Đầu mùa đông 1957, tôi đi Matxcơva, dự hội nghị quốc tế về văn học
thiếu nhi. Người dịch tiếng Nga cho tôi là Marian Tkchôp. Năm ấy, Marich trên
hai mươi tuổi đôi chút. Tốt nghiệp khoa tiếng Việt ở Matxcơva rồi làm việc ban
đối ngoại hội Nhà Văn Liên Xô. Thoạt trông, tưởng người ít ra đã trạc bốn mươi.
Một lọn tóc vắt che trán hói lên gần đỉnh đầu, cái đuôi tóc còn thừa thòng lòng
ra đằng gáy. Vừng trán cao phẳng lặng thật lạc lõng với người trẻ tuổi mới có
người yêu.
Năm 1994, ngót bốn mươi năm sau, một hôm chúng
tôi ngồi trên gác nhà hàng Cây sấu gần hồ Hoàn Kiếm. Cái đầu hói của Marich vẫn
thế. Vẫn cái trán lồng lộng như ngày còn trẻ. Chỉ khác đã lâu mất chiếc đuôi
tóc hắt lên che trán. Vẫn như từ thuở trước nhưng giờ không cần che nữa.
Marich đi với nhà văn
Ke Babaep cao lớn đội mũ nan ra ga xe lửa đón. Ke Babaep, người nước cộng hoà
Tuyếcmêni. Ban Thường vụ Hội Nhà Văn Liên Xô có chế độ làm việc luân phiên, uỷ
viên thường vụ các nước cộng hoà mỗi năm về Matscơva thường trực ba tháng.
Tôi vừa đi chuyến tàu
hoả mười ba đêm ngày, từ Hà Nội lên Bắc Kinh qua mênh mông rầu rĩ rừng taiga
Sibêri tới Matxcơva. Ba ngày tàu Trung Quốc cơm với măng xào nấm, lạ miệng
nhưng ăn được. Mười hôm tàu Nga, bánh mì đen, thịt băm viên súp cải bắp, đã
chối đến ngắc ngư. Bữa ăn bán phiếu theo vé, chỉ bia Thanh Đảo, bia Matxcơva
mua được bằng tiền Tàu, tiền Nga. Thanh Đảo chỉ có chai to- hãng bia ra đời từ
đầu thế kỷ vẫn một kích cỡ ấy tới giờ.
Qua sông Tùng Hoa chập
chờn ngước lên nhìn quan ải Sơn Hải cheo leo núi đỏ từng tảng đến xa mờ, những
chơi vơi đồn luỹ Trường thành đầu tiên, hơm năm trăm dặm nữa tới Gia Cốc quan,
con đường Tơ Lụa đời Tần vắt ngang đấy sang châu âu đã từ nghìn năm trước.
Sibêri cuối thu, tuyết
xuống tơi tả. Những vòm cối sắt nâng tàu thay bánh ở Dabaican. Chốc lát, cả đoàn
tàu đứng dừng như sắp lút trong tuyết, chỉ đen săm nhô lên mấy cái cọc sắt.
Tuần lễ sau đến Matxcơva, tuyết bắt đầu đóng băng như những miếng kính, người
lội trong bùn trắng. Khách sạn Ukraina trông xuống sông Matxcơva, những buổi
sáng từng mảng băng mỏng đọng trên mặt nước.
Cũng một cảnh, một việc
ấy, nhưng thời gian qua đi lặng lẽ mà dữ dội. Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã
trên bảy mươi tuổi. Tôi biết Người từ tuổi thanh niên, bây giờ, hôm nay bỗng
nhiên tên Người bị xoá địa giới trên bản đồ. Làm sao mỗi chốc có thể dửng dưng.
Phút chốc ai kia coi
như ván bài tú lơ khơ, cái người mà trong chiến tranh thế giới lần thứ hai mới
lên mười, mẹ dắt chạy giặc vào Trung á. Goócbachôp bằng tuổi Marich. Marich
thường kể khi tản cư thèm đường hay ăn vụng đường phiếu. Nó bỏ chế độ của nó
như cất bàn cờ. Thế mà năm ngoái Goócbachôp lại ra ứng cử tổng thống. Nước Nga
đã nhổ vào mặt anh ta. Goócbachôp không được nổi 0, 51 phần trăm phiếu bầu!
Hôm trước, sang ga Nội
Bài đi Sài Gòn. Thấy trên sân bay đậu những chiếc máy bay Nga. Vẫn cái Airbus
87 và những họ hàng Tu, Il, An... nhưng thấy thiếu, thấy vướng thế nào. Mới nhớ
ra bên cạnh chữ Aeroflot, cái chỗ trống ở dưới dạo trước vẽ hình búa liềm. Bao
nhiêu năm đã nhìn cái hoa nở như thế. Cũng như tôi thật khó chịu – tất nhiên,
một khó chịu vô lý, người ngoặc ra ngoặc vào cạnh chữ Liên Xô thêm chữ cũ. ừ
thì là cũ, là đã qua, nhưng trong tâm tưởng tôi, tôi không biết có chữ ấy.
Trông cái 87 ở sân bay
Nội Bài không hình búa liềm ngỡ như cái máy bay vừa bị cướp, quả là chúng nó
quân cướp ngày. Đã quen thuộc anh em IL, đi đâu đâu rồi về qua sân bay
Sêrêmêthêvô 2, đã như đến Gia Lâm, Nội Bài nhà mình. Sáng sớm, đêm khuya, đoán
được cả quãng máy bay sắp xiết bánh xuống đường băng lấy đà cất cánh.
Cái IL 18 bốn cánh quạt
đến Hà Nội từ khi Nội Bài còn là sân bay dã chiến và chưa hẳn hoi thành bãi ga
trời giao du ra ngoài. ở Gia Lâm, tôi đáp chiếc Aigle d Adzur mà ủy ban Quốc tế
thuê của Pháp đi vòng Đông Dương mỗi tuần, lần ấy sang Pnôm Pênh. Trở lại Hà
Nội, các con tôi kể bà Năm và chúng nó đi tiễn, máy bay lên rồi về nhà bà Năm
ra chợ Hôm mua hương hoa về cúng cầu bình yên cho tôi. Chẳng như sau này, máy
bay như con thoi một lèo Hà Nội- Matxcơva rồi Hà Nội, Nam Ninh, Trường Sa, Bắc
Kinh- Iếc Cút, Ômsơ. IL 18 ngắn hơi hơn đỗ quãng một, nghỉ ăn ở Trường Sa, ở
Tatsken. Những mùa đông gặp bão tuyết, có khi chờ bão tan ở Sveclôp, ở Iếc Cút
mấy ngày đêm. Chẳng sao, máy bay nhà. Có hôm sắp tới Matxcơva lại ngược lên đỗ
Lêningrat. Sau mới biết có máy bay ở Kiep lên đáp xuống đâm vào rừng thông, sân
bay phải đóng cửa.
Tôi đến Matxcơva ngót
nửa thế kỷ sau Cách Mạng Tháng Mười Nga. Không biết quang cảnh và sinh hoạt
Matxcơva ngày trước thế nào, nhưng những năm này đã mỗi năm mỗi khác. Chặp tối,
ánh sáng điện hè phố như tạnh ráo hẳn. Những hạt tuyết khô bay loăng quăng, ràn
rạt vào mặt, thế là sắp lạnh nữa, chỉ vài hôm thì băng đóng kín trên sông. Rồi
trong chốc lát, trời lại xạm ngắt, mưa tuyết trơn ướt tơi bời. Sân bay vẫn
đóng, không phải vì mới xảy tai nạn, mà thời tiết dữ quá, máy bay không cất
cánh được.
Ngoài đường đã thưa
ngươi mặc đồng phục đội mũ lừỡi trai, nhưng váy áo vẫn tương tự. Mùa lạnh, áo
lông đen khoác, áo bông ô quả trám, mũ hai tai có dây buộc. Những cô gái Nga
mặc quần phăng, các ông gác cửa không cho vào khách sạn. Nhưng tối đến thì tha
hồ. Phòng ăn đông từ chặp tối, cả sàn nhảy giữa nhà. Các bà váy loà xoà đi qua
sàn gỗ chưa có nhạc thì nhún chân.
Nền nếp ăn mặc thời ấy
ở Matxcơva vừa phải với quần áo của tôi mà bộ Tài Chính cho mượn, cho thuê. Mũ
lông, ủng da ủng nhựa, những cái áo khoác giả lông cừu nặng như cùm. Bởi có mấy
khi đi đâu và tiền đâu mà sắm, hàng đoàn cả chục, mấy chục người ở đồng ruộng
về chỉ đi dăm bữa nửa tháng thì nhà nước tất phảỉ lo. Tôi mượn Hoàng Cầm cái va
li tô tổ bố. Không biết tại sao lão có cái va li da bò bự thế. Chắc của Hoàng
Yến vợ lão. Nhưng hôm đến kho thử mỗi thứ một bộ, vừa cái va li giấy nhỏ, tôi
đem trả anh.
Trong các bạn có dịp ra
nước ngoài, Nguyễn Tuân không đến kho quần áo. Ông mượn của người có quần áo
tốt, sau đó ông đã sắm cho ông lần đầu tiên đi Hensênhky, một bộ comlê chững
chạc. Ông không coi thường cái kho, mà ông sợ. Những cái sơ mi trắng được đánh
dấu bằng phẩm đen in hai chữ TC (tài chính) to tướng đằng lưng áo, ông đã hãi,
ông miêu tả cả đoàn đại biểu áo sơ mi của ai cũng có cái dấu đằng lưng thế. Đôi
giày, cái píp, cái can, cái cà vạt, các bạn Hà Nội lịch sự biếu ông hoặc cho
mượn không bao giờ đòi. Có điều, không thấy ông Thiếu quê hương dán vào va li
những mảnh bảng tên nhà ga, khách sạn các nơi đã đi qua. Ngày trước chẳng được
xê dịch bao nhiêu, chỉ giang hồ trong sách, thì ông cho nhân vật Bạch cái thú
dán nhãn phiêu lưu như thế.
Cái kho quần áo nhà
nước to dần, bộ mặt thay đổi Đến kho mượn, rồi sau không cho mượn mà nhà nước
cho thuê. Khi đem trả, nhà kho soát lại, quần có lỗ thủng tàn thuốc lá, rách sơ
mi hay ố bẩn đều phải đền. Hồi đầu, kho cho mượn cả thứ lặt vặt mùi xoa, bít
tất, áo quần lót... Nhưng gíày không có dây.
Cả thành phố không đâu
bán dây giày và hộp kem. Tôi lại phải xin đôi dây giầy và mượn cái cà vạt của
Nguyễn Văn Bổng, người hay chơi giày và cà vạt.
Kho quần áo những năm
đầu chỉ một phòng, hai người thay nhau trông nom. Khách đến khách đi với ông
coi kho trò chuyện, quen mặt. Đến khi kho dọn về đường Thái Hà đã thành lớp nhà
tường bao cao cao như kho gạo, người nhộn nhịp, kho giày kho mũ và khăn quàng ở
bên kia, ngoài cổng chính có phòng thường trực.
Ngày kho còn ở phố
trên, có một ông già người khu Năm- mà tôi không sành tiếng, không phân biệt
được ông người tỉnh nào. Chiếc khăn mặt bông được phát ở Sầm Sơn cái ngày dưới
tàu tập kết lên, ông vẫn giữ, vắt trên lao màn dầu giường. Cái giường của ông
ấy những đêm trực kê sau cánh cửa, khuất một mảnh ván gỗ. Cán bộ cao cấp đến
thử áo, giầy, lấy các thứ mượn bỏ vào va li, có người xách về sau. Một đoàn
người, nông dân công nhân đi công tác, tham quan, sắp hàng đôi bước đều, mỗi
người ôm cái va li trước ngực. Tôi không biết mọi người đến đây thoải mái hay
khó khăn thế nào. Tôi chẳng khi nào có gì phàn nàn, mà phàn nàn vào đâu. Ông
coi kho lần nào đến cũng bắt tay tôi chặt chẽ, thân mật như người cơ quan.
Ông ấy hóp má gầy gùa,
da nhăn nheo ngăm ngăm đen. Đầu bạc, nhưng húi cua, chỉ thấy chân tóc lấp lánh.
Hai bàn tay gồ ghề xem chừng chẳng quen thuộc với những của hàng hóa trong kho.
Nhưng ông trật tự ngay ngắn có sách của ông ấy, một cái khăn thủng, một cái
khuy đứt cũng không qua được mắt ông. Ông hỏi tôi:
- Lần này đồng chí đi
bao nhiêu ngày?
- Hai tuần.
- Hai tuần thì lĩnh một
bộ vét, hai áo sơ mi, một đôi giày màu nào thì đồng chí vào kho chọn.
Lần khác, tôi nói: “Đi
sáu tuần, bên ấy có tuyết rét lắm", thì ông bảo: “Hơn một tháng thì được
mượn hai bộ, hai sơ mi. Rét thì áo dạ khoác, mũ lông mỗi thứ một cái". Ông
lão chẳng cần xem giấy tờ, mà cũng bởi có đi đến mấy tháng cũng chỉ một đôi
giày, hai sơ mi, lấy các thứ xong đem mở va li trước mặt ông coi rồi ông mới
đưa chìa khoá. Cái dây thép vắt cà vạt loè loẹt loăn xoăn như những dải rút
màu, tôi cho qua. Vừa cà vạt bẩn mắt, vừa tôi có thành kiến người châu á thắt
cà vạt không đẹp.
Lấy va li trước rồi
xách sang kho quần áo, kho giầy. Chọn giầy mà khó. Không vì kiểu dáng hay màu,
mà cái bí mật của độ bền. Cái lần đi Rumani tôi nảy sáng kiến mượn đôi giày
mới, chưa ai xỏ chân. Đến lúc vấp một cái, mỏm giày há như cái hộp mở. Thì ra
người đóng giày ăn cắp, đóng mớm quá. May, đường phố Bucaret cũng lắm người vá
giày và cũng được bà phiên dịch Madari sốt sắng, đã mượn khâu lại, ngồi đợi và
lấy ngay. Lại kinh nghiệm mới, nên mượn đôi giày có người đã đi và còn có mã.
Ông giữ kho đi theo người mượn, ông hay hỏi rồi lại trả lời lấy “Được chưa?
Được rồi. Cái áo này thì mưa tuyết to mấy cũng không thủng được. Bên ấy rét thế
thì phải bít tất len, kho mới về bít tất len có cổ, đồng chí có lấy không?”
Cứ kể mượn nữa cũng
được, cánh hẩu mà. Nhưng đi về hai mươi cân không kể xách tay, mà xách tay cồng
kềnh quá bị đè ra cân thì rầy rà. Đây mới lượt đi, còn để chỗ cho về, về mới là
chính, bao nhiêu thứ đã tính toán, đã chờ mong. Thế thì phải phiên phiến. Tôi
vừa chọn, có khi ông lão chọn, lấy ra hộ. Chỉ có một lần tôi được cầm phiếu đi
hiệu may Tiến Thành, sắm bộ mới toanh- chuyến đi Campuchia 1963, cũng nhà nước
cho mượn, nhưng được cắt một bộ tôpican mới. Bộ đồ ấy khi về cũng toan khai là
đánh mất, rồi lại ngại, dẫu tôi cũng chẳng có bộ quần áo nào nên hồn.
Dần dà, sự trễ nải tạo
cho tôi một ý nghĩ và thói quen cho mình yên trí và được bằng lòng. Người Việt
Nam mặc Tây không ra mẽ gì. Vả lại, trên thế giới cái sự mốt là thích thú của
trai gái đương thì hay của người giao thiệp ngoại giao, kinh doanh. Còn ta mặc
thế nào thì cũng chẳng ai buồn để mắt. Lại nữa, khi có tuổi, người ta thường ăn
mặc theo kỷ niệm một thời, ở nước nào cũng gặp những ông già đội mũ phớt lệch,
gấu quần gấp lơvê, ve áo nhỏ, thắt lưng có dây treo, cà vạt đen, tay chống
can...
Tôi mua biếu ông lão
coi kho một cái mũ giả lông cừu lông gấu ở Matxcơva.
Tôi vừa đội thử lên đầu
ông, ông đã hỏi:
- Đồng chí trông có
được không?
Tôi đáp:
- Đẹp lắm. Như ông chăn
cừu.
Ông lão ấn cái chỏm mũ
xuống, nói:
- Ngày nào tôi cũng ắm
sửa cho người đi các nơi, chẳng khác đã đi các nơi, mình đã thuộc cả. Đấy, tôi
đội cái mũ tây vừa ngay. ở mà tàu thuỷ, tàu hoả biết cả rồi, chỉ chưa được ngồi
tàu bay, mà tàu bay thì cũng bay trên trời kia chứ gì, tôi nhìn thấy cả rồi.
- Đâu cũng chỉ có trời,
có biển, có đất thôi.
Ông lão im lặng rồi hỏi:
- Đồng chí đã trông
thấy tuyết, phải không?
Tôi đáp như một người
tai ngễnh ngãng:
- Khi nào có tuyết thì
người ta đội cái mũ này.
Ông xoay ngắm mũ, nét
mặt ông ngẩn ngơ. Không phải lúc nào ông cũng chỉ càu nhàu khó tính với người
ta. Không, ông nghĩ đến bao nhiêu cái chưa biết mà tưởng như đã biết. Ông mơ
mộng. Nắm tay cám ơn tôi, ông nói: “Đánh xong thằng Mỹ rồi, bao giờ tôi về quê,
chắc tôi được đi tàu bay". Tôi nói: “Và đội cái mũ lông này”. Ông cười, cả
hàm dưới không còn cái răng nào.
Ông lão hay nhăn nhó mà
hồn nhiên, chẳng mấy đám khách mà ông không cau có, làu bàu, nhưng ông vẫn tìm
từng cái khăn quàng và vác va ly hộ. Người thì ghét, người thì buồn cười cái
ông lão chỉ rúc xó nhà mà hay chuyện bên Tây bên Mỹ như đâu cũng đã biết. Tôi
biếu cái mũ, ông sướng ơ mặt, ông không biết cái mũ chẳng mấy tiền mà ông thấy
đẹp kỳ lạ đến thế, và cái chỗ của chiếc mũ ở va ly hay để túi cầm tay thì đêm
sau cùng đóng gói ra về mới công phu thử đi thử lại. Bây giờ ông đội mũ ngồi
toẽ năm ngón tay trên đầu gối. Cái mũ lông hoá học đen nhánh có tai, có dây
buộc lên buông xuống quanh chỏm cao chành ngang ra hai góc như mũ vua trên sân
khấu, chỉ thiếu cái roi ngựa hay thanh kiếm. Tôi thấy mấy ngày đầu mùa đông ông
đội cả mũ trong nhà.
Không thấy ông coi kho
mọi khi ngồi trước cửa. Một anh mũ tai bèo, chắc là thương binh hay bộ đội
chuyển ngành mới về đây. Anh đứng dậy, xem giấy.
Tôi liỏi:
- Cụ khu Năm chưa đến a?
- Cụ chết rồi. Chết bom.
Chủ nhật vừa đây ông về
Tây Hồ. Quê vợ ông lão ở làng Tây Hồ. Bom ném, ông chết, mất cả cái xe đạp trên
đê Nhật Tân. Chắc cái mũ cũng tan tành ở đấy.
Ai đã qua lại mượn quần
áo tài chính có còn nhớ ông lão khu Năm đầu tiên giữ kho?
Tôi còn cái mũ lông nữa
tôi biếu Vù Mý Kẻ, cũng mũ có hai tai vẫy như thế. Vù Mý Kẻ và tôi cùng một
khoá Quốc Hội, tôi đưa chiếc mũ ở hội trường, nghĩ đến cái ]àng Sà Phìn cao
nguyên Đồng Văn không có mùa hạ. Chắc mũ này được việc lắm. Vù Mý Kẻ thú vị ra
mặt, cầm mũ, ngắm nghía. Chuyến ấy, một đoàn đại biểu Quốc Hội ta thăm châu Mỹ,
đi từ Cu Ba lên Nicaragoa. Về Hà Nội, đại biểu Vù Mý Kẻ đến chơi. Mấy hôm ấy
không còn những ngày nóng bức nhưng cũng chưa đã sang thu. Vù Mý Kẻ đi vào
trong ngõ vẫn đội ngất nghểu cái mũ lông vàng vện của tôi. Anh muốn khoe anh
qui cái mũ, anh muốn tôi nhìn thấy anh đã đội mũ đi công tác bên châu Mỹ về.
Tôi hỏi:
- Bên ấy nóng thế, đội
mũ này hợp không?
Vù Mý Kẻ cười:
- Về Liên Xô thì rét,
có mũ này mới chịu được.
- Quê nó ở đấy mà.
Nhiều năm nay, Vù Mý Kẻ
nghỉ hưu đã về ở trên cao nguyên. Có người qua Sà Phìn, tôi hỏi thăm. Thấy bảo
buổi chiều ngồi uống rượu trước cửa, ông lão vẫn đội ngất ngưởng cái mũ ấy.
Lần đầu đến Matscơva ăn
bữa tối khách sạn Ukraina. Tôi hỏi Marich:
- Hôm nào phòng ăn cũng
đông thế này a?
- Đông lắm. Còn người
đứng đợi chỗ ngoài cửa. Nhưng không phải những người ngồi ăn đây đều ở khách
sạn.
- Họ ở đâu?
- Chúng nó là người làm
các cửa hàng quanh đây.
- Nhà nước cho ăn xuất
ở khách sạn a?
Chắc là bọn ăn cắp. Tôi
đã nhẵn mặt họ, ăn và nhảy đến tận lúc tan.
Tôi để ý mỗi hôm tôi
xuống sớm mới tìm được chỗ ngồi khuất, đỡ có hàng xóm và loa nhạc hát chõ vào
tai. Có khi bàn trống, người bồi bảo bàn đã có hẹn, và chỉ cho nhìn cái giấy đã
ghi: dành riêng. Nhưng đưa tiền boa trước boa sau thì chỗ hẹn ấy cũng là của
mình ngay. Diệu vợi thế, cho nên dến năm không còn kiểu ăn ghi sổ, khách văn
được hội chủ nhà phát tiền ăn, tiền tiêu vặt thì nhiều nhà vănViệt Nam đến
Matxcơva đều ra quán công cộng ngoài phố. Chịu khó chen vai và bưng bê lấy,
được cái giá bèo bọt. Tôi cũng đã theo Thu Bồn ra ăn bụi, nhưng hôm nào cũng
chỉ món băm viên, tôi kinh cái cục thịt hổ lốn ấy từ cái năm đầu tiên đi tàu
hoả qua Sibêri.
Mai ngày họp, nhiều nhà
văn các nước dự. Tôi gặp P. Nêruđa nhà văn Chi Lê hình như ở lưu vong. Nhà văn
Matxăc đưa về nhà chơi. Matxăc chuyên viết cho thiếu nhi, nhưng ông cũng là một
dịch giả nổi tiếng dịch thơ Anh. Mùa hè nào Matxăc cũng được nhà xuất bản bên
Luân Đôn mời sang nghỉ. ở hội nghị, tôi có sẵn bài diễn văn, nhưng không phải
dùng đến. Chỉ có một chuyện, tôi nhớ cả cái dáng B. Pôlêvôi đứng lên. Buổi tối
khai mạc, Pôlevôi phát biểu kể chuyện con trai ông học phổ thông mải đọc Dế mèn
phiêu lưu ký đến nỗi thiếu điểm thi học kỳ.
Dế mèn phiêu lưu ký vừa
được in, Marich dịch, Ngô Mạnh Lân đương học mỹ thuật ở Matxcơva vẽ tranh.
Chuyện Pôlêvôi nói ở hội nghị được tường thuật trên tờ tạp chí Phụ nữ Liên Xô
rồi các phóng viên Lê Trung và Trần Đĩnh biên tập lại cho in trên báo Nhân Dân.
Bấy giờ ở ta đương quét những cái hơi hướng xét lại. Có người phát hiện: “Dế
mèn đi tìm thế giới đại đồng là quan điểm xét lại”. Hai chàng phóng viên bạn
tôi bị kiểm điểm. Nhà xuất bản ngừng tái bản Dế mèn... việc cứ thế tấy lên đến
tai anh Lành. Lành phán: “Không nên qui kết lịch sử các thời kỳ khác
nhau". Có thế mới thôi. Tôi viết quyển ấy từ năm 1940, khi nước ta còn
thuộc Pháp, khi ấy Khơrutxôp còn dưới trướng Xtalin trên thế giới chưa có danh
từ xét lại trong lý luận chính trị. Có lần gặp, Lành nói chuyện ấy: “Dế mèn thì
vẫn Dế mèn, nhưng lôi thôi ở đứa viết quảng cáo bìa bốn". Trời ơi, ông ấy
bấy giờ ngày đêm lo những chuyện tày đình cả nước, mà vẫn đọc quái thế.
Sau hội nghị, tôi đi
Lêningrat rồi xuống thành phố cảng Ôđetxa, sau đó sang nước cộng hoà Cadăcxtăng.
Marich có nhiều bạn ở
Leningrat- trong đó có nhà vật lý Borit bạn chí cốt cùng học và cùng quê Ôđetxa.
Marich bố Nga, mẹ Do
Thái. Bố mẹ đã ly dị từ thuở Marich lọt lòng, người mẹ ở vậy nuôi con, Marich
lớn lên giữa họ hàng đằng mẹ, quê mẹ. Cả cái tên Marian cũng gốc Do Thái. ở Ba
Lan, các trại tập trung Ôchiuych, Ôvetkin của phát xít Đức con số tù tới cả
triệu, đã bị thiêu sống hết. Do Thái ở Ba Lan, áo, Bỉ, Pháp, Hy Lạp, Nga, Ru,
Hung cả người Di Gan. Lại có lẫn một người Trung Quốc, một người Ai Cập... Tôi
trông thấy những mảnh thiếc viết chữ sơn đen tên những người Do Thái bị chết
thiêu... những Marian... Marian... Marian... treo cửa buồng khắp các trại tập
trung.
Marich đã đưa tôi về
Ôđetxa choi. Những chuyến đi hội nghị, chẳng nhớ bao nhiêu những ăn nói đấu
tranh, những lập luận và câu chữ ở hội nghị đã quên ngay, mà chỉ còn lại những
gặp gỡ, những vui buồn bạn bè. Trách nhiệm của tôi mờ nhạt hay là tôi không có
sáng kiến gì hơn ở các cuộc họp nghề nghiệp và công tác xã hội của các hội hữu
nghị châu á, châu Phi mà tôi có gánh vác. Chủ trương thì đã bàn ở nhà, mà là
cần thiết. Tôi đến hội nghị ở Ai Cập, đọc một bài phát biểu về G. Nêru trong
dịp kỷ niệm một trăm năm sinh Nêru, thì bài đã viết ở Hà Nội. Tôi làm sao được,
có trao đổi cũng là những vặt vãnh. Cái cần thiết là sự có mặt của Việt Nam ở
đấy là uy tín của cả đất nước, không phải của một nhà văn.
Cũng có khi chủ động
đấy. Nhưng tôi chẳng mát tay, không nên cơm cháo gì. Nhớ lại có một việc định
làm, đã làm mà không làm được. Bấy giờ là những năm sau 1975, Nguyễn Đình Thi
có quen một nhà văn Anh trong ban chấp hành hội Văn bút quốc tế. Ông này gợi ý
Nguyễn Đình Thi: trong tình hình mới, việt Nam nên gia nhập tổ chức quốc tế
này. Cũng trong thời gian ấy một số nhà văn ở Sài Gòn đã ra nước ngoài cũng
đương vận động vào lại Văn bút với tư cách Văn bút của các nhà văn Việt Nam ở
hải ngoại. Hội Nhà văn Việt Nam được trên đồng ý cho tìm hiểu cách thức gia
nhập, Nguyễn Đình Thi giao cho tôi lo liệu.
Văn bút quốc tế là một
tổ chức văn học ra đời đã lâu, trụ sở ở Luân Đôn. Không thu nhận các hội nhà
văn đã có sẵn, họ chủ trương kết nạp cá nhân nhà văn có tiếng hoặc các nhà văn
tập hợp lại thành nhóm và trở thành hội của Văn bút ở nước ấy. Văn bút Quốc tế
không có báo chí, không xuất bản. Nó chỉ họp hội nghị, đại hội bàn tròn, dung
nạp mọi ý kiến khác nhau, không có kết luận và ai đi họp thì bỏ tiền túi ra mà
đi.
Tôi đã tham khảo thái
độ một số nước xã hội chủ nghĩa đối với Văn bút quốc tế. Mỗi nước một khác
nhau. Ba Lan, Rumani, Đông Đức và ba nước biển Ban Tích đã vào Văn bút quốc tế
từ lâu. Ban đối ngoại hội nhà văn Ba Lan trả lời diễu cợt: “Chúng tôi cũng vào
cho biết cái hội tự do và tự túc này thế nào. Có tiền mua vé máy bay thì đi
họp, không thì ở nhà. Ngồi họp, ai công kích ai, ai bênh vực ai, cứ tha hồ”. Họ
kể cho tôi tên những nhà văn Ba Lan trong Văn bút quốc tế Ba Lan. Có cả nhà lý
luận văn học Karon Giôdep Môgityla, tức là Gioan Pôn 2 giáo hoàng ở La Mã bây
giờ, ông ấy là hội viên hội nhà văn Ba Lan. Tôi đã đến Ba Lan trong dịp ông
đăng quang giáo hoàng. Vacsôvi mừng xả cờ vàng- cờ công giáo, ra cửa sổ và các
nhà đều đưa đài vô tuyến truyền hình dặt trước các vỉa hè.
Nhưng cũng không chỉ
bông lơn hay lắm vẻ như hội nhà văn Ba Lan, hội nhà văn Liên Xô nói: “Chúng tôi
không vào Văn bút quốc tế. Văn bút này đã kết nạp nhiều nhà văn Nga lưu vong.
Nếu họ công kích chúng tôi, ở đấy đã có nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa bênh
vực Liên Xô và văn học Xô viết".
Vào Văn bút Quốc tế,
chủ chốt sẽ không là tổ chức có sẵn và không phải người có cương vị chính của
hội nhà văn Việt Nam. Tôi đã đề nghị danh sách ban chấp hành lâm thời Văn bút
Víệt Nam gồm một số nhà văn tiếng tăm và uỷ viên chấp hành Văn bút trước đây ở
Sài Gòn (Thanh Lãng , Mộng Tuyết, Sơn Nam, Vũ Hạnh) và các nhà văn lão thành
(Chế Lan Viên, Bùi Hiển, Xuân Diệu, Lý Văn Sâm), các nhà văn trưởng thành trong
kháng chiến chống Pháp chống Mỹ (Chu Văn, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng). Tôi đã
trao đổi với Nguyễn Văn Bổng và dự định Tổng thư ký là Nguyễn Văn Bổng.
Thường vụ Hội nhà văn
được triệu tập bàn về vấn đề này. Hội nghị chưa thảo luận về tổ chức cũng như
mọi công việc thế nào, mà có ý kiến đầu tiên cho rằng vấn đề rất quan trọng,
ban thường vụ không thề quyết định mà cần có một hội nghị ban chấp hành mở rông.
Một số ý kiến thì phân
vân.
Đến bây giờ, đã hơn hai
mươi năm, qua mấy khóa chấp hành và mấy Dại hội, cũng chưa khi nào khoá nào đem
bàn lại. Tôi cũng chẳng để tâm gì hơn, lại nghĩ bãi ra, thế cũng là cái sự
thường. Bởi vì đọc bản tin, chỉ sau hội nghị thường vụ của chúng tôi ít lâu,
trong cuộc họp Văn bút quốc tế ở Mêchxich, Minh Đức Hoài Trinh đại diện hội Văn
bút các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại đả kích tưng bừng Văn nghệ Việt Cộng.
Công việc văn nghệ ngày
rộng tháng dài, có có không không cứ đều phảng phất, hiu hiu. Đại hội Nhà văn á
Phi ở Bâyrút, đến hôm thông qua Tuyên bố Bâyrút, ở tổ văn kiện, đại biểu Hoàng
Trung Thông yêu cầu thêm một chữ - chữ gì, tôi quên. Mấy người trong tiểu ban,
trao đổi dằng co đến quá nửa đêm. Sáng hôm sau, báo buổi sáng được đưa các phòng.
Mở xem, vẫn nguyên thế Hoàng Trung Thông đi tìm hỏi nhà thơ Azimôp trưởng đoàn
nhà văn Xô Viết. Azimôp nói: “Khuya quá, nhà in in rồi. Khi in văn kiện này vào
tạp chí á Phi sẽ sửa". Hoàng Trung Thông băn khoăn hỏi tôi: Trưởng đoàn có
ý kiến gì không?”. Tôi bảo: “Thôi".
Mấy tháng sau, ở Hà
Nội, đọc những tờ tạp chí á Phi được gửi tới, chẳng thấy sửa, thấy thêm chữ nào.
ở Lêningrat, đêm đến
chơi nhà cô Pecman Inna, kỹ sư hoá, thím của nhà vật lý nguyên tử Biếcbơlai
Bôrit. Người đàn bà đã quá lứa ở một mình với một con mèo đen to xù. Lúc mở đĩa
vui cũng ôm bế con mèo cùng nhảy. Tôi còn gặp ở nhiều nơi những người tuổi đã
nhỡ như Inna, đã bỏ tuổi đương thì vào giữa cuộc chiến tranh thế giới đương ác
liệt.
Khách sạn Astôria vẫn
cổ kính nguyên dáng thế kỷ trước. Nghe nói nhà thơ Exênhin đã thắt cổ chết ở
toà nhà bên cạnh. Tôi cũng không hỏi có còn giữ di tích tuần trăng mật với
người vợ lai Mỹ Jecđôra Duncan, Exênhin chết một mình hay chết cùng vợ và khách
sạn Astôria có phảì khách sạn Anh ngày trước.
Cái khách sạn này nhà
chủ cũ vẫn có đơn kiện đòi lại. Các nước đương đòi nợ nhau dài dài. Trung Quốc
đã thu lại được cả vùng đất Hồng Kông. Nếu Trung Quốc không như bây giờ thì con
cáo già Anh đời nào chịu trả đất. Thế thì bây giờ Liên Xô đã vào dĩ vãng rồi,
các chủ cũ khách sạn Astôria Ôđetxa chắc lại sang Nga đòi nợ. Sự ấy đã nhãn
tiền ở nhiều nơi, báo đã đăng tin vua giày Bata lưu vong sang Canađa mới trở về
nước Sec chiếm lại các cơ ngơi nhà máy. Không biết thế nào, tôi bây giờ có nên
đòi vài đồng lương hưu nhà vua giày Bata đã nợ tôi không?
Sông Nêva đóng băng
phẳng lặng như phủ cát trắng.
Sông thành con đường
băng xe vận tải chạy được ra tới mặt hồ Lagôđa- con đường bí mật mùa đông đã
nuôi sống Lêningrat suốt ba năm bị phát xít Đức vây hãm. Giữa quãng trời đất
trắng ngần kia, một người đương cuốc băng khoét một lỗ xuống mặt nước. Người ta
ngồi câu cá giữa hồ.
Mấy hôm sau xuống
Ôđetxa. Sân bay hải cảng này cũng như sân bay Simphêrôpôn ở bán đảo Crưm, có
cảm tưởng đương đến giữa một vườn hoa khổng lồ.
Ban đêm ngủ lại tưởng
như Simphêrôpôn rạt rào gió biển. Sáng ra mới biết đương trông ra cửa sổ giữa
công viên và rừng thông, cách bến Yanta cả trăm cây số.
Cái ga trời vườn hoa
Ôđetxa ở đất phương nam khi mùa đông tới, cả nước Nga về đây tránh rét- ấy là
thói quen và tập tục đã bao đời. Biệt thự nhà văn Sêkhôp trông ra biển. Nhà văn
M. Gooky từ hồi còn nghèo cũng có nhà nghỉ đông trên bờ biển. Khi cả nước Nga
đóng băng thì ở Ôđetxa, những cây catstan bờ hè mới bắt đầu rụng từng chiếc lá
vàng. Cây táo, cây mận mọc hoang, những chùm quả chín đỏ. Đứng đợi máy bay,
Vlat ra ngắt từng ôm: “Cái giống quả dại này chua lắm, ăn cho dã rượu thì chiều
mới uống nữa được".
Máy bay nhẹ nhàng đỗ,
khách bước ra lặng lẽ. Thành phố vườn hoa trong tĩnh mịch.
Nhưng thời kỳ ấy đương
còn cái lặng tờ ma quái, cách đây có một ga bay. Từ Đông Phi lên, máy bay xuống
lấy khách Bâyrut. Sân bay quốc tế này mới mở lại. Không một bóng người. Thành
phố sau lưng, khói những đám cháy nham nhở. Đã có vạch xanh hoà bình kẻ ngang
chia đôi mặt đường, con đường và từng vùng ngăn các phe công giáo và đạo hồi
tràn sang nhau, nhưng tiếng súng vẫn râm ran, cả súng cối. Chỉ một đường bay
này phẳng lặng, rùng rợn chết chóc. Người ả Rập xưa nay tự hào “Bâyrut, Thuỵ Sĩ
Phương Đông yên lành giàu có". Các cửa ống dẫn dầu Trung Cận Đông đều trổ
ra cảng này. Các nhà băng thế giới đều đặt bàn giấy ở đây. Những đêm yến tiệc
cung đình. Tôi đã được một đêm đội mũ vua ả Rập uống rượu hồi với nhà văn chúa
đất Gium Blat. Bây giờ tan tành dinh cơ Gium Blat trong khói súng, Gium Blat bị
giết giữa lặng lẽ khủng khiếp kia. Cảm tưởng về hoa và người thảnh thơi phải về
tới Ôđetxa mới thấy lại. Chẳng biết đến khi nào sân bay Bâyrut có lại được
phong độ xưa.
Ôđetxa không thành
chiến trường như Bâyrut năm ấy Nhưng Ôđetxa hôm nay cũng như những cái máy bay
hãng Aêrôflôt bị lột mất hoa búa liềm, cái đau thật thấm thía. Năm ngoái,
Marich đi Mỹ về, viết thư cho tôi, kể là vợ chồng Marich đương sửa soạn về
Ôđetxa mừng thọ dì Luxia 85 tuổi. “Ông có biết không, đi Ôđetxa quê tôi bây giờ
phải có hộ chiếu như đi Mỹ, đến Ôđetxa đã là sang nước khác rồi".
Những rắc rối của cuộc
“cách mạng nhung” – chúng nó mỉa mai vẻ đắc thắng bằng cách thêm chữ
“nhung".
Cụ Nicôlai, nhà văn
Grudia hội viên hội nhà văn Liên Xô đã ngoài tám mươi tuổi. Cụ Nicôlai từ
Tbilitxi lên ở Matxcơva đã hơn ba mươi năm nay. Chẳng biết cụ có bị trục xuất
về nước Grudia không. Và cụ còn ở đây ai nuôi cụ, có khi đành bò về chết ở quê
cũ cũng nên. Tôi đã đoán thế mà rồi đúng.
Thôi, ta trở lại ngày
xưa. Mấy hôm ở Ôđetxa, ăn món Do Thái xúp lạnh, bánh manta nhà ông bác, nhà bà
dì và các con cháu. Bà ngoại của Marich, bà lão Phayin Chilia Xôlômônôva quây
quần họ hàng xa gần, họ Phayin cũng như người Digan thường đi và ở từng bọn,
khác nào ở cảng Ôđetxa cá scumbria nhiều hơn nơi khác. Người Do Thái ở đâu cũng
thành xóm, thành phố. Không phải tình cờ mà nhà văn Pautôpsky, những ngày hoang
mang vô định sau 1917 đã xuống Ôđetxa định chạy sang Trung âu. Luật pháp xô
viết, các dân tộc bình đẳng, nhưng trong đối xử và chung đụng thì có nghi ky.
Người vợ lấy lần thứ hai của Marich ở Lêningrat. Về Matxcơva, mẹ vợ cũng đi
theo. Bà này ghét con rể, thường ra công an quận báo cáo mật: thằng ấy tụ tập
bọn Do Thái, bọn Do Thái nói xấu nhà nước... thằng ấy... Do Thái... Rồi sau
Marich mất vợ, mất cả nhà. Xử ly dị, pháp luật bênh người phụ nữ hơn. Một đời,
hai lần mất nhà, đắng quá.
Đấy là những sau này.
Lần ấy, tôi đi với Marich về Ôđetxa thì Ira, người yêu và người vợ đầu, hai
người chưa cưới nhau. Mẹ Marich làm việc văn phòng hội mỹ thuật ở Mônđavia. Gọi
điện, bà về Ôđetxa được ngay, có bốn mươi phút máy bay. Cả bà nữa, người đàn bà
bị chồng bỏ từ thuở trẻ với các bà em đều nhỡ nhàng, người làm thợ máy, người
bán bách hoá.
Họ uống rượu rồi nhảy
với nhau, chẳng biết nhảy nhót thế nào, cứ ôm quây tròn, béo núng nính, ai cũng
lôi vàọ vòng nhảy. Anh không biết nhảy a? Cứ ôm vai, nắm tay, đưa chân lên
xuống. Nhớ không giẫm chân người khác. Đấy, đấy, được rồi. Nhảy được đấy.
Cuộc vui tràn trề thâu
đêm rồi thì người đi, người ngủ ngồi ở các ghế đệm quanh.
Chương XVI
Mùa hè 1997 này tôi đương đánh vật với Chiều
chiều đây ở thành phố cao nguyên Đà Lạt. Tôi viết thư mừng sinh nhật bà Phayin
Luxia Macôna tám mươi tám tuổi. Phòng tôi trên gác tĩnh mịch giữa đồi thông và
những cây liễu Nhật hoa đỏ. Bà công nhân Luxia tnà tôi quen biết từ chuyến đi
Ôđetxa ấy. Mỗi lần gặp lại ở Matxcơva, lại nghe bà kể chuyện nước Đức. Hè năm
nọ công nhân nhà máy được sang Đức chơi. Thế vậy từ đấy cái gì bà cũng nói
kèm... ở Đức... Cái nước Đức của bà Luxia không còn, bà có biết không. Có biết
thì chắc là bà bạn thân yêu cũng không tin, bà vẫn có cái nước Đức... bà chỉ có
nước Đức một lần đã được ở bên Đức... nước Đức của bà khác, mãi mãi thế. Bà
Luxia cũng đại khái người như ông lão quê khu Năm giữ kho quần áo tài chính
nước tôi.
Cái thông minh và hóm hỉnh của Marich đã khiến
nhiều người lầm Marich gốc Do Thái. Trẻ con Do Thái học lớp nào cũng giỏi nhất
và người Do Thái cư ngụ mỗi nước đều nhiều những nhà tư tưởng, nhà văn, những
triệu phú và chính khách có tiếng. ở Marich, tính nết và nghị lực rất Do Thái.
Marich khiêu vũ giỏi, nhưng không chơi. Marich uống rượu chẳng kém Vlat và
Mixen nhưng không rượu một mình và khi một mình thì ăn uống đạm bạc, khắc khổ.
Marich lúc nào cũng
chỉnh tề, kiểu diện đứng đắn của người làm ra vẻ có tuổi. Marich mê mũ đẹp.
Hàng chục cái mũ đặt trên giá như triển lãm mũ. Mũ của Marich hiệnđại, nhưng
không phải kiểu mốt xăng nghiêng vành mà Marich đội ngay ngắn, mốt mới nhất,
mốt không có mốt. ấy cũng vì mũ đẹp, diện mũ mà người đội mũ đã gặp tai nạn về
mũ, suýt chết. Đứa nào chắc thèm cái mũ đẹp, nó đã ngắm rồi tăm sẵn. Marich đến
nhà cụ Nicôlai ăn tối. ở thang máy ra, đi qua mấy bụi lila có đu trẻ con chơi,
thằng trộm thình lình xông tới, giựt mũ của Marich. Rồi nó phang một phát,
không biết chiếc ba toong hay mảnh gỗ vào cái trán đồ sộ của người đội mũ. May,
chỉ chảy máu và phải buộc băng, nằm nhà ít hôm. Tôi nghe kể rồi đến hôm gặp lại
vẫn thấy Marich đội mũ và trên giá lại chiếc mũ mới, mũ vơlưa mượt mà, cái đen
thẫm, cái màu xám nhờ nhờ... Đắm đuối thì phải luỵ, cũng là cái thú, cái oan nợ
chăng. Chẳng khác chị Ba Valenska bên Ba Lan. Nhà văn Monica Valenska chuyên
viết phóng sự. Chị Ba đã đến khu giải phóng, chẳng những thế chị đã đóng vai y
tá đi với phái đoàn quốc tế Ba Lan vào ở nội thành Sài Gòn. Nhưng tác phẩm về
Việt Nam của chị là một phần quan trọng sự nghiệp nhà văn của chị. Chị thích
khăn quàng đẹp. Bọn lưu manh cũng chẳng cần biết chị thế nào. Mấy lần chị bị kẻ
cắp lột khăn quàng trong cầu thang máy. Chị vẫn chơi khăn đẹp nhưng rồi hôm nào
quàng khăn đắt tiền, chị đi bộ lên nhà ở tầng bốn.
Marich nuôi mộng rồi
trở thành cây bút trào phúng. Nhưng trước mắt, Marích mới xin được việc ở hội
nhà văn, may mà công việc gần gũi với ước mơ. Marich sáng tác truyện vui về
bóng đá. Không đưa các báo ở Matxcơva, Marich gửi cho báo các nước cộng hoà.
Có cái được đăng, có
cái không. Marich cũng không có nhiều thì giờ, ở đây thì giờ cho lao động trí
óc cũng hơi hướng công nghiệp. Người ta trả lương cho công tác anh, không cho
anh ăn lương ngồi nhà viết.
Bước đầu, Marich dịch
văn học Việt Nam. Đến năm anh thôi việc ban đối ngoại thì dịch văn học Việt Nam
là nguồn sống và giúp xây hoài bão cho nhà văn trào phúng. Dịch tiếng Việt có
thành tựu đã đưa anh vào hội viên hội nhà văn Liên Xô ngành dịch thuật.
Marich dịch không
nhiều, cẩn thận nhưng chậm. Văn học hiện đại, Marich dịch chuyên một số tác
giả: Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi. Và Marich dịch cổ điển: truyện ngắn Lê Thánh
Tông, Truyền kỳ mạn lục, Vũ trung tuỳ bút. Không biết có người giới thiệu hay
Marich đọc, tác phẩm đầu tiên Marich dịch là Dế mèn phiêu lưu ký.
Của tôi, Marich dịch
Đám cưới chuột, tiểu thuyết Miền Tây, tập truyện ngắn Người ven thành, Tuyển
tập Tô Hoài, tiểu thuyết Đảo hoang. Cái kỹ tính khi dịch của Marich thật cực
kỳ. Trong Đảo hoang tôi miêu tả một ngôi sao có tên là sao gông cỏ. Marich hỏi
bằng thư: “Xin anh trả lời cho tôi sao gông cỏ mọc lúc mấy giờ, ở vị trí phương
hướng thế nào trên trời. Và tên khoa học của sao gông cỏ. Tôi moi đâu ra tài
liệu về sao gông cổ. Chỉ bởi vì tôi muốn bạn đọc thiếu niên ta phân biệt gánh
cỏ, quang cỏ, bó cỏ gông cỏ. Gông cỏ là một từ cổ, cái gông cỏ, cũng như cái
gông, cái cùm gông vào cổ, cùm vào cổ. Cái gông cỏ là hai cặp tre kẹp cỏ vào
giữa rồi gánh đi.
Tôi bịa ra tên ngôi sao
cốt làm cho bạn đọc chú ý chữ gông. Tôi không thể bảo cho người bạn nghiêm túc
biết cái ẩu ma mãnh của tôi. Tôi đã cắt nghĩa ba hoa cho Marich rằng nhà nông ở
đồng bằng sông Hồng đêm đêm nhìn lên vòm trời thấy bao nhiêu là sao: sao tua
rua, sao gầu dai, sao gầu sòng, sao con vịt, sao mũ vua Thần nông, có ngôi sao
hai tên tối là sao hôm sớm là sao mai và cả một giải ngân hà chi chít li ti sao
nổi lên một vòng cung làm cầu Ô Thước cho vợ chồng Ngâu tháng bảy gặp nhau. Sao
gông cỏ thuộc sự tích chú Cuội. Chú Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa gọi
cha ời ời... Sao gông cỏ ở trong đám sao các đồ nghề nhà nông... gầu dai gàu
sòng, mũ vua Thần nông, Marich được tôi cắt nghĩa kỹ lưỡng đến như thế, không
thấy hỏi thêm.
Năm sau, Đảo hoang được
in lại. Marich dịch tiếp tiểu thuyết Hoàng Văn Thụ cho nhà xuất bản Văn học
Matxcơva. Nhưng quyển này gặp trắc trở. Mọi bản thảo dịch đều được nhà xuất bản
tổ chức ban giám định kiểm tra dịch và nội dung sách. Tiểu thuyết của tôi không
lọt qua được ban này không phải vì trình độ dịch của Marich mà vì trong tiểu
thuyết “nhân vật Hoàng Văn Thụ hoạt động cách mạng ở Trung Quốc nhiều
quá". Vào lúc ấy, Liên Xô không muốn in một quyển sách nói đến Trung Quốc,
đề cao Trung Quốc. Sách không in, Marich chỉ được trả một số tiền công dịch như
tài liệu.
Marich rủ Mixen và
Vlat, chúng tôi đến nhà hàng Bắc Kinh. Không được in vì tác phẩm đề cao Tàu thì
chúng tôi đi cơm rượu Tàu cho hả. Những năm này, khách sạn Bắc Kinh không còn
đầu bếp Trung Quốc với các món thịt cá tươi và rau quả được máy bay hàng ngày đưa
từ Bắc Kinh sang. Nhưng vẫn sẵn hàng khô súp yến, long tu và rượu Mao Đài.
Không đủ tiền ăn sang, chúng tôi uống vốt ca Nga với miến sào mộc nhĩ, canh
măng trúc, ăn thì cầm đũa và cơm bát. Rồi bước vào những năm đầu thập kỷ,
Matxcơva đương lên cơn sốt cải tổ thì khách sạn và nhà hàng Bắc Kinh được sửa
chữa lớn, sang trọng bội phần. Thợ xây dựng và nhà bếp từ Bắc Kinh sang. Phòng
ăn tầng lầu nguy nga như những mái đình. Nhưng tôi đến Matxcơva chỉ dửng dưng
đi qua cái nơi đã từng ghé, cũng như năm vừa rồi Marich tới Hà Nội chỉ có
nguyện vọng được vào cái khách sạn Thống Nhất mà thôi.
Đến cái buồn sau cùng
thì buồn quá. Giáo điều và xét lại căng nhau, không in tiểu thuyết Hoàng Văn
Thụ Marich bắt tay vào dịch tiểu thuyết Chuyện nỏ thần. Đất nước xô viết đương
rã rời ra từng mảnh, một hội nhà văn bỗng dưng thành năm bảy hội nhà văn- cải
tổ mà, khó lòng nhà xuất bản nào còn in một cuốn tiểu thuyết Việt Nam. Mọi sự
đảo lộn, người ta bận cãi nhau về cải tổ, cải tổ. Không biết số phận Chuyện nỏ
thần ra sao.
ô hay, giữa những lung
tung xòe như thế, Goócbachôp cấm rượu. Rượu không được bày quảng cáo. Giá rượu
trong và ngoài giờ làm việc đều đắt và khác nhau- một trăm gam vôtca uống trong
giờ trả nhiều tiền gấp đôi, người mua rượu sắp hàng dài cả dãy phố. ở khách sạn
chỉ bán rượu trong bữa ăn – cả bia và rượu đều bán có hạn. Chẳng biết ở các nơi
khác còn bao nhiêu điêu linh. Quanh tôi, khách sạn Nước Nga đồ sộ và hiện đại
nhất thành phố mà quanh cảnh tất tả như tan chợ vẫn chưa mua được gì. Không bán
cho người ngoài phố, nhưng người ta cứ vào, khách ở buồng phải giơ chìa khoá,
mỗi người chỉ được mua một bánh xà phòng tắm và một lọ nước eau de Cologne.
Trong khi tôi trông thấy những gói xà phòng thơm của người bán hàng nhét vào
ngăn tủ riêng, rồi bán cho người ngoài phố vào mua lén lút. Lọ nước thơm đem về
đun lên tách cồn ra, không có rượu thì người nghiện uống cái cồn nước rửa tay
ấy.
Những sâu rượu không
vào được cửa hàng, bâu cả ngoài cửa. Chán rồi kéo ra cuối phố. Đằng ấy có một
cái đài to như đài nước xây đá tảng ở vườn hoa hàng Đậu tại Hà Nội- nhưng cái
đài to cao ngoại hạng này không bằng đá, mà chẳng biết là sắt hay tôn lá sơn
đen kịt đứng trên hàng cọc sắt chi chít. Đấy là trạm trung chuyển bia hơi đặt
rải rác các phố vành đai ngoại thành vào trung tâm, bia nhà máy theo đường ống
ra đấy, các xe téc đến đỗ chìa lưng ra cho vòi xả bia xuống, rồi phân phát đi
các cửa hàng. Biết những các téc ấy chạy đi đâu, vào hồi khó khăn này chẳng mấy
khi cửa hàng nào có một giọt bia hơi. Và cũng chẳng biết cái hồi chứa chan bia
rượu thì thế nào, bây giờ người bu như kiến quanh cái vòm bia này từ bảnh mắt.
Họ mua xỉ qua người đánh xe, người bắc vòi bán chui hay người ta hứng can dưới
những cái bể tràn, chốc chốc lại một bọn rùng rùng xô ra, mỗi tay xách một xô
bia, mặt mũi bừng bừng. Cả một quãng hè, la liệt người uống bia từ sáng sớm.
Say rồi lăn ra đấy, lúc dậy lại uống, có khi qua ngày...
Tiểu thuyết Chuyện nỏ
thần thế là gác lại.
Có thể Marich bận những
chuyện khác. Marich cũng đương hung hăng ủng hộ cải tổ. Vẫn ở cái trụ sở mọi
khi, tượng L. Tôntôi ngồi trên bệ giữa vườn táo suất mùa hạ sang mùa thu, những
con chim sẻ, con bồ câu đến đậu trên đầu, trên vai ông. Nhưng mà trong nhà bây
giờ người ta chia buồng, ngăn vách ra thành những hội nhà văn khác nhau. Marich
là một tay hoạt động đả đảo kịch liệt hội Nhà văn Liên Xô. Marich thường nói
lỡm: "Tôi bằng tuổi lão Goócbachôp". Có nghĩa là trong chiến tranh,
Goobachốp cũng như thằng bé Marich lên mười đi tản cư vào Trung á với mẹ, lúc
nào cũng thèm ăn đường. Marich hăng hái trong một hội nhà văn nào đó mới được
lập ra. Marich không phải đảng viên cộng sản. Tôi cũng không bao giờ nghĩ anh
có thể là một người có quan điểm macxit. Anh là người vui tính, nhìn cái gì
cũng trò đùa. Nhà văn trào phúng thì chưa thấy đâu, nhưng trong cuộc đời thì
Marich hay nhặt ra những triết lý khi nào cũng mỉa mai và buồn cười. Marich chỉ
cho tôi một câu trẻ con viết phấn nguệch ngoạc ở vách thang máy: "Tao
không bằng con chó. Con chó đứng đâu cũng đái, không ai cấm được” Khi xe buýt
chạy qua phố nhà in báo Sự thật, Marich nói: “Cứ hôm nào tôi buồn quá thì tôi
lại phải đi qua đây, có thế tinh thần mới lên được một chút".
Mất hút hy vọng in
Chuyện nỏ thần. Không nghe Marich nói gì về nó nữa. Không phải cứ truyện ngắn
truyện dài Việt Nam là được người dịch và nhà xuất bản vồ lấy, nhất là tình
hình bây giờ. Tôi biết có tập truyện, có tiểu thuyết ta dịch ra tiếng Nga số in
có 500 cuốn- in cho có đầu sách báo cáo. Cái lần Niculin sang bàn in một số
tuyển tập của nhà văn Việt Nam, Thường vụ Hội nhà văn Việt Nam gợi ý bạn nên in
nhiều hơn các tác giả đương thời và các tác phẩm đề tài mới. Niculin trình bày
“cũng đã chú trọng, đã in nhưng các nhà xuất bản của chúng tôi quan tâm hàng
đầu vấn đề tác phẩm với đối tượng bạn đọc".
Tác phẩm văn học Việt
Nam ra thế giới còn là cả một quá trình mà trước nhất phải có được các nhà dịch
thuật giỏi tiếng Việt, tiếng Việt văn học. Một nền văn học lớn như văn học
Trung Quốc, những người có trách nhiệm đến bây giờ vẫn nhận xét văn học Trung
Quốc chưa ra được thế giới bao nhiêu, bởi chưa có được lực lượng các nhà dịch
thuật giỏi.
Buồn hiu hiu, trời thì
lạnh, ước lượng cả lũ sẽ uống hết chỗ rượu này mà không mua thêm được. Chưa đủ
liều, chẳng bõ chua miệng. Các bạn cử Marich và tôi đi lùng vôtca. Tôi đi với
Marich, không phải tôi là chủ tiền mà bởi dẫu tôi không biết tiếng, nhưng có
việc phải bàn thì còn có thể biến báo và có phải sắp hàng thì có thêm một nhân
mạng. Cái cung cách mua bán ở đây vào cửa hàng, mua mấy lưỡi dao cạo râu, nắm
ruột bút bi đều qua ba khâu nhà hàng ở ba nơi. Người bán ghi phiếu, người mua
đem phiếu ra quĩ trả tiền, cầm phiếu trở lại chỗ lấy hàng. Ba chỗ đều phải xếp
hàng. Đi với Marich, một buổi sáng chỉ mua được mấy cái dây mai so. Khuya rồi,
chắc các cửa hàng có bán rượu đều đã đóng cửa. Người nghiện thì đã ở nhà uống
cồn, hay là chui lủi ở những đâu, người rượu ở Matxcơva bây giờ như con chuột
cống.
Marich bảo người lái
taxi:
- Đi đâu à? Tôi đi tìm
rượu. Anh giúp cho nhé.
Người taxi nhìn chúng
tôi và nói:
- Bây giờ sang Mông Cổ
may ra mới có rượu. Nhưng mà cứ đi xem.
Những dãy đèn huỳnh
quang sáng trắng lần lượt tắt. Còn lại những ngọn đèn vàng khè. Người taxi có
vẻ thạo và thương người đi săn rượu đêm trong lúc khốn khó này. Qua mấy phố,
vào mấy cửa hiệu khác nhau, có cửa hàng đã đương đóng cửa. Nhưng không đâu tìm
được rượu.
Một lát, xe vào một ngõ
hẻm. Phía bên tường cao cao sấp bóng, nhận ra đương đi vào con đường cổ kính
bên chân tường pháo đài điện Kremlin tối âm thầm.
Nhưng đằng xa còn có
nhà mờ cửa sáng đèn. Xe đến trước một hiệu thực phẩm. Người lái đỗ xe, lại
nhanh nhẹn bước vào trước. Một lát quay ra vẫy Marich theo.
Rồi lát sau trở ra, mỗi
người ôm một bọc ni lông. Lên xe mở gói, bốn chai vôtka loại 75, ối giời ôi. Đã
lâu mới trông thấy một người cầm mấy chai một túi rượu to như thế.
Người lái xe nói:
- Chẳng ai phải ngạc
nhiên đâu. Goócbachôp cấm rượu, rượu chỉ bán có giờ, mỗi giờ một giá, nhưng
quán này ông đến lúc nào cũng được. Cửa hàng này dành riêng ông ta mà.
- Goócbachôp đi mua
rượu a?
Lái xe của ông ấy ra
mua. Có thế cánh lái xe chúng tôi mới biết tận tổ quỷ chớ. Chúng nó nhầm tôi đi
mua rượu uống khuya cho Goócbachôp. Các ông được làm Goócbachôp một lúc, oai
không.
Ai cũng cười hê hê. Câu
chuyện bịa tạc ba lơn của tôi Marich biếu anh taxi một chai. Chúng tôi chỉ uống
tiếp cho khỏi nhạt miệng. Người taxi còn quay đầu lại hỏi to: “Mai các ông
Goócbachôp có đi mua rượu không?”
Đêm ấy ngủ nhà Marich,
khuya quá, không muốn về khách sạn. Tôi ở nhà Marich cũng đã quen, có khi mê
đọc ở luôn năm ba ngày. Phòng làm việc của Marich với thư viện là một, tôi nằm
ngồi giữa giá sách, nhiều sách Việt Nam xưa và nay. Có cả quyển “Năm Việt Nam
so sánh âm lịch dương lịch", tôi tò mò lần đầu tiên tìm ngày sinh năm
dương lịch của tôi. Khai sinh của tôi 16 tháng tám là năm âm lịch. Tôi được
sinh ở làng, thời ấy chưa có lệ làm giấy khai sinh. Đến năm ra học trường tiểu
học Yên Phụ mới đi xin khai sinh và lậu xuống ba tuổi cho không quá tuổi lớp
bét. Mẹ tôi bảo: “Đẻ con chặp tối ngày 16 tháng tám ta, hôm ấy trăng tròn hơn
trăng đêm rằm". Nhớ thế, giấy tờ nào về sau, cả khai sinh tôi đều lấy ngày
tháng âm lịch như dương lịch và năm thân là 1920. Bây giờ nằm ở Matxcơva mới
tìm ra tôi sinh ngảy 23 tháng chín dương lịch.
Nhà Marich căn hộ bé
bỏng tầng bốn, có một buồng ngủ và buồng khách cũng là phòng làm việc. Buồng ăn
và bếp cũng một. Bác sĩ khoa sản Ina Ivanôpna đi làm cả ngày. Tôi làm khách,
buổi tối chỉ việc ngả cái giường gấp bên cửa sổ. Trên tường gắn mẩu gỗ chạm làn
mây đuôi rồng sơn son thếp vàng nhặt được ở bãi cỏ trên đồi vườn đền Bà Triệu ở
Thanh Hoá, cái lần đi với Simônôp vào tuyến lửa Vĩnh Linh. Cạnh tường đặt chiếc
đôn sứ Bát Tràng mua ở chợ Đồng Xuân- kỷ niệm ê chề cho tôi. Tôi cắt nghĩa mãi,
anh cán bộ đối ngoại đi phục vụ đoàn cũng không cho đem ra cân gửi máy bay, vì
“nó là đồ cổ cấm xuất khẩu". Marich đã toan bỏ lại.
Chỉ gặp Marich ở nhà
hàng và nơi chơi nhởi không thể hiểu được con người Nga có máu Do Thái, thông
minh và sinh hoạt đạm bạc. Bữa chiều lắm hôm dùng xúp lạnh vừng đen, miếng bánh
mata như chiếc bánh đa nướng. Có hôm tảng xương bò, xương cừu hầm xúp, buổi tối
uống nước chè đen, bánh ngọt. Marich lấy một thìa nước mắm nhưng phết vào dăm
bông hun khói nước mắm Marich đã mua trữ mỗi lần đi Hà Nội hay đôi khi quà của
Nguyễn Tuân, chè xanh và nước mắm Cát Hải mà bà Nguyễn đã chưng cô lại, một lít
nước chỉ còn được một lọ kem.
Chúng tôi không uống
rượu. Bàn ăn chỉ có rượu những hôm thết bạn và thường rượu các bạn mang tới. Có
những bạn đã đến Việt Nam nhiều lần, như Marich đã trải biết mọi thời tiết
chính trị cũng như thiên nhiên đất nước ta và đã đến Hà Nội bằng nhiều đường
khác nhau. Lại Misen phóng viên thường trú báo Tin Tức ở Hà Nội liền ba khoá
mười hai năm rồi ở Hà Nội về đi thường trú ở ý đến tận bây giờ. Aliôsa- Simônôp
con, nhà đạo diễn điện ảnh kể: “Năm ngoái, một chiếc tàu đại dương mới hạ thuỷ,
mang tên bố tôi, tàu Simônôp. Tôi được mời đi chuyến khánh thành đầu tiên tàu
Simônốp đi vòng quanh thế giới". Chỉ thương Vlat và Êmin, bao giờ gặp cũng
hỏi: “Tôi có nên đi Hà Nội không? Bao giờ đi?”. Cán bộ Vlat ở bộ phận đối ngoại
tiếng Pháp hay sang giúp ban tiếng Việt. Vlat nói: “Tôi đến Việt Nam, tôi sẽ
lấy vợ và ở đấy không về Matxcơva nữa".
Vlat thì còn may ra,
nhưng cái người chẳng bận chút nào đến công việc chúng tôi mà vẫn ao ước thế,
ấy là Êmin. Êmin diễn viên kịch nói nhà hát thành phố. Không biết Êmin đóng thế
nào, nhưng tôi đã xem Êmin vào vai Đôngkixốt. Anh mảnh khảnh, cao lêu đêu, làm
Đôngkixôt chẳng cần độn vai, ủng cao gót.
Có điều Đôngkixôt đi
chu du cứu nhân độ thế tưởng tượng, uống nước lạnh mà khen là mỹ tửu vua chúa
ban cho, còn Êmin Đôngkixôt thì uống rượu cả lít.
Tối ấy, Êmin có vai. Từ
chiều, chúng tôi đã tụ tập trong quán bên kia đường trước nhà hát. Êmin nốc như
trút nước vào hũ, và chuyện tưng bừng. Marich dịch cho tôi nghe rằng anh ta
đương kể về những vui chơi thuở bé ở Ôđetxa. Êmin cũng là con một bà dì, một
ông bác nào đó của Marich. Lại những người quây quần ở một xóm Do Thái ngoài
cửa cảng, ở đấy chỉ đi quá vài bước, vài giờ thuyền thì đã sang nước khác. Êmin
kể chuyện ngày nào cũng kéo hội đi đánh nhau với trẻ con Nga, đánh nhau vui
lắm. Bất chợt, Êmin xem đồng hồ rồi đứng dậy. Chúng tôi theo Êmin vào nhà hát.
Êmin bước như không vào sau sân khấu. Nếu không cùng bàn rượu lúc nãy không thể
biết Êmin vừa uống vô hồi kỳ trận. Thế mà kìa kìa Êmin đã ra, Êmin trong cánh
gà bước ra, ông Đôngkixôt Êmin lênh khênh giữa sân khấu. Rượu hay không thì cái
dáng Đôngkixôt cặp kè với thằng lùn đầy tớ Păngsô vẫn ngất ngưởng lêu đêu thế.
Êmin vẫn đi bước một
quay lưng, ngửa mặt, mỗi tiếng Đôngkixôt quát Păngsô thì cả rạp rào rào vỗ tay.
Có lẽ vai kịch thành
công được nhờ rượu lúc nãy. Tan hát, lại sang quán uống. Êmin nói “Vai hôm nay
giỏi, được thưởng". Rồi xoè ra mấy đồng rúp giấy bạc mới.
Một năm kia tôi nhận
được thư Marich báo tin Êmin đã mất vì bệnh phổi. Cây rượu Hoàng Trung Thông
của tôi cũng mất bệnh phổi. Hay là cái rượu chỉ bổ máu, không bao giờ thành
bệnh gan bệnh ruột.
Nguyễn Văn Bổng gửi tôi
đem đi một bình hương bằng sứ mua ngoài chợ để đặt ở mộ Êmin. Nghĩa trang để
Êmin cũng ở vùng trung tâm- một nghĩa trang vẫn nền nếp ngày trước. Những cây
cổ thụ âm u như rừng. Đương mùa thu, màu cây và mặt đất vàng rượi, nhưng trên
các lối đi được quét gọn ghẽ, người đến viếng nghĩa trang đông cả ngày chủ
nhật. Những dãy mộ giản dị. Êmin nằm giữa hai hòn đá tảng, cái đĩa sứ in hình
Êmin vẫn phảng phất ông hiệp sĩ Đôngkixôt trang nghiêm, say rượu cũng như
không, thật cười ra nước mắt. Sắm sửa ra mộ, Marich đã sẵn một thẻ hương- ở nhà
Marich lúc nào cũng trữ hương và trầm, Marich đã quen bà bán con bột giống và
hàng hương bên cửa chợ Đồng Xuân, và chúng tôi đem theo cái bình hương mới của
Nguyễn Văn Bổng. Marich kể mỗi chiều thứ bảy mẹ Êmin lại mang hoa đến mộ con.
Chúng tôi ngồi bên mộ Êmin đến tàn nén hương. Marich cầm cái bình hương, đổ đất
ra rồi bỏ vào túi xách. Marich nói cắt nghĩa: Để đây thì người ta lấy mất.
- Có thể gắn xi măng
vào tảng đá này.
- Không được. Cái bình
hương lạ mắt thế này có gắn vào tảng đá nó cũng nậy ra. Tôi đem về, khi nào đi
viếng lại mang theo, thế mới chắc chắn và bền lâu được. Ông về nói với ông Bổng
cách tôi giữ cái bình hương ông ấy cho Êmin như thế, chắc ông ấy bằng lòng.
Những chuyện mơ màng,
bao nhiêu chuyện mơ màng.
Marich kể một chuyến ở
Việt Nam về đã bay lên đậu Khatmanđu nước Nêpan chân dãy Hymalaya. Trở về, chỉ
có một chuyện làm quà: ở kinh đô nước này có cụ Dir Narayan Chouhury, năm ấy
được 138 tuổi- người đương già nhất hành tinh, ai đến Katmanđu nghe tiếng cũng
đến chơi. Hai nhà văn đến thăm người có tuổi thọ để cầu phúc. Nhưng cụ lại muốn
chết. Cụ nói: Chúa ơi, đời tôi dài quá. Chúa hãy nghe lời tôi nguyện, cho tôi
về ngay nước Chúa". Nhưng rồi hỏi khách: “Các ông đã gặp đức vua chưa? Tôi
ước được thấy đức vua ngồi tàu bay đến chơi với tôi”.
Những chuyện kỳ lạ
nhưng vẫn chưa giang hồ bằng Marich với Acanôp ở Việt Nam về đã đáp một tàu đại
dương chở chuối và dứa, cả tháng trời lênh đênh ven Thái Bình Dương lên cảng
Vlađivôttôc, rồi sang tàu hoả về Matxcơva.
ở Hà Nội tôi quen M.
Ilinki phóng viên thường trú báo Tin Tức. Misen ở tầng hai khách sạn Thống
Nhất, cửa sổ trông ra bụi tre đằng ngà vườn hoa Con Cóc.
Bây giờ đi qua khách
sạn đã tân trang lộng lẫy nhưng vẫn giữ cái cửa sổ màu vàng nhạt như thế. Năm
đầu Misen ở một mình. Cô Nhã làm nhà phòng cho Misen ít lâu, rồi bị khách sạn
đuổi việc. Phòng khách nhà Misen ở Matxcơva treo bức ánh cô Nhã phóng to. Tôi
chỉ trông thấy và biết như thế thôi. Năm sau, vợ Misen sang và ở liền hơn mười
năm, tới khi Misen về. Con trai Misen học lớp mẫu giáo trên đại sứ quán. Nó
nghịch hơn quỉ giãy, mọi người làm ở khách sạn nói đùa: “Thằng bé này nó đốt
khách sạn lúc nào không biết chừng”.
Và người ta cũng gọi
đùa Misen là “quan năm tình báo". Misen cười, nói thêm, “Tôi là quan năm
tình báo bằng giấy".
Tôi hỏi Misen:
- ăn thịt chó được
không?
- Rựa mận thì cũng như
sasơlich thịt cừu nướng.
- Hôm nào về quê chén
thịt chó.
Misen đã xin được giấy
phép xe ra ngoài Hà Nội.
Người nước ngoài ra
khỏi thành phố phải có giấy, mà chỉ được phép từng chuyến. Nhà thơ Eptuchenkô
ra Hạ Long. Chương trình có cuộc thăm ủy ban tỉnh. Nhưng giấy phép chỉ được đi
đến khu nghì mát Băi Cháy, sang tỉnh thì phải có giấy khác. May thay, thoát
được việc cập rập xin giấy, bởi vì chàng Eptuchenkô tự do chủ nghĩa suốt cả
ngày ở biển cởi trần nằm trên mái thuyền ăn tôm hùm nướng chấm muối rồi mở đài
và làm thơ. Anh ta xua tay “Tôi không muốn nghe con số. Cứ cho tôi ngồi trên
mui thuyền thế này! ”
Lúc về Hải Phòng lại
rắc rối khác. ở Hà Nội, Eptuchenkô đã gặp người chỉ huy một tàu đại dương của
Liên xô. Vừa vào cảng, ông này mời Eptuchenkô có dịp thì xuống tàu nói chuyện
thơ với thuỷ thủ. Đến đây mới được gặp nhà thơ lớn này, chứ ở Nga không phải dễ
đã mỗi lúc gặp được. Qua Hải Phòng, người chỉ huy tàu chưa về mà Eptuchenkô thì
không có giấy vào cảng. Eptuchenkô nói: “Tôi là người Nga không phải người
Mỹ". Người gác cảng nói: “Tôi biết đồng chí là người Nga, nhưng chúng tôi
cần giấy phép! ”. Thế là chúng tôi đành chào thua.
Chúng tôi về Nghĩa Đô, nhà
anh Ba- anh em họ tôi và đồng tuế. Anh Ba giỏi làm thịt chó. Món anh nấu hợp
với tôi, tôi ưa thịt chó mộc không gia giảm nước đường, bột ngọt. Chẳng bao
giờ, chẳng bao giờ có nữa, Nguyễn Tuân, Phạm Văn Khoa và anh Ba về đất cả rồi.
Những ngày tháng mười rét ngăn ngắt, Nguyễn Tuân, Kim Lân với tôi cùng anh Ba
ra đồng bắt chuột rồi về nhà đánh chén. Các nhà văn đi xem bắt chuột thôi, còn
thì hai ông bạn tôi uống rượu thịt gà. Đến hôm nay chỉ còn hiu hắt, nhóc nhách
có tôi với anh Hạc- Kim Lân đóng vai lão Hạc trong phim truyện Chi Phèo của Nam
Cao. Những tối vào quán Cây Sấu đi với nhạc sĩ Xuân Đào, Viện trưởng bộ Giao
thông Vận tải con trai cụ Nguyễn được các em, các cháu láo lếu gọi “Anh Hạc,
anh Hạc ơi, anh Hạc! ”
Nghe cứ vui ít buồn
nhiều thế nào ấy.
Quả là Misen bằng những
người Tây táo tợn nhất, cũng chỉ đả được rựa mận và chả chó, không ăn được thịt
luộc. Hôm ấy cả vợ Misen, một cô bạn Nga và thằng nhóc nhà Misen. Rựa mận, thịt
nướng, bún mắm tôm, bún sáo. Misen vui chén, bốc: “Tôi sẽ đề nghị khách sạn
Thống Nhất làm món mới, thực đơn đề: Cừu nướng, cừu hấp Hà Nội. Tôi sẽ mời anh
Ba ra chuyên trách bếp".
Với tôi, ăn uống cũng
là cái thú thưởng ngoạn. Quán Grudia thịt cừu nướng. Tranh Pirômanivili vẽ
hoành tráng hầm quán ăn phố Putordi, thịt cừu treo, ông lão vác bìu rượu, những
sừng rượu. Quán Praha xúc xích hun khói... nhạc Tiệp. Cũng như vào quán Bắc Kinh
ngự thiện nơi cung điện choáng lộn. Bây giờ mà “thịt cừu Hà Nội” của Mixen có
tên trong thực đơn khách sạn, cũng hay.
Có tiền thì nhung
nhăng, nhưng mấy khi có tiền.
Theo cách trả tiền
nhuận bút ở Matxcơva, nhà xuất bản trả công cao người dịch, bởi người dịch là
người lao động truyền đạt áng văn thơ tới bạn đọc. Tôi được một nghìn rúp về Dế
mèn phiêu lưu ký, trong khi Marich ăn mười nghìn. ấy là quyển sách in số lượng
lớn. Và không phải cứ tác phẩm Việt Nam in ở nước ngoài thì nhất thiết được
nhuận bút. Không có đâu. Chỉ vì Việt Nam không có chân hội bản quyền quốc tế.
Mà ta cũng không nên vào. Cả chục năm, chưa chắc đã có nước in một tác phẩm
Việt Nam, mà một năm các nhà xuất bản nước ta in hàng trăm, hàng trăm sách
dịch. Thế thì người ta sẽ mở văn phòng ở Hà Nội, ở Sài Gòn để thu tiền bản
quyền. Chẳng chơi. Trước kia, các nước xã hội chủ nghĩa đưa nhuận bút sách cho
ta là vì tình, không phải vì luật. Một nhà xuất bản ở Thái Lan in Dế mèn phiêu
lưu ký, ở Nhật in Truyện Tây Bắc. Tôi nhận được mười quyển sách biếu và thư cảm
ơn trân trọng và “lấy làm tiếc không được trả bản quyền ông vì...” ấy thế nhưng
vẫn có những ngoại lệ lắt léo. Nhà văn Việt Nam nào đó có bài, có sách in ở
nước ngoài, một ngày kia nhận được nhuận bút qua bưu điện hay là có người đưa đến
tận tay. Nhà xuất bản Aube ở Pari mới năm ngoái 1996 in Tuyển tập Truyện ngắn
Việt Nam đã đưa sách và tiền đến Hà Nội trả các tác giả. Cũng nhà xuất bản này
cũng mới năm ngoái in Dế mèn phiêu lưu ký, không hỏi tôi, không một lời cám ơn
tôi và cũng quịt luôn tiền và sách biếu. Không lơ đãng đâu, họ có thủ đoạn của
họ cả.
Và cũng lại vô khối
những ngông nghênh ngang trời của người cầm bút mà tôi biết, các nước khác
thôi, tôi chuyện cho sướng tai. Cái năm tôi đến nhà xuất bản Văn học ở Matxcơva
nhận tiền bản quyền Tuyển tập Tô Hoài in lần thứ nhất. Trong chuyện qua lại,
được biết nhà xuất bản đợi nhà văn Hêminuây sang lấy bản quyền, ông ấy đang xem
đấu bò tót ở Tây Ban Nha. Rồi Hêminuây trả lời ông sẵn sàng đến Matxcơva, đề
nghị nhà xuất bản mời cùng đi với ông một người bạn của ông đấu bò tót, ông
chịu tốn phí. Nhà xuất bản đã không được phép mời như vậy. Hêminuây không đi
Matxcơva. Lại như G. G Mackêt đã bỏ tiền đi thăm Việt Nam. Đi chơi thôi, mà về
G. G Mackêt cũng viết được một phóng sự dài về Việt Nam. Vợ chồng con cái đáp
tàu biển từ Thái Lan sang. Đi xem hát, thằng bé mười tuổi thích cái sáo. Khôi
Viên cán bộ hội Văn nghệ Hà Nội dẫn nó đến đoàn chèo Hà Nội nghe thổi sáo và
mua cho nó một cái sáo. Mackêt kể: Nhà xuất bản ở Matxcơva đã mời ông đến lấy nhuận
bút tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Thư ký của ông xem lại tập sách dịch, thấy một
số đoạn bị tước bỏ. Mackêt đã trả lời phản đối nhà xuất bản lược dịch không đến
lấy nhuận bút và huỷ bỏ chuyến đi Matxcơva. Mackêt cũng có một ý muốn thú vị.
Ông sẽ tặng giấy, nếu ta in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ yêu cầu không bỏ
đoạn nào. Bấy giờ sau 1975 mới một hai năm. Hơn hai mươi năm đã qua, mọi chuyện
vào quên lãng..
Thỉnh thoảng qua lại
Matxcơva nhận được đôi chút bổng lộc như thế. Các bạn còn nghĩ ra cách lấy tiền
nhuận bút sao cho thuận tiện. Bởi ở Matxcơva đi lấy tiền sách cũng lỉnh kỉnh
tương tự mua hàng. Trong tuần, có những buổi trả tiền nhất định. Đứng trước
chấn song lưới sắt, đưa hộ chiếu qua cửa mắt bò, nhặt cái bút bi đã buộc một
đầu dây vào góc bàn, ký ngoằng một chữ. Những tờ giấy bạc và đồng xu lại đưa ra
qua cửa mắt bò. Làm thế nào chỉ đi qua cũng có thể có tiền ngay được. Ira đã
mua cho tôi hai sổ tiết kiệm, cái đứng tên Marich, cái thì tên Ina Dimonina.
Tôi có tiền nhuận bút sách hay bài báo, nơi lấy tiền gần nhà bạn nào thì bạn ấy
nhận hộ. Sáng kiến gửi tiền sổ tiết kiệm cũng gần gũi với thói quen người thành
phố bấy giờ. Người ta có tiền, cả tiền lương cũng gửi tiết kiệm, thường tiêu
đến đâu lại đi lấy.
Năm 1990, tôi còn một
sổ tiết kiệm đứng tên Marich. Trong sổ chỉ có một rúp- một cách giữ để khỏi mua
sổ mới. Marich hỏi tôi: “Ông lấy một rúp ở sổ ra, giữ làm kỷ niệm Liên Xô” Bây
giờ cả nghìn rúp mới mua nổi mẩu bánh mì gối, tôi giữ cái thương đau ấy làm
gì”. Tôi bảo Marich đốt cái sổ tiết kiệm ấy đi..
Kể ra thì từ lâu sổ
tiết kiệm đã cạn kiệt tiền. Chỉ còn vài ba đồng, mà anh em mừng lại gặp mặt
nhau thì đông đủ sẵn. May gặp khi nhà phóng viên Misen có ở Matxcơva. Làm thế
nào cho có tiền, mọi người tính kế. Tôi được đề nghị viết một bài “đọc sách”
trên báo Sự Thật. Marich đi lĩnh được một trăm rúp, vừa đủ tiền. Tôi “đọc sách”
một quyển sách chưa đọc bao giờ hồi ký Dải đất hẹp của Brơgiênep!
Misen đã hết nhiệm kỳ
sau cùng ở Việt Nam, bây giờ thường trú ở Rôma. Trong cuộc chén Misen doạ sẽ
tìm cách cho tất cả bọn ngồi đây đi ý chơi. Rượu hẹn thế chứ chẳng cơn cớ nào,
mà Misen tiền đâu.
Thế mà Misen đã có mặt
ở Sai Gòn ngay trong năm 1975. Có lẽ vì cả mười mấy năm ở Hà Nội, việc của
Misen, bài viết của Misen tất cả tinh thần vì sự nghiệp giải phóng miền Nam
Việt Nam, bây giờ Misen phải đến, Misen phải tận mắt nhìn thấy, phải bước chân
trên thành phố giải phóng, Misen đã từ Rôma bay sang Việt Nam.
Tình cờ làm sao, tôi
gặp Misen ở Sài Gòn. Chúng tôi đưa nhau đến một địa chỉ đặc biệt của thời cuộc,
quán ăn của luật sư thượng nghị sĩ Phước Đại. Bà nghị sĩ và thày cãi có cỡ ấy
mở quán nhậu- quán nhậu vừa khai trương đã có tiếng. Bà Phước Đại hàng ngày đi
chợ mua thức ăn và phụ bếp. Khách vào phòng ăn ngồi giữa những giá sách đóng
gáy mạ vàng, có lẽ những bộ luật các nước trên thế giới. Những cô thiếu nữ bưng
bê mà chủ nhân giới thiệu là các cháu trong nhà, những sinh viên luật, những
luật sư mới tốt nghiệp. Rồi những năm về sau bà Phước Đại càng có tuổi càng đẹp
lão và có duyên trong mọi công việc, ly kỳ và mới mẻ hơn cả thời kỳ cái quán
hàng mà tôi nghe đồn Tổng thống Pháp Mittơrăng thăm Sài Gòn cũng đến đây nhậu.
Có lúc muốn làm thiếu nữ, và đi thi nói tiếng Pháp, giật giải nhất, được thưởng
một chuyến đi thăm Pháp- đất nước mà bà đã ở cả thuở thiếu thời. Bà đã đưa một
đội các lão bà thái cực quyền và đồng ca của câu lạc bộ ngoài trời vườn Tao Đàn
ra giới thiệu với câu lạc bộ ngoài trời hồ Hoàn Kiếm. Và không biết ai lĩnh
xướng, bà hát, bà hát...
Hơn hai mươi năm trời,
vẫn con người bay nhảy yêu đời Misen. Misen và tôi ngồi quán Phước Đại đến
khuya, khách đã vãn. Misen nói với Phước Đại chủ nhân: “Thưa bà, nếu có thể
được, xin bà cho xếp những chồng sách luật xuống đây kê làm giường, làm gối.
Nằm trên một núi trí thức thế, chắc ngày mai chúng tôi sẽ thông minh hơn".
Lâu lắm không gặp
Misen. Nghe tin mẹ anh đã mất. Thằng con như quỉ sứ làm loạn khách sạn Thống
Nhất năm xưa đã vào đại học từ lâu. Lại biết chuyện không vui lúc này Misen
bệnh dạ dày, phải kiêng. Misen mà bỏ rượu thì còn đâu là Misen. Báo Tin tức vẫn
ra. Misen có còn làm việc hay là bị cánh cải tổ đuổi đi rồi?
Còn đến bây giờ là đời
vợ thứ ba của Marich. Không phải Marich bỏ vợ mà Marich mất vợ, mất cả nhà. Trở
về mối tình đầu Marich với Ira, hai người lúc nào cũng quyến luyến trân trọng
đến với bạn bè. Dự tiệc nhà ông Simônôp, ăn cơm Grudia cụ Nicôlai nấu, đến sinh
nhật Sôlukhin hàng trăm khách. Sôlukhin đã viết bút ký Bưu thiếp Việt Nam rất
thơ, mà một lần ở Hà Nội tôi đưa vào hiệu nem Cát Tần ở phố Hàng Cót.
Thành phố đương qui đấu
tư sản, nhà hàng lơ lửng hé cửa nghe ngóng. Trên bàn trơ trọi mấy chai bia,
chẳng thấy cái cốc nào. Chủ hàng thì đương sợ bạt vía, khách thì về khoe cả
trong sách là được uống bia bằng bát kiểu phương Đông.
Nghỉ hè, Marich đưa Ira
đi chơi Buđapet. Oách quá. ừ anh ả đã cho cô ả thấy được cái đáng yêu của nhà
văn cũng đi du lịch nghỉ mát mùa hè, như ai. Đến khi tôi trở sang Matxcơva đã
thấy Marich ở một mình.
Thì ra chuyến chơi nước
Hung, gã đại lý hàng không Hungari ở Matxcơva đã quyến được lra. Đi nghỉ trở về
Ira đòi ly dị. May mà cô ấy lấy chồng nước ngoài giàu có nên Marich lần này
chưa mất nhà. ở Liên Xô kiện ly dị thì cả đôi bên đều bị phạt nặng và toà án
thường xử bênh phụ nữ. Đồ đạc trong nhà phải chia đôi. Cô ấy lấy một số tranh
và đĩa sơn mài của Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng mà Nguyễn Tuân và tôi đã tặng Marich.
Marích nói: “Tôi làm vẻ cao thượng, không cần gì. Cứ để nó lục lọi. Sau xem lại
mới biết nó ăn cắp của tôi nhiều quá, tất cả đĩa sành, đĩa sơn mài mấy tập ký
hoạ giấy đó tôi đi Việt Nam các bạn cho".
Cô Ira ấy vỡ cái mộng
lấy chồng nhà văn, dẫu cho họ đã từng yêu nhau. Cái cô thư ký kế toán này đã
làm con tính: nhà văn trẻ rồi thành nhà văn lớn, nhà hai buồng rồi nhà bốn
buồng, sáu buồng có nhà nghỉ, có xe riêng, như các ông Simônôp, Mikhancôp...
Nhưng đã mấy năm rồi
vẫn chỉ tàng tàng, những sang trọng phú qui cứ bay phất phơ như diều trên trời.
Còn cái chàng gà tồ Marich thì mất tiền đưa vợ đi chơi, lại để mất vợ lúc nào
không hay.
Marich ngoài ba mươi
tuổi đã lâu rồi. Cái trán hói đến đỉnh đầu không còn cần phải vắt cái đuôi tóc
lên che bớt. Chưa đến nỗi lụ khụ nhưng phải một quả đắng thế cũng đau điếng,
phờ phạc nhiều rồi, già rồi. Cô sinh viên Tania làm luận án tốt nghiệp bằng
tiểu thuyết Miền tây của tôi. Tania nhờ người dịch là Marich giúp đỡ Một lần
đến làm việc khuya quá, đón taxi về không được. ở phố nhà Marich không khuất
nẻo mấy mà đêm gọi taxi rất cực. Những năm ấy, taxi Matxcơva chưa có điện thoại
đón đưa khách như bây giờ ở Hà Nội.
Tania phải ngủ lại.
Tania cầm chìa khoá buồng làm việc của Marich rồi khoá trái. Marich bảo Tania:
“Tôi sắp chết rồi, cô khoá buồng hay cô mở buồng cũng thế".
Nhưng Marich không
chết. Marich chỉ bị một đòn chí tử. Đến khi lại người, lại được xơi đòn khác.
Một cuộc tình sét đánh. ở một đám cưới trên Lêningrat, Marich làm quen với
Ôcsana. Mươi hôm sau, nàng sách vali xuống Matxcơva ở với chàng.
Ôcsana kém Marich cả
hai chục tuổi. Người đẫy đà, khuôn mặt không ra Trung á, không ra Nga. Ông nội
cô ấy là người Trung Quốc. Marich nói người Trung Quốc ở đâu chẳng có, đội tự
vệ đỏ bảo vệ Lênin những ngày đầu Cách mạng Tháng Mười cũng có hai người Trung
Quốc đấy thôi.
Cuộc tình mới êm đềm.
Ôcsana sinh cho Marich được một con trai, thằng Alêchxanđơ. Alêchxanđơ kháu
khỉnh đáng yêu như con chó con. Bà nội ở Mônđavi về chơi luôn. Bà ngoại trên
Lêningrat thì xuống ở hàng tháng rồi ở hẳn. Tôi cũng được làm quen với bà ấy.
Bà nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, chắc khi còn trẻ bà đẹp hơn cô con gái. Rồi mới biết
ngày trước bà là nghệ sĩ múa. Bà nói là nhớ con gái, nhớ cháu, bà qui con rể,
bà phải xuống ở với chúng nó. Bà thành người hộ khẩu Matxcơva. Nhà có một
buồng, nhưng cái vui là chính.
Hai con mắt Alêchxanđơ
lay láy hệt bố và mới đầy năm mà vầng trán to đã vằn ngang một vệt mờ mờ, chắc
rồi lại hói sớm như bố. Nhưng cái vui với trẻ thơ cũng không hẳn làm êm thấm
được trong nhà. Dần dần nảy ra những rắc rối, mà tất cả bởi bà mẹ vợ.
Ôcsana không có việc
làm, bây giờ mới đương học đánh máy. Bức tranh tiền bạc tiêu sơ trong nhà thì
cũng tương tự như cái hồi Ira. Mẹ vợ có lương hưu tự cho là không phải nhờ con
cái. Nhưng nhà có con nhỏ thì tốn kém lắm không thể tính trước được. Mỗi tháng
một thứ tã lót, xống áo và đồ chơi- con cái người ta, ngồi xe dạo vườn hoa quần
lành áo tốt thế nào thì nhà mình cũng phải thế ấy. Mà tiền bạc của Marich lúc
này có phần còn khó khăn nhiều. Marich vẫn chỉ là người làm, lĩnh lương tháng.
Lại đã thôi việc ở hội nhà văn, sang tạp chí Văn học nước ngoài với hy vọng gần
gũi hơn với giấc mộng văn chương.
Đến năm tôi gặp lại
Marich thì anh chàng đã mất nhà, mất luôn cả vợ con rồi. Câu nói bông lơn của
Marich có thể thấu suốt mấy năm gian khổ vừa qua: Họ có mưu đổi Lêningrat về
Matxcơva, thế là Trung Quốc đã về Matxcơva chiếm nhà tôi, ông ạ". Ly dị xong,
Marich phải ra khỏi nhà. Alechxanđơ còn nhỏ, ở với mẹ. Tháng tháng, Marich đem
tiền ra bưu điện gửi cho Ôcsana nuôi con, như toà án đã qui định.
Nghe Marich kể thế. Và
lại bao nhiêu năm đã qua, Marich bây giờ ở với bác sĩ khoa sản Irina. Bác sĩ
Irina Ivanôpna goá chồng có một con trai. Họ gặp nhau thế nào không biết, tôi
cũng không bao giờ hỏi. Marich ở nhà của Ina, tầng hai cạnh ga cuối xe điện
ngầm ra ngoại thành, cũng gần sân bay nào, ngày đêm máy bay thường qua. Marich
bảo vùng này có tên ngày xưa là rừng Vua Săn Cọp.
Lắm lúc nhìn cảnh mà ái
ngại. Marich xuống hẻm trước nhà nghịch đá bóng với thằng con trai Ina, trong
khi thằng Alêchxanđơ thì chơi bóng ở đâu, với ai. Những năm sau, mẹ Marich yếu,
nghỉ việc, từ thành phố Kisinhiôc ở Mônđavi cũng về đấy. Rồi bà ốm, cô con dâu
săn sóc mẹ chồng cho đến khi mất.
Marich lại thôi việc ở
tạp chí Văn học Nước ngoài. Marich muốn được hoàn toàn tự do, dẫu cho biên tập
tạp chí cũng ít phải khuôn phép giờ giấc. Marich đã là hội viên hội nhà văn
ngành dịch, từ dịch thuật đến sáng tác, Marich vẫn theo đuổi mơ ước mà Ira mối
tình đầu và Ôcsana đều đã tan mộng nhà văn nổi tiếng.
Nhưng với bác sĩ Ina
thì đã êm đềm dài dài, họ không còn ở tuổi loăng quăng.
Việc mà Marich nghĩ bao
giờ cũng giản dị nhưng thực thì công phu, kiên trì. Dịch văn học Việt Nam, lấy
đấy làm chỗ đứng cho tương lai nhà văn trào phúng sẽ vang lừng thế giớl. Thỉnh
thoảng, Marich lại khoe một truyện đả kích bóng đá tỉnh lẻ, một truyện diễu cợt
và khinh bỉ một giám đốc nhà xuất bản văn học như chỉ ham chơi ngựa thi. Đến
năm không còn Liên xô, các thứ in ấn loạn xạ tràn lan trong lúc “cải tổ”, tôi
được Marich tặng một tập truyện ngắn trào phúng khoảng trăm trang, in ở
Matxcơva hẳn hoi. Tôi đã nhờ dịch in truyện ông giám đốc văn học chơi ngựa thi
trên báo Người Hà Nội.
Phạm Vĩnh Cư là anh em
kết nghĩa của Marich, từ khi Cư còn ở tuổi thiếu niên. Cư học phổ thông ở
Matxcơva. Marich có hai bạn trẻ thân thiết là Cư và Tước. Tước học khoa báo chí
đại học Lômônôsôp. Tước về nước, hồi đầu Marich có dịp đến Hà Nội, Tước đều gặp
Nhưng đến khi có chuyện canh chừng thằng bệnh xét lại, Marich vào khách sạn
Thống Nhất phải xách va li và làm thủ tục lấy thì Tước cũng biến. Không bao giờ
Marich nhắc đến tên Tước nữa. Chỉ có Cư vẫn bền chặt tình nghĩa đến bây giờ. Cư
cho tôi biết Marich dịch cẩn thận, nhưng chậm, thêm cái tính rề rà bẩm sinh.
Marich mua được cái bàn viết cũ mà Marich nói bàn này từ thời Nga hoàng, vua
Nga đã ngồi". Vua Nga đâu không biết, nhưng anh ta cứ ngồi tha thẩn cả
ngày không được một hột việc, dã đôi phen khiến bác sĩ Ina phải mất công đi các
nhà xuất bản khất hạn nộp bản thảo dịch cho Marich.
Ông nhà văn tự do và
thất nghiệp, thế là Ina phải gánh mọi việc trong nhà. Ina quê ở một tỉnh trên
sông Đông. Hầu như anh em họ hàng nhà ấy đều làm nghề y Nghề này ở tỉnh nhỏ còn
lắm bổng lộc. Nhờ vậy, dưới quê thường có gửi đỡ đần. Rồi lại lâu năm trong
nghề, Ina đã là chủ nhiệm khoa sản một bệnh viện lớn. Ina mới tậu một chiếc
Matda hàng ngày lái đi làm. Marich bảo tôi: “Ông nên cố gắng có dịp trở lại đây
mà ngồi xe của bà ấy. Tôi thì không bao giờ đi xe phụ nữ lái. Tôi sợ chết”.
Bố mẹ thì già đi, trẻ
con mỗi năm mỗi lớn. Alêchxanđơ của Marich đã vào đại học, bác sĩ Ina đưa nó đi
học y. Thằng bé mê bóng đá, đương sinh viên đại học y đã làm phóng viên tường
thuật bóng đá trên đài thành phố. Thằng con riêng của Ina thì tết nghiệp khảo
cổ, bây giờ có khi nó đi dạy ở Ixraen, khi sang Mỹ như thằng con trai anh vật
lý Bôrit trên Lêningrat. Từ lâu, vợ chồng Marich đã vào ở trung tâm, cái nhà
gần ngoại ô hay có máy bay bay qua nửa đêm, thằng khảo cổ ở.
Cho tới nay, vợ chồng
Marich đã đi Mỹ mấy lần ở chơi hàng tháng. Không phải là theo thằng con Ina
sang Mỹ có lớp giảng bên ấy. Mà vì cùng lứa tuổi học với Marich ở Ôđetxa,
Marich có mấy người bạn thân như Bôrit vật lý. Bôrit bây giờ có tiếng, ở biệt
thự trên Lêningrat, nhưng cũng chẳng có mấy tiền. ở nhà Marich, tôi bổ quả dứa
đem quà ở Hà Nội sang, vợ chồng Bôrit nhặt vỏ dứa ăn hết cả mắt. Anh bạn Ilya
cũng tốt nghiệp vật lý như Bôrit nhưng không tìm được việc, phải di cư đi nước
ngoài. ở Mỹ, Ilya chỉ làm chuyên môn, nhưng đã triệu phú. Anh về nước chơi
nhiều lần. Tôi có nghe điện thoại anh ấy chúc sức khoẻ và gặp ở nhà Marich.
Marich cho tôi xem tập
ảnh vợ chồng Marich chơi nhà bạn bên Mỹ. Thôi thì buồng khách, bể bơi, vườn bên
sườn núi và bãi cát giả, nhà có ba người thì ba ô tô...
Mới đây, tôi viết thư
khoe với Marich tôi đi Quảng Châu về. Marich lại đùa một cách mỉa như thói
quen: Vợ chồng tôi lại sắp đi chơi nước Mỹ. ừ, những người danh tiếng như chúng
ta thì nhất định phải đi du lịch các cường quốc trên thế giới".
Cũng như Misen, khi Sài
Gòn giải phóng, vợ chồng Marich đã cố .
Chương XVII
Ít lâu sau, Ina và Lêon
ly thân. Rồi Lêon nhảy cửa sổ tự tử. Không khi nào tôi hỏi Ina những chuyện ấy
Một lần Ina đến Hà Nội. Trong một buổi tiếp đoàn nhà văn Liên Xô trên khách sạn
Thắng Lợi, Hoàng Trung Thông đứng lên, nâng cốc, sốt sắng. Không ai kịp cản,
bởi không biết Hoàng Trung Thông nói một câu như thế. Thông nói: “Lêon dạo này
thế nào? Đã xong quyển sách về Sác chưa? Cho tôi gửi một chén chúc sức khoẻ
Lêon". Ina cúi mặt, không nói gì.
Mấy
năm sau, Ina lấy hoạ sĩ Iuri. Rổ rá cạp lại, nhưng mà yên vui. Hoạ sĩ đồ hoạ
Iuri chuyên phục chế tranh cổ, nghe nói làm ăn khá. Vương Trí Nhàn đưa tôi đến
gặp Ina chỗ đấy là xưởng vẽ của Iuri. Vợ chồng có một nhà nghỉ cách trung tâm
hai trăm cây số. Ina nói: “Chúng tôi bây giờ ở chùa xa lánh trần gian".
Thế cũng là thoả. Đời người ta còn có hậu.
Tôi với Ina vô duyên,
nhiều khi chỉ vì những rắc rối không đâu rồi giận nhau. Có lần tôi gửi thư đi
Ba Lan lại bỏ nhầm phong bì cho Ina, Ina trả lại, đánh mấy dấu than. Có lần đi
với Iuri đón tôi đi chơi nhà ngoại thành, hôm sau tôi về Hà Nội. Khách sạn Nước
Nga mênh mang, cửa trông ra bốn phía. Vợ chồng đợi ở cửa tây, thì tôi lại ngóng
cả buổi bên cửa bắc, mà tôi yên trí đấy là cửa tây. Từ bấy tới bây giờ không
lần nào gặp lại, thư chúc tết cũng không thấy đáp lại.
Nếu Ina vẫn giận tôi
cái tật không nhớ đường và quên mặt người thì có còn khi nào để xin lỗi được.
Nhưng biết đâu nhỉ, như cuộc gặp không hẹn với Marich đây.
Quán Cây Sâú, bác sĩ
Nam Thanh mở quán chẳng biết để kinh doanh hay là một sự hoài cổ cho nó khuây
khỏa bóng chiều. Những khuya vui, bà đệm đàn hát cho vài người nghe những bài
hát ngày đầu kháng chiến của Phạm Duy, của Tử Phác... Lưng khoác chiến y. Mà
hồn mang bóng quốc kỳ... Quay quay thương nhớ quyến vào tơ... Bà đưa rót rượu
ngâm nam sâm, nhẹ và dịu của bà pha lấy. Marich khen ngon và bà biếu ông khách
xa một chai.
Marich lại khẩn khoản
bảo:
- Làm thế nào cho tôi
được trông lại cái khách sạn Thống Nhất, một phút cũng được.
Khách sạn Sôphiten
Mêtrôpôn bốn sao nhất thành phố. Không nguy nga như Đai U, như Bảo Sơn,
Sôphiten Mêtrôpôn hơn người vì dinh cơ này đã vào hạng lão lai trăm tuổi, vẫn
dáng lâu đài Pháp thế kỷ 19. Bên trong chắc là bây giờ không còn những buồng
hạng cuối, quạt trần quay lọc cọc trên đầu và khăn trải giường lấm tấm những
chấm ố vàng của thời Hà Nội ngày nào cũng có báo động khách phải chạy ra hầm trú
ẩn ngoài sân cạnh cái chuồng khỉ mà Marich đã được nếm mùi. Cả cái cửa ra vào
quay như cối xay gió mà Đôngkixôt huơ gươm đánh, ngót trăm năm người trong làng
ra Kẻ Chợ đã đứng xem cái cửa quay cả buổi cũng bị vứt đi rồi. Sôphiten hiện
đại lại có cả khách sạn nhánh trên Đà Lạt.
Hôm sau, tôi điều đình
được một chuyến cho Marich đi “xem” khách sạn. Chúng tôi vào quầy rượu, ngồi
lên cái ghế đẩu ngật ngưỡng. Trước kia, cô Linh Phi kịch sĩ đổi nghề đã ngồi
bên cái két trong kia. Tráng lệ quá, các cô bán hàng yêu kiều giữa cái quầy
lóng lánh như gian thờ mẫu đền Cửa ông. Cô đang nhoẻn nụ cười với một ông Tây.
Cái khi tôi hay còn lai vãng đây cô ấy chưa chắc đã đến tuổi học lớp 1.
Tôi giới thiệu với cô:
- Ông này người Nga,
trước kia năm nào cũng sang và ở khách sạn này. Ông ấy muốn nhìn lại chỗ ở cũ.
Cô hàng đon đả:
- Mời các ông lên gác
hai, hỏi ông quản trị người Pháp. Ông ấy sẽ bảo met ô ten đưa đi. Khách sạn này
cũng hay có khách tham quan như các ông.
Nhưng Marich buồn buồn
nói:
- Tôi ngồi đây cũng
được. Ngày trước tôi vẫn ngồi đây uống bia và trông thấy tất cả. Cái lối xuống
nhà ăn, à cái chuồng khỉ ngoài sân, còn không?
Cô hàng đáp: “Không
biết. Trước ở đây nuôi con khỉ à". Rồi cô khen: “Ông ấy nói tiếng ta rành
quá".
- Thì người Nga với ta
là anh em một nhà mà".
Cô hàng cười, nửa ngờ:
“Cháu có thấy mấy người Nga đâu. Ông nói đùa thế nào...”
Tôi bảo:
- Cô cho hai lon
huyckên. Chúng ta uống bia như ngày xưa.
- Khách nước ngoài trả
đô la.
- Tôi thì trả tiền Việt
Nam chứ, cô?
Rồi chúng tôi cũng chỉ
uống bia Hà Nội. Marich nhấm nháp vài ngụm rồi lặng im.
Khi trở ra, Marich nói:
- Chắc không bao giờ
còn vào đây, mà cũng không vào nữa.
Tôi cũng nghĩ tương tự
như Marich về những Matxcơva, Lêningrat, Ôđetxa... Bởi vì chẳng may mà tôi đã
chứng kiến những ngày tan rã năm 1990 ở những nơi đấy bây giờ ra sao? Tôi sợ,
tôi không muốn biết.
ở các quán Grudia nghe
tiếng nhạc núi uống một sừng rượu, ăn lobiô đậu răng ngựa với trađi bánh ngô,
hào hứng chuyện văn chương Việt Nam ra thế giới tiếng Nga đương vùng vẫy năm
châu. Lại ra vùng Bachicharai thắng cảnh Yanta, lên cổng đá nhìn... Kéo quân ra
cửa Hùng quan. Chim muôn tiếng hót, hoa ngàn hương đưa... Bây giờ thì Chuyện nỏ
thần, Nhà Chử mà Marich đã dịch, bỏ xó. Tôi xin chào tôi nhớ lại buổi đầu xiết
bao hớn hở gặp Matxcơva năm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga bốn mươi tuổi.
Tôi đưa Marich một ít
tiền. Marich cầm tiền, nhìn tôi, mắt rưng rưng, nét mặt và cử chỉ phảng phất
ngượng nghịu, lại thân thương.
Marich nói: Tình bạn
của chúng ta không biết có thời gian đâu. Tôi vẫn thế, ông ạ. Tôi không buồn
như lần sau cùng ông ở Matxcơva năm trước. Tôi không xin lỗi vì chẳng đại diện
cho ai mà xin lỗi được. Cho tôi gửi lời thăm ông Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Đình
Thi, Nguyên Ngọc.
Năm trước, cái lần sau
cùng tôi rời Matxcơva, sự tan rã thật trở trêu và khốn khổ. Tôi đi nghỉ
Pitsunđa bờ Hắc Hải khu tự trị Apkhadi nước Grudia. Tôi đi với con gái tôi, con
Sông Thao. Bấy giờ thì còn yên, nhưng sau đấy, chiến tranh đã xảy ra. Apkhadi
nổi lên đánh nhau với cộng hoà Grudia đòi độc lập. Đã hơn mười năm rồi đôi bên
vẫn giằng giựt từng đường phốvà mỗi ngôi làng, không biết bây giờ bờ biển
Pitsunđa đổ nát, hoang vắng đến thế nào rồi.
ở Pitsunđa trở lại
Matxcơva, bố con tôi mua vé xe hoả đi Đức. Con trai tôi, Đán đương làm thợ bên
Laixich. Từ Nga qua các nước Đông âu đương náo động lung tung. Những mắt thấy
tai nghe trên đường đi đã khác lạ lắm. Người nhà tàu Ba Lan uống rượu từ chặp
tối rồi suốt đêm chúi vào xó nào, chẳng thấy ai.
Hải quan đi từng tốp
khám ráo riết. Nhiều người Việt Nam bên Ba Lan- sinh viên, người đi lao động,
cán bộ, sang Nga buôn thịt hộp, bánh mì. Vacsava đương khan tết cả cái ăn cái
uống. Họ chỉ cho tôi những người Hà Lan cùng toa, cũng những tay buôn, buôn lậu
cò con. Hai bên đã ăn với nhau, chỉ khám làm phép. Cả một toa buôn trá hình,
hải quan soát từng người, từng ghế mà chẳng bắt được ai, cái tàu rầm rập chạy
thâu đêm. Các cô các cậu si nh viên mời tôi: “Bác xuống Vacxava với chúng cháu
vài hôm, hay lắm". Chẳng biết hay thế nào. Đến Beclin vẫn thế, nhưng cảnh
khác, những cô cậu ta bán hàng, đứng như người gỗ trên vỉa hè, cánh tay vắt đệp
khăn mặt, cà vạt, áo gió. Thuốc lá thì nhét ngực áo, dưới mũ. Chốc chốc, cảnh
sát xộc đến, lại chạy. Hàng xén rong và cảnh sát rình nhau, đuổi nhau đến
khuya. Cả người đương đi học cũng ra đứng đường hết. Không phải ham buôn, mà
không đâu cho phụ cấp, không trả lương, phải ra đường kiếm cái ăn lấy.
Đông Đức rỗng không
chính quyền. Mọi mặt xã hội và đời sống sinh hoạt cứ trong cái guồng có sẵn.
Còn hai tuần nữa mới bầu cử. Trên tường, các thân cây dán chi chít áp phích cồ
động của các mặt trận, các đảng: PSD, CDV, CDS, đảng Xanh cổ động đi xe đạp...
Nếu ở Mỹ người ta vẽ con bò, bắp ngô để nhớ mà bỏ phiếu thì ở đây là những chữ
tắt ấy, in to tướng. Cũng không buồn hỏi xem đảng Xã hội Thống nhất nó là CD
nào. Bởi chắc chắn nó sẽ thua phiếu.
Đương nô nức “cải tổ”,
vứt cái cũ đi mà. Phố xá vẫn tấp nập bình thường. Cái xe phun nước, những
chuyến tàu điện chạy đến khuya. ở các nhà nghỉ con con trong góc vườn, bếp nấu
đun củi, trên bờ rào lila một làn khói vẩn vơ. Chỉ lạ mắt có một đám đầu trọc
một nửa, tóc nhuộm đỏ. Năm ngoái tôi đã trông thấy bọn đầu trọc đi cả đàn thế
này trong các phố bên Tây Beclin.
Bây giờ chúng kéo lũ
sang đây, có những đứa vác gậy, cái thang gấp, đi nhông nhông. Trông thấy cảnh
sát, chúng nó xỏ ngón tay vào lỗ mũi, cười hích hích.
Tôi ở ngoại ô Lai Xich
một tuần. Con tôi có ý muốn ở lại Lai Xích vài năm. Nhà máy vỡ nợ, đóng cửa.
Nhưng nó đã tìm được việc ở một trại trồng hoa, bán hoa.
Tôi đã đến chơi chủ
trại có hai đứa nhỏ rất quyến luyến con tôi. Chả là Đán nhiều tài vặt, dễ làm
vui bọn trẻ con.
Trở lại Matxcơva, phố
xá chợ chiều, mua bánh mì sắp hàng. Cảnh nhốn nháo xảy ra trong các cơ quan.
Một người ở ban đối
ngoại gặp tôi và nói: đáng lẽ đồng chí về Việt Nam tuần trước, lại đi Đức, thế
là quá hạn một tuần, “chúng tôi không còn trách nhiệm với đồng chí nữa".
Tôi không nơi ở, không
còn được đưa tiền ăn và dẫu muốn cũng không còn gặp được ai, không phải vì
không muốn gặp tôi, mà cả cơ quan hội nhà văn đương lung lay, nháo nhác, không
làm việc.
Ira cầm vé máy bay đi
đăng ký cho tôi về Hà Nội. Thật ra vé máy bay không phải việc của Ira, nhưng
các bộ phận khác không còn ngưòì, Ira đã đến Hà Nội một lần và Ira đã lo mọi
việc hôm tôi đi Pitsunđa. Đến trưa, Ira về, nói hồi này nghỉ hè, người đi Việt
Nam nhiều quá. Cứ ghi tên ông vào đấy, nhưng có lẽ hàng tháng mới đến lượt. Ira
lại nói: “Tôi đương bận việc sửa cái nhà nghỉ ở ngoại ô. Tuần lễ sau tôi mới
đến đây”. Đối ngoại ở bộ phận này có mỗi mình Ira. Tôi không có chỗ ở. Không
tiền ăn. Có nghĩa là cô ta bỏ khách thẳng thừng. Marich đến hỏi đã đăng ký được
vé Hà Nội chưa. Tôi kể chuyện. Marich nghĩ ngợi gì một lát, rồi nói: “Ira nói
dối thôi. Công việc đi đăng ký vé là của người khác. Con mẹ này vẫn nói nó rất
ghét Việt Nam. Thế là các mụ mất dậy bỏ việc đấy". Bây giờ mới nghe tận
tai có người nói ghét Việt Nam. Cũng có khi có người đã nói, mà tôi chỉ đi với
các bạn, nếu bạn không nói lại thì làm sao tôi biết được thế nhưng cũng có khi
biết. Lần ấy, Marich và tôi đi Lêningrat, buổi chiều xem tàu Rạng Đông rồi về
nhà Bôrit. Trong bữa ăn, một anh bạn Bôrit nói: “Chưa bao giờ nước Nga hùng
mạnh nhất thế giới như bây giờ, nhưng tại sao nước Nga vẫn nghèo, vẫn thiếu.
Bởi vì của cải nước Nga bị đem rải ra khắp nơi, châu á, châu Phi, Mỹ La tinh,
trong đó có Việt Nam của mày”. Marich cười nói với người kia câu gì rồi bảo
tôi: “Thằng này say rồi nói mất lập trường, tôi không dịch".
Tôi cũng chỉ đảo qua
đến hội nhà văn Liên Xô. Không còn là cơ quan như mọi khi, không ai ngồi trong
phòng, nhưng túm tụm ngoài sân. Marich cũng không đến đây, bởi anh nói: “Tôi đả
đảo cái hội nhà văn bảo thủ. Chúng tôi lập hội nhà văn đổi mới rồi”.
Marich đã tìm cho chỗ ở
tạm tại trường Goocky.
Không phải ở phòng
khách, mà cái phòng chứa đồ đạc, mền, đệm linh tinh. Marich và hai bố con tôi
khuân dọn lại cho gọn. Tôi ở đấy mấy hôm, hai lần người quản gia mời xuống bảo
phải đi. Marich nói thế nào đấy hay Marich đã đút tiền cho nó, thế là lại yên
yên và hồi hộp. Buồng bên cạnh, vợ chồng một người Trung á hay Mông Cổ và một
đứa con nhỏ, ở bình thường. Người chồng mặt lầm lầm, có vẻ lén lút, chắc cũng
trọ chui như tôi. Mỗi ngày, Marich đên, ngơ ngẩn chơi rồi chúng tôi ra quán nhà
mâu ăn cơm bụi, Mỗi người bưng một khay bánh mì đen và mấy viên rán thịt lợn
băm viên. Bia rượu thì không ngửi thấy mùi đâu nữa rồi. ở vỉa hè bên kia đường,
một xe tec bia hơi đến đậu đấy. Người xúm xít như những con kiến bâu quanh
miếng mồi. Người tay không, người cầm chai, cầm cái xô. Đám sâu bia kia mặt bệu
đỏ đã uống ở đâu lại đến xông vào mua uống tiếp. Tôi chỉ nhìn các bợm bia, sâu
bia xoay xoả lộn bậy với tình thế này. Bia nhạt thếch, chỉ bia chai nhỏ
Matxcơva còn vị đậm một chút, nhưng không đâu đó. Nhìn người chen chúc, hung
hăng, đã xa lắm rồi, đã thôi rồi cái hồi cô Ina Dimonina cứ đi mua bán giữa đám
đông sắp hàng, nói Việt Nam, Việt Nam, là người dãn cả sang hai bên.
Đến ở chui ở nhà trường
Goocky- tưởng như ở đấy là những chốn nơi, những gian buồng có ma ghê rợn như
nhà Hôp Man. ấy là đương dịp nghỉ hè, vắng người lên xuống tấp nập. Các học
viên Việt Nam còn ở lại có Trần Đăng Khoa và Trần Nhuận Minh mới sang chơi với
em. Đương giữa con sầu não được Khoa thết bữa cơm có canh tai chua, tưởng như
đã thoát được về đến nhà.
Trời rét cóng cá, nhưng
tắm giặt vẫn phải theo lệ Cái ngày đến nông trường Cờ Đỏ ở Udơbêkistan, cả lũ
trần truồng tắm hơi, lại như thuở nhỏ đến trường bị đi tắm chữa ghẻ. Cũng chưa
kỳ hình dị tướng bằng tắm ở đây. Một chục người đứng dưới hai cái vòi, nước xả
xuống, người ghé vào, người chạy ra, như những con nhộng có chân. Tôi bỗng liên
tưởng năm xưa trông thấy tù binh Anh bị giam ở Pnôm Pênh, lính Nhật giải ra
sông tắm, nắng rám mình mẩy đỏ như con tôm luộc. Tôi thấp lũn chũn đứng vào một
vòi giữa đám thanh niên cao lớn, lông lá. Quần áo thì đút trên khe cửa sổ trước
mặt. Cũng chẳng ai để ý tôi.
Nhưng tởm nhất cái
chuồng xí. Tôi đã được biết kiểu chuồng xí công cộng lộ thiên ở chân Vạn lý
Trường thành, liền cả chục cái lỗ, không vách, không tường, người đứng lên,
người ngồi xuống nhăn nhó, người lẳng lặng bước vào. Đằng này là một kinh rợn
khác. Mỗi lần đi phải mang một tệp giấy báo để lót chân, lót đít. Cái nhà xí
hỏng đã lâu, nhưng hàng ngày vẫn dùng, vẫn phóng vào đấy. Những ụ phân chồng
chất, tràn trề, không biết một ngày, mấy ngày người ta tháo đi thế nào, lấy đi
thế nào.
Hơn ba mươi năm trước,
ông thường vụ Kec Babaep ra ga xe lửa đón tôi, trang trọng thân tình. Ông mất
đã lâu, ông không được chứng kiến những ngày tàn tạ này. Tôi kể cho Marich nghe
những cái tôi thấy và tôi đương nghĩ. Marich phân trần khéo: “ ở Hà Nội của
ông, trước mặt cái nhà thì nhìn được, đằng sau cái nhà thì cũng nhiều thứ không
được, à nói cho chính xác, nhiều thứ chưa được". Nó nói cũng chẳng ngoa
gì. Có lần tôi đến khách sạn Hoà Bình thăm G. Buđaren. Anh ở tầng ba, nhưng
phải xuống nhà vệ sinh tầng một. Trên ấy ngập nước, khoá trái. Marich bảo tôi:
“Hay là ông và con gái về nhà tôi đi vệ sinh, tắm giặt".
Cũng đến phải như thế
mới ra khỏi chỗ quỷ ám này, nhưng hôm sau chúng tôi được vé về Hà Nội. Ban tiếp
tân của sứ quán ta đăng ký được ngay. Không phải chờ hàng tháng như cái người
hội nhà văn đã doạ thế. Ira gọi điện thoại cho tôi. Vẫn nghỉ phép và ở ngoại
thành chữa nhà. Nó xin lỗi bảo có người khác đưa chúng tôi ra sân bay. Tên anh
ta là Vichto và Ira cho tôi số điện thoại. Thôi tôi chỉ mong đi được. Cũng
chẳng có phàn nàn gì. Cả nước người ta còn đương loạn lên cơ mà.
Marich gọi điện thoại
cho Vichto rồi bảo tôi: “Chỉ có thằng say rượu lảm nhảm...”. Tôi cũng gọi. Nghe
đáp tiếng Nga, tiếng Pháp lè nhè líu lưõi.
Sớm tinh mơ, lại gọi
điện thoại Vichto. Bây giờ thì không có tiếng đáp lại. Tôi nói: "Có thể
anh ta ra sân bay rồi". ở sân bay, chỗ cửa về Hà Nội chen chúc hỗn độn
nhất. Người chạy ra chạy vào như úi lên. Người đứng rình những ai hành lý nhẹ,
đưa tiền cước nhờ mang hàng hộ. Người đẩy hàng qua rào sắt, cái rào bị chen
lung lay sãp đổ. Cảnh sát đến vung roi cao su lên vi vút đánh xuống đầu, xuống
vai. Tôi chưa trông thấy ở sân bay này cảnh đánh người thế bao giờ. Người ngồi,
người chạy, người khóc hu hu.
Vì bị đánh đau, vì lạc
mất hàng...
Giữa đám nhốn nháo, tôi
cầm mảnh bìa các tông có chữ Vích to giơ cao trên đầu. Chẳng thấy Vichto đâu.
Không phải nó đi sân
bay. Bây giờ Vichto ngủ giữa cơn say rồi. Và Ira đã nói dối, nói láo. Mảnh giấy
bìa tôi cố giơ lên kia như là cái dấu hiệu sau cùng gọi:
Vich to... Liên Xô...
Liên Xô... Nhưng không có tiếng thưa. Rời Matxcơva, chỉ nghe trong đầu tiếng
adieu Moscou. Cái “vĩnh biệt Matxcơva” này mới thấm thía, mới đau làm sao.
Thôi thôi, để tôi kể
nốt về những người bạn những thuở còn ngày tháng tiêu dao. Chính ra, anh Vlat
chẳng bận đến tôi. Cũng ở ban đối ngoại như Marich, như Ina, nhưng Vlat lo về
các nước châu Phi nói tiếng Pháp.
Mỗi khi châu Phi ngơi
việc thì Vlat lại giúp bên này. Vlat có cái băn khoăn ngây ngô là Việt Nam rất
xa châu Phi, xa nước Pháp mà lại có người nói tiếng Pháp.
Vlat là người hướng dẫn
và phiên dịch đoàn nhà văn Việt Nam đầu tiên thăm Liên Xô năm 1956, trưởng đoàn
Nguyễn Văn Bổng. Trong những bạn phiên dịch thường gặp, tôi đã đi nhiều với
Vlat.
Vlat không phải người
Nga. Vlatlen nguời dân tộc nước cộng hoà tự trị Chu Va. Dân tộc thiểu số ít
người và ở phân tán, Vlat không biết quê ở đâu, nhưng chẳng bao giờ đi tìm. Chỉ
nói: “Thằng người Chu Va đã thành người Nga cả rồi, như tao". Bố Vlat là
người hoạt động trước 1917, có cương vị lớn ở khu tự trị nhưng ông đã bị xử bắn
trong một đợt thanh trừng của Xtalin.
Bấy giờ Vlat còn nhỏ,
học tiểu học. Có lần đi thăm cộng hoà Grudia, Vlat đã cung tôi về Gôri quê
Xtalin. Chúng tôi ngắm bức tượng Xtalin đồ sộ đứng đầu làng- bức tượng hiếm
hoi, từ Matxcơva đến đây mới thấy một bức. Và xem túp nhà của bố Xtalin thợ
giày, Xtalin đã ở đấy cả thời niên thiếu. Nhà có mỗi một gian, ông cụ khâu
giày, đóng đế, lại cũng ngủ và ăn uống ở đấy.
Cả túp nhà được đặt
trong một lồng kính sáng choang. Vlat nói: "Lịch sử là lịch sử, không ai
thù lịch sử bao giờ". Vlat ở Matxcơva với mẹ và em trai. Chiến tranh thế
giới, em của Vlat đương học đại học thì phát xít Đức đánh đến ngoại ô Matxcơva.
Cả Matxcơva ra trận, em Vlat đã hi sinh ở ven đường mà Vlat ra sân bay đưa đón
khách thường đi qua, bây giờ là những chiến luỹ và dây thép gai tượng trưng
sáng đèn suốt đêm.
Còn lại một mình Vlat
với mẹ. Khi tôi biết Vlat thì mẹ Vlat mất bệnh mới hơn một năm nay. Từ khi mẹ
chết, ít lúc Vlat về nhà. Đêm đêm, Vlat vạ vật ở nhà bạn nào đó.
Đi Lêningrat, tôi muốn
có một vài cuốn sách đọc ban đêm. Vlat bảo về nhà tìm, có thể có. Nhà Vlat
trong một ngõ hẻm nhưng ở trung tâm thành phố, trông ra thấy tường điện Kremli
ngang trước mặt. Ngoài đại lộ lúc nào cũng ngộn người và xe cộ, trong hẻm thì
yên tĩnh, tiếng ồn ào chỉ vang lại, gợi một cảm tưởng hẫng kỳ lạ. Vlat ở căn
phòng tầng hai một toà nhà cổ. Vlat vừa cho khoá vào ổ, vặn lạch cạch, buồng bên
cạnh đã có người hé nhìn
ra. Chủ nhà lâu không về, biết là ai động cửa, có thể kẻ trộm. Nhà Aliôsa
“Simônôpcon” ở tầng một, trần nhà treo chùm đèn đẹp ánh thuỷ tinh rực rỡ gian
phòng. Thế mà, trộm đã vào nẫng mất. Khi biết là Vlat, cánh cửa lại ập lại. Căn
buồng đã lâu không người. Cửa sổ mấy lần kính mà trên mặt chồng sách bụi phủ về
vệt. Cái điện thoại cắt dây từ bao giờ, chỏng trơ giữa bàn. Chiếc giường gấp
dựng một xó. Một chiếc giường đệm ở góc buồng. Vlat bảo: “Mẹ tôi nằm giường
này, tôi vẫn để nguyên". Chiếc gối ghếch một bên, tấm chăn hoa mỏng gấp
một nửa, như người vừa trở dậy.
Vlat lục được một quyển
sách nghiên cứu về mèo đưa cho tôi mang đi. Vlat nói: “Nhà tôi trước nhiều mèo
lắm. Phải mua sách này để hiểu chúng nó. Mẹ tôi chết, chúng nó bỏ đi cả. Anh
đọc trong sách sẽ thấy những con mèo rất giang hồ cũng rất gia đình. Có thằng
mèo bỏ đi chơi mấy thành phố lúc quay lại vẫn tìm về được nhà cũ. Tôi thì ngủ
đâu cũng được, tôi đi khỏi thì quên nhà. Tôi không bằng những thằng mèo".
Không phải tôi đến
Lêningrat lần đầu. Tập ký sự Thành phố Lênin của tôi xuất bản đã được mấy năm.
Nhưng mà nhớ Lêningrat
bao giờ cũng nhớ đầu mùa xuân, những tảng băng tan ngổn ngang sông Nêva, suốt
đêm va vào nhau như con sông nghiến răng, sáng ra còn rùng rùng chuyển động.
Mùa xuân đã về, sông nhánh Môica của tôi hé mặt nước sáng trong, người đi đường
cao hứng cũng không bước qua những tảng băng ngang sông được nữa. Lại nhớ sáng
sớm chiều tối ở Hà Nội uống bia hơi với hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười, càng nhớ, chao
ôi...
Thế là đi Lêningrat, để
lại những lo toan và chơi nhởi hàng ngày ở Hà Nội mà vẫn vương vấn Lêningrat.
Thế mới lạ. ở bờ tường
bên kia viện Mắt, phía chợ Hôm đi xuống, thấy treo một cái bảng con con chữ sơn
xanh: “Ragu, bít tết thỏ và các món". Những năm ấy, cái quảng cáo thế khá
lạ mắt. Bởi vì trước các nhà dọc phố chỉ thường thấy thòi ra mảnh giấy dán cánh
cửa sổ: Nhận lộn cổ sơ mi hay một miếng bìa: Cơm nồi nước sôi – Khối phố...
Tôi nói với Nguyễn Tuân:
- Dưới kia mới có quán
thịt thỏ, các thứ ragu, bít tết..
- Được đấy
Tôi khoe thịt thỏ với
ông không phải vì biết ông ưa thịt thỏ mà chỉ vì biết răng ông đã kém, đến cao
lâu 202 chỉ nhấm nháp được món phá xi cua hấp. Ông Nguyễn bảo “được đấy” có thể
chỉ vì thịt thỏ mềm. Chúng tôi đến quán nọ. Cái bảng quảng cáo lắc lư đỏng đảnh
bên tường trên hai cửa sổ rèm vải hoa xanh nhạt. Nguyễn Tuân đứng lại ngắm rồi
gật gù “Được", sau mới bước vào.
Một ông đã đứng tuổi,
áo đại cán kaki ximăng, người nhỏ nhắn, nhanh nhảu, lịch thiệp, hai tay giơ mời
khách.
Những chiếc bàn kê góc
tường, khăn bàn trắng. Đằng kia, trên quầy bày hai hàng chai rượu quí, có chai
còn bọc rơm. Chắc chỉ là chai không để trang trí. Giời đất này đào đâu ra những
của hoạ may mớt có ở trên thiên đình. Đến nhà hàng Bôđêga trên Tràng Tiền cũng
chỉ bán một thứ vang nước Bun chua như dấm- mà mỗi lần được mua tiêu chuẩn có
một chai.
Không thấy ngưòì khách
nào. Vừa chiều, chắc chúng tôi đến hơi sớm. Tôi hỏi:
- Mấy món đề ngoài bảng
hôm nay có đủ chứ?
ông chủ vui vẻ đáp:
- Xin lỗi hai cụ, chẳng
có món gì cả.
- Hôm nay nghỉ hàng à?
- Bẩm, nhà cháu đóng
cửa rồi. Chưa kịp bỏ cái bảng.
Chúng tôi cũng chưa kịp
tò mò đầu đuôi ra sao thì ông đã cắt nghĩa- nét mặt bình thản như chuyện hàng
phố, không phải chuyện nhà ông vỡ nợ.
Tại hàng ế thôi. Bán
hàng sống mà vài hôm vắng khách thì đi đứt ạ.
Tư dưng, cũng cửa hàng
này, lúc nãy trông trang nhã, đẹp đẽ gọn gàng thế bây giờ bỗng đượm vẻ quạnh
vắng, ủ ê, nhìn thương thương, tội tội như khi ta vào nhà hiếm trẻ, chỗ nào
cũng quá gọn ghẽ, quá ngăn nắp.
ông chủ quán cười cười,
chào chúng tôi: .
- Tuần sau, nhà cháu
với mậu dịch canh ty mở bia hơi. Mời hai cụ...
Cái thư ngày 26- 6-
1966, Nguyễn Tuân gửi lên Lai Châu cho tôi, có câu:
“Ông cao lâu nhà thương
đau mắt chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay tại đó, ấn vòi bia
theo giờ nhà nước, tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút không viết bài
nào...”
Ông cao lâu Ragu thỏ ấy
đấy. Tôi cũng chưa bao giờ hỏi tên ông.
Tôi đến quán bia ông
Ragu lâu dần thành lệ. Tôi đến theo thói quen, dửng dưng không để ý, uống bia
giết thì giờ, tôi lơ đãng cả với ông Ragu hễ vừa thấy tôi ông đã rảo bước ra,
mời vào một góc lau bàn, ông dẹp mấy cái cốc uống dở. Dần dà, tôi cũng nhận ra giữa
đám người uống đứng uống ngồi, cũng có người như tôi, đến uống vào quãng chiều.
Cái ông ngồi trước mặt cũng có tuổi, người cao xương xương, thanh mảnh, trắng
trẻo. Nghe tiếng Nam Bộ thì chắc là cán bộ tập kết. Ông uống từa tựa tôi, mỗi
cốc làm một hai hơi rồi ngồi thừ ra, không nhắm nhót lạc ngọt, nem chua, mực
nướng gì cả.
Chúng tôi mỗi người đến
một lúc, nhưng hàng ngày hay gặp nhau. Những khi ấy dù ông Ragu có đương tíu
tít rót sirô vào bia cho khách, ông cũng vội ra lấy hai cái cốc vại, bấm vòi bia
cho xuống đầy ngấn, ít bọt. Tôi tò mò đoán về ông uống bia ngày nào cũng gặp Bộ
đại cán không mới nhưng có nếp là, không dây dầu mỡ. Bàn tay chắc chắn, nhưng
không thô.
Người bàn giấy thì phải
rồi. Nghề gì, làm kế toán, cán bộ nghiên cứu, nghề văn hoá hay nghề y. Đây gần
nhà thương, các con nhà y cũng hay ra uống tợn.
Nhưng nhất định cái ông
nói giọng Sài Gòn này cũng dân chơi. Có khi ở tuổi ông, xưa đã từng uống bia
bốc buổi chiều ở cái xe téc đậu chỗ bùng binh chợ Bến Thành. Ông uống khá điệu.
Ông thảnh thơi uống lâng lâng, uống lẳng lặng. Được, được lắm, nhưng ông là
người thế nào. Xem ra ông cũng không để ý có hay không có ai trước mặt.
Không biết đã bao nhiêu
buổi chiều. Đôi khi đi vắng lâu về, đến đấy vẫn thấy ông như dạo trước. Rồi tôi
chịu thua, không thể đoán ra ông và cũng không tài im lặng được như ông.
Một hôm, tôi hỏi:
- Anh công tác ở đâu?
Tôi là Mười, hoạ sĩ.
- A, anh Nguyễn Văn
Mười.
- Dạ.
Rồi hoạ sĩ Mười cười
dịu dàng, giơ tay cho tôi bắt, và nói:
Tôi cũng đã biết anh.
- Thế mà bao hôm nay
không nói.
Hoạ sĩ Mười lại mỉm
cười:
- Chúng ta đương uống
bia. Uống bia chẳng bận gì đến vẽ, đến viết cả.
Câu nói chí lý tuyệt.
Cứ cái sự anh uơng bia đúng kiểu từng hơi dài đã rõ can trường ấy. Chúng tôi
lại trầm ngâm uống. Chúng tôi đương uống bia, có bia vui, có bia buồn và thế
thôi. Hơi bia không bốc phét chích choè. Hơi bia chỉ phục vụ chúng tôi lặng im.
Có lần, Nguyễn Tuân đi
với tôi uống bia hơi ở quán trước ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân đến chào một ông
khách ngồi bàn gần, mọi khi tôi vẫn hay trông thấy, ông nhỏ nhắn, điềm đạm, áo
vét tông và mũ phớt. Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tiên sinh Cao Xuân
Huy.
Mỗi buổi chiều, chúng
tôi cũng uống bia im lặng. ừ uống bia chẳng bận đâu đến thế thái nhân tình. Tôi
chỉ nhận thấy một sự lạ, có lẽ Hà Nội còn mỗi một người mặc tề chỉnh đi uống
bia hơi và giữ vệ sinh như ông. Ông Cao Xuân Huy, khẽ ho rồi khạc đờm vào mảnh
giấy báo đã mang sẵn và gấp lại, bỏ vào túi áo.
Hoạ sĩ Mười cắp một cái
cặp bìa đen cứng khổ rộng, trong đựng một tệp ký hoạ. Mười nói:
- Tôi đem cho anh xem
mấy cái vẽ sông Nêva và nhưng sông nhánh. Có những ba trăm mấy con sông nhánh
của Nêva, anh đã viết đấy.
Tôi hỏi lại:
Anh đã đến Lêningrat?
- Tôi đã ở Lêningrat
lâu lâu.
Hoạ sĩ Mười chỉ bức ký
hoạ một bến đá trơ trọi mấy thanh lan can sắt.
- Đây là sông Môica.
Nơi anh đã gặp Vêrônica.
Trời ơi! Hoạ sĩ Mười đã
đọc đến thế, những bút ký tôi viết về thành phố này. Mỗi lần, mỗi hôm, mỗi lúc
tôi lại biết thêm về hoạ sĩ, nếu anh có trò chuyện với tôi. Quả thế, không phải
cứ gặp ai thì đã là biết và chắc đâu đã biết. Mới cốc bia trước thôi, tôi chưa
một chút nào rõ được hồi đầu thập kỷ sáu mươi, hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã nhiều
năm ở Lêningrat. Hoạ sĩ kể những ngày ở cái lâu đài khổng lồ trên phương Bắc
trái đất ấy, hoạ sĩ mê nhất sông nước và những đầu mùa xuân, khuya nghe tiếng
những tảng băng tan va vào nhau gãy răng rắc, vang động dòng Nêva ban đêm qua
thành phố.
Tôi lơ đăng nhìn qua
bóng bia trong cốc thấy người hoạ sĩ đương tha thẩn bên dòng sông, đôi lúc
ngước nhìn ra những tảng băng trôi. Tôi cũng soi mặt vào bóng bia xem có thấy
cái cửa sổ nhà ai nhìn xuống bến sông Môica?
Vlat đi Lêningrat không
va li. Đi đâu cũng xách mỗi cái túi, ấy thế mà kiểm lại các thứ cũng thấy đã bỏ
quên bộ dao cạo râu điện, không biết quên ở nhà ai. Chẳng lẽ sáng nào cũng
xuống tiệm cạo râu phòng ngoài khách sạn. Tôi không hỏi Vlat làm thế nào, nhưng
mỗi hôm đều thấy Vlat mày râu nhẵn nhụi.
Chúng tôi ở hồ Lagôđa
về. Băng đóng trắng mờ chân trời, xe đi trên đường cũng như mặt sông. Khi mùa
đông tới, con đường tiếp tế qua mặt hồ này đã nuôi Lêningrat sống chiến đấu
được trong vòng vây mấy năm trời. Bây giờ chỉ có từng đàn hải âu. Bọn khách du
lịch ném bánh mì lên cao cho hải âu bay xúm lại xâu xé cái bánh tan biến giữa
trời. Trẻ con chỉ nhớ hồ Lagôđa có trò chơi ấy, chiến tranh đã qua ba mươi năm
rồi. Vêrônica cùng đi với chúng tôi. Marich đã cho tôi biết Vlat là bồ của
Vêrônica. Vlat thì lắm bồ, đi đâu cũng có được, kể cả ở bàn ăn câu lạc bộ.
Những năm sau này, Vlat ở hẳn với cô Lọ Lem bồi bàn. Chúng tôi gọi là Lọ Lem vì
cô thấp bé, đen đủi. Vlat nói:
"Lúc túng thiếu và
về già, tôi lại trở về với dân tộc tôi”. Nghe nói cô Lọ Lem cũng người dân tộc
Chu Va.
Mới được mấy ngày đã
hết tiền. Mỗi hôm đều tốn chỉ vì uống, nếu để Vlat mỗi ngày uống mấy lần, chắc
còn hết tiền nhanh hơn. ở thì vẫn Astôria, tiền phòng trả séc, không lấy ra ăn
được. Nhưng tôi yên trí vu vơ thế nào và bao giờ Vlat cũng xoay xoả ra. Vlat
cười:
“Có thể! Có thể! Chúng
ta cũng như con hải âu, rồi cũng có người ném bánh lên trời cho ăn.”
Buổi tối, Vlat bảo tôi:
- Chúng ta đến ăn tại
nhà Vêrônica.
Tôi hỏi lại Vêrônica:
có phải thế không? Vêrônica gật đầu.
- Tôi mời hai ông làm
khách.
Chẳng biết Vêrônica có
rõ chúng tôi đã cạn tiền. Vêrônica ở một phòng trong toà nhà ba tầng. Nhiều phố
Lêningrat được giữ cổ kính nguyên như cả trăm năm trước, chỉ sửa nội thất. Cửa
sổ phòng Vêrônica trông ra sông Môica. Con Nêva ngang qua thành phố toả ra bao
nhiêu sông nhánh nước trong xanh, hai bên bờ lan can sắt và dòng sông cũng
thành con đường khi mùa đông đóng băng. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã ký hoạ khúc
Môica chỗ bến này đây.
Tuyết cuối mùa còn phơi
phới xuống trên sông mỗi lúc càng mù mịt hơn. Người lác đác dưới đường, bóng
lướt qua bên những thanh lan can đen xẫm. Tưởng tượng như Đốttôepski đương với
các nhân vật của ông lang thang trong Những đêm trắng. Hôm trước, đã thăm nhà
lưu niệm Đốt ở một chung cư năm tầng. Tường căn buồng nhỏ nhà Đốt đương được
bóc giấy báo ra, tìm lại ngày tháng ở những tờ báo hồi Đốt ở đây, mùa lạnh đã
dán cho ấm tường. Cũng như ở quảng trường Cỏ Khô, nơi tử tù Đốt đã đứng đợi để
đến lượt bị hành hình treo cổ, đã được khắc cái biển đá về sự tích ghê rợn ấy.
Vào mùa xuân năm này, các tác phẩm của Đốt mói được in lại, bán khắp các hiệu
sách.
Thành phố bắt đầu gắn
biển và sửa sang những nơi có dấu vết của ông. Tôi tưởng như, nhớ như ở thành
phố chỗ nào cũng trông thấy ông và các nhân vật, những cái bóng ngất ngưởng,
người gàn dở, một bà già không chồng, một trọc phú uống máu người không tanh...
tấm lòng thương bao phủ tất cả các con người, con sông, những lan can trơ trụi
bên đường, trên cầu ông đã vịn tay. Ông viết càng rùng rựn bao nhiêu, càng
thương đau bấy nhiêu. Heinơ nói rằng: “Người ta kể lại không bao giờ đúng, bỏi
vì con người luôn luôn nói dối khi nói về mình". Không, Đốt nói: “Người ta
có cố gắng nói sự thật, chỉ có điều là sự thật ấy không bao giờ đầy đủ".
Vẫn một lòng thương cảm xâu thẳm, không biết đến đâu.
Ngoài kia vẫn mờ mờ,
chẳng biết đã đêm trắng hay còn ngày. Vêrônica uống cũng ra trò. Một lúc, Vlat
nói:
- Đêm nay mày ngủ ở đây
với Vêrônica. Tao về chiếm cái giường của mày ở khách sạn.
Tôi không nói gì. Vlat
không biết tôi đã khiếp sợ từ hôm mới đến chơi, trông thấy chiếc xe đạp cuốc
treo ở sau cánh cửa. Mỗi sáng sớm, Vêrônica đã cưỡi nó, đạp thể dục hai mươi
cây số ra ngoại ô. Những Vlađia ở ga Gian Côi trên tàu hoả qua Kiép, những Vêrônica,
những Madari xa lạ quá rồi.
Mấy năm sau, gặp lại
Vêrônica ở Matxcơva. Cô đã đổi về làm cho đài truyền hình dưới này. Tôi giật
mình. Võ vàng, tiều tuy đến độ thoạt nhìn không nhận ra được. Hỏi thì cô ấy
khóc. Cô đã lấy chồng và sinh được bé gái. Đứa con chết và người chồng bỏ đi.
Từ đấy Vêrônica mê mụ không hồn như nhân vật mụ Tường Lâm trong truyện của Lỗ
Tấn. Gặp lại tôi, có điều cô được an ủi là tôi vẫn nhớ cô, tôi đã đem tặng cô
bức tranh sơn dầu Cây chuối của Nguyễn Sáng. Xem tranh Nguyễn Sáng, tôi có nhận
xét Nguyễn Sáng ở rừng Việt Bắc mà sao ít vẽ cây chuối. Nghyễn Sáng đã cho tôi
đem đi bức tranh cây chuối, cũng chẳng hỏi tôi mang bán hay mang cho ai. Khi
về, xách về đền ít hộp sơn trắng, thế là mừng rồi.
Dương Bích Liên bảo cái
sơn trắng quét lót, lúc nào cũng cần. Biết thế, tôi hay mua sơn màu trắng cho
Sáng và Liên. Hồi ấy, cái tranh chẳng đáng một giá nào. Vẽ vì thèm vẽ, vẽ rồi
cho, vẽ rồi xếp lại. Tôi đã đem những đĩa sơn mài vẽ mèo, vẽ chân dung của Sỹ
Ngọc và Nguyễn Sáng cho Marich, cho Ina Dimônina.
ấy thế nhưng hoạ sĩ
uống tách cà phê, ăn bữa cơm nhà Lâm Toét cũng được coi như bán tranh, không
phải là đem cho tranh không. Đồng tiền thời ấy hiếm vậy. Ai tò mò cũng biết Lâm
Toét bán cà phê đầu tiên chơi tem rồi chơi tranh. Nhưng ít người biết Lâm Toét
chơi tranh và chơi sách. Anh khoe với tôi lùng mãi mới săn được tập thơ Tản Đà
và hai quyển Tục ngữ phong dao của ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nhà Minh Đức xuất
bản, có chữ ký của ông Nguyễn Hữu Đang.
Tôi lên gác xem tranh
bày trên ấy. Lâm Toét chỉ cho tôi một chồng báo cao cao. Anh ta nói thì thào
nhỏ nhẹ, lễ phép: “Ông Hoàng Trung Thông mới đề lại cho em đấy". Tôi ngơ
ngẩn cả người. Tôi không còn đủ sức lấy hơi đến nhìn xem nó là những báo gì.
Cái thằng cho tranh lấy vài đồng và tách cà phê thế mà còn bớt đau hơn thằng
bán sách một bậc.
ấy thế mà rồi tôi và
Vlat đã đi một chuyến vung vinh thú vị không lúc nào phải lo tiền, chúng tôi
làm khách nhà nước Udơbêkitstăng. Mỗi khi đi đường dài, xuống nghỉ ở sân bay
Tasken, máy bay là là dọc đường băng, trông thấy ven cỏ một toà nhà xinh xắn,
đấy là lầu đón khách Chính Phủ. Đêm ấy, đèn nhà khách sáng trưng, ô tô rước
chúng tôi từ thang máy bay tới.
Bộ trưởng ngoại giao
Adimôp đón tôi, ông mời tôi chơi nước ông. Nhà thơ Udơbêch Adimôp năm trước làm
đại sứ ở Libăng, bây giờ về nước cộng hoà này làm bộ trưởng ngoại giao. Gặp lại
Adimôp ở câu lạc bộ hội nhà văn, Adimôp nói: “Có đi Tasken chơi không?”. Thế là
đi.
Nhà khách chính phủ
thênh thang như cả chục cái đình làng ta, mà chẳng có một mống khách. Vlat nói:
“Có thể chúng ta uống rượu say ở đây rồi thắt cổ chết mấy ngày mới có người
biết". Mỗi đêm, xa xa tiếng gà gáy. Nếu có tiếng còi tàu hoả nữa thì chẳng
khác nghe đoàn tàu chạy đêm hun hút gió trên cánh đồng chiêm bên kia cầu Giẽ,
cầu Guột...
Chẳng đâu lạ mà ngẩn
ngơ thế nào, cũng không vì cơn cớ gì. Con người đương vui lại buồn, nghĩ ngợi
vẩn vơ vắt vào nhau chẳng ra làm sao. Không còn cái ông đại biểu Adimôp tranh
luận với Hoàng Trung Thông về một chữ trong thông báo của Đại hội các nhà văn á
Phi ở Bâyrut, cũng không phải ông đại sứ, ông bộ trưởng ngoại giao nước cộng
hoà. Chỉ thấy một lão chăn cừu ngồi giữa đồng cỏ, cốc rượu bằng sừng dê và đọc
thơ, đọc thơ, đọc thơ. Thơ ông về thảo nguyên, về cây dâu, cây thông và con
cừu, đàn cừu. Năm sau, tôi lại đi Apganixtăng, cũng với Adimôp và ở nhà nghỉ,
Adimôp cũng đọc thơ. Lạ thay, nghe giọng thơ mà một lúc tưởng như trên mặt đất
bụi mù mịt, những con cừu nhiều hơn con người ở làng mạc và thành phố. ở Adi
Abba, ở Đaet Salam buổi chiều người cõng cừu qua phố về nhà. ở Angiêri, ở Mông
Cổ lúc nào trông xuống mặt đất cũng thấy những đàn cừu chân bước liên liến, đi
từng đàn, chập chờn vàng như khói, người chăn cừu cầm gậy đứng chơ vơ như cái
cọc, sóng cừu mênh mang xung quanh. Adimôp đọc thơ cừu. Vlat dịch lại, chẳng
biết thơ hay thế nào, lại chỉ thấy bề bộn những cừu là cừu, cái cảm tưởng thơ
cừu của mình là đúng. Quả là trên đồng cỏ những stăng của người, những làng
Udơbêch, đâu có cừu thì có người. Cũng hay.
Tôi đọc mấy câu thơ
Nguyễn Bính. Tôi vốn không thuộc hết một bài thơ nào. Những câu thơ tôi nhớ
được chỉ vì ngày trước Nguyễn Bính đến chơi trên Nghĩa Đô đã viết chữ tung
hoành cả bài thơ vào tờ giấy lệnh dài cao hơn thước tây dán lên vách đầu giường
tôi.
Lúc nào cũng nhìn thấy,
nên phải nhớ mà cũng chỉ lõm bõm. Câu thơ Nguyễn Bính, cái tranh Tô Vũ chăn dê
đã vào ký ức đời mình.
... Mùa xuân chín vạn
bông trời nở
Riêng có tình ta khép
lại thôi...
Adimôp khen tôi hát hay
lắm. Vậy là tôi bằng lòng rồi, các bạn đã được nghe cái tiếng Việt trầm bổng
như chim hót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét