Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 2



1           3      4      5      6      7      8
Chương V


Chợ lèo tèo ngay giữa phố, gió lùa đùng đùng. Bánh ngô, bánh đúc bị táp cát, ăn nhai cả sạn, thì vẫn ăn thế. Một chốc chợ tan, các cọc lêu được nhổ lên, đàn vịt lại uà vào rúc cái bãi trống. Chỉ còn lại một hiệu ảnh người xúm đông xúm đỏ xem bác phó nháy lúi húi tô màu. Khách chụp ảnh thích ngồi ghế, môi má tô màu đỏ, áo hồng sau lưng có phông chậu hoa và hồ Hoàn Kiếm.


Trong kháng chiến, bộ đội tỉnh đã tấn công san bằng bốt Diêm Điền, không biết bốt ở chỗ nào. Chắc hỏi thì cái Hến, thằng Toàn cũng chẳng biết. Tây về đóng lại, xây đồn sang Quang Lang. Một lần xuống khu Ba công tác hậu địch đồng bằng sông Hồng, Hoàng Trung Thông- tổ trưởng Thông của chúng tôi đã đi với đoàn cán bộ vào tận Quang Lang này. Thông kể: Quang Lang có tề hai mang, ngày ở hầm, tối lên gặp và họp với cán bộ cơ sở, ngay cạnh đồn. Trông ra biển, ngọn hải đăng Hòn Dáu và đèn điện bên Đồ Sơn nhấp nháy. Hoàng Trung Thông đã bí mật ở Quang Lang cả tháng. Khi trờ ra, đóng vai người thuyền buôn các nơi về chợ Diêm. 
Đã toan kể cho Toàn và Hến nghe chuyện bác Thông hồi còn bốt Tây, đã công tác bí mật vào Quang Lang, Diêm Điền. Nhưng lại thôi. Bấy giờ chúng họ chắc mới chập chững biết đi, hay là chưa sinh. Cái lạ, chúng nó sắp cưới mà từ lúc đi đen xẩm tối về, toàn nói trống không, nhát gừng rồi lẳng lặng, như phải khó chịu đi với nhau. Hay là tôi không hiểu và tôi làm chúng nó ngại. Tôi về kể cho ông Ngải nghe tổ trưởng Thông đã vào công tác tận bốt Quang Lang. Ông Ngải nói: “Việt Minh cao cấp đi bợm nhỉ? "

Bỏ một buổi lấy lá ủ phân, hôm sau lại ra gò ngoài tha ma sớm. Quản đã về nhanh hơn mọi khi, Quán ra bờ ràọ đỡ tôi ngắt lá, cắt dây. Các bờ rào gần đã kiệt lá, phải đi kiếm những gò xa. 

Tôi hỏi Quán: 

- Gặp may thế nào mà về sớm thế? 

Quán quẳng cái gánh không xuóng tử nãy. 

- May rủi quái gì, ra muộn, hết sạch. 

- Thức đêm mò mẫm ả nào, con Vĩnh hay con Răm? 

- Cái con khỉ khô. Ngủ say quá, sáng nào cũng phải nhờ chủ nhà gọi. Không khí trong lành mà. 

Rồi Quán kể lể: 

- Anh không biết cái lệ trong làng chỉ có ông già, bà già mới đi gắp phân. Các cố ít ngủ, từ gà gáy đã chực đấy. Con trâu vừa cho ra, các cố chiếm ngay. Mấy bãi thì cắm que giữ sẵn. Thanh niên ở đây không đi hót cứt, dù là cứt trâu. 

Tôi lên giọng: 

- Chúng ta đi lao động thì việc nào cũng bằng nhau. 

Tôi nghĩ sẵn: Thằng này lại sắp chơi mình một câu đại khái anh thử đi gắp cứt như tôi xem việc bằng nhau thế nào. Nhưng Quán giơ tay, cười cười: 

- Mưu Gia Cát! Gia Cát Khổng Minh Phùng Quán đương tính ra một kế tuyệt diệu. 

Những hôm sau, tôi cũng không hỏi Quán có tranh được phân trâu hay không. Cái hố gần đầy, được hay chẳng được cũng thế, chúng tôi đủng đỉnh buổi đực buổi cái. Quán gánh về hai sọt nhoe nhoét bủn. 

Tôi hỏi thờ ơ: 

- Bùn à? 

Quán đặt gánh, giơ tay cắt nghĩa: . 

- Anh đừng coi bùn là xoàng nhé. Bùn khác đất vách, bủn mà ngấu với lá làm phân xanh thì tốt bằng mười đất vách bồ hóng nhà ông Ngải. 

- Sao cậu biết? 

Quán trợn mắt: 

- Anh viết văn phải giàu tưởng tượng lăm, mà anh chưa phân tích được bùn là cứt tháo tỏng của ông trời, cứt của trời ném xuống thì nhất định hảo hạng rồi. Nói đùa chứ tôi đã đi hỏi nhiều người bảo bùn khá. 

Rồi Quán lại lấy phân của trời hay phân trâu, phân giun dế, không biết. Những cái dây leo mà mỗi hôm tôi ôm về, dây mồng tơi, dây tơ hồng, dây lạc tiên, dứt mãi cũng quang cả. Ngoài tha ma gò đống mồ mả trụi hết, phải ra bờ tre đầu đồng. Cái hố của chúng tôi đã cao lùm lùm, lổn nhổn nhoét bùn, đắp ôm lá lên, xanh rã rượi như cái mả mới. Tôi bàn phải đào cái bố khác. 

Nhưng Quán gàn: 

- Khoan, khoan đã. Hố này cũng chưa biết tiêu thụ thế nào. Hẵng đợi chỉ thị của tổ trưởng. Mà gặt hái xong, hợp tác còn khối việc mó. Ta giúp bà con làm gì hơn là làm mãi cái con khỉ này. 

Quả là Quán thạo và thiết thực nhiều. Sáng kiến của tôi đem bỏ sọt ngay được. Những dự định tìm hiểu vùng này cho ra tấm ra miếng, tôi đem cả sổ tay đi mà đã làm được đâu. 

Vào bên búi tre lép tôi đứng lại. Giống như ông Ngải. Và ông Ngải ngồi tựa lưng vào thân tre từ bao giờ. Hai ống chân lấm bùn đã cọ đen nhoáng. Ông này chân tay bắt nắng mà mặt lúc nào cũng bềnh bệch, nắng không bắt, tôi lại so sánh. Như da mặt ông Phan Khôi thật. ở trong bếp, cái Hến đưong vùi nồi cá kho, món ăn làm tốn cơm nhất với tôi. Không đâu kho cá ngon bằng đây. Kể cả món cá chuối kho khan, rắn đanh lại lúc ăn phải vắt chanh, như ở Đại Hoàng quê Nam Cao ngày trước, cũng không dễ ăn hơn. Hay là vì cả tháng độc có cơm với muối rang mỡ ngỡ thế. Người đi làm đồng về, trong cái rỏ đeo lưng, được con săn sắt, con lươn, con rắn nước, mùa mưa thì xuống ruộng tràn chộp con rô., con chạch, đem mổ moi ngoài câu ao rồi bỏ và o cái nồi đất với củ riềng để cả tảng ướp muối một lượt. Nồi chát bùn miết kín mép vung. Gạt mấy ông đầu rau ra, đặt nồi giữa bếp, quấn rơm rồi đắp ụ tro quanh. Ninh suốt đêm, đến bữa mới bưng ra, con cá, con rắn xương đã nục nhủ bột.. Thơm thế, bùi thế. 

ông Ngải hỏi: 

- Hôm qua xuống chợ Diêm mua được gì không? 

- ăn cái bánh đúc ngô. 

ông Ngải lại hỏi: 

- Đám lá phân xanh đã trương lên mặt hố. Bao giờ ông Thông đến thu? . 

- Chẳng thu đâu, ông ạ. 

- Thế thì các anh ủ phân làm gì? 

- Học tập lao động ấy mà. 

Rõ buồn cười. 

- Thật đấy ạ. 

- Vậy để cho tôi. à hỏi xin ông Thông đã chứ. 

Tôi nói: 

- Bác Thông cũng chẳng biết đổ đi đâu. Ông cứ lấy. 

ông Ngải rỡ đất tường bồ hóng ra san lấp lên đống lá mùng tơi đã óp xuống rồi xúc thêm bùn ao phủ lên, như miết bùn nồi cá kho. Ông bảo làm thế cho thật kín, phân ngấu đều, ra giêng hai ông đem một gốc chè chiết cắm vào, chỉ một năm nhất định ra lá. Thế là nhóm tôi xong được công tác cái hố ủ phân. 

Kể ra thì khối việc của hợp tác, ngày nào chả có việc, như Quán nói- nghề nông quánh năm lắm việc, nghĩ ra mà làm chứ đâu có nông nhàn trong tưởng tượng, trong sách vở. Nhưng bây giờ toàn việc chẳng bận đến chúng tôi. Các tổ hợp tác vẫn gay go cung cách chia bôi. Gặt hết rồi, chỉ còn một ít dự. Nhưng những đống thóc đã kéo xong vẫn còn chất rải rác, ngày ngày có người đến phơi rồi vun lại, vạch vôi đánh dấu. Lão “củ soát” Ngải đảo lại mấy lần nhòm nhòm ngó ngó. Thóc phơi sân nhà mình mà không phải của mình, nghĩ tức lộn ruột. Đã đành được cân tạm về ăn, nhưng chưa tính rành rẽ, những thắc mắc cứ nặng nề thêm. Các bà nhiều lo hơn, cứ nhà nọ thậm thụt sang nhà kia. Chẳng biết có phải người chồng đã nhòm trộm sổ kế toán, về bảo vợ: “Vài ba điểm được mấy cân thóc chết tiệt, phen này bán sới, bị gậy đi kiếm phương khác thôi! ”. Chủ nhiệm Sự nói ang áng: “Số công điểm là thế, là thế, lo con bò trắng răng a! ”. Người ta vặn là thế là thế, là thế nào... Sự cũng lúng túng không biện bạch kiểu “đến mai lại đúng” được. Vợ chi uỷ Quốc chì chiết chồng thâu đêm. Mọi năm, quây cót chật buồng ra kín thềm hè, năm nay thóc đi đâu, thóc còn lang thang sân nhà người ta. Đến tối, Sự vào nhà kế toán, mở sổ ra, cộng trừ tính, càng rối xoè mù mịt. Vợ Sự vẫn giữ một miếng ruộng ngoài, nhưng chẳng dứt nghiến ngả chồng: bỗng dưng sinh ra cái hợp tác, chỉ phá rối. 

Từ hôm có kế hoạch đổ thóc ra phơi nốt một nắng rồi dồn lại sắp chia thì cũng đỡ ồn. Nhưng lúc nào cũng lại nẩy ra lắm cái lôi thôi, lung tung khác. Mấy con gà của nhà Sự ăn thóc đến nghẹn tắc cổ. Sự tưởng gà lên cơn giật chết dây. Đến lúc con gà trống cong cổ ựa ra rãi lẫn thóc, mới biết. Chẳng ai nhìn thấy con gà mổ trộm, vợ Sự cũng cứ bô bô nói trống không: “Ngày mùa, cúng cho con gà con qué kiếm miếng, mất của ai”. Sự gánh thóc về, đổ ra sân, đánh dấu chen giữa một hàng gạch. Hai chị em thằng con ở nhà xúc trộm. Sự xem lại thấy mất dấu, chửi toáng lên rồi vào buồng bê thúng thóc nhà ra toan đổ bù. Thằng con với đứa con gái giằng lại, vợ Sự lăm lăm cầm cái đòn gánh, trợn mắt, mắm môi. Sự đành đứng ơ. Nhà nào cũng lục đục. Chồng đi làm mạ, về hỏi: “ ở nhà nắng thế mà không trang thóc a?”. Vợ chao mặt một cái: "Thóc của thiên hạ đâu vẫn đấy, ai dám mó vào, con hùm chưa vồ mất hạt nào đâu". Không thổi cơm tối, vợ bảo chưa có thóc thì đi cướp gạo ở đâu mà thổi. 

Nhiều điều tiếng rên rỉ rêu rao: “Cốc mò, cò xơi"- ý nghi ngờ người này người kia ở ban quản trị, ở những nhà có sân cho phơi nhờ. 

Các nơi quanh đấy và trong làng vẫn lảng vảng, dò hỏi. Người ta đồn thế nào nơi nào rồi cũng phải lên hợp tác, lại càng hãi những đồn đại. Cán bộ kỹ thuật về hướng dẫn chống bệnh toi gà, cũng xúm lại hỏi đủ thứ. Anh cán bộ quen giải thích tào lao buông một câu: “ôi dào, tôi đi nhiều nơi đã biết hợp tác nào lúc đầu cũng nát như tương, ấy vậy mà rồi đâu lại vào đấy. Yên chí”. Yên chí thế nào, người ta rủa anh cán bộ gà chỉ biết ăn như mỏ khoét. 

Trong làng, mỗi xóm, mỗi nơi một khác. Các nhà làm riêng, nhất là những nhà được xuống thành phần mấy năm nay, lặng lẽ êm ả gặt hái rồi đợi mai kia đến Tết. Tổ đổi công thì nhộn nhịp gánh thóc về nhà như chọc tức, trêu ngươi. Thóc rơm còn đánh đống vàng rực ngoài sân, mỗi tổ đã ăn mung đụng ăn chia một con lợn. Còn để vào vụ cày xong mổ con nữa rồi có phải lên hợp tác mới lên. Có lúc nói: “Sào ruộng tôi đổi công năm nay kém năm ngoái ba gánh, thật đấy” Nhưng lại rỉ tai người khác: nói thế để hợp tác thấy họ hơn, cho họ sướng. Nhưng ta lại cứ ăn, cứ mừng. 

Những nhà làm đổi công thì tiếc ruộng tốt, không muốn cộng ruộng vào hợp tác. Cứ rối xoè lên. 

Lại vẫn lôi thôi cấy dày cấy thưa. Cái dạo tổ trưởng Thông thử mấy thước cấy dày, bị cả xóm cười làm trò trẻ con. Còn hợp tác đi trên huyện học cấy dày kỹ thuật mới. Cả Quốc với Sự lên hội nghị. Hôm về, Quốc nói: “Ban kỹ thuật huyện đi ngắt một bông thóc ruộng đổi công, một bông ruộng hợp tác. Ruộng cấy thưa được một trăm hai mươt hạt. Ruộng hợp tác mới cấy dày nửa vời, đếm đã được một trăm tám mươi, tuy hạt nhỏ nhưng đều mặt, cân lên nặng hơn bên kia. Cũng không phải lúa cấy thưa ngon cơm hơn. Cái ấy là tại giống". Người ta nghe tai nọ sang tai kia, cũng chẳng ai để ý hỏi cặn kẽ cái kỹ thuật mới. Dường như cả chân trong và chân ngoài đều cứ chờ đợi thế nào. 

Những đêm sương sa, sáng ngày ra nắng đã hoe nhạt. Chớm vào thu rồi. Cây cau trước sân bỗng rơi xuống nghe ình một tàu lá vàng óng. Ông Ngải nói: 

- Tàu cau đã rụng thế vầy chỉ mùa sang năm thì bói được. 

Gió giải đồng rạt rào, miên man. Nước sông Diêm trong veo thấp thoáng lưa thưa sau rặng hóp đá, nhìn ra mới ngắm được cái tài tình của những chữ “nước chảy lơ thơ". 

Bắt đầu tính hết công điểm chia thóc từng nhà. Chưa chia đã rắc rối, bây giờ lại rẽ sang những nói ra nói vào khác. Bà Ngải phàn nàn mớ thóc, mớ rơm như cái chổi cùn. Cứ thấy quảy lúa về kéo rồi phơi ở sân nhà mình rồi lại cùn cụt đội thóc đi đâu. 

- Tôi đi chợ, người ta hỏi. Có phải một mình bà phải chăm mười con trâu? Được ăn bao nhiêu công điểm? 

- Thế bà nói hoang mang a? - Không, tôi bảo tôi lên hợp tác rồi thì tôi không biết hoang mang, thắc mắc cái gì cả. Thế là chẳng đứa nào mở mồm hỏi khích bác nữa. 

ông Ngải thì hăng hái một cách rạch ròi. Ai vào bên búi tre lép ăn thuốc nhờ, ông nói như đọc trong báo ra: 

- Có muốn biết thì tôi dẫn cho mà biết. Thóc thuế đóng rồi, phân than, công trâu bò gác ra rồi, tính cộng lại thì sản lượng được chia nhỉnh hơn mọi khi. Có thế mới lên hợp tác xã chứ. ấy là năm nay còn chưa làm có kinh nghiệm, mà cái dự, cái di, cái hom cấy vặt vãnh chưa tính. Con gà con qué ngày mùa nhặt vài hạt thóc đã chết ai mà chúng nó đồn láo hợp tác phải giết hết gà vịt để khỏi thắc mắc. Những đứa nào ăn nói phản động thế? 

Ông râu vểnh nhả khói thuốc: 

- Ông dẫn ra vầy thì tôi hiểu ngay. Sắp lên hợp tác cả rồi, tôi phải hiểu biết chứ. Nhưng thế nào, mùa này sao mức thu nhà ông chỉ nhỉnh thôi. Như mọi khi, mình làm mình ăn cả, thì nhà ông được bao nhiêu ấy cơ. 

Nó nói ngóc ngách, ông Ngải im. Rồi sang câu khác: 

- Vào hợp tác thì phần tăng phần giảm trông vào lao động. Bao giờ chẳng như vầy, người chịu khó thì chẳng lo. Chết những thằng ngay xương, bây giờ hợp tác làm ăn có chúng có bạn, thằng lười trơ mặt ra. Tôi sướng nhất cái ấy. 

ông nọ cũng không còn hỏi vặn vẹo vào đâu, lảng chuyện. 

- Rõ rồi. Tối qua, trong làng có đám suýt cháy nhà. Tình nghi đứa ném bùi nhùi, cháy từ ngoài nóc vào, ông biết không? 

Sự ở đâu vào, nói chen: 

- Lúc đương tiến lên thế này, phải cảnh giác. Thù nhau đốt nhà, bắt đứng ở đổi công a? Không được. Mỗi người lại kéo mồi thuốc, rồi mỗi người đi mỗi việc. Người lùa vịt ra đồng cho xốc thóc mót, người vào tổ cân thóc chia. Người lên quán nước trên đê... 

ông Ngải tính nhẩm hình như công điểm nhà ông có dôi ra. Dôi ra thì lợi chứ sao, nhầm lõm vào mới là thiệt. Nhưng không, nhà mình được, nhà khác mất, rồi người ta moi đến thì lôi đuôi. Cứ phân minh trước sau. “Cả đời tôi chẳng ăn không của ai bao giờ". Suốt đến chặp tối, ba bố con xướng lần lượt từng điểm, tôi ngồi làm tính cộng, cộng đi cộng lại. Thấy cái lúa dua hom, con số công gặt của cái Hến vào sổ hai lần, không biết đúng không. 

ông Ngải xách cái đèn chai đến ngay nhà kế toán. 

Anh kế toán đương bò chổng mông tính sổ dưới ánh cái đèn cày. Kế toán đã vẫy mấy chú bé đương ngồi học bài ngoài hiên vào soát các sổ cho nhanh. Xem đến sổ nhà ông Ngải thấy thừa ra mười công ở sổ điểm cô Hến. Ông Ngải gật gù bảo kế toán: “Tôi thế đấy anh biết chưa?”

ông Ngải yên tâm. Nhưng ông Ngải còn băn khoăn: 

“Cái bụng mình như chiếc bánh bóc ra mà thiên hạ cứ bảo quản trị ăn cắp. Chẻ hoe ra đấy nhé". Bà Ngải cằn nhằn: "Thèm nhạt đâu vài điểm công với xá. Ngày trước kéo lúa ủng hộ bộ đội cả năm đấy sao". Nhưng cũng lắm cái cứ bực mình. Lúa ruộng tốt ruộng của nhà chia đi đâu, toàn gánh về cái táp nham của những nhà đứa nào ấn cho. 

ông Ngải nói khe khàng với tôi, như tiếng thở dài: 

- Thì cũng chỉ vì thằng ốc, cái Hến. Cứ như chúng tôi cả ngày một niêu cũng xong, chứ vào hay ra làm gì cho mỏi chân, có phải không anh? 

Mỗi khi ông Ngải dường như nghĩ nỗi sau này, hay nói với tôi tương tự câu ấy. 

Cũng không nhờ tổ chúng tôi còn ở xóm Đồng bao nhiêu lâu, rồi cả bọn về một lúc hay đi lẻ tẻ dần. Bởi tôi lại một mình trở về, chẳng biết đã ai về trước chưa. Cũng chẳng vì công tác cơ quan gọi. Đợt đi này không có hạn ngày, không biết Hoàng Trung Thông có phải về vì công tác chờ đợi thế nào, còn thì lắm lúc nghĩ tôi cảm thấy tôi cũng như cái đinh long, đóng vào cũng được để vậy cũng thôi- cái nghĩa bề nổi, không chữ nghĩa thâm thuý như câu chèo cổ “nát ván, long đinh” đâu. Tôi đương muốn lên mấy nơi trên Hải Dương có những tổ các anh Bùi Hiển, Đào Vũ rồi về. Tổ trưởng Thông bảo: “ừ, về thì về". ở lâu, tuy chẳng có gì giữ chân, mà cũng ngại đến lúc rời đi cũng nhớ. Anh em biết tôi sắp về, đi qua, tạt vào, mỗi hôm lại hỏi: “Khi nào về?”- "Cũng chưa định". Nhưng thấy người cứ hỏi, tôi cũng đâm sốt ruột. Thế là quyết định mai đi. Quán sang chơi. Ông Ngải với tôi đương mổ, làm lòng con vịt dưới cầu ao. Quán tựa lưng búi tre, hút thuốc, hỏi: 

- Gà hay vịt đấy? 

Tôi nói: 

- Hay quá. ở đây làm vài chén “trường đình". 

ông Ngải vẫn cúi, té nước lên lưng con vịt. 

- Thịt vịt, con vịt bị rắn cắn. Anh Tư trông thấy con hổ mang trong hang bờ ao vừa nhoài ra. Còn đánh tiết canh được cơ mà. Xong hết rồi, chỉ còn bỏ nồi luộc. Vơ hộ nắm lá tre dóm bếp. Quét qua chỗ ấy rồi vào bảo cái Hến dọn mâm bát ra. à hũ rượu trong gâm giường hãy còn. 

ông Ngải đều quí hai chúng tôi. Nhưng xem ra ông ý tứ với mỗi người một vẻ. Như cung cách và người ngợm tôi, ông Ngải trọng như một ông giáo làng, ông thầy đồ ở trọ. Ông nói thời Tây có cái trường học trên chợ Phố có thày giáo trông cũng giống tôi, nên ông nhớ. Còn Quán thì mồm miệng chân tay đều xốc vác, có hôm ông bảo Quán vần trả cái cối đá to bằng cái vại ông Ngải mượn trong làng. Lại chỉ có cái súng gỗ, mà Quán đẽo răng cưa, gọt mổ cò dạy dân quân ốc như bắn súng thật. Ông bà Ngải thân tình với Quán như người trong nhà, như thằng Toàn con rể. 

Quán bần thần nói: 

- Tiếc quá, cháu đã hẹn đụng chó với anh em rồi. 

- Bao giờ? 

- Chốc nữa chén. 

- Nhà ai đấy? 

- Nhờ lão quán nước chợ Phố. Ông Ngải biết đấy, lão này chùm chó. Cháu đi nhé. Cái thịt chó là hết cỡ, không thịt nào địch được, đừng để phần cháu. 

Rồi Quán đi luôn. Tổ trưởng Thông “chạy” con vịt rái cá cắn hôm trước đã “lặn” đi họp cũng nhanh như thế. Tôi với Quán ra đầu ngõ. Quán nháy mắt, phân trần: 

- Có chó má nào ở đâu. Tôi đã đánh nhau giáp lá cà với các thứ Tây ở mặt trận Huế. Nhưng cái giống gà vịt bị rắn mổ này thì tôi khiếp, anh ạ. 

Tôi cười: 

- Thôi, đi đi. 

Tôi trở vào bắc bếp. Ông Ngải nói như vạch bụng anh chàng ra: . 

- Chú Quán sợ thịt vịt rắn cắn. Sợ quái gì! 

Tôi không vào chuyện với ông Ngải mà tán về rắn: 

- Cái rượu ngâm tam xà, ngũ xà chữa bách bệnh, đau xương thấp khớp, liệt âm liệt dương, khỏi hết. 

Rượu rắn bổ nhất trần đời. Ngoài bờ sông bờ ao sẵn rắn, ông nên ngâm vài vò, rồi hũ chôn hũ uống, dùng cả năm. 

- Biết thế, mà tôi bỏ rượu đã lâu. Giờ, đứng gần người say ngửi hơi rượu cũng lợm giọng. 

Rồi ông Ngải cười khà khà xách ngược con vịt đã rửa sạch bóng. 

- Anh xem, da dẻ nó hon hỏn thế này. Dại quá, cái nhà chú Quán... 

Những ngày ấy, xa gần mịt mờ như chiêm bao chắp nối trong giấc ngủ đêm qua. Tiếng rằng ở Thái Bình về Quán công tác ở phòng Văn hoá Quần chúng, nhưng cũng là làm vì và dông dài chẳng khác khi ở xóm Đồng. 

Rồi lại đi, lại đi. Bị kỷ luật ba năm không hội viên hội nhà văn, nhưng rồi ba mươi năm mới có lời làm lễ giải hạn. Không cấm sáng tác, nhưng viết thì không đâu in. Những nơi này có cán bộ cơ quan khác đến làm công tác theo dõi, những câu nói cuối cùng của ông theo dõi này về bài báo, về quyển sách, nhất là nếu lại dẫn chứng cấp trên “anh ấy, anh ấy đã bảo thế” thì còn sinh sát hơn quyền hành những người phụ trách nhà xuất bản và tờ báo ấy. 

Tôi đã xem mấy bài các bạn Quán viết về Quán tập câu cá rồi câu cá hồ Tây vào loại tay nghề. Một Lã Vọng bất đắc dĩ, trò chơi mà hoá thật. ở thành phố, những năm ấy chẳng phải chỉ có mình Phùng Quán câu cá đợi thời. Khối các ông Lã Vọng khác nhau. Những ông chủ bỗng trắng tay, thất nghiệp và biết bao những nông nỗi thế nảo nữa, chỉ còn trông vào đống rác, cái cần câu, bắt cóc, bắt chuột... và những cung cách kiếm cơm không nói hết thành tên được. Ông Kỷ cậu họ tôi, nhà buôn sơn ngoại lâu năm có tiếng trong thành phố. Mấy hôm ấy, Tây ở Hà Nội chỉ còn ngồi đợi rút xuống Hải Phòng. Người được tự do vào thành phố, nhưng có trật tự. Lính Pháp thờ ơ gác, tôi đứng trên đường Mai Lĩnh, trông thấy dòng người nghìn nghịt qua cánh đồng Văn Quán lên thị xã Hà Đông. Ông bà Kỷ lái xe riêng lên thị xã Sơn Tây- tôi đương làm phóng viên báo Nhân Dân đi xuống nhà thờ Phúc Nhạc viết bài về tình hình bà con công giáo di cư vào Nam. Tôi ghé lại Sơn Tây, ông bà lên chơi. Năm sau, Hà Nội cải tạo tư sản, ông âm thầm bán ô tô, bán biệt thự, còn huyến hàng sơn cuối cùng ở Pháp về thì vướng lại cảng Nhà Rồng trong kia. Hết của, ông Kỷ thành tay sát cá hồ Tây. Những thung thổ cá mú vòng hồ chẳng chỗ nào ông không thuộc. Lại các ông Ba, ông Tư trong làng nội, các người hôm qua chủ lò bánh mỳ giàu có chất của lên được, bây giờ mất cửa hàng, mất lò, nhà dọn xuống ở bãi Nghĩa Dũng. Hai ông đóng khố, vác chũm đi đơm đó ven sông, thực sự kiếm miếng hàng ngày. 

Những tâm sự trầm uất và cái sức viết đương bởi của lứa tuổi Quán đã vẩn vương tôi. Tôi mà còn bải hoải nữa là. Đi lâu thế, tôi cũng thao tác mọi việc viết, thế mà chẳng tả nổi về cái xóm Đồng một chữ. Phùng Quán vẫn chịu khó cặm cụi mà sau này bè bạn đã tổng kết sáu chữ cho cái giai đoạn bi đát ấy: câu chui, rượu chui, viết chui. Những năm này Quán đương sức viết Không đâu in, nhưng Quán vẫn viết. Nhà xuất bản Kim Đồng in truyện thiếu nhi Tâm Trọc về thăm nhà. Có tiếng xì xào của Phùng Quán ký tên khác. 

Chẳng biết nhà xuất bản có ai bị kiểm điểm, bị hạ bậc lương, bị mất việc không. Chắc không. Vì quyển sách mỏng và viết về kháng chiến chống Pháp, mà vốn Phùng Quán xưa nay sở trường tráng ca, anh hùng ca. Phùng Quán gửi bài thi viết về Lê Nin. Truyện của Quán - tất nhiên, lại ký tên khác, được xếp giải nhất. Cũng chẳng biết tác giả có đi lĩnh thưởng không và làm thế nào nhận được cái đồng hồ báo thức quà tặng. Con người chăm viết, viết khoẻ mà chỉ đôi khi in ra được dăm ba chữ. Tâm trạng bức bối kéo dài còn đau hơn sự cấm đoán. Mấy năm gần đây, Phùng Quán làm nhiều thơ, viết báo và đưa in những bộ truyện đồ sộ như hồi ký Tuổi thơ dữ dội vẫn là nối tiếp một Phùng Quán ba mươi năm trước, một tay sử thi có hạng. Nhưng người thì chưa bao giờ trẻ, mà chẳng còn trẻ trung đâu nữa. Phùng Quán đã vào năm mươi rồi. Thân hình bơ phờ mảnh khảnh, lại ăn mặc kiểu các cụ áo năm thân rộng nhuộm cậy màu hoa hiên, bộ râu chuột lưa thưa. Làng văn đã có Nguyên Hồng xống áo và râu ria cũng tương tự. Nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra Nguyên Hồng đã lão thế và không thể thấy cụ Phùng Quán lụ khụ nâu sồng này khác hồi cụ Phùng Quán chạc hai mươi tuổi ở xóm Đồng. Quần áo và bộ râu có việc của nó. Có phải vì tôi hơn Quán cả con giáp cứ thấy người không bằng tuổi mình thì lúc nào cũng vẫn tưởng như ngày xưa. Có thể vậy, tôi cứ nhớ như vừa mới đây. Thật thì chốc đà đã là hơn ba mươi năm qua - những cách quãng phi hoài đời người của Phùng Quán. 

Những lần gặp giữa phố, Phùng Quán bảo tôi: 

“Anh lên chơi nhà tôi. Có cái rượu uống được". Tôi không lên. Chẳng vì ngại đi, mà cứ thế nào. Tôi đánh chén thịt chó Hàng Bè với Lê Đạt mà không lên hồ Tây, dù cái máu rượu ông phó bí thư chi bộ cũ của tôi thì chán chết, khề khà với Phùng Quán thú vị nhiều. Rượu vui, rượu buồn đều cần, nhưng phải tuỳ lúc. Cho mãi đến hôm mừng Nguyễn Hữu Đang thượng thọ tám mươi tuổi - hai ông em kết nghĩa Phùng Quán, Phùng Cung của Đang bảo tôi, tôi mới lên nhà Quán. Gặp lại bạn Đang già mình vốn qui trọng, thế mà lại buồn. Nhưng cái nhà vườn bên hồ Tây của vợ chồng Phùng Quán hôm ấy đông khách đến mừng cụ Đang quá, có đám đông thì tôi cảm thấy mất vui. Đành vào nhấc hũ rưọu, làm một chén chia vui rồi về. 

Tôi ở xóm Đồng đi nửa buổi đến cầu Phú Lương. Tổ của Đào Vũ ở thôn Vũ La ven đê bên kia cầu. Buổi tối nhìn lên thấy quầng đèn sáng thành phố Hải Dương. Bác Tú Mỡ ngày ngày chăm chút lau cái xe đạp rồi buộc thừng treo lên, không để bánh xe chịn đất. Lâu nay chỉ còn trông thấy người có tuổi lau xe đạp. Cả Sỹ Ngọc, không nhớ các anh ở cùng nhà hay đến chơi. 

Vũ La nhộn nhịp, đông nhộn. Bên trong khoanh tre, những khoảnh vườn mơn mởn cà chua đương vào lứa phấn mỡ. Khác làng mạc Thái Bình, chỉ có mấy cây chè khẳng khiu sau bờ tường đất u ám như tổ mối. 

Vũ La cũng đương xếp ải. Nhiều chỗ đất phơi đã được nắng trắng nhạt như làn sóng đất lăn tăn. Các chủ nhiệm hợp tác xã toàn tỉnh đương về họp ở đây. 

Cả hội nghị với lớp kế toán hôm ấy cũng đi xếp ải giúp hợp tác xã. Tiếng trống tom tom gọi xã viên đi làm đồng. Cửa hàng hợp tác xã mua bán mở sớm. Vải xanh Sỹ Lâm, vỏ áo bông, chăn bông tiết kiệm trần ô trám. Còn sớm mà người đã ra vào xúm xít. Cả tổ Đào Vũ cũng trong nhộn nhịp này. Tôi cảm như chúng tôi ở dưới kia chểnh mảng chẳng nên trò gì. Nghe chuyện cánh Kim Lân đi công trường thủy lợi Bắc Hưng Hải bên Hưng Yên, cả ngày đào đất, gánh đất bằng dân công. 

Đào Vũ đi làm đồng trong tiếng trống giục đầu xóm. Đào Vũ khoác bừa lên vai, tay cầm thửng dắt con trâu. Như những người đi cày và mấy con trâu vừa đi qua cổng. Tôi bỗng nhớ Quán, lẩn thẩn đoán con trâu này bĩnh trong chuồng chưa, nếu ra đường đồng mới ỉa thì Quán gắp được. 

Nhà văn Đào Vũ, một người làm ruộng. Không ngẫu nhiên mà sau chuyến đi ấy Đào Vũ ở lại Vũ La, bắt đầu bộ tiểu thuyết Cái sân gạch miêu tả cuộc đấu tranh sản xuất và con người ở Vũ La những ngày đầu hợp tác hoá. 

Nghĩ lại, mình lêu têu ghê. Nhưng biết thế thôi, cũng chẳng ân hận. ở đời mỗi người một mánh, một tật. Tôi nghỉ lại Hải Dương, Hải Dương cũng tương tự các thị trấn khác, lỗ đỗ lốm đốm dấu vết thời sự và thời gian: những dãy phố, những cãn nhà bị rỡ cái năm tiêu thổ kháng chiến đã được vá nham nhở các bức tường và cửa hàng mặt tiền quét vôi, ốp mấy hàng gạch hoa duyên dáng như cô gái trong làng diện áo phin trắng mà lại đi chân đất. Các phố nhỏ, khúc khuỷu vẫn lặng lẽ quê quê. Đương có đợt đăng ký lại các hộ công thương. Đồn ầm lên rồi những nhà nào không được cấp môn bài lại thì phải dọn về quê làm nông dân. 

ở đầu tỉnh, đồ sộ một nhà máy làm đồ sứ. Năm trước, đây còn là một bãi hoang. Trong cải cách ruộng đất chỗ ấy là nơi các làng xung quanh lên mượn làm mít tinh đấu địa chủ. Đội tôi ở Cẩm Bình đã đưa dân đi dự nhiều lần. Những chuyện đấu tố chỉ chợt nhớ đến đã thấy sượng mặt. 

Nhưng tôi nhờ có lần ấy Nguyễn Công Hoan rủ tôi về Hải Dương, Nguyễn Công Hoan nói: “Trong tiều thuyết Đống rác cũ của tôi anh bảo anh thương cái người đàn bà phải đi làm dâu khổ cực trăm bề, tôi đưa anh về nhà nhân vật ấy". Chúng tôi xuống tàu hoả rồi qua phố chính vào một cái ngõ lát gạch nghiêng như đường làng. Căn nhà một tầng, mái ngói rêu phủ đen xì. Lỗ tròn mắt bò mở hé, sau cánh cửa, một ông cũng trạc Nguyễn Công Hoan ra mời chúng tôi vào. Ông không cao lớn, mà thấp người, mặt tai tái đến độ không trông rõ bộ ria mép, như một cụ làng bẹp ngày trước. Phản giữa trải chiếu, chủ nhà mở chiếc lồng bàn úp trên mâm đồng thau. Một mâm cỗ thịt gà thịnh soạn. Chủ nhà cười. “Mười giờ chưa thấy các xừ, chưa nghe còi tàu về, đã lo lo". Ra chủ khách đã có hẹn, và cách nói thân tình. 

Trong bữa chén, hai ông toàn nói chuyện dạy học ở Kinh Môn, ở Vũ Tiên, ở Lào Cai. Ông ấy ngày trước cũng là nhà giáo trường huyện. Đến chiều về cũng không thấy anh Hoan trò chuyện gì với tôi về nhân vật người đàn bà bạc phận. Anh Hoan hay tư lự những cái anh đương nghĩ, có khi hỏi thì lại trả lời lạc sang điều khác. 

Nhưng rồi tôi cũng phải hỏi. Thì anh nói: 

- Tôi đã bảo rồi mà. Nhà người ta đấy. 

Chẳng hiểu ra sao, nhưng tôi cũng không hỏi thêm. 

Hỏi anh lại nói khác nữa, thì chịu, rồi tôi phải đoán lấy Nhưng cũng không nghĩ ra được đấy là nhà người ấy khi còn con gái hay là nhà chồng, hay là nhà ai. 

Cứ cho đấy là nhà người ấy trước khi về nhà chồng. Cho đẹp và buồn những kỷ niệm của người viết.
 Chương VI

Nhiều chuyện với Nguyễn Công Hoan cũng lắm bất ngờ tức cười chua chát như những cái kết truyện ngắn của anh. Dự quốc khánh, lễ lạt ở sứ quán nào, Nguyễn Công Hoan đi đôi giày da bóng lộn, tôi chưa thấy khi nào. Tôi tò mò: 



- Giày luých này chắc Tết anh mới diện? 



Anh giơ tay cắt nghĩa kiểu thày giáo trịnh trọng giảng bài: 


- Dự tiệc đứng thì hay đi đi lại lại, người ta cứ phải nhìn giày mình, cho nên cần có giày tử tế. 

Tôi đùa: 

- Rồi về lại đánh xi đạt cẩn thận, bọc giấy bóng, cất đi. 

Anh còn nói lạ hơn: 

- Không, giày này tớ đi mượn. Cậu nhận xét cũng xoàng. Có là giày đi mượn thì mỗi tiệc mới một đôi khác nhau chứ. 

Đã có lần anh kể anh có một người anh em con chú con bác làm nghề vá giày ngồi ở bờ tường cạnh chợ Hàng Da. Người vá giày vỉa hè, trên tường đóng đanh treo bán những đôi giày cũ được mông má lại. 

Tôi nhớ chuyện anh kể, nhưng không chắp nối lại được trong tưởng tượng, Nguyễn Công Hoan đã đến mượn trong đám những đôi giày treo bán ấy vào dịp long trọng. Nguyễn Công Hoan có lắm nhân vật bất ngờ trong đời thường như thế. Anh dẫn tôi đến ăn bún chả nhà một ông ở đầu phố Nhà Thương Khách cũ. Nhà ông làm vàng hồ, trang kim hài hán, nhuộm giấy thẻ hương. Hồi ấy còn ngặt về lễ bái lắm, vợ con ông làm hàng mã phải ngồi làm dấm dúi dưới bếp. Ông ấy xoa xoa tay, kính cẩn: “Các bác làm việc dương gian, nhà em thì công tác đường âm, thưa phải không ạ". 

ồ, kể mọi ly kỳ về Nguyễn Công Hoan thì vô số, vô cùng như những truyện ngắn có kết bất ngờ của ông. 

Nhà trọ bến xe Hải Dương chẳng khác dãy lều lá dưới cầu Bo. Cũng thế, người ra vào thậm thụt, người gánh người đội, người đeo, không biết trong tải đựng gì, không đoán được người đi buôn hay quân đầu trộm đuôi cướp, lúc chặp tối càng đông. 

Cô ấy tóc cún, răng vàng. Mấy cô khác ngồi góc giường trong đương đố nhau tuổi. Có cô nói bô bô: 

"Cái quyển Đồi thông hai mộ hay bằng vạn các quyển mới bây giờ". Một lúc sau thì đoán ra những cô này có những bao tải dép râu nhét dưới gầm giường. ả răng vàng thì buôn cau khô lên chợ Đồng Xuân. Những thứ ấy, chẳng kiếm được mấy nả tiền, ắt trong thúng mủng kia có thuốc lào, thuốc phiện. Những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già đời đi buôn chuyến hôm tàu thuỷ xuôi, mà tôi trông thấy và đụng chạm từ thời Pháp thuộc đã từ lâu chết xuống âm ty. Cách nói, dáng điệu, áo cánh trắng quần thâm mới, vẻ trễ tràng, vừa ta đây vừa bất cần đời, tay các ả đeo nhẫn, cổ dây chuyền vàng, - chắc vàng tây. Tưởng như đàn bà con gái nhà chúng nó đã mây đời cha truyền con nối đi buôn chuyến thế này. 

Nhà trọ một dãy ngăn từng gian, vách dán giấy dầu, ba trăm thì giường chung ba người. Mụ chủ chứa đã hơi luống tuổi, nửa tỉnh nửa quê, cổ tay đeo cái vòng xanh xanh, chẳng biết vòng nhựa hay đá thật. 

Cô người làm áo cánh hồ thuỷ đưa người trọ vào buồng, giao cái màn tận tay. Những của chua này, khuya tý nữa, có thể nháy vào được. Mụ chủ rền rẫm phàn nàn: “Cái nghề chứa trọ không biết tội tình ra sao mà các ông công an cứ bắt vác sổ sách lên đồn xuống ải khai báo cũng đủ hết đêm". Tôi nằm một giường, nhưng thuê cả ba chỗ. Tôi lấy cái dây cao su trong ba lô ra buộc dóng khung xe đạp vào thành giường ngay cửa màn, nếu với tay ra có thể nắm được thằng kẻ trộm. 

Hôm sau, đạp xe la cà dọc đường, chiều mới về tới ga Hàng Cỏ. Chỉ ra khỏi thành phố ít lâu, trở lại đã có cảm tưởng vắng mình thì phố xá khang khác, rồi một lúc hay vài hôm mới quen dần và thấy lại chẳng có gì khác cả. Sương mờ thành làn trong ánh đèn đường, người người tấp nập, hối hả. Đi bộ, xe đạp cầm cuốc, cầm xẻng, miệng mũi bịt khẩu trang miếng vải trăng, nhiều người quần xắn cao, ống chân bê bết bùn. Tôi trông thấy Hoàng Văn Tiến, đại sứ ở Ba Lan về làm thứ trưởng, năm trước tôi đã quen trên chuyến xe lửa Hà Nội- Bắc Kinh. Tiến cũng ống quần móng lợn, dọc khung xe buộc cái xẻng, đạp veo veo ngược đường hàng Lọng. Những người ấy ở công trường hồ Bảy Mẫu ra. Cả thành phố đương đào đắp vùng ao bùn làm công viên Thống Nhất. 

Tôi vào quán phở Hậu, phía trên dốc Hàng Kèn. 

Chặp tối khách kín các bàn. Ông chủ quán tóc muối tiêu, gầy gùa, nhanh nhẹn vừa bốc bánh vừa nói vằn vèo như vi von rồi tâm sự một câu, mà tôi là khách quen nghe đã thuộc: “Làm lắm thì chày vảy ra chứ ăn thua gì. Thời buổi này, đổ mồ hôi nước mắt đủ hai bữa tọng vào họng, được phục vụ nhân dân thế là độc lập tự do, hạnh phúc rồi". Trên tường treo bức ảnh phóng to một chiến sĩ mũ ca lô, thắt lưng da to bản, áo kẻ ô trám “binh sĩ mùa đông” năm 1946. Tôi hỏi, ông bảo: “Cậu em nó". Cũng không muốn hỏi thêm ngưòi chiến sĩ ấy đã hy sinh hay còn sống. Mấy năm sau, ông hàng phờ khó nhọc mới được hai bữa tậu ngôi nhà hai tầng khang trang tĩnh mịch trong ngõ Tràng An. Hai cô áo dài xanh liễu, vét dạ Hồng Công óng ánh kim tuyến. Tóc đợt đợt sau gáy, đen nhánh, có thể khinh được mọi mốt tóc đương thòi của phụ nữ Hà Nội. Câu chuyện hai người to nhỏ mà như khoe cứ lọt tự nhiên vào tai người bên cạnh chẳng ra vô ý, ra khoe hay không coi ai ra gì. Qua chuyện, biết một cô đã có hai con, một cô có một con. Bây giờ còn hàng nào ăn được, phở Hói hay Tân Tân? Cũng khó ngon lắm. Cái phở thịt trâu thịt “ngầu pín” cuối phố Huế thì mới nghe nói đã mất vía. 

Không dưng, bỗng cau có: 

- Đáng nhẽ đi Hồng Công rồi. ở đấy sang Anh như đi chợ. Mình đã có passe- port. Chỉ vì sắp ở cữ, cậu mình bảo rồi tính sau, mẹ tròn con vuông đã. Thế là ông bô tính chệch giờ. Bây giờ thì gác hết. 

Một tiếng thở dài: 

- Cậu mợ mình cũng thế, nếu không tớ đã không được ngồi với đằng ấy ở đây 

- Mua được một lúc ngồi với nhau thế này giá đắt quá. 

Hai người nhăn mũi cười nhếch mép. 

- Này táo hay lê ngon hơn? 

- Lê được cái thơm, nhưng hơi chua. 

- Bây giờ lê táo nước nào? 

Câu chuyện của hai con đĩ ngựa cong cớn không cơn cớ cũng cạn dần với bát phờ tái giò hành tây. 

Quán cà phê ông lão 81 mọi khi vẫn thế. Mới tối, hàng quán các vỉa hè vừa dọn, nhấp nhoáng đèn đường trong bóng vòm lá cây sữa. Quanh chiếc bàn thấp, đợi ăn uống cái gì mà lố nhố người. Dưới lòng đường gánh cháo ông Chữ, tiếng thổi lửa cái ống nứa pho pho. Giờ này chưa phải buổi cháo gà. 

Lão 81 ngẩng lên, vồn vã: 

- Ông đi tận những nước nào mà lâu không thấy? 

- Nước nào, nước nhà quê nhà ông đấy. 

Ông lão cũng hỏi cho có chuyện, lại cắm cúi thái rồi nghiêng cái chảo, tiếng mỡ xèo xèo. Chiếc đèn hoa kỳ lom đom trên nóc tủ hàng, ánh điện lao xao trong bóng lá không hắt tới. Chẳng trông rõ gì cả, nhưng chắc bọn khách đợi món này. 

- Gì thế? 

- Ngầu pín ông ạ. à, dạo này mới lại có. 

- Trâu hay bò? 

- Dê hẳn hoi, còn non, tuyệt bổ. Ông xơi... 

Tôi hãy còn mất vui về hai con đỏng đảnh ở hàng phở Hậu, tôi uể oải giọng đổng vu vơ: 

- Lâu nay ở nhà quê, ăn dái dê, dái chó, nhiều bổ quá rồi. Xin một cái cà phê đen thôi. Cho giải phiền, bớt mỡ. Ông nghe rõ chưa? 

- Rõ, rõ. Nhà cháu đương dở tay, ông ngồi chơi một mảy. 

- Mấy mảy cũng được, thưa ông bếp Tây.

Chương VII



Tôi được giấy gọi đi học trường Nguyễn ái Quốc khoá 1961.. 



Không biết khoá này khối văn nghệ được mấy người, hôm khai giảng chỉ thấy mình tôi. Khoá sau, có Trọng Hứa đương làm chánh văn phòng. Chẳng rõ được chọn hay Trọng Hứa xin đi, hay Trọng Hứa đi “thế mạng” cho ai. Dự lớp dài hạn trường trung cao cấp của Đảng là một vinh dự và nhiệm vụ. Người muốn cũng không được. Nhưng cũng có người trách nhiệm cao tự coi như đương nhiên chỉ ngồi bàn bạc và cử người khác đi học. Có những người như Nguyễn Tuân, không thấy giấy gọi đi học bao giờ mà không biết được mời thì ông có đi không, chẳng thể đoán được. Năm 1950 ở Thái Nguyên, Nam Cao và tôi đổi công tác từ báo Cứu Quốc về hội Văn Nghệ. Trước khi về cơ quan mới, chúng tôi được đi học trường Nguyễn ái Quốc - bấy giờ khoá học lâu nhất cũng chỉ ba tháng. 



Nhưng rồi chỉ có Nam Cao được đi. Tôi cứ tiếc mãi. 


ý nghĩ đi học của tôi cũng giản dị. Có dịp sắp xếp lại mọi cái biết lõm bõm chẳng đâu ra đâu. Từ khi mới cầm bút tôi đã phú cho Dế Mèn, Dế Trũi cái tư tưởng thế giới đại đồng không tưởng của tôi. Chẳng là bấy giờ đương tuổi mới lớn trong thời kỳ Mặt trận Bình dân 1938, chúng tôi hăng hái liên miên tranh luận đệ tam, đệ tứ. Cho đến ngày nay tôi cũng chẳng hiểu gì hơn. Cũng chịu khó đọc bản dịch Chống Đuyrinh, và nhiều cái khác, có ghi cẩn thận những câu, những ý cảm thấy hay. Nhưng mà từ đấy vận vào thực tế, vào sáng tạo thế nào. Tôi đi cải cách ruộng đất thì cứ kế hoạch bốn bước mà làm, khi được chỉ ra như thế là sai, lại sang đội đi sửa sai. Tự mình cả đời làm theo, thấy ra, nhận thức, phân tích đều lờ mờ sai đúng đúng sai mù mịt. Tôi thật sự thèm được trình độ hệ thống hoá về lý luận và vận dụng được sự liên hệ và sáng tạo. 

Sau vụ Nhân Văn mà tôi có sai sót, tôi đã đề nghị cho đi học trường dạy viết văn Gorky ở Matxcơva. Nguyễn Khải được chấm đi, còn tôi thì xin đi. Tôi nghĩ chỉ bỏ ra ít năm ăn chắc một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình tới được một bước mới. Nhưng rồi dự định ấy trên không chấp nhận. Lý do: người sáng tác thì nắm thực tế đời sống đất nước là cần hơn. 

Năm sau, Nguyễn Minh Tấn ở viện Văn học được đi học viện Gorky. Tôi thắc mắc thì nghe giải thích: anh ấy làm nghiên cứu, cần đi. Nguyễn Minh Tấn công tác ban tuyên huấn, về khối văn nghệ làm chính trị viên trường Mỹ thuật sau lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Cũng như Đặng Đình Hưng về đoàn Văn Công Trung ương. 

Tôi cũng dự chỉnh huấn theo phương pháp Hoa Nam cùng Đặng Đình Hưng, Nguyễn Minh Tấn, tôi được biết trước kia Nguyễn Minh Tấn ở tỉnh đội dân quân Vĩnh Yên. Tôi làm nghề chữ nghĩa hẳn hoi, sao tôi không đi học. Nghĩ thế thôi, thói quen thấy mọi cái trên cắt nghĩa đều rồi là phải cả, tôi im. ý nghĩ đi học của tôi cứ vừa trẻ thơ vừa đứng đắn. 

Tôi sửa soạn cái bàn chải răng, quyển sổ tay mới và sách, như sắp đi đợt công tác dài ngày. 

Trường Nguyễn ái Quốc bây giờ vẫn hai tầng dáng dấp ngày ấy. Có thể liệt váo một khu di tích lịch sử văn hoá: cơ quan đào tạo và bổ túc cản bộ chính trị qui mô nhất nước sau hoâ bình lập lại. Nhà hai ba tầng, kiến trúc nửa lưu luyến hội trường trong rừng, nửa đại lầu Trung Quốc. Đến bây giờ mà xung quanh vẫn vắng không mấy bóng cây lâu đời. Mới biết các cụ ta xưa nền nếp xây cất đình đền, miếu mạo khi đặt viên gạch móng đã nghĩ ngay hạ thổ trồng cây: những cây đa, cây đề, cây chôi mấy trăm năm trường thọ với toà nhà cho đời sau, như cây mọc trong cổ tích. Kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp - người sáng tạo hầu hết các hội trường tre nửa trong rừng thời kháng chiến ở Thái Nguyên, ở Tuyên Quang. Hoàng Như Tiếp nói thế tôi mới biết. Những năm các kiến trúc sư ở với chúng tôi chỉ thấy những bản vẽ nhà tranh nông thôn kiểu nhà ánh Sáng trong cặp các anh Nguyễn Cao Luyện, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Duật... Anh Hoàng Như Tiếp thì làm quản trị lo liệu nơi ăn chốn ở cho các gia đình tản cư, quanh năm đạp xe từ Phú Thọ sang Bắc Giang, vào Thanh Hoá. 

Tôi gặp Hoàng Như Tiếp ở ô Chợ Dừa, Tiếp hỏi: 

- Cậu đi đâu sớm thế? Tôi đáp: - Đi học - Học trường Đảng a? Tôi gật đầu. Hoàng Như Tiếp níu tôi lại, khoe: 

- Tớ kiến trúc trường ấy đấy. Qui mô nhất Hà Nội. Được không? 

Tôi nói: 

- Tự dưng trên mái hội trường choang xuống một hòn gạch chỉ. May nó rơi ở mép tường, không vào đầu ai. Điều tra thì ra những hòn gạch thợ xây bỏ quên trên đầu tường. Việc người vôi vữa chẳng bận đến nhà kiến trúc. 

Câu nói đùa không phải lúc. Hoàng Như Tiếp đẩy vai tôi một cái. Tôi chưa tha: 

- Nhà vệ sinh, nhà tắm nước thấm tường mốc rêu rồi vỡ từng mảng. Các ống trong tường lắp chốt gỗ, nó mục ra. 

Hoàng Như Tiếp quát: 

- Cậu này dốt bỏ mẹ, lẫn lộn kiến trúc với xây dựng. Tớ không phải thằng thợ nề, biết chưa? 

Chúng tôi học môn triết cho đén hết tháng giêng. Ba tháng mùa đông ngôi trong cửa sổ họp tổ và đọc tài liệu. Xa kia, những ngôi nhà năm tầng nhô lên như đánh đai quanh ngoài khoanh tre. Cánh đồng làng tôi đương thành phường phố, dàn giáo và bụi đỏ lầm lên cao ngất. Những ý nghĩ và mắt tôi nhìn lẫn lộn thấy cả những cái không còn nữa. Con đường đất trong cầu Điều ra, sáng sớm người quảy cẳng ngô chỉ trông thấy hai bàn chân đất lướt trên đám lá và hoa bánh khúc vàng long lanh ướt sương. Những gánh cẳng ngô đã phơi nỏ ở trong làng Noi đưa ra bán cho các nhà nghề giấy trên Yên Thái, làng Thọ tra bồi can giấy. 

Những việc seo can, cái tàu seo, cái bồi, cây ép uốn, cái cối giã bìa, đãi bìa mà trong sách và tài liệu tôi đương nghiên cứu gọi là lao động giản đơn, công cụ và lao động thời kỳ này, thời kỳ này, những cung cách làm ăn cổ sư nghìn năm ấy phải chết đi thì công nghiệp mới lột xác được thành công cụ mới lao động phức tạp và tinh vi, những cái cũ tôi vẫn thấy trong tưởng tượng mà công cụ mới đã hiện ra đâu. Vẫn cây đa bên sân đình làng Nghè, mùa hạ từng đàn yểng bay đến rỉa quả đa chín vàng. Cây đề cổ thụ gốc to mấy người ôm đứng cạnh cầu chợ Bưởi, lá nõn đỏ hây một góc trời. Có bà hàng bánh đa ướt dưới cống Cót lên, thuở bé tôi theo u đi chợ được ăn bánh với hai miếng đậu rán phồng. Cảnh ấy không còn nhưng cây đề thì vẫn ngày trước, cổ thụ cứ trơ trơ đấy. 

Chẳng còn đâu yên tĩnh nữa nhưng mọi cái cứ biến đổi và không biến đổi. Nếu là nơi xa lạ nào chắc tôi không thể nghĩ vẩn vơ quanh quẩn. Ngồi đây, tôi nhắm mắt cũng vẫn nhìn được những cái không còn. Bên kia, Kẻ Cáo, Kẻ Đàn, bên này sông Tô Lịch, trước mặt mép nước hồ Tây. Đường cổng đồng gốc gạo, hai bờ tre xóm Giếng và làng Dâu vào cầu Điều. Cái cầu, cái quán cho người qua đường, người làm dưới đồng sâu lên nghỉ trưa. Kìa, lại hiện về thời sự của thành phố bị chiếm. Một boong ke xi măng cốt sắt, nửa chìm nửa nổi cao như gò, lỗ châu mai bốn mắt dõi ra dưới hàng cây sồi lẻo khoẻo, vành đai lô cốt phòng thủ Hà Nội của tướng Đờ Tasinhi. 

Trong tôi vẫn nguyên cái tò mò hồn nhiên như thuở bé buổi sáng cắp sách lên trường đình Yên Thái mà thật ra thì tôi đương mờ ảo trong khu vườn và nhà trường Nguyễn ái Quốc trước kia chỗ này là xưởng làm pháo của chủ hãng pháo điện quang Phú Mỹ. Đã có lần tôi vào đây xin việc làm, nhưng không có việc bàn giấy, đây nhà kho và xưởng pháo giáp ranh các xứ đồng Nghĩa Đô và Cổ Nhuế. Đường trong Noi ra, người quảy đồ may thuê trong thành đem trả, đi một dãy dài lên bến tàu điện Cầu Giấy. Cái đêm 9 tháng ba 1945 Nhật đảo chính Pháp, các làng xung quanh cánh đồng kéo vào hôi của kho giấy hợp tác vạc làng Hồ và nhà pháo Phú Mỹ. Kho thuốc nổ, làng tôi có thằng Cửu và thằng con cậu ba Phát phải bỏng khiêng được về nhà, nằm kêu khóc mấy đêm thì chết. Ngày ấy tôi mà xin được việc vào làm nhà pháo, không khéo tôi cũng toi mạng rồi. 

Tôi trông ra cửa sổ bây giờ. Không dứt được ám ảnh những Trăng thề còn đó..., những Dám xa xôi mặt... phảng phất trên đầu lúa rì rào. Lại vừa năm nào, tôi đi với Nguyễn Tuân, Kim Lân và anh Ba Hĩ trong làng ra mùa tháng mười đi bắt chuột, xách những rọ, thuổng, mồi rơm, lồng sắt và hai con chó đen. Chúng tôi vào hun tổ chuột tận gò đất đồng Lỗ Vàng, buột mất con “ti ù” to bằng bắp chân thoát vào bờ rào nhà trường này. Thước phim những ngày qua cứ chồng chất, chồng chất. 

Học viên các tỉnh ô tô đưa về trường suốt tuần - học viên bộ, thứ trưởng ở Hà Nội có xe đưa đón. Chế độ xe qui định ngặt, cơ quan chúng tôi chẳng ra bộ, thứ bộ, chỉ có thủ trưởng Nguyễn Tuân và thường vụ Nguyễn Huy Tưởng được phát chiếc xe đạp công gắn số biển xanh, nhất hội rồi. 

Mỗi lần về thành phố tôi đi đường Cầu Giấy - ô Chợ Dừa, hai bên đường này xưa kia tường thành đất, Tây bạt thấp xuống làm đương, tử mặt đất lên mép đường vẫn cao bằng con sào, một quãng lại thấy tun hút giứa luỹ tre một lối, trổ xuống vào các làng trại ở trong xa. Thỉnh thoảng mới thấp thoáng một quán nước chè tươi, cái lều chữa xe đạp. Bây giờ nhà và người đã mọc ra ở túi bụi, quang cảnh xưa ấy đã vào cổ tích rồi. 

Quãng đường trống gió rét căm căm qua cái bia đá nơi quan ba Phờrăngxi Gacnhiê 1874 chết trận cạnh toà nhà thờ họ đạo vắng hoe. Ngày trước, mộ lão ấy dưới cánh đồng - chắc chỗ lão ngã xuống, không biết đã được đưa lên ven đường thời nào. Và tên lão thì Tây đã đem gắn biển oách nhất vào cái phố vòng hồ Gươm, bây giờ là phố Đinh Tiên Hoàng. 

Rồi qua chỗ quan hai Ban Ny cũng chết trong trận ấy ở cửa đền Voi Phục. Người Pháp cũng đặt cho một tên phố, lại cắm cái cọc xi măng trước cổng đền Voi Phục, xây một cái bảng to đề là “Chùa Ban Ny". Có lẽ chẳng ai để ý cái ngang ngược, cái dốt ấy, chỉ có tôi tò mò. 

Cái mộ giả quan tư Hăng ri Rivie bị giết 1884 ở trận Cầu Giấy. Ngôi mộ sắt thép nguy nga giờ chỉ còn một tảng đá to bằng con trâu kềnh. Bà hàng nước bày chõng hàng lên mặt đá lởm nhởm. Tôi ghé uống bát nước chè tươi, hỏi bà hàng: “ ở đây xa chùa Trầm, chùa Thầy mà ai khiêng hòn đá to thế này về làm gì". Bà hàng nói: “Thấy bảo ngày trước nó là cái nắp mả Tây ấy mà”. Thật thì chỗ này xưa là phố nhà trò phủ Hoài, khách chơi ngồi trong tiếng hát, tiếng đàn trông ra “mả ông Năm” dưới bóng cây bàng, thấy cái mũi ông bằng đồng sáng nhoáng nhọn hoắt đâm lên trong bờ rào sắt. 

Khoá học của tôi theo chương trình hai năm lần lượt có các môn và các hoạt động đã được thông báo: 

Một- Triết học Mác. Duy vật biện chứng. 

Hai- Duy vật lịch sử. 

Ba- Chính trị kinh tế học. 

Bốn- Sự tất yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. 

Năm- Các vấn đề kinh tế và cụ thể. 

Sáu- Đi thâm nhập thực tế ở một hợp tác xã đã cải tiến quản lý (hoặc nhà máy) để kiểm tra, đối chiếu các môn đã nghiên cứu. 

Bảy- Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam. 

Tám- Thu hoạch và tổng kết. 

Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các môn chính trị kinh tế học, kinh tế cụ thể có hai thày Liên Xô và thày ta phụ giảng ngoại khóa. Khóa này, khóa học cuối cùng có chuyên gia giảng viên Liên Xô. Chỉ những đầu bài nghe đã vừa hấp dẫn vừa ngại. Lại thấy bảo đến mục thu hoạch tổng kết câu hỏi và trả lời đều phải viết ra giấy. Cũng chẳng lo vì không phải thi lên lớp, không làm được bài chắc chỉ ngượng ti chút, ôi thôi có người cô ta và không thể đoán trước được cái câu học tài thi phận. Cái năm xưa thi vào trường Bưởi, tôi nộp giấy trắng thì biết trước phải trượt rồi, nhưng những đi thi lấy bằng Sơ học, bằng Cao đẳng tôi làm bài, viết cóc nhảy cho kịp giờ, và rồi vào vấn đáp, một bà đầm hỏi, tôi đứng đực ra không trả lời được. Thế mà đến hôm xem bảng cũng thấy đỗ. 

Nhiều bài ngoại khóa, tôi nhớ hơn vì thày ta nói dễ hiểu. Những báo cáo điển hình minh họa bài học của anh hùng nông nghiệp Đỗ Tiến Hảo, của một công nhân kể khổ... Viện trưởng viện triết Hoàng Minh Chính, nhà kinh tế học Minh Chi thuyết về khoanh vùng kinh tế. Nhanh thật, các anh ấy đã có chuyên môn thành các nhà triết, nhà kinh tế lúc nào. Hoàng Minh Chính giơ tay, cất giọng hùng biện. Mặt anh nghiêm nghiêm, lừ lừ kiểu thủ lĩnh bẩm sinh. Từ lâu tôi đã phục Hoàng Minh Chính tổ chức trận tập kích sân bay Gia Lâm đêm đầu toàn quốc kháng chiến, mà tôi nghe hơi đã viết một tin viết lên trang nhất báo Cứu Quốc là quân ta xung phong chất rơm hỏa thiêu 25 máy bay địch ở sân bay Gia Lâm. Dáng vẻ Hoàng Minh Chính tự tin một cách hồn nhiên. Chứ không thấy dơ như mấy ông tỉnh ủy bắt chước anh Ba mặc áo lụa bà ba ống tay rộng, phe phẩy cái quạt giấy. Minh Chi tôi quen từ trước kia cùng cánh phật tử với bác sĩ Thuyết, bè bạn đồn vì anh phải lòng con gái bác sĩ Lê Đình Thám mà thành phật tử. Dường như Minh Chi là người lúc nào cũng có vẻ vui, đọc khỏe và viết đủ các sách chính trị, kinh tế, lịch sử phổ thông, sơ giải từ thời mồ ma nhà xuất bản Minh Đức 1946. Tóc Đinh Văn Vinh bạc sớm quá. Bây giờ anh giảng về kinh tế khoanh vùng, đúng sở trường hiểu biết mênh mông của anh chưa. ít lâu sau có người bảo tôi là anh này “xét lại". Anh mới mượn tôi một tiểu thuyết Moravia, Cô gái Rô ma. 

Chẳng hiểu thế nào. Rồi lại thấy anh dịch kinh Lăng Nghiêm. Đã lâu Minh Chi chuyển vùng vào miền Nam. 

Không biết anh có ở chùa với cụ Minh Châu không, nhưng anh viết báo Giác Ngộ, ký cư sĩ Minh Chi. 

Tôi chẳng nhớ tên ông thày Nga nào, mà nhớ tên anh Đậu Ngọc Xuân, người dịch các bài triết và kinh tế cực khó đối với tôi. Thày triết Xéptôlin khóa trước giảng chức năng mỹ học là tiêu chuẩn hàng đầu của văn nghệ rồi mới đến chức năng giáo dục vân... vân... 

Đến thày dạy tôi thì lại bảo chức năng giáo dục mới là số một. Nguyễn Văn Bổng tha cái chức năng mỹ học vào khu giải phóng trong chiến trường B, thế là bị tai nạn. Tôi thì chức năng giáo dục, chính qui quá, nhưng tôi cũng chẳng phát huy được hơn câu giảng. 

Khó lắm, tưởng là đến nghe giảng về kinh tế cụ thể rồi về nhà máy liên hệ, kiểm tra sẽ vỡ ra, nhưng càng ù ù cạc cạc vịt nghe sấm. 

Mà chỉ nhớ, chỉ hãi những vớ vẩn. Có anh kể: Khóa trước có một thày Nga già dạy kinh tế cụ thể vừa lên bục hội trường đã dọa: “Tôi ghét những người ngồi nghe mà nhổ râu. Ai nhổ râu thì hoặc là người ấy hoặc là tôi ra khỏi đây ngay”. Thày lớp tôi không nói thế. Nhưng tôi nhỡ sờ lên cằm, lại rụt tay lại. 

Tôi nhìn quanh xem có thấy ông Hoàng Trung Thông nào đương vặt râu không. Hoàng Trung Thông hay nghiêng mặt phồng má nhổ râu. Tôi quá hoang tưởng, Hoàng Trung Thông không học khóa này. 

Thế thì những cái được của tôi cũng vẫn lại chỉ là chắp vá, khâu rúm, khâu đụp. Tôi chịu khó cóp nhặt nhưng biết đến bao giờ mới được cỗ máy. Vừa học vừa nhớ lăng nhăng, làm thế nào cho có trí thức. Có lẽ chẳng bao giờ. Tôi vẫn chỉ là tôi vậy, vậy thôi. 

Thế nhưng tôi đã tỉ mỉ, cẩn thận sửa soạn hai loại sổ. Không bắt chước và cũng chẳng biết thành nếp bởi đâu, từ bao giờ tôi vẫn làm tương tự thế mỗi chuyến đi. Một sổ chép bài giảng, với những ý kiến trao đổi ở tổ. Một sổ những ý nghĩ liên hệ đến cái nghề cầm bút. Bài giảng được phát, tôi đóng thành bộ. Hết khóa học, tôi cho Nguyễn Bá Chính bạn tôi giảng viên Đại học Kinh tế Tài Chính. Chính đỗ tú tài thời Pháp, người mực thước như sinh ra để làm thày giáo, chắc chắn những tài liệu và sổ tay ghi chép của tôi Chính dùng có ích hơn tôi. Anh đã đến nhà tôi ôm cả cái cặp giấy về. 

Trước nay, tôi hay ghi thoắng cho tôi đọc. Nhưng lần này, sổ ghi tôi viết nắn nót không trốn nét. Chỉ vì ở bàn trên tôi có một chị ở cấp ủy địa phương lên học, chị ghi không kịp thày giảng, phải mượn sổ tôi để chép. Chị đã trả ơn, biếu tôi chai dấm làm bằng chuối chín và chị dạy tôi cách làm dấm chuối. Quí lắm, các cửa hàng nước chấm nhà mậu không mấy khi bán dấm. Nếu có chỉ bán ngữ một góc lít, không chua mà nhạt như nước lã. Đằng này, có cốt nước sôi tinh khiết, cắt quả chuối chín bỏ vào, nút kỹ để một tuần lấy ra ăn, cũng chua mà lành. Có người bảo tôi ngày trước chị ấy bán rau ở chợ tỉnh, thạo rau cỏ, mắm muối. Chị mặc áo vét ka ki đeo túi tài liệu, nào ai đoán được ai. 

Tôi nhớ những dớ dẩn. Tôi không có vốn học cơ bản. Tôi đi học cũng chẳng hơn chẳng khác chị bao nhiêu, chị không biết đấy thôi. Cũng như không rõ mấy trăm học viên tuổi tác lổn nhổn, có các cụ thâm niên Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội, có người học Tây, học Nho, có người đến tháng tám 1945 mới tập ngoáy chữ ký. Nghe giảng thế nào, làm bài kiểm tra ra sao. 

Chẳng ai hỏi ai, mà rồi hình như cũng xong xuôi cả. 

Cái hôm kiểm tra tổng kết tôi nhận một mớ câu hỏi: triết học, kinh tế cụ thể, lịch sử Đảng... Bấn cả lên. 

Nhưng tôi không còn là trẻ con nộp giấy trắng như cái năm thi trượt vào trường Bưỏi. Tôi cũng không hiền lânh chép bài như chị bạn dạy tói làm dấm chuối. Thế mà rồi tôi cũng viết được kín vài trang giấy. 

Nghe nói khóa trước, nhà sử học Minh Tranh giám đốc nhà xuất bản Sự Thật đã không làm bài kiểm tra. Không phải Minh Tranh không làm nổi. Mà anh không bằng lòng cái cách thi cử hỏi đáp kiểu trường tiểu học vừa trẻ con lại vừa hình thức không đi đôi với điều kiện. và trình độ mọi mặt khác nhau của những người đi học đầu đã bạc, đương bạc. Không biết những cán bộ mấy chục năm vùi đầu mọi công tác, khi phụ trách chung, khi dân vận rồi nông nghiệp, thương nghiệp, thuế vụ... mà anh ấy xưa kia cũng như từ khi cách mạng, chưa bước chân vào một lớp văn hóa, chính trị nào bao giờ làm thế nào. Có hôm ngồi chuyện tếu, chúng tôi điểm mặt những ông này bà này, ở Trung ương ở các tỉnh thì thấy nhiều người khéo trốn học lắm. 

Trốn đến tài, công tác lên đến bí thư tỉnh, phó ban trưởng ban, công tác to thì càng lắm lý do thoái thác vì đột xuất, đột xuất, tiếc quá không được đi học đợt này, nhưng mà bận, đợt sau lại đột xuất. Cho đến tận ngày về hưu mà vẫn đàng hoàng cao cấp không lòi đuôi. Ghê không. 

Tôi gặp chăng hay chớ, không táo tợn như Nguyễn Công Hoan ngày xưa đã nhờ bạn vào thi vấn đáp hộ bây giờ thì nhờ viết hộ. Tôi cũng không dám cứng cựa như Minh Tranh. Hết khóa học trở về, Minh Tranh cũng rời bỏ mọi công tác đương làm, hình như để ngồi chơi xơi nước. Nhà Minh Tranh ở khu phố tôi. Tôi lại làm trưởng ban đại biểu khối, mỗi năm ngày Tết chúng tôi đến chúc năm mới nhiều nhà bà con. ít khi tôi được gặp anh ở nhà trong dịp ấy. Nhưng thường thấy anh tha thẩn quanh hồ Thiền Cuông. Già đi nhiều, anh vốn nhỏ ngưòi, bây giờ càng lủi thủi mình hạc xác ve. Lớp tôi, về tuổi tác, thì tuổi ai phần nhiều cũng đã cứng. Có những vị trong ngoài bảy mươi, các bà Nguyễn Thị Thập, ông Lò Văn Hặc, ông Kha Vạng Cân, ông Lê Văn Hiến... Đi học, ban tổ chức thông báo tiêu chuẩn, chế độ học viên. Cơ quan đảng của ngành đề nghị rồi nhà trường triệu tập. Các cơ quan là cơ sở đưa người đi học. Người thì được đi trau dồi kiến thức, chuẩn bị lên cấp. Người đến trường vài ba tháng lại phải về, vì công tác khẩn ở chiến trường B, ở nước ngoài. Có người lão quá, đi học là một ưu đãi tinh thần rồi về hưu. Nhiều nơi cơ quan hục hặc nhau làm mẹo đảy đi học, tạm hòa hoãn. Có cán bộ chẳng sắp việc nào cho êm, thì hãy gửi đi học cái đã. Bao nhiêu đoạn trường, mỗi người đến đây mỗi tâm sự, mỗi nỗi, làm sao mà tò mò cho thấu. 

Ông Canh sáu mươi lăm tuổi. Người cao lớn nhưng béo bệu, không khỏe. Ông làm thanh tra hay nội chính, không biết. Học hết khóa thì về hưu, ông kể thế. Không cùng tổ, nhưng ông hay trò chuyện với tôi. Ông Canh quê Thái Bình. Ông hoạt động từ năm mười lăm tuổi. Ông bị bắt, bị giam Hỏa lò rồi phải phát vãng lên Bắc Mê. Ông bị giam ở Hà Giang không biết bao nhiêu năm. Nó bỏ quên ông ở chỗ ma thiêng nước độc, nếu không có năm 1945, chắc ông đã bỏ xác ở đấy. Ông đọc cho tôi nghe những bài thơ ông làm trong tù. Ông Canh nói những bài thơ ca cách mạng của ông đem đóng lại được mười một tập giấy. Có thể, vì ông làm thơ, thấy tôi nghề văn thì ông làm quen. 

ông Canh nói: 

- Xong đây thì tôi về nghỉ. 

- Trông anh khỏe, minh mẫn lắm. 

- Tôi tổ chức cơ quan đoàn kết và công tác đâu ra đấy. Tôi về hưu không phải vì chuyện đấu đá. Hoàn cảnh tôi khó lắm. Cả thời trẻ ngồi tù, lấy vợ muộn quá. Bốn thằng con trai, mà nhóc đầu mới mười một. 

- Thế chị ở nhà... 

- Nội trợ, làm linh tinh. ở tổ đan len, hết việc thì tổ hợp tác lại gọi đi đẩy xe than cho cơm nồi nước sôi... 

- Vậy cũng gay. 

- Gay lắm. Tôi ở nhà còn đi chợ, vào bếp, hò hét lũ trẻ, chúng nó đánh nhau cả ngày. Chứ cứ đi biền biệt, không xong. 

Tôi thở dài, thương ông Canh, lại nói: 

- Thế thì gay thật. 

ông Canh chỉ ăn bữa trưa ở bếp nhà trường, chiều tan lớp ông Canh cắm cúi đạp xe về. Nhà ông ở gần chợ Hôm. Có họp tối ông Canh cũng không ngủ lại. 

Cả những tối có phim Liên Xô, phim Trung Quốc hay có văn công vào, ông Canh coi như không biết. 

ông Canh bảo tôi: 

Tôi về kể chuyện, mấy thằng con tôi bảo anh viết quyển “Dế mèn” hay lắm, phải không? 

- Vâng. 

Nó bảo tôi hỏi mượn hay là xin anh một quyển. 

Anh có làm thơ không? 

Tôi đã thấy đầy đủ hơn cái cớ ông Canh làm quen với tôi. Một hôm ông Canb trả lại tôi quyển Dế mèn phiêu lưu ký. Ông Canh nói: 

- Tôi chẳng thấy hay ở chỗ quái nào. Trẻ con bây giờ trình độ không ra sao. 

Tôi đành cười ngơ ngẩn: “ừ, trẻ con ấy mà. Tôi viết cho trẻ con, anh đọc làm gì. 

- “Trẻ con thì đọc sách cũng phải có mục đích. Anh viết quyển sách này có mục đích thế nào?”. Tôi đưa đẩy qua loa rồi sang chuyện khác. Chúng tôi vẫn trò chuyện bình thường, cũng chăng lần nào ông nói lại cái chuyện viết sách có mục đích, trẻ con bây giờ chẳng hiểu gì. Việc nhà ông rối canh hẹ, còn hơi sức đâu mà nhở con dế, con cào cào... Người ta sợ, người ta xấu hổ “được” nghỉ hưu, còn chạy chọt và giả mạo giấy má để chậm về, ông Canh thì không. 

Ông mong chóng học xong. Có khi ông nghỉ cả tuần không có lý do. Đến lớp thì ông kể bà ấy nhức đầu, ông phải ở nhà đẩy xe than, Tết sắp đến, tổ hợp tác thêm việc nấu bánh chưng. 

Một hôm, ở phòng thường trực nhắn tôi ra có người gặp. Tôi trông thấy một người mặc bộ đại cán màu xi măng đã phai nhợt nhạt, ngồi đợi tôi trong phòng khách. Tôi đã nhận ra Mùi Cá. Tôi chơi với vài bạn làm an ninh. Có người tôi quen biết từ hồi vụ Nhân Văn. Có khi tình cờ. Không phải tôi quen thuộc vì các anh nhờ làm tai mắt, tôi cũng không có thói quen rỉ tai khoe khéo tôi là cá, cá chuyến, cá việc, cá vụ. Có lần, Trọng Hứa hỏi: “Người ta bảo ông làm cá, phải không? Tôi nói: “Công an nhân dân thì ai cũng làm cá được”. Những người đã nghi thì chẳng biết nói xuế xoá thế có đủ tin hay không, nhưng chơi với cá tôi cũng học được miếng võ còm. Là vào quán cà phê Phúc Châu trên Hàng Giày thường chọn góc ngồi có thể nhìn bao quát. Muốn quan sát được nhiều thì cách ghi nhớ của nghề văn cũng đòi thế. 

Không nhớ Nguyễn Tuân hay Nguyễn Minh Lang giới thiệu tôi quen Hùng Cá, rồi với Lý Béo khách sạn Thắng Lợi, lại dây mơ rễ má quàng đến Khải cà phê. Còn Kim Sơn thì Nguyễn Sáng đã bạn từ trước, Kim Sơn hay rủ đến nhà đánh chén. Kim Sơn công tử Sài Gòn đã cùng Hoàng Đạo lặn vào hoạt động Sài Gòn

- Hà Nội mà chiến công kết thúc lúc nửa đêm đánh đắm tàu chiến Amiô Đanhvin ngoài khơi Sầm Sơn. Năm trước, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng về sự tích anh hùng trên, tôi đọc biết Kim Sơn con nhà giàu khi ấy mới lấy vợ mà bỏ Sài Gòn đi làm công tác quyết tử, tôi thật bồi hồi... Tôi có nhờ Hùng Cá mua củi, bấy giờ củi đun và mữ nhà mậu đều bán phiếu, nhưng Hùng Cá cũng chưa mua hộ được củi lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đi chè chén thì có. Hùng Cá hay đưa sách Pháp cho Nguyễn Tuân mượn. Người ta thì thào Hùng Cá theo dõi Nguyễn. Tôi nghĩ cũng cứ đồn to chuyện ra thôi. 

Mà Nguyên Tuân nói có lý: tao không đi họp việc quan trọng, tao không biết bí mật quốc gia thế nào, chỉ thỉnh thoảng nói đổng chơi, cá theo tao làm gì cho tốn cơm. Hùng hoạt động nội thành thời Hà Nội bị chiếm. Các khácb sạn lớn, khách sạn Mê Tô Pôn là nơi đi về, ăn ở an toàn của Hùng. Bây giờ Hùng thường đưa chúng tôi đến khách sạn ấy, mà anh em nhà bếp, nhà bàn.. đều là cơ sở cũ, chúng tôi đánh chén giá nội bộ không có giá nào. Lưu Thiệu Lý chúng tôi quen gọi là Lý Béo quản lý Thống Nhất rồi lên Thắng Lợi. Cứ đàn đúm cả chủ lẫn khách thật thuận tình cho bộ mặt văn nhân tài tử mà những cái túi thì lép xẹp còm cõi của chúng tôi. Cũng còn hơn bao nhiêu lâu nay đi qua Mê tô pôn Sôphitel chẳng buồn ném vào cái đuôi mắt, mày con dây mơ rễ má gì trong ấy nữa mà nhìn! 

Chỉ còn cà phê Khải. Cái hàng cà phê trong hẻm chợ Hôm, bây giờ đã thành cao lâu đặc sản bít tết 202 phố Huế của tỷ phú Khải. Đôi khi, Hùng Cá và tôi đến lấy một bàn khuất, ngồi nhấm nháp lại những mơ màng đã qua. Hùng Cá đương được lo liệu viết lịch sử ngành ở thành phố. Những lần xưa đến đây, còn có Nguyễn Sáng, Nguyễn Tuân, nhưng rồi cũng chán không tới nữa. Bởi vì nhà hàng này độc đáo có cái bít tết, mà hai ông này thì chỉ trệu trạo món cua nhồi “phá xí”. Răng đau, răng rụng cả rồi. 

Khải vốn là một thày giáo hồ lơ ở ngoại ô Thanh Nhàn. Rồi lái xe, có xe hàng chạy và cũng có làm đôi ba vụ việc cho an ninh thành phố bị chiếm 1954 rồi lái xe sứ quán Pháp. Nhưng cái ham muốn của lão này lúc nào cũng đinh ninh, cả những khi khốn khó chìm nổi vật lộn với tem phiếu và nhà mậu, Khải vẫn đuổi theo cái mộng và thực của mình. Cũng chẳng khác kỳ vọng sáng tạo của người cầm bút. Có điều Khải toại nguyện, tác phẩm nghệ thuật hoài bão lớn của anh đã xây dựng thành công. 

Cà phê pha lấy cho khách. Phở thì Khải nấu nước dùng và đứng chan từng bát đến bây giờ Khải đã có nhà hàng bốn tầng lầu, mà mỗi sáng Khải vẫn len chợ Đồng Xuân, tự tay mua lấy bó hành hoa, mớ cần tây và chọn từng súc thịt bò quẳng ra xích lô rồi lẽo đẽo đạp xe theo về. Không phải thân làm tội đời, mà cái đam mê của con người ta thì không cắt nghĩa được.

Cũng như hồi phở Khải đông khách nức tiếng phở bò, nhưng Khải không đụng một miếng. Anh hàng phở hay thèm rau muống, đằng này môi sáng xong hàng Khải lên phở Hải con lão Chi làm bát phở cánh gà. 

Khải cực khó tính và nền nếp với người làm. Một dạo, mụ vợ lẽ chủ rạp Mê Linh cũ cũng làm bưng bê ở đây. Trên tạp chí ảnh Châu á ở Singapo có hình ông chủ 202 đứng với cô nhà bàn này, tôi những tưởng anh ta chộp được. Nhưng rồi có ngườiViệt kiều “khách biên đình sang chơi” đến đây, đã bê mụ ấy về Mỹ. 

Thỉnh thoảng mụ vẫn về và đến chơi. Số phận và may rủi biết thế nào là cùng nhỉ? 

Có việc đến công an hay công an gặp thì chẳng mấy khi chuyện vui, nhất là anh công an Mùi này. 

Mùi không chơi bời, Mùi không phải kiểu những ông cá chìm cá nổi, cá ươn, cá nửa mùa bè bạn tiêu dao của tôi. Tôi biết Mùi vì công việc. Mùi chất phác. Chuyện với Mùi, tôi đùa: “Cậu làm công tác tbuế. đi bắt rượu lậu hợp hơn và chắc là thành công hơn ở ngành văn hóa". Mùi lành, chỉ cười, không biết giận, lại thật thà hỏi tại sao anh lại nghĩ thế. Tôi bảo tôi quen một anh khu Năm bộ đội phục viên lấy vợ làng Giá. Anh làm cán bộ thuế huyện, trông nom thu thuế chợ Sấu, chợ Giá. Vợ con, nhà cửa, vườn cây, ao cá tươm tất lắm. 

Chúng tôi chạy máy bay Mỹ, trại sáng tác thiếu nhi của nhà xuất bản Kim Đồng mở ở làng Giá. Người xa cứ tưởng Sấu, Giá một làng, nhưng là hai làng ở gần nhau. Chỉ rượu bên Sấu cô tiếng ngon, nhưng đương cấm rượu. Anh cán bộ thuế đi bắt rượu bên Sấu, thỉnh thoảng đem một hai bi đông rượu về, đi cửa sau vào bán cho tôi. Tôi thấy anh ấy làm việc phải sức mà ung dung và tôi quen anh vì thế - tôi bảo Mùi. Mùi cười, lúng túng nói: “Tôi không biết uống rượu, anh ạ” 

Mùi ít chữ, được cái chịu khó, không lên điệu vừa khoe vừa giấu dốt, như một số cán bộ tôi hay gặp luôn. 

Bấy giờ tuyển công an không lấy người thành phố, mà đưa người quê Vĩnh Phúc vào và ở Thanh Hóa ra, có anh chưa trông thấy, chưa ngồi vào cái ghế sa lông bao giờ. Nhiều khi họ tỏ hăng hái nhất lại do một mưu mẹo khác. Cái dạo Kim Lân mấp mé phải lên thớt vì tập truyện ngắn Con chó xấu xí, Mùi hỏi tôi: - Anh có quen nhà văn Kim Lân không? 

- Có. 

- Hàng xóm tố cáo anh ấy nuôi con chó đặt tên là con chó xấu xi, cứ chửi cả ngày, như chửi người, thế thì chửi ai. Nhiều vấn đề lắm. 

Tôi bảo: 

- Không phải. Ông ấy viết một cái truyện ngắn tên là Con Chó Xấu Xí. 

- Truyện ngắn chứ không phải người à? 

- ừ

- Anh có truyện ngắn ấy không? 

Cái người hàng xóm đi bô báo Kim Lân nuôi chó, chửi chó thì không phải bây giờ Mùi nói tôi mới biết. 

Mà tôi biết cán bộ ấy trong nhiều cuộc họp đã phân tích và lên án dữ dội Con chó xấu xí. Anh là em sinh viên Nhung - người mà báo chí hôm đảo chính Nhật ca tụng Nhung đã cùng quân Nhật đánh thành Hà Nội, bị hy sinh. Em Đại Việt mà bây giờ là cán bộ ta phải gĩư bùa hộ mệnh thì chưa biết chính anh ta sẽ làm cho Con chó xấu xí đánh chết được thằng viết ra nó. 

Chẳng thiếu những kẻ lý lịch phức tạp, dối trá công tác lôi thôi đứt đoạn đã lên gân đấu người khác hết cỡ hồi xảy ra việc Nhân Văn. Cũng là vậy thôi. Mùi còn ít tuổi. Tôi thương Mùi vì thật thà. Mùi cũng quen vợ tôi và biết tất cả các con tôi. Mùi đã hỏi tôi những cái mà chắc Mùi không dám hỏi ai. Phố xá đương nhộn lên chơi phong lan, cá vàng. Con cá vàng thì biết rồi, vì con Mùi hay mua cá vàng ở chợ về chơi. Nhưng phong lan thì chưa biết là cái gì. Mùi hỏi. Tôi không thạo chơi phong lan, nhưng ít ra tôi cũng cắt nghĩa cho Mùi về phong lan, lan gió, lan đất được. Một hôm, Mùi giơ cho tôi nhìn cái đầu mục một tờ báo Sài Gòn in to dòng chữ Phần văn luận trên đầu trang. Mùi băn khoăn: “Cái thằng Phần Văn Luận nghe quen quen, anh có biết nó không". Tôi nói: “Nó là tên mục, tên bài văn luận, xã luận, không phải tên người đâu”. Mùi lặng lẽ ghi vào sổ tay. Không biết thì hỏi, có người tin cậy để Mùi hỏi, Mùi lễ phép, tự nhiên. Thỉnh thoảng Mùi còn nhờ tôi nói về văn học nước ta, văn học thế giới, Mùi lại mở sồ tay và chăm chú nghe. 

Mùi hay đóng bộ ka ki đại cán 1954 vàng xẫm may ở Thái Nguyên về tiếp quản Hà Nội, màu đã nhạt trắng. Việc gì cũng chỉ ngồi đến gần mười giờ, Mùi xem đồng hồ rồi đi. ở cửa hàng bia hơi phố Hàng Khay ra, tôi thấy Mùi đứng sắp hàng trưóc cái xe tải rau muống, rau dền, rau bí đương rỡ xuống hè phố Bà Triệu. Vợ Mùi làm nhà máy hoa quả, chắc là giờ đi làm của Mùi cao su hơn, có thể đỡ đần vợ được. 

Mùi cười cười bắt tay tôi. Thấy công an cười, thế chắc chuyện vui thôi. 

- Tôi đến xin hỏi anh một việc. 

- Việc gì thế? 

- Anh có quyển sách Bác sĩ Givago... 

- ừ, nhưng không phải của tôi, mà cơ quan bảo giữ hộ. 

- Vâng, cơ quan bảo anh giữ. 

Tiểu thuyết đốc tờ Givago của Patecnăc dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Galima hay nhà Laphông, tôi không nhớ. Patenăc đã bị gạch tên hội viên hội nhà văn Nga và hội nhà văn Liên Xô. Patecnăc được giải Nôben văn học, nhưng không được ra nước ngoài dự lễ nhận thưởng. Lại ra tuyên bố báo chí “không thèm đi nhận". Những cái rắc rối ở bên Liên Xô, dẫu chưa tỏ tường ất giáp thế nào, nhưng cứ coi thế là có cái phải canh chừng ở đây. Cơ quan tôi được nhận một quyển tiểu thuyết Đốc tờ Givagô do trên phân phối. 

Tự dưng lĩnh một quả bom, phải cất giấu sao cái của nợ này đây. Để ở thư viện không tiện, mà cái thư viện con con, không có tiêu chuẩn tiền mua sách, đâu biếu quyển nào thì có, cộng với một số quyển đem trên rừng Việt Bắc về đã cũ nát. Đôi khi, sứ quán Pháp cũng tặng sách, ôtô đưa đến cả ôm. Nhưng họ tinh ý, chỉ biếu các tuyển tập cổ điển Vônte, Coocnây... Không có sách mới, bây giờ bày của lạ này ra thì chắc thu hút tò mò ngay. Không để ở thư viện, mà cũng không thể cất ở đấy. Nhỡ mất thì khốn. Không biết ai đã có sáng kiến dưa cho tôi đem về giữ ở nhà. 

Quyển Đốc tờ Givago li ti chữ dày năm sáu trăm trang, tôi cũng rọc vài tờ rồi bỏ trên giá sách. Vừa dài lại đọc khó, phải tra từ điển luôn. 

Anh Mùi kể cho tôi biết: 

- Hiện ở Hà Nội có một quyển Bác sĩ Đivago đương truyền tay nhiều người ở đâu ra, bọn phản động đưa lén lút trong Nam ra hay ở vali ủy ban Quốc Tế, tôi đi tìm... 

Bây giờ hỏi tôi, chắc có ý nghi ngờ. Tôi nói: 

- Tôi giữ quyển ấy đấy, nhưng tôi không cho ai mượn. 

- Anh cho tôi mượn nhé. 

Rõ ràng cách nói không tin và muốn kiểm tra. Tôi về nhà, hôm sau đưa quyển tiểu thuyết Đốc tờ Divagô cho Mùi. Quyển sách đã lâu để trên giá, bụi bậm cóc cáy mép sách như ám khói. Giấy búp phăng, không xén, tôỉ mới rọc mấy tờ đầu. Tôi gật gù khoái ngầm cái nghi kỵ của Mùi, nhưng cũng cẩn thận mở cho Mùi biết và cắt nghĩa thế nào là quyển sách chưa rọc và sách rọc giấy lờm xờm, lại qui hơn sách xén nhẵn. 

Mùi nói: 

- Cho tôi mượn quyển này vài hôm, anh nhé. 

Mùi không biết tiếng Pháp, mà phải báo cáo, cho nên anh cẩn thận kỹ lưỡng hỏi tôi, chứ anh biết làm thế nào. Mấy hôm sau, Mùi đem sách đến trả tôi. Mùi nhìn quanh, trong phòng khách chỉ có hai chúng tôi, Mùi thì thào: 

- ở Hà Nội chỉ có hai nơi được cỏ quyển sách này. 

Cái quyển Bác sĩ Divago đương nhiều người truyền tay ấy là quyển sách ở thư viện trường Nguyễn ái Quốc này đấy, anh ạ. 

Thế mới quái. Nhưng trước nhất chúng tôi bị nghi ngờ đã - không thể trường Đảng cẩn mật vững chãi lại để lọt sách xấu ra được. Mùi đưa trả tôi quyển sách chưa rọc. Mùi đã cho tôi biết rõ vậy, mà tôi nhìn mặt Mùi dường như ngờ ngợ chưa hẳn Mùi tin tôi. Có thể lắm. Hay chỉ là cảm tưởng thành kiến và hoang tưởng của tôi. Cũng như, ông cán bộ lập trường cứng cáp đương sửa soạn bài bản đánh truyện ngắn Con chó xấu xí mà tôi lại mách ông ấy là em thằng sinh viên phản động thân Nhật thì ai tin được tôi bởi không thể cái người vững vàng thế lại có liên quan xấu thế, thiếu lô dích tợn. 

Mấy năm sau, có những dịp qua Matxcơva, các bạn chỉ cho tôi thấy cụ Patecnăc đến câu lạc bộ Hội Nhà Văn. Cụ già nhỏ nhắn, gầy gùa, đội mũ phớt, bước nhanh nhẹn. Cụ uống bia và vào phòng chơi bi a. Về khuya, các người đều chơi bi a ăn tiền. Nhớ đến chuyện vu vơ chúng tôi bị liên lụy vì tiểu thuyết của cụ, lại nghĩ cười, cười buồn. Suýt nữa chẳng phải đầu phải tai, chuyện ở xa thế, cụ không bao giờ có thể tưởng ra được.

Chương VIII

Những chuyện bâng quơ đâu đâu đến quàng vào đời người. Có khi thoảng qua, có khi tự dưng mà đổi đời. Năm 1947, chúng tôi làm báo Cứu Quốc ở châu Bạch Thông trên Bắc Cạn, có hôm chủ nhiệm Xuân Thủy kể với tôi: “Hồi bí mật, có thời kỳ báo Cứu Quốc đóng ở núi Thầy, gần vùng quê cậu. Chúng tớ định tìm cậu đưa đi thoát ly làm báo. Về thăm dò cơ sở Việt Minh ở làng cậu, mấy cô phụ nữ cứu quốc báo cáo cậu giăng hoa lắm” Cũng lại một tình cờ đã xảy ra và không xảy ra. Nếu ngày ấy tôi đi thoát ly, rồi thế nào, tôi có vẫn theo đuổi viết văn không và sau này tôi lên chức gì, tôi là ai, biết được. 
Năm trước, gặp cô Phương ở nhà nghỉ Đầm Vạc. Phương hỏi: 

- Anh có em gái là Ngọc? 

- Vâng. Nhưng Ngọc ốm mất đã lâu. 

- Cái ngày tôi với Ngọc sang Quảng Châu chữa bệnh, hai chị em ở với nhau mấy tháng. Ngọc hay kể chuyện về anh, bây giờ mới gặp anh mà tôi ngỡ như đã thuộc cả nhà cửa nhà anh và ngõ giếng, luỹ tre quen biết đã lâu. Lạ nhỉ. 

Năm ngoái, tôi đến thành phố Quảng Châu, chợt nhớ đã có khi hai cô Ngọc, cô Phương đến đây và ở tòa nhà bên trong bờ tường bệnh viện y học dân tộc kia, hai người bạn gái đã trò chuyện những ngày xa quê. Tôi không có tơ vương gì cô em họ ngoại. Khi được tin Ngọc ốm nặng vợ chồng tôi tới thăm. Ngọc nằm nhìn đi đâu rồi nói: “Sao em sắp chết rồi, anh mới đến? 

Hay là cái cô Việt Minh Ngọc ngày ấy đã mách với Xuân Thuỷ rằng tôi hoa lá. Ôi chao, những tình cờ, những tình cờ chắp nối... 

Ngọc có người em trai. Chung làm đội xếp ngoài bóp cảnh sát hàng Trống. Chung đã vào tổ chức cảnh binh cứu quốc thời kỳ bí mật. Sau Tổng khởi nghĩa. Chung được điều về làm trưởng ty công an tỉnh ở Phủ Lý. Một lần, Chung về nhà ăn giỗ mẹ. Có người đến bảo: “Anh về cơ quan ngay, có công tác khẩn". Chung đi và từ đấy không bao giờ về nữa. 

Đã hơn năm mươi năm qua. Khi còn sống, bố Chung và chị Ngọc đã đi nhiều cửa hỏi. Đến bây giờ, thằng em út không biết mặt anh mà nhà tản cư đi kháng chiến, cũng không còn giữ được cái ảnh nào, thằng em vẫn đi kêu cứu và dò la về cái chết của anh. Việc ấy ở Hà Nam có còn ai biết, và ai có can đảm nói ra giải cái oan này? 

Chung chết có phải cũng lại là một tình cờ. Trong khóa tôi học, còn có những tình cờ như con muỗi mắt chàng màng bề ngoài, mà rồi hóa oan gia và chẳng ra mặt mũi thể thống thế nào. Có một chuyện người khác kể. Bệnh ăn cắp vặt của người ta khi đã thành một thói quen, một tính xấu thì chẳng cứ ai và không phải chỉ vì túng thiếu. Có một học viên, mỗi hôm sau bữa ăn trưa, ông đi từ phòng ăn ra chỗ căng tin mua chuối tráng miệng. Nhà hàng bày chuối cắt rời từng quả, tãi ra đến hai ba cái bàn, cho người mua đỡ phải xúm xít. Khách học viên ra mua hàng ngày là những người tuổi tác và đứng đắn cả. Lấy mấy quả trả tiền đưa tay hay đông quá thì đặt tiền xuống bàn như nải chuối, củ sắn luộc, quả soài treo trên gốc cây của những quán “tự giác! không người bán hàng thường ngày trước gặp trên dọc đường Sơn La - Lai Châu đầu các ban mường người Thái. Ông học viên nọ đến bàn nẫng một quả chuối rồi quay ra, bóc ăn. 

Ông không bỏ tiền xuống bàn. Ông mua quên không trả tiền từ hôm nào không biết, một học viên khác tình cờ để ý. Người ấy hơi lạ và tò mò thấy mỗi hôm ông chen vào thón một quả chuối rồi chen ra, vừa đi vừa bóc vỏ. Rồi tổ trưởng, rồi chi ủy lặng lẽ nhìn cả tháng vẫn thấy sau bữa trưa ông ấy lách vào lách ra nhặt một quả chuối. Đến hôm tôi hỏi để đi xem mặt ông có bệnh ăn cắp vặt ấy thì được biết nhà trường đã đuổi học ông rồi. Nghe nói ở cơ quan ông cũng làm cấp vụ, cấp cục thế nào đó. Ai túng đói đâu quả chuối, ấy là người có tính tắt mắt mà lại có tuổi, chân tay đã rề rà quềnh quàng lại ngỡ không ai nhìn thấy. Cũng không may phải cái ông khác tình cờ trông thấy mà thôi. 

Lại vẫn những tình cờ. Lê Lựu là binh nhì ở đơn vị Chiến sĩ Lê Lựu chịu khó lam làm khiêng bàn, quét nhà như mọi người. Chứ không cả ngày ngồi thừ mặt, một tay đỡ vừng trán đương nặng trĩu những suy tư giả vờ, thế thì có khi còn công tác bàn ghế thau chậu đến tận năm nao ông Bành Tổ sống lại mới nhoi ra hay là không bao giờ có được nhà văn Lê Lựu. Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanh miền Nam tập kết. Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm ấn Độ Lưu Qui Kỳ giớt thiệu với tổ chức và Vũ Anh Khanh được đi cùng Nguyễn Công Hoan. ở ấn Độ về, Vũ Anh Khanh lại trở về đơn vị. Nhưng cái anh tiểu đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã mờ mờ đi đâu mất rồi. Người ta được Thủ tướng Nêru tiếp, người ta dong thuyền chơi sông Hằng. Về đơn vị cảm thấy đây chật chội quá, đây không phải đất dung thân. Nửa đêm, Vũ Anh Khanh đã bơi qua sông Hiền Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị chết đuối hay Vũ Anh Khanh mới ra đến cái bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được. Không biết, việc thì tình cờ, nhưng không tình cờ ở con người. Tôi cũng gặp biết bao những tình cờ ở lớp. Rắc rối thật và lôi thôi hơn không phải đại khái như cái tiểu thuyết Đốc tờ Divagô. Năm ấy được nghỉ hè, tôi đi biển Sầm Sơn. Tôi đương tranh thủ viết kịch bản phim Kim Đồng, đã hẹn ngày tháng giao cho Điện ảnh. Loay hoay đến hôm đã khai giảng vẫn chưa xong. Tôi vìết thư về ban giám hiệu xin phép được ở thêm. Lý do bịa “tôi đi nghỉ muộn". Nửa tháng sau, tôi về. Tôi “trình diện” với bí thư chi bộ Kim Ngọc. Kim Ngọc người hom hem, lim dim mắt nhìn tôi: “Hôm nay mới đến à? Tớ tưởng cậu vẫn đi học". Thì ra ban giám hiệu cũng không báo xuống chi bộ việc tôi về muộn. Tôi ngại nhất nhà trường soát sổ cơm thì lòi ra người vắng mặt. Nhưng thấy yên. Tôi lại ngày ngày nghiên cứu, thảo luận tổ, lên hội trường và vẫn nhiều tối chuồn về nhà, sáng hôm sau gò cổ đạp xe vào. Yên trí, mọi cái đều bình thường. Một buổi, Kim Ngọc gọi tôi ra ngoài hiên. 

- Tại sao đồng chí... 

Lôi thôi rồi. Giọng Kim Ngọc vẫn nho nhỏ như mọi khi, nhưng hai tiếng “đồng chí” ấy là không phải mọi khi. 

“Đồng chí về muộn quá. Ban giám hiệu yêu cầu báo cáo lý do.” 

Thái độ êm ả của Kim Ngọc khuyến khích tôi chẳng tội vạ gì mà phải giấu. Nói dối nhỡ quên chi tiết, lần sau nói lại không đúng thì đâm phiền phức. Tôi kể cho Kim Ngọc nghe tôi ở nán lại viết cho xong cái phim Kim Đồng đã đến hẹn đưa cho xưởng phim truyện. 

Kim Ngọc không nói gì. Vẻ như thờ ơ chẳng để tâm.. 

Rồi hỏi: 

- Cậu có viết thư xin phép ban giám hiệu? 

- Có chứ, có thì nhà trường mới biết tôi về chậm. 

Kim Ngọc cười: . 

- Chẳng viết thư thì cũng biết. Xem sổ báo cơm thì ra ngay. 

Tôi nghĩ thầm “ờ nhỉ”. 

- Thế cậu có báo cáo như vừa kể không? 

- Tôi nói tôi đi nghỉ muộn, về chậm. 

- Thôi nhé. Ban giám hiệu bảo hỏi, tớ hỏi thôi

Tôi đã quay đi, Kim Ngọc hỏi với: 

- Cậu có biết Nguyễn Bùi Vợi? 

- Tôi biết. Mới về đài phát thanh... 

- Cậu ấy ở với chúng mình hợp hơn. 

Những năm ấy Nguyễn Bùi Vợi dạy học trên Vĩnh Phú. Kim Ngọc là bí thư tỉnh ủy. Câu chuyện tôi về muộn không thờ ơ như chuyện với Kim Ngọc và chưa êm ả trong cuộc họp chi ủy. Học viên bí thư Đảng đoàn bộ Nông nghiệp Trương Hùng, một chi ủy căng nhất. Hùng cho là “không thể dung thứ văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa” cần họp cạo một trận cho chừa. 

Hôm sau tôi đã biết cái ý kiến sắt thép ấy. Tôi đợi, tôi nghe. Nhưng lặng im. Rồi tôi đoán có thể nhờ cái nhẹ nhàng của bí thư Kim Ngọc như câu nói và thái độ hôm Kim Ngọc gặp, tôi đã thoát một trận bị riềng tới số. 

ở nhà tầng trên tầng dưới, tôi hay gặp Trương Hùng. Dường như Trương Hùng cảm thấy tôi biết cuộc họp chi ủy mà lão chủ trương đả tôi. Sắp giáp mặt, tôi chưa kịp lờ thì Hùng đã chăm chắm bước đi như không trông thấy tôi. Lão hay mặc quần áo nâu - màu nâu non mới. Để ai cũng phải biết lão công tác nông nghiệp. 

Tôi đã đi cải cách, đi sửa sai, tôi đã loạn mắt những bộ quần áo nâu dởm mà Hồ Viết Thắng khoác tưng bừng mỗi khi cắp cặp bước xuống ô tô. ấy là chưa kể tôi làm anh đội cũng đã đánh một bộ nâu lên ngôi như thế, bây giờ trông thấy cán bộ mặc quần áo nâu tôi còn ngán và tởm. 

Dương Văn Đàm bảo tôi: “Hùng là lớp chánh lý trẻ, học hết lớp nhất trường huyện. Nhà là cơ sở của các cụ, nhờ thế mà thành con nhà nòi. Có cậu với tớ lờ đờ thôi, các bà phụ nữ ở lớp ta tinh lắm. Các bà đã để ý hắn mặc nâu nhưng may ô trắng nõn, đi qua sực nức mùi nước hoa". Hùng khoảng ngoài năm mươi, vẻ mặt và dáng điệu ấy như sinh ra chỉ để chỉnh đốn người ta

Dương Văn Đàm biết kỹ, làm sao mà cái ông luật sư này cái gì cũng biết, có lẽ đấy là thói quen nghề nghiệp. Nhưng Đàm đã nói như cắt nghĩa cho tôi: 

- Cái nghề thầy kiện cãi kiện cúa tờ phải thạo về tò mò và chi tiết. Tiếc tớ không có khiếu làm văn. Ngày trước, mới tốt nghiệp, tờ tập sự mấy năm ở văn phòng mét Trần Văn Chương, những chuyện loạn luân ở nhà ấy, từ con Lệ Xuân, đến mẹ nó thì khủng khiếp.. Dài dài những ngày xưa của Đàm không bao giờ cạn. Tôi hỏi chuyện hôm nay. Đàm cũng nói được ngay. 

Dương Văn Đàm nói: 

- Tớ đã đến nhà Trương Hùng chơi. Nhà hai tầng, chỉ có hai vợ chồng. Vợ hắn nhai trầu bỏm bẻm, người trong làng thì trông già thế thôi chưa chắc đã nhiều tuổi hơn hắn. Chả là người anh thỉnh thoảng đến có ý nghi cái cách ở một mình của hắn, mới về quê bàn khéo ra ở với chú ấy cho vui cửa vui nhà". Thế là khuân được bà em dâu ra chặn cửa. Nhưng bà ra ở được ít lâu, thấy tẻ lạnh thế nào, lại đòi về quê. 

Nguyên do ả nọ làm ở một văn phòng cơ quan, có việc nhà khó khăn phải chạy. Chao ôi, cũng lại một tình cờ. Đến nhờ hắn, thế là đôi bên bập vào nhau. Nhiều năm rồi. Đi công tác các tỉnh hắn đều tha ả theo. Cửa hàng cao cấp bách hóa, thực phẩm, phiến a, phiếu b, bệnh viện Việt Xô, khoa tai mũi họng Bạch Mai hôm xử đều phải ra tòa làm chứng. Hắn đã đưa ả vào các nơi ấy. 

Người vợ già chán chường sự lạnh nhạt, thờ ơ của người chồng. Thì cái ả cứng nhân ngãi non vợ chồng kia lại càng sốt ruột vì năm qua tháng lại đã nhiều. Con gái có thì. Anh tính cho em thế nào? 

Tôi triết lý vụn với Đàm: . 

- Thử thách hai luồng tư tưởng đây. Tư sản bảo: bỏ vợ, vứt công danh vào sọt rác. Ta ra đi hai trái tim vàng... “xây nhà bên suối. Suối mơ... Bên rừng thu vắng...”. 

Dương Văn Đàm cười hề hề: 

- Đằng ấy vận dụng lý luận khá đấy, lại văn chương tơ lơ mơ nữa. Nhưng không đúng với trái tim con lợn chứa cả hai thằng tư sản và thằng phong kiến. Tư sản bảo: tình yêu vạn vạn tuế. Đế quốc phong kiến hét: Giữ cái ghế! Giữ cái ghế muôn năm! Tiêu diệt con nái xề, “đưa nàng về dinh". ấy thế, ấy đấy! ”

Hắn mưu giết vợ. Mấy chục viên thuốc ngủ nêprôbamat đã trữ được. Bà váng vất đầu, hắn pha cả vỉ thuốc cho uống. Bà ấy ngủ, nhưng thuốc nội không ăn thua, ngủ rồi lại dậy được. Ghê gớm, kẻ rắp tâm giết người lại sửa soạn keo khác, lần này mua được thuốc ngoại của Việt kiều bên Thái Lan về. “ừ thôi, đi chơi biển chuyến giối già rồi về quê”

Xuống đến bãi Cháy thì chặp tối. Cả một ngày đường bà lão say xe lại hâm hấp sốt. Hắn pha một cốc thuốc ngủ cho bà ấy. Bà lão uống thuốc. Quá nửa đêm vẫn li bì. Đổ cho cốc nữa, tắt thở. 

Chẳng may phải cái cảm dọc đường - người chồng kêu lên. Mọi nơi mọi chỗ đều những công tác, những việc bộn bề. Tang ma chôn cất ngay đấy, mọi cái đều người chồng và người lái xe lo liệu.. 

Chỉ mấy hôm sau, an ninh đã chụp được ảnh tay đôi ngồi bên gốc muỗm đền Voi Phục. 

Tòa xử máy hôm, xử công khai, tôi có một tò mò oái oăm. Muốn đi nhìn cái mặt người thượng cấp lúc nào cũng nghiêm nghiêm, lạnh lạnh mỗi lần tôi chạm trán hắn ở nhà ăn, ở hành lang, bây giờ xem cái mặt ấy tròn méo thế nào. Tôi vẫn nhớ tôi bị Hùng đòi Kim Ngọc phải choảng tôi vì tội “văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa". Thù đấy tôi cũng thù nó chứ. 

Cái nhà tòa án Tây hơn hai mươi năm trước tôi đã đi với anh Vũ Ngọc Phan đến dự phiên xử nhà xuất bản Cộng Lực kiện tuần báo Hà Nội Tân Văn của anh Phan đã in từng kỳ tiểu thuyết Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, trong khi nhà xuất bản đã mua của tác giả cả tiểu thuyết ấy và đương in. Anh Vũ Ngọc Phan thua kiện, phải bồi thường danh dự cho nhà xuất bản một đồng bạc. Thày kiện Phan Anh cãi cho thân chủ Vũ Ngọc Phan, ông mặc áo thụng đen, tôi cứ nhớ cái câu ông cãi cũng bình thường, nhưng ông hùng hổ giơ tay và quật mình xuống bục, hết sức tuồng chèo cải lương. 

Vụ xử án giết vợ này ở phòng khác to rộng, đông nghịt người, tôi chưa biết bao giờ. Tôi chen vào. Trông lên bục cao, các vị tòa án ngồi. Nhìn xuống chỗ vành móng ngựa thấy hai người cảnh sát, không thấy hắn ta đâu. Nhìn lại mới thấy hắn ngồi rù rù giữa hai người. Tôi không thể nhận ra ngay vì con người thiểu não chẳng còn mảy may như trong trí nhớ của tôi. Trông thấy rồi mà tôi vẫn ngỡ ngàng. Bộ quần áo xám có số tù trên lưng, thằng người ọp ẹp, như sắp bị đám người lố nhố xung quanh giẫm lên. 

Tôi lại chen ra. Tôi chen ra vì tôi sợ nhỡ lại phải nghe thằng ấy nói lời cuống cùng: Tôi đã được Đảng giáo dục... tôi đã... tôi đã... 

Thế là tôi hả hê, tôi ân oán xong rồi. 

Tôi nghe kể lại - lại ông luật sư cái gì cũng biết Dương Văn Đàm- ả nọ cất tiếng: 

- Thưa tòa, tôi là đứa con gái dại dột. Thằng dê già kia đã lừa tôi, chứ tôi có người yêu tôi đây. 

ả chỉ một người đàn ông ngồi ghế sau lưng gần đấy. Và chẳng biết có thật đến đâu. lúc tòa cho tên tử tù được nói lời sau chót, hắn đã nói: 

- Tôi mong được tòa khoan hồng để tôi chuộc tội, tôi xin đem hết khả năng ra phục vụ cách mạng. 

Hỏi thì Dương Văn Đàm cũng nói nghe có đứa kể lại Không hiểu câu ấy có thật hay là người ta nói mỉa. 

Chỉ chắc chắn cái án chém là có thật. Cũng như mắt tôi đã trông thấy cái bóng xám của thằng người rũ rượi trong cái vành móng ngựa. 

Đấy là việc đã xảy ra hơn một năm sau khi tan trường. Chóng quá, sắp mãn khóa. Theo lịch học đã đến đợt đi thực tế, cơ sở nông thôn hay xưởng máy, kiểm tra mọi mặt lý luận và thực tiễn của khóa học. Tôi được tổ phân công đi với học viên Thử về huyện Đan Phượng. ở Phùng được mấy hôm, tôi bảo Thử: “Anh là “nông dân quân chủ lực” anh đi đến làng người ta hay về làng mình cũng thế, anh biết cả. Tôi thì khác. Đất Thượng Hội, Hạ Rội này gần vùng tôi quá, chẳng thấy gì mới. Tôi đi Thái Bình, xa xa một tý cho lạ mắt. Hẹn ngày nào về trường thì ta về cùng cho có đoàn có đội". 

Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổi chuột, tên Thử, người loắt choắt, dáng rụt rè tinh tướng con chuột nhắt. Đã nhiều năm Thử ở khung cán bộ bên Lào, gần đây mới được về tỉnh nhà. Công tác sắp xếp dường như khó khăn, nay ở tỉnh mai tỉnh đẩy xuống huyện, bây giờ đi học dài hạn, mai kia đi học về rồi thế nào. Có lúc Thử thở dài với tôi: “Hay là tôi về hưu?” Chả trách, tôi đi Thái Bình, Thử cũng chẳng buồn hỏi thêm nửa câu. Những năm sau, tôi cũng hay hỏi thăm tin tức Thử. Có khi nghe anh về công nghiệp vào ban phục trách các lò nung gạch trên tỉnh. Gần đây anh đã nghỉ hưu. Chú em tôi ở thị ủy thị xã Sơn Tây lấy làm lạ sao tôi lại quen anh Thử. Chú ấy hỏi lại tôi như không tin: 

“Bác Thử đã học trường Nguyễn ái Quốc với anh à? Bác ấy hiền lắm”

Thế là tôi đi Thái Bình. Có lẽ như thế còn biết cái gì hơn - như tôi đã bảo Thử. Nhưng cái chính là hai năm bó cẳng không đi đâu, tôi muốn đi xa xa, đâu cũng được. Chỉ thế thôi. 

Tàu thủy Phà Đen về bến cầu Bo thị xã. Mấy năm rồi, vẫn thưa thót, vẫn vậy. Chỉ khác các tàu khách đều vào quốc doanh. Vẫn những cái tàu ọp ẹp từ thời thoát bom Đồng Minh ném, vỏ tầu trắng bệch như con cành cạch chết xác đã khô. Trên vách tàu, chỗ bẻ lái, treo cái bảng đề tên kíp lái, kíp trực. Dưới sàn, không thấy như hồi tàu còn ông chủ, có một mâm mờ lồng bàn ra, đĩa thịt gà, chai rượu, nồi cháo ăn sáng. Hai bên hàng tàu vẫn người xuống đông từ lúc chưa tan sương. Có vài người như cán bộ đi công tác xuống bến cuối. Còn vẫn vài ba bến người xuống người lên hai bên sông, người buôn về thành phố, người đem hàng đi các chợ quê. Những quảy sắn, cả bánh đa, miến dong riềng, phuy dầu tây, nhiều nhất những đệp túi đựng quần áo may sẵn mua lại của nhà mậu bách hóa. 

Đôi khi cả tay nải lèm những cái nịt vú bằng miếng sốp bọc ni lông đỏ, không biết đã mua ở nhà mậu hay cất hàng ở các lò khâu. 

Cái thị xã ngủ yên vẫn bên đường mọc cỏ xanh lì và vườn hoang um tùm, chỉ lác đác nhà. Bến ô tô đã sáng đèn, tôi vào hàng cơm. Tối rồi mà quán nào cũng toàn đùi chó, sườn chó treo lủng lẳng. Chủ quán nói: “Cả tỉnh đương triệt để chó mà". Tôi ăn một bát bún chó rựa mận. Lại đến nhà trọ năm trước. Tiêu điều, lụp xụp, những cái mái giấy dầu sắp đổ. Chị chủ trọ lại lấy cái thừng cho tôi buộc cái khung xe vào thành giường. Tôi lại bỏ đôi dép râu vào ba lô để trong màn, cũng như lần trước. Sớm hôm sau, tôi về Thái Ninh. 

Đã xế trưa, nắng ấm. ở trên đê nhìn xuống xóm Đồng lố nhố một đám người đương kéo ra. Như bọn đi đánh dậm, không phải người làm đồng. Những cánh ruộng đã gặt quang, một màu chân rạ đen xạm. Chưa một khoảnh nào bừa vào mùa. 

Đến gần thì trông rõ bọn ấy vác những đồ nghề nấu rượu. Hai chiếc đòn ngang bằng con sào buộc cái mu rùa, người khênh quàng vai những xâu men rượu trắng như bỏng ngô. Lại mấy cái nồi ba mươi, chảo gang bôông bêêng, lũ người bước lẫn lộn. Ai cũng hăm hở, đùa cười, đuổi nhau loạn xạ. Ngỡ như họ đổi bếp đem lò rượu sang nấu bên kia bãi. Tôi hỏi, mấy người cười rầm lên: “Bắt rượu! Bắt thằng nấu rượu nộp lên huyện. Không trông thấy xã đội trưởng đeo túi dết vác cái ống trúc cất rưọu đi đằng trước à?”. 

Mới nhớ đương cấm rượu bắt rượu dáo diết. Dáo diết nhưng chẳng làm ai khiếp sợ. Ngày trước Tây đoan về khám rượu, cả xóm cả làng đâu ngồi đấy, không ai dám thò chân ra cổng. Bác Cả tôi, thày đồ ngồi bảo học ở nhà, lính đoan vào thuốn lên hóc cột, mái nhà, bói đất luống rau cải, nghi chôn rượu, chôn bã. Rồi được tang vật thì trói đi một xâu người. Bây giờ bắt rượu đem lên huyện như đám rước. Người mang vác tang vật đi lẫn với người nấu rượu, chẳng biết ai phạm pháp, ai đi xem. Như phường chèo đi làng xa hát đám, như lò vật trảy hội. 

Bắt rượu rồi phạt rồi lại bỏ đấy. ở Hà Nội làm nghiêm thế mà cũng như trò đùa. Tôi sẵn thành kiến về bắt rượu lậu ơ hờ từ những cái trông thấy ở Hà Nội. Báo đăng tin bắt được rượu lậu cả trong xe cứu thương. Rượu giấu trong xe cấp cứu thì thọ quá. Chẳng biết ở chỗ nào, ông lái đã nếm, cái thèm uống vụng ăn vụng, cứ ngứa ngáy thòm thèm, có thế mới thò đầu ra cười cợt với người gác cầu. Ông lái lên cầu Long Biên, mặt rượu đỏ gay, vẫy tay cười hê hê vẫy anh công an gác cầu. Cái xe bị ách lại. Trong xe kính màu, một ả nằm ngửa trên cáng thương, dưới lưng đệm một bọc rượu. Chẳng phải đọc báo, tôi cũng thường thấy ở quán nước bả hàng cạnh bến xe Kim Liên, có hôm Đăng Đình Hưng đeo bị rượu đến bán, có hôm một cô quang gánh ở ngoại ô vào, thoạt trông tưởng bán miến dong riềng. Cô hàng cũng như lái rượu Đặng Đình Hưng cứ bước tự nhiên vào gian trong. Rượu đựng vào miếng ni lông Trung Quốc xanh lá cây đong ra. Lại cáì xe cấp cứu màu hàng sữa của bệnh viện huyện in chữ thập đỏ hai bên sườn đậu chỗ rặng cây si bờ hồ đằng kia. Xe rượu đấy, có hôm ở quán 81 lại thấy cô nọ xách tải rượu vào, đặt đấy rồỉ ra. Cấm thì cấm, người bán rượu các phố cứ như thoi đưa. 

Trong đám khuân đồ nghề rượu có tiếng gọi ra: 

- Anh Tư, anh... 

Trên dốc trông xuống, thì là ông Ngải. Ông Ngải đeo vai một tràng lủng củng, lởm nhởm những miếng gỗ quai guốc. Ông Ngải cũng trong bọn vác mướn hay ông bị bắt rượu. Trông ông không khác năm trước mảy nào. Cổ ông xạm nắng nhưng mặt vẫn nhọt nhạt thế. 

Ông Ngải luống cuống hỏi: 

- Anh về chơi à? Một mình à? ở nhà có cái Hến. Tôi về ngay bây giờ... 

Bọn người tất tưởi đem các thứ đồ nghề rượu lên trụ sở ủy ban xã. Ông Ngải nói "tôi về ngay”, chắc ông không phải chủ bị bắt rượu. Thiếu đâu người mà lại lôi ông lão làm dân công vác rượu. 

Vẫn bụi tre lép giứa mảnh đất phẳng quanh chân tre, lưng tre nhẵn thín lốt người tựa lưng hay con trâu cọ thành bụng vào. Có một mình cái Hến trong nhà. Cái Hến thì khác, năm nao còn là đứa trẻ mới lớn nay đã sồ sề mặc cái áo bộ đội tàu tàu. Người con gái không có thì con gái. Hến ngồi ngoài bóng nắng. 

Cái lược bí đương chải chấy dừng lại giửa làn tóc, khi thấy người bước vào. Trong nhà, chiếc võng lắc lư mảnh vải hoa. 

- Chào cô Hến. 

Tôi chào to thế, nhưng bụng lại thầm mong mình nhầm. Tưởng như mới gà gáy tan canh, bà Ngải vào cạnh giường: “Trỗi! Trỗi. Sáng rồi! Sáng rồi! ” Quát mấy chặp cái Hến mới lạt xạt cựa quậy. Có hôm cái Hến nhờ tôi khiêng với nó buồng chuối tây ngoài vườn. 

Buồng chuối chẳng nặng, nhưng xách thì cồng kềnh. 

Tôi phải gọi “chú Phùng Quán” ở trong nhà ra ghé vai giúp. Bởi cái vai thờ của tôi, nhỡ một cái, gãy quả chuối của người ta. Vai thì vai thờ, chân tay thì thừa, người vô tích sự. Cái năm ở Nông Cống, quảy nước làm vỡ nồi. Vội ra chợ Nưa mua đền cái nồi mới. Quảy thứ, nước vẫn chảy tong tỏng. Cô Đăng soi nồi lên nhìn rõ lỗ châm kim. Cô Đăng nói: “Anh mua nhầm cái nồi thủng. Bận sau mua nồi phải soi lên xem thế này.”

Chắc chẳng bao giờ trong đời tôi có lần nào đi mua nồi nữa. Tôi cũng chắc là tôi khác Đặng Đình Hưng, dẫu các nơi sôi nổi văn nghệ sĩ đi thực tế, cũng không ai bảo Hưng đi, Hưng ở nhà buôn rượu kiếm cái sống, cái uống. Hưng không vụng như Trần Đức Thảo chăn bò nông trường Ba Vì. Có thư cơ quan gọi Thảo về, nông trường cho về ngay. Không biết đàn bò gần móp bụng ngày ngày Thảo dồn đi dồn về đã thiếu mấy con, con nào bị hổ vồ, mấy con bị trộm dắt mất. 

Nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và nhà triết học Trần Đức Thảo không biết nhau, đấy là tôi quen hai người. 

Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí hoài, mà tôi chứng kiến. 

Khi đó, ở Trung ương trên Việt Bắc, nhiều cơ quan đương chỉnh huấn, theo cách làm của các tỉnh Hoa Nam - mà chúng tôi gọi là phương pháp Hoa Nam. 

Không có chuyên gia nước ngoài, nhưng cán bộ giáo vụ mặc áo bông ngắn bọc vải xanh Sỹ Lâm ra lối ta mới học tập bên kia về. Tôi cũng dự cái khóa ba tháng đầu tiên theo phương pháp ấy. Cán bộ đèn sách khóa này rồi tỏa khắp các chiến khu, có đoàn vào chiến trường miền Nam mới đến khu Nam Trung Bộ thì hiệp định Giơnevơ được ký kết lại quay ra. Đặng Đình Hưng công tác ở ban tuyên nghiên huấn giáo chuyên làm giáo vụ các lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Không nhớ Hưng có mặc áo bông xanh Sỹ Lâm không, bấy giờ Đặng Đình Hưng cũng là nhạc sĩ, tác giả bài hát Nông dân là quân chủ lực. Nhưng chưa khi nào tôi nghe ở đâu hát bài ấy. 

Về Hà Nội tôi cũng không gặp. Tôi chỉ biết Hưng có rắc rối về chuyện vợ, mà tôi làm công tác đảng ủy, chắc Hưng có ý tránh mặt. Bấy giờ các chuyên ngành văn, họa, nhạc, sân khấu, kiến trúc đã tách ra thành lập các hội riêng. Cũng không biết rồi tại thế nào mà

Đặng Đình Hưng vướng vào Nhân Văn. ở hội nhạc, Đặng Đình Hưng đã bị ra khỏi biên chế, Hưng không đi hay là không được đi họp chi bộ, thế là mất cả đảng tịch. Bây giờ dịch tài liệu cho cơ quan ăn tiền bài. Khi đó đã giao thiệp với ngoài mấy đâu mà có cái để dịch và Hưng chỉ biết tiếng Pháp. Nghe nói Hưng đi cất rưọu quê đem ra bán các quán. Một hôm, gặp Hưng. Khác hẳn trước, không còn râu hùm hàm én, cán bộ tuyên nghiên huấn trợn mắt giơ tay phát biểu choang choác. ở một quán nước bán rượu chui, chỗ trông sang rạp xiếc cạnh công viên Thống Nhất. Một người mặc áo ka ki đại cán cháo lòng, đội cái mũ dạ rúm ró. Lấm láp như người đánh dậm ngoài cầu Giẽ vác cả cái dậm lên tận phố. Nhưng không. Người ấy khoác một cái bị cói lẳng lặng bước vào nhà trong. Thông thường, đấy là khách mua bán dấm dúi. Qua trước ghế tôi ngồi, cạnh bà hàng nước, người ấy cất tiếng nghe quen quen: 

- Chào ông anh.. 

Tôi ngầng lên, nhìn ra Hưng. Hưng ngồi ngay xuống với tôi. Hưng lấy trong bị ra một chai rượu trắng. Hưng nói vừa đứng đắn vừa chót nhả, tự nhiên như vẫn gặp nhau thường ngày. 

- Chẳng nói giấu ông anh, dạo này thằng em đét lắm. Lấy cái này tận quê ra, vừa bán vừa ghé gẩm đôi ba chén. Để cho ông anh một chai, thật cái tăm Chương Mỹ đấy. 

Rồi Hưng đặt kín đáo chai rượu dưới gầm bàn, bên chân tôi. Tôi hỏi bao nhiêu. Hưng nói “chỉ xin giá vốn thôi". Tôi đưa trả tiền Hưng như xưa nay vẫn sòng phẳng gọn ghẽ thế, chuyện tiền bạc thì Hưng rành rọt tính đếm thạo. Hưng đã kể ngày trước vị Hồ Đắc Điềm quan tổng đốc trẻ Hà Đông đã gọi Hưng làm chân thầu cơm trại lính khố xanh. Và Hưng vẫn nhớ tôi biết ở lớp chỉnh huấn cho họa sĩ trường Mỹ Thuật đóng ở huyện Yên Bình một hôm lên lớp, cán bộ Hưng mất đôi dép râu để dưới thang nhà sàn. Hưng bắt cơ quan phải đền vì “đôi dép đã bị mất khi công tác". Những chuyện bình thường đã tháo vát lại cũng lơ mơ, như hôm ấy Hưng nhận tiền chai rượu rồi lại ngồi thịt luôn chai ấy với đĩa lạc luộc, quên cả đưa rượu bán, rồi bà chủ quán phải hỏi. Rồi quá chén, Hưng đi khật khưỡng, tôi phải đỡ vai, Hưng bảo đưa về một nhà ở phố Nguyễn Thượng Hiền sau lưng gần đấy, Hưng bước thẳng đến chân cầu thang cuốn lan can gô, cả người với cái bị chai không và chiếc mũ bật ra, Hưng rụi xuống ngay chân tường. Nhà quen, Hưng vẫn tá túc ở chỗ ấy. 

Tôi quen Trần Đức Thảo ở lớp chỉnh huấn trí thức trên rừng huyện Chiêm Hóa. Thảo ở Pháp về rồi từ Hà Nội lên Việt Bắc. Thảo mặc quân áo nâu, đội mũ lá gồi; đeo xắc cốt vải chàm đã xin hay mua được của bà con người Tày, người Dao trong làng. “Tớ phải thế này cho kịp các cậu” - đôi măt kính cũng cười lấp lánh. 

Chẳng biết rồi còn bao nhiêu đêm Thảo không nằm màn mới kịp chúng tôi để đến được những cơn sốt rét mặt bủng rứ. 

Về Hà Nội mới gặp lại Thảo. Thảo vừa đi công tác Bắc âu về, đội mũ phớt, rõ ra Tây. Nhưng vẫn áo đại cán may ở Thái Nguyên, trước khi về tiếp quản Hà Nôi. Bộ ka ki xi măng này tôi còn thấy Thao mặc đến khi sờn cả cửa tay. 

Mới gặp, tôi đã lạ và phục Trần Đức Thảo. Vì nghe đồn ở Pari, Thảo đã là bạn và tranh luận triết học với văn hào Giăng Pônsác. Lại nghe nói triết của Thảo đã phát hiện và có những phân tích mới về chức năng hai bàn tay trong quá trình từ con vượn lên con người. 

Nhưng tôi gần Thảo hơn không phải chuyện nghe hơi tiếng tăm và cái triết lý hai bàn tay vượn người. Chúng tôi chuyện về Hà Nội ngày trước. Thảo bảo thuở bé học trường Cửa Đông, nhà ở phố Hàng Đường. Trường Cửa Đông tôi đã thi vào lớp bét mà trượt, bấy giờ tôi ở Hàng Mã. Rồi sau tôi đi làm hiệu giày Bata. Thảo kể thì tôi nhận ra nhà Thảo là chỗ nhà bưu điện tư, ngoài cửa để ghé cái tủ kính bán tạp hóa và giày Bata. Hàng tháng tôi đi tính sổ các đại lý bán giầy ở Hàng đường, Hàng Bông. Thế là tôi ngỡ như đã biết Thảo từ thuở ấy. Tôi bảo: “Tớ còn nhớ ông cụ nhà cậu. Ông cụ người đẫy, đeo kính hay thắt cà vạt đen, ngồi trong quầy bán tem sau tấm kính". 

Tôi hỏi Thảo: 

- Bên Thụy Điển, bên Bắc âu có gì hay không? 

Thảo nói: 

- Mua được cái chăn, tuyệt lắm. Lông ngỗng hay lông chim, nhẹ chỉ độ một cân, đi công tác rất tiện. 

Thảo cho xem cái chăn lông chim của anh mà chắc anh lý thú nên mang đến tận nhà tôi. Lại biểu diễn luôn ở trên giưòng tôi cạnh bàn viết. Anh mở cái chăn màu vàng nhạt, kéo khuy bấm nằm thu lu vào giữa, dưới gáy sẵn cái gối thòi ra. Trông người nằm gói trong chăn, cái chăn màu vàng tôi nhớ ngày trước, đi đêm trong thành phố Sài Gòn hay gặp người nằm ngủ trong cái nóp trên vỉa hè. Tự nhiên, nghĩ đến cái triết lý bàn tay khi thấy anh hể hả chui vào rồi gấp chăn mở chăn cho tôi xem. 

- Cái này để đi công tác. 

- Cho mượn nhé. 

- Đi đâu cứ lấy. 

- Đùa thôi. Bó không chịu được. Tờ hay đạp, hay gãi. 

Thảo không nói. Thảo không cắt nghĩa thêm cho tôi về những cái tôi ngại, chắc anh biết thế là tôi chê. 

Nhưng mà đấy là Trần Đức Thảo, cái chăn Na Uy, Thụy Điển gì ở Hà Nội hay bộ quần áo nâu và cái túi chàm ở Việt Bắc thì vẫn một người áy. Lâu lâu mới lại trông thấy Đặng Đình Hưng. Nhưng tôi biết tin Hưng ốm, phải mổ phổi. ốm đau, bè bạn thì trông vào ai, bản thân thì bị vứt đi rồi nhưng mà có mả cứu bần, dạo này Hưng được Đặng Thái Sơn gửi tiền cho. Đã ra viện và bình thường. Thế nhưng chợt trông thấy cũng không khỏi ngạc nhiên. Hưng ở cái chợ cóc bên đường Giảng Võ đi ra, tay vung vẩy một mớ rau muống. Không còn ốm o mảy may, người mới hiên ngang làm sao. Đầu đội mũ nan cao bồi Nam

Mỹ rộng vành bóng nhoáng, áo sơ mi thể thao hồng xẫm có cầu vai, quần bó xắn gấu. Đôi giày da có cổ màu gan gà vàng bóng, gót cao đến năm đốt ngón tay. 

Hưng đi đĩnh đạc như thả chân đếm từng bước giày chắc chắn. Mặt đẫy đà đỏ đắn, màu rượu hay là đương thuốc bổ. 

Khác lạ thế, nhưng tôi nhận ra Hưng ngay. Tôi chạy sang đường. Mắt Hưng vẫn nhanh loang loáng. 

Hưng giơ bó rau muống, reo to: 

- A, ông anh. Nhà em gần đây, vào chơi cái đã. 

Đặng Thái Sơn mua của nhà nước cho bố một căn hộ mười sáu thước vuông, lại tậu cả điện thoại. ở tầng hai, trên lưng cửa hàng bách hóa nhà mậu Giảng Võ. 

Qua hai ba lần khóa dãy, khóa cửa mới vào tới gian hai buồng tối âm thầm có một lỗ cửa sổ trổ xuống đường treo miếng mành mành, tựa cái cửa ngăn ở khoang thuyền. Khách đứng dưới đường gọi. Chủ nhìn trong mành ra xem ai. Không muốn gặp thì không lên tiếng, mặc cho gọi. 

Cả sàn nhà trải chiếu mộc. Không bàn ghế. “Như thế này hay. Lăn chỗ nào cũng được".- Hưng nháy mắt, nói thế. Trên cái bục gỗ áp tường gian ngoài bày bình hương trước bức ảnh truyền thần hình ông già chít khăn, râu ba chòm, chắc ảnh cụ thân sinh. 

Trong nhà ra mở cửa, một cô dong dỏng người. Hưng không giới thiệu, và tôi cũng đã đoán biết đại khái thế, đại khái vậy. Tôi nói thế này;

- Cô để ông ấy đi chợ vác có mỗi mớ rau muống? 

Cô cười: 

- Người khó tính lắm ạ. Đòi phải mua rau lấy người mới xơi được. Nhưng người khôn lắm, không đòi luộc lấy. 

- Nhà nó chỉ biết mua rau muống lợn. Nhà mà luộc thì tôi cũng ăn chiếu cố. 

Nàng trẩu môi: 

- Thế thì chiếu cố cả đời. 

Hai người còn nói năng ỡm ở những gì nữa rồi Hưng vào khay rượu trong góc nhà, nhấc ra cái chai trong cùng. 

- Có chai đầy chai vơi là ý tứ cả đấy, không lộn xộn đâu. Rượu chợ thì thằng em bày đám ngoài cho các bợm uống boóng. Còn anh em ta làm cái này, cũng Chương Mỹ, nhưng mà hảo, tố hảo.. 

Hưng cắt nghĩa nguồn tiền mua rượu: 

- Nhờ nó cả. Nhưng ở bên ấy thì nó cũng phải đi làm chứ có maphia đi cướp nhà băng đâu. Đủ tiền ăn và thuốc men, nó gửi ngữ, gửi tháng thôi. Nhưng mà cái ngữ, cái tháng của người ta... 

Tôi không muốn nghe những chuyện ấy, tôi hỏi: 

- Lái đem rượu trong quê ra? 

- Chứ em ốm đau đi sao được! Thánh thiên tử lắm, hơn đứt rượu Tây.. 

Hưng giữ tôi lại ăn cơm. Tôi bảo để khi khác. Hưng trịnh trọng: 

- Ông anh, ông là anh tôi. Ông là học trò lớp bét trường Yên Phụ học thày Đặng Đình Hướng anh ruột tôi, ông là người nhà tôi rồi. Ông đã có một quyển sách để đời. Còn thằng em ngần này tuổi mà còn đương bơi, không biết bơi vào chữ hay vào màu. 

Những câu ấy Hưng cũng hay tụng tôi mỗi lần gặp. 

Tôi hẹn, nhưng ngay lúc ấy cũng ngồi làm mấy chén vui. Hưng lại tán cái này rượu quê ngâm củ ba kích. 

- Cái trong kia, dái dê với ba kích thì lên một bậc nữa. Ông anh hãy nếm ba kích. 

Tôi cười: 

- Năm trước, nhạc sĩ Hồ Bông đã cho chén dái dê ở Sài Gờn. Chẳng ăn thua mẹ gì. 

- Không, dái dê của thằng em thửa, đủ tháng đủ năm không già không trẻ. Nhưng ông anh xơi cái nam y ba kích này đã, xem máu huyết dẫn đến đâu rồi hãy sực cái thằng hùng hổ hơn. Em trông tạng ông anh thì ba kích là vừa. 

Rượu ba kích hăng hăng, ngái ngái. Hôm sau, cái cô thổi cơm bữa trước ở nhà Hưng đèo xe đạp đem cho tôi một bó củ ba kích tươi như mới đào ở vườn thuốc lên. Có củ to bằng củ cải. Tôi hỏi đùa: “Cái này ăn sống có được không, hả cô?”. Cô ấy trả lời ngúng nguẩy: “Những của quỉ này, em biết đâu". 

Tôi cũng không nhớ mớ ba kích tươi ấy rồi tôi cứ thế ăn sống, tôi bổ ra phơi khô hay tôi vứt đi. Vài hôm, tôi lại được Hưng gửi cho một bó ba kích. Mỗi lần lại một cô khác đem tới. Và khi đến chơi nhà Hưng, có hôm thấy vắng vẻ, tôi hỏi: “Các nàng ba kích đâu cả rồi?”. 

Hôm ấy, tôi rủ Vạn Lịch, chúng tôi đem đến một bọc thịt chó - mua ngay ở chợ Giảng Võ. Hưng cho ăn rồi hay chửi những thằng ăn vọ, tôi giữ ý không đến tay không. Hưng đúng hẹn, lúc chúng tôi tới, cả ả người thanh mảnh đương mổ con ngan hay con ngỗng dưới bếp. Tối ấy, cuộc chén thêm nhạc sĩ Huy Du, nhà ở gần. Và cả cô đầu bếp. Con gái phường phố bây giờ lắm cô đã đoảng lại hư. Hai cẳng chân lão đã lạnh lên tận đầu gối mà chúng họ vẫn lăn vào.
1           3      4      5      6      7      8

1 nhận xét:

  1. Thật sự văn Cụ Tô Hoài tôi mê từ thời Dế mèn phưu luu ký. Cảm ơn ad

    Trả lờiXóa