường Pasteur và Hiền Vương và một ở đường Phùng Khắc Khoan. Ngôi biệt thự lầu ở góc Hiền Vương, Pasteur lúc đầu được Ngô Đình Nhu dùng để làm trụ sở trung ương đảng Cần lao, nhưng mấy năm sau, vì Đảng không họp hành gì nữa nên Nhu cho sửa sang lại rất đẹp và giao cho người nhà trông coi mà thôi. Ngôi biệt thự lầu tại đường Phùng Khắc Khoan có cái mái hiên lớn lợp bằng ngói ống rất kỹ thuật, trông bề ngoài thì thấy không lớn lắm nhưng lại là một ngôi biệt thự vô cùng đồ sộ và rất sang trọng vì nó gồm hai dãy nhà lầu cách nhau ở giữa bằng một sân rất rộng, trồng nhiều hoa quí. Sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, những nhà của Ngô Đình Nhu đều trở thành công sản, do đó dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, ngôi biệt thự tại đường Phùng Khắc Khoan được cấp cho tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn III, làm tư dinh.
Tuy hai biệt thự lầu tại Sài gòn đã từng là những ngôi nhà đẹp nhất nhì thủ đô, nhưng so sánh với ngôi biệt thự mùa hè của vợ chồng Nhu tại Đà Lạt thì chẳng thấm vào đâu về cả mặt đồ sộ lẫn lộng lẫy. Biệt thự mùa hè tại Đà Lạt phải được so sánh với những lâu đài của các bậc công hầu, bá tước của các xứ Âu Châu vì nó được bao bọc bằng hai lớp tường thành: nội thành bọc lấy biệt thự chính vì sân cỏ, còn ngoại thành thì bọc lấy một vườn hoa rộng lớn kiến thiết công phu. Hồi ký Our endless war của Trần Văn Đôn cho biết rằng: “Bà Nhu xây một biệt thự lộng lẫy gồm có toà ngang lầu dọc tại Đà Lạt làm biệt thự mùa hè. Biệt thự là một lâu dài tổng hợp với sân tennis, hồ bơi và nhiều kiến trúc lộng lẫy xây cất mấy năm trường mà khi chế độ Diệm bị lật đổ vào cuối năm 1963 vẫn chưa hoàn thành, dù đã có cả một đội kiến trúc sư, nhà thầu xây cất làm việc mấy tháng trước sự dòm ngó của cả thế giới. Sự biểu lộ khoe khoang đó đã không giúp ích gì cho vợ chồng Ngô Đình Nhu mà chỉ mua lấy lời chê bai của dân cả nước".
Tướng Đôn và bà Nhu là đôi bạn chí thân từ năm 1948, tướng Đôn biết rõ sự nghiệp và cuộc đời bà Nhu nhưng ngôi lâu đài của bà ta tại Đà Lạt, tướng Đôn quên kể cái vườn hoa rộng lớn có thể được gọi là bát ngát trong sân trước lâu đài, quên cả rừng thông trên ngọn đồi trong sân của lâu đài, được sắp đặt và vun xới một cách công phu, quên cả cái hồ sen hình địa đồ Việt nam mà bà Nhu đã mời kỹ sư Nhật Bản đến Việt nam hai lần để thiết kế và xây cất cái hồ đặc biệt đó. Ngôi lâu đài của vợ chồng Nhu nổi tiếng đến độ sau khi chế độ Diệm bị lật đồ, du khách đổ xô về Đà Lạt để xem.
Tài sản trong nước của vợ chồng Ngô Đình Nhu còn một rừng cây hai trăm mẫu tại Định Quán trồng toàn thứ gỗ tốt dùng để chế tạo báng súng để xuất cảng; và như đã nói ở trên, hai vợ chồng Nhu đã cùng với Ngô Đình Thục khai thác cây gỗ tại Long Khánh và dọc theo đường Sài gòn Đà Lạt như hồi ký Đỗ Thọ đã ghi chép rõ ràng. Ngoài ra vợ chồng Nhu còn có phần hùn trong các cơ sở khai thác nước suối Vĩnh Hảo, lông vịt Chợ Lớn, phân chim đảo Hoàng Sa, than Quả Bàng và than Cà Mau, cơ sở nhập cảng và chế tạo thuốc Tây O.P.V. do Dân biểu Nguyễn Cao Thăng chỉ huy, muối Cà Ná, than Nông Sơn, cát trắng Cam Ranh v.v...
Mặc dù vợ chồng Nhu cố tạo dựng tài sản trong nước, nhưng ý định lâu dài và thầm kín thì vẫn là chuyển tiền ra nước ngoài, tạo dựng vốn liếng tại Pháp, Ý và Thuỵ Sĩ (có lẽ để đề phòng khi đồng bạc Việt nam bị mất giá, và chuẩn bị khi hữu sự phải trốn ra ngoại quốc )
Một vài thí dụ cụ thể về tài sản do vợ chồng Nhu tạo dựng tại Âu Châu từ năm 1957: ngôi nhà ở quận 16 vùng có nhiều nhà cửa đẹp đẽ và đắt giá nhất thủ đô Paris, rạp chiếu bóng Eden ở đại lộ Champs Elysees, ngôi biệt thự tại ngoại ô La mã, thủ đô của ý v.v... Việc vợ chồng Nhu chuyển ngân và mua tài sản tại ngoại quốc đã được Frances Fitzgerald tiết lộ rằng: “Bà Nhu đã biết lo xa khi tích luỹ tài sản và mau chóng làm cho chúng có giá trị trên thị trường Âu Châu. Trong số nhiều bất động sản đó, bà Nhu đã làm chủ một nhà hát lớn tại Đại lộ Champs Elysees ở Paris”.
Trong lúc đó, William J. Ledere trong tác phẩm Our own worsy enemy cho biết: theo các mật báo viên người Thuỵ Sĩ và Trung Hoa của tôi báo cáo, khoảng 18 tỷ Mỹ kim được một số tư nhân người Việt gửi vào các ngân hàng ngoại quốc kể từ năm 1956. Mới gần đây, qua một hợp tác viên "kín" (silent partner), bà Nhu đã mua đứt ngân hàng tư lớn thứ nhì tại Paris. Mua trả hết "bằng tiền mặt". Tuy Lederer không nói trắng ra nhưng về số 18 tỷ Mỹ kim nói trên ta có thể suy diễn mà không sợ nhầm lẫn rằng anh em ông Diệm đã là chủ nhân của đa số trong số tiền kếch xù đó, vì họ đã cai trị miền Nam đến 10 năm trời và đã nguỵ tạo được vô số “cơ hội” thuận tiện để thu góp của cả công, tư, hiện kim, hiện vật, khuếch trương và khai thác kỹ nghệ, thương mại (trực tiếp và nguỵ ấn qua trung gian) để gom góp được một gia tài khổng lồ.
Ngoài số tiền bất hợp pháp kếch xù mà vợ chồng Ngô Đình Nhu gởi ra ngoại quốc đó, và ngoài những nguồn kinh tài khác nhau, ta còn phải kể đến số tiền lời bán vé số kiến thiết do những cuộc xổ số mỗi tuần một kỳ. Nhiều người Việt ở Pháp cho biết rằng sau ngày chế độ Diệm bị lật đổ, giữa bà Nhu và nguyên Bộ trưởng Phủ Tổng thống Nguyễn Đình Thuần, một cộng sự viên thân tín của vợ chồng Nhu, đã có những cuộc tranh cãi dữ dội vì số tiền lời xổ số kiến thiết để ở ngoại quốc. Bà Nhu đã ngậm đắng nuốt cay để cho Thuần lấy hết số tiền lo lớn kia vì chương mục chuyển ngân không đứng tên của bà ta, mà lại đứng tên người uỷ nhiệm là ông Nguyễn Đình Thuần.
Ngoài ra, trong năm 1965, sau khi báo chí Âu Châu phát giác vụ Ngô Đình Thục bị một linh mục người Ý lừa lấy mất 98 ngàn đô la, báo chí Pháp lại còn đăng tải vụ bà Nhu bị mất trộm gần 300 ngàn đô la, số tiền mặt không gởi lại ngân hàng. Những sự việc đó càng chứng minh thêm chuyện anh em ông Diệm đã chuyển tiền ra nước ngoài. Nhưng nếu chuyện chuyển ngân, mua sắm bất động sản ở nước ngoài chứng tỏ mức độ giàu có và mức độ vi phạm luật lệ hối đoái của quốc gia thì cái tội đạp lên xác chết của quân dân để vinh thân phì gia, cái tội tiêu huỷ một số tư bản lớn của quốc gia để đầu tư ở ngoại quốc trong lúc quân dân nghèo đói, chết chóc mới thật là trọng tội vì tính cách lừa đảo đồng bào của nó. Thật vậy, trong lúc họ Ngô hô hào chống Cộng, hô hào nhân dán hy sinh xương máu thì chính họ lại soạn sửa chuẩn bị cho một cuộc ra đi để sống đế vương nơi xứ người. Vấn đề không chỉ ngừng lại ở đó mà còn đặt thêm câu hỏi tại sao Ngô Đình Nhu không gởi tiền và tạo dựng tài sản ở Hoa kỳ mà lại cất dấu tại Pháp và Âu Châu? Năm 1963, tôi mới hiểu được thủ đoạn của vợ chồng Ngô Đình Nhu về vấn đề này nhờ Nhu quay lại thân thiện với người Pháp, những kẻ mà một thời Nhu coi là thù địch nguy hiểm nhất, sự kiện mà tôi sẽ nói rõ ở một chương sau.
Phê phán nền tham nhũng của vợ chồng Ngô Đình Nhu, ông Huỳnh Sanh Thông một trí thức Việt nam vì không chịu đựng nổi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm đành phải bỏ nước ra đi đã viết rằng:"Điều mỉa mai là tại miền Nam Việt nam, dưới chế độ của một ông Tổng thống ghét đàn bà, ông ta lại phong cho một phụ nữ có quyền hạn tuyệt đối. Bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Ngô Tổng thống, Đệ nhất phu nhân. Cả hai vợ chồng Nhu là cố vấn chính trị và chiến lược, bà ta nắm trọn quyền kinh tê quốc gia trong tay, bà ta là người được coi như là trung tâm của những vụ tham nhũng kinh khủng nhất".
Làm giàu không phải là một cái tội nếu không muốn nói là những hoạt động kinh doanh hữu ích để làm phát triển kinh tế nước nhà mà còn đáng được khuyến khích. Nhưng trường hợp của Ngô Đình Nhu là làm giàu một cách bất hợp pháp, làm giàu bằng cách lợi dụng quyền thế lãnh đạo của mình, mà không đóng góp cho nền ngoại thương quốc gia thì quả thật là chồng chất ba lần tội lỗi. Những hệ quả của hành động tham nhũng này không phải chỉ về mặt kinh tế mà thôi mà còn về mặt chính trị nữa vì Ngô Đình Nhu đang hành xử như nhân vật số hai của chế độ, đang đốc thúc toàn dân hy sinh kham khổ cho cuộc "cách mạng xã hội Cần lao". Ngôn ngữ và chủ trương thì một đàng, hành động và ý định thì một nẻo. Ngô Đình Nhu không những mang tội đánh lừa nhân dân làm cho họ không tín nhiệm chế độ nữa mà còn tạo nhược điểm cho Cộng sản tuyên truyền đánh phá chính nghĩa của miền Nam, bôi bẩn cuộc đấu tranh chống Cộng của dân Nam. Cái tội chính trị đó mới thật sự là đại tội.
Vợ chồng Ngô Đình Nhu không những thủ lợi qua chương trình viện trợ Mỹ, qua các cơ sở kinh doanh, qua các dịch vụ thương mãi, qua các tổ chức kinh tài của chính phủ như xổ số kiến thiết v.v.. họ còn chủ xướng và dính dự vào những tội ác không ngờ tới như tổ chức cờ bạc và buôn lậu thuốc phiện, những tội ác có tổ chức qui mô (organized crimes) mà chính Ngô Đình Nhu ngày xưa đã lên án Bảy Viễn bằng danh từ "tên cướp Bình Xuyên".
Thật vậy sau khi đóng cửa sòng bạc Đại thế giới của Bình Xuyên và ban hành luật cấm cờ bạc thì chính Ngô Đình Nhu lại cho tổ chức một sòng bạc qui mô tại nhà hàng Đại La Thiên của một người Tàu Chợ Lớn. Sòng bạc này được tổ chức rất kín đáo và được canh giữ bởi những nhân viên chìm của sở Nghiên cứu Chính trị. Người Việt nam ít ai biết được sự hiện hữu của sòng bạc này vì sòng bạc chỉ dành riêng cho Hoa kiều Chợ Lớn và những người Tàu từ Singapore hoặc từ Hồng Kông đến sát phạt nhau mà thôi. Sòng bạc tuy không đồ sộ bề thế như Kim Chung,Đại thế giới của Bảy Viễn ngày xưa, nhưng số lợi tức thu vào thì vô cùng to lớn vì tay chơi toàn là những kẻ đại phú thương, đại kỹ nghệ gia người Tàu.
Cho nên ngoài sòng bạc Đại La Thiên ra, Ngô Đình Nhu còn tổ chức một hệ thống mua bán, phân phối thuốc phiện lậu vô cùng kinh khủng mà chắc chắn trong lịch sử Việt nam chưa có một hệ thống độc quyền buôn bán thuốc phiện nào tinh vi và to lớn như vậy. Alfred W. Mc Coy, một chuyên viên bài trừ buôn lậu quốc tế đã từng là cố vấn tại Nha Tổng Giám đốc cảnh sát Việt nam, kể rõ vụ buôn lậu thuốc phiện trong luận án tiến sĩ của ông ta, nhan đề là: The Politics of Heroine in South East Asia như sau:
Ngay sau khi bọn cướp Bình Xuyên vừa bị đánh đuổi ra khỏi Sài gòn, tháng năm năm 1955, Tổng thống Diệm một Công giáo mộ đạo, bèn quyết liệt bài trừ nạn thuốc phiện bằng một chiến dịch đốt bàn đèn rất hấp dẫn. Tất cả tiệm buôn thuốc phiện đều bị đóng cửa, thuốc phiện rất khó mua và Sài gòn không còn là nơi giao dịch với quốc tế về thuốc phiện nữa. Thế mà chỉ ba năm sau, bỗng nhiên chính phủ Diệm bỏ cái chủ trương lành mạnh xã hội đó đi vào làm sống lại việc giao thương bất hợp pháp về buôn bán thuốc phiện lậu. Ngô Đình Nhu lấy lý do thiếu tiền bạc để chi phí cho công cuộc tình báo để ông ta buôn bán thuốc phiện lâu năm dù trong ba năm qua viện trợ Mỹ và CIA đã bỏ tiền rất dồi dào cho công cuộc tình báo của ông ta. Nhu đòi thêm viện trợ Mỹ cho công tác này nhưng vì nhiều lý do Mỹ đã từ chối.
Nhu nhất định tiến hành và quyết định làm sống lại việc buôn bán thuốc phiện lậu dù các tiệm hút đã cấm từ ba năm trước. Ngô Đình Nhu liên lạc với các bang trưởng Hoa kiều tại Chợ Lớn để cho mở lại các bàn đèn, các tiệm buôn thuốc phiện và thiết lập một hệ thống luôn lậu lại. Chỉ trong vòng vài tháng, hàng trăm tiệm buôn thuốc phiện được mở lại, và theo phóng viên tờ "Life Time" ước lượng thì chỉ 5 năm sau đã có hai ngàn rưỡi tiệm buôn thuốc phiện lậu tại Chợ Lớn và Sài gòn (chưa kể 43 tỉnh thị khác ở khắp miền Nam).
Để tiếp tế cho các tiệm buôn, Nhu mở một đường dây để chuyển thuốc phiện từ Lào về Việt nam. Phương tiện chuyên chở chính là chiếc phi cơ của hãng Hàng không dân sự Lào điều khiển bởi tên giang hồ người Corse là Francisci, từng là bạn của Bảy Viễn, từng làm ăn với Bảy Viễn. Mặc dù có ít nhất bốn đường dây không nhỏ của người Corse buôn lậu thuốc phiện giữa Lào và Nam Việt nam, nhưng chỉ có Francisci giao thiệp thẳng với Ngô Đình Nhu mà thôi. Theo trung tá Lucien Conein, một nhân vật cao cấp của CIA tại Sài gòn cho biết thì sự liên hệ giữa Ngô Đình Nhu và Francisci đã bắt đầu từ năm 1958 trong việc buôn lâu thuốc phiện từ Lào về rồi. Sau khi được Nhu bảo đảm sự an toàn trong việc chuyên chở, phi đội của Francisci gồm những phi cơ hai máy Beechcrafts bắt đầu chở thuốc phiện lậu vào miền Nam theo nhịp độ hàng ngày.
Nhu còn tăng cường việc tiếp tế thuốc phiện vào miền Nam bằng cách rải nhân viên tình báo khắp nước Lào để mua thuốc phiện sống và dùng phi cơ quân sự Việt nam để chuyên chở theo cung cách con thoi, chở người đi rồi chở thuốc phiện về.
Trong lúc Nhu lo giao thiệp trực tiếp với Francisci thì bác sĩ Tuyến một thầy tu xuất, Giám đốc sở nghiên cứu chính trị lo việc điều khiển hệ thống tình báo tại Lào. Mặc dù Ngô Đình Nhu là người thủ đoạn, quỷ quyệt (machiavelli) của chế độ Diệm nhưng nhiều người cũng cho Tuyến là kẻ đa mưu túc kế.
Dù với hệ thống buôn lâu thuốc phiện và nhiều hình thức tham nhũng khác tạo cho Ngô Đình Nhu một tài sản vĩ đại nhưng chế độ Diệm vẫn không thể tồn tại được nếu người Mỹ trở mặt chống lại chế độ đó. Đã nhiều năm qua người Mỹ rất bực mình vì ông Diệm không chịu bài trừ, trừng trị tham nhũng. Tháng ba năm 1961, cơ quan tình báo Hoa kỳ đã làm bản phúc trình cho Tổng thống Kenney và phê phán ông Diệm như sau:
"Nhiều người nhận thấy ông Diệm không thể chống nổi Cộng sản bởi vì sự cai trị cá nhân độc đoán của ông ta, bởi vì sự dung dưỡng tham nhũng của ông ta ngay cả với những người thân cận nhất và sự từ chối dẹp bỏ chế độ kìm kẹp của ông ta".
Hoạt động buôn bán và phân phối thuốc phiện một cách qui mô, có hệ thống lớn lao của Ngô Đình Nhu đã để rơi những chiếc mặt nạ khắc khổ, mặt nạ cách mạng, mặt nạ đạo đức, mặt nạ thế gia vọng tộc của người được gọi là cha đẻ chủ thuyết Nhân vị Duy linh, người tín đồ ngoan đạo Thiên Chúa, người cố vấn đặc biệt của Tổng thống Diệm.
Ngô Đình Nhu mượn cớ thiếu tiền nên phải buôn lậu thuốc phiện để chi phí cho hệ thống tình báo, nhưng thật sự chỉ lợi dụng danh nghĩa đã làm giàu cho cá nhân vì hệ thống này đã được tài trợ của viện trợ Mỹ, đặc phí của CIA và mật phí của Tổng thống Diệm. Thử hỏi nếu Ngô Đình Nhu đã thu được một số tiền kinh khủng trong 6,7 năm trời qua hệ thống buôn lậu thuốc phiện để chi phí cho công tác tình báo thì tại sao tình hình quân sự, an ninh mỗi ngày một suy sụp trong lúc vợ chồng Ngô Đình Nhu lại chuyển tiền ra nước ngoài mua bất động sản và có nhà băng tư tại ngoại quốc. Về đạo đức giả, anh em ông Diệm đã từng lên án Bảy Viễn là tên cướp vô đạo vô luân, đã ra lệnh cấm hút thuốc phiện, cấm buôn bán thuốc phiện lậu, đã mở chiến dịch đốt đèn bàn, vậy tại sao Ngô Đình Nhu nuốt lại bãi nước miếng mà mình đã nhổ đi để làm đúng và làm hơn những gì Bảy Viễn đã làm. Hành động của Nhu chẳng những là hành động của tên kẻ cướp mà Nhu còn mang tội lừa dối quốc dân để làm giàu một cách bất chánh và trái luật.
Vì tội ác của Ngô Đình Nhu và chế độ Ngô Đình Diệm kinh khủng như thế cho nên McCoy mới gọi là "Ngô triều và băng cướp Ngô Đình Nhu" (Diems dynasty and the Nhu bandits). Nữ tiến sĩ Frances Fitzgerald cũng phê phán rằng: "Nhu đã hành động như kẻ thù cũ của Nhu là Bảy Viễn, cũng cướp biển (watefront piracy), cũng lừa đảo cướp bóc (extorsion racket), buôn lậu thuốc phiện và gian manh trong việc đổi ngoại tệ để chuyển ngân ra nước ngoài".
Tội tham nhũng của Nhu như thế mà vào khoảng đầu năm 1963, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Stanley Karnow, Ngô Đình Nhu vẫn cứ lấp liếm lại còn miệt thị nhân dân khi Karnow hỏi Nhu cho biết ý kiến về tin đang được phổ biến khắp Sài gòn lên án vợ chồng Nhu tham nhũng, Nhu đã trả lời: "Việc đó không đúng sự thật, chúng tôi không có gì hết. Ông có thể xem xét chương mục của chúng tôi, chúng tôi rất nghèo". Ký giả Karnow vẫn hỏi tiếp: "Nhưng mà nhân dân thì đã nghĩ rằng ông là kẻ bất chính". Nhu xấc xược trả lời " Tôi bất cần nhân dân nghĩ gì".
Nhu bất cần nhân dân nghĩ gì nhưng nhân dân thì đã nghĩ xong rồi, và đã nói cũng như làm liền trong năm 1963 nghĩa là đã trừng phạt đích đáng kẻ tội đồ của đất nước.
Tuy nhiên dù Ngô Đình Thục và vợ chồng Ngô Đình Nhu tham nhũng bóc lột nhưng còn mượn danh nghĩa này danh nghĩa khác để cố che lấp tội ác, trái lại Ngô Đình Cẩn bót lột tham nhũng trắng trợn không biết kiêng nể ai kể cả việc cướp của giết người công khai.
Không như Ngô Đình Thục và vợ chồng Ngô Đình Nhu, vốn có Tây học lại nắm nhiều liên hệ với ngoại nhân nên đã tham nhũng một cách tinh vi và biết cách tẩu tán tài sản ra ngoại quốc, Ngô Đình Cẩn quê mùa và cục cằn nên mọi hoạt động tham nhũng đều trắng trợn xảy ra và nằm trong phạm vi Việt nam. Và cũng vì cá tính như thế nên Ngô Đình Cẩn không những bóc lột áp bức, hối mại quyền thế, dĩ ông vi tư mà còn không ngại ngùng nhúng tay vào những tội ác cướp của giết người nữa.
Một trong những hành động tham nhũng đầu tiên của Cẩn là khủng bố dược sĩ Nguyễn Cao Thăng để lấy 200.000 đồng bạc vào năm 1955. Sau khi tướng Nguyễn Văn Hinh về Pháp và tay chân thân tín của Hinh ở Huế là đại tá Trương Văn Xương, tư lệnh Quân khu II phải trốn vào Sài gòn, Ngô Đình Cẩn bèn cho tay chân ném lựu đạn vào tiệm thuốc Trường Tiền của Nguyễn Cao Thăng tại đường Trần Hưng Đạo, Huế, như đã nói trong chương III trước kia.
Ngô Đình Cẩn cho ném lựu đạn vào nhà thuốc Trường Tiền của Nguyễn Cao Thăng không phải vì để trả mối thù mà vì khủng bố để làm tiền.
Bị khủng bố, Thăng sợ quá vội vã nhờ ông Đoàn Nhượng, chủ tịch Phong trào Cách mạng quốc gia Thừa Thiên và ông Nguyễn Văn Bửu, một bạn thân của Thăng, một nhà thầu lớn người công giáo Phú Cam và có bà con với Ngô Đình Cẩn, dẫn Thăng tới yết kiến Cẩn để xin qui hàng và tạ tội. Lễ ra mắt là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đông thời 1955 có thể đáng giá 200 triệu thời Nguyễn Văn Thiệu). Đồng thời Thăng tình nguyện lo việc kinh tài cho Cẩn để chuộc cái tội đã dám vô lễ với Cẩn trước kia. Một lần nữa Thăng âm mưu làm kẻ buôn vua, một thứ Lã Bất Vi bên Tàu xưa kia, danh hiệu mà một số người đã tặng cho Nguyễn Cao Thăng. Từ đây “lãnh chúa miền Trung" và "Lã Bất Vi" trở thành đồng chí như “kẻ cắp, bà già" gặp nhau, Cẩn khai thác tài làm tiền của Thăng, còn Thăng khai thác quyền uy của Cẩn để có địa vị, thế thần và cũng để làm giàu riêng.
Sau buổi lễ ra mắt nói trên, nhà thuốc "Trường Tiền" của Thăng ở Huế do một tay chân của Cẩn lo việc quản lý, còn Thăng thì vào Sài gòn thường xuyên ra vào dinh Độc lập, tiếp xúc với vợ chồng Ngô Đình Nhu. Thăng chỉ huy ngành xuất nhập cảng thuốc Tây, nhà bào chế O.P.V phụ trách ngành kinh tài cho anh em họ Ngô và trở thành một Dân biểu gia nô tích cực. Thế là từ một kẻ "dâm ô, vô luân, Việt gian v.v..." dược sĩ Nguyễn Cao Thăng bạn thân của “Thủ hiến Việt gian” Phan Văn Giáo, người đàn em trung tín của "Thủ tướng tay sai Pháp" Nguyễn Văn Tâm, trở thành đại công thần đắc lực của chế độ cộng hoà Nhân vị do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Trong lúc đó thì người bạn thân, người đồng chí, người ân nhân cũ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, của gia đình họ Ngô là ông Trần Văn Lý cũng bị ném lựu đạn như Nguyễn Cao Thăng, lại trở thành nạn nhân của nhà họ Ngô, phải dẫn dắt vợ con vào ẩn trú tại Sài gòn cho đến đời sống trong cảnh nghèo nàn túng thiếu, lại còn bị nhà Ngô bắt bớ giam cầm sau vụ "Tuyên ngôn Caravelle" năm 1960.
Đến giữa năm 1956 và sau hai vụ tham nhũng đó, Cẩn đã có một số vốn to lớn và khá vững. Hơn nữa, với cái đà quyền hành mỗi ngày một vững chắc, lại có đảng viên "Cần lao công giáo" khắp nơi, có "Đoàn công tác đặc biệt miền Trung" do Dương Văn Hiếu cầm đầu với những nhân viên công an, mật vụ tàn ác như Phan Quang Đông, Lê Dư, Lê Hoạt, Trần Văn Hương... những kẻ mà chỉ mới nghe nói đến đã hung thần ác quỷ, Ngô Đình Cẩn trở thành một bạo chúa trên cả hai mặt tâm chất cũng như hành xử. Từ đó Cẩn coi nhân dân như vật tế thần, ngọn lửa bạo tàn từ cây gươm tham nhũng của Cẩn ra khắp nơi mà luật lệ quốc gia và uy quyền của ông anh Tổng thống cũng không cản trở nổi. Cẩn đã nắm trọn vẹn nền kinh tế quốc gia trong tay trên toàn bộ lãnh thổ miền Trung và vùng Cao Nguyên rồi nhưng vẫn thấy chưa đủ nên còn vươn dài cánh tay đến tận Sài gòn. Cẩn giao cho những tay chân thân tín như nhà buôn Trần Duy An khai thác quế tại vùng rừng núi Trà My, Trà Bồng, tại Quảng Ngãi; nắm lấy độc quyền bán gạo đại bài cho dân miền Trung; khai thác yến sào tại Khánh Hoà. Cẩn giao cho nhà thầu Từ Tông Dũng phụ trách đấu thầu xây cất những khách sạn lớn. Những thành phố có nhiều du khách và công chức lui tới như Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài gòn, Đà Lạt, Ban Mê Thuộc... đều có khách sạn lớn của Cẩn. Ở Huế có khách sạn Thuận Hoá, tại Nha Trang có khách sạn Nha Trang trên 300 phòng, tại Sài gòn có khách sạn Ambassador do Lê Văn Hiệp đứng tên, tại Ban Mê Thuộc có khách sạn Hương Giang do Dân biểu tay chân Nguyễn Văn Bỉnh quản lý... Cẩn tạo mãi rất nhiều nhà cửa ở Huế và Đà Nẵng, nhiều đất ruộng An Cựu, An Hoà và vùng lăng tẩm do Tỉnh trưởng Hà Thúc Luyện, thương gia Trần Duy An và nhiều tay chân đứng tên. Tại Sài gòn, Cẩn có hãng kỹ nghệ bông vải lớn nhất nước là Vinatexco giao cho dân biểu tay sai là Lâm My Bạch Tuyết điều khiển. Cẩn có nhà bào chế thuốc Tây dọc đường Cách mạng do Quốc Thuận quản lý, và tại đường Hai bà Trưng, Cẩn có một toà building 6 tầng lầu làm văn phòng giao dịch thương mãi cho mẹ con mụ Luyến đứng tên, Cẩn còn có một đội hải thuyền và nhiều đồn điền như ký giả Warnier đã nói đến trong tác phẩm “The Last Confucian" làm cho Trần Văn Khiêm em ruột bà Nhu phải điều tra.
Cẩn cũng buôn thuốc phiện lậu và vàng lá từ Lào về miền Trung chuyển vận bằng xe đò chạy trên đường quốc lộ 9.
Lúc đầu tôi không biết Cẩn buôn lậu thuốc phiện và vàng lá từ Lào về cho đến khi ông Trần Văn Hướng một bạn thân của tôi đang giữ chức tham vụ Toà đại sứ Việt nam tại Vạn Tượng (Lào) về Sài gòn công tác, tìm gặp tôi để than phiền về tác phong vô kỷ luật của trung tá Nguyễn Quang Thông (một Công giáo Cần lao) tuỳ viên quân sự của Toà đại sứ. Chỉ một tháng sau Thông mất chức, bị trả về quân đội, bèn đến gặp tôi đề phân trần. Cuối cùng Thông thú thật chỉ vì anh ta có chuyển chút ít vàng lậu và thuốc phiện từ Lào về Sài gòn mà bị ông Ngô Đình Cẩn ganh tức rồi làm áp lực với Toà đại sứ Việt nam tại Lào và Bộ trưởng quốc phòng để cắt chức Thông. Nhờ vụ tranh ăn này, tôi biết được đường dây và hệ thống buôn lậu vàng và thuốc phiện của Ngô Đình Cẩn từ Vientiane, Attopeu, Schepone v.v về miền trung. Tôi đem việc này trình Tổng thống Diệm, ông trả lời: "Ừ, để xem lại đã", nhưng rồi cũng như bao nhiêu vụ tham nhũng khác của Ngô Đình Cẩn cứ cùng với thời gian mà trôi đi, hoạ chăng nó chỉ chứa chết thêm căm thù và khinh bỉ trong lòng người dân miền Nam mà thôi.
Đầu năm 1963, trước khi xảy ra biến cố Phật giáo, đại uý Trần Thích, chánh sở An ninh quân đội Huế, bắt được một chiếc xe Peugoet 404 do hai bà sơ trẻ Việt nam lái từ chân đèo Hải Vân chạy về hướng Đà Nẵng, trên xe chở đầy dược phẩm, đặc biệt là thuốc trụ sinh. Cật vấn hai bà sơ thì được biết xe thuốc đó là của "ông cậu" và của bác sĩ Lê Khắc Quyến (giáo sư Y khoa Đại học Huế vừa là bác sĩ riêng của Cụ thân mẫu ông Diệm) nhờ chở đến cho một tư nhân tại Đà Nẵng mà An ninh quân đội đã tình nghi là chuyển lên mật khu cho Việt cộng. Tôi cũng đem nội vụ trình lên ông Diệm, lần này ông Diệm ra lệnh điều tra, nhưng rồi biến cố Phật giáo xảy ra, cuộc điều tra bị bỏ dở.
Đối với Ngô Đình Cẩn và bộ hạ của ông ta thì từ thượng vàng hạ cám, bất kỳ thứ gì có lợi là họ xen vào, giành lấy để làm tiền. Cũng vì thế mà đại tá Đàm Quang Yêu, một sĩ quan người Bắc, đã can đảm công khai đứng vào hàng ngũ Phật tử Huế để đấu tranh năm 1965 chống lại du đãng Cần lao dưới thời Thiệu-Kỳ. Nguyên dưới thời của Cẩn, thiếu tá Đàm Quang Yêu chỉ huy một Trung đoàn bộ binh hoạt động tại Quảng Ngãi, nhân vì thấy thành phần Cần lao địa phương quá lộng hành trong việc ép buộc dân quê để mua rẻ bò, rồi lấy xe quân đội lái về Đà Nẵng bán. Yêu bèn quyết liệt cản trở việc làm thất nhân tâm của chúng. Chẳng những bọn Cần lao địa phương đã không bị trừng phạt (vì viên Tỉnh trưởng Quảng Ngãi là người của Ngô Đình Cẩn) mà thiếu tá Yêu còn bị tố cáo là phản động và phá rối công cuộc trị an của chính quyền địa phương. Yêu bị An ninh quân đội Huế, thiếu tá Sung (một cán bộ Cần lao) bắt giam để đem ra Toà án quân sự. Vụ này, nếu tôi không sáng suốt thì cuộc đời binh nghiệp dày công chiến đấu chống Cộng tại Bắc Việt trước kia của Đàm Quang Yêu đã tan nát và thân mạng của Yêu còn phải vướng vào vòng lao lý. Tôi đã buộc Sung chuyển nội vụ vào Sài gòn cho tôi xét xử và đích thân ra lệnh trả tự do thiếu tá Đàm Quang Yêu. (Tôi tin rằng Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc và nhiều bạn bè thân tín của Yêu hiện ở ngoại quốc còn nhớ rõ vụ này).
Lúc mới cầm quyền, Cẩn có bớ ngỡ vì vẫn mang đầu óc của một nhà phú hộ miền quê nên chỉ lo tích giữ bạc giấy 500 đồng. Nhân dịp sửa lại ngôi nhà như tôi đã nói trong một mục trước, Cẩn bèn cho xây trong phòng ngủ của Cẩn (cạnh phòng mụ Luyến) một cái hầm để chứa bạc. Hầm có kích thước bằng bề mặt cái giường của Cẩn nằm có nghĩa là độ 1m60 và 2 mét, và bề sâu quá đầu người, muốn xuống phải dùng thang. Giám đốc Bảo an Trung phần lúc bấy giờ là đại tá Nguyễn Vinh kể cho tôi nghe rằng có lần Đại biểu Trung Việt Hô Đắc Phương, Tỉnh trưởng Hà Thúc Luyện, và cả Vinh được Cẩn huy động vào phòng riêng để đếm bạc và cột lại thành từng bó. Tôi hỏi Vinh tại sao Cẩn lại bắt nhân viên cao cấp đến đếm bạc như vậy thì Vinh cho biết vì Cẩn tin rằng những người đã có chức quyền khi đếm bạc không ăn cắp, không thu giấu. Dần dần Cẩn tỏ ra văn minh hơn, vả lại vì giấy bạc quá nhiều nên hầm tuy rộng mà vẫn chứa không đủ, nên Cẩn bèn mua vàng, hột xoàn, kim cương, đô la, để lưu trữ và bắt đầu có ý niệm chuyển tiền ra nước ngoài để phòng xa. Theo hồi ký của tướng Trần Văn Đôn cho biết, Cần đã gởi được ra ngoại quốc 7 triệu đô la vào năm 1961. Vào tháng 10 năm 1963, hình như Cẩn đã cảm thấy được tình hình có thể nguy ngập cho chế độ và cho gia đình nên Cẩn cho chuyển vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế 14 thùng vàng (thùng đạn quân đội), riêng Cẩn thì chỉ giữ lại một hộp xoàn, kim cương bên mình. Trưa ngày 1-11-63, khi tiếng súng cách mạng bắt đầu nổ tại Sài gòn, tướng Đỗ Cao Trí, lúc bấy giờ là Tư lệnh quân đoàn 1 và là tay chân thân tín của Tổng thống Diệm, bèn ra lệnh cho đại tá Nguyễn Văn Mô (tiểu khu trưởng Thừa Thiên) và thiếu tướng Hiền (Chánh văn phòng của Trí) đem một trung đội đến bố trí quanh dinh thự của Cẩn, súng chĩa ra ngoài để bảo vệ an ninh cho “ông cố vấn”. Nhưng sáng mồng hai, khi nghe tin ông Diệm đã đầu hàng và đã xin hội đồng tướng lĩnh để xuất ngoại, trung đội bảo vệ an ninh cho Cẩn lại được lệnh quay súng vào dinh thự của Cẩn. Sau vụ lật đổ chế độ Diệm, tôi vì quá bộn bề công việc chỉ nghe kể lại rằng hộp hột xoàn kim cương của Cẩn được đổ đầy một mũ sắt nhà binh, và tất cả đồ lễ quý giá trong dinh của Cẩn đều về trong tay tướng Trí. Tướng Đỗ Cao Trí cũng lấy lại được 7 thùng vàng trong số 14 thùng sau mấy ngày thương lượng gay go với các bề trên Dòng Cứu Thế.
Trong hệ thống tham nhũng, bóc lột của Ngô Đình Cẩn và bộ hạ, ngoài việc các Tỉnh trưởng, Quận trưởng, Trưởng ty Công an áp bức để tịch thu và mua rẻ những vật quý giá, xưa cổ của lương dân do tiền nhân của họ để lại, thì có lẽ việc bắt bớ, giam cầm tra khảo những nhà giàu tại Huế và Đà Nẵng là những hành động tàn ác, vô nhân đạo nhất.
Tại Huế, Cẩn đã cho bắt một số nhà giàu rồi gán cho họ tội làm "gián điệp cho Pháp” để Cẩn làm tiền. Trong số những nhà giàu đó hiện tại ở Mỹ, có cụ Võ Văn Quế hiện ở Glendale, và cụ Hữu Bang ở Los Angeles đã từng là nạn nhân đớn đau của Cẩn. Mỗi nạn nhân thường bị giam cầm, tra tấn đến gần 3 năm trời, phải chịu mất hết tài sản rồi mới được trả tự do. Ông Nguyễn Văn Yến, chủ nhà hàng Morin, một nhà hàng khách sạn lớn nhất Cố đô Huế mà ông đã mua lại của người Pháp, bị bắt và tra tấn tới gần chết cho đến khi ông Yến dâng hết tài sản và bà vợ phải ngày đêm đến van vái lạy lục Cẩn, ông Yến mới được trả tự do. Nhưng chỉ mấy tháng sau khi được về nhà, không chịu nổi những biến chứng của vết thương trong khi bị tra khảo, ông Yến bị thổ huyết mà chết dù lúc bấy giờ ông ta vẫn chưa đến 40 tuổi. Ông Nguyễn Đắc Phương, một nhà thầu giàu có nhất nhì miền Trung, cũng bị bắt bớ và tra khảo đến chết, vì vợ chồng ông nổi tiếng cứng đầu, không chịu dâng tài sản cho Cẩn. Khi ông chết rồi, công an không những làm khó dễ công việc tống táng theo nghi thức Phật giáo mà còn lập biên bản bảo rằng Nguyễn Đắc Phương nhảy lầu tự tử. Sau ngày chế độ Diệm bị lật đổ bà Phương đưa nội vụ ra toà án Sài gòn để mong công lý cách mạng cởi mở mối oan khiên cho chồng và để tố cáo tội ác anh em nhà Ngô. Toà đã xử cho bà Phương thắng kiện, nhưng dù thắng kiện thì những kẻ thua kiện như Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông... đã đền tội với quốc dân đồng bào rồi nên bà Phương còn biết đứng ở cổng Toà và trước sự hiện diện của đông đảo báo chí khóc lóc và nguyền rủa nhà Ngô để mong thoả được vong linh người chồng đã chết đau thương vì nền tham nhũng của chế độ “Nhân vị Ngô triều”.
Không riêng tại Huế mà tại Đà Nẵng, hai anh em Trương Công Huynh Đệ sau khi mất hết tài sản mới được thả ra về, nhưng dù được thả về thì miệng của ông Trương Công Cương đã bị mất cả hai hàm răng, môi dưới trề hẳn xuống và má thì bị kéo lệnh qua một bên, làm cho một con mắt cũng bị lệch xuống trông rất dễ sợ. Ông Trương Công Cương có hai người con trai hiện đang ở tại hải ngoại là anh Trương Công An, cựu sĩ quan quân đội, hiện đang ở tại Houston, Hoa kỳ, và anh Trương Công Trứ, đi du học ở Đức từ trước năm 1975. Còn nhiều nạn nhân khác nữa về "vụ án gián điệp miền Trung" mà tôi không kể ra đây.
Vụ án mà các nạn nhân là cụ Quế, Bửu Bang, ông Nguyễn Văn Yến, ông Nguyễn Đắc Phương, anh em Trương Công Huynh Đệ, được gọi là "vụ án gián điệp miền Trung" bây giờ mỗi lần nhắc lại là người dân ở hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam đều không khỏi nghiến răng cau mày.
Vụ án "gián điệp miền Trung" tưởng đã theo thời gian chôn vùi vào quên lãng, không ngờ vào năm 1963, khi giám mục Ngô Đình Thục hoán chuyển ra Huế, vụ án lại được soi sáng trở lại. Tiếc rằng nó được khơi dậy quá trễ nên chỉ như một âm vang để rồi sau ngày Cách mạng 1-11-63 mới được bà Phương và báo chí viết vào lịch sử. Đầu năm 1963, những nạn nhân của vụ án, nhân dịp anh em Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Thục đang mâu thuẫn nhau vì tranh lợi nên họ lợi dụng thế yếu của Cẩn trước uy quyền của Thục, và lợi dụng Thục cũng là tay tham lam vô độ, bèn khơi lại nỗi oan ức làm tan nát gia đình họ và nhờ một linh mục tên Kỷ (vốn là cộng sự viên thân tín của Thục) vận động với Thục để nhờ giải oan. Ngô Đình Thục tức tốc ra lệnh cho đại uý Trần Thích, chánh sở An ninh quân đội tại Huế thụ lý nội vụ. Vì là vấn đề tế nhị, Thích bèn bay vào Sài gòn để xin chỉ thị của tôi.
Sau khi nghe Thích trình bày toàn bộ chi tiết của nội vụ, tôi bèn vào gặp ông Diệm với hy vọng lần này có thể dùng một viên đạn bắn ba con chim: vừa lật mặt nạ Ngô Đình Cẩn vừa công khai hoá mâu thuẫn giữa Thục và Cẩn, và quan trọng nhất là để chứng minh cho ông Diệm thêm một lần nữa về những tệ đoan do anh em ông gây ra cho dân chúng. Tôi vào dinh Gia Long trình bày với ông Diệm việc Đức Cha ra lệnh điều tra vụ án “gián điệp miền Trung” mà không đề cập đến tên Ngô Đình Cẩn. Ông Diệm vừa nghe có lệnh của Đức Cha vội nói: “Phải làm cho ra lẽ". Tiếc thay cái ý định của tôi muốn gây cho phe Thục và phe Cẩn tranh chấp mâu thuẫn nhau chưa đi đến đâu thì độ mười ngày sau ông Diệm bảo tôi: "Thôi việc đã cũ rồi, hãy xếp đi” mà không có một lời giải thích. Tôi đoán ông Ngô Đình Cẩn đã năn nỉ và ông Diệm đã chịu xếp bỏ vụ án, nên chỉ còn biết ông Diệm đánh điện ra Huế cho Thích. Công lý dưới thời nhà Ngô không thể vượt qua được những tranh chấp quyền lợi của anh em nhà Ngô.
Sau vụ "gián điệp miền Trung”, vào năm 1958, tập đoàn Ngô Đình Cẩn lại bày ra vụ án "Cộng sản nằm vùng", Cẩn và bộ hạ cũng cho bắt một số nhà giàu và cũng dùng phương pháp vu khống, khủng bố, giam cầm và tra tấn để làm tiền. Các nhà giàu lớn ở miền Trung như các ông Tôn Thất Cẩn, hai anh em ông Lê Trình và Lê Hành đều là nạn nhân của Ngô Đình Cẩn. Sở dĩ lúc bấy giờ Ngô Đình Cẩn cho bắt nhiều nhà thầu lớn không chỉ để thuần làm tiền mà thủ đoạn hơn, còn để làm giảm thiểu con số nhà thầu có thể cạnh tranh được với Từ Tôn Dũng, nhà thầu riêng của Cẩn để Dũng được độc quyền đấu thầu những dịch vụ xây cất to lớn như làm đường sá, xây kho đạn, xây các trung tâm huấn luyện, các phi trường cho quân đội và cơ sở Mỹ. Ông Tôn Thất Cẩn (ông Cẩn này khác với ông Cẩn anh em ruột ông Tôn Thất Toại) nhờ kinh nghiệm "vụ án gián điệp miền Trung” lại nhờ có tướng Lê Văn Nghiêm bảo đảm nên chỉ bị bắt mấy ngày rồi có vợ con lo lót cho công an nên được trả tự do. Sau khi ra khỏi nhà giam công an Thừa Thiên, ông Tôn Thất Cẩn vội vã từ bỏ nơi ông chôn nhau cắt rốn để rời toàn bộ gia đình về Sài gòn (ở đường Huỳnh Thúc Kháng) mở hãng xuất nhập cảng và tiếp tục làm nghề thầu khoán. Còn hai ông Lê Trình và Lê Hành nghĩ mình không có tội tình gì nên đã lì ra, không chịu lo lót nên bị Ngô Đình Cẩn giam suốt 3 năm trời tại nhà giam Mang Cá. Nhưng dù 2 anh em Lê Trình và Lê Hành có xương đồng da sắt cũng không chịu nổi cảnh tra tấn tù đày của đám bộ hạ Phan Quang Đông nên cuối cùng các ông phải cúng đi một phần gia tài để được ra khỏi cảnh lao lung. Cũng như nhiều nạn nhân của Cẩn ra khỏi chốn lao tù, ông Lê Hành biết rằng còn ở Huế là vẫn còn ở trong tay sắt của lãnh chúa miền Trung, bèn "cộng thê đái tử” vào Sài gòn trú ngụ.
Mặc dù ông Lê Hành thuộc gia đình Phật tử thuần thành nhưng trước khi thoát được cõi tù đày, riêng ông Lê Hành đã cải đạo Thiên chúa giáo. Ông đã công khai cho nhiều người biết rằng khi còn nằm trong lao Mang Cá ông chiêm bao thấy Đức Mẹ hiện ra nên ông đã cải đạo; nhưng đối với nhân dân vốn có kinh nghiệm với bàn tay sắt anh em nhà Ngô, việc một nạn nhân phải cải đạo nhất là sau đó phổ biến việc cải đạo này cho càng nhiều người càng tốt, thì đó chỉ là một trong các mánh khóe để khỏi bị tai hoạ.
Trong khi đó thì với tài sản kếch sù sau bao năm vơ vét của người dân hiền lành cô thế, Cẩn bắt đầu thực hiện giấc mơ nhung lụa. Thật vậy, vốn mang bản tính quê kệch của một nhân viên chánh tổng thời đô hộ Pháp, suốt thời thơ ấu và trung niên chỉ quanh quẩn trong ngôi nhà cổ kính không hề trực tiếp cọ sát với xã hội bên ngoài, nay nhờ thế lực và uy quyền của các ông anh mà có quyền sát phạt như một lãnh chúa, tiền bạc tuôn vào nhà như nước phù sa. Ngô Đình Cẩn bèn thực hiện cuộc sống đế vương. Mới cầm quyền, Cẩn vội xây ngôi nhà mát thật huy hoàng tại cửa Thuận An để hàng tuần Cẩn cùng nhiều người đẹp đến đó du hí. Vào những năm chót của chế độ, Cẩn cho xây lăng và xây khu An Dưỡng tại Châu Ê là nơi phong cảnh hữu tình của đất Cố đô nằm về phía Tây thành phố Huế, ở bên kia dốc Nam Giao, gần dòng tu Thiên An của Thiên chúa giáo. Vùng đất rộng hơn mấy chục mẫu này bị Cẩn cưỡng chiếm nguyên thuộc sở hữu của một người miền Nam lấy vợ Huế và thích nghề săn bắn. Sau đó Cẩn tịch thu luôn cả đồn điền của ông ta và bắt Tiểu đoàn Công Binh ở Huế xây dựng lăng tẩm cho mình.
Theo hồi ký của sĩ quan tuỳ viên Đỗ Thọ, Tổng thống Diệm có đến thăm lăng tẩm và khu An Dưỡng này của Cẩn. Thấy Cẩn xây cất quá đồ sộ tốn kém đến cả trăm triệu bạc mà vẫn chưa hoàn thành, ông Diệm có vẻ bực mình và trách Cẩn: "Làm chừng đó được rồi, sơ sài thôi, khi tôi hết làm Tổng thống sẽ tính toán nữa. Chú xây cất to lớn dân dị nghị. Quân đội ngày đêm lo lắng nó oán". Nhưng Cẩn vội nói lẫy ngay: "Các anh quá sướng, cho tôi hưởng tí xíu, lúc mẹ không còn trên đời này, tôi không cần chi nữa mà lo". Thấy Cẩn đem mẹ ra làm bùa và đã có thể giận, Tổng thống Diệm im lặng nhìn cậu út Cẩn vẫn như phó mặc chú em muốn làm gì thì làm...
Dưới thời Đệ nhị cộng hoà, Nhà văn đại uý Phan Nhật Nam khi hành quân trong vùng núi rừng lăng tẩm Huế, nhân đi qua và nhìn thấy lăng Ngô Đình Cẩn, anh đã nặng nề mỉa mai "Những ngày cuối tháng 9 đóng ở lăng Ngô Đình Cẩn, thật là một tham vọng tội nghiệp của một trí óc non yếu, ông ta bắt chước những cái vĩ đại của lăng tẩm vua chúa nhà Nguyễn xây phần mộ mình theo kích thước nhà vua. Nhưng sự bắt chước nghèo nàn, kiến trúc được xây dựng bằng những vật liệu tân thời lại có vẻ muốn xưa cổ kính, sự hoà hợp không có, trở nên tủn mủn, vụn vặt, quê mùa, kệnh cỡm như một lão phu diện âu phục". Có lẽ lúc Phan Nhật Nam dừng quân nơi lăng tẩm thì những vật liệu quý giá trang trí cho ngôi lăng của Cẩn đã bị tẩu tán rồi vì theo nhiều nhân chứng trong đó có đại tá Phùng Ngọc Trưng kể lại thì ngoài những kiến trúc như ao sen, hồ bán nguyệt, con suối nhân tạo róc rách chảy quanh lăng, cửa Tam Quan trước ngõ, hòn giả sơn giữa đồi thông... những công trình do Công binh kiến tạo tô điểm cho cảnh trí của ngôi lăng thêm mỹ lệ thì còn có những đồi khí tự của các đình, chùa như chiêng, trống, bát bửu, hoành phi, hương án sơn son thếp vàng được tay chân dâng hiến để tô điểm lăng tẩm mình thêm tráng lệ, tôn nghiêm cho đúng với cung cách lăng tẩm của bậc đế vương thời trước. Theo đại tá Trưng thì tại ngôi lăng của Cẩn có cái trống đình, cái chuông chùa bề kính hơn hai thước, cao hơn cả đầu người, thật là những bảo vật thờ cúng hiếm hoi của dân tộc Việt đã bao đời để lại. Nhưng có lẽ khí thiêng sông núi, anh linh trời đất, thánh thần không cho kẻ bạo tàn hưởng thụ cho nên công cuộc kiến trúc lăng tẩm chưa xong thì Ngô Đình Cẩn đã phải đền tội xử bắn. Sau ngày lật đổ chế độ Diệm, dân chúng Huế và cả Thừa thiên lũ lượt đổ về Châu Ê xem lăng của Cẩn để tận mắt chứng tích của những tội ác không bao giờ quên. Tuy nhiên sau khi Ngô triều sụp đổ nhóm “Công giáo Cần lao” viết sách đăng báo tuyên truyền rằng bà Nhu, ông Cẩn chẳng có tội tình gì, chẳng qua dư luận "có ít xít ra nhiều" để vu oan cho những người “có công với đất nước”. Họ không biết rằng anh em nhà Ngô là những kẻ "bất cận nhân tình" tàn bạo với tất cả mọi người, kể cả những tay chân thân tín, miễn là họ có lợi, như trường hợp sau đây:
Phùng Ngọc Trưng, thuộc một gia đình gia giáo, đạo đức và quyết tâm theo ông Diệm với tất cả lòng thành, với ước nguyện ông Diệm trở thành nhà cứu quốc. Thời ông Diệm thất thế còn sống ở Mỹ, Trưng đã đóng góp rất nhiều tiền bạc giúp anh em ông Diệm hoạt động chính trị. Khi ông Diệm về nước cầm quân, một người em trai của ông Trưng là đại uý Phùng Ngọc Ba được gửi ngay vào Sài gòn làm sĩ quan tuỳ viên, một người anh khác của Trưng là một thượng sĩ được ở trong tiểu đội phục vụ cho dinh Phú Cam còn Trưng được giao cho chức Giám đốc Quân nhu Quân khu I. Cả ba anh em đều phò một chúa với tất cả tấm lòng hy sinh tận tuỵ. Thế mà Ngô Đình Cẩn chỉ vì lòng tham không đáy đã nỡ ra tay cho bọn mật vụ tới bao vây nhà Phùng Ngọc Trưng ở đường Hàng Bè (Huế), cướp của Trưng bộ trường kỷ xưa chạm trổ cẩm xà cừ quý giá và mấy cái chậu xưa, ché cũ mà Trưng đã dành dụm tiền mua sắm để làm gia bảo. Bất tận nhân tình đến thế là cùng.
Hệ thống và khu vực làm tiền của Cẩn không phải chỉ giới hạn ở miền Trung mà còn vươn dài vào Sài gòn khuynh loát tận cơ quan đầu não của quân đội. Vài trường hợp điển hình mà tôi xin kể ra sau đây nói lên cái màng lưới tham nhũng ghê tởm đó:
- Câu chuyện thứ nhất: Vào năm 1959, một hôm tôi đi xem chiếu bóng ở rạp Majestic (góc đường Tự Do và Bạch Đằng) thì tình cờ gặp Dân biểu Lê Trọng Quát, một tay chân thân tín của Ngô Đình Cẩn. Ông Quát đến gần chào tôi rồi nói: "Ông cố vấn miền Trung bảo tôi đến thăm nhà đại tá dùng quyền an ninh chặn đứng vụ đấu thầu phi trường Đà Nẵng của Tôn Thất Cẩn".
Tôi rất bỡ ngỡ và hơi bực mình vì thái độ sỗ sàng của ông Quát nhưng vẫn bình tĩnh trả lời: "Tôi sẵn sàng, nhưng xin ông Dân biểu nói với Cậu gửi cho tôi một tấm thiếp thì tôi sẽ giúp Cậu ngay". Thật ra tôi cũng nói cho có chuyện chứ biết trước rằng Ngô Đình Cẩn dại gì viết giấy để bút tích lại cho tôi.
Không ngờ một hôm, đúng hai giờ rưỡi chiều, tôi đang làm việc trong văn phòng ở Nha thì chuông điện thoại đổ (thứ điện thoại đặc biệt chỉ nối liền giữa những nhân vật quan trọng với Tổng thống) reo vang. Tôi không biết có gì quan trọng mà Tổng thống gọi điện thoại đổ vào giờ này. Vừa nhắc điện thoại lên thì đầu kia tiếng ông Diệm quát tháo: “Anh ăn tiền của thằng Cộng sản Tôn Thất Cẩn phải không?” Tôi bỡ ngỡ không biết thằng Cộng sản nào là Tôn Thất Cẩn và vì sao mà ông Diệm lại khiến trách mình ăn tiền, bèn thưa lại: "Bẩm Cụ, Tôn Thất Cẩn nào ạ?". Ông Diệm nói liền: "Thằng Tôn Thất Cẩn đang đấu thầu sân bay Đà Nẵng do Mỹ viện trợ". Tôi bèn định phân trần thì ông Diệm lại bảo: "Anh ra đây ngay”, rồi cúp máy. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ lại vụ dân biểu Lê Trọng Quát can thiệp cách đây gần vài tuần, bèn gọi nhân viên đưa hồ sơ nhà thầu Tôn Thất Cẩn lên nghiên cứu trước khi vào yết kiến Tổng thống. Thì ra không phải ông Tôn Thất Cẩn chủ tiệm ăn “Tables des Mandanns”, trước ở Paris, từng là ân nhân của ông Ngô Đình Diệm, mà bây giờ đang sống cuộc đời bất đắc chí vì sự vong ân bội nghĩa của nhà Ngô, mà lại là một Tôn Thất Cẩn khác ở đường Huỳnh Thúc Kháng, Sài gòn.
Tôi vào dinh thấy mặt ông Diệm còn hầm hầm. Từ ngày gặp ông lần đầu vào năm 1942 đến nay đã mấy chục năm rồi, đây là lần đầu tiên ông tỏ thái độ giận dữ đối với tôi như vậy. Thường thì mỗi khi vào văn phòng ông, ông chỉ ghế cho tôi ngồi ngay, nhưng hôm nay ông làm thinh nên tôi phải đứng để trình bày công việc. Tôi vừa giơ tay chào xong thì ông Diệm lập lại câu nói trong điện thoại: “Tại sao anh cho tên Việt cộng Tôn Thất Cẩn đấu thầu sân bay Đà Nẵng, anh ăn tiền của nó phải không?” Tôi bèn lật Hồ sơ ra chỉ từng tài liệu cho ông xem lý lịch của Tôn Thất Cẩn. Hồ sơ lý lịch ghi rằng Tôn Thất Cẩn in truyền đơn cho đảng Đại Việt ở Huế năm 1954-1955 mà giá trị chỉ là B-2. Tôi bèn nói:
- Thưa Cụ, Tôn Thất Cẩn không có chứng tích gì là Cộng sản cả, mà chỉ tình nghi là Đại Việt. Hơn nữa, trước khi y thầu được phi trường Đà Nẵng do Mỹ viện trợ, thì cũng đã thầu được việc xây cất trường Võ Bị Đà Lạt 200 triệu rồi. Nay y đã hoàn thành công tác phi trường với giá 360 triệu, chỉ còn lại 40 triệu tiền xây ống cống, hàng rào và một số nhà tôn phụ thuộc...
- Không lẽ hồ sơ của y "trắng" như thế mà tôi lại bác bỏ hay sao.
- Thưa Cụ tôi chỉ xét hồ sơ về mặt an ninh mà thôi chứ cả đời tôi chưa biết nhà thầu Tôn Thất Cẩn là ai.
Tôi nói đến đó, mặt ông Diệm từ từ bớt đỏ, ông dựa người ra sau có vẻ thoải mái rồi nói: “Nhưng anh nên giúp đỡ cho ông Cậu cho đoàn thể để họ có tiền hoạt động”. Tôi liền thưa lại: “Bẩm Cụ đó là bổn phận của tôi nhưng ít ra Cậu cũng phải cho tôi biết khi nào Cậu muốn gì, chỉ cần Cậu biên cho tôi mấy chữ là xong chứ có khó khăn gì đâu”.
Ra khỏi dinh Độc lập tôi vội qua Bộ quốc phòng gặp Bộ trưởng Trần Trung Dung để phân trần hầu chặn đứng trước trường hợp Ngô Đình Cẩn có thể xuyên tạc trong tương lai. Trần Trung Dung khen tôi rồi bảo: "Đại tá cứ ngay thẳng như thế mà làm, có việc gì tôi đỡ cho. Sau này khi về hưu, tôi cũng quên dần những chuyện cũ như chuyện đấu thầu của Tôn Thất Cẩn, hoạ chăng đêm nằm suy tư nghe tiếng chắc lưới của những con thằn lằn rồi nhớ đến Thục, Nhu, Cẩn mà thương cho số kiếp thạch sùng... chết rồi còn tiếc của nên suốt đêm trường canh vắng mà vẫn còn khắc khoải kêu than. Mười năm sau câu chuyện oan khiên của ông Tôn Thất Cẩn tưởng như đã đi vào dĩ vãng không ngờ được khơi động trở lại làm ấm lòng tôi trong một khung cảnh huy hoàng như câu chuyện Liêu Trai.
Vào khoảng năm 1970, một hôm tôi nhận được tấm thiệp của hội đồng Nguyễn Phước Tộc do Bác sĩ Bửu Du (Chủ tịch Hội đồng) gởi mời tham dự lễ kỵ Đức Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn tại Gia định và sau đó dự luôn cơm chiều. Đây là lần đầu tiên tôi được Hội đồng Hoàng tộc mời nên cảm thấy ngỡ ngàng, dù trước kia thời làm tham mưu trưởng Việt Binh đoàn ở Huế, tôi cũng đã có dịp vào cung Diên Thọ dự tiệc do Đức Từ khoản đãi và cũng trong một vài dịp chứng kiến những nghi lễ cúng kỵ cái bậc Tiên vương nơi Thế Miếu, ngày Quốc trưởng Bảo Đại mới về nước chấp chính năm 1940.
Dạo đó, mỗi khi tết đến xuân về, văn võ bá quan nơi cố đô từ vị Thủ hiến trở xuống đều được Đức Từ cho mời vào Cấm thành để bà thết đãi một bữa cơm thân mật đầu xuân gọi là chút ơn mưa móc của bà mẹ Quốc trưởng ban cho những người đang phục vụ dưới chế độ của con bà. Nhưng tôi vẫn cho là hành động của bà Từ Cung là thông lệ xã giao hình thức. Còn nay thì khác hẳn, nay tôi chỉ còn là một người lính già về hưu, tên tuổi đã theo thời gian làm lu mờ trước một xã hội đang sôi động vì hoàn cảnh thế nhân tranh giành danh lợi. Thế mà với tư cách đó, tôi lại được Nguyễn Phước Tộc mời tham dự lễ cúng đấng Tiên vương khai sinh triều đại nhà Nguyễn, thống nhất sơn hà thì ắt phải phát xuất từ một thái độ nhân tình hơn là xã giao. Nghĩ thế nên tôi quyết định đi dự lễ kỵ huý nhật vua Gia Long.
Trụ sở Nguyễn Phước Tộc là một biệt thự vô cùng lộng lẫy, nhà ngang, lầu dọc, vườn rộng sân to, có cây cổ thụ, có hoa bốn mùa, có ao sen hồ cạn, trong nhà trưng bày toàn đồ xưa của quý. Tôi thấy có ngoài rất đông bà con Hoàng tộc còn có nhiều vị quan lại cũ và nhiều nhân vật tên tuổi. Cụ Bửu Du, chủ tịch Hội đồng Nguyễn Phước Tộc dẫn tôi đến giới thiệu với Đức Từ đang ngồi trên chiếu cẩm đôn chung quanh có các bà áo gấm khăn vàng mà một thời đã là những mệnh phụ phu nhân chầu hầu. Đức Từ ngỏ lời cảm ơn tôi về bài báo trên tờ Độc lập mà tôi đã viết để làm sáng tỏ cái công nghiệp của cựu hoàng Bảo Đại đã đứng hợp pháp và vùng đất dựa chân để chiến đấu chống Cộng sản.
Sau buổi lễ cúng theo nghi thức cổ truyền dân tộc, chúng tôi được mời ra sân dự tiệc. Tôi ngồi cùng bàn với vài vị đại thần cũ, với ông Vĩnh Thọ, cựu Đại sứ Việt nam tại Nhật, và với tướng Đôn Thất Đính... Thật là một kỷ niệm lạ lùng khó quên trong đời tôi vì trong ngày lễ lớn này dòng họ Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, dòng họ đã có công mở mang bờ cõi nước Việt nam đến tận Châu Đốc, Hà Tiên, hình như quan khách toàn là người Hoàng Phái, toàn là Hướng, Ung, Bửu, Vĩnh, Tôn Thất mà chỉ có một mình tôi không thuộc Hoàng phái mang cái tên Đỗ dân dã quê mùa con của một vị đồ nho sinh bất phùng thời của vùng sông Linh núi Hoành đồng chua nước mặn.
Trước khi bữa tiệc bắt đầu, một nhân vật mà tôi chưa hề quen biết cầm tay tôi kéo đi giới thiệu với nhiều người “Đây là thiếu tướng Đỗ Mậu, người đã có công lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và là ân nhân của riêng tôi". Thì ra người đó là Tôn Thất Cẩn, nhà thầu khoán tiếng tăm có ngôi biệt thự lộng lẫy tại đây mà Nguyễn Phước Tộc đang mượn tạm làm trụ sở tại Sài gòn sau khi tôn miếu nơi Cố đô vì biến cố Mậu Thân mà hương tàn khói lạnh. Vì bất ngờ không nhớ chuyện cũ nên tôi đã hỏi ông Cẩn vì sao gọi tôi là ân nhân thì được ông giải thích: “Công ty đấu thầu của tôi gồm có các ông Bộ trưởng Trần Trung Dung, linh mục Cao Văn Luận, Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm bị công ty của Ngô Đình Cẩn, Từ Tôn Dung, Lê Trọng Quát ganh ghét phá hoại và định làm hại cá nhân tôi để làm cho tôi sạt nghiệp không ngờ Thiếu tướng vô tư nên cứu chúng tôi thoát nạn". Tôi hỏi thêm tại sao ông ta biết rõ tôi đã cứu thì ông Cẩn cho biết ông Trần Trung Dung nói lại. Tôi tự nghĩ mình "Thì ân bất cần báo", có ai ngờ một chút ân tình, dù đó là một hành xử tự nhiên và tầm thường, nhiều khi cũng có thể làm thay bậc đổi ngôi một đời người hay có thể gây ân oán đổi thay thế sự.
Từ sau bữa cơm tại nhà ông Tôn Thất Cẩn tại Gia định đó hàng năm cứ đến ngày huý nhật Đức Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn tôi lại được tiếp tục mời tham dự. Nhưng từ 1972, những cuộc họp của Nguyễn Phước Tộc được chuyển về ngôi biệt thự một tầng của bà Tử Cung đường Công Lý Sài gòn, ngôi nhà đã bị ông Diệm tịch thu và được ông Thiệu trả lại. Đức Từ đã lấy ngôi biệt thự đó làm trụ sở thường trực tại Sài gòn cho Hội đồng nhà Nguyễn. Nhưng cũng từ năm đó, sau cuộc hội họp chính trị có sự tham dự rất đông của chính giới, nhân sĩ Sài gòn. Năm 1972, tôi còn nhớ có dịp ngồi gần Thi bá á nam Trần Tuấn Khải để được nghe Cụ nói chuyện văn thơ, và với nghị sĩ Phạm Nam Sách để tôi có dịp khen ngợi nhà trí thức trẻ tuổi dám công khai lên án tướng Đỗ Cao Trí tham nhũng tại nghị trường Diên Hồng khi ông còn làm nghị sĩ.
Câu chuyện thứ hai: dưới chế độ Diệm tại vùng A sao, A lưới (Hưng Hoá, Quảng Trị) giáp với biên giới Lào có một căn cứ quân sự do hai tiểu đoàn Bộ binh trấn giữ. Một hôm toàn thể quân nhân từ sĩ quan đến binh sĩ của hai tiểu đoàn đều bị đi chảy ba ngày đêm liền. Tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Tư lệnh Quân đoàn I, bèn cho mở cuộc điều tra thì biết được binh sĩ trúng độc vì thực phẩm. Ông bèn lập một hội đồng quân y sĩ khám nghiệm và và phân chất đồ hộp tiếp tế cho hai tiểu đoàn đó. Lúc bấy giờ chưa có đồ hộp của Mỹ mà chỉ có đồ hộp của Bộ quốc phòng đấu thầu để tiếp tế cho những đơn vị đóng ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Sau khi nhận được biên bản của Hội đồng quân y, tôi tức tốc đến Nha Hành ngân kế Bộ quốc phòng gặp ông Tổng giám đốc Nguyễn Đình Cẩn và trình bày cho ông ta biết tôi sẽ bắt tên Ba Tàu Phú Lâm Anh, chủ thầu cung cấp đồ hộp để điều tra. Nhưng Cẩn khuyên tôi không nên bắt Phú Lâm Anh vì y kinh tài cho Phong trào và đảng Cần lao. Tôi vốn đánh giá thấp Nguyễn Đình Cẩn vì năm 1954, khi y làm việc tại Toà hành chính tỉnh Quảng Trị, y đã không dám ký tên vào bản kiến nghị đệ lên Quốc trưởng Bảo Đại để thỉnh nguyện ngài cử ông Ngô Đình Diệm là Thủ tướng. Thế mà khi ông Diệm có quyền hành rồi, chỉ nhờ cái thế Công giáo và tài bợ đỡ, y lại được nhà Ngô trọng dụng như một bậc công thần. Hơn nữa, thời còn làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận, y đã có nhiều hành động tham nhũng và kỳ thị tôn giáo, làm cho nhân dân Ninh Thuận hết sức căm thù. Vì thế, khi nghe ý đưa “phong trào" và đưa “Cần lao” ra doạ, tôi liền nói: “Phong trào phong trợ, Cần lao cần lơ gì tôi cũng cứ cho bắt tên Phú Lâm Anh". Vốn biết tính tôi cứng rắn, đã từng công khai chống lại Ngô Đình Cẩn nên y bèn đem bà Nhu ra để “rung cây nhát khỉ”, “Đại tá không nên đụng tới Phú Lâm Anh vì y đã chịu cho bà Cố vấn 7 triệu đồng để bà chi tiêu cho Phong trào Liên đới Phụ nữ do đó được cung cấp đồ hộp trong ba năm”. Nghe đến tên bà Nhu tôi lại càng muốn nổi điên: "Bà Nhu bà Nhơ gì tôi cũng không tha Phú Lâm Anh vì tên gian thương đó phạm tội làm cho binh sĩ nơi tiền tuyến bị đau ốm là tôi bắt". Nguyễn Đình Cẩn có vẻ tức bực nhưng không dám nói gì thêm.
Ra về tôi thầm nghĩ rằng vụ này có lẽ không phải của bà Nhu và bà Cố vấn thì phải "ăn” những miếng vừa to vừa béo. Tôi đoán vụ tham nhũng này là của Ngô Đình Thục hay của Ngô Đình Cẩn, những kẻ mà bất kỳ miếng mồi lớn nhỏ nào cũng ăn. Nhưng dù của ai thì tôi vẫn phải làm bổn phận. Trước khi trình bày sự việc lên Tổng thống, tôi cho ba nhân viên vào Chợ Lớn chụp hình cơ sở làm đồ hộp của Phú Lâm Anh, đánh cắp một ít đồ hộp tại chỗ về pha chất, và bí mật dò hỏi một vài công nhân để điều tra về thủ tục mua cá thịt và phương pháp đóng hộp. Sau khi có bằng cớ vi phạm rồi, tôi ra lệnh cho bắt Phú Lâm Anh thì tên gian thương này đã trốn mất. Tôi đến Bộ quốc phòng cho Cẩn biết tự sự. Với một thái độ cao ngạo, Cẩn trả lời: “Đại tá có làm gì thì cũng chẳng đi đến đâu, Phú Lâm Anh đã đi Hồng Kông rồi”...
Cho đến giờ này, tôi cũng không biết ai là thủ phạm chính của vụ đồ hộp bị nhiễm độc. Tòng phạm thì chắc chắn có tên Phú Lâm Anh và Nguyễn Đình Cẩn rồi, nhưng chính phạm thì không biết Ngô Đình Cẩn hay Ngô Đình Thục hay bà Nhu, mặc dù có một số bạn bè đoán quyết Nguyễn Đình Cẩn là thủ phạm dù ai thì cũng quanh quẩn trong dòng họ của bộ hạ Ngô Đình mà thôi. Ngô Đình bên nội hay bên ngoại, bên bà con hay bên thông gia, trong "Phong trào" hay "Đảng” của Cậu, của Cha hay của Bà thì cũng chỉ vì muốn ăn chặn một số tiền mà không thèm đếm xỉa gì đến sinh mạng gần hai ngàn quân nhân đang trong nơi đèo heo hút gió để bảo vệ quốc gia và chế độ?
Câu chuyện thứ ba: Năm 1954, khi ông Diệm mới về nước, Lê Văn Sâm vốn là em rể bác sĩ Lê Khắc Quyền và đang mang cấp bậc đại uý, chỉ huy ngành quân cụ tại miền Trung. Anh em ông Diệm, và đặc biệt là Ngô Đình Cẩn, "thổi" Sâm lên thật mau, thăng lên đại tá, cho vào Sài gòn giữ chức Giám đốc ngành quân cụ Trung ương của quân đội VNCH vào khoảng năm 1957-1958.
Cũng vào khoảng thời gian đó, Bộ trưởng Quốc phòng Trần Trung Dung thiết lập một nhà máy quy mô làm súng trường và lựu đạn tại Cát Lái nên ra lệnh cho Sâm đi Nhật Bản mua 12 cái máy và dụng cụ, giá tiền trên một trăm triệu đồng. Nhưng thiết kế sau mấy năm rồi mà nhà máy chẳng sản xuất được gì, bản báo cáo tình trạng cho biết máy móc thường bị hư, có cái lại hoàn toàn không sử dụng được nữa. Lúc bấy giờ tướng Phạm Xuân Chiểu là tham mưu trưởng quân đội bèn cho gọi Sâm đến văn phòng để chất vấn. Vì là tay chân nhà Ngô, lại có Trần Trung Dung đỡ đầu, Sâm tỏ ra khinh thường tướng Chiểu. Tướng Chiểu bèn ra lệnh cho tôi mở cuộc điều tra. Thì ra Sâm và hãng sản xuất máy làm đạn tại Nhật Bản đã thông đồng với nhau lại sửa một số máy móc phế thải của quân đội Nhật để bán lại cho quân đội VNCH, nhưng trên hoá đơn thì vẫn ghi là máy mới. Số tiền gian lận khác biệt hẳn phải hết sức to lớn. Vì hành động phạm pháp đó của Lê Văn Sâm, tôi còn điều tra thêm được là Sâm đã thông đồng với Trần Trung Dung và Ngô Đình Cẩn để bán cho các nước Đông Nam Á 25.000 khẩu súng cũ của Pháp để lại và số lớn sắt thép vụn để chia nhau. Tướng Chiểu mang hồ sơ lên dinh Độc lập trình bày cho ông Tổng thống Diệm, xin đem đại tá Sâm ra toà về tội tham nhũng. Nhưng kết quả là Sâm chỉ bị thuyên chuyển ra khỏi Nha Quân cụ mà không bị một hình phạt chế tài hoặc một bản án nào cả. Trong khi đó thì vì muốn trừng trị Lê Văn Sâm để trong sạch hoá quân đội, tướng Chiểu bị gièm pha để từ một công thần trở thành một kẻ thù của ông Diệm.
Ngày ông Diệm về nước. Chiểu mang lon trung tá giữ chức Tham mưu trưởng quân khu I (gọi theo danh từ cũ) dưới quyền đại tá Trần Văn Minh, Tư lệnh Quân khu. Minh là người Công giáo miền Nam, mang Pháp tịch, vốn là bạn thân với tướng Nguyễn Văn Hinh và có đầu óc thân Pháp. Thời ông Diệm và tướng Hinh chống đối nhau, Trần Văn Minh tuy bề ngoài giữ thái độ trung lập, nhưng bên trong vẫn không có cảm tình với ông Diệm. Chính nhờ địa vị Tham mưu trưởng Quân khu I mà Chiểu đã giúp tướng Dương Văn Minh điều động quân đội tấn công dẹp tan quân Bình Xuyên sau này. Lúc bấy giờ vì anh em ông Diệm mới cầm quyền còn lo tứ bề thọ định, lại bỡ ngỡ trong việc lãnh đạo quốc gia, và nhất là lạ lùng trước tổ chức quân đội nên khi được những người thành tâm ủng hộ như Phạm Xuân Chiểu thì anh em ông Diệm quý mến lắm, do đó đã xem Chiểu như một khai quốc công thần. Tháng 12 năm 1956, ông Diệm đã không ngần ngại cử Chiểu giữ chức Tổng giám đốc Công an Cảnh sát thay thế tướng Nguyễn Ngọc Lễ. Nhưng rồi vì quân đội vẫn là xương sống của chế độ, mà anh em ông Diệm và người Mỹ lại muốn cải tổ quân đội gấp cho nên tháng 4 năm!958, ông Diệm thăng Chiểu lên cấp Thiếu tướng, cử giữ chức Tham mưu trưởng dưới quyền tướng Lê Văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng quân đội. Vốn được tiếng là một sĩ quan có tinh thần quốc gia chân chính, Chiểu không những liêm khiết mà có thành tích cách mạng, nên việc hiện đại hoá và trong sạch hoá quân đội thật là đúng với môi trường của ông ta. Hàng tuần, có khi hàng ngày, Chiểu gặp ông Diệm để trình bày công việc, sự tiến triển trong việc cải tổ quân đội, đồng thời để báo cáo tình hình chiến sự và diễn tiến các cuộc hành quân. Liên hệ giữa ông Diệm và tướng Chiểu đang cởi mở và thân tình như thế thì xảy ra vụ tham nhũng của Lê Văn Sâm mà Chiểu nhất định muốn ông Tổng thống trừng trị Sâm để làm gương cho binh sĩ. Không ngờ kể từ ngày đó hễ gặp Chiểu là ông Diệm cau có, khiển trách đến độ gán cho Chiểu là bất lực rồi cắt chức Tham mưu trưởng, bắt Chiểu "ngồi chơi xơi nước" và đem tướng Nguyễn Khánh người mà Chiểu cho là tay gian hùng về thay thế ông ta. Thấy ông Diệm bất công, bất minh bênh vực người nhà Chiểu và cộng sự viên thân tín của ông là thiếu tá Đoàn Bôi Trân tham dự vào cuộc đảo chính của Nhảy dù năm 1960 và đã cùng các tướng lĩnh đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào đầu tháng 11 năm 1963.
Anh em ông Diệm lợi dụng quyền hành trong tay, sử dụng những phương pháp vô luân và phi pháp để làm giàu riêng, để làm băng hoại xã hội, để đầu độc tinh thần và thể xác nhân dân, đẩy nhân dân chạy theo Cộng sản mà chính giữa anh em nhà Ngô lại sát phạt nhau vì giành giựt quyền hành, vì ganh tị lợi lộc, cho nên nữ tiến sĩ Francis Fitzgerald mới lên án nặng nề tham nhũng của anh em ông Diệm như sau: "Chẳng những anh em Nhu-Cẩn canh chừng nguồn lợi của nhau, thù hận nhau mà những tay sai anh em họ cũng sát hại nhau vì quá hăng say, trung thành với chủ".
Anh em, bà con ông Diệm tham nhũng, thối nát, hủ hoá như vậy, còn ông Diệm thì như thế nào? Suốt chín năm làm nguyên thủ quốc gia, ông Diệm bị dư luận lên án là tham nhũng, nhưng những người tay chân thân tín của ông ta như Võ Văn Hải, như các sĩ quan tuỳ viên của tôi chẳng hạn, đều biết ông Diệm tuy không tham nhũng nhưng lại cố tình che giấu nâng đỡ cho bà con anh em ông ta tham nhũng như Đỗ Thọ và các ký giả quốc tế đã trình bày.
Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, ngày 2 tháng 11 năm 1963, cháu tôi là thiếu tá Nguyễn Bá Liên, Tư lệnh Lữ đoàn Thuỷ quân lục chiến, người chỉ huy tấn công dinh Gia Long đã trình cho tôi một xấp ảnh tục tĩu liên hệ đến những nhân viên điều tra của Liên hiệp quốc trong vụ Phật giáo trên bàn giấy của Ngô Đình Nhu, một cuốn hồi ký của Ngô Đình Lệ Thuỷ trong phòng bà Nhu (mà tôi trao lại cho báo Sống của Chu Tử đăng tải), và một cuốn nhật ký chi tiêu tiền bạc của ông Diệm trong phòng Võ Văn Hải.
Qua cuốn nhật ký chi tiêu tiền bạc của ông Diệm do Võ Văn Hải nắm giữ, tôi được biết ông Diệm có mỗi năm 98 triệu tiền mật phí chính trị. So sánh mật phí chính trị của Nguyễn Văn Thiệu vào năm 1974 là 450 triệu đồng thì số tiền của ông Diệm (1963) vẫn hơn rất nhiều mặc dù tình hình chính trị và chiến tranh thời Thiệu nặng nề, phức tạp hơn thời Diệm, và mặc dù giá đô la cho đến cuối thời Diệm chỉ có 100 đồng bạc Việt nam trong lúc thời Thiệu giá đến gần 1000 đồng. Cuốn nhật ký cho thấy mỗi tháng ông Diệm xuất ra một triệu đồng cho Ngô Đình Nhu, mười ngàn đồng cho cựu đại tá Pháp ở Paris là ông Mingant (Mật báo viên của ông Diệm tại Pháp), năm ngàn đồng cho một người có tên là Phan Công Chánh, một chiến hữu cũ của ông Diệm trước 1945 mà ông Võ Như Nguyện biết rõ, một số tiền lớn khác cho một linh mục người Canada để chuyển ngân ra nước ngoài và những món chi tiêu lặt vặt như mua máy hình phim ảnh, thuốc Tây, những món tiền biếu xén trong các cuộc đi kinh lý. Đặc biệt trong nhật ký chi tiêu năm 1963 có số tiền nửa triệu, xuất ra cho ông Tôn Thất Thiết, giám đốc sở Nội Dịch Phủ Tổng thống để trang hoàng thiết trí khách sạn Hương Giang tại Huế nằm ở đầu cầu Đập Đá mà Ngô Đình Cẩn đã mua cho ông Diệm. Ngoài số tiền mật phí chính trị hàng năm là 98 triệu đồng và khách sạn Hương Giang, tài sản của ông Diệm còn có mấy mẫu đất ở Gia định mà ông đặt tên là "Phượng Hoàng" do tỉnh trưởng Nguyễn Đức Xích (người Công giáo Cần lao) trông nom trồng trọt. Ngoài ra hàng năm ông Diệm còn nhận được một số lợi tức do hãng tôm Long Hải cung cấp. Hãng tôm Long Hải ngày do Nguyễn Văn Bửu, một người bà con của ông ở Phú Cam làm quản lý.
Những tài sản của ông Thục, Nhu, Cẩn và của ông Diệm mà tôi trình bày như trên đây chỉ là tài sản do chính tôi khám phá hoặc do "Uỷ ban điều tra tài sản nhà Ngô" sau cách mạng 1-11-1963 tìm tòi hoặc do những tài liệu lịch sử nêu lên; nhưng những của chìm của nổi khác như bất động sản, các cổ phần, các chương mục... của họ thì không thể biết hết được.
Trong vị trí của một Tổng thống, nếu tài sản chỉ có bấy nhiêu thôi thì ông Diệm cũng có thể khỏi bị liệt vào loại hạng tham nhũng. Nhưng điều đáng tiếc và đáng trách là ông Diệm lại thường cho mình là môn đồ Khổng Mạnh, là con chiên ngoan đạo, là người có dĩ vãng làm quan liêm chính, là người thường nhắc nhở hai chữ "Thành, Tín" làm phương châm chỉ đạo, lại mang lá cờ gấm vóc thêu bốn chữ "Tiết-trực Tâm-hư" thế mà lại bị hấp lực và nhất là dung túng, nâng đỡ cho anh em bà con lộng hành tham nhũng vô độ? Đáng tiếc và đáng trách vì ông Diệm đã không noi gương kim cổ, đã không bắt chước phong thái những vị nguyên thủ đồng thời với ông ta, những nhân vật đã làm cho thế giới khâm phục như thủ tướng Mac Millan nước Anh, Thủ tướng U Nu nước Miến Điện chẳng hạn.


                             1      2      3     4     5     6     7     8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét