Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CỦA LOẠN TƯỚNG ĐỖ MẬU: VIỆT NAM MÁU LỬA QUÊ HƯƠNG TÔI - KỲ 7

1      2      3     4     5     6     7     8
Chương 17
Đảo chính 1-11-1963
Tôi có hai người cháu mà tôi thương mến đặc biệt: Đỗ Thọ gọi tôi bằng chú, là đại uý không quân trong Phi đoàn I vận tải và sau này trở thành một trong bốn sĩ quan tuỳ viên của Tổng thống Diệm. Thọ trầm tĩnh ít nói, tính tình cứng rắn và thuỷ chung. Binh chủng không quân có đem lại cho Thọ một ít chất lãng mạn nhưng cũng đủ chừng mực để làm cho Thọ bớt khắc khổ mà thôi. Thọ không quan tám nhiều đến tình hình đất nước nhưng lại rất nặng tình gia tộc.
Năm 1963, Thọ theo ông Diệm trốn khỏi dinh Gia Long đến nhà thờ Cha Tam. Sau Cách mạng 1963, Thọ trở về Phi đoàn cũ, và trong một chuyến bay đón Thủ tướng Khánh tại Đà Nẵng, Thọ bị tử nạn trên Không phận Quảng Nam. Năm đó Thọ 29 tuổi và để lại cho đời tác phẩm “Nhật ký Đỗ Thọ” do người em sưu tầm và xuất bản.


Người cháu thứ nhì là Nguyễn Bá Liên, gọi tôi bằng dượng, là thiếu tá Tư lệnh Phó Thuỷ quân lục chiến, chỉ huy Tiểu đoàn I và II hành quân diệt địch khắp chiến trường miền Nam. Liên vốn có truyền thống cách mạng trong gia đình, lại mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ nên có tính tự lập, cương cường và khí phách. Năm 1963, Liên là sĩ quan cầm quân tiến đánh dinh Gia Long dưới sự chỉ huy của đại tá Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966, Liên được đổi lên Kontum làm Tư lệnh Biệt khu 24, một trong những nút chặn nguy hiểm nhất của đường mòn Hồ Chí Minh, và tử nạn (1969) trong một cuộc hành quân khốc liệt tại Tân Cảnh trong vùng núi Trường Sơn gần Bến Hét. Năm đó Liên 38 tuổi và để loại cho đời tác phẩm “Việt nam, Việt nam ơi”, với bút hiệu Trường Giang..
Hai người cháu đặc biệt đó có hai cuộc đời cũng đặc biệt, tuy dối nghịch nhau trong ngày lịch sử 1-11-1963 nhưng lại gặp nhau trong hành động lấy sinh mạng trả nợ non sông. Hai người cháu đó đứng hai chiến tuyến khác nhau trong ngày lịch sử 1-11-1963 đều lấy sự thuỷ chung làm tiêu chuẩn chọn lựa: Thọ thì thuỷ chung với ông Diệm, Liên thì thuỷ chung với đất nước.
Chương này tôi viết trong nỗi niềm nhớ tiếc về hai đứa cháu thân thương đó mà những hành xử trong ngày 1-11-1963 chỉ làm cho cả Thọ lẫn Liên trở thành những hình ảnh hùng tráng và thắm thiết trong gia tộc chúng tôi. Hình ảnh đó cũng tượng trưng cho tâm trạng tôi trong cuộc Cách mạng l-11-1963: Thọ là tình người, Liên là tình nước.
Cuộc cách mạng 1-11-1963 đã được nhiều sách vở, tài liệu đề cập đến đầy đủ. Từ những vận động đến tiến trình thành hình của nó, từ những lực lượng tham dự đến kế hoạch phát động của nó. Trong chương này, tôi chỉ xin đề cập đến những sự kiện và suy tư về những hoạt động mà tôi đã trực tiếp đóng góp, hoặc những biến cố tôi biết rõ trong ngày cách mạng đó mà thôi.
Vào giữa tháng 7 năm 1963, mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm đã tận dụng mọi thủ đoạn để đàn áp các cuộc biểu tình chống đối chính phủ và đặc biệt trao quyền cho Toà án quân sự để đem ra xét xử những can phạm quân sự và dân sự trong biến cố Nhảy dù với mục đích cảnh cáo, hăm doạ phong trào đấu tranh, nhưng phong trào chống đối mỗi ngày một sôi động hơn. Các cuộc biểu tình đấu tranh của Phật giáo đã có sự tham dự đông đảo của hàng ngũ sinh viên đại học, học sinh trung học tham dự và cả các em nhỏ các trường tiểu học nữa, đến nỗi học giả Douglas Pi ke, trong cuốn Viet Cong đã mô tả những ngày hè 1963 này bằng hình ảnh của một "Thủ đô Sài gòn đang bốc lửa”. Để đối phó với tình hình sôi động đó, chính phủ Diệm đem thêm hai tiểu đoàn Dù và hai tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến về Sài gòn tăng cường cho các đơn vị Bộ binh và Cảnh sát dã chiến để đàn áp các cuộc xuống đường. Hai tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến này do thiếu tá Nguyễn Bá Liên chỉ huy vì Liên đang là Tư lệnh phó cho trung tá Lê Nguyên Khang. Bộ chỉ huy của Liên đóng tại Văn phòng Viện Đại học Sài gòn ở góc đường Duy Tân và Trần Quý Cáp.
Một hôm vào cuối tháng Bảy, tôi đến Bộ chỉ huy của Liên và kéo Liên ra vườn để tìm hiểu thêm về tinh thần binh sĩ trước hiện tình đất nước thì được Liên cho biết binh sĩ rất hoang mang và nhiều lúc công khai tỏ thái độ bất mãn với chế độ. Liên nói rằng chẳng những binh sĩ đã không chịu đàn áp biểu tình mà họ còn tỏ ra thân thiện cởi mở với sinh viên học sinh như để bày tỏ thái độ đồng tình. Liên giải thích: "Làm sao binh sĩ có thể đàn áp được khi những kẻ biểu tình là bà con, anh em với họ. Làm sao họ có thể xuống tay với những em nhỏ mới mười mấy tuổi". Riêng Liên thì "... Dù Cháu theo đạo Tin Lành, cháu không phải là Phật tử, nhưng hành động kỳ thị, đàn áp tôn giáo của anh em ông Diệm thật là bất công và tàn bạo? Mỗi lần cháu đi nhà thờ gặp các vị mục sư, các tín đồ, ai ai cũng chê trách chính sách về tôn giáo của ông Diệm".
Thuỷ quân lục chiến là một binh chủng thiện chiến, thường đi hành quân khắp các chiến trường và biết rõ tình hình an ninh suy thoái tại nông thôn nên Liên tỏ ra rất lo âu.
Sau khi nghe Liên trình bày, tôi bèn hỏi: "Cháu có nghĩ rằng với tình hình này, liệu quân đội có thể đi đến một cuộc binh biến lật đổ chế độ Diệm không?”. Liên suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Cháu nghĩ có thể lắm vì chính trong Lữ đoàn của cháu, ngoại trừ đại uý Bằng có đạo Công giáo tỏ ý vui mừng đồng ý với các cuộc đàn áp Phật giáo, còn các Tiểu đoàn trưởng khác, ai cũng tỏ thái độ bất mãn căm thù chế độ Diệm. Chính nhóm của cháu như bác sĩ đại uý Nguyễn Phúc Quế, đại uý Trần Văn Nhật (tướng Nhật, hiện nay ở Orange Country, Cal.), như đại uý Lê Hoàng Minh (em của tướng Lê Quý Đảo mà trong phương trình "Vietnam, a television history", của đài PBS, tướng Đảo đã lên án nặng nề chế độ Diệm) và rất nhiều sĩ quan khác đã bàn đến cuộc đảo chính lật đổ chế độ Diệm mà người hăng nhất là bác sĩ Quế. Quế đỗ bác sĩ Y khoa tại Pháp, nhưng là một trí thức có tinh thần chống Cộng sâu sắc, Quế lại đặt niềm tin vào ông Diệm nên người Công giáo nhưng Quế thấm nhuần tinh thần dân tộc và tư tưởng dân chủ nên Quế không thể chịu đựng nổi một chế độ phong kiến, độc tài thối nát như chế độ Diệm. Vì vậy anh tỏ ra vô cùng bất mãn và chán ghét chế độ. Quế nói rằng: “Trước kia, năm 1960, Nhảy dù thất bại vì chưa vận động được cả thời lẫn thế, nay là cơ hội tốt đẹp cho TQLC vùng lên tiếp nối sứ mạng lịch sử đập tan chế độ nhà Ngô.
Linh mục Lê Quang Oánh và Thích Tâm Châu cười hả hê khi nghe tin  TT Ngô Đình Diệm đã bị ám sát
Tôi lại hỏi thêm để hiểu quan điểm của Liên: "... Dượng theo ông Diệm đã 20 năm trời, nay nếu đứng lên phế bỏ ông ta thì có mang tiếng là người thiếu thuỷ chung không?". Liên lại suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Ba cháu từng là chiến hữu của ông Diệm, đã hoạt động cho ông ta, còn dượng thì hy sinh cho ông ta gần nửa đời người, và cháu tuy còn trẻ nhưng cũng đã từng kéo quân về Sài gòn cứu nguy ông ta trong biến cố Nhảy dù, vậy thì chính ông mắc nợ gia đình mình chứ mình có mang ân nghĩa gì của ông ta đâu? Huống gì đối với quốc gia dân tộc thì mình không thể vì tình riêng mà bỏ nghĩa chung được”. Liên còn đem cái nghĩa lý “Sát nhất miêu cứu vạn thử" (giết một con mèo cứu vạn con chuột) để thuyết phục tôi.
Tuy vậy, lúc bấy giờ tôi cũng chưa có ý muốn lật đổ chế độ, vì như vậy là lật luôn cả ông Diệm, mà chủ yếu tôi chỉ muốn triệt hạ vợ chồng Ngô Đình Nhu mà thôi. Tôi nói với Liên: "Dù sao dượng cũng muốn giữ với ông Diệm một chút tình cố cựu, vả lại ông Diệm chỉ vì nghe lời anh em mà mang tội cho nên dượng chỉ muốn triệt hạ Ngô Đình Nhu thì chắc ông Diệm sẽ cảnh tỉnh ngay. Cháu suy nghĩ, phác hoạ một vài kế hoạch đi rồi cho dượng biết sau”.
Chỉ độ mấy ngày sau, Liên đến gặp tôi tại nhà riêng và cho biết tổ chức của Liên có thể hạ sát Ngô Đình Nhu dễ dàng: "Cháu sẽ dẫn một số sĩ quan mặc lễ phục trắng, giấu súng trong mình và nói rằng đại diện đơn vị TQLC xin yết kiến ông Cố vấn để tặng một kỷ vật mừng ông đã lãnh đạo thành công trong quốc sách ấp chiến lược, trong lúc đó bên ngoài hai tiểu đoàn của cháu đang hoạt động tại quận Nhất sẽ sẵn sàng tiếp ứng. Khi vào được phòng đợi của ông Nhu, nhóm cháu sẽ tông cửa vào văn phòng ông ta rồi hạ sát ông ta ngay. Trong kế hoạch này chỉ cần dượng thuyết phục được Đỗ Thọ ra tận cổng dinh Gia Long đón cháu vào là không ai nghi ngờ gì cả".
Vốn ra vào dinh Gia Long luôn và tuy không chịu trách nhiệm vấn đề an ninh của Dinh nhưng tôi cũng hiểu rõ việc canh phòng và sinh hoạt của nhân viên trong phủ Tổng thống nên tôi thấy kế hoạch ám sát Ngô Đình Nhu của cháu tôi có thể thực hiện được. Tuy nhiên, kế hoạch này phải dựa vào Đỗ Thọ mà Thọ chỉ quân nhân thuần tuý, không có ý thức chính trị, lại phục Ngô Đình Nhu và thương ông Diệm, do đó có thể Thọ sẽ không nghe lời tôi. Tôi bèn bác bỏ kế hoạch này của Liên và cho Liên biết kế hoạch của tôi: Hạ sách là kéo một số đơn vị mà chủ lực là TQLC lên vùng gần Tây Ninh lập chiến khu đòi hỏi ông Diệm phải đưa vợ chồng Nhu ra nước ngoài, trả tự do cho tất cả tù chính trị quốc gia, thoả mãn năm nguyện vọng của Phật giáo mở rộng chính phủ, thực hiện đoàn kết với các tôn giáo, đảng phái để chống Cộng. Tôi nghĩ rằng, trước bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, nếu có một tập hợp chính trị gồm đảng phái, tôn giáo, quân đội kéo quân đi lập chiến khu thì sẽ có nhiều đơn vị quân đội hưởng ứng và ông Diệm sẽ nhượng bộ để thực hiện những đòi hỏi đó. Thượng sách là tổ chức một cuộc chính biến lật đổ chế độ Diệm do tôi lãnh đạo để có khả năng giữ ông Diệm lại làm Tổng thống. Lúc bấy giờ tâm hồn tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi hành động của Võ Văn Hải trong biến cố đảo chính của Nhảy dù năm 1960. Với vóc dáng thư sinh, với tấm lòng trung nghĩa, Hải đã dám xông pha vào vòng lửa đạn, gặp lãnh tụ đảo chính là trung tá Vương Văn Đông để xin tha mạng cho ông Diệm, và xin cho ông ta tạm thời giữ chức Tổng thống vô quyền.
Với hai kế hoạch đó, một mặt tôi bảo Liên về tổ chức Lữ đoàn TQLC thật chặt chẽ để làm chủ lực quân, và móc nối với các sĩ quan thuộc các binh chủng khác. Một mặt đính tôi đích thân xây dựng tổ chức cho một cuộc chính biến do tôi chủ trương. Tôi bắt đầu tổ chức người nhà mà trước hết là em họ tôi, đại uý Đỗ Như Luận, đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy truyền tin. Luận có người bạn thân là đại uý Lê Phước sang (Chánh văn phòng của tướng Nguyễn Giác Ngộ) có nhiệm vụ tác động các sĩ quan gốc Phật giáo Hoà Hảo, vốn rất căm thù chế độ Diệm, và có nhiệm vụ vận động trong giới dân sự mà Luận và Sang quen biết khá nhiều. Luận lại được Thượng toạ Tâm Châu thương mến tín nhiệm, được Thượng toạ chỉ giáo cho phần chính trị và nhân sự để tiến hành ông tác tổ chức và xây dựng hậu thuẫn quần chúng. Luận và Sang đã tổ chức được nhóm các ông Phan Huy Quát và Trần Thanh Hiệp, nhóm Việt Quốc của luật sư Nguyễn Tường Bá, và lôi kéo luôn được cả ông Trần Quốc Bửu, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao công. Trần Quốc Bửu vốn là bạn thân và đồng chí của Ngô Đình Nhu nhưng lại liên hệ chặt chẽ với các giới Mỹ. Đã từ lâu, tuy bề ngoài Trần Quốc Bửu có vẻ trung thành với anh em ông Diệm nhưng trong thâm tâm ông ta đã chán nản bứt rứt vì biết Ngô Đình Nhu đang chống Mỹ để hòng bắt tay với Hà Nội. Có lẽ Trần Quốc Bửu suy luận rằng chế độ Diệm không thể nào tồn tại được nữa cho nên ông ta sẵn sàng tham dự vào bất kỳ nhóm đảo chính nào để có thể rửa được cái “vết nhơ Cần lao” của ông ta. Vì thế, khi Luận và Sang bắt liên lạc thì ông ta nhận lời ngay. Tiếng rằng sau này, khi cách mạng thành công, tướng Mai Hữu Xuân lại bắt giam ông ta vào khám Chí Hoà đến nỗi Đại sứ Cabot Lodge phải nhiều lần can thiệp tướng Dương Văn Minh mới chịu trả tự do. Do đó sau này ông Bửu đã coi tướng Minh như kẻ thù và trở nên cố vấn đắc lực cho Nguyễn Văn Thiệu trong những vận động ngoại giao với lực lượng thợ thuyền Hoa kỳ. (Các ông Nguyễn Tường Bá, Trần Thanh Hiệp, Lê Phước Sang hiện nay đều có mặt tại hải ngoại). Một người cháu rể khác của tôi là đại uý Chu Văn Trung, Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn I truyền tin đóng cạnh Bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung có nhiệm vụ nguy hiểm là cô lập nhóm Lê Quang Tung khi hữu sự. Chu Văn Trung là người Bắc, đệ tử của Thượng toạ Tâm Châu nên nhờ Thượng toạ mà lôi kéo được rất đông sĩ quan Phật tử (người Bắc) tham gia công cuộc chung. Một người cháu khác nữa cửa tôi là Phạm Văn Lương, với bạn là Nguyễn Văn Cơ (Bác sĩ Cơ hiện ở Orange Country), là sinh viên Quân Y năm thứ 6, có nhiệm vụ cướp chính quyền trường Quân Y do bác sĩ trung tá Hoàng Văn Đức (Công giáo) chỉ huy, và liên lạc với các tổ chức sinh viên khác để vận động sinh viên đại học xuống đường, tạo một cuộc nổi dậy tại Đô thành hậu thuẫn cho hành động của nhóm quân sự. May mắn cho chúng tôi, Lương có người anh rể là đại uý Hồ Tiêu đang chỉ huy một tiểu đoàn Dù. Cũng như Lương, Hồ Tiêu là người Quảng Trị cùng quê với Hoà thượng Trí Thủ, Thượng toạ Thích Thiện Minh... nghe nói đến lật đổ chế độ, Tiêu rất mừng hăng hái tham gia ngay. Nhờ Tiêu, chúng tôi có thêm một tiểu đoàn thiện chiến làm chủ lực. Trung đoàn Thiết giáp ở Gò Vấp là đơn vị hùng hậu do thiếu tá Thẩm Nghĩa Bôi chỉ huy, từng cứu ông Diệm thời Nhảy dù đảo chính, chúng tôi cũng tổ chức được một số sĩ quan trẻ để khi hữu sự có thể cô lập được Thẩm Nghĩa Bôi và vô hiệu hoá Trung đoàn. Trong binh chủng không quân chúng tôi có trung tá Đỗ Khắc Mai (hiện ở Pháp) và nhóm cộng sự viên của Mai. Tuy Mai đã từng ở trong Phong trào Cách mạng quốc gia và đảng Cần lao nhân vị do tôi tổ chức, nhưng vì là người tâm huyết thuộc một gia đình có tinh thần chống Cộng rất cao, nên khi dần dần thấy anh em ông Diệm tham nhũng thối nát mà lại bất tài bất lực trong việc chống Cộng đến nỗi người bạn thân là đại tá Nguyễn Xuân Vinh phải bỏ chức Tư lệnh không quân ra đi, thì Mai trở thành bất mãn và chống chế độ. Ngoài các lực lượng Quân đội và dân sự ở Sài gòn, tôi còn tổ chức được đại tá Đặng Văn Sơn và thiếu tá Trần Văn Hai ở Khánh Hoà. Sơn chỉ huy trường Hạ sĩ quan Nha Trang, lại là một Phật tử thuần thành, bạn thân của tôi lâu năm. Sơn từng ủng hộ ông Diệm thời gặp khó khăn trong giai đoạn làm Thủ tướng, Sơn đã từng ở trong đảng Cần lao, nhưng cũng như mọi người tâm huyết mang tâm trạng bất mãn với nhóm "Cần lao công giáo", lại thấy anh em ông Diệm trắng trợn đàn áp Phật giáo nên khi tôi ngỏ lời, Đặng Văn Sơn hăng hái nhận lời ngay. Thiếu tá Trần Văn Hai, chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Biệt động quân ở Dục Mỹ (Ninh Hoà) là một đảng viên Đại Việt, thời 1955-1956 bị nhóm Cần lao công giáo dân sự vu cáo nên bị bắt giam nhưng lại được tôi tái xét và bạch hoá hồ sơ nên từ đó Hai coi tôi như một ân nhân, một người anh, do đó, khi tôi cho người liên lạc móc nối, Hai đồng ý ngay. Là người can trường và tâm huyết, Hai hứa với tôi sẽ hy sinh đến kỳ cùng để đập tan chế độ Diệm. Trường Hạ sĩ quan Nha Trang và Trung tâm huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ có đến 5, 6 ngàn binh sĩ thiện chiến, cho nên lực lượng hùng hậu này được tôi giao cho nhiệm vụ chiếm Nha Trang để khi tôi kéo quân đi lập chiến khu hay khi có chính biến tại Sài gòn sẽ nối lên làm thế ỷ dốc. Nha Trang và Khánh Hoà là quê hương của Phật giáo cho nên dân chúng địa phương trở thành hậu thuẫn nhân dân vững chắc cho những lực lượng cách mạng sau này.
Trong lúc tiến hành tổ chức cuộc binh biến, tôi không ngờ có nhiều nhóm sĩ quan khác cũng tiến hành những nỗ lực nhằm vận động lật đổ chế độ, mà hầu hết là người thân tín của ông Diệm. Có ba nhóm lần lượt đến vận động tôi vào tể chức của họ. Trước hết là nhóm của tướng Nguyễn Ngọc Lễ và đại tá Nguyễn Văn Chuẩn (tướng Chuẩn hiện ở Hoa kỳ). Thứ hai là nhóm của đại tá Nguyễn Phương người Huế, cựu Chỉ huy trưởng binh chủng truyền tin, và thứ ba là nhóm của tướng Lê Văn Nghiêm và đại uý Nguyễn Bé. Sở dĩ những sĩ quan này dám vận động tôi vào tổ chức đảo chính của họ vì họ toàn là bạn thân của tôi nên biết rõ quan điểm chính trị và tâm trạng của tôi đối với anh em ông Diệm, nhất là đối với vợ chồng Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Tuy nhiên dù biết họ tin tôi, và dù tôi không nghi ngờ quyết tâm của họ, nhưng vì làm công việc lật đổ chế độ là một việc làm nguy hiểm có thể đưa đến cái chết vô ích nếu bị Ngô Đình Nhu và nhóm Cần lao phát hiện nên tôi đã phải rất cẩn mật. Do đó, dù các tổ chức trên đã đến liên tục thúc giục, tôi chỉ trả lời một cách lưng chừng mà không chính thức nhận lời.
Ngoài các nhóm mà tôi tạm gọi là các Tổ chức miền Trung nói trên còn có đảng Đại Việt mà đại diện là thiếu tá Huỳnh Văn Tồn. Sở dĩ tôi khám phá ra được hoạt động của Huỳnh Văn Tồn là nhờ một tờ thông báo của Trung tướng Thái Quang Hoàng. Nguyên Tồn là huấn luyện viên trường Đại học quân sự Đà lạt, nhưng Tồn lại bỏ trường đi gần hai tuần lễ không về đến nỗi tướng Hoàng phải thông báo nhờ An ninh quân đội lùng bắt. Tôi cho nhân viên dò xét và theo dõi nên biết được Tôn về Sài gòn liên lạc với các đồng chí quân sự và dân sự trong đảng để tổ chức đảo chính. Đặc biệt, Tồn liên lạc với cả tướng Dương Văn Minh. Cũng trong nhóm của Tôn từ Đà Lạt về còn có thiếu tá Thuỷ quân lục chiến Cổ Tấn Tinh Châu; Châu về miền Tây tổ chức các đảng viên Đại Việt, và trưa ngày 1-11-63 trở lại Thị Nghè điều động một đơn vị Thuỷ quân lục chiến đến tấn công dinh Gia Long.
Trong lúc đó thì Ty An ninh quân đội tại Đà Lạt cũng báo cáo cho tôi biết nhiều "hoạt động lạ lùng" của trung tá Trần Ngọc Huyền, Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt (hiện ở Mỹ). Lúc đầu tôi không tin Huyền âm mưa đảo chính ông Diệm vì Huyền là người Công giáo lại là em của cựu Bộ trưởng Trần Ngọc Liên, một tay chân đắc lực của ông Diệm và ông Nhu. Huyền lại được ông Diệm nâng đỡ tín nhiệm giao cho chức Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt, một địa vị mang nhiều vinh dự cho bất kỳ ai được hân hạnh chỉ huy ngôi trường đào tạo nhân tài tương lai cho quân đội.
Cho đến trung tuần tháng 8, tôi biết được vào khoảng 7, 8 tổ chức đang tiến hành những vận động để lật đổ chế độ. Hầu hết các tổ chức đó đều do thành phần quân nhân chủ xướng với sự hợp tác của một số lực lượng đảng phái, hoặc với sự yểm trợ của một số khuôn mặt chính trị hay tôn giáo. Sự kiện có quá nhiều tổ chức đã không làm tôi ngạc nhiên vì dưới chế độ bạo quản của ông Diệm, và với hệ thống mật vụ Cần lao của Nhu, chỉ quân đội mới đủ khả năng và quyết tâm để tiến hành những công tác nguy hiểm và đòi hỏi một kỹ thuật tổ chức tinh vi. Và cũng vì thế mà dù hệ thống mật vụ của Nhu có phát giác một vài tin tức nhưng chính Nhu cũng không biết ai lãnh đạo và thực lực như thế nào.
Ngoài ra, quân đội, mà cả hai ông Nhu và Diệm đều chủ quan tưởng rằng đã được Quân uỷ đảng Cần lao kiểm soát chặt chẽ, thật ra lại là trung tâm sôi động nhất của mọi mầm mống bất mãn và chống đối. Phật giáo bị đàn áp còn biểu tình phản kháng, đảng phái quốc gia bị đàn áp còn tuyên ngôn chống đối, riêng quân đội thì hành xử như một chiến sĩ, nghĩa là khi bị khống chế khinh miệt thì sẽ phản ứng một cách quyết liệt và dữ dội mà điển hành là cuộc binh biến lẫm liệt 11-11-60 của binh chủng Nhảy dù và những trái bom nổ lửa ngày 27-2-1961 của hai phi công Quốc và Cử.
Đêm 20-8-1963, đêm định mệnh mà vợ chồng Nhu tấn công chùa chiền, tình cờ một người bạn thân của tôi là đại tá Phùng Ngọc Trưng đến chơi và ngủ lại nhà tôi Trưng vừa mới bị Ngô Đình Cẩn cất chức Giám đốc Quân nhu Quân khu I và được tôi kéo vào Sài gòn giữ chức Chánh sở Hành chính Tiếp Vận cho Nha An ninh quân đội. Đêm ấy hai anh em tôi đang ngồi nói chuyện thì bỗng vào khoảng một giờ sáng, thiếu tá Nguyễn Thành Long, Chánh sở An ninh quân đội Sài gòn - Gia định, gọi điện thoại khẩn cấp báo cho tôi biết Cảnh sát dã chiến và Lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung đang tấn công chùa Xá Lợi (trung tâm chỉ huy lực lượng Phật giáo đấu tranh), chùa Ấn Quang và chùa Theravađa. Theo Long thì chính bà Nhu mặc quân phục TQLC, đi xe Mercedes đến trước cổng chùa Xá Lợi để chỉ huy cuộc tấn công chùa này. Và chính nhân viên của Long thấy bà ta la hét, chỉ trỏ ra lệnh cho lực lượng tấn công. Tôi bèn bảo Long cứ tiếp tục theo dõi biến cố và ngày mai sẽ làm tờ trình cho tôi, rồi tôi lại ra trước sân nhà tiếp tục nói chuyện với đại tá Trưng cho đến sáng.
Ngôi nhà mà quân đội cấp cho tôi ở là một biệt thự trong cư xá Hải quân, kiến trúc theo kiểu Pháp thời thuộc địa, nằm cuối đường Gia Long gần chủng viện Saint-Paul yên tĩnh. Đường Gia Long có hai hàng me xanh lá chụm đầu vào nhau xào xạc, đêm đó như san sẻ câu chuyện tâm sự của hai anh em chúng tôi đang bàn tán về chế độ Diệm và biến cố tấn công chùa chiền. Là một chứng nhân sống, là một nạn nhân trực tiếp, Trưng đã kể hết và kể rõ tất cả tội ác của Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn và tập đoàn Cần lao công giáo tại Huế và miền Trung. Với giọng nói bi thiết của một người đã hy sinh tất cả để rồi bị phản bội độc ác, Trưng kết luận: “Như anh biết, cả gia đình tôi đã xả thân cho nhà Ngô với tất cả lòng trung tín và hy sinh. Thời kỳ anh em ông Diệm còn lao đao không ai dám liên hệ, thì chúng tôi đã công khai ủng hộ, đóng góp nhân lực vật lực Khi ông Diệm là Thủ tướng phải tứ bề thọ địch và lúc nào cũng sẵn sàng bị tấn công thì em tôi (đại uý Phùng Ngọc Bang) chịu vào làm sĩ quan tuỳ viên, anh ruột tôi chịu vào trong tiểu đội phục dịch cho tư thất Ngô Đình Cẩn... Thế mà vì lòng tham vô đáy, Cẩn đã cho mật vụ bao vây nhà tôi, một đồng chí cũ, một sĩ quan cấp tá của quân đội, một cán bộ của chế độ, để trắng trợn tịch thu những gia bảo cửa tôi. Đã táng tận lương tâm như thế, Cẩn còn cất chức và thuyên chuyển tôi ra khỏi đơn vị, bắt tôi rời khỏi Huế để cho người Công giáo Phú Cam của Cẩn thay thế mà chuyên quyền... Với tôi mà Cẩn còn xử cạn tàu ráo máng như thế thì dân chúng thấp cổ bé miệng còn khổ nhục như thế nào! Chế độ như vậy mà anh cứ nhắm mắt phục vụ sao?".
Khoảng 10 giờ sáng, tôi đang làm việc tại văn phòng của Nha tại góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồng Thập Tự thì tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là quyền Tổng tham mưu trưởng (thay tướng Lê Văn Tỵ đi chữa bệnh tại Hoa kỳ) gọi điện thoại yêu cầu tôi đến Bộ tư lệnh của tướng Đính để theo chỉ thị của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, làm cố vấn cho Đính về các vấn đề chính trị trong cuộc khủng hoảng Phật giáo.
Lại một lần nữa, Nhu âm mưu bắt tôi dính dự vào tội ác của dòng họ Ngô Đình: Trước hết, đây là một vấn đề dân sự thuộc Bộ Nội Vụ chứ không thuộc thẩm quyền của tôi, thứ hai là các sách lược chính trị không thuộc lĩnh vực của Nha An ninh quân đội, và thứ ba là nếu có một sách lược chính trị thì Nhu dư biết tôi đã từng bày tỏ lập trường chống đối chính sách này, vả lại tôi có bao giờ được Nhu chính thức thông báo sách lược đó đâu. Không có thẩm quyền, không thuộc lãnh vực, lại không được thông báo, thế mà tôi vẫn bị Nhu đẩy vào cái tư thế, mà đối với quần chúng, đối với phong trào đấu tranh của Phật giáo và đối với quân đội, lại là tư thế then chốt để tiến hành chính sách đàn áp Phật giáo cửa chánh quyền.
Lúc gặp tướng Đính và người phụ tá quân sự là đại tá Nguyễn Hữu Có, tôi thấy cả hai đều có vẻ khẩn trương và ưu phiền. Vì đặt mềm tin trọn vẹn vào liên hệ thân thiết giữa hai người, Đính đã trình bày đầy đủ cho tôi biết những thảm hoạ xảy ra tại các chùa bị tấn công, nhất là tại chùa Xá Lợi: Mặt Phật bị bắn nát, các vật dụng thờ cúng như chuông, mõ, lư hương bị đập phá văng ngổn ngang, các tăng và sư bị đánh bằng báng súng và bị đâm bằng lưới lê, riêng Hoà thượng Hội chủ Thích Tịnh Khuyết thì bị hành hung nặng". Đính còn hằn học. "... Họ còn dám ném mấy khẩu Garant M1 vào chùa rồi chụp hình làm tang vật vu khống chùa có chứa vũ khí, họ còn quăng cả đồ lót đàn bà vào phòng của mấy thầy rồi xuyên tạc trong chùa có trai gái bậy bạ...". Đính càng hằn học chỉ trích chính quyền, tôi càng mừng thầm vì thái độ này phản ứng những uất ức của một kẻ muốn nổi loạn và biết đâu Đính và Đôn, ngoài tình bạn ra, cũng là đồng chí trong tổ chức của Đôn rồi, dù bề ngoài Đính vẫn tương kế tựu kế giả vờ đóng vai trung thành với ông Diệm.
Những biến cố xảy ra trong mấy tháng vừa qua đã chồng chất thành bản cáo trạng quyết hệt lên án tội ác của chế độ và bỗng chấm dứt mọi tình cảm cuối cùng của tôi đối với ông Diệm. Tôi cố viện dẫn khoảng thời gian hơn 20 năm trời liên hệ thắm thiết giữa ông Diệm và tôi, nhưng vẫn không đủ ngăn chặn được những hành động oan nghiệt của 9 năm trời bạo quản của anh em ông Diệm. Tất cả gồm trong một gia đình mà những sân si và danh, lợi, quyền, lực, đã biến thành những tội đồ của đất nước, mà từ gần nửa năm nay dân chúng miền Trung đã âm thầm viết thành bản án lịch sử để lại cho hậu thế đời đời qua hai câu ca dao truyền miệng cho nhau:
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên.
Cả một quá khứ địa ngục với một tương lai đen tối của đất nước đã làm tôi dứt khoát hẳn với ý định giữ ông Diệm lại làm nguyên thủ quốc gia như công chức mà Võ Văn Hải đã có lần đề nghị. Tôi nhất định phải lật đổ chế độ này và cả ông Diệm rồi tuỳ ông muốn sống lưu vong bất kỳ tại quốc gia nào.
Suy nghĩ chín chắn rồi, chiều 22-8-63, tôi đến Bộ Tổng tham mưu để gặp tướng Trần Văn Đôn đề nghị gia nhập vào tổ chức của ông ta. Lúc đầu tướng Đôn tỏ vẻ nghi ngờ hỏi vặn: “Có phải ông Cố vấn bảo anh đến đây để thử thách tôi không?” Nhưng đến khi tôi trình bày hết tâm sự và quyết tâm của mình rồi kết luận một cách chắc nịch rằng "Nếu tôi là tay sai của Ngô Đình Nhu, nếu tôi ham danh lợi thì tôi đã tố cáo âm mưu của Trung tướng cho anh em ông Diệm rồi" thì Đôn mới bắt đầu có vẻ tin tưởng hơn nhưng vẫn còn dè dặt bảo tôi trở về làm việc mà không đề cập đến lập trường, chủ trương và tổ chức của ông ta. Ra về, tôi trở nên bình thản và lạc quan hơn vì chính thái độ dè dặt của Đôn lại càng làm cho tôi tin tưởng Đôn đang quyết tâm thực hiện cuộc chính biến. Một cuộc chính biến do một cuộc binh biến phát động mà quân đội là chủ lực, lại do một vị Tổng tham mưu trưởng tổ chức thì nhất định phải thành công.
Độ một tuần lễ sau, hình như sau khi đã cho điều tra và nắm vững tư tưởng của tôi, Đôn bèn cho mời tôi đến gặp ông ta tại văn phòng. Sau khi trình bày một cách tổng quát chủ trương làm một cuộc cách mạng lật đổ chế độ, tướng Đôn bèn hỏi tôi: "Quyết định của anh về sinh mạng anh em ông Diệm như thế nào?" Tôi trả lời dứt khoát: "Đối với vợ chồng Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn thì phải bắt giam rồi đưa toà án quân sự xét xử theo đúng luật. Riêng đối với ông Diệm thì đem ông ta lên ở tại dinh số 1 ở Đà Lạt một thời gian, đối xử đàng hoàng rồi để cho ông ta ra đi muốn sống lưu vong tại nước nào tuỳ ông ta lựa chọn". Tướng Đôn đồng ý với tôi ngay và hình như đó cũng là chủ trương của riêng ông.
Ngoài ra, trước khi tôi liên hệ với tổ chức chính biến do các tướng lĩnh chủ xướng, một hôm vào đầu tháng Chín, đại tá Phạm Ngọc Thảo đến nhà mà không ngần ngại mời tôi tham dự vào tổ chức đảo chính của bác sĩ Trần Kim Tuyến mà Thảo là đại diện. Theo Thảo, bác sĩ Tuyến chỉ là lãnh tụ tinh thần và đang soạn sửa đi nhận chức Tổng lãnh sự ở Ai Cập nên không muốn tiếp xúc với ai, vả lại bác sĩ Tuyến đang bị Công an đặc biệt theo dõi gắt gao.
Hơn ai hết, Tuyến biết rõ những sai lầm và những tội ác của chế độ Diệm, biết rõ những âm mưu thâm độc của vợ chồng Ngô Đình Nhu, biết rõ Ngô Đình Cẩn mấy lần định cho người ám sát mình, lại biết Ngô Đình Nhu sẽ cất chức mình đem em là Trần Văn Khiêm vào thay thế để Khiêm nguỵ tạo hồ sơ biến mình thành con dê tế thần gánh chịu tất cả mọi hậu quả. Biết như thế và vốn người có lý tưởng quốc gia chân chính nên Tuyến không thể tiếp tục làm tôi trung cho một gia đình, một chế độ ngập tràn tội ác, Tuyến phải chủ trương đảo chính trong ý nguyện cứu lấy một quốc gia đang thật sự đứng trên bờ vực thẳm. Từ một công thần hãn mã, Tuyến trở thành một kẻ thù không đội trời chung với anh em ông Diệm.
Còn về Phạm Ngọc Thảo thì từ trước tôi chưa hề gặp mà chỉ biết qua hồ sơ. Thảo là một tay phản gián tài ba của Việt cộng mà dù có anh em ruột là Phạm Ngọc Thuần hiện giữ một chức vụ quan trọng ở ngoài Bắc nhưng nhờ là một tín đồ Công giáo nên được Giám mục Ngô Đình Thục tín nhiệm tiến cử cho ông Diệm. Lúc Thảo làm Tỉnh trưởng Kiến Hoà, tướng Mai Hữu Xuân, vốn là cựu Tổng giám đốc Công an, cựu Giám đốc An ninh quân đội, đã nói với tôi: "Anh nên trình với ông Tổng thống rằng dùng Phạm Ngọc Thảo là dâng miền Nam cho Cộng sản rồi đó”. Tôi đem lời của Mai Hữu Xuân trình bày cho ông Diệm thì bị ông Diệm gắt gỏng: "Anh hỏi thằng Xuân nó có biết nguồn gốc gia đình Phạm Ngọc Thảo hơn Đức Cha không?”. Trong thời gian Thảo giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hoà, tôi đã cho đại uý Sinh (hiện ở Hoa kỳ), trưởng phòng Công tác của Nha, bí mật xuống Bến Tre một tháng để đặc biệt điều tra Thảo, và Sinh đã về báo cáo cho tôi: "... chẳng những Thảo là người chống Cộng mà lại chống Cộng rất tài tình. Kiến Hoà là căn cứ địa vững chắc của Cộng sản, là quê hương của Nguyễn Thị Định, là nơi mà năm 1940 Cộng sản đã từng nổi dậy cướp chính quyền, thế mà Thảo vẫn "trị" nổi Cộng sản tại đó”.
Nhưng chỉ mấy tháng sau, Thảo thôi làm Tỉnh trưởng và được Ngô Đình Nhu giao cho nhiệm vụ đi thanh tra công cuộc thiết lập ấp chiến lược. Thảo vẫn vào ra dinh Tổng thống và thỉnh thoảng vẫn được ông Diệm gọi vào nói chuyện.
Gặp tôi, Thảo cho biết tổ chức đã kết nạp được một số đơn vị Biệt động quân và Bảo An. Và nhờ Thảo thường đi thanh tra ấp chiến lược nên đã tổ chức được rất nhiều sĩ quan trong các đơn vị chiến đấu tại Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4. Thảo là cộng sự viên của tướng Trần Thiện Khiêm nên cũng tiết lộ cho tôi biết tướng Khiêm đã nhận đỡ đầu cho nhóm Thảo. (Thật ra tướng Khiêm đã ở trong tổ chức của tướng Đôn rồi). Tôi khen thầm quả thật Thảo là tay tình báo giỏi mới biết được tâm địa và hành động bí mật của mình, tuy nhiên tôi vẫn phải giả vờ tỏ thái độ trung lập: “Các anh muốn làm gì thì làm, tôi không chống các anh cũng không phản cụ Diệm". Sở dĩ tôi phải nói thế vì cần phải kiểm chứng lại với tướng Khiêm trước khi thật sự liên hệ với Thảo. Mấy ngày sau tướng Đôn lại gọi tôi đến Bộ Tổng tham mưu và cho biết tướng lĩnh không đồng ý về việc giữ ông Diệm lại Đà Lạt vì sợ những bất trắc có thể xảy ra. Tôi tranh luận một hồi nhưng không thay đổi được quyết định của tổ chức nên đành nhượng bộ: "Nếu vậy thì đem ông ta ra Côn Đảo một thời gian và đem một Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến ra canh giữ rồi sau khi tân chánh phủ thành lập sẽ cho ông ta ra đi. Đôn đồng ý và hứa sẽ đề nghị lại với anh em. Trong cuộc gặp gỡ lần này, Đôn khuyến cáo tôi phải hết sức cẩn thận đối với những cố vấn quân sự Hoa kỳ và nhân viên CIA vì theo Đôn thì tướng Harkins và nhân viên của Richardson (Giám đốc CIA tại Việt nam) đang ủng hộ ông Diệm và ông Nhu. Đôn cũng bảo tôi từ nay Đôn và tôi chỉ liên lạc bằng điện thoại và chỉ dùng một số mật ngữ để trao đổi tin tức. Đặc biệt là ngày giờ phát động, Đôn sẽ cho biết sau.
Ở đây tôi xin dành vài dòng nói về tướng Trần Văn Đôn, người được xem là bộ óc của cuộc chính biến 1-11-63. Tướng Đôn sinh tại Pháp nhưng nhà thờ họ, mồ mả tổ tiên, ruộng vườn tài sản đều ở tại miền Nam. Tuy ông đã từng mang quốc tịch Pháp nhưng gia đình lại thấm nhuần nền đạo lý Tam giáo. Trong những giao tế bên ngoài, Trần Văn Đôn là người văn minh lịch thiệp kiểu Âu Mỹ, nhưng trong sinh hoạt gia đình, ông vẫn theo nề nếp Đông phương, theo nghi lễ dân tộc. Một lần tôi đến thăm Đôn tại nhà bỗng gặp bà Đôn dạy học ớ Đà Lạt về nghỉ cuối tuần. Vừa bước vào phòng khách, bà Đôn vội nghiêm trang chào khách và chào chồng rồi đến ngay bà thờ gia tiên thắp hương vái lạy, sau đó mới về phòng riêng. Lễ táng bà cụ sau này, anh em gia đình tướng Đôn theo nghi lễ trong sách “Thọ Mai chi lễ” cho đúng với phong hoá, tập tục cổ truyền. Trước kia tôi thường có thành kiến cho rằng tướng Đôn là một thứ Tây con, nhưng từ ngày chứng kiến được cung cách và nếp sống gia đình của ông ta, tôi càng kính mến ông ta nhiều hơn.
Tướng Đôn tuy theo binh nghiệp nhưng phần lớn cuộc đời của ông lại hoạt động như một chính khách hơn là một nhà quân sự. Ông đã hoạt động chính trị từ thời còn mang cấp trung uý, khi còn là một nhân viên trong văn phòng chính trị của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân thời 1947-1948. Theo tướng Đôn thì chính ông là tác giả của lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và là người dề nghị lấy bài "Thanh niên ca" của Lưu Hữu Phước làm quốc ca của VNCH. Vì là giám đốc An ninh quân đội đầu tiên của quân lực VNCH nên ông biết rõ lý lịch và lập trường chính trị của hầu hết mọi sĩ quan. Hơn thế nữa, ông còn là Tham mưu trưởng đầu tiên nên đã đóng góp rất nhiều trong việc xây dựng quân đội quốc gia. Gia đình tướng Đôn và gia đình ông Diệm vốn có thâm tình cố cựu, tướng Đôn đã từng làm trung gian giữa Thủ tướng Xuân và anh em ông Diệm trong thời kỳ ông Nhu hoạt động tại Sài gòn và Đà Lạt. Trong mấy tập album mà bà Nhu có lần đưa về Huế để khoe với ông Cẩn, tôi thấy nhiều bức hình vợ chồng ông Nhu chụp chung với Thủ tướng Xuân và Trần Văn Đôn trong các cuộc du ngoạn tại Đà Lạt; họ thân với nhau đến độ có những tấm hình chụp ba người đàn ông mặc âu phục đứng chung với bà Nhu chỉ mặt áo tắm hở hang.
Sau khi gặp tướng Đôn lần thứ ba mà mục đích là thảo luận việc đối xử với ông Diệm khi cách mạng thành công, tôi bèn qua văn phòng của tướng Khiêm và được Khiêm xác nhận về quyết tâm lật đổ chế độ Diệm của Phạm Ngọc Thảo. Tôi và Khiêm vốn cùng ở trong Liên đoàn Lưu Động số 3 do trung tá Phạm Văn Đồng chỉ huy hành quân ở Nam Định - Thái Bình năm 1953, rồi lại cùng tận lực giúp ông Diệm trong cuộc binh biến của Nhảy dù năm 1960. Từ ngày Khiêm về giữ chức Tham mưu trưởng, tôi lại thường tiếp xúc nhiều hơn để trình bày về tinh thần binh sĩ nên chúng tôi có với nhau nhiều mối thiện cảm. Trong kế hoạch tổ chức lật đổ chế độ, Khiêm được coi như ở trong hàng ngũ lãnh đạo đầu não bên cạnh tướng Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn. Trở về Nha, tôi liền gọi điện thoại mời Thiệu, đang là Tư lệnh sư đoàn 5 ở Biên Hoà, vờ bảo lên gặp tôi gấp vì có thư nặc danh tố cáo Thiệu tham nhũng. Độ vài tiếng đồng hồ sau Thiệu đã có mặt tại văn phòng tôi. Vừa bắt tay Thiệu, tôi vừa nghiêm giọng: "Tôi mời anh lên đây để bắt giam vì anh đang âm mưu tổ chức đảo chính”, Thiệu tuy hơi biến sắc nhưng cũng giả vờ tìm cách thoái nên tôi vội trấn tĩnh Thiệu ngay. Là người quyền biến và có ý thức chính trị nên Thiệu hỏi tôi: "Anh nghĩ gì về thể chế tương lai sau khi hạ được chế độ Diệm?”. Tôi bèn trả lời: "Tất nhiên là thể chế dân chủ, tạo điều kiện và sinh hoạt thuận tiện cho công cuộc đại đoàn kết quốc gia, trong đó các đảng phái và các lực lượng quần chúng phải đóng một vai trò quan trọng và căn bản để gây lại hoà khí dân tộc, phục hồi sinh lực quốc gia để chống Cộng sản?”. Tuy nhiên, tôi nói tiếp "Chưa bắt được cọp hãy khoan nói đến chuyện lột da, chúng ta hãy bàn chuyện tổ chức và hành động để loại trừ lực lượng chính trị và quân sự của Nhu trước đã". Dưới chế độ Diệm, đường binh nghiệp của Thiệu rộng mở thênh thang mà một trong những lý do là nhờ Thiệu dứt khoát bỏ đạo Phật để theo Thiên Chúa giáo bên vợ. Đang làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh hành quân cho tướng Dương Văn Minh, nhờ các linh mục nâng đỡ bảo bọc, Thiệu được ông Diệm cử giữ chức Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt. Ngày ông Diệm có ý định cử Thiệu giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 5, ông bảo tôi làm tờ trình về Thiệu. Trong mục ý kiến, tôi đã viết rằng: "Thiệu không theo một đảng phái nào mặc dù có người anh ruột theo đảng Đại Việt. Thiệu là một trong số sĩ quan ưu tú nhất của quân đội”. Dù sao thì đạo Thiên Chúa mới là yếu tố chính để hình ảnh Nguyễn Văn Thiệu được ghi khắc vào con tim ông Diệm để Thiệu được ông tín nhiệm và nâng đớ.

Đầu năm 1963, sau khi về nắm chức Tư lệnh Sư đoàn 5, Thiệu đã đến văn phòng tôi thăm xã giao. Tôi cho Thiệu biết: "Số của Thiệu sắp đến thời làm rất lớn vào hàng văn võ song toàn, ít nhất cũng vào hàng Bộ trưởng Quốc phòng". Thiệu rất ngạc nhiên không hiểu vì sao tôi biết được số tử vi nghĩa là biết được ngày giờ sinh âm lịch của Thiệu. Tuy nhiên Thiệu ván dè dặt xin tôi đừng nói ra sợ “ông Cụ biết được ông sẽ chém đầu cả hai đứa mình". Thật thế ít ai có lá số tử vi dại quý cách như Thiệu và đặc biệt là cung Phúc Đức cho Thiệu hưởng được hết âm đức của cha mẹ ông bà. Số của Thiệu có đến bốn chữ “Tý”: Tuổi Giáp Tý 1924, sinh vào giờ Tý (nửa đêm), tháng Tý (tháng 11 âm lịch), và cung Mệnh Viên cũng nằm ở Tý. Lại nữa mệnh cửa Thiệu lại là mệnh Kim mà lại nằm ở cung Thuỷ là rất đắc cách. Năm 1965 Thiệu 41 tuổi đi vào cung Thổ, mà Thổ lại sinh Kim, lại gặp Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, ấn hội chiếu là thượng cách, vì thế Thiệu giữ chức Chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia rồi lên chức Tổng thống. Hết đại hạn ở cung Thổ (năm 1975), Thiệu 51 tuổi đi vào cung hoả, mà Hoả thì đốt cháy Kim nên Thiệu mất chức Tổng thống. Tuy nhiên vì cung Phúc Đức là gốc của lá số cho nên tuy hết làm Tổng thống mà Thiệu vẫn thụ hưởng giàu sang an nhàn cho đến năm 1985, nghĩa là vào hạn Chính Hoả ở cung Ngọ, Thiệu sẽ gặp nhiều tai hoạ và sẽ bị "thiêu đốt” trong đại hạn này (từ 1985 đến 1995). Có một điều tôi vô ý là dù quen biết Thiệu đã lâu ngày nhưng mãi cho đến khi nhìn Thiệu qua màn ảnh truyền hình tôi mới thấy được cặp mắt của Thiệu “láo liên", biểu hiện sự gian trá và làm cho Thiệu trở thành tay gian hùng, tham nhũng. (Cái ẩn tướng có cặp mắt láo liên của Thiệu cũng như cái ấn tượng không dám nhìn thẳng vào mặt người đối thoại của ông Diệm đều là tướng người bất chánh).
Sau Nguyễn Văn Thiệu tôi cho mời trung tá Nguyễn Cao Kỳ, đang là Chỉ huy trưởng Liên đoàn vận tải đến gặp tôi. Kỳ quen với tôi từ ngày tôi về Nha An ninh quân đội, liên hệ của chúng tôi thắm thiết như anh em. Chúng tôi thân với nhau đến độ mỗi lần Kỳ đến nhà tôi là tự động vào thẳng tủ lạnh lấy đồ ra ăn. Biết Kỳ thích, nhà tôi thường biếu Kỳ ruốc mắm, nem chả, dưa kiệu, củ hành và mỗi lần Kỳ lái máy bay cho tôi về Nha Trang, tôi thường kín đáo trao cho Kỳ 5, 7 trăm để tiêu pha. Hàng năm, cứ đến mồng Một Tết, Kỳ thường nói rõ là Kỳ quí mến tôi như người anh trưởng của gia đình Kỳ. Khi bà cụ thân mẫu Kỳ tạ thế, Kỳ lại đến gặp tôi nhờ giúp đỡ: “Buổi sinh tiền, mẹ tôi ngỏ ý muốn khi mất sẽ được chôn cất ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi mà tôi thì quá túng thiếu không làm sao báo hiếu được, vậy nhờ đại tá giúp đỡ đàn em". Cảm cái cảnh Kỳ hiếu thảo mà lại nghèo nàn, tôi giúp Kỳ chôn cất mẹ theo ý nguyện và mua biếu tặng bà cụ đám đất trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi với giá ba mươi ngàn đồng.
Kỳ là người có nhiều nghệ sĩ tính, có phong thái một lãng tử hào hoa nên được binh sĩ không quân mến chuộng. Năm 1960, Kỳ theo nhóm sĩ quan lãnh đạo cuộc đảo chính Nhảy dù nhưng được tôi dung thứ không bắt vì tôi biết Kỳ là một sĩ quan được binh sĩ kính mến. Ký đã từng lái máy bay ra Bắc Việt thả đồ cho biệt kích miền Nam hoạt động trong vùng địch. Năm 1962 - 1963, một số thuộc viên của Kỳ lợi dụng công tác chuyển vận các sĩ quan Bảo An đi học du kích phiến ở Mã Lai để buôn lậu hàng hoá rẻ tiền từ Singapore về nên bị Quan thuế bắt, tôi đã phải thiết tha can thiệp với Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Lương và Tổng thống Diệm tha thứ cho Kỳ và các sĩ quan phi công trong Liên đoàn Không vận.
Khi đến gặp tôi với bộ bay màu đen, cây súng lủng lẳng bên hông, Kỳ chào tôi theo đúng quân cách và nói ngay: "Đàn anh có gì dạy dỗ đàn em?". Tôi bèn đùa: "Gọi Kỳ đến để bắt giam”. Kỳ trợn to đôi mắt một mí nhìn tôi rồi vừa cười vừa nói: "Đại ca đừng đùa đàn em tội nghiệp". Nhưng tôi vội lấy thái độ nghiêm chỉnh rồi bảo Kỳ: "Kỳ có nhớ ngày 11-11-60 đã làm gì không, hôm nay tôi gọi Kỳ xuống đây để cho biết tôi sẽ tổ chức lật đổ ông Diệm và rủ Kỳ theo tôi". Kỳ đứng bật dậy đưa tay chào mạnh mẽ: "Đàn em sẵn sàng tuân theo lệnh đại ca”.
Biết bản tính của Kỳ không phản trắc nhưng tôi vẫn phải đốt lửa nhiệt huyết thêm cho Kỳ vì không quân là yếu tố quyết định thành bại của cuộc binh biến để làm nền tảng cho cuộc chính biến cho nên tôi bèn kéo Kỳ đến nhà thầy tử vi Minh Lộc ở đường Trần Quý Cáp mà tôi đã sắp đặt từ trước. Sau khi gieo quẻ bấm tay, ông Minh Lộc nói rằng số Canh Ngọ này làm nghề đi mây về gió, tuy nhiên đến Thu Đông năm nay phải làm gì có tính cách bạo động rồi trở thành vương tướng, phú quý song toàn. Tôi hỏi: "Số này có phản bội tuổi tôi không? " thì Minh Lộc khẳng định: “Không, bởi nếu phản bội thì sẽ bị chết bất đắc kỳ tử”. Tôi thưởng cho thầy tử vi một trăm đồng bạc rồi ra về. Trước khi chia tay, Kỳ thề suốt đời giữ trọn lòng trung nghĩa đối với tôi. Sau này Kỳ phản tôi, cùng với nhóm tướng trẻ cô lập tôi tại Kontum, tại Nha Trang nhưng Kỳ đã không chết bất đắc kỳ tử, vả lại trong thâm tâm tôi cũng thật lòng không muốn ai phải chết bất đắc kỳ tử, nhất là một người như Kỳ.
Động viên được một chiến sĩ cảm tử như Nguyễn Cao Kỳ xong, tôi cảm thấy an tâm hơn. Sau đó tôi cho mời trung tá Vĩnh Lộc đang là Chỉ huy trưởng một Trung tâm huấn luyện ở gần Vũng Tàu. Lộc là một sĩ quan thâm niên có trình độ văn hoá cao, là một phần tử ưa tú của quân đội, đã từng chỉ huy đơn vị Thiết giáp, nhưng vì Lộc là người thuộc Hoàng phái, từng phục vụ trong văn phòng Quốc trưởng Bảo Đại và thường tỏ ra khinh bỉ nhóm Cần lao công giáo nên bị đè ép đến nỗi suốt 10 năm quân vụ mà Lộc chỉ lên được có một cấp. Có lẽ Lộc đinh ninh rằng tôi mời Lộc lên để cảnh cáo hoặc bắt giam, nên khi mới gặp tôi Lộc tỏ vẻ ngại ngùng lắm, cho đến khi tôi trấn tĩnh Lộc bằng cách giải thích tình hình đen tối của nước nhà, giải bày tâm sự đau thương của mình rồi tôi rủ Lộc tham gia tổ chức, Lộc mới yên tâm. Tất nhiên bề ngoài Lộc phải giữ thái độ đè dặt nhưng tôi cũng đã thấy được nỗi lòng và quyết tâm của Lộc khi nghe nói đến lật đổ chế độ Diệm. Để kết luận, tôi chỉ: “Yêu cầu trung tá khi nghe tiếng súng nổ ở Đô thành, kéo ngay đơn vị Thiết giáp (gần Trung tâm huấn luyện của Lộc) về Sài gòn để yểm trợ cho Bộ binh”. Lộc dạ rồi ra về.
Tuy đã kết nạp được một số sĩ quan đồng chí hướng, xây dựng thêm được một số đơn vị mà khi hữu sự có thể đương đầu được với lực lượng võ trang của Ngô Đình Nhu nhưng lòng tôi vẫn chưa yên. Tôi phải nắm cho được Tướng Tôn Thất Đính Tư lệnh Quân đoàn 8 và Tổng trấn Sài gòn, vì nhân vật này ở vào vị trí có thể xoay chuyển dễ dàng tình hình lúc đó.
Như đã nói trong một chương trước, tôi gặp Đính lần đầu vào cuối năm 1945 tại Đà Lạt, sau khi Việt minh cướp chính quyền. Lúc bấy giờ tôi chỉ huy một trong hai tiểu đoàn giải phóng quân của miền Nam Cao nguyên trong lúc Đính chỉ huy một trung đội. Tuy chúng tôi không phải là cán bộ nòng cốt của Việt minh nhưng tôi thì nhờ hồ sơ cá nhân có ghi chút công "cách mạng" chống Pháp và nhờ là cựu thủ lãnh Thanh niên Tiền Phong của Phong trào Thanh niên Phan Anh nên được Việt cộng trọng dụng, còn Đính là một học sinh yêu nước và dám gác bút nghiên "theo việc kiếm cung" trước cao trào kháng Pháp, nên cả hai chúng tôi đều được Mặt trận nhân dân Đà Lạt chỉ định đảm nhiệm những trách vụ quân sự then chốt. Chúng tôi còn chiến đấu chống lại liên quân Anh-Pháp-Nhật tại mặt trận chạy dài từ Đà Lạt đến Đơn Dương (Ran). Nhưng vì hoả lực của địch quá mạnh nên mặt trận tan vỡ và chúng tôi mỗi người một ngả, tôi thì về vùng núi rừng Ninh Thuận lập chiến khu gần một năm rồi bỏ Mặt trận Việt minh về quê nhà, trong lúc Đính trở lại Đà Lạt xin làm thư ký cho sở cảnh sát Pháp để tránh bị bắt bớ giam cầm.
Dù Tôn Thất Đính được tướng Nguyễn Văn Hinh nâng đỡ và tín nhiệm nhưng khi gặp Đính tại Hải Phòng và đầu tháng 8 năm 1954, tôi vẫn thuyết phục Đính bỏ ông Hinh để vào với ông Diệm. Đính nghe lời tôi và sau này gia nhập đảng Cần lao trở thành một công thần cốt cán của ông Diệm. Nhiều người cho rằng Đính mang đầu óc cơ hội chủ nghĩa, nhưng tôi biết rõ tâm hồn của Đính, biết Đính nhiều khi “giả dại qua ải”, biết Đính bề ngoài tỏ vẻ đồng ý nhưng thâm tâm vẫn công phẫn nhóm Công giáo Cần lao. Thời kỳ làm Tư lệnh Quân đoàn 2 kiêm Quân khu 2, khi gặp nhiều khó khăn vì vấn đề dinh điền, vấn đề người Thượng, Đính thường than thở với các vị tướng lĩnh và với tôi về sự lộng hành của các vị linh mục và nhóm Cần lao công giáo. Đính thường thúc giục tôi phải trình bày sự thật cho "ông Cụ" rõ việc các linh mục làm mất lòng dân, làm cho dân Thượng theo Mặt trận FULRO và làm cho dân dinh điền gốc miền Trung bất mãn trốn về quê cũ hết.
Sau khi hiểu rõ lòng dạ của Đính và biết Đính đã được tướng Đôn kết nạp, tôi vẫn muốn đốt lửa can trường thêm để Đính giữ vững quyết tâm trong việc lật đổ nhà Ngô.
Tôi đến nhà Đính vào khoảng gần nửa đêm khi Đính còn nằm đọc sách trên giường. Với người có vẻ võ biền như Đính, tôi phải có thái độ quyết liệt, nên tôi đã bắt chước Vương Tư Đồ trong chuyện Tam Quốc lập mưu khích tướng Lã Bố diệt trừ gian thần Đổng Trác ngày xưa. Cho nên sau khi chào hỏi xong, tôi sụp xuống lạy Đính hai lạy, Đính hốt hoảng đỡ tôi dậy rồi hỏi: “Anh làm gì kỳ cục vậy anh Mậu?", lúc bấy giờ tôi mới trình bày thế nước lòng dân cho Đính nghe, tôi cũng phân giải mối tâm tư của mình và khuyến khích Đính bỏ tà theo chánh.
Tôi nói với Đính rằng chế độ tàn bạo của ông Diệm đã bị toàn quân, toàn dân căm thù oán ghét thì mình nỡ lòng nào vì chiếc gươm vàng, ngôi sao bạc mà làm tay sai cho kẻ thù của nhân dân để sử sách và hậu thế kết tội. Quen Đính hơn mười mấy năm trời, tôi chưa dân nào thấy Đính rơi lệ, thế mà hôm nay Đính đã khóc. Đính ôm chầm lấy tôi, hứa với tôi sẽ cương quyết đập tan chế độ Diệm. Tôi yên tâm ra về và từ đấy đã nhìn thấy được ánh sáng đắc thắng ở cuối đường hầm trong cuộc đấu trí với Ngô Đình Nhu.
Công cuộc tổ chức chính biến đang trên đà thuận lợi và chỉ còn đợi tướng lĩnh định ngày giờ nổ súng phất cờ thì không ngờ một hôm, Bộ trưởng Lao động Huỳnh Hữu Nghĩa (hiện ở Pháp) cho biết mưu định của tôi bị bại lộ. Nghĩa kể lại cho tôi nghe cuộc đối thoại giữa ông ta và Ngô Đình Nhu tại dinh Gia Long:
Nhu: Mậu chơi thân với toa, Mậu có nói gì đến chuyện đảo chính không?
Nghĩa: Không. Tôi chỉ nghe Mậu thường nói chuyện Tam Quốc, chuyện Đông Chu... và tỏ vẻ lo lắng cho ông Cụ mà thôi.
Nhu: Mậu lừa toa đó. Mậu đang cùng một số sĩ quan âm mưu đảo chính.
Nghĩa: Nếu anh đã biết rõ thì có khó khăn gì mà không chặn đứng cuộc đảo chính từ trong trứng nước. Anh hãy gọi Mậu vào hứa cho thăng thưởng và bảo tố cáo các tướng lĩnh rồi bắt hết là êm ngay.
Nhu: Không. Moa đã có kế hoạch rồi, để moa bắt cả lũ một lượt, moa đập cho tan hết luôn. (Nhu ám chỉ kế hoạch Bravo của Nhu mà Nghĩa không được biết).
Ra khỏi văn phòng của Nhu, Nghĩa vội bí mật thông báo cho tôi biết ngay rồi khuyên tôi đi trốn. Tôi ngỏ lời cảm tạ tấm lòng hào hiệp của người bạn tri kỷ, nhưng tôi khuyên Nghĩa cứ yên tâm vì tôi không có việc gì phải trốn tránh.
Cùng lúc với việc Ngô Đình Nhu cho Huỳnh Hữu Nghĩa biết việc tôi đang mưu định đảo chính thì tôi cũng biết được Ngô Đình Cẩn cho một đại uý, hình như đại uý Minh (hiện ở Mỹ) mang thư từ Huế vào thông báo cho ông Diệm biết tôi đang chuẩn bị đảo chính, và khuyến cáo ông Diệm đối phó với tôi như Huỳnh Hữu Nghĩa đã khuyên Ngô Đình Nhu. Bức thư của Cẩn, sau ngày Cách mạng, cháu tôi là Nguyễn Bá Liên đã tịch thu được trong một phong bì lớn trên bàn giấy của Ngô Đình Nhu, cùng với lá thư sáu trang giấy của cụ Trần Văn Chương (gởi từ Washington) lên án những lỗi lầm của hai ông Diệm-Nhu trong việc lãnh đạo quốc gia.
Lúc bấy giở là vào đầu tháng Mười và mặc dù âm mưu đã bị bại lộ, nhưng vì quyết tâm và tin tưởng vào số mệnh và âm đức cha ông mình, tôi vẫn vững tâm không một chút nao núng, vẫn đi làm việc, vẫn đi dạo phố, và chuẩn bị một số biện pháp phòng ngừa bất trắc.
Trước hết tôi cho lệnh những cận vệ chìm nổi của tôi phải nổ súng ngay vào bất kỳ ai muốn ám hại tôi. Tôi lại cho đục một khoảng trống trong bức tường ngay sau lưng nhà để nếu có biến tôi có thể thoát thân đến ẩn lánh nhà một người bạn thân là trung tá Bùi Quý Cảo thuộc cơ quan Hành Ngân Kế của Bộ quốc phòng. Ông Cảo có bà thân mẫu là một Phật tử hết sức mộ đạo, nhà ở đường Lê Thánh Tôn đấu lưng với nhà tôi trong cư xá hải quân. Tôi dự định từ nhà Bùi Quý Cảo sẽ đến trú ẩn tại nhà một người bạn thân mà cũng là một đồng chí là ông Thái Văn Châu (cựu Phó Chủ tịch Phòng Thương Mãi Sài gòn hiện ở Pháp). Ông Châu cũng là một Phật tử thuần thành, từng bị Ngô Đình Cẩn khủng bố nên phải bỏ Huế vào Sài gòn để sinh sống. Ngôi nhà lầu năm tầng của ông Châu ở đường Lê Thánh Tôn gần chợ Bến Thành náo nhiệt quả thật là nơi trú ẩn lý tưởng cho tôi khi hữu sự.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 được các tướng lĩnh chọn làm ngày khởi nghĩa. Tôi dậy sớm uống trà xong thì lên đường đến nhà một thầy tử vi tên Kim ở Phú Nhuận, nơi khách khứa ra vào đông đúc, ít ai nghi ngờ trong lúc chờ đợi giờ phát động. Khoảng 1 giờ trưa, tôi vào Bộ Tổng tham mưu thì được tướng Đôn chỉ định đến một căn phòng riêng cùng với các tướng Chiểu và Kim viết những văn kiện cần thiết như lời hiệu triệu của lực lượng cách mạng, như những hiến ước tương lai, v.v... Trong lúc đó thì tất cả tướng tá, kể cả các tướng tá trung thành với chế độ như tướng Nguyễn Văn Là, đại tá Cao Văn Viên, đại tá Lê Quang Tung, đều có mặt tại Câu lạc bộ Sĩ quan, chỉ trừ tướng Tôn Thất Đính phải ở lại Bộ tư lệnh của ông ta để trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân lúc bấy giờ được nguỵ trang là một cuộc đảo chính cho phù hợp với âm mưu Brava của Nhu. Cuộc hành quân đảo chính được tiến hành tốt đẹp mà mọi chi tiết đã được tướng Đôn mô tả khá đầy đủ trong hồi ký “Our Enless War”, tiểu mục “Our Coup succeeds”.
Về phần tôi, theo dõi sát tiến triển từng bước một của kế hoạch, tôi mừng thầm nhưng không ngạc nhiên vì các bạn bè đồng chí, con cháu của tôi đã can trường thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôi, và đóng góp tích cực cho sự thành công của cuộc đảo chính. Trong tiến hành đảo chính, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Khắc Mai nắm ngay quyền Tư lệnh không quân rồi cho phi cơ phóng pháo bay lượn trên không phận Sài gòn để uy hiếp các lực lượng phản cách mạng và biểu dương khí thế cách mạng cho quần chúng. Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Toàn kéo quân và Thiết giáp từ Vũng Tàu về yểm trợ cho Bộ binh; Đỗ Như Luận, Chu Văn Trung, Lê Phước Sang vô hiệu hoá ngay Lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung. Các sĩ quan trẻ ở trung đoàn Thiết giáp cô lập ngay thiếu tá Thẩm Nghĩa Bôi rồi biệt phái một số thiết giáp về bảo vệ cho Bộ Tổng tham mưu. Hai sinh viên quân y Phạm Văn Lương và Nguyễn Văn Cơ cướp quyền chỉ huy tại trường Quân Y, phân phát vũ khí cho một nhóm sinh viên đồng chí nòng cốt. Phạm Ngọc Thảo và bác sĩ Nguyễn Phúc Quế sau hai lần tấn công mới chiếm được đài phát thanh Sài gòn. Đến 4 giờ chiều, Quế gọi điện thoại cho tôi để xin chỉ thị, tôi ra lệnh cho Quế phải đọc lời hiệu triệu đầu tiên của Hội đồng quân nhân cách mạng, đại ý gồm có lời tuyên bố lý do quân đội phải đứng lên lật đổ chế độ, lời kêu gọi ông Diệm đầu hàng, và lời hứa sẵn sàng để cho ông Diệm xuất ngoại, và cuối cùng là lời hiệu triệu quốc dân đồng bào đoàn kết làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng do quân đội khởi xướng. Một điều làm tôi rất phấn khởi là chiều hôm đó đại tá Lâm Văn Phát đã cấp tốc từ Vũng Tàu về tham gia đảo chính, cầm quân đánh vào thành cộng hoà và triệt tiêu những ổ kháng cự của các toán quân thuộc Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Tổng thống Phủ còn trung thành với chế độ cũ. Tôi mừng vì đại tá Phát là một sĩ quan Công giáo đã từng được anh em ông Diệm hết sức thương mến tín nhiệm, từng được giao cho những chức vụ quan trọng như Sư đoàn trưởng, như Tổng giám đốc Bảo An, nhưng Phát là người cương trực, cho nên ông ta đã không vì lợi danh chịu làm tay sai cho một chế độ mà Phát đã từng lên án. Việc đại tá Phát tham gia đảo chính càng nói lên cái chính nghĩa rực rỡ của quân đội trong việc lật đổ chế độ.
Vào khoảng nửa đêm, tướng Đính cho mở cửa nhà tù để giải thoát các nhóm sinh viên tranh đấu. Nhóm sinh viên này gồm các anh Đinh Thạch Bích, Trần Phong, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Tường Bá, Vũ Văn Lê, Trần Huy Bích, Trịnh Đình Thắng, v.v... (hiện ở Hoa kỳ) và riêng anh Nguyễn Hữu Đổng (hiện ở Pháp) và một số anh em khác vừa được trả tự do, vội đến Bộ Tổng tham mưu và được các tướng lĩnh đón tiếp. Vừa gặp chúng tôi, họ mừng ra nước mắt, ôm chầm lấy chúng tôi biểu lộ nỗi hân hoan vui mừng. Họ xúc động đứng trước mặt chúng tôi, ngỏ lời cảm ơn quân đội đã đứng lên giải thoát cho họ và cho đồng bào khỏi một chế độ bạo tàn kìm kẹp, rồi giơ cao tay thề quyết tâm làm tròn sứ mạng lịch sử và trung thành với Hội đồng quân nhân cách mạng. Việc tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Quân khu 4 đầu hàng, việc đại tá Lâm Văn Phát tham dự đảo chính, việc các sinh viên tỏ lòng ngưỡng mộ tướng lĩnh là những khích lệ tinh thần cao quý đầu tiên của quân dân ban thưởng cho chúng tôi.
Cũng vào khoảng nửa đêm, trừ dinh Gia Long còn nằm trong tay Quân phòng vệ Phủ Tổng thống, tất cả các quân đoàn trên toàn quốc và nhiều đơn vị đã hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của quân đội đảo chính. Tại Nha Trang và Khánh Hoà, nơi có quân số đông đảo và nơi mà đa số nhân dân theo Phật giáo, đại tá Quân trấn trưởng Nguyễn Vĩnh Xuân nắm vững ngay tình hình nhờ sự hợp tác chặt chẽ của nhiều sĩ quan không quân và hải quân, và nhờ hậu thuẫn trung thành của Trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan Đồng Đế và trung tâm Biệt động quân tại Dục Mỹ. Tại Đà Lạt ngay chiều hôm đó, khi tiếng súng bắt đầu nổ vang tại Sài gòn, trung tá Trần Ngọc Huyền, chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc gia vội vã thiết quân luật và cùng với ông Nguyên Văn Phước, Thị trưởng Đà Lạt, làm chủ tình hình. Riêng tướng Thái Quang Hoàng chỉ huy trưởng Đại học quân sự và Quân trấn trưởng Đà Lạt, tuy mang nỗi lòng của một công thần bị vắt chanh bỏ vỏ nhưng trước biến chuyển của tình hình, ông ta vội vã lánh mình lên Ban Mê Thuộc. Tướng Hoàng biết trước cuộc đảo chính thế nào cũng xảy ra nhưng ông ta chỉ muốn giữ thái độ trung lập. Ông không muốn chống ông Diệm nhưng cũng không muốn chống lại cuộc cách mạng để khỏi mang tiếng hành động ngược lòng dân. Đại tá Tôn Thất Xứng, một cựu đảng viên Cần lao lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng Lực lượng Biệt động quân, cũng biết trước cuộc đảo chính sẽ xảy ra nhưng cũng “khôn ngoan” như tướng Hoàng, ông đã giữ thái độ trung lập. Một ngày trước biến cố, ông mượn cớ đi thanh tra các trung tâm huấn luyện Biệt động quân để lánh mình, tránh cho ông một hoàn cảnh khó xử.
Vào khoảng 9 giờ đêm, tại văn phòng của tướng Khiêm, nơi được chọn làm bộ chỉ huy, tướng Dương Văn Minh, vị lãnh tụ Hội đồng quân nhân cách mạng bèn hỏi từng người "ai theo cách mạng và ai còn theo ông Diệm". Tất cả đều hoan hỉ trả lời “theo cách mạng” trừ đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh nhảy dù trả lời: "Tôi là một quân nhân kỷ luật, tôi không làm chính trị, tôi chỉ biết tuân lệnh Tổng thống Diệm".
Cao Văn Viên thời còn là trung uý (năm 1953) đã cùng tôi và Nguyễn Văn Thiệu làm việc tại khu chiến Hưng Yên, chúng tôi coi nhau như bạn thân. Cao Văn Viên là người ít nói trong lúc Thiệu và tôi hay thảo luận chính trị và thời thế. Năm 1958, Cao Văn Viên được Tổng thống Diệm đưa về dinh Độc lập giữ chức Tham mưu trưởng Biệt Bộ thay tướng Nguyễn Văn Là được cử giữ chức Tổng giám đốc Công an. Cuối năm 1960, nhân biến cố Nhảy dù xảy ra, Cao Văn Viên mặc dù thuộc Bộ binh nhưng được ông Diệm thăng đại tá và cử chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù thay đại tá “phản loạn” Nguyễn Chánh Thi đã trốn qua Cao Miên tị nạn chính trị. Tuy nhiên trong lúc Cao Văn Viên chỉ cố gắng hành xử nhiệm vụ của một quân nhân thì bà Cao Văn Viên cũng như bà Nguyễn Văn Là, lại là những phu nhân thích hoạt động chính trị, thích nổi tiếng. Hai bà đều là nhân viên cao cấp trong "Phong trào Phụ nữ liên đới” của bà Nhu và cộng tác đắc lực với Đệ nhất phu nhân. Bà Là lại còn là thành viên của "Lực lượng Phụ nữ bán quân sự", là thiện xạ số hai bên cạnh thiện xạ số một là Ngô Đình Lệ Thuỷ, ái nữ của ông bà Cố vấn. Qua màn ảnh tuyên truyền của Bộ thông tin, dân cả nước, hàng tuần đều được chiêm ngưỡng dung nhan cô Lệ Thuỷ và bà Là thi đua tác xạ, thi đua bắn bong bóng, tập thao diễn quân sự, tập tác chiến, nằm cạnh các lỗ châu mai tại “chiến trường Thị Nghè" của thành phố Sài gòn - Gia định. Dưới chế độ Diệm, trong hàng tướng lĩnh có ba bà tướng thuộc hạng "đàn bà dễ có mấy tay" là bà Thái Quang Hoàng, đã dám đấu khẩu với bà Nhu sau ngày đảo chính Nhảy dù, còn bà Nguyễn Văn Là và bà Cao Văn Viên là những phụ nữ thuộc hạng "gái ngoan làm quan cho chồng".
Khốn nỗi khi đại tá Cao Văn Viên tỏ thái độ trung thành với Tổng thống Diệm thì nhiều sĩ quan cấp tá thuộc Lực lượng Nhảy dù lại điện thoại về Bộ Tổng tham mưu hoan nghênh cách mạng và xin đặt dưới quyền điều động của Hội đồng tướng lĩnh. Đến 10 giờ đêm, tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tất cả các tướng tá có mặt tại Bộ Tổng tham mưu xưng danh để được phát thanh trên đài Sài gòn. Theo đại uý Đỗ Thọ, sĩ quan tuỳ viên độc nhất đi trốn với anh em ông Diệm, thì lúc nghe phát thanh, tâm tư hai ông Diệm, Nhu vô cùng rung động. Ông Nhu bỏ ý định về miền Tây với Huỳnh Văn Cao và quyết định bỏ nhà Mã Tuyên để về trú ẩn tại nhà thờ Cha Tam. Lúc bấy giờ, ông Diệm nói với ông Nhu: "Chú nên ở cạnh tôi, vì chú đi riêng thì họ sẽ giết". Câu nói của ông Diệm biểu lộ sự cảm nhận cái thế tuyệt cùng và sự thất bại không tài nào cứu vãn được nữa. Đối với Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Phạm Xuân Chiểu thì việc họ chống đối ông là việc tất nhiên, nhưng ông không ngờ toàn thể những người đã một thời trung thành với ông, đã có công lao to lớn phò tá ông trong bước khó khăn, trong những năm đâu của chế độ, đặc biệt là những sĩ quan miền Trung cũng đều quyết liệt chống lại ông. Ông có ngờ đâu những tướng tá như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Chuẩn, Nguyễn Chương, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Ngọc Huyền, v.v... cũng đều tham gia cách mạng. Những người dân sự thân nhất của ông như cụ Trần Văn Chương, Linh mục Cao Văn Luận, Bác sĩ Trần Kim Tuyến đều đã phản bội ông, Võ Văn Hải cũng bỏ rơi ông, nay lại đến các quân nhân thân thiết, tin cẩn đều đồng thanh lật đổ ông thì thật sự ông không còn bám víu vào đâu được nửa. Đảng Cần lao, Phong trào Cách mạng quốc gia, Thanh niên cộng hoà, Lực lượng đặc biệt, Phụ nữ liên đới, Quốc hội gia nô, lực lượng mật vụ... những con bài domino của ông đã tan biến trước cơn lốc cách mạng của toàn quân, toàn dân. Có lẽ vì thế mà ông đến nhà thờ Cha Tam, để một lần cuối, đưa lời cầu nguyện với Chúa. Gần mười năm qua ngự trị trên đất nước quê hương, sau mỗi bài diễn văn, mỗi bức thông điệp, ông luôn xin Thượng đế ban phép lành cho thân thế địa vị ông và gia đình ông được vững như bàn thạch, ông có ngờ đâu “phép lạ không đến hai lần”, ông có ngờ đâu Thượng đế chí công vô tư như Thánh Kinh đã dạy: "Ai gieo gió thì gặt bão".
Huỳnh Văn Cao, vị tướng “con nuôi” của ông Diệm còn có ba sư đoàn trong tay, còn có cả một giang sơn rộng lớn gồm vùng Tiền Giang, Hậu Giang thế mà chỉ mới nửa đêm 1-11-63 đã vội đầu hàng Cách mạng, thề nguyền trung thành với Hội đồng Cách mạng thì hỏi còn ai dám có ý đồ cứu ông Diệm nữa. Tuy vậy, khi tiếng súng đảo chính mới bắt đầu nổ, anh em ông Diệm tưởng rằng chỉ có một nhóm quân nhân nổi lên phản loạn, và ông tưởng có thể tái diễn được trò "gọi quân trung thành về cứu giá" như ba năm về trước (11-11-60) do đó ông đã đối đáp cứng rắn với Đại sứ Cabot Logde như sau:
Diệm: Một nhóm binh sĩ phản loạn đã khởi sự đảo chính, vậy thái độ của chính phủ Hoa kỳ như thế nào?
Logde: Bây giờ là 4 giờ 30 sáng tại Washington, tôi không thể tham khảo ý kiến của chính phủ tôi vào lúc này. Tôi lấy làm lo ngại cho an ninh cá nhân của Tổng thống... Tôi muốn trình bày với Tổng thống về thiện chí của chính phủ Hoa kỳ là Tổng thống có thể đến ẩn trú tại tư dinh của tôi. Tôi có thể thu xếp để Tổng thống có thể ra khỏi nước. Các vị tướng lĩnh đã hứa với tôi là họ sẽ thoả mãn như vậy.
Diệm: Tôi sẽ hành xử theo trách nhiệm và lương tri của tôi, tôi sẽ cố gắng lập lại trật tự.
Nếu tại Sài gòn ông Diệm chủ quan không nắm vững tình hình thì tại Mỹ, bà Nhu cũng chủ quan vì kiêu căng. Chiều 1-11-63, khi cuộc Cách mạng tại Sài gòn đang trên đà thắng lợi thì tại Los Angeles, trong một cuộc phỏng vấn của báo chí, bà Nhu vẫn quyết liệt cho rằng cuộc đảo chính không bao giờ thành công, bà ta nhấn mạnh ba lần "never, never, never". Nói chuyện với Đại sứ Cabot Logde xong, hai ông Diệm-Nhu bắt đầu xuống hầm, một pháo đài dưới đất với đầy đủ tiện nghi và được trang bị đầy đủ máy móc truyền tin viễn liên cực mạnh để có thể liên lạc được với các tỉnh. Cái hầm xi măng cốt sắt đủ sức chống nổi bom 500 cân Anh này được xây cất dưới sân dinh Gia Long sau vụ hai phi công Quốc, Cử ném bom dinh Độc lập vào tháng Hai năm 1962.
Nhưng nếu Vạn lý trường thành đã không bảo vệ được dòng họ Tần Thuỷ Hoàng thì cái hầm dinh Gia Long làm sao có thể chống chọi nổi lòng căm phẫn tột độ của quân nhân miền Nam Việt nam. Cho nên khi đã an toàn trong hầm kín rồi, và sau khi nói chuyện với tướng Đôn vào khoảng ba giờ chiều ngày 1-11, anh em ông Diệm mới đối diện với sự cô đơn và sự thật để bắt đầu khiếp sợ. Ông không ngờ toàn thể quân đội đã đoàn kết và hợp tác với tướng lĩnh để lật đổ chế độ. Ông bèn dịu ngọt gọi tướng Đôn để mời các tướng lĩnh đến dinh Gia Long bàn chuyện dàn xếp, ông cũng hứa với tướng Đôn là sẽ thoả mãn mọi nguyện vọng của tướng lĩnh. Nhưng kinh nghiệm với cái "bất thành tín" của nhà nho Ngô Đình Diệm, kinh nghiệm trung tá Vương Văn Đông đã bị ông Diệm lừa năm 1960, đời nào cấp lãnh đạo Cách mạng 1-11-63 còn mắc mưu ông Diệm, huống gì lập trường của tướng lĩnh là nhất định đi đến thành công, không chịu thương thuyết. Tướng Đôn nhắc lại cho ông Diệm nhớ rằng đã bao lần các tướng lĩnh trình bày với ông về tình hình nguy ngập của đất nước chỉ để yêu cầu ông thay đổi chính sách mà ông vẫn không nghe. Nay thì chỉ còn sự đầu hàng vô điều kiện, và chỉ để cho ông ra đi an toàn mà thôi. Sau đó tướng Đôn cho soạn hai cái giường tại Bộ Tổng tham mưu và vận động một chiếc phi cơ của Hoa kỳ để anh em ông Diệm xuất ngoại.
Trước thái độ cương quyết của tướng Đôn, và trong cảnh cô đơn, hai ông Diệm - Nhu mới thấy mọi tính toán đều hoàn toàn sụp đổ. Nhìn quanh chỉ thấy Cao Xuân Vỹ là ở kề, còn tất cả nhân viên và cán bộ đều xa lánh hết nên hai anh em ông Diệm - Nhu lợi dụng dinh Gia Long chưa bị bao vây bèn ra đi về phía Chợ Lớn trú ẩn tại nhà Hoa kiều Mã Tuyên, người bạn thân từng lo kinh tài cho Ngô Đình Nhu.
Vào khoảng 10 giờ đêm, ông Diệm từ nhà Mã Tuyên gọi điện thoại về Tổng tham mưu thì được tướng Dương Văn Minh trả lời. Lúc này thì ông Diệm đã hết giọng uy quyền, ông bằng lòng ra đi chỉ với một điều kiện là được vinh dự tiễn đưa theo nghi lễ quân cách. Tướng Minh lợi dụng cơ hội đó nặng nề lên án chế độ của Diệm là độc tài, gia đình trị, tham nhũng, thối nát làm cho quê hương nguy biến, dân chúng điêu linh, và quân đội thất trận trước lực lượng Việt cộng ngày càng thắng lợi, rồi ông Minh bác bỏ lời yêu cầu của ông Diệm, chỉ bằng lòng cho ông âm thầm ra đi mà thôi. Có lẽ vì tướng Minh đã dùng những lời lẽ nặng nề nên ông Diệm tức giận trách móc tướng Minh và có lẽ vì thế mà sáng mồng 2, tướng Minh đã thay đổi thái độ không còn khoan dung với ông Diệm nữa.
Sáng mồng 2, vào khoảng 7 giờ, toàn thể tướng tá vẫn còn ngồi trong văn phòng tướng Khiêm, tôi đang ngồi trước mặt tướng Khiêm tại bàn giấy ông ta, bỗng điện thoại reo lên, tôi liền nhắc máy nghe thì đằng kia là tiếng của Đỗ Thọ, cháu tôi:
- Thưa chú, Cụ và ông cố vấn hiện ở nhà thờ Cha Tam, Cụ bằng lòng ra đi, vậy xin tướng lĩnh cho xe xuống đón Cụ về Bộ Tổng tham mưu.
Tôi trả lời Thọ:
- Được rồi, nhưng chú không có thẩm quyền, để chú trao máy lại cho tướng Khiêm trả lời - rồi tôi chuyển máy lại cho tướng Khiêm.
Tướng Khiêm nói với Thọ:
- Được rồi, sẽ có xe xuống đón Cụ về đây. - Nói xong tướng Khiêm trình lại cho tướng Minh biết.
Sau đó, vì suốt đêm thức trắng để phối hợp các tiến triển của các lực lượng cách mạng, tôi và tướng Khiêm vòng tay ngồi ngủ tại bàn của tướng Khiêm. Chúng tôi ngủ say đến độ toàn thể tướng lĩnh rời hết khỏi phòng khi nào cũng không biết, mãi cho đến khi chuông điện thoại reo vang, hai chúng tôi mới giật mình thức dậy. Khiêm bèn bảo tôi: "Anh em giải tán đâu rồi, Mậu chạy tìm xem". Tôi bèn qua phòng tướng Lê Văn Tỵ nơi mà suốt đêm tướng Minh dùng làm phòng riêng, cũng không thấy ai nên kéo màn cửa chính thì thấy toàn thể tướng lĩnh đều có mặt ngoài bao lơn. Tôi mở hẳn cửa trước ra thấy mọi người đều im lặng trầm tư, trong lúc cuối bao lơn tướng Dương Văn Minh, tướng Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và đại tá Dương Ngọc Lắm còn đang thì thầm bàn tán. Bên cạnh tướng Minh, thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa, một đảng viên Đại Việt, cầm súng M16 đứng đó như có ý bảo vệ cho tướng Minh. Thấy không khí có vẻ nghiêm trọng, tôi vội hỏi ngay: "Các anh làm gì đứng đây có vẻ bí mật thế”, tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) đứng gần đấy trả lời rất nhỏ: “Anh em đang bàn định cách đối xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho ông ta xuất ngoại". Tôi vội nói to cho mọi người cùng nghe: "Tôi không đồng ý việc giết ông Diệm, lúc còn trong vòng bí mật, tôi đã nói với Trung tướng Đôn là phải để cho ông Diệm ra đi, Trung tướng Đôn đã đồng ý rồi”. Tôi vừa nói xong thì tướng Nguyễn Ngọc Lễ, một vị tướng nổi tiếng khoan hoà, đạo đức nhất trong hàng tướng lĩnh quay về phía tôi và cũng nói to lên: "Xin anh em đừng nghe lời anh Mậu, đã nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận rễ". Tôi chợt nhớ trong đêm trước đó đã có người kể cho tôi nghe rằng tướng Phạm Xuân Chiểu cũng đã nói câu như vậy. Thấy không ai phản đối tướng Lễ mà có vẻ im lặng đồng ý, tôi bực mình bèn nói thêm: "Việc tha hay giết ông Diệm là hành động lịch sử, vậy muốn tha hay giết ông ta, tôi đề nghị phải lấy quyết định tối hậu qua một cuộc bỏ phiếu kín, phải ghi vào biên bản đàng hoàng". Tất cả mọi người lại im lặng không có ai tỏ ra tán đồng ý kiến của tôi. Còn tướng Dương Văn Minh thì nhún vai tỏ thái độ bất mãn với tôi. Tôi bực tức giơ tay cao lên và nói: "Nếu không ai đồng ý với tôi thì tôi tuyên bố không dính líu gì đến việc này, các anh phải chịu lấy trách nhiệm trước lịch sử". Rồi tôi kéo trung tá Nguyễn Văn Thiện (chỉ huy trưởng Thiết giáp) và trung tá Lê Nguyên Khang (hiện ở Los Angeles) ra khỏi nơi tụ họp để đi quan sát tình hình tại trung tâm Sài gòn. Sau đó tướng Minh ra lệnh cho tướng Mai Hữu Xuân, đại tá Dương Ngọc Lắm, thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và đại uý Nguyễn Văn Nhung đi đón hai ông Diệm - Nhu tại nhà thờ Cha Tam.
Rời Bộ Tổng tham mưu trên đường trở về trung tâm thủ đô, tôi gặp nhiều đoàn biểu tình của thanh niên và sinh viên phất cờ và giơ cao biểu ngữ: "Hoan hô cách mạng thành công", "Đả đảo độc tài Ngô Đình Diệm", và "Hoan hô quân đội”. Trong các đoàn biểu tình có một đoàn rất đông người do luật sư Nguyễn Tường Bá (hiện ở San Jose) cầm đầu có mang theo cờ Việt nam Quốc Dân Đảng. Gần góc đường Hồng Thập Tự - Trần Quý Cáp một đoàn biểu tình khác của sinh viên chặn xe tôi lại rồi mời tôi ra khỏi xe, bồng tôi lên cao và hô to khẩu hiệu mừng chiến thắng và ca ngợi tôi là một chiến sĩ anh hùng.
Về đến dinh Gia Long, tôi thấy rất đông dân chúng vây quanh Dinh tràn ngập cả mấy con đường và công viên trước mặt. Họ reo hò ầm ĩ và chuyện trò vui vẻ với binh sĩ Thuỷ quân lục chiến đang chiếm đóng ngôi dinh thự mà từ ngày 27-2-1962 đã tượng trưng cho uy quyền bất khả xâm phạm của chế độ Ngô Đình Diệm. Rời dinh Gia Long để về nhà, khi đi qua góc đường Gia Long - Hai bà Trưng, tóm lại gặp một đoàn sinh viên khác mà phần lớn thuộc Đại học Văn khoa. Sau khi đập phá bức tượng Hai bà Trưng do bà Nhu dựng lên ở công trường Mê Linh, bến Bạch Đằng, họ náo nhiệt kéo hai cái đầu bằng đá mà họ bảo là của hai mẹ con "mệ Nhu". Những sinh viên dẫn đầu đoàn biểu tình tuyên bố sẽ kéo hai cái đầu “mẹ con mệ Nhu” này đi khắp đường phố Sài gòn cho dân chúng tự do chửi bới sỉ vả.
Đi đến đâu tôi cũng thấy dân chúng già trẻ, lớn bé, trai gái tràn ra khắp các nẻo đường và nét vui mừng, niềm hân hoan và mỗi xúc động hiện rõ trên từng tiếng cười từng câu nói.
Tôi về nhà nằm xuống cố chợp mắt để bù lại một đêm thức trắng căng thẳng hôm qua nhưng vẫn không ngủ được vì những hình ảnh sống động và hân hoan của dân chúng Sài gòn. Bốn giờ chiều tôi quyết định trở lại Bộ Tổng tham mưu. Khi xe ngừng trước công thự chính, tôi thấy một chiếc thiết vận xa đậu xéo trên sân cỏ, cửa sau mở toang, tôi hối hả bước đến gần thấy xác hai ông Diệm - Nhu nằm giữa sàn xe.
Nhìn thi thể ông Diệm tôi sững sờ và không tin đó là sự thật, đó là kết quả của quyết định sáng hôm nay của các tướng lĩnh sau khi tôi, Thiện và Khang bỏ về. Tôi đứng yên rưng rưng nước mắt rồi đưa tay chào vĩnh biệt người lãnh tụ đã cùng tôi kết ước từ hơn hai mươi năm về trước. Càng thương ông Diệm tôi càng căm giận bè lũ Cần lao và những người anh em ruột thịt của ông vì chính họ đã làm cho ông và tôi tan vỡ mộng ban đầu.
Trở lại văn phòng của tướng Khiêm, khi đi ngang văn phòng nhốt Lê Quang Tung và em là Lê Quang Triệu tối hôm qua, tôi chỉ còn thấy một mình Đỗ Thọ đang bị giam tại đó nên bảo viên trung sĩ quân cảnh để cho Thọ tự do ra về. Khiêm và tôi đang ngồi kiểm điểm tình hình thì có điện báo cho biết bác sĩ Trần Kim Tuyến đã từ Hông Kông về và hiện đang đợi ở phi trường Tân Sơn Nhất. Khiêm liền bảo Thiếu uý Nguyễn Bá Quang lấy xe đi đón.
Bác sĩ Tuyến tuy nhận lệnh lên đường đến nhiệm sở mới là Ai Cập nhưng ông chỉ đến Bangkok thì ngưng lại đợi ngày đảo chính vì ông vẫn tưởng kế hoạch chọn ngày Quốc Khánh (26-10-1963). Sau đó không tiện chỗ ở Bangkok ông bèn bay qua Hòng Kông và sau khi đích xác biết chắc chế độ Diệm đã hoàn toàn sụp đổ, ngày 2 tháng 11 ông trở về Sài gòn. Vừa gặp chúng tôi, chưa kịp chào hỏi, ông đã nói ngay "Thật là định mệnh”. Định mệnh nào đã an bài cuộc đời của ông Diệm để cho những năm cuối cùng của chính cuộc đời đó các anh em ông đã hành xử như những tên bạo chúa, múa may theo những hệ luỵ bất nhân. Định mệnh nào đã thôi thúc anh em ông xuống tay hạ độc thủ với ân nhân, với bạn bè, với cả những cộng sự viên thân tín. Định mệnh nào đã đẩy ông Diệm lên làm nguyên thủ quốc gia với quyền hành tuyệt đối để anh em ông tiến hành những chính sách tác hại không phải cho một người mà cho cả một dân tộc. Và định mệnh nào đã oan nghiệt đẩy anh em ông bước sâu vào vũng bùn tội lỗi khi dùng bạo lực để huỷ diệt một tôn giáo chỉ biết có tình thương. Nếu đứng trên sử quan Thiên chúa giáo thì định mệnh đó được hiểu là ý Chúa, và cái chết của ông Diệm là kết quả chung quyết của những từ khước các dịp thử thách mà trước đó Chúa đã cho ông. Ý Chúa đã muốn thế nên kết quả phải là là thế. Cát bụi lại trở về cát bụi.
Giáo lý Phật giáo nhìn cái chết của riêng ông Diệm một cách khác.
Cái chết thê thảm và tủi nhục đó chỉ là kết quả tổng hợp của những nhân duyên và nghiệp chướng triền miên một phần tử nhiều kiếp nhưng đặc biệt là do trong kiếp này gây ra. Những cộng nghiệp và trợ duyên tác động chung quanh chỉ làm sâu sắc hơn bản chất những việc làm của ông trong đời này mà thôi. Ông đã tự do làm chủ đời ông thì ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hệ quả của nó. Nhưng cũng trong ánh sáng của giáo lý đạo Phật thì chết là giải thoát, chết là trở về với sự bất thường hằng. Thân xác vốn được cấu tạo bởi những tế bào vô ngã và vô thường, chỉ một hơi thở mong manh là trở thành "nhất điểm hồng trần”.
Do đó cái chết của ông Diệm trong quan điểm Phật giáo dù gọi ông là Tổng thống hay là bạo chúa, xem ông là "lãnh tụ anh minh" hay "tội đồ dân tộc”, cũng có giá trị như cái chết của bất kỳ một người bình thường khác mà thôi. Có khác chăng là trong chiều dài lịch sử và trong chiều rộng nhân thế, ông đã để lại tủi nhục và đau buồn cho một số người nào đó trong một khoảng thời gian nào đó.
Riêng đối với tôi, tuy cái chết của ông Diệm lúc bấy giờ có làm bàng hoàng và đem lại cho tôi một mối suy tư sâu đậm, nhưng cuộc cách mạng thành công lại đã cho tôi một niềm vinh dự vô cùng lớn lao.
Tôi đã hiến thân cho một chí sĩ Ngô Đình Diệm nhưng tôi đã không chịu làm kẻ ngu trung cho một Ngô Đình Diệm phản bội quê hương giống nòi.
Lật đổ chế độ như chế độ công an trị Ngô Đình Diệm không phải là chuyện dễ dàng. Chế độ Diệm với bộ máy mật vụ và đảng viên Cần lao mà lòng trung thành tuy chỉ được xây dựng trên đặc quyền đặc lợi bạo quản bạo trị, nhưng lại nhiệt tình làm tai mắt cho chính quyền khắp hầu hết đơn vị quân đội, hầu hết cơ quan công quyền, hầu hết bộ phận sinh hoạt của xã hội, nhất là khi bị dồn vào thế cùng. Nếu chỉ nhìn khía cạnh thuần tuý khoa học tổ chức và so sánh tương quan lực lượng mà trong đó yếu tố bảo mật là quan trọng nhất thì trong suốt thời kỳ vận động và tổ chức ngày cách mạng, hai ông Nhu - Diệm đã nắm phần ưu thế tuyệt đối
Họ có năm cơ quan an ninh tình báo là bốn nổi và một chìm: Nổi là Công an Cảnh sát, An ninh quân đội, Lực lượng đặc biệt và Sở nghiên cứu chính trị, còn chìm là hệ thống Đảng viên Cần lao và các bộ phận mật vụ tình báo phụ thuộc. Tất cả như thiên la địa võng, như tai vách mạch rừng bao vây lấy các nhân sự và hoạt động chống đối. Họ có Ngô Đình Nhu tuy bất lực trong việc quản trị quốc gia nhưng lại xuất sắc trong các âm mưu và thủ đoạn tiêu diệt đối lập, nhất là bản chất vốn lạnh lùng và tàn ác không một chút do dự. Họ lại có những cấp thuộc hạ thi hành mệnh lệnh, muốn tiêu xài bao nhiêu cũng được.
Trong khi đó thì lực lượng đảo chính chỉ là một sự phối hợp của nhiều tổ chức và đoàn thể phức tạp tuy cùng chí hướng và mục tiêu nhưng lại thiếu sự đồng nhất về nhân sự và thống nhất về kế hoạch. Họ còn phải làm việc trong một tinh thần cảnh giác quá độ vì sợ nội tuyến của chính quyền và vì bị trói buộc trong tính chất bất hợp pháp nguy hiểm của công tác. Thế mà đảo chính vẫn thành công.
Sự thành công đó rõ ràng là không phải nhờ tổ chức giỏi hay lực lượng mạnh hơn mà thật sự chỉ nhờ ba yếu tố: thứ nhất là sự đồng tâm nhất trí của tất cả mọi tổ chức hay cá nhân tham gia lực lượng cách mạng, thứ hai là sự yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực của toàn quân, toàn dân mà ước nguyện chung lật đổ chế độ độc tài là ước nguyện cao nhất và lớn nhất; và thứ ba là đầu óc chủ quan, tinh thần thiếu thực tế và bản chất cao ngạo của Ngô Đình Nhu, người chủ trương một kế hoạch đảo chính giả để tiêu diệt cuộc "đảo chính” thật. Nhưng bao trùm lên trên những yếu tố thuận lợi đó dĩ nhiên là nhờ cuộc cách mạng đó đã được phát động hợp lòng dân, hợp thời đại và hợp với truyền thống cách mạng. Và đó mới là điều đáng kể nhất.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, vào khoảng 11 giờ sáng (hai giờ trước khi tiếng súng cách mạng bắt đầu nổ). Đôn báo cho Conein đến Bộ Tổng tham mưu để làm liên lạc viên giữa lực lượng cách mạng và các cơ quan Quân - Dân - Chính của Hoa kỳ tại Việt nam nếu cần. Conein bèn mặc quân phục, mang theo một khẩu 375 Magllum và một gói tiền độ 3 triệu đồng Việt nam rồi đến Bộ Tổng tham mưu.
Cũng cần phải nói rõ rằng số tiền ba triệu đồng Việt nam do Conein mang đến đã không được một tướng lĩnh nào hay biết trừ tướng Đôn. Tướng Đôn không bao giờ trình bày cho Hội đồng tướng lĩnh biết có nhận số tiền đó của Conein hay không, và nếu có thì đã sử dụng vào việc gì/ Ký giả Karnow trong "Vietnam: a history" trình bày rõ ràng trưa 1-11-1963, Conein khi tới Bộ Tổng tham mưu gặp tướng Đôn đã mang theo một số tiền ba triệu đồng Việt nam để “quân nổi dậy sử dụng nếu cần” (in case the insurgents needed funds). Ta thấy rằng cuộc cách mạng thành công là nhờ đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn dân, nhờ quyết tâm nhất trí của quấn đội, và nhờ kế hoạch tổ chức tinh vi chứ đâu có nhờ, huống gì khi Conein mang tiền đến Bộ Tổng tham mưu thì giờ phát động cách mạng sắp điểm, quân đội còn cần tiền làm gì nữa. Ước mong rằng tướng Trần Văn Đôn giải toả nghi vấn nhỏ này để quân đội dưới quyền ông lúc bấy giờ khỏi mang tiếng và để sự trong sáng của cách mạng khỏi mang một tỳ vết nào. (Tướng Đôn đã không đề cập đến số tiền này trong Hồi ký của ông ta).
Như vậy kể từ ngày 5 tháng 10, khi tướng Minh chính thức tiếp xúc vôi Conein để trình bày quan điểm và quyết định của lực lượng cách mạng cho đến ngày 1 tháng 11 năm 1963 khi tiếng súng cách mạng bùng nổ, trong không đầy một tháng ngắn ngủi nhưng sôi động đó quả thật đã có những liên lạc giữa lực lượng cách mạng và chính quyền Mỹ (qua trung gian không phải chỉ Conein mà còn Đại sứ Logde nữa). Sự liên lạc đó tuy chỉ có tính cách mạng thông tin nhưng bản chất thật sự của nó là bản chất của một cuộc đấu tranh chính trị quốc gia. Thật vậy, không cần sau này phải viện dẫn vào nội dung hai bức công điện của Thứ trưởng Ngoại giao Rogers Hillman (ngày 24 tháng 8) và của Đại sứ Logde (ngày 29 tháng 8) lúc bấy giờ, tại Việt nam ai cũng biết đa số nhân vật trong chính quyền Hoa kỳ muốn nhanh chóng giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị xã hội tại Việt nam mà cụ thể và bắt đầu là ông Diệm phải dứt khoát loại trừ ảnh hưởng của những người anh em khỏi chính quyền.
Tuy nhiên, ước muốn đó vẫn chưa hoàn toàn phản ảnh trung thực chính sách của Hoa kỳ vì vẫn còn nhiều người Mỹ khác tiếp tục ủng hộ ông Diệm (Phó tổng thống Johnson, Mac Namara, Giám đốc CIA Colby, Paul Harkins, Richardson, Nolting) đến nỗi Tổng thống Kennedy phải than “Lạy Chúa, chính phủ của tôi đang bị tan ra từng mảnh” (My God, my government is coming apart) và ngay cả bức công điện của Rogers Hillman cũng không được Tổng thống Kennedy hay Ngoại trưởng Dan Rusk duyệt xét trước vì hai ông này lúc bấy giờ không có mặt tại Washington. Chẳng những thế, trước những tin đồn và những dấu hiệu về rất nhiều cuộc đảo chính tại Sài gòn cũng như để chặn đứng những diễn dịch sai lầm về bức công điện vượt quyền của Hillman, ngày 30 tháng 8, Tổng thống Kennedy đã đánh một điện tín khẩn cấp cho ông Lodge để “huỷ bỏ cái điện tín ngày 24/8 và 29/8 ngay tại Hoa kỳ. Sự huỷ bỏ đó đã vô hiệu hoá những lời lên án chính quyền Kennedy về hành động cho phép, ghi nhận hay khuyến khích một cuộc chính biến tại Nam Việt nam”. Trước thái độ thiếu cương quyết và chưa rõ ràng như thế, các tướng lĩnh vốn đã tổ chức cuộc chính biến từ mấy tháng trước đó, nay quyết định chính thức thông báo cho chính quyền Hoa kỳ về sự hiện diện và về quyết định lật đổ chế độ của quân đội. Đó là một "nước cờ" ngoại giao ngoạn mục nhằm 2 mục tiêu: thứ nhất là Hoa kỳ ra khỏi thế liên minh bất đắc dĩ với ông Diệm một cách dứt khoát và vĩnh viễn và thứ hai là tạo một liên hệ tốt đẹp ngay từ bây giờ để chuẩn bị cho một tương quan đồng minh cần thiết sau cuộc chính biến.
Và mục tiêu thứ hai này mới là mục tiêu quan trọng.
Vì dù chính quyền Kennedy có đồng ý hay không, có phá hoại hay không, thì lực lượng cách mạng cũng đã được tổ chức rồi và cũng đã được cuốn hút vào cao trào chống đối chế độ của toàn dân. Riêng các tướng lĩnh như Minh, Đôn, Kim, Đính, Khiêm, họ ở vào cái thế không thể lùi được nữa, các bộ phận khác của quân đội do những sĩ quan cấp tá tổ chức sẽ tiến hành cuộc cách mạng, dù có hay không có họ? Do đó, khi liên lạc với Toà đại sứ Hoa kỳ, mà qua đó đánh dội về Washington, mục tiêu chính là vẫn duy trì được giao hảo tốt đẹp giữa 2 nước để Hoa kỳ không những sẽ giúp miền Nam hồi phục lại được sức mạnh mà còn yểm trợ miền Nam dồi dào hơn cho một cuộc thư hùng Quốc cộng chắc chắn sẽ khốc liệt hơn sau này.
Làm một cuộc chính biến để lật đổ một chế độ là việc khó nhưng vẫn không khó bằng sau cuộc chính biến đó đất nước sẽ mạnh hơn. Cho nên "nước cờ" ngoại giao đó của các tướng lĩnh là một hành động chính trị khôn ngoan và cần thiết để đảm bảo cho đất nước sẽ mạnh hơn sau này mà thôi. (Tiếng rằng nếu họ đã thành công trong lãnh vực duy trì được một mối giao hảo tốt với đồng minh Hoa kỳ thì ở những lãnh vực khác họ đã thết bại và tạo ra một chuỗi dài những xáo trộn mà tôi sẽ đê cập ở chương tiếp theo). Quy luật chính trị và những đòi hỏi của tình thế rõ ràng như thế, nhưng vẫn có những kẻ cho rằng nếu Mỹ không "bật đèn xanh" thì quân đội và nhân dân miền Nam không đủ sức và không dám làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ Diệm, thứ hai là họ cho rằng chính chính quyền Kennedy là kẻ chủ xướng và điều động cuộc cách mạng 1-11-63.

Chương 18
Ba năm xáo trộn

Ngày 2 tháng 11 năm 1963, vào khoảng 7 giờ sáng, đài phát thanh Sài gòn loan tin dinh Gia Long đã bị lực lượng Cách mạng chiếm, hai anh em ông Diệm - Nhu tự tử. Số người bị thương vì lạc đạn là 145 người và 20 người chết cả quân lẫn dân. Tiếng súng êm dần, nhân dân Đô thành tiếp tục đổ trào ra đường phố để hoan hô quân đội, mua quà bánh tặng các chiến sĩ, nói chuyện vui đùa với quân nhân trong niềm hoan lạc chung. Nhiều đoàn thanh niên sinh viên đến đập phá trụ sở Việt Tấn xã và trụ sở chín tờ báo đã ủng hộ chế độ cũ. Hai mươi sáu trụ sở cá nhân và các đoàn thể tay sai chế độ cũ cũng bị chung số phận. Tượng Hai bà Trưng vì giống bà Nhu và con gái nên đã bị sinh viên kéo sập xuống, chặt đầu và lôi đi diễu hành trên đường phố. Buổi trưa có tin hai anh em ông Diệm bị giết chứ không phải tự tử.
Cũng trong ngày hôm đó, Hội đồng quân nhân cách mạng ra tuyên cáo số 1 gồm năm điểm:
- Quân đội đã làm cách mạng lật đổ một chế độ độc tài thể theo ý nguyện của toàn dân.
- Cuộc cách mạng được toàn thể mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
- Sẽ thành lập gấp một chính phủ lâm thời để điều hành quốc gia.
- Một Hội đồng nhân sĩ sẽ được thành lập để cố vấn cho chính phủ trong giai đoạn chuyển đổi.
Khi các định chế dân chủ được thực hiện, Hội đồng quân nhân cách mạng sẽ trao quyền cho quốc dân.
Trong tuyên cáo số 2, Hội đồng quân nhân cách mạng cho biết chủ trương của Hội đồng là không độc tài nhưng áp dụng một số hình thức dân chủ trong tinh thần kỷ luật, đoàn kết toàn dân. Các đảng phái được tự do hoạt động, tôn trọng quyền tự do ngôn luận của báo chí, trả tự do cho những chính trị phạm không Cộng sản, tự do tín ngưỡng, các tôn giáo được đối xử bình đẳng, Việt nam vẫn đứng trong thế giới tự do và duy trì giao hảo với lân bang và các nước bạn, tôn trọng các hiệp ước đã ký kết, tôn trọng ngoại sản và tính mạng ngoại kiều.
Ngày 3 tháng 11, một quyết nghị khác lại ra đời, cho biết tạm ngừng Hiến pháp 26-10-1956, giải tán Quốc hội của chế độ cũ. Hội đồng quân nhân cách mạng ra mắt báo chí và quốc dân với thành phần:
- Chủ tịch: Trung tướng Dương Văn Minh.
- Đệ nhất Phó chủ tịch: Trung tướng Trần Văn Đôn.
- Đệ nhị Phó chủ tịch: Trung tướng Tôn Thất Đính.
- Tổng thư ký kiêm Uỷ viên ngoại giao: Trung tướng Lê Văn Kim.
- Uỷ viên chính trị: Thiếu tướng Đỗ Mậu.
- Uỷ viên quân sự: Trung tướng Trần Thiện Khiêm.
- Uỷ viên kinh tế: Trung tướng Trần Văn Minh.
- Uỷ viên an ninh: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu.
Các Uỷ viên khác: Các Trung tướng Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân - Các thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có.
Cũng trong ngày hôm đó, Đại sứ Ngô Đình Luyện ở London, em ruột của Tổng thống Diệm, từ chức. Ngày 4-11, Hiến ước tạm thời số 1 được ban hành để xác định rằng Việt nam vẫn theo thể chế Cộng hoà, quyền Lập pháp và Hành pháp thuộc Hội đồng quân nhân cách mạng, quyền hạn Quốc trưởng thuộc Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng, quyền Hành pháp uỷ cho chính phủ lâm thời do Hội đồng chỉ định và các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì để bảo đảm an ninh và trật tự công cộng.
Và chỉ bốn ngày sau khi lật đổ Ngô Đình Diệm, Hội đồng quân nhân cách mạng chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng để thành lập chính phủ lâm thời vào ngày 5-11. Ba ngày sau, nội các ra mắt đồng bào với chủ trương "cách mạng ôn hoà". Trong số 15 Tổng Bộ trưởng của tân nội các, ta thấy có 6 nhân vật của chế độ cũ và 5 sĩ quan cao cấp. Riêng ông Thơ, tuy là cựu Phó tổng thống nhưng lại là bạn thân của tướng Minh (đã từng lôi kéo ông Minh giúp Thủ tướng Diệm chống Pháp và Bình xuyên vào những năm 1954 - 1955) và mấy thắng trước cuộc cách mạng đã liên lạc thường xuyên với ông Minh trong việc vận động đảo chính.
Cũng trong ngày 5-11 này, trong khi ba người con của ông Nhu ở Đà Lạt được Hội đồng quân nhân cách mạng khoan hồng đưa đi Âu Châu để được đoàn tụ với bà Nhu thì tại Sài gòn hàng vạn dân chúng tham dự lễ an táng thiếu tá Bùi Quang Ngãi đã bỏ mình trong cuộc tấn chiếm dinh Gia Long.
Các quốc gia trên thế giới (mà nước đầu tiên là Mã Lai á) bắt đầu công nhận và thiết lập ngoại giao với tân chế độ (cho đến ngày 3-11 có tất cả 21 quốc gia chính thức công nhận VNCH, kể cả Hon Kỳ và Toà thánh Vatican).
Ngày 6-11, nguyên cố vấn chỉ đạo miền Trung Ngô Đình Cẩn bị bắt và giải từ Huế vào Sài gòn. Lệnh giới nghiêm được bãi bỏ và sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân sĩ ra đời.
Ngày 7-11, Lực lượng đặc biệt do nguyên đại tá Lê Quang Trung chỉ huy trở về qui thuận.
Ngày 8-11, những chính khách và quân nhân bị lưu đày tại Côn Đảo dưới chế độ Diệm được trả tự do và đưa về Sài gòn. Hàng vạn người tưng bửng đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng. Các tướng Nguyễn Văn Vỹ và Dương Văn Đức cũng từ Pháp trở về Việt nam. Các chính khách lưu vong tại Cao Miên, Lào đều lục tục trở về.
Ngày 12-11, Uỷ ban lãnh đạo Sinh viên Liên khoa đòi thanh trừng hàng ngũ chức bị coi là mật vụ của chế độ cũ. Cùng ngày này, chính phủ bãi bỏ Phủ tổng uỷ Dinh điền và Nông vụ để thay bằng Phủ Tân sinh Nông thôn.
Ngày 15-11, các trường Cao đẳng và Đại học bị đóng cửa dưới chế độ Diệm được mở lại. Ngày 16-11, tân chính phủ thể theo ý nguyện của toàn dân, thành lập một Uỷ ban điều tra tội ác các phần tử của chế độ đã dựa vào thế lực hay địa vị để bắt giam trái phép, tra tấn, hãm hiếp, sát nhân, và một Uỷ ban Điều tra tài sản thủ đắc phi pháp cũng được thành hình.
Ngày 18-11, Toà đại sứ Phillippines giao trả lại cho chính phủ VNCH cựu Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu đã lánh nạn sau ngày 1-11-63. Đại tướng Lê Văn Tỵ được cử làm Cố vấn quân sự cho chính phủ và đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông, thiếu tá Phạm Văn Liễu cùng một số sĩ quan sau ba năm lánh nạn ra ngoại quốc trở về nước. Đường Ngô Đình Khôi Sài gòn được đổi thành đường Cách mạng 1-11. Ngày 19, 20 và 22 tháng 11, học sinh Nông lâm súc, học sinh trung học Huế và nhiều tỉnh khác biểu tình đòi các giáo sư đã làm mật vụ cho chế độ cũ phải từ chức.
Ngày 12-12, một vị du tăng khất sĩ tại Bình Định tự thiêu cúng đường Tam Bảo, mừng Phật giáo thoát nạn.
Ngày 14 tháng 12, Thành Cộng hoà tại trung tâm thành phố, một căn cứ cũ của quân xâm lăng Pháp và của Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống thời ông Diệm, được giao cho Bộ Giáo dục về thiết lập một khu Đại học (mà sau này là Đại học Văn khoa và Dược khoa). Đây là một trong những quyết định sáng tạo của chính quyền nhằm bôi xoá những hình thức biểu tượng độc tài và bạo trị của chế độ cũ. Nhất là trên mảnh đất đó từ nay sẽ là những giảng đường trao truyền tinh thần và kiến thức đại học cho thế hệ Việt nam tương lai.
Ngày 16 tháng 12, chính phủ tịch thu tài sản của ông Ngô Đình Diệm, gia đình ông ta và thuộc hạ 21 người cùng với các đoàn thể ủng hộ chế độ cũ như Cần lao nhân vị, Phong trào Cách mạng quốc gia, Phong trào Liên đới Phụ nữ, Thanh niên cộng hoà, Hội Việt nam Cao đẳng Giáo dục.
Ngày 18 tháng 12, bãi bỏ luật 12/62 Bảo vệ Luân lý của bà Nhu, cho mở lại các tiệm khiêu vũ nhưng cấm điệu vũ đồi phong bại tục và cấm các thanh niên dưới 18 tuổi vào các tiệm khiêu vũ. Hơn nữa, các tiệm khiêu vũ đóng thuế xa xỉ đặc biệt thật nặng, 200 đồng cho mỗi khách và mỗi lần vào tiệm.
Cũng ngày này, Đại sứ Trần Chánh Thành được cử sang Nam Vang tiếp xúc với Sihanouk để tỏ lòng thiện chí giao hảo của chính phủ Việt nam.
Ngày 23 tháng 12, Thiếu tướng Cao Đài Lê Văn Tất và một đại đội binh sĩ Cao Đài từ Cao Miên về nước hợp tác với tân chế độ.
Ngày 25 tháng 12 một sắc luật ra đời cho phép những người đã bị kết án chống đối chế độ cũ có thể xin tái thẩm để bạch hoá hồ sơ.
Ngày 26 tháng 12 thành lập SONADEZI, công ty quốc doanh có mục đích tạo lập và khuếch trương các khu kỹ nghệ để phát triển kinh tế và thu dụng nhân công.
Ngày 29 tháng 12, một phái đoàn thiện chí Cao Miên tới Sài gòn, Bộ Ngoại giao VNCH tuyên bố sắn sàng thương thuyết về mọi vấn đề Miên - Việt.
Ngày 30 tháng 12, sinh viên Kiến Trúc phản đối sắc luật tháng 5/1963 của chế độ Diệm về thể lệ hành nghề quá ngặt. Cung ngày này bãi bỏ lệ chào cờ trước khi chiếu bóng, diễn tuồng vì lễ này (được đặt ra từ khi ông Diệm làm Tổng thống) bắt buộc khi chào cờ thì phải chào luôn cả chân dung ông Diệm giữa lá quốc kỳ. Ngày 31-12, Đại hội Thống Nhất Phật giáo khai mạc tại chùa Xá Lợi hợp nhất Nam - Bắc - Tông để soạn thảo một Hiến chương chung.
Ngày 2-1-64, khai mạc Hội đồng nhân sĩ tại Hội trường Diên Hồng: Hội đồng gồm 60 người, gồm đa số các nhân vật tên tuổi được quốc dân và sinh viên trọng vọng và đã từng trực tiếp hay gián tiếp chống đối nhà Ngô.
Ngày 4-1, một Uỷ ban được thiết lập để điều chỉnh tình trạng những công chức đã bị chế độ cũ trừng phạt oan hay thăng thưởng quá đáng.
Ngày 5-1, có một số đổi thay trong thành phần chính phủ: Trung tướng Tôn Thất Đính giữ chức Tổng trưởng Nội vụ, Thiếu tướng Đỗ Mậu Uỷ viên chính trị kiêm Tổng trưởng Thông tin, Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng kiêm tư lệnh Quân đội, Trung tướng Lê Văn Kim Tổng thư ký kiêm Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Trần Thiện Khiêm Tư lệnh Quân đoàn III và Thiếu tướng Nguyễn Văn Quang Giám đốc Nha An ninh quân đội.
Cùng ngày này, lễ truy điệu văn hào kiêm cách mạng gia Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được cử hành vô cùng trọng thể tại vườn Tao Đàn với sự tham dự của rất đông sinh viên và dân chúng.
Ngày 10-1, Sihanouk đề nghị Miên và Việt cùng từ bỏ mọi yêu sách về đất đai và chấm dứt mọi tranh chấp chủ quyền về các hải đảo (dưới chế độ Diệm, Sihanouk đòi phải sửa biên giới Miên - Việt và đòi một số đảo của Việt nam tại vịnh Thái Lan).
Ngày 12-1, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất bầu Thượng Toạ Thích Tâm Châu giữ chức Viện trưởng Viện Hoá Đạo.
Ngày 13-1, sinh viên học sinh biểu tình lớn chống chính sách trung lập nhân dịp Baudevan, Giám đốc Trung tâm Văn hoá Pháp qua thăm Sài gòn.
Ngày 15-1, khánh thành đợt I hệ thống thuỷ điện Đa Nhim.
Ngày 16-1, Hội đồng nhân sĩ họp bàn về việt soạn thảo Tân hiến pháp.
Ngày 17-1, thanh niên sinh viên biểu tình chống Pháp và chống trung lập tại chợ Bến Thành và trước Trung tâm Văn hoá Pháp. Cùng ngày này, khoảng gần 1.000 du đãng do chế độ Diệm để lại được chia ra làm nhiều hạng: hạng nhẹ nhất được đi huấn luyện quân sự tại Quang Trung, hạng thứ hai được đem đi cải huấn tại trại Cải Huấn Thủ Đức, và hạng thứ ba thuộc loại nguy hiểm được đưa an trí tại Côn Sơn.
Ngày 23-l, Hội đồng nhân sĩ yêu cầu chính phủ đoạn giao với Pháp. Ngày 27 thành lập Điện lực cuộc tại Việt nam với nhiệm vụ kiến tạo và khai thác cơ sở sản xuất, phân phối và sử dụng điện năng.
Ngày 18-1, chính phủ ra thông cáo xác nhận chống trung lập, phản đối chính phủ Pháp đã thừa nhận Trung Cộng và quyết định có biện pháp đối phó. Bộ Kinh tế cấm nhập cảng hàng hoá Pháp, không cấp giấy phép nhập cảng cho Pháp kiều hoặc người Việt có Pháp tịch. Cũng trong ngày này Bộ Y tế ban hành Nghĩa vụ Luận cho giới y sĩ.
Ngày 29-1, sinh viên Sài gòn ra quyết nghị yêu cầu chính phủ phải quốc hữu hoá tài sản của Pháp ở Việt nam. Đồng thời một số nhân vật chính trị bị kết án sau vụ Bình Xuyên 1955 như các ông Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Hữu Thuần, Nguyễn Văn Hiếu được ân xá (Nhà báo tên tuổi Trần Văn Ân, học giả Hồ Hữu Tường và nhân sĩ Công giáo miền Nam, ông Trình Khánh Vàng, mấy tháng sau mới được ân xá).
Nhìn chung thì sau ba tháng cầm quyền, Hội đồng quân nhân cách mạng và chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ đang cố gắng để vãn hồi trật tự xã hội, cố gắng phát triển kinh tế và đặc biệt cố gắng xây dựng tình đoàn kết quốc gia. Ngoài ra cuộc Cách mạng 1-11-63 đã đem lại cho Việt nam cộng hoà hai thắng lợi nổi bật vô cùng tốt đẹp. Việc thứ nhất là Sihanouk tuyên bố từ bỏ tranh chấp biên giới và việc thứ hai là sự trở về với cộng đồng quốc gia của khối Cao Đài. Sihanouk từ bỏ vì coi chế độ Diệm là kẻ thù không đội trời chung nên đã tiếp tay làm lợi cho Cộng sản, còn 11 hệ phái Cao Đài cũng vì bị anh em ông Diệm triệt phá mà hoạt động cho Việt cộng (xem “Vietcong" của giáo sư Douglas Pi ke và đã được trình bày trong vụ Việt cộng tấn công sư đoàn 21 cuối năm 1960) nay đều chủ trương hoà hiếu với tân chế độ thì quả thật là một diễm phúc cho phe quốc gia chống cộng. Không nói thì ai cũng biết hai biến cố này sẽ làm cho Việt cộng mất đi những đồng minh vô cùng đắc dụng và làm nhẹ gánh chiến tranh hết sức may mắn cho Việt nam cộng hoà. Tiếc thay cuộc chỉnh lý của nhóm tướng Khánh sau đó, ba năm xáo trộn tiếp theo và chế độ Nguyễn Văn Thiệu, một chế độ Diệm không Diệm ra đời đã đẩy Sihanouk và Cao Đài trở về vị trí bất lợi cho Việt nam cộng hoà như dưới thời Ngô Đình Diệm làm hại cho phe quốc gia sau này.
Riêng đối với Hội đồng quân nhân cách mạng và chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ lúc bấy giờ, vì chủ trương "Cách mạng ôn hoà", vì khoan dung quá đáng cho thành phần Cần lao, thành phần chế độ cũ nên đã phạm phải những lỗi lầm vô cùng trầm trọng.
Lỗi lầm thứ nhất là tướng Dương Văn Minh đã cử ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng, một Thủ tướng có quá trình là một cựu Đốc phủ sứ, cựu Bí thư của Toàn quyền Decoux, từng cộng tác chặt chẽ với người Pháp và cựa Phó tổng thống của chế độ Ngô Đình Diệm. Mặc dù ông Thơ có công hoạt động với tướng Minh thời tiền cách mạng nhưng thành tích thân Pháp suốt cuộc đời của ông và đặc biệt là việc ông kêu gọi tướng Ba Cụt về hàng để bị anh em ông Diệm lừa và chặt đầu đã gáy căm phẫn cho các tôn giáo, đảng phái. Đã thế trong chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ lại có đến sáu vị Bộ trưởng thuộc chế độ Diệm, dù trong đó cũng có người có khả năng và liêm chính như Bộ trưởng Trần Lê Quang chẳng hạn, nhưng với một nội các gồm quá nhiều người thuộc chế độ cũ thì trước mắt quốc dân và quốc tế Tân chế độ gọi là Cách mạng chỉ là một chế độ Ngô Đình Diệm tái sinh.
Lỗi lầm thứ hai là việc thành lập Hội đồng nhân sĩ (conmmité Sages). Thành lập Hội đồng nhân sĩ là một sáng kiến chính trị tuy không mới mẻ gì nhưng lại rất thích hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Họ đã không mời những "hiền tài" của đất nước mà lại mời một số nhân vật chỉ là cộng sự viên cũ của họ. Tệ hại hơn, họ lại mời một số cựu "Cần lao" mà tiêu biểu là Trần Trung Dung, cháu rể nhà Ngô.
Lỗi lầm thứ ba là Hội đồng quân nhân cách mạng đã không gấp rút thay thế các giám đốc cơ quan trung ương hoặc các cấp bộ địa phương mà vẫn giữ lại số nhân viên và chức quyền cũ, trong đó đa số là thành phần Cần lao công giáo. Như ông Lê Nguyên Long trong bài "Bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn" đã phân tích một cách đúng đắn rằng nhóm Cần lao công giáo này, bắt nguồn từ một ý thức muốn trả thù cho chủ cũ, đã có những thái độ và hành động không những gây công phẫn cho nhân dân mà còn phá hoại đất nước qua khẩu hiệu nếu không có “Cụ” của chúng tao thì bọn bây chẳng làm gì nên thân. Cũng vì chính sách ôn hoà, giữ lại các cấp bộ quân đội và chính quyền cũ mà sau khi Cách mạng thành công Cao Văn Viên vẫn được chỉ huy Sư đoàn Dù để ba tháng sau ông ta tham dự vào cuộc chỉnh lý của tướng Khánh và do đó mà thiếu tá Nhung bị sát hại ngay giờ phút đầu tiên của cuộc chỉnh lý. Cũng vì những lỗi lầm trên mà đảng phái và tôn giáo bất mãn. Sự bất mãn trên đã biểu lộ qua các cuộc biểu tình của sinh viên, qua luận điệu chỉ trích nặng nề giới Cần lao của báo chí, qua tuyên ngôn của các đảng phái. Ngoài ra việc các tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim cho tướng Nguyễn Văn Vỹ hồi hương một cách mau chóng và có ý muốn trọng dụng nhóm Vương Văn Đông đã làm cho các tướng Dương Văn Đức, đại tá Nguyễn Chánh Thi bất mãn vì họ cho rằng tướng Vỹ và trung tá Đông là người của Pháp, là bạn thân của Nguyễn Văn Hinh và có liên hệ với Trần Đình Lan, một thứ con Tây đang làm gián điệp cho Pháp.
Chính thái độ “thiếu cách mạng” của Hội đồng quân nhân cách mạng đã là nguyên nhân chính yếu cho nhóm Nguyễn Khánh, Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, những tướng tá Cần lao cũ và nhóm Đại Việt của ông Nguyễn Tôn Hoàn lấy lý do để làm cuộc chỉnh lý một cuộc chỉnh lý mà Khánh tuyên bố là vì Hội đồng quân nhân cách mạng tạo ra tình hình suy sụp và chủ trương "thân Pháp và trung lập".
Ngày 30-1-1964, từ sáng sớm, người ta thấy một số đơn vị quân đội canh gác trên nhiều góc đường, có nơi có cả chiến xa. Một số tướng tá họp tại Bộ Tổng tham mưu gồm Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Chánh Thi, Dương Ngọc Lắm, Cao Văn Viên, Trần Thanh Bền, Albert Cao... để ra quyết nghị chấm dứt Hội đồng quân nhân cách mạng. Các tướng Đôn, Kim, Đính, Vỹ bị bắt an trí tại Đà Lạt, tướng Mai Hữu Xuân bị bắt an trí ở Huế. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ cũng bị bắt và bị tướng Đức làm nhục nhưng được trả tự do ngay.
Ngày 31 tháng 1, tướng Khánh họp báo tuyên bố: "Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực, về phần cách mạng, một số tướng lĩnh chạy theo thực dân, Cộng sản (?) nên một lần nữa quân đội lại phải can thiệp”. Tướng Khánh giải thích: “Không có đảo chính, chỉ có chỉnh lý để chính quyền theo đúng đường lối cách mạng”. Ông ta cũng tuyên bố được Hội đồng quân nhân cử làm Chủ tịch kiêm Tổng tư lệnh quân đội. Hội đồng quân nhân cách mạng được đổi tên thành "Hội đồng quân đội Cách mạng”. Những tướng tá chủ trương cuộc chỉnh lý này gồm nhiều thành phần, tiêu biểu nhiều xu hướng, nhưng chủ lực ngoài tướng Khánh và một số sĩ quan cấp tá thuộc đảng Đại Việt của bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và ông Hà Thúc Ký còn một số tướng tá thuộc chế độ Diệm.
Ngày 1-2, chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ bị giải tán, tướng Khánh tiếp Ngoại giao đoàn và ban hành sắc luật đặt “chủ nghĩa Cộng sản và chính sách trung lập" ra ngoài vòng pháp luật. Cũng ngày này chủ tịch Đại diện Sinh viên từ chức, một Hội đồng gồm 15 chủ tịch các phân khoa được cử lên thay. Trong lúc đó chính phủ Hoa kỳ cũng tuyên bố chống giải pháp Trung lập tại Việt nam, và hôm sau Tổng thống Johnson gởi thư xác định với Trung tướng Nguyễn Khánh là Mỹ vẫn tiếp tục giúp đỡ Việt nam.
Ngày 5-2, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn về nước. Cùng ngày này, Hội đồng các Giám mục ra tuyên ngôn kêu gọi đoàn kết. Ngày 7-2, Hội đồng quân đội Cách mạng quyết định cử tướng Dương Văn Minh giữ quyền hành Quốc trưởng và cử tướng Khánh thành lập chính phủ.
Ngày 8-2, chính phủ Nguyễn Khánh ra đời với thành phần nội các dưới đây:
Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh.
- Phó Thủ tướng đặc trách Bình Định: BS Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt miền Nam).
- Phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế Tài chánh: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh.
- Phó Thủ tướng đặc trách Văn hoá Xã hội: Thiếu tướng Đỗ Mậu.
- Quốc vụ khanh: Bác sĩ Lê Văn Hoạch (cựu Thủ tướng Cao Đài).
- Tổng trưởng Ngoại giao: Bác sĩ Phan Huy Quát (Đại Việt miền Bắc).
- Tổng trưởng Nội vụ: Kỹ sư Hà Thúc Ký (Đại Việt miền Trung).
- Tổng trưởng Công chánh: Kỹ sư Kiều lộ Trần Ngọc Oánh (Công giáo).
- Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục: Tiến sĩ Bùi Tường Huân (Phật giáo).
- Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Trần Thiện Khiêm.
T- ổng trưởng Cải tiến Nông thôn: Kỹ sư Nguyễn Công Hầu (Hoà Hảo).
- Tổng trưởng Y tế: bác sĩ Vương Quang Trung (đội lập).
- Tổng trưởng Lao động: ông Đàm Sĩ Hiến (nguyên cố vấn các nghiệp đoàn công nhân lao động).
- Tổng trưởng Thông tin: Ông Phạm Thái, một chiến sĩ VNQDĐ.
- Tổng trưởng Tài Chánh: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh.
- Tổng trưởng Kinh tế: Tiến sĩ Âu Tường Thanh (trí thức cấp tiến).
- Tổng trưởng Tư pháp: Luật gia Nguyễn Văn Mầu (Công giáo).
- Tổng trưởng Xã hội: Tiến sĩ Trần Quang Thiện (Phật giáo).
- Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Luật sư Nghiêm Xuân Hồng (Duy Dân).
Nhìn thành phần nhân sự trên đây mà đại đa số là những chuyên viên hoặc những người có quá trình đấu tranh khả tín ta thấy chính phủ Nguyễn Khánh quả đã tập hợp được một “ê kíp" có khả năng điều hành quốc gia cũng như có tính cách tiêu biểu cho sự đoàn kết dân tộc. Một điểm cần chú ý là dù đã 3 tháng trôi qua nhưng hình ảnh của những "người hùng Cách mạng" và đặc biệt của tướng Dương Văn Minh, vẫn là những hình ảnh hùng tráng mà quần chúng giữ rất nhiều cảm tình, thế mà cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh cũng không gặp một phản ứng bất lợi nào cả. Lẽ dĩ nhiên là ngoại trừ khối Công giáo Cần lao đang mong chờ và đóng góp cho mọi xáo trộn để họ có thể hể hả với mối căm thù về việc quân đội đã lật đổ ông Diệm, những thành phần còn lại của nhân dân đều ớ một mặt nào đó, đồng ý với sự thay đổi chính phủ này vì những lý do sau đây:
Trước hết vì Khánh đi đúng tâm lý quần chúng, nhất là đối với giới sinh viên, đảng phái, tôn giáo, Hội đồng nhân sĩ, và các lực lượng chống Cộng khác khi Khánh đưa ra chiêu bài chống Trung lập, chống Pháp. Đối với các đảng phái và tôn giáo thì chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ gồm nhiều nhân vật của chế độ cũ trong khi chính phủ Nguyễn Khánh lại tập họp được nhiều nhân vật tiêu biểu đại diện cho các tôn giáo và đảng phái.
Điều thứ ba là mặc dù Hội đồng quân nhân cách mạng cũ bị giải tán nhưng nhiều nhân vật cốt cán trong việc lật đổ chế độ Diệm như tướng Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Đỗ Mậu... vẫn hiện diện trong chính phủ mới. Sự hiện diện của ba vị tướng nói trên, dù nhiều khi chỉ có tính cách tượng trưng, vẫn thoả mãn được Phật giáo, sinh viên, và đại đa số quần chúng chống đối chế độ Diệm. Còn đối với Công giáo, tuy mang nặng mối thâm thù với các tướng lĩnh đã lật đổ chế độ Diệm nhưng cuộc chỉnh lý của Khánh đã làm cho họ thoả mãn rất nhiều vì họ cho rằng cái hào quang của cuộc cách mạng 1-11 63 đã bị sứt mẻ, cái huyền thoại "người hùng" của Dương Văn Minh đã bị đổ vỡ... Vả lại, Cao Văn Viên, Albert Cao, Đặng Văn Quang, Dương Ngọc Lẩm, Ngô Du... những phần tử trung thành với ông Diệm, vẫn được trọng dụng và việc thiếu tá Nguyễn Văn Nhung (người hạ sát ông Diệm) bị giết tại trại Nhảy dù của Cao Văn Viên cũng đã là yếu tố làm thoả mãn khối Công giáo trên.
Đối với Mỹ, vốn có nhiều cảm tình với tướng Khánh từ lâu, vốn cho Khánh là vị tướng thông minh, có khả năng quân sự, lại thấy chính phủ của Khánh tiêu biểu cho sự "đoàn kết quốc gia" nên chính giới Mỹ đã bày tỏ nhiều hy vọng.
Những yếu tố vừa nói trên đã củng cố địa vị cho Khánh và làm cho chính tình miền Nam trong mấy tháng đầu dưới chính phủ Khánh không gặp những xáo trộn trầm trọng nào.
Ngày 8-4, Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara và tướng Taylor sang Việt nam quan sát tình hình. Đến Huế, Cần Thơ và các nơi khác, hai ông được đón tiếp bằng những cuộc mít tinh rầm rộ. Hứng thú, Mac Namara hô khẩu hiệu “Việt nam muôn năm” bằng tiếng Việt Mỹ tuyên bố ủng hộ chính phủ Khánh và gia tăng viện trợ cho VHCH. Hoa kỳ giúp tăng quân số VNCH thêm 50.000 người. Tăng trên 7.500 cán bộ xây dựng nông thôn, tăng cường lực lượng Hải, không quân với nhiều dụng cụ, vũ khí, tàu bè tân tiến. Tổng số tiền viện trợ cho riêng quân sự và chương trình Bình Định lên đến 50 triệu đô la.
Tuy nhiên không như Dương Văn Minh và Nguyễn Ngọc Thơ chỉ muốn làm cách mạng ôn hoà, nuốn tỏ thái độ đoàn kết với Cần lao công giáo, các tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức, đại tá Nguyễn Chánh Thi, các sĩ quan Đại Việt, thình phần chính phủ gồm đa số những nhân vật từng chống đối chế độ Diệm, lại muốn nuôi dưỡng tinh thần cách mạng 1-11-63 và tỏ thái độ cứng rắn với tàn dư của đảng Cần lao theo đòi hỏi của sinh viên, đảng phái, Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo. Do đó Khánh cho mở những cuộc triển lãm trưng bày tội ác nhà Ngô, ra lệnh truy lùng những nhân vật quan trọng của chế độ cũ như cựu Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần chẳng hạn, vẫn giam giữ Ngô Trọng Hiếu, vẫn đưa Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông ra toà với bản án xử tử, và Đặng Sĩ, Dương Hiếu:.. với bản án khổ sai. Chính phủ Nguyễn Khánh cũng bãi bỏ dụ số 10 bất công và mang hành sắc luật công nhận Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống Nhất, hiến chương Đạo Cao Đài, để các tôn giáo này được bình đẳng với Thiên chúa giáo. Với hơn nửa năm thuận lợi cho chính phủ Nguyễn Khánh, giữa một tình hình chính trị tương đối êm dịu, báo chí đã ví von Nguyễn Khánh với Nasser.
Tuy nhiên, tình hình thuận lợi đó vẫn chưa đủ để chính phủ Nguyễn Khánh bình thường hoá sinh hoạt quốc gia và củng cố chế độ. Vì ở dưới cái bề mặt bình lặng đó là những đợt sóng ngầm bắt đầu chuyển động, những đợt sóng ngầm xuất phát từ phản ứng quá khích của một số tôn giáo, từ ý thức bè phái quá nặng nề, từ những phá hoại của Việt cộng và từ những ấu trĩ chính trị của một số giai tầng lãnh đạo mà từ mười năm qua đã bị tiêu hao hết ý thức cách mạng.
Tại Huế, nhóm Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Lê Tuyên... (cha đẻ của Hội đồng nhân dân cứu quốc sau này) cho xuất bản tờ báo Lập trường làm cơ quan đấu tranh mà chiến thuật đầu tiên là đả kích nặng nề chính phủ Nguyễn Khánh với những luận điệu khích động và khuynh đảo. Còn tại Sài gòn thì ông Hà Thúc Ký, Bộ trưởng Nội vụ lại âm mưu đảo chính lật đổ tướng Khánh. Vào đầu tháng tư, sau một buổi họp của Hội đồng nội các, Thủ tướng Nguyễn Khánh bèn họp riêng với ba vị Thủ tướng và cho biết trường hợp của ông Hà Thúc Ký. Khánh đặc biệt nói thẳng với Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn rằng: "Ông Hà Thúc Ký đã nhận lời mời của tôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và đã có nhiều việc làm tai tiếng về việc tiền bạc, thế mà ông lại âm mưu với một số sĩ quan định lật đổ tôi. Nếu tôi không nể anh và đảng Đại Việt thì tôi đã bắt giam anh Hà Thúc Ký rồi". Những bí mật được tiết lộ dần dần sau đó biết đảng Đại Việt chủ trương đưa ông Nguyễn Tôn Hoàn từ Pháp về là để sẽ làm Thủ tướng, nhưng tướng Khánh đã lợi dụng cơ hội đó để phối hợp cùng tiến hành cuộc chỉnh lý và giành luôn chức Thủ tướng. Ông Ký bất mãn vì cho rằng những nhân vật tên tuổi như ông, như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, từng lãnh đạo một đảng cách mạng có thành tích chống cộng, chống Pháp, chống Diệm mà lại phải phục vụ dưới quyền một kẻ võ biền như Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, trong lúc ông Ký chủ trương chống Khánh thì nhóm bác sĩ Hoàn và ông Nguyễn Ngọc Huy lại thấy rằng Đại Việt chưa đủ thực lực để cho phối trường nên cần phải tạm thời hợp tác với tướng Khánh, nắm lấy chính quyền qua một cuộc bầu cử cho danh chánh ngôn thuận hơn.
Vì quan niệm và chủ trương dị biệt, từ đó ông Hà Thúc Ký tách rời khỏi đảng do ông Hoàn lãnh đạo, thành lập đảng mới lấy tên là Đại Việt cách mạng mà chủ lực là khối đảng viên Trị Thiên và Phú Yên, hợp tác với nhóm Tứ ân Nguyễn Long Châu (bị chế độ Diệm bắt giam, được Bộ trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký trả tự do) và nhóm Cần lao công giáo. Còn nhóm các ông Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy cải tổ đảng và đổi tên là Tân Đại Việt.
Tướng Lâm Văn Phát được cử làm Bộ trưởng Nội vụ thay ông Hà Thúc Ký trong lúc người đồng chí và bạn nối khố của ông Ký là Đoàn Thái, vì bất đồng chính kiến và vì những mâu thuẫn trong vụ tiền bạc giữa ông ta và ông Ký nên vẫn ở lại hợp tác với tân bộ trưởng, lên án ông Ký là quá khích, không thức thời, tham nhũng, mặc dù chính ông Thái từ ngày vào làm Đổng lý Bộ nội vụ đã mua được một số xe đò và tạo mãi được một số nhà cửa tại Sài gòn.
Vụ "Đại Việt” nói trên là vụ báo "Lập Trường" ở miền Trung gây lúng túng cho chính phủ, gây hoang mang cho quần chúng do đó mà các thế lực sinh viên, quân đội, Phật giáo, Công giáo bắt đầu phát động những áp lực chính trị cho quyền lợi và chủ trương của mình. Về phía Phật giáo, những rạn nứt ngấm ngầm giữa Thượng Toạ Tâm Châu với các tăng sĩ miền Trung và miền Nam bắt đầu lộ ra đến nỗi ngày 15-5-1964, hai thượng toạ Tâm Châu và Trí Quang phải cùng ra thông bạch: "Không hề có sự rạn nứt giữa các nhà lãnh đạo Phật giáo, nhất là giữa hai anh em chúng tôi". Nhưng thông bạch của hai Thượng toạ đã không trấn an nỗi Phật tử mà còn xác định thêm những mâu thuẫn trong hàng tăng chúng vì nguyên nhân chính của sự mâu thuẫn là Thượng toạ Tâm Châu thì ôn hoà, muốn thoả hiệp với các chính phủ trong lúc khuynh hướng của Thượng toạ Trí Quang thì chống lại sự phục hồi của khối Công giáo Cần lao.
Vê phía Công giáo tuy đã thoả mãn với cuộc chỉnh lý nhưng vẫn căm thù Phật giáo mà họ cho là nguyên nhân của cuộc lật đổ chế độ Diệm. Đã thế những vụ án tử hình Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, những bản án khổ sai dành cho một số cán bộ Cần lao, cuộc triển lãm tội ác nhà Ngô, những lời đả kích nặng nề chế độ Diệm đăng đầy trên các báo cũng như những khẩu hiệu "Bài trừ Cần lao" của sinh viên cũng làm cho khối Công giáo đang mang đầy mặc cảm phạm tội trở nên xúc động, căm tức hơn. Một số họ đạo tại Huế đã có những cuộc biểu tình "đả đảo cách mạng” đến nỗi toà Tổng giám mục Sài gòn đã phải ra thông báo minh định lập trường chung của Giáo hội Công giáo.
Ngày 28-5-1964, Toà Tổng giám mục tại Sài gòn qua thái độ ôn hoà của giám mục Nguyễn Văn Bình đã ra thông cáo: "Không ra lệnh tổ chức biểu tình mà cũng không chấp nhận một cuộc biểu tình nào, giáo dân cần tránh biểu tình nhân ngày Phật đản”. Nhưng rồi có lẽ vì bị áp lực của khối Công giáo di cư nên ngày hôm sau giám mục Nguyễn Văn Bình lại phải ra thông báo thứ hai: "Chỉ khuyên tránh biểu tình trong ngày Phật đản mà thôi, còn thì giáo dân được tự do phát biểu quan niệm chính trị của mình theo thể thức nào cho hợp lý nhất".
Đối với những phần tử Công giáo quá khích, thông cáo thứ hai của Toà Tổng giám mục không những đã được diễn kịch như một sự khuyến khích mà còn là một hiệu lệnh. Ngày 7 tháng 6 năm 1964, 29 họ đạo Hố Nai và cùng phụ cận Sài gòn cùng hàng vạn dân Đô thành đã biểu tình tại công trường Lam Sơn với các biểu ngữ như "Lột mặt nạ bọn lợi dụng cách mạng để đàn áp Công giáo". "Mị dân là phản bội dân chủ". "ủng hộ cuộc tranh đấu của Công giáo miền Trung”. Và ngày 15-6-64, tại Huế, hàng ngàn giáo dân xuống đường biểu tình vội cùng một lập luận như cuộc biểu tình của giáo dân tại Sài gòn. Hai cuộc biểu tình đầu tiên do Công giáo tổ chức đó đã tạo tiền lệ cho những cuộc biểu tình, xuống đường sau này của Sinh viên và Phật giáo. Còn về phía sinh viên thì cho đến giữa năm 1964, chỉ mới có những đám biểu tình nhỏ đòi hỏi những quyền lợi liên hệ đến vấn đề giáo dục hơn là chính trị và cơ cấu tổ chức của các định chế lãnh đạo của sinh viên chỉ mới trong giai đoạn phôi thai nên chưa vận động được những cuộc biểu dương rầm rộ nào.
Tuy nhìn thấy những mầm mống rối loạn đó nhưng Khánh đã không đánh giá đúng mức tầm quan trọng của viễn tượng công phá của nó sau này nên vẫn không e ngại tình hình xáo trộn. Ngược lại, Khảnh chỉ lo xây dựng vị thế của mình bằng cách vô hiệu hoá uy tín của các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính, Vỹ trong cuộc xét xử tại Đà Lạt, và bằng cách thăng thưởng cho một số đại tá và giao cho họ những địa vị nòng cốt trong cả ba ngành thuỷ, lục, không quân để mua chuộc cảm tình.
Đại tá Trần Thanh Bền, một cộng sự viên thân tín của Khánh được bổ nhiệm chức tổng giám đốc cảnh sát Công an ngay sau khi chỉnh lý, còn chức đô trưởng Sài gòn thì do tướng Dương Ngọc Lắm (em rể của cựu dân biểu Đỗ Cao Minh của nhà Ngô), vốn là bạn thân của Khánh và có công trong cuộc chỉnh lý nắm giữ. Khánh giải tán Hội đồng nhân sĩ do Dương Văn Minh thành lập để triệt hạ tiếng nói chính thức của giới đối lập hợp pháp. Để nắm báo chí vốn được tự do ngôn luận từ sau cách mạng 1-11, Khánh cho thành lập Hội đồng Báo chí để lập Quy chế báo chí, mà trong đó có điều lệ các chủ báo phải tốt nghiệp từ các trường báo chí hoặc đã hành nghề báo chí từ 7 năm, phải ký quỹ về kê khai số vốn và nguyên lai. Ngày 1-7-64, Khánh cho thành lập đoàn Tuyên uý Phật giáo trong quân đội mà suốt chín năm dưới chế độ Diệm chưa bao giờ tổ chức này được thiết lập dù Công giáo và Tin lành đã có cơ quan Tuyên uý từ lâu.
Ngày 20-7-1964, để đánh dấu 10 năm chia cắt đất nước, một cuộc biểu tình vĩ đại chưa từng thấy tại Thủ đô Sài gòn đã được tổ chức trọng thể tại công trường Lam Sơn để kỷ niệm ngày Quốc Hận. Đêm ngày 20 tháng 7 sinh viên Sài gòn thắp đuốc diễu hành trên nhiều đường lớn rồi tổ chức đêm không ngủ tại trường Đại học Văn khoa để hội thảo về tình hình đất nước và để suy luận về ngày đất nước bị chia.
Sáng 21-7, hơn 100 sinh viên biểu tình trước Toà đại sứ quán Pháp, đốt xe và đập phá, gây một số thiệt hại khiến chính phủ Pháp gởi kháng thư và đòi bồi thường.
Những hoạt động biểu dương đó của sinh viên dù một phần nào đó có do các đảng phái và Tôn giáo điều động thì ngược lại đã làm cho người Mỹ thoả mãn. Đại diện cho chính phủ Mỹ tại Sài gòn là Đại sứ Taylor và đại tướng Westmoreland đã tỏ ra phấn khởi thấy tình hình của quân dân miền Nam đã được phục hồi sau những hoang mang dao động của biến cố Phật giáo. Nắm vững được quân đội, được người Mỹ hết lòng ủng hộ, lại được cảm tình của Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo, Khánh âm mưu thực hiện mộng "Mưu bá đồ vương”, tham vọng trở thành một Hồ Quý Ly của thế kỷ 20.
Thật vậy, để chuẩn bị cho một tâm lý quần chúng thuận lợi, ngày 26-7-1964 Khánh ký sắc lệnh định ngày 4 và 11 tháng 10 năm 1964 tổ chức cuộc bầu cử các Hội đồng Nhân dân địa phương, những hội đồng mà chế độ Diệm đã bãi bỏ từ năm 1954 làm cho nhân dân rất bất mãn. Còn tại đô thị, nơi có thể có các cuộc biểu tình chống đối, Khánh lợi dụng việc Việt cộng có thể gia công các hoạt động, ban hành tình trạng khẩn trương tại Sài gòn - Gia định.
Ngày 7-8-1964, Khánh cho tái lập chế độ kiểm duyệt báo chí.
Ngày 11-8-64, Khánh thăng Khiêm, đang là bộ trưởng quốc phòng, lên cấp Đại tướng; thăng Thiếu tướng Cao Văn Viên, Tôn Thất Xứng, Chung Tấn Cang, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn Đổng, Bùi Hữu Nhân, Cao Hảo Hớn, Ngô Du và thăng chuẩn tướng cho các đại tá Nguyễn Đức Thắng, Đặng Văn Quang, Vĩnh Lộc, Lê Nguyên Khang, Hoàng Xuân Lãm. Đối với Phật giáo, Khánh hứa sẽ thẳng tay trừng trị những kẻ còn chủ trương kỳ thị Phật giáo khi phái đoàn Thượng toạ Thiện Minh đến gặp Khánh để trình bày hồ sơ về vụ đàn áp Phật giáo ở các địa phương (bắt bớ ở Đồng Xuyên, đốt nhà ở Tuy Phước, sát hại Phật tử ở An Thạnh...) do nhiều nhóm Cần lao miền Trung chủ động và được chuẩn tướng Ngô Du (một công giáo Cần lao) chỉ huy vùng Nam Ngãi yểm trợ.
Tin vào những yếu tố, những biến cố mà Khánh cho là thuận lợi đó, ngày 16-8-64, Khánh triệu tập một cuộc họp các tướng lĩnh ở Vũng Tàu để ban hành một hiến chương mới và để bầu Trung tướng Nguyễn Khánh làm chủ tịch nước Việt nam Cộng hoà. Theo hiến chương này, Chủ tịch còn là quốc trưởng và tập trung quyền hạn đặc biệt, sẽ có một Quốc hội lâm thời gồm 100 đại biểu dân sự, 50 đại biểu quân nhân, còn Hội đồng quân đội cách mạng (mà Khánh là chủ tịch) vẫn là cơ quan chỉ đạo tối cao của quốc gia. Nhưng để tiếp nối truyền thống chống độc tài và trung ương tập quyền mà thái độ đã từng biểu hiện qua ngày 1-11-63 mới cách đó 9 tháng, ngày 19 và 20 tháng 8, sinh viên Sài gòn tập họp đông đảo tại trụ sở đường Duy Tân để hội thảo về lập trường và thái độ đối với Hiến chương Vũng Tàu. Ngày 22, sinh viên xuống đường ạt và kéo tới phủ Thủ tướng đưa kiến nghị phản đối Hiến chương, đòi thành lập chính phủ mới, đòi tướng lĩnh trở về nhiệm vụ quân sự, đòi diệt trừ Cần lao và Thực Cộng ẩn nấp trong chính quyền.
Ngày 23, sinh viên học sinh biểu tình qua trường J.J. Rousseau (sau này được đổi tên là Trung học Lê Quý Đôn) kêu gọi học sinh trường Pháp này tham dự cuộc tranh đấu, rồi tới Bộ thông tin chất vấn Tổng trưởng, đòi bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí và đập phá một số đồ đạo.
Cùng ngày này, chừng vài trăm người (mà người ta nghi là một nhóm giáo dân quá khích do tướng Dương Ngọc Lắm và đại tá Trần Thanh Bền tổ chức) đi xe buýt tới trụ sở sinh viên đường Duy Tân với gậy gộc, dao búa, đập phả đốt cháy nhiều đồ đạc của trụ sở sinh viên.
Ngày 25-8-64, sinh viên, học sinh và hàng chục ngàn đồng bào tập họp trước chợ Bến Thành để tưởng niệm nữ sinh Quách Thị Trang rồi kéo tới Phủ Chủ tịch ở đường Thống Nhất và Nguyễn Khánh đã phải ra gặp đoàn biểu tình và cũng hô "đả đảo độc tài", và hứa sẽ xét lại gấp vấn đề. Cùng ngày này và trước tình hình đó Hội đồng quân đội cách mạng phải họp khẩn cấp tại Bộ Tổng tham mưu để thảo luận.
Ngày 26, nhiều tin phá chùa và phá nhà thờ được đồn đại khắp Sài gòn. Phật tử đổ xô đến canh gác Viện Hoá Đạo và tượng Quách Thị Trang, còn các khu Công giáo cũng sôi động chuẩn bị dao, búa, gậy gộc.
Trong lúc đó thì tại Đà Nẵng, một đoàn biểu tình của Phật giáo khi kéo qua trước một trại quân Mỹ và khi nghe tiếng súng của lính Mỹ bắn chỉ thiên đã hốt hoảng chạy tràn vào xóm Thanh Bồ gần đó, lực lượng tự vệ Công giáo tưởng bị tấn công nên đối phó lại và sinh ra ẩu đả. Hai bên chết 11 người và bị thương 42 người.
Cùng ngày, Hội đồng quân đội cách mạng họp liên tục từ hôm qua, ra tuyên bố "thu hồi Hiến chương Vũng Tàu" sẽ bầu nguyên thủ quốc gia và uỷ nguyên thủ thực hiện các cơ cấu dân chủ. Quân đội sẽ trở về cương vị quân sự và uỷ chính phủ hiện thời tạm điều khiển quốc gia.
Ngày 27-8-64, Hội đồng quân đội cách mạng bầu Tam Đầu Chế gồm ba tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm làm Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, và giao cho chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục nhiệm vụ với công tác khẩn cấp triệu tập một quốc dân Đại hội trong vòng hai tháng. Trong lúc những tướng lĩnh hội họp thì chừng hai ngàn giáo dân nhiều ngả kéo tới trước Bộ Tổng tham mưu với gậy, dao, búa đòi hỏi gặp Hội đồng quân đội cách mạng.
Họ trưng biểu ngữ "ủng hộ Hội đồng quân đội cách mạng, chống Cộng sản và chống Trung lập, chống vụ phá hoại đài phát thanh và Bộ Thông tin, chống âm mưu chia rẽ và chống Dương Văn Minh”. Quân cảnh ngăn cản nhưng đám người cứ xông lên phá cửa chính nên bị đơn vị phòng vệ Bộ Tổng tham mưu bắn chết bốn người và một binh sĩ bị chém bị thương. Cho đến khi tướng Khánh sai Tướng Huỳnh Văn Cao (người Công giáo) ra phủ dụ, đoàn biểu tình mới chịu giải tán.
Vào khoảng 2 giờ chiều, một đoàn biểu tình Công giáo khác kéo tới đài phát thanh đòi truyền đi một bản tuyên ngôn, rồi kéo qua đường Phan Đình Phùng khiêu khích học sinh trường trung học Nguyễn Trường Tộ (thân Phật giáo) để chống trả lại đám biểu tình. Cuộc ẩu đả gây cho 13 người bị thương, có hai học sinh bị đâm chết. Linh mục Hồ Văn Vui và Thượng Toạ Thích Tuệ Đăng phải tới hoà giải mới tới 7 giờ tối mọi người mới chịu giải tán.
Tối hôm đó, cả Đô thành trở nên căng thẳng. Các khu Công giáo ở đường Trương Minh Giảng, Phú Nhuận báo động và được thanh niên Công giáo đứng gác ở các đầu đường, còn tại Viện Hoá Đạo và chợ Bến Thành cũng nhan nhản thanh niên và Phật tử đứng canh.
Toà Tổng Giám mục và Viện Hoá Đạo bèn thông cáo chung khuyến cáo tín đồ hai bên phải bình tĩnh và tránh mọi kích động. Báo giới và toà Đô Chính cũng kêu gọi dân chúng giữ hoà khí và trật tự.
Ngày 28-8-1964, những cuộc xáo trộn rối ren giữa Đô thành vẫn tiếp tục, ngoài Phật tử và giáo dân xô xát nhau, nhiều nhóm du đãng cũng lợi dụng sự hỗn loạn để cướp bóc. Đêm 28, các cuộc đụng độ vẫn tiếp diễn đến nỗi lính nhảy dù phải nổ súng làm cho hai người chết và 48 người bị thương.
Cùng ngày 28, Thủ tướng Nguyễn Khánh họp báo đả kích các ông Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký đã âm mưu đảo chính, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh được thừa uỷ nhiệm Thủ tướng để điều khiển chính phủ. Tình trạng giới nghiêm được ban hành. Ngày 30-8, Bộ Tổng Tư lệnh ra thông báo "Quân đội quyết chống các vụ biểu tình và phá hoại, và sẽ cương quyết nổ súng nếu cần".
Ngày 1-9, Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn từ chức. Thượng toạ Thích Tâm Châu ra thông bạch "những việc xảy ra ngày 28 chứng tỏ Phật giáo vẫn bị đe doạ, chính quyền dứt khoát với nhóm người thuộc chế độ cũ... Nếu ngày 27 tháng 10 mà nguyện vọng của Phật giáo chưa đạt thì sẽ bãi thị bãi khoá...". Ngày 7-9, Trung tướng Dương Văn Minh được bầu làm chủ tịch Ban lãnh đạo lâm thời quốc gia và quân lực
Ngày 8-9, một Thượng Hội đồng Quốc gia được thành lập gồm 16 nhân sĩ tên tuổi là các ông: Phan Khắc Sửu, Lê Văn Thu, Nguyễn Văn Huyền, Trần Đình Nam, Trần Văn Văn, Trần Văn Quế, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Xuân Chữ, Hồ Văn Nhựt, Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lương Trọng Tường, Nguyễn Đình Luyện, Hồ Đắc Thắng.
Ngày 9-9, Linh mục Hoàng Quỳnh, Chủ tịch Uỷ ban Tranh đấu của khối Công giáo gởi thư ngỏ cho Thủ tướng Nguyễn Khánh trách chính phủ không quan tâm đến các vụ đàn áp Công giáo trong những ngày vừa qua và yêu cầu điều tra vô tư, giải quyết các vụ ở Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vãn hồi an ninh, nếu không Công giáo sẽ tự vệ và không chịu trách nhiệm về các hậu quả có thể xảy ra.
Cùng ngày này, các ông Bùi Tường Huân, Trần Quang Thuận và các tướng lĩnh trong chính phủ Nguyễn Khánh đưa đơn từ chức. Tướng Dương Ngọc Lãm (Đô trưởng Sài gòn - Chợ Lớn) được ông Trần Văn Hương thay thế, và đại tá Nguyễn Quang Sanh thay thế Trần Văn Bền (Tổng giám đốc Công an). Các tướng Xuân, Đôn, Kim, Đính, Vỹ được trả tự do trở về Sài gòn.
Tình hình tưởng đã ổn định nhờ sự dàn xếp của các cấp lãnh đạo Phật giáo và Thiên chúa giáo, nhờ sự việc tướng lĩnh trở về quân đội, nhờ sự hiện diện của Thượng Hội đồng quốc gia gồm nhiều nhân vật tên tuổi, nhờ sự trở lại chức vị "lãnh đạo quốc gia lâm thời” của tướng Dương Văn Minh. Không ngờ ngày 13-9 Trung tướng Dương Văn Đức và thiếu tướng Lâm Văn Phát (Công giáo) lại kéo quân về Sài gòn - Gia định chiếm đóng một số địa điểm, đả kích tướng Nguyễn Khánh và nhân danh Hội đồng quân dân Cứu Quốc tuyên bố tái lập trật tự đã bị phá hoại cùng uy quyền quốc gia đã bị miệt thị. Có tin đồn vụ này do lực lượng đảng Đại Việt và vài nhóm Công giáo phát động. Tướng Khánh đang ở Đà Lạt vội lên đài phát thanh lên án hai tướng Đức và Phát, trong lúc nhiều tướng khác nhóm họp tại Bộ tư lệnh không quân tìm phương thức đối phó.
Ngày 14-9-64, các tướng lĩnh tiếp tục họp tại Bộ tư lệnh không quân và lệnh cho tướng Đức phải rút quân về các vị trí cũ, nếu không sẽ cho phi cơ đến tấn công. Tướng Đức nhượng bộ rút quân nên đã không xảy ra vụ xô xát nào. Trong lúc đó thì sinh viên lại hội thảo và xuống đường biểu tình đả đảo dư đảng Cần lao đã mưu toan đảo chính.
Ngày 16, Thủ tướng Khánh trở về Sài gòn ra lệnh điều tra vụ đảo chính hụt, một số tướng tá liên quan đến biến cố 13-9 bị cách chức trong đó có Trung tướng Dương Văn Đức, Thiếu tướng Dương Ngọc Lãm, đại tá Huỳnh Văn Ran và trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Ngày 21 hàng ngàn thanh niên do Hội đồng nhân dân cứu quốc tại Huế xách động đánh chiếm đài phát thanh và nhiều cơ sở ở tại Huế và Quy Nhơn đồng thời lùng bắt Cần lao. Ở Phan Thiết cũng hàng ngàn thanh niên phát động phong trào tranh đấu diệt trừ Cần lao và nhiều cuộc xô xát xảy ra.
Ngày 27-9-64, ông Phan Khắc Sửu được bầu làm Chủ tịch Thượng Hội đồng quốc gia.
Tỉnh Thừa Thiên cùng nhiều tỉnh khác ở Trung phần lập "Hội đồng nhân dân cứu quốc” để thanh toán Cần lao.
Hội đồng chỉ đạo sinh viên học sinh quyết nghị và thông báo "Chống đảng phái chính trị xen lẫn vào học đường và chống mọi sự lôi cuốn sinh viên làm chính Ngày 28-9, nhiều cuộc biểu tình bạo động tiếp tục xảy ra ở Quy Nhơn. Tổng Hội sinh viên nhóm họp phản đối các vụ gây rối của Hội đồng nhân dân cứu quốc ở Trung phần, yêu cầu các giới đoàn kết, yêu cầu trừng trị dư đảng Cần lao.
Ngày 2-10, các Hội đồng nhân dân cứu quốc vẫn hoạt động quá khích và định hướng đại hội ở Huế để ấn định chính sách chung.
Ngày 5-10, Hội đồng chỉ đạo sinh viên họp tại rạp Thống Nhất đả kích và lên án các Hội đồng nhân dân cứu quốc tại miền Trung.
Ngày 8-10, sáu sinh viên từ Huế và họp báo tuyên bố ủng hộ Hội đồng nhân dân cứu quốc.
Ngày 22-10, Thủ tướng Nguyễn Khánh tuyên bố tại Pleiku "Quân đội là cha quốc gia".
Ngày 24-10, Thượng Hội đồng quốc gia tuyển nhiệm chủ tịch Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và bầu bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ làm Quyền chủ tịch Thượng Hội đồng, Tướng Trần Thiện Khiêm được cử làm đại sứ Việt nam tại Hoa kỳ.
Ngày 26-10, ban lãnh đạo quốc gia quân lực (do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch) chính thức chuyển giao quyền hành cho tân Quốc trưởng Phan Khắc Sửu.
Ngày 30-10, giáo sư Trần Văn Hương được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu bổ nhiệm làm thủ tướng. Ngày 4-11, chính phủ Trần Văn Hương ra mắt với một thành phần nội các hoàn toàn dân sự. Trung tướng Nguyễn Khánh được cử làm Tổng tư lệnh quân đội. Tổng hội sinh viên nhóm họp, tỏ ý dè dặt về thành phần nội các nhưng mong rằng chính phủ có chính sách cách mạng thật sự.
Ngày 5-11, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ từ chức Quyền chủ tịch Thượng hội đồng vì không đồng ý về sự thành lập chính phủ Trần Văn Hương.
Ngày 6-11, sinh viên Sài gòn lại nhóm họp đả kích thành phần nội các và đòi xét lại toàn diện vấn đề và chỉnh đốn Thượng Hội đồng vì lý do có nhiều phần tử gây chia rẽ. (Có ý cho rằng chính phủ của "người Nam Kỳ").
Ngày 7-11, có nhiều tin đồn sinh viên và phật tử sẽ xuống đường phản đối chính phủ, cùng ngày này, trung tướng Dương Văn Minh được cử ra nước ngoài làm đặc phái viên của Quốc trưởng tại ngoại quốc. Ngày 9-11, Bộ Thông tin tuyên bố "Chính phủ không cải tổ, không từ chức".
Ngày 11-11, sinh viên Sài gòn tiếp tục hội thảo sôi nổi, tuyên bố không thể chờ đợi, phải hành động mạnh, không chịu một chính phủ chuyên viên già nua lại bị nhóm Tinh thần giật dây".
Ngày 13-11, Thủ tướng Trần Văn Hương trả lời mọi thắc mắc của Thượng Hội đồng và tuyên bố "Phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị khỏi Tôn giáo, đưa Tôn giáo ra khỏi chính trị”.
Ngày 16-11, sinh viên yết kiến Quốc trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu giải tán chính phủ Trần Văn Hương. Cùng ngày, Thượng Hội đồng quyết định lập một Uỷ ban điều tra về thành phần chính phủ.
Ngày 18-11, luật sư Lê Văn Thu được bầu làm Chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia.
Ngày 20-11, văn phòng Thủ tướng cho biết 148 nhà trí thức, ký giả ủng hộ Chính phủ và Thủ tướng. Ngày 22-11, biểu tình lớn ở nhiều nơi với nhiều biểu ngữ đả kích Chính phủ Trần Văn Hương.
Ngày 23-11, vài nhật báo đăng những kiến nghị của một số đoàn thể gởi về ủng hộ chính phủ Trần Văn Hương.
Ngày 24-11, Thượng toạ Thích Tâm Châu gởi thư lên Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thượng Hội đồng yêu cầu có thái độ dứt khoát với cuộc khủng hoảng hiện tại Nhiều trường học bãi khoá. Cùng ngày này, hai tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh được thăng Đại tướng.
Ngày 25-1 1, học sinh trường Hồng Lạc Trần Quốc Toản bãi khoá phản đối biện pháp bắt bớ những người biểu tình. Cảnh sát tới bị ném đá, nhảy dù phải can thiệp. Buổi chiều nhiều đám người khác lại gia nhập lực lượng học sinh ném đá vào cảnh sát, quân đội lại phải can thiệp cho đến 9 giờ đêm mới giải tán: 85 người bị thương, 238 người bị bắt, cùng ngày này, các trường học lại bị đóng cửa cho đến khi có lệnh mới.
Ngày 27-11, Chính phủ ban hành lệnh thiết quân luật tại Sài gòn trong một tháng. Viện Hoá Đạo tuyên bố tạm thời đóng cửa ngưng hoạt động.
Ngày 28-11, Thủ tướng Trần Văn Hương tuyên bố " không lùi bước phải dùng mọi cách tái lập trật tự". Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ họp báo tuyên bố: "... cùng với nhiều đảng phái để thành!ập một Hội đồng dân tộc Cách mạng để cứu vãn tình thế".
Ngày 4-12, các tướng lĩnh họp tại Đà Lạt tuyên bố ủng hộ, một chánh phủ dân sự lành mạnh yêu nước không bị một áp lực nào, đồng thời bị thiết lập một hội đồng quân lực.
Ngày 8-12, Thủ tướng Trần Văn Hương phản đối sự chỉ định một Uỷ ban của Thượng Hội đồng để xét lại thành phần chính phủ.
Ngày 13-12, có tin Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết, các Thượng Toạ Trí Quang và Tâm Châu tuyệt thực 24 giờ.
Ngày 17-11, một số tướng lĩnh trẻ yết kiến Quốc trưởng và trình bày về việc cho một số tướng già về hưu. Ngày 18-11, "Hội đồng quân lực” được thành lập do một huấn lệnh của Tổng tư lệnh Nguyễn Khánh với mục đích “giúp đỡ Tổng tư lệnh với tư cách cố vấn và xoá bỏ mọi bất công để thực hiện một chính sách sử dụng nhân sự công bằng trong quân đội”. (Thành lập Hội đồng Quân lực, Khánh âm mưu sử dụng nó như một cơ quan tối cao đại diện quân đội về mặt chính trị).
Cùng ngày này, Bộ giáo dục ra một thông cáo đại ý cảnh cáo trường nào được mở cửa lại mà vẫn lộn xộn sẽ bị đóng hẳn. Đã có hơn 60 trường nộp đơn xin mở cửa lại.
Ngày 20-11, Hội đồng Quân lực ra thông cáo “không tín nhiệm Thượng Hội đồng quốc gia vì đã gây chia rẽ, đã mua chuộc một số tướng lĩnh, có óc bè phái", rồi tuyên bố giải tán Thượng Hội đồng. Sáu hội viên của Thượng Hội đồng, Tướng Đỗ Mậu và 14 chính khách, giáo sư, sinh viên bị bắt lên Kontum, Pleiku để quản thúc.
Cùng ngày này, tướng Khánh ra nhật lệnh tuyên bố: "Quân lực không thực hiện chính sách ngoại bang nào cả. Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn là giàu sang mà tủi nhục trong nô lệ ngoại bang". Lưu ý rằng trong thời gian này, Hoa kỳ và đặc biệt đại sứ Taylor đã tỏ thái độ chống đối việc tướng Khánh và quân đội xen lẫn vào chính trị. Cả Hoa kỳ lẫn Anh và khối Công giáo tại Việt nam đều công khai ủng hộ Thủ tướng Trần Văn Hương.
Ngày 25-11, Đại tướng Khánh tuyên bố với báo New York Herald Tribune: "Tướng Taylor đã có những hành động không thể tưởng tượng được, ông muốn dùng áp lực đối với giới hữu trách Việt nam. Nếu ông không khéo xử thế thì Việt nam sẽ mất. Mỹ nên tính việc lớn với những ai có thực lực ở xứ này. Ông Taylor không thể buộc dân Việt nam phải chịu đựng những nhà lãnh đạo mà dán Việt nam không muốn". (Lời tuyên bố của tướng Khánh hàm ý chỉ có Hội đồng quân lực mới có thực lực, do đó chỉ có Khánh là xứng đáng là người lãnh đạo quốc gia).
Ngày 18-1-1965, sau nhiều âm mưa hậu trường và nhiều thoả hiệp chia ghế, chính phủ Trần Văn Hương tuy chưa bị lật đổ nhưng phải cải tổ lại với sự tham gia của bốn tướng là Nguyễn Văn Thiệu (Đệ nhị Phó thủ tướng), Trán Văn Minh (Minh nhỏ) Tổng trưởng Quân lực Linh Quang Viên (Tổng trưởng tâm lý chiến), Nguyễn Cao Kỳ (Tổng trưởng thanh niên thể thao). Tuy nhiên, từ ngày chính phủ Hương cải tổ thì khối Phật giáo lại hoạt động mãnh liệt hơn. Ngày 20, các thượng toạ Trí Quang, Tâm Châu, Pháp Trí, Thiện Hoa, Hộ Giác bắt đầu tuyệt thực trong lúc tăng ni Phật tử tiếp tục biểu tình. Ngày 22 họ kéo đến trước toà đại sứ Mỹ với biểu ngữ “Hãy để cho dân tộc Việt nam tự quyết”. Ngày 23, Thủ tướng Trần Văn Hương hiệu triệu quốc dân kêu gọi mọi người lãnh trước nhiệm với tình thế, tránh các vụ xách động rồi lên án "lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng ni...” và gọi những hoạt động đấu tranh của Phật giáo là "những trò khỉ". Cùng ngày có những cuộc tụ tập trước Viện Hoá Đạo và một giáo sư khi thấy con gái mình trong đám biểu tình đã yêu cầu một đại tá đánh cho ba roi. Quân đội nhân dịp đó đánh luôn 69 cô khác, mỗi cô ba roi đuổi về.
Đêm 23 tại Huế, một đoàn biểu tình kéo tới phòng Thông tin Hoa kỳ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ với 5.000 cuốn sách. Phó lãnh sự Mỹ tới chữa cháy bị ném đá. Sinh viên đại học Huế đặt chướng ngại vật chặn các lối vào lớp học. Tại Nha Trang, 300 tăng ni tuyệt thực. Các cuộc biểu tình xáo trộn do Phật giáo, Hội đồng nhân dân cứu quốc và sinh viên gây ra vẫn tiếp diễn cho đến ngày 27 tháng giêng năm 1965 mới tạm thời lắng dịu.
Ngày 27-1- 1965, Hội đồng Quân lực tuyên cáo "Quân đội đã trả quyền từ ngày 27 tháng 10 cho phía dân sự nhưng tình thế mỗi ngày mỗi rối ren. Sau ba ngày thảo luận, Hội đồng Quân lực quyết định uỷ nhiệm tướng Nguyễn Khánh giải quyết cuộc khủng hoảng, triệu tập ngay một Hội đồng quân dân gồm 20 đại diện các tôn giáo, nhân sĩ, và quân lực.
Ngày 28-1, theo quyết định của Hội đồng Quân lực Quốc trưởng Phan Khắc Sửu được lưu nhiệm, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh được cử làm quyền Thủ tướng. (Hình như Thủ tướng Trần Văn Hương đã bị các tướng lĩnh đem đi cô lập ở Vũng Tàu).
Cùng ngày này, Thượng toạ Trí Quang họp báo cáo cho biết chỉ muốn đừng dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi Phật giáo là Cộng sản. Phật giáo cũng không chống Mỹ nhưng Việt nam cũng không thể bị hiểu lầm (là tay sai của Mỹ).
Ngày 11-2-1965, Đức Giáo Hoàng Paul VI, vị Giáo Hoàng nổi tiếng thân Nga Xô và thân Hà Nội kêu gọi ngưng chiến ở Việt nam.
Ngày 14 tháng 2, Đại sứ Taylor tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn "Nhân dân Việt nam đã chán ngán vì bị tấn công mãi mà không được trả đũa. Không còn có thể coi Bắc Việt là sào huyệt an toàn nữa". Từ đó Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt và soạn sửa đem quân vào miền Nam.
Ngày 16-2-1965, thừa uỷ nhiệm Hội đồng Quân lực, Đại tướng Nguyễn Khánh Tổng tư lệnh Quân đội VNCH ký quyết định tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu là Quốc trưởng và bổ nhiệm ông Phan Huy Quát là Thủ tướng thành lập chính phủ mới. Trong nội các mới này, Công giáo có Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên, Phật giáo có giáo sư Trần Quang Thuận và kỹ sư Ngô Trọng Anh.
Ngày 17-2, Hội đồng quân lực ra quyết định thiết lập Hội đồng Quốc gia Lập Pháp gồm 20 người đại diện đủ thành phần tôn giáo và sáu tướng tá. Chủ tịch bội đồng là tướng Phạm Xuân Chiểu.
Ngày 19-2-65, đại tá Phạm Ngọc Thảo (Công giáo) kéo một lực lượng bộ binh và chiến xa về Sài gòn chiếm đóng trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh và bến Bạch Đằng.
Theo tin đài phát thanh buổi chiều thì một số đoàn thể thuộc lực lượng bảo vệ dân tộc (Công giáo) nổi dậy chống tướng Nguyễn Khánh để thành lập một chánh quyền dân sự..
Các tướng lĩnh họp ở phi trường Tân Sơn Nhất, tướng Kỳ bay trên thủ đô quan sát tình hình và ra lệnh cho quân nổi dậy phải rút nếu không sẽ bị ném bom. Trong lúc đó thì đài phát thanh Ba Xuyên truyền lệnh của Đại tướng Khánh cho các binh sĩ bi lôi cuốn vào cuộc nổi dậy hãy trở về đơn vị. Tại Huế, lực lượng sinh viên học sinh lên án lực lượng bảo vệ dân tộc và những "phần tử Cần lao" trong cuộc nổi dậy của Phạm Ngọc Thảo.
Ngày 20 trên đài phát thanh Nha Trang, Thượng toạ Tâm Châu kêu gọi phật tử ủng hộ "Hội đồng quân lực Tướng Nguyễn Chánh Thi từ Huế vào Sài gòn đảm nhiệm chức Tư lệnh giải phóng thủ đô, ra lệnh cho đại tá Thảo và 13 sĩ quan khác phải trình diện trong 24 giờ, nhưng Thảo và một số sĩ quan cùng những nhân vật Công giáo đều đã trốn. Cùng ngày này, Hội đồng quân lực nhóm họp và quyết định thay thế đại tướng Nguyễn Khánh bằng tướng Trần Văn Minh trong chức vụ Tổng tư lệnh quân đội vì cho rằng Khánh âm mưu tạo ra xáo trộn để trở lại nắm chính quyền.
Ngày 21, tướng Nguyễn Chánh Thi ra thông báo nhấn mạnh đến ước vọng cách mạng của quân lực VNCH là dân chủ, công bằng và hoà bình. Hai tướng Kỳ và Thi bắt đầu kết hợp với nhau để chống Khánh. Ngày 22-2-65, tướng Khánh được bổ nhiệm chức đại sứ lưu động và trung tá Phạm Văn Liễu (bạn thân của các tướng Thiệu, Thi và Kỳ) được giừ chức vụ Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia.
Ngày 25-2-65, tướng Nguyễn Khánh được tặng đệ nhất hạng Kim Khánh rồi mang theo nắm đất rời khỏi Việt nam với lời hứa hẹn một ngày nào đó sẽ trở lại quê hương. Quân lực Việt nam cho đến ngày hôm đó có bốn vị đại tướng, một ông chết và ba ông ra đi, dù ra đi với chức đại sứ, mà sự thật đã bị nhóm tướng trẻ đuổi ra khỏi Việt nam. Việc tướng Khánh ra đi đã đặt quân lực VNCH hoàn toàn nằm trong tay nhóm tướng trẻ Young Turk sau khi các "tướng già" còn lại như Trần Văn Minh, Phạm Xuân Chiểu, Linh Quang Viên, Phạm Văn Đống... là chỉ để cho các tướng trẻ điều động đặt đâu ngồi đó, việc quốc gia đại sự, việc lãnh đạo chiến tranh này hoàn toàn nằm trong tay các tướng trẻ, đặc biệt là hai tướng Thiệu và Kỳ.
Ngày 27-2, giữa Sài gòn, một số người nhân danh "Phong trào bảo vệ hoà bình" (thân Cộng) rải truyền đơn kiến nghị tuyên truyền về vấn đề hoà bình tại Việt nam. (Thượng toạ Thích Quang Liên có chân trong phong trào này).
Ngày 3-3-65, Hội đồng quân lực công bố thành phần Uỷ ban Thường vụ: Tổng thư ký, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu; Uy viên Ngoại giao, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; Uỷ viên Chính trị, Thiếu tướng Linh Quang Viên; Uỷ viên An ninh, Thiếu tướng Phạm Văn Đống; Phụ tá Tổng thư ký, Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Cùng ngày này, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ công bố một bức tâm thư gởi đồng bào và chiến hữu, phân tích hiện tình đất nước, nhắc lại nỗi thống khổ và thất vọng của dân tộc suốt thời kỳ Pháp thuộc và suốt mười năm dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Bức thư cho biết quân lực sẽ chủ trương thực hiện cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lãnh vực.
Ngày 8-3-65, 1.500 thuỷ quân lục chiến Mỹ đầu tiên tới Đà Nẵng. Cũng cần nhắc lại rằng dưới chế độ Diệm, tổng số quân Mỹ tại Việt nam là 17.000 người, 14 tháng sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, quân số Mỹ tại Việt nam là 23.000 người.
Ngày 23-3-65, Hội đồng quốc gia Lập pháp ra tuyên ngôn tán thành việc Mỹ gởi thuỷ quân lục chiến sang tham chiến tại Việt nam. Nếu "dưới chế độ Diệm, khi Tổng thống Kennedy quyết định gởi 12.000 lính Mỹ tới Nam Việt nam chắc chắn đã tạo được ảnh hưởng tốt đối với tinh thần người dân và người lính miền Nam, không phải theo nghĩa hoàn toàn trông mong người Mỹ đánh giặc hộ mà là theo nghĩa nhìn thấy dấu vết cụ thể sự quyết tâm của Mỹ trong lời cam kết giúp Nam Việt nam", thì năm 1965, khi Mỹ bắt đầu gởi Thuỷ quân lục chiến vào Nam Việt nam và ném bom Bắc Việt, người quốc gia chống cộng chẳng những trông thấy quyết tâm của Mỹ trong việc giúp miền Nam mà còn nuôi rất nhiều niềm tin rằng Bắc Việt sẽ bị sụp đổ để đưa lại chiến thắng cuối cùng cho VNCH. Vì thế cả chính phủ Việt nam, cả Hội đồng quốc gia lập pháp, và quân đội VNCH đã hoan hỷ chào mừng quyết tâm của Tổng thống Johnson trong việc leo thang chiến tranh.
Cùng ngày 23, Hội đông chính phủ quyết định chia 160 triệu bạc tịch thu được của họ Ngô cho đồng bào, học sinh và gia đình binh sĩ nghèo, ngoài ra còn bán đấu giá các bất động sản và xí nghiệp cùng trái. khoán tịch thu của nhà Ngô.
Ngày 11-3-65, Viện Hoá Đạo ra thông cáo: “Phong trào tranh thủ hoà bình" của Thượng toạ Quảng Liên không liên quan gì đến Phật giáo cả... phong trào do Thượng toạ thành lập với tư cách cá nhân. Bộ nội vụ công bố danh dách 358 người đã kiến nghị của "Uỷ ban vận động hoà bình" trong đó có 24 sinh viên, 7? học sinh, 78 lao động, 67 người buôn bán, 22 công chức, 20 giáo viên, 11 ký giả, 5 kỹ sư, 5 bác sĩ, dược sĩ, 3 luật sư Cùng ngày này, Hà Minh Trí, cán bộ Cao Đài, người ám sát hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1957 được thả tự do. (Hà Minh Trí bị giam lâu ngày mà không chịu khai toàn bộ tổ chức ám sát của Cao Đài). Ngày 17-3-65, Thượng toạ Quảng Liên từ chức Chủ tịch phong trào bảo vệ hoà bình.
Ngày 2-4-65, ni cô Thích Huệ Thiện tẩm xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân Gia định vì thấy những sự đau khổ do chiến tranh gây ra nhưng các Phật tử đã kịp thời cứu được.
Ngày 8-4, tại Vỏ Xu, Bình Tuy, Việt cộng lại bắt đi Đại Đức Thích Bảo Huệ và một số phật tử.
Ngày 12-4, lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức vô cùng trọng thể tại sân vận động Cộng hoà, rất đông nhân sĩ, trí thức, đảng phái, sinh viên tham dự. Ngày 20-4, Sa di Thích Gia Thanh tự thiêu sau Viện Hoá Đạo vì thấy cảnh tang tóc và chiến tranh. Ngày 4-5, Hội đồng chính phủ Phan Huy Quát quyết định chấm dứt chương trình phát thanh của phái bộ Văn hoá Pháp tại Việt nam vì đại diện Pháp tại SEATO đã có thái độ bất thân thiện với Việt nam, đồng thời trục xuất thông tin viên Ageorges của Pháp tấn xã.
Ngày 5-5, Hội đồng quân lực tuyên bố tự giải tán để các tướng lĩnh trở về địa vị quân sự thuần tuý. Ngày 21-5, Phủ thủ tướng thông cáo rằng cơ quan an ninh đã bắt được 17 quân nhân và 12 dân sự âm mưu đảo chính ngày hôm qua. Những quân nhân trên đây cũng đã từng liên can đến vụ biểu dương lực lượng của Phạm Ngọc Thảo ngày 19-2. Một sĩ quan trong nhóm bị bắt tử thương. (Nhóm này thuộc ảnh hưởng Công giáo).
Ngày 25-5, Thủ tướng phan Huy Quát cải tổ chính phủ. Giữa buổi trình diễn, quốc trưởng Phan Khắc Sửu cho biết không thể ký bổ nhiệm các ông Nguyễn Văn Thoàn và Nguyễn Trung Trinh vì lẽ các ông Nguyễn Hoà Hiệp và Nguyễn Văn Vinh không từ chức.
Cũng ngày này, Thượng toạ Thích Quảng Liên, nguyên Chủ tịch phong trào báo vệ hoà bình, sau cuộc du hành tại Nhật về tới Tân Sơn Nhất được Bộ nội vụ yêu cầu đừng về nước vì có thể bị lợi dụng nên ông phải đáp phi cơ đi thẳng đến Thái Lan và ở luôn tại đó.
Ngày 26-5, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát bày tỏ những bất đồng quan điểm về quyền hạn thay thế bộ trưởng.
Ngày 27-5, một phái đoàn đại diện lực lượng đại đoàn kết Công giáo do Linh mục Hoàng Quỳnh hướng dẫn đã yết kiến Quốc trưởng cùng Hội đồng quốc gia lập pháp, đưa kiến nghị không tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát và yêu cầu chỉ định Thủ tướng khác. Lý do viện dẫn: chính phủ Quát gây chia rẽ, không chống cộng hữu hiệu và thân Pháp.
Ngày 1-6-65, trong lúc cuộc khủng hoảng về việc cải tổ nội các chưa giải quyết thì linh mục Hồ Văn Vui hướng dẫn 60 đại diện của Mặt trận Công giáo Việt nam đến yết kiến Quốc trưởng cùng Hội đồng quốc gia lập pháp đưa kiến nghị tương tự như kiến nghị của Linh mục Hoàng Quỳnh yêu cầu giải tán chính phủ Phan Huy Quát.
Từ ngày 2-6-65, một số linh mục, chính khách thuộc các tôn giáo và đảng phái gởi kiến nghị lên quốc trưởng bất tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát. Ngày 3-6, Thủ tướng Phan Huy Quát họp cùng một số tướng lĩnh để thảo luận về việc khủng hoảng nội các và sau đó cùng các tướng lĩnh sang yết kiến Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Trong lúc đó một số nhân vật khác lại nhân danh các đoàn thể (11 đoàn thể ) gởi kiến nghị lên Quốc trưởng và Hội đồng quốc gia lập pháp chống chia rẽ và tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát. Theo tin UPI thì chính phủ Hoa kỳ vẫn tín nhiệm chính phủ Phan Huy Quát.
Ngày 4-6, nhiều truyền đơn chống chính phủ Quát được tung ra trên nhiều ngả đường.
Đêm mồng 5-6, vài trăm người (Công giáo) chống đối chính phủ Quát tụ họp trên đường Trương Minh Giảng, Trương Minh Ký, Gia định. Họ đốt một xe hơi, hành hung 5 và gây thương tích cho hai cảnh sát viên.
Ngày 7-6, 200 cụ già thuộc các đoàn thể công giáo tới dinh Gia Long yết kiến Quốc trưởng cùng Chủ tịch Hội đồng quốc gia lập pháp, yêu cầu giải quyết gấp cuộc khủng hoảng rồi ngồi lại trong Dinh từ 16 đến 22 giờ mới chịu ra về.
Ngày 8-6, hơn 100 thanh niên, sinh viên, học sinh thuộc các đoàn thể thanh niên Đại đoàn kết và sinh viên học sinh Tự dân (Công giáo) tới dinh Gia Long yêu cầu giải quyết cuộc khủng hoảng và cũng ở lại đó từ 10 giờ đến 16 giờ mới về. Trong lúc đó, lực lượng Đại đoàn kết (Công giáo) tổ chức họp báo tại Gia định xác nhận lập trường chống đối chính phủ Phan Huy Quát của khối Công giáo.
Ngày 9-6, Thủ tướng Phan Huy Quát họp báo giải thích về cuộc khủng hoảng. Ông thuật lại các nỗ lực hoà giải của ông mà vẫn không thành, trình bày chi tiết về mưa âm đảo chính đêm 20-6-65 (của phe Công giáo) và âm mưu lập chính phủ liên hiệp trung lập của phe "Hoà bình", đồng thời ông cũng trả lời các luận điệu chỉ trích rồi kết luận rằng ông yêu cầu quân đội đứng ra lãnh vai trò trung gian để giữ thế quân bình cho đến khi có một chính quyền dân cử.
Ngày 10-6, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ kêu gọi chiến sĩ không quân giữ bình tĩnh sau vụ hiểu lầm ở Tân Mai (thanh niên Công giáo đi biểu tình rồi xô xát với binh sĩ không quân tại Biên Hoà).
Ngày 11-6, các tướng lĩnh nhóm họp tại Sài gòn để xét thư cửa Thủ tướng Quát yêu cầu quân đội làm trung gian điều giải về vụ khủng hoảng nội các. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: cuộc khủng hoảng không do lỗi chính phủ mà do sự thiếu sót của hiến chương ngày 16-8-65.
Cùng ngày này, Quốc trưởng, Thủ tướng và Hội đồng quốc gia lập pháp đều ra tuyên cáo xác định rằng những cơ cấu và thể chế quốc gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế nữa nên giao trả cho quân đội trách nhiệm và quyền lãnh đạo quốc gia và Hội đồng quân lực chấp nhận đơn từ chức của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát.
Ngày 14-6-65, Hội đồng quân lực thành lập Uỷ ban lãnh đạo quốc gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ tịch (Quốc trưởng). Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban hành pháp trung ương (Thủ tướng) và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng thư ký.
Cùng ngày này, Ni cô Quảng Liên Diệu Tịnh, 22 tuổi, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo tại chùa Linh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
Ngày 16-6, Toà án quân sự Mặt trận tại Nha Trang tuyên phạt tù từ 2 đến 16 năm khổ sai 18 người đã tham gia Hội đồng nhân dân cứu quốc miền Trung và liên quan đến các vụ khủng bố, hành hung hồi tháng 9-64 tại tỉnh Bình Định.
Ngày 19-6, một ước pháp mới được ra đời gồm 7 thiên 25 điều thiết lập đại hội đồng quân lực VNCH, Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, Hội đồng kinh tế và xã hội Thượng hội đồng thẩm phán. Các tướng Thiệu, Kỳ, Chiểu được xác nhận là thành viên của Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, còn Hội đồng quốc gia lập pháp cũ giải tán. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra đời với nhiều nhân vật dân sự tên tuổi như bác sĩ Trần Văn Đỗ (Tổng Uỷ viên ngoại giao), luật sư Lữ Văn Vi (Tổng Uỷ viên tư pháp), giáo sư Trần Ngọc Ninh (Tổng Uỷ viên giáo dục), thẩm phán Trần Minh Tiết (Bộ trưởng Nội vụ)...
Từ sau khi tướng Nguyễn Khánh và các tướng lĩnh đưa ra hiến chương Vũng Tàu vào tháng Tám năm 1964 tạo nên bao nhiêu xáo trộn, vì ý nguyện của toàn dân, của các tôn giáo, đảng phái, sinh viên và cả Hoa kỳ là muốn miền Nam có một chính phủ dân sự bền vững để quân đội trở về với nhiệm vụ quân sự thuần tuý. Tiếc thay hai chính phủ dân sự Trần Văn Hương và Phan Huy Quát đã ra đời trong một tình trạng khó khăn với những cuộc xáo trộn, tranh chấp, biểu tình do quân đội, sinh viên, Phật giáo, công giáo gây ra để rồi cuối cùng quân đội trở lại cầm quyền. Sự bất đồng ý kiến giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát về việc thay đổi hai vị Bộ trưởng đã có thể giải quyết dễ dàng nếu khối Công giáo không cố tình trầm trọng hoá vấn đề mà mục tiêu thật sự đã lật đổ chính phủ Quát vì họ cho rằng chính phủ này thân Phật giáo.
Như vậy từ sau khi chính phủ Quát và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu rút lui, chính quyền miền Nam lại trở về tay các tướng lĩnh. Câu tuyên bố quân đội là cha quốc gia của tướng Nguyễn Khánh tuy trắng trợn nhưng thật là thấm thía. Tôn giáo, đảng phái, chính khách, trí thức, sinh viên... cuối cùng chỉ như những hình nộm quay cuồng quanh ngọn lửa nồng của chiếc đèn kéo quân mà thôi.
***
Những gì tôi vừa trình bày trên đây có thể xem như là giai đoạn một của ba năm xáo trộn, giai đoạn kể từ khi nhóm tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý (30-l-65) cho đến ngày Uỷ ban lãnh đạo quốc gia ra đời (6-65).
Từ cách mạng 1-11-63 cho đến ngày mai hai tướng Thiệu - Kỳ lên cầm quyền trong khoảng thời gian gần 20 tháng, miền Nam Việt nam đã phải trải qua 6 chính phủ: Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Nguyễn Xuân Oánh (chính phủ nhiệm 5 ngày), Phan Huy Quát và Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi muốn kể chi tiết và những biến động theo thứ tự thời gian với ước mong những nhà viết sử tương lai nhìn rõ thực trạng đất nước để phân tách công tội của những thành phần đã tạo nên xáo trộn mà chính yếu trong đó là: Phật giáo, công giáo, tướng tá, sinh viên, và đảng Đại Việt của các ông Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký.
Tuy tất cả thành phần trên đều gây ra xáo trộn nhưng thật ra thì sinh viên, quân đội và đảng Đại Việt đều bị chi phối, bị lợi dụng bởi hai tôn giáo là Công giáo và Phật giáo trong chủ trương tranh chấp của họ. Sinh viên dựa vào công trạng chống chế độ Diệm năm 1963 nay gặp phải tình hình hỗn loạn nên muốn chứng tỏ thế hệ trẻ phải được tham dự vào việc nước. Nhưng vì chỉ là một lực lượng ô hợp nên sinh viên đã trở thành công cụ cho các tôn giáo và đảng phái lợi dụng mà thôi. Hành động nổi bật nhất của sinh viên là vụ chống đối “hiến chương Vũng Tàu" và buộc tướng Khánh phải từ chức, nhưng sau biến cố đó rồi thì sinh viên cũng không giúp ổn định được tình hình mà chỉ lên đường, xuống đường làm bung xung múa rối, trong lúc nội bộ lại phân hoá.
Các tướng tá thì bản chất vốn đã võ biền, lại thấy đảo chính và chỉnh lý quá dễ dàng vì chỉ dựa vào võ lực vào tình hình chiến tranh mà quân đội đang là lực lượng chống cộng chính yếu nên đã hành xử một cách hỗn loạn để nắm quyền hành và giành địa vị. Sự bất lực của các tôn giáo, đảng phái và thành phần trí thức lại đã thúc giục thêm tham vọng của các tướng tá.
Đảng Đại Việt mang tham vọng nắm chính quyền, cái tham vọng chính đáng và cần thiết của mọi đảng chính trị, nhưng thực lực còn quá yếu, lại còn phân hoá nội bộ cho nên không thể là địch thủ của các tôn giáo và quân đội trong cuộc tranh chấp quyền lực chính trị nên cuối cùng đành phải bị tan biến trong cơn lốc của một chính trường rối rắm hỗn loạn.
Vê phần lực lượng Công giáo, với bản chất hiếu động và quá trình gắn bó với mọi quyền lực, lại bị mất quyền lợi do cuộc lật đổ chế độ Diệm gây ra, bị toàn dân lên án là "Cần lao", là "tay sai của chế độ Diệm” nên căm thù Phật giáo và nhóm tướng lĩnh trong Hội đồng quân nhân cách mạng cũ do đó họ cần phải tích cực biểu dương sức mạnh bằng những cuộc biểu tình quá khích để phục hồi danh dự và để trả mối hận thù cho chủ cũ.
Chỉ đáng tiếc và đáng trách cho Phật giáo Việt nam cũng đã là nguyên nhân tạo ra tình trạng hỗn loạn mà trước hết tôi muốn nêu lên một vài bí ẩn trong giai đoạn xáo trộn này.
Bí ẩn thứ nhất là vụ chống đối Thủ tướng Trần Văn Hương vào tháng 10 năm 1964. Vụ biểu tình chống đối Thủ tướng Trần Văn Hương là hoàn toàn do Phật tử của Thượng toạ Tâm Châu mà lúc này tuy Thượng toạ Tâm Châu và các Thượng toạ Trí Quang, Thiện Hoa chưa công khai mâu thuẫn nhưng đã có những rạn nứt âm thầm trong nội bộ mà Thủ tướng Trần Văn Hương không được biết.
Nguyên khi thành lập chính phủ, cụ Hương có mời riêng Thượng toạ Tâm Châu đến họp bàn về thành phần chính phủ tại nhà một thương gia tên là Nguyễn Hữu ở Gia định. Hai bên đã bất đồng ý kiến vì Thượng toạ Tâm Châu cho rằng một số nhân vật được Thủ tướng Hương mời không xứng đáng làm bộ trưởng (sau này báo chí có chỉ trích thành phần chính phủ Hương, để trả lời cụ Hương đã tuyên bố: đi chợ không có tôm tươi cá tươi thì phải mua tôm ươn cá ươn vậy). Nghe nói Thượng toạ đòi cho Phật giáo bốn bộ mà cụ Hương chỉ bằng lòng dành cho người của Thượng toạ hai bộ mà thôi.
Thấy Thượng toạ bất mãn, một nhóm phật tử Bắc di cư cầm đầu bởi hai chuyên viên xách động Sài gòn là Khanh (người Bắc) và Nguyễn Đức Mão (người Vinh) tổ chức biểu tình để chống Thủ tướng Hương. Khanh nguyên là cộng sự viên của Hà Đức Minh, Uỷ viên Trung ương đảng Cần lao, còn Mão người thấp, mặt đen và rỗ (biệt hiệu là Hùm Xám, thời Nguyễn Văn Thiệu, Mão làm chủ nhiệm nhật báo Tranh đấu một thời gian và thường phải trốn tránh vì bị công an lùng bắt vì chống Thiệu). Cuộc biểu tình chống Thủ tướng Hương xuất phát từ Viện Hoá Đạo ở đường Trần Quốc Toàn, nhưng vì cụ Hương không biết rõ nội tình của Phật giáo, không biết xuất xứ các cuộc biểu tình nên cụ đã có lời tuyên bố khiếm nhã đối với Phật giáo như: bọn trọc đầu, làm trò khỉ. Lời tuyên bố "vơ đũa cả nắm” đó đã làm cho toàn khối Phật giáo bất mãn, cụ Hương còn tuyên bố thêm: "Tôi không thể để cho tụi con nít làm loạn. Chính trị và học đường cần phải tách rời, cũng như chính trị và tôn giáo không thể đi đôi với nhau được Tôi không thể để cho những tên học trò ỉa bậy, đái bậy”. Vì lời tuyên bố đó mà Thượng toạ Thiện Minh (dù đã có những lời bất đồng ý kiến với Thượng toạ Tâm Châu) đã phải trả lời: Nếu cụ muốn cho các em học sinh không ỉa bậy, đái bậy thì ít nhất cụ phải làm cầu tiêu cho chúng trước đã. Và cũng từ đó khối phật tử thuộc Thượng toạ Trí Quang, Thiện Minh nhập cuộc trong cuộc đấu tranh chống Thủ tướng Trần Văn Hương.
Trong giai đoạn này có hai điểm đáng lưu ý là tuy chính phủ Trần Văn Hương là một chính phủ dân sự nhưng vai trò và quyền lực của các tướng lĩnh trong chính sách quốc gia vẫn giữ ưu thế. Ngoài ra, những mầm mống mâu thuẫn về sách lược giữa hai khối Phật giáo (Tâm Châu và Trí Quang) đã bắt đầu thành hình: khuynh hướng Thượng toạ Tâm Châu nhằm đấu tranh hoà hoãn trong chiều hướng có thể hợp tác với chính quyền, còn khuynh hướng của hai Thượng toạ Trí Quang, Thiện Minh thì quyết đấu tranh triệt để thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện, đặc biệt là phải triệt hạ nhóm Cần lao.
Khối Công giáo, phần thì tiếc Thủ tướng Hương (người đã nặng lời đả kích Phật giáo) phải rút lui, phần thì nghi ngờ Thủ tướng Phan Huy Quát được Phật giáo ủng hộ, đã lợi dụng tình trạng tranh chấp giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát để liên tiếp tổ chức nhiều cuộc biểu tình, bám sát dinh quốc trưởng và vận động một số chính khách đối lập với Thủ tướng Quát ra tuyên ngôn, kiến nghị quyết định lật đổ Thủ tướng Quát cho được. Cuộc biểu tình lực lượng của Phạm Ngọc Thảo và lực lượng bảo vệ dân tộc (Công giáo) ngày 19-2-1965 cùng âm mưu đảo chính đêm 20-5-65 do đại tá Bùi Dinh và một số nhân vật Công giáo cầm đầu, đều có mục đích lật đổ Thủ tướng Quát để khối Công giáo có thể nắm ưu thế chính trị mà lên cầm quyền.
Nhân vật quan trọng trong âm mưu lật đổ Thủ tướng Quát là linh mục Hoàng Quỳnh, vốn là vị chỉ huy đội dân vệ Phát Diệm trước khi đất nước chia đôi (1954). Vào thời chiến tranh Pháp - Việt, người Công giáo miền Bắc thường có áp lực đối với chế độ Bảo Đại để tranh giành quyền lợi như Jean Lacouture đã mô tả trong "Le Vietnam En tre Duex Paix" mà tôi đã đề cập đến trong một chương trước đây. Nhưng khi ông Nguyễn Hữu Trí, một lãnh tụ Đại Việt miền Bắc làm Thủ hiến Bắc Việt, và ông Phan Huy Quát, một đồng chí của ông Trí làm bộ trưởng quốc phòng, thì hai nhân vật này thường đối phó cứng rắn và không thoả mãn hết những đòi hỏi của giáo phận Bùi Chu Phát Diệm. Từ những ân oán quá khứ đó, nay lợi dụng cơ hội rối loạn thuận tiện, Linh mục Hoàng Quỳnh bèn tìm mọi phương cách triệt hại cho được Thủ tướng Phan Huy Quát.
Giai đoạn này đánh dấu sự trỗi dậy của lực lượng Công giáo dưới hình thức các cuộc đấu tranh chính trị. Trong quá khứ những ưa thế của khối này trên mặt xã hội, kinh tế, tài chánh... thật ra chỉ là kết quả tất nhiên của ưu thế chính trị với một gia đình Công giáo toàn quyền lãnh đạo quốc gia; cho nên khi trở lại chính trường miền Nam trong một khung cảnh mới, họ cũng đánh vào mặt trận quan yếu nhất là mặt trận chính trị, nhất là mặt trận đó đã được nhân cách hoá bằng vị Thủ tướng Phan Huy Quát mà họ cho là có khuynh hướng thân Phật giáo. Bí ẩn thứ hai là thái độ của Thượng toạ Trí Quang trước cuộc chỉnh lý của nhóm tướng Nguyễn Khánh.
Sau khi chiến thắng chế độ Diệm, sinh lực của Phật giáo chưa được phục hồi cho nên các cấp lãnh đạo chưa có sách lược chính trị nào ngoài việc lo củng cố nội bộ, lo việc thống nhất Giáo hội, thiết lập các cơ cấu lãnh đạo như Viện Tăng Thống, Viện Hoá Đạo, và gấp rút nhất là việc xây dựng hiến chương, qui chế cho Giáo hội, vì thế dù chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ gồm phần đông là tay chân cũ của chế độ Diệm, Thượng toạ Trí Quang đổi mới sau một năm trời đất nước rối ren (1963), tướng Dương Văn Minh và Hội đồng quân nhân cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều vấn đề cần phải đối phó.
Nhưng sau khi tướng Khánh chỉnh lý, thấy đảng Đại Việt và người Mỹ âm mưu đưa ông Nguyễn Tôn Hoàn là một nhân vật Công giáo từ Pháp về nắm chức Thủ tướng và thấy uy thế Công giáo đang được phục hồi mà thể hiện trắng trợn đầu tiên là việc giết thiếu tá Nhung, thì một mặt ông bí mật yểm trợ cho tướng Khánh giành lấy chức Thủ tướng, một mặt để cho báo Lập Trường và Hội đồng Nhân dân cứu quốc ra đời làm phương tiện đối phó với tình thế mới. Thật ra thì ông Nguyễn Ngọc Huy, những phật tử thuần thành mới là người lãnh đạo đảng Đại Việt. Đảng Đại Việt lại cũng đã cùng với Phật giáo trong cuộc đấu tranh chống Diệm năm 1963. Nhưng thái độ quá khích và kỳ thị của hội đồng nhân dân cứu quốc, cộng thêm lập trường chống ông Nguyễn Tôn Hoàn của Thượng toạ Trí Quang đã tạo ra xích mích và đối lập giữa Phật giáo và Đại Việt. Và cũng vì chống việc trỗi dậy của Cần lao công giáo mà thể hiện là nhiều tướng lĩnh chế độ cũ nắm những địa vị then chốt chung quanh tướng Khánh, nên Hội đồng Nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế mới truất phế Linh mục Cao Văn Luận viện trưởng Viện Đại học dù chỉ trước đó độ một tháng họ đã đón rước linh mục trọng thể vì linh mục đã từng đứng về phe Phật giáo và sinh viên trong biến cố Phật giáo chống lại hai ông Thục - Diệm.
Có thể nói một cách chắc chắn rằng chủ trương chống đối Công giáo Cần lao phục hồi là chủ trương chung của tất cả tôn giáo, đảng phái và sinh viên, báo chí, chứ không riêng gì của Thượng toạ Trí Quang, của sinh viên Huế, hay của "Hội đồng nhân dân cứu quốc”. Tiếc thay những sai lầm lãnh đạo của cấp lãnh đạo Phật giáo và thái độ quá khích, manh động của Hội đồng Nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế đã làm cho Phật giáo thất bại trong giai đoạn xáo trộn thứ nhứt, giai đoạn từ khi Khánh chỉnh lý cho đến khi Thiệu - Kỳ thành lập Uỷ ban lãnh đạo quốc gia.
Trước hết là vì Thượng toạ Trí Quang không nắm vững việc lãnh đạo nhóm đấu tranh để cho họ trở thành một lực lượng ô hợp, thiếu lãnh đạo nhất là lãnh đạo để đấu tranh cách mạng. Hai và vì danh từ "cứu quốc" làm cho những người quốc gia liên tưởng đến những đoàn thể "cứu quốc" của Cộng sản, từ đó người ta nghi ngờ “Hội đồng nhân dân cứu quốc là khí cụ nguỵ trang của cộng sản.
Những khẩu hiệu "Chống Mỹ" do Hội đồng và tờ Lập trường nêu lên lại càng làm cho người quốc gia lo sợ nhất là trong tình trạng chiến tranh Quốc - Cộng đang mỗi ngày một gia tăng.
Cuộc xuống đường của khối Phật giáo Tâm Châu tại Sài gòn chống lại Thủ tướng Trần Văn Hương, một nhân vật được đa số trí thức, đảng phái, nhất là người Nam Kỳ coi như thế là kẻ sĩ tạo thêm nỗi bất mãn cho nhân dân.
Những rối rắm xáo trộn do Công giáo, Phật giáo, Sinh viên gây ra tại thủ đô cũng như các cuộc đảo chính, chỉnh lý, biểu dương lực lượng của quân đội làm cho nhân dân vô cùng chán nản, cho nên hành động có tính cách phá rối của Hội đồng nhân dân cứu quốc tại Huế và miền Trung chỉ làm nhân dân thêm bất bình chán ghét mà thôi.
Tinh thần "độc tôn cách mạng” của Hội đồng nhân dân cứu quốc và hành động kỳ thị đối với hai đảng Đại Việt và Việt Quốc ở miền Trung càng đốt thêm ngọn lửa chia rẽ giữa Phật giáo và các đoàn thể trên, đóng góp thêm vào sự sứt mẻ uy tín của Phật giáo. Cũng vì thiếu lãnh đạo, lại hoạt động có tính cách phá rối cho nên nhiều phần tử của Hội đồng nhân dân cứu quốc ở Qui Nhơn, Phan Thiết bị chính quyền đưa ra toà mà lực lượng đấu tranh không dám can thiệp, phản ứng. Thảm bại hơn nữa là việc ông chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc, bác sĩ Lê Khắc Quyết bị tướng lĩnh bắt lên Pleiku an trí (20-12-1964) trong ba tháng trời càng làm mất thể giá của Hội đồng do ông ta lãnh đạo
Dù sao thì giai đoạn xáo trộn trên đây là điều không tránh khỏi cho bất kỳ một quốc gia nào sau khi một chế độ độc tài, bằng cách này hay cách khác bị chấm dứt. Các chế độ độc tài, một khi không còn nữa là để lại một khoảng trống chính trị của miền Nam Việt nam sau khi chế độ Diệm bị lật đổ càng tác hại to lớn hơn vì suốt chín năm nhà Ngô cai trị tất cả tôn giáo, đảng phái bị tiêu diệt hay bị vô hiệu hoá. Xáo trộn càng trầm trọng hơn nữa khi nhà Ngô và công giáo suốt chín năm trời giành lấy độc quyền chống cộng mà lại bất lực để cho Việt cộng nắm lấy ưu thế tại miền Nam. Đã đành là váy, nhưng sự thất bại của Thượng toạ Trí Quang và Phật giáo qua gần hai năm xáo trộn trên đây không phải là điều không đáng phê phán.
Thượng toạ Trí Quang là một tăng sĩ, mà như một nhân viên toà đại sứ Mỹ tại Sài gòn trình bày cho đại sứ Lodge là một người Việt nam trước khi là một nhà sư như các ký giả Mỹ đã biết, là một "lãnh tụ Phật giáo chống cộng theo đường hướng của Phật giáo”. Nhưng các lực lượng do ông điều động - Hội đồng nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế, "những kẻ bụng đầy chủ nghĩa nhưng lại thiếu ý thức chính trị, chủ quan và vọng động, xuẩn động” - đã làm cho ông thất bại. Vì vậy khác với cuộc đấu tranh hào hùng năm 1963, chính nghĩa đấu tranh chống lại sự phục hồi uy thế Công giáo Cần lao của ông trong năm 1964-1965 đã bị hiểu lầm, bị xuyên tạc và đưa đến sự thất bại trong năm 1966.
***
Khi các tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên... chỉnh lý cuối tháng giêng năm 1964 thì tôi đang là Uỷ viên chính trị của Hội đồng quân nhân cách mạng cũ và đang giữ chức bộ trưởng bộ thông tin của chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ. Độ một tuần lễ trước cuộc chỉnh lý, Khánh từ Quân đoàn II về Sài gòn ghé lại thăm tôi tại nhà riêng với thái độ rất thân mật, nhưng tuyệt nhiên không đề cập đến chính trị. Việc Khánh đến thăm tôi là một hành động rất lạ vì trước kia tuy Khánh và tôi có gặp gỡ, giao thiệp vì công vụ, nhưng trong suốt thời gian dưới chế độ Diệm, Khánh chỉ đến nhà tôi có một lần nhân bứa tiệc tôi thết đãi một số bộ trưởng, thân hữu, và ông chủ tịch Quốc hội Phạm Văn Nhu vốn là thầy học cũ của tôi và quen thân với nhạc gia tôi lúc ông làm huấn đạo tại phủ tôi. Sau này, khi Khánh chỉnh lý tôi mới hiểu hành động xã giao đó là để lôi kéo, mua chuộc tôi về phía Khánh và Khánh tưởng lầm tôi là một nhân sĩ quan trọng của Phật giáo, cho tôi là người có ý thức chính trị hơn phần đông các tướng lĩnh khác, người có uy tín vì đã gác tình riêng để tham gia Cách mạng 1-11-1963.
Sau khi chỉnh lý vài hôm, Khánh yêu cầu tôi giữ chức Phó Thủ tướng đặc trách văn hoá xã hội, phối hợp các bộ Giáo dục, Y tế, Xã hội và Lao động. Tôi thành thật cảm ơn Khánh nhưng nhất định từ chối vì tự nghĩ là người có học hành ít ỏi, lại không có bằng cấp cao trong một cái xã hội còn nặng tinh thần khoa bảng. Khánh tha thiết nói:
"Anh tưởng tôi không biết trình độ văn hoá của anh hay sao? Trước khi nói chuyện với anh tôi đã nghĩ kỹ. Trong giai đoạn khó khăn phức tạp này, phải có một vị tướng lĩnh mới có thể ổn định được kỷ luật học đường. Vì nếu cứ để học sinh, sinh viên gây xáo trộn quân nhân làm loạn trường thi, đánh đập giám khảo, thì làm sao nền văn hoá giáo dục nước nhà có thể phát huy tốt đẹp được? Lại nữa mà đây mới là điều quan trọng là hơn ai hết, anh biết rõ sách lược xâm nhập cán bộ cộng sản vào các cơ quan chính quyền, do đó nhiệm vụ chính yếu của anh là nhiệm vụ hướng dẫn chính trị, phần chuyên món thì bộ nào đã có thành phần trí thức và chuyên viên của bộ đó. Trách nhiệm trước tiên của anh là chặn đứng nội tuyến của Việt cộng, triệt tiêu các phần tử thân Pháp, thân Trung lập, thân Cộng len lỏi vào các bộ nhất là hai bộ Giáo dục và Lao động, nơi mà Việt cộng dễ dàng lũng đoạn hàng ngũ quốc gia, phá hoại đường lối chống cộng của chúng ta. Huống chi trí thức miền Nam đa số là "trí thức phòng trà" nặng đầu óc phe phái, ganh tị lẫn nhau, họ không thể đối phó với tình hình rối rắm. Lúc này chúng ta cần một vị tướng cứng rắn hơn là một khoa bảng nhu nhược. Mong anh nghĩ kỹ".
Thật là khó xử cho tôi khi phải cầm đầu ngành văn hoá giáo dục nước nhà, phải điều động các nhà khoa bảng trí thức. Thời Đệ I Cộng hoà, tôi đã gặp một lần khó xử khi ông Diệm cử tôi giữ chức Tổng giám đốc hai ngành Công binh tạo tác và Công binh chiến đấu hợp nhất, mặc dầu ông có hứa sẽ biệt phái cho tôi một nhóm kỹ sư kiến trúc sư làm cố vấn, nhưng tôi đã yêu cầu bộ trưởng Bộ quốc phòng Trần Trung Dung và ông Đổng Lý Nguyễn Đình Thuần can thiệp để tôi khỏi phải giữ cái địa vị mà tôi không chuyên môn. Nhưng thực trạng xã hội lúc này buộc tôi phải suy nghĩ rất nhiều, lời mỉa mai trí thức miền Nam toàn là tri thức phòng trà của Khánh tuy có tính chất miệt thị quá đáng nhưng cũng không xa sự thật bao nhiêu. Một số trí thức tâm huyết hiếm hoi đã phải chịu thất bại hay đầu hàng tình thế, còn đa số trí thức thì hay sợ hãi và chỉ biết tính toán lợi hại, dùng cấp bằng của mình là giá áo túi cơm! Thật vậy, sau khi mất nước sống lưu vong nơi xứ người mà trí thức quốc gia vẫn còn bị phê phán nặng nề đủ thấy thái độ nhút nhát của giới trí thức miền Nam thời chưa mất nước. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã phê bình "trí thức quốc gia không đủ sức hiểu ý nghĩa của chính trị, không chịu tìm hiểu thực tế. Họ tự hào với một mớ kiến thức mà không có tư cách của kẻ sĩ nên luôn luôn đứng ngoài và "đứng trên" các tổ chức chính trị, và do đó họ không có hậu thuẫn quần chúng. Còn những trí thức chạy theo đảng Cần lao thời Đệ I Cộng hoà hay sau này chạy theo đảng Dân Chủ Đệ II Cộng hoà thì chỉ vì quyền lợi trước mắt".
Ngoài giáo sư Nguyễn Ngọc Huy còn có nhiều người như học giả Hoàng Văn Chí (trên báo Dân Quyền) hoặc như trí thức Đào Sĩ Phu lên án trí thức quốc gia gắt gao hơn: Trong mọi biến chuyển xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế, phần trách nhiệm tối hậu vẫn do trí thức gánh vác trong mọi dân tộc. Nhưng một số đông trí thức không chịu thi hành nhiệm vụ cao cả của họ, không chịu lãnh phần trách nhiệm lịch sử của họ, không chịu nỗ lực làm công việc giáo dân, truyền lại những gì đã được học hỏi và quan sát. Một số đông trí thức đã im lặng sống qua ngày hay chỉ lo tìm tư lợi hay theo hùa với giới cầm quyền để chấm mút ít nhiều.
Là một kẻ ít học không xuất thân từ con đường khoa bảng mà lại cầm đầu ngành văn hoá giáo dục, tôi biết sẽ nhận lấy những búa rìu dư luận đương thời. Nhưng trước cuộc chiến tranh mất còn với một kẻ thù tối nguy hiểm, trước cuộc khủng hoảng nhân tâm của quốc gia, trước tình trạng sinh lực bị hao mòn của dân tộc đã không có một Nguyễn Trãi dâng Tâm Công Sách giúp kẻ áo vải đất Lam Sơn đánh đuổi quân xâm lăng, đã không có một La Sơn Phu Tử giúp nhà vua ít học Quang Trung một chính sách tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì ít nhất tôi cũng có thể làm võ tướng Hoàng Cái đời Tam Quốc nhà Hán, dẹp qua một bên bọn hủ nho Giang Đông bụng chứa đầy chữ nghĩa mà chỉ biết tranh luận suông bàn xuôi nói ngược, khua môi múa mép khi đại quân Tào Tháo đang đe doạ cõi bờ.
Sau khi nhận chức điều khiển văn hoá giáo dục, tôi cần phải kiểm điểm lại gia tài và định giá lại những sinh hoạt văn hoá do chế độ cũ để lại. Chế độ cũ đã từng có những đại hội văn hoá và giáo dục, có đại hội văn nghệ chống đối văn nghệ miền Bắc, có hai năm phát giải thưởng văn chương, có hội Khổng học, có đồ án thiết lập Trung tâm văn hoá trên khu đất cạnh dinh Gia Long... Về giáo dục, nhờ viện trợ Mỹ, nhất là nhờ thiện chí của giáo sư Buttinger, chế độ Diệm đã xây cất Học Viện quốc gia hành chính, trung tâm kỹ thuật Phú Thọ, Trường đại học chính trị kinh doanh tại Đà Lạt, và Viện đại học Huế...
Nhìn bề ngoài thì nền văn hoá giáo dục dưới chế độ Diệm cũng có vẻ “trăm hoa đua nở”, nhưng nó chỉ nở một loại hoa và một loại hương khó ngửi chẳng hạn như Đại học Văn khoa không được tự do phân khoa còn dùng toàn tiếng Pháp mặc dù cấp trung học đã được việt hoá. Việc cho sinh viên du học nước ngoài đầy dẫy những bất công... Đã thế các giáo sư lại bị theo dõi, tài liệu giáo khoa thì bị kiểm soát gắt gao. Tư tưởng đã bị kìm kẹp thì làm sao văn hoá giáo dục có thể phát huy, ý thức được khai phóng và kiến thức được phong phú. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ dạy ở các trường Jean Jacques Rousseau và Marie Curie giảng giả sự thật về cuộc xâm lăng Việt nam của Pháp là do các cố đạo Thiên Chúa giáo mở lối đưa đường, liền bị bắt, bị giam vào khám Chí Hoà.
Do đó, sau khi hội ý sâu sắc với các cộng sự viên, tôi chủ trương phải xây dựng một nền văn hoá giáo dục có nội dung nhân bản và dân tộc, phải khởi đi từ nền móng của nền vãn hoá gốc rễ dân tộc, lấy con người là bản vị, để từ đó nghiên cứu nội dung văn hoá hiện đại mà tổng hợp thành hướng đi cho văn hoá Việt nam. Muốn như vậy, phải có sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà văn hoá đủ các bộ môn thân thiết với đời sống tổng thể của cả nước, để từ đó đặt nền tảng cho nền văn hoá giáo dục Việt nam, tránh tình trạng mỗi lần thay đổi chính phủ là mỗi lần thay đổi chính sách văn hoá giáo dục.
Do đó, sau khi nhận chức vụ Phó Thủ tướng văn hoá, tôi cho mời một số nhà trí thức có thực tài và đạo đức âm thầm soạn thảo chương trình vận đồng cho một đại hội văn hoá giáo dục mà tôi sẽ triệu tập trong tương.
Việc cấp tốc thứ hai là phải khơi lại nguồn suối tình tự dân tộc và ý thức trách nhiệm uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mà chính sách "làm sáng danh Chúa" của nhà Ngô đã làm cho một phần lớn sinh viên sinh ra vọng ngoại, dù sống trên quê hương mình mà suy nghĩ và hành xử như một người ngoại quốc.
Tuy nhiên, mới đảm nhận chức vụ Phó Thủ tướng văn hoá xã hội trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi từ đầu tháng hai đến cuối tháng bảy năm 1964 và chưa thực hiện được chí hướng của mình cũng như chưa đóng góp gì cho đại cuộc thì đầu tháng tám, tướng Khánh, tướng Khiêm cử tôi đi Đại Hàn tham dự lễ Độc lập của nước bạn là để cảm ơn đã giúp đỡ quân đội VNCH một số dụng cụ thuốc men.
Rời Đại Hàn, tôi về Nhật Bản thăm Ngoại trưởng Nhật dù chương trình công du của tôi không trù liệu cuộc viếng thăm này.
Tôi đang dự định đi thăm Hoàng Thành của vua Hirohito và Cố đô Kyoto thì bỗng nhận được công điện của tướng Khánh gọi về ngay. Về đến Sài gòn, nhìn quang cảnh Thủ đô xáo trộn do Hiến chương Vũng Tàu gây ra, tôi chua xót nhìn quê hương đắm chìm trong gió bụi hận thù và phân hoá. Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Khánh và Khiêm không cử ông Đệ nhất, Đệ Nhị Phó Thủ tướng đi Đại Hàn mà cữ tôi vốn chỉ là Đệ Tam phó Thủ tướng. Thì ra họ nghi ngờ tôi có thể dựa vào lực lượng sinh viên và phật tử để chống đối lại Hiến chương Vũng Tàu vô chính trị và độc đoán của họ. Chả trách ngay sau ngày chỉnh lý, họ đưa đại tá Lê Nguyên Khang từ Phillippines về thay thế cháu tôi là Trung Tá Nguyễn Bá Liên (đang là tư lệnh thuỷ quân lục chiến). Lê Nguyên Khang từ Phillippines về, đi thẳng bằng trực thăng đến Kiến Hoà nơi cháu tôi đang chỉ huy một cuộc hành quân quan trọng, đòi phải được bàn giao tức khắc chức Tư lệnh và Liên phải về ngay Sài gòn bằng chiếc trực thăng của Khang. Thiếu tá Trần Văn Nhật, người bạn thân của cháu tôi cũng bị thuyên chuyển ra khỏi binh chủng thuỷ quân lục chiến và phải cùng với cháu tôi đi phục vụ tại Manila trong văn phòng tuỳ viên quân sự. Thì ra tuy họ muốn lợi dụng tên tuổi và uy tín của tôi nhưng vẫn e ngại nên âm mưu vô hiệu hoá các bạn hữu và con cháu của tôi ngay khi họ vừa chỉnh lý xong. Chả trách họ đẩy tôi đi Đại Hàn để gạt đi một phần tử có thể chống đối họ trong việc múa may quay cuồng tung hô lẫn nhau tại Vũng Tàu, chung quanh Hiến chương quái đản đó.
Nhớ lại khoảng thời gian tám tháng trước đó, ngày 31-1-1964, Khánh và Khiêm gọi tôi đến Bộ Tổng tham mưu “có việc cần”. Chỉ đến lúc đó tôi mới biết cuộc chỉnh lý do Khánh, Khiêm và Viên cầm đầu đã xảy ra. Khánh trình bày những lý do buộc ông ta và một số tướng trẻ phải làm cuộc chỉnh lý. Khánh và Khiêm cũng cho tôi biết "bọn Đôn, Kim, Xuân, Vỹ đi với Tây”, chủ tương trung lập nhưng khi tôi tỏ vẻ hoài nghi thì Khánh và Khiêm bảo rằng họ có đầy đủ bằng cớ mà việc "nhóm đó” cho phép Nguyễn Văn Vỹ và dự định cho phép trung tá Trần Đình Lan về Việt nam là một. Khiêm và Khánh còn nói thêm: tướng Dương Văn Đức ở Pháp về có đủ hồ sơ về “những hoạt động trung lập”, những hoạt động cho Pháp của Vỹ và Lan. Mấy tháng qua, khi các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính, Vỹ bị đem ra xét xử tại Đà Lạt trong suốt hai ngày đêm ròng tôi mới biết tướng Vỹ được các tướng Đôn, Kim mời hết về trước hết, vì Vỹ đã từng chống đối chế độ Diệm và chỉ vì tình bạn với các tướng Kim, Đôn, tướng Vỹ có tinh thần thân Pháp nhưng lại có lập trường chống trung lập và chống giải pháp thống nhất hai miền của Tổng thống De Gaulle. Trớ trêu thay, những kẻ cùng với Khánh lên án tướng Vỹ là chủ trương trung lập trong đó có Thiệu, Khiêm, Viên sau này lại mời tướng Vỹ giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng khi Thiệu, Khiêm, Viên trở thành những nhà lãnh đạo quốc gia, thứ lãnh đạo quốc gia tham nhũng, trong lúc tướng Vỹ vẫn là người liêm chính. Vụ án "ngân hàng quân đội” mà tướng Vỹ phải chịu trách nhiệm chỉ là vụ án "có ít xít ra nhiều". Chẳng qua Hoa kỳ không muốn quân đội Việt nam có một số tư bản to lớn để có thể bất chấp áp lực của Hoa kỳ nên đã buộc Nguyễn Văn Thiệu giải tán ngân hàng quân đội.
Chính lý xong, Khánh và Khiêm bèn nhờ tôi đến gặp tướng Dương Văn Minh tại dinh Hoa Lan đường Hồng Thập Tự để mời ông giữ chức quốc trưởng. Vì chưa nắm vững tình hình nên tôi muốn nhân dịp này biết thêm chi tiết, tôi bèn ghé nhà tướng Minh thì gặp thêm cả tướng Lê Văn Nghiêm, Phạm Xuân Chiểu đang ngồi bàn bạc chuyện trò trong căn nhà bị quân lính của nhóm chỉnh lý canh gác. Sau khi nghe tôi trình bày chủ trương của Khánh tướng Minh với vẻ mặt trầm ngâm nhờ tôi về nói lại với Khánh là ông sẽ suy nghĩ và trả lời Khánh sau. Tôi bèn về thẳng nhà tôi và điện thoại cho Khiêm biết ý kiến của tướng Minh.
Trước cảnh xáo trộn của đất nước, ngày 30-9-1964 tôi từ chức Phó thủ tướng và trở về quân đội, trở lại cuộc đời học trò ngày hai buổi đến trường sinh ngữ quân đội học thêm Anh văn. Bài học Ngô Đình Diệm, bài học tướng lĩnh đã làm cho tôi thấm thía nên quyết định xa lánh chính trường.
Nhưng rồi một hôm tôi được Khánh mời vào dinh Thủ tướng và yêu cầu tôi đi Pháp hai tháng để quan sát tình hình và "Pháp đang có âm mưu vận động đưa vấn đề Việt nam ra trước một hội nghị quốc tế”. Khánh cung cấp 10.000 quan cho việc chi phí tại Pháp trong hai tháng đó. Tôi nghĩ thầm Khánh muốn đẩy tôi ra khỏi nước nên từ chối ngay với lý do tôi đã từng là thành phần "persona non grata" của chính quyền Pháp. Khánh bảo tôi cứ về suy nghĩ lại.
Vài hôm sau Albert Cao đến nhà tôi mang theo vé máy bay đi Pháp và cái ngân phiếu 20.000 quan: "Trung tướng Khánh nhất định nhờ thiếu tướng đi Pháp và tăng tiền chi phí cho thiếu tướng 20.000 quan”. Tôi bảo Cao: “Anh về thưa lại với trung tướng rằng tôi không đi đâu hết, đừng đem tiền bạc mà dụ tôi. Tôi ngồi đợi để trung tướng cho quân cảnh đến bắt. Tôi biết ông ta muốn đẩy tôi ra nước ngoài". Cao ra về và sau đó không thấy Khánh nhắc lại vụ đi Pháp nữa. Nhưng độ một tháng sau lại thấy Khánh cho mời tôi vào văn phòng để yêu cầu tôi cùng với lãnh tụ Tự do Khmer Sơn Ngọc Thành đi Thái Lan trong suốt mười ngày để quan sát công cuộc chiến đấu chống Sihanouk và giao thiệp với cơ quan tình báo hải ngoại của Thái Lan hầu thiết lập kế hoạch trao đổi tin tức tình báo giữa hai chính phủ như tôi đã nói trước kia. Tôi biết Khánh lại muốn đẩy tôi ra khỏi nước nhưng vẫn bằng lòng đi vì tin tưởng rằng đi Thái Lan thì việc trở về không khó khăn gì. Tôi đem theo cháu tôi là đại uý Đỗ Hải làm sĩ quan tuỳ viên. Khi lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi ngạc nhiên thấy thiếu tá Hữu, một cựu cán bộ Cần lao công giáo từng làm việc với bác sĩ Tuyến trong Sở nghiên cứu chính trị đi theo. Hữu cho tôi biết đi Thái Lan là để liên lạc với cơ quan tình báo Việt nam tại Bangkok nhưng tôi biết Hữu vâng lệnh của Khánh để đi theo dõi tôi. (Thiếu tá Hữu dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tỉnh trưởng Cam Ranh nổi tiếng là một tay tham nhũng).
Đến Bangkok, tôi cùng với Đại sứ Thái Quang Hoàng đến thăm xã giao Thủ tướng Sarit Thanarat và sau đó hội họp mấy ngày liền với các cơ quan tình báo Thái và thăm tổ chức của Sơn Ngọc Thành. Lợi dụng những lúc rảnh rỗi, tướng Hoàng dẫn tôi đi thăm viếng phong cảnh xứ Thái và chiêm ngưỡng một số chùa tháp danh tiếng. Gần 10 ngày sau, tôi nhận được công điện của Khánh phải rời Thái Lan đi Mã Lai hai tháng để nghiên cứu về du kích chiến của xứ này. Biết rằng Khánh muốn đẩy mình đi xa hơn, tôi bèn quyết định trở về. Tôi đến gặp Thái Quang Hoàng và cho biết sẽ trở vè Việt nam ngay. Hoàng đắn đo hỏi tôi: “Bác về bằng cách gì? ", tôi trả lời liền: "Tôi sẽ về bằng ghe Thái Lan, đổ bộ lên Hà Tiên hay Rạch Giá rồi về Sài gòn".
Từng là bạn thân lâu năm, biết rõ nhau qua nhiều hoạt động quân sự và chính trị dưới nhiều chế độ, tôi biết Hoàng là người khí phách can trường. Hoàng lo lắng cho tôi: "Bác về như vậy sợ nguy hiểm. Tôi sẽ cấp vé máy bay cho bác về thẳng Sài gòn. Khi nào bác đặt chân đến phi trường Tân Sơn Nhất, tôi sẽ đánh điện báo cho chính phủ”. Sợ liên luỵ đến địa vị của Hoàng, tôi từ chối nhưng Hoàng nài nỉ khuyên tôi phải trở về bằng phi cơ, rồi tiễn tôi ra tận máy bay. Về Sài gòn tôi đợi đến sáng hôm sau mới gặp Khánh. Khánh không tỏ vẻ tức giận nhưng với cái mỉm cười đầy bí hiểm Khánh đùa: "Thế là hai lần anh đã không tuân lệnh tôi". Ít lâu sau tướng Hoàng cũng mất chức Đại sứ VNCH tại Thái Lan.
Chính tình Việt nam vẫn sôi động, những xáo trộn vẫn liên tiếp xảy ra tại Sài gòn và Huế, rồi ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc trưởng, ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng, Thượng hội đồng Quốc gia ra đời, Trung tướng Nguyễn Khánh trở về quân đội giữ chức Tổng tư lệnh, hai Đại tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm đi ra nước ngoài với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu các tướng "già" (trong đó có tôi) buộc phải về hưu kể từ 30-12-1964.
Rời khỏi chính trường, rời khỏi quân đội tôi mừng thầm từ đây thoát khỏi vòng cương toả, sẽ được yên thân dù biết rằng nhà tôi vẫn bị những nhân viên an ninh theo dõi. Tôi tiếp tục các thú vui bình nhật như đọc sách, uống trà, đánh tổ tôm, tài bàn vui vẻ với nhiều bạn hiền và đến nhà các thầy tử vi để nói và nghe chuyện đời.
Không ngờ vào khoảng 3 giờ đêm ngày 20-12-1964, đại tá Nhiêu, một cộng sự viên của Khánh và đang là Giám đốc Sở Trung ương tình báo, đi xe Jeep cùng với ba binh sĩ võ trang đến nhà riêng của tôi mời tôi đến gặp Hội đồng tướng lĩnh đang nhóm họp tại Bộ Tổng tham mưu. Tôi biết việc chẳng lành đang xảy ra nên dặn vợ con cứ yên tâm ở nhà vì tin chuyến này ra đi thì còn lâu lắm mới trở về.
Đại tá Nhiêu mời tôi vào ngồi trong phòng khách nhà tướng Khánh trong khuôn viên Bộ Tổng tham mưu, gần cổng chính. Trong một phòng bên kia, Khánh và các tướng trẻ đang hội họp. Họ để tướng Sang vừa ngồi nói chuyện vừa canh chừng tôi. Độ năm giờ sáng, cuộc họp vừa tan thì Nguyễn Văn Thiệu, rồi Nguyễn Chánh Thi đến chào và nói vài câu chuyện đãi bôi. Đến bảy giờ sáng, tướng Nguyễn Hữu Có, lúc bấy giờ là Tư lệnh Quân đoàn II đóng ở Pleiku, vào gặp tôi và cho biết: "Tôi được lệnh Hội đồng tướng lĩnh mời anh lên cao nguyên ở một thời gian". Tướng Có mời tôi lên xe và đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất. Tại đây, tôi thấy một số chính khách, một số Hội viên Hội đồng quốc gia, một số sinh viên và ba người bạn thân của tôi là nhà báo Vũ Ngọc Các, luật sư Trần Thanh Hiệp và học giả Mai Ngọc Liệu. Biết là đồng hội đồng thuyền, Các, Hiệp, Liệu và tôi nhìn nhau mỉm cười. Đến Pleiku, bác sĩ Lê Khắc Quyên bị giữ lại gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, ông Nguyễn Văn Lực bị chuyến đi Nha Trang, các chính khách và sinh viên khác đi Kontum, còn riêng tôi thì tướng Có dành cho ngôi dinh thự cũ của viên công sứ Pháp, biệt phái cho tôi một binh sĩ để phục vụ. Từ đó, tôi ở vào tình trạng "quản thúc vô hạn định” trên thành phố đìu hiu này. Thỉnh thoảng tướng Có đến chuyện trò hoặc đích thân lái xe đưa tôi đi thăm phong cảnh Pleiku nhưng tuyệt nhiên không bao giờ đề cập đến việc quản thúc của tôi hoặc thảo luận về tình hình chính trị của đất nước.
Trong hơn hai tháng chúng tôi bị quản thúc thì cụ Trần Văn Hương cũng mất chức Thủ tướng và nghe nói bị an trí tại Vũng Tàu, chính phủ Phan Huy Quát ra đời, đại tá Phạm Ngọc Thảo, lực lượng bảo vệ dân tộc và lực lượng đại đoàn kết của khối Công giáo nổi dậy chống chính phủ. Tướng Khánh phản ứng trong tuyệt vọng vì Hội đồng quân lực cho rằng những xáo trộn đều có Khánh gây nên, nên cách chức Khánh. Sau màn trình diễn như thăng chức lên Đại tướng và gắn Đệ nhất Kim khánh cho Khánh, Hội đồng tướng lĩnh buộc Khánh phải rời khỏi đất nước. Ngày 25-2-1965, Khánh lên phi cơ rời đất Tổ mang theo một nắm đất quê hương và hẹn ngày trở lại. Nhưng Khánh đi mãi mà không có ngày về dù miền Nam còn hơn 10 năm trời sống sót. Khánh xin cư trú tại Mỹ nhưng bị từ chối nên đành phải đến Pháp với tất cả nỗi lòng chua chát của một con người nhiều thủ đoạn, đã mê hoặc được cả hai anh em Diệm - Nhu, đã vận dụng được cả đảng Đại Việt, đã lừa được tất cả những tướng lĩnh để cuối cùng phải ngâm câu "chữ Tài liền với chữ Tai một vần".
Tướng Khánh ra đi, chính phủ Phan Huy Quát chỉ kéo dài được từ 16-2-1965 đến 11-6-1965, nghĩa là không đầy bốn tháng, rồi vì sự chống đối của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và của khối Công giáo, chính quyền lại về tay các tướng trẻ với tướng Thiệu làm chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, tướng Kỳ làm chủ tịch Uỷ ban hành pháp, tướng Có giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Thi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn I. Còn tôi sau ba tháng bị cô lập ở Pleiku, được thả về Sài gòn.
Từ ngày bị an trí lại Pleiku trở về, vốn mang tâm hồn bảo thủ, tôi trở lại cuộc đời bình dị, mang chiếc áo lương đen dài, bắt chước người xưa làm nhà ẩn dật, ngồi nhìn mưa nắng hai mùa, mặc cho thế sự thăng trầm... Tôi không tham gia cuộc đấu tranh của Phật giáo năm 1966 mặc dầu tôi đồng ý về căn bản với lập trường chính trị của thượng toạ Trí Quang.
Tuy nhiên, dù tôi không liên hệ gì đến cuộc đấu tranh của Phật giáo và cũng chẳng dính dự gì đến những biến động lúc bấy giờ, nhưng các tướng trẻ và bộ tham mưu Công giáo của Thiệu vẫn cứ e ngại tôi nên họ lấy lý do tình hình xáo trộn để một lần nữa tạo thêm gian truân cho tôi. (Sau này tướng Nguyễn Hữu Có đến thăm tôi tại nhà riêng cho tôi biết từ ngày tôi về hưu trí, những tướng nào thường có thái độ thù hằn tôi. Đại tá Phạm Văn Liễu sau khi thôi chức Tổng giám đối cảnh sát cũng ghé thăm và cho tôi biết vụ bắt bớ tôi năm 1966 là do lệnh của Nguyễn Văn Thiệu).
Một hôm, tôi được viên thiếu tá chánh văn phòng của chủ tịch Uỷ ban hành pháp Nguyễn Cao Kỳ đến mời vào gặp ông ta trong dinh Thủ tướng. Ngày hôm sau, tôi vào dinh đợi khoảng hơn một tiếng đồng hồ mới thấy Kỳ đến. Kỳ đi thẳng vào văn phòng và bắt tôi đợi thêm một giờ nữa mới ra phòng khách tiếp tôi. Ngồi chờ lâu, tôi suy nghĩ miên man đoán rằng có lẽ mình đã làm điều gì đụng chạm nên Kỳ mới có thái độ cao ngạo như thế. Cuối cùng tôi đoán có lẽ vì chuyện đám cưới của Kỳ mà tôi đã không tham dự có thể đã làm cho Kỳ tức giận chăng.
Mùa xuân năm ngoái Thiếu tướng Tư lệnh không quân Nguyễn Cao Kỳ làm lễ thành hôn với người đẹp nữ tiếp viên phi hành Đặng Tuyết Mai. Đám cười Kỳ - Mai là một trong những đám cưới linh đình nhất Việt nam từ mấy chục năm nay, chỉ thua đám cưới ông Trần Trung Dung, cháu rể của Tổng thống Diệm và dĩ nhiên phải thua đám cưới ái nữ của Tổng thống Thiệu và con trai ông Nguyễn Tấn Trung, những đám cưới mang hình thức quốc tế.
Theo báo chí và những bạn bè tôi kể lại thì đám cưới Kỳ - Mai gồm một buổi đại tiệc tại Chợ Lớn cho hai họ và bà con bạn bè, rồi một buổi đại tiệc thứ hai tại khách sạn Caravelle cho hàng ngàn quan khách tham dự như Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ tướng Trần Văn Hương, toàn bộ nhân viên chính phủ tướng lĩnh và các chỉ huy trưởng các đơn vị của ba ngành Thuỷ - Lục - không quân đang có mặt tại Sài gòn. Ngoại giao đoàn, và rất đông nhân vật cao cấp văn võ Việt Mỹ. Nghe nói rượu sâm banh đến 7.800 chai nổ kêu đôm đốp liên hồi. Tân lang trong chiếc áo dạ hội màu đỏ đã tặng giai nhân chiếc nhẫn to bằng đầu ngón tay. Nghe nói tướng Khánh đã tặng cho Nguyễn Cao Kỳ một số tiền rất lớn để Kỳ lo liệu đám cưới. Đêm hôn lễ của cặp Mai - Kỳ tại khách sạn Caravelle quả thật là một đại dạ hội tưng bừng hiếm có giữa Sài gòn xáo trộn, báo hiệu cái thế giá đang lên của một nhân vật đang gặp thời vì chỉ nửa năm sau Nguyễn Cao Kỳ đã trở thành Thủ tướng: Thủ tướng của một chính phủ, mỉa mai thay được chính Kỳ mệnh danh là "chính phủ của dân nghèo".
Trong quá khứ, Kỳ vốn coi tôi như người anh ruột thịt và sự nghèo túng của Kỳ nhiều khi làm vợ chồng tôi bùi ngùi. Trước ngày cưới, chẳng những Kỳ gửi hồng thiệp báo tin mừng mà còn đến tận nhà đích thân mời vợ chồng tôi dự tiệc; cẩn thận hơn, gần ngày hôn lễ Kỳ còn gọi điện thoại nhắc nhở lần cuối cùng. Nhưng sau khi nhìn thấy cuộc cách mạng 1-11-63 đang đi chệch khỏi những mục đích đẹp đẽ ban đầu, lại thêm những xáo trộn chính trị liên miên xảy ra, tất cả đã làm cho tôi chán chường không muốn chen lấn vào những nơi tụ họp đồng đảo của hạng người trưởng giả nữa. Chúng tôi chỉ mua một bộ đồ trà đơn giản giao cho sĩ quan tuỳ viên đến nhà tặng Kỳ làm kỷ niệm mà không đến dự tiệc tại nhà hàng Caravelle.
Đang miên man suy nghĩ về chuyện tình nghĩa ngày xưa thì bỗng Kỳ vào ngồi cạnh tôi và hỏi: "Thiếu tướng có mạnh không? Thiếu tướng ở nhà làm gì?". Tôi đáp: "Từ ngày bị các tướng trẻ bắt đi cô lập ở Pleiku về, tôi ở nhà nghỉ ngơi, chưa có dự định gì cả". Tôi đợi xem Kỳ có bàn bạc gì về tình hình chính trị không thì bỗng Kỳ nói: "Lâu ngày không gặp nên tôi chỉ mời thiếu tướng vào thăm thế thôi”. Tôi cám ơn rồi ra về. Kỳ còn nhắn theo: "Cho tôi gửi lời thăm Đỗ Hải”. (Tôi có ba đứa cháu là Đỗ Thọ, Đỗ Hảo và Đỗ Hải rất thân thiết với Kỳ thời Kỳ còn là thiếu tá, trung tá).
Về đến nhà, tôi suy nghĩ mãi về cách cư xử lạ lùng của Kỳ đối với tôi. Nếu quả Kỳ còn nhớ chút tình cố cựu tại sao trong vụ Khánh và các tướng trẻ bắt tôi đi cô lập tại Pleiku, Kỳ không phản đối. Còn nếu Kỳ đã bỏ rơi tình cũ người xưa thì tại sao hôm nay lại mời tôi đến để thăm hỏi. Tôi lại nghĩ nếu quả Kỳ còn tính mến tôi thì tại sao Kỳ không đến nhà riêng thăm viếng mà lại mời tôi vào dinh thủ tướng. Tôi vẫn còn phân vân về thái độ khó hiểu của Kỳ thì ngày hôm sau trung tá Nguyễn Văn Khuyển, chánh sở An ninh quân đội Thủ đô đến mời tôi và thiếu tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh quân khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Sài gòn - Gia định. Sự kiện hai tướng trẻ đều mời tói liên tiếp trong hai ngày như điều bất thường báo trước sắp có chuyện chẳng lành xảy ra.
Gặp Khang, Khang cho biết được lệnh Hội đồng quân lực mời tôi ra “tạm trú” tại Nha Trang một thời gian cho đến khi nào tình hình chính trị ổn định. Rồi Khang giao cho tôi sự vụ lệnh và vé máy bay. Tôi nghĩ thầm thế là tôi được các ông tướng trẻ bắt đi quản thúc một lần nữa. Tôi cám ơn Khang rồi đứng dậy ra về. Khang tiễn tôi ra tận xe rồi nói tiếp: “Xin Thiếu tướng hiểu cho lòng em, em chỉ biết thừa lệnh cấp trên". Tôi mỉm cười rồi lên xe. Tôi có trách gì tướng Khang đâu, vì tự biết mình đang gặp vận hạn rắc rối và đang sống giữa cảnh đất nước loạn ly thì phải chịu theo cảnh ngộ. Sau 6 tháng bị an trí ở Nha Trang, tôi mới được Kỳ điện cho trở về Sài gòn. Sống ở miền Nam tự do, bây giờ tôi mới được tự do đi lại.
Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt, câu thơ ảo não của thi sĩ Vũ Hoàng Chương quả nói đúng tâm sự tình cảnh của tôi, tôi quyết định từ đây không vương vấn đến chính trường, chỉ lo việc sinh sống cho gia đình vợ con. Nhiều nhân vật thuộc các đảng phái, nhiều chính khách nhân sĩ đến khuyên rủ tôi ra ứng cứ dân biểu nghị sĩ, tôi đều từ chối hết. Ngay cụ cả Nguyễn Xuân Chữ, một bậc kỳ lão tiếng tăm xứ Bắc Hà xưa kia, đích thân đến nhà mời tôi đứng tháng một liên doanh nghị sĩ với các đồng khí của cụ, tôi cũng xin khước từ. Vì thế, rất nhiều tướng tá như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Thái Quang Hoàng, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Chuân, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Xứng... đều ra tranh cử thượng viện, riêng tói chỉ nằm nhà để thỉnh thoảng ngâm lên câu thơ cũ:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao...

1      2      3     4     5     6     7     8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét