1 2 3 4
13. Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội
Vào những năm đầu của thập ky sáu mươi (1960),
trên các mặt báo trung ương và địa phương các trang thơ tràn ngập đề tài sản
xuất, chiến đấu, ca ngợi các hợp tác xã điển hình, các nông trường, các nhà
máy, hầm mỏ tiên tiến, nào "sóng Duyên Hải, gió Đại Phong", nào gương
người tốt việc tốt, tố cáo tội ác Mỹ Diệm…, thôi thì đủ thứ. Bỗng dưng, trên
một trang thơ tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam xuất hiện một bài thơ
tứ tuyệt, nhan đề: Nghe nhạc Strauss. Tên tác giả lạ hoắc: Tuân Nguyễn.
Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy, nhưng bài thơ nọ vẫn đọng lại tinh khôi trong trí nhớ của tôi.
Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy, nhưng bài thơ nọ vẫn đọng lại tinh khôi trong trí nhớ của tôi.
Sóng sông Hồng bỗng xanh
màu Danube
Nhạc bồng bềnh trôi tới
các vì sao…
Trời lung linh khẽ chao
mình theo nhịp
Những người nước lạ
phải lòng nhau…
Đề tài và nội dung bài
thơ lạc lõng giữa biển thơ- hiện-thực sục sôi, nóng bỏng, thơ cho cuộc đấu
tranh giai cấp "long trời lở đất", khẳng định con đường "ai
thắng ai".
Như thể tự thấy mình
chẳng giống ai, bài thơ đã tứ tuyệt rồi mà vẫn còn nép mình ở góc cuối trang
báo, khiêm nhường, nhỏ thó với vẻ ngơ ngác, 10 lắng, nhìn lên những bài thơ bốc
lửa, hừng hực khí thế đấu tranh, sang sảng lạc quan cách mạng của những tên
tuổi thời thượng…
Có điều lạ là ngay sau
khi xuất hiện, bài thơ nhỏ bé nọ lập tức nổi tiếng, được nhiều độc giả mến mộ
thơ ngày đó nhắc nhở, truyền tụng, nhiều đôi trai gái chép vào sổ tay tặng
nhau… Mùa hè năm 1950, Trảng cát Phong Chương bắc Thừa Thiên bị rang bỏng dưới
cái nắng như dội lửa. Gió Lào khô rát thổi tung cát thành những đám máy, phủ
trùm lên một vùng cỏ cây cằn cỗi, nhuộm màu cháy xém. Tôi lúc đó là tiểu đội
trướng một tiểu đội mũi nhọn trong đại đội chủ công trung đoàn quân chủ lực
101. Tôi cùng tiểu đội dầm mình trong cát bỏng, gió Lào, mải mê luyện tập môn
đánh bộc phá, chuẩn bị cho chiến dịch hè thu.
Tiểu đội tôi trẻ nhất
đại đội, toàn những chàng trai 17, 18, 19… Tôi đang làm thị phạm động tác ôm
thủ pháo chuẩn bị lao lên đột phá khẩu thì cậu Tiệm, liên lạc viên của đại đội,
tay xách tiểu liên "Tuyn", đầu đội mũ nan giắt đầy lá ngụy trang,
chạy như ngựa tế băng qua những động cát, nhảy phóe qua những dãy xương rồng
gai mặt nguyệt, chạy thẳng đến bãi tập. Tiệm đứng nghiêm, đưa tay lên vành mũ
chào, vừa nói, vừa thở: "Báo cáo tiểu đội trường? Đại đội trưởng triệu tập
đồng chí về ngay đại đội bộ! Hết!".
Tôi giao tiểu đội lại
cho tiểu đội phó tiếp tục khoa mục tập. Khoác lên vai khẩu tiểu liên
"Mát" tôi hộc tốc chạy theo Tiệm về đại đội bộ. Tôi đoán chừng đại
đội trưởng điều động tiểu đội tôi đi phối hợp chiến đấu với một đơn vị nào
đó.
Đại đội trưởng chỉ hơn
tôi ba bốn tuổi, cũng trẻ măng, nhưng đã được tặng thưởng huân chương Quân
công. Anh đang ngồi trước bộ tràng kỷ bằng tre. Trên bàn một siêu nước lá vàng
và mấy cái bát sành. Ngồi đối diện với anh là một thanh niên trạc tuổi tôi,
dáng dấp học trò, tóc chải ốp, áo sơ mi màu trứng sáo, quần tây xám, chân dận
dép săng đan da. Anh ta đeo kính trắng, cái miệng thật rộng và thật tươi:
- Báo cáo Đại đội
trưởng! Tiểu đội trưởng Quán có mặt!
Đại đội trưởng chỉ
chiếc ghế tre chỗ cạnh anh, nói:
- Quán ngồi xuống
đây.
Anh rót cho tôi một bát
nước lá vàng đắng ngắt vị bộc phá.
Chờ tôi uống cạn bát
nước và kéo vạt áo quân phục sũng mồ hôi lau gương mặt sạm đen, đầy bụi cát,
anh giới thiệu một thanh niên lạ mặt ngồi đối diện:
- Đồng chí Nguyễn Tuân
đây hoạt động trong phong trào học sinh kháng chiến nội thành. Tuân học trường
Providence, đỗ tú tài toán. Vừa rồi, sau vụ học sinh bãi khoá, Tuân bị lộ. Thị
uỷ Huế bố trí cho Tuân theo đường dây lên chiến khu. Nguyện vọng của Tuân là
được gia nhập quân đội. Trung đoàn tiếp nhận, bố trí đồng chí ấy làm việc tại
phòng Chính trị. Nhưng Tuân lại tha thiết muốn được cầm súng chiến đấu. Trên cử
đồng chí ấy về đại đội ta. Tôi đã trao đổí với chính trị viên. Chúng tôi quyết
định: Tuân sẽ về tiểu đội của Quán. Qua thư giới thiệu của Phòng chính trị
trung đoàn, thì Tuân giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, biết cả chữ Hán, lại có khả
năng sáng tác văn thơ… Chúng tôi nghĩ hai đồng chí cùng trạc lứa tuổi, lại cùng
thích văn thơ, chắc sẽ hợp nhau…
Tôi đăm đăm nhìn người
đội viên mới của tiểu đội mình. Ý nghĩ đầu tiên là cậu ta quá thư sinh, đã thế
dáng dấp lại còm nhom, hai cánh trần nom như hai ống quyển, và hai cẳng chân
chắc cũng không to hơn. Thế mà hành trang một người lính trận thì nào súng, cơ
số đạn, lựu đạn, bộc phá, ruột tượng gạo, ống muối, ba lô… Khi cần tuýt một
tiếng còi chỉ huy, tất cả phải nằm gọn trên lưng, trên vai, quanh thắt lưng chỉ
trong vòng ba phút. Và phải lên đường hành quân bất kể ngày đêm, bất kể sấm
chớp, mưa bão, lửa đạn…Tự nhiên tôi đâm giận hắn. Chắc khi ngồi mài đũng quần
trên ghế nhà trường, cậu ta say sưa đọc câu thơ "Bụi trường chinh phai bạc
áo hào hoa", mơ mộng thấy đời lính trận mê ly lắm. Chỉ cần mấy hôm thôi,
cậu ta sẽ thấm đòn thế nào là "phai bạc áo hào hoa". Sao hắn ta không
ở lại trung đoàn bộ làm lính văn phòng có hơn không?
"Đồng chí Quán vào
Vệ Quốc đoàn từ trước ngày Huế nổ súng - lời giới thiệu của Đại đội trường về
tôi cho Tuân nghe cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi - Quán đã tham gia chiến đấu
ở mặt trận Huế, rồi mặt trận phía Nam, đèo Phát Tượng, Truồi, Nong… Tuy cùng
trạc lứa tuổi với đồng chí, nhưng Quán là cựu binh của Trung đoàn, giãi dầu
trận mạc không thua chúng tôi đâu. Quán còn là cây văn nghệ quần chúng của đại
đội. Chúng tôi mong hai cậu sẽ thân thiết nhau". Tôi và Tuân Nguyễn biết
nhau từ đó. Khi hai chúng tôi đã khá thân nhau, tôi thường đọc cho Tuân nghe
thơ tôi làm. Những bài thơ tràng giang đại hải, sặc mùi lính tráng. Một hôm,
nhân bàn chuyện thơ, Tuân hỏi tôi:
- Này, cậu có biệt hiệu
không?
- Có chứ, tôi đáp. Lúc
đầu mình lấy biệt hiệu là Lúa Xanh. Nhưng sau đó nghe nó thối thối làm sao ấy,
nên bỏ. Đang cố rặn ra một biệt hiệu khác, nghe đỡ nặng mùi hơn, nhưng chưa ra…
Khi mới tập tọng làm thơ, người ta ai cũng nghĩ rằng việc quan trọng đầu tiên
là phải có một cái biệt hiệu thật kêu, kiểu như các thi sĩ nổi danh: Tản Đà,
Kinh Kha, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.K.H., Hoàng Cầm…
Tuân nói:
- Mình cũng từng nghĩ
vậy. Rồi thấy biệt hiệu, biệt hiếc, vô duyên òm… Tên cha mẹ đặt cho thế nào cứ
để nguyên nó thế ấy. Khốn nỗi, tên mình lại trùng với ông Nguyễn Tuân Vang bóng
một thời quá nổi tiếng. Mình đành xoay ngược nó thành Tuân Nguyễn. Tuân Nguyễn!
Nghe cũng vô duyên, nhưng thôi, đành vậy.
- Cậu thấy thơ mình thế
nào? - tôi hồi hộp hỏi Tuân, trong bụng chờ được Tuân khen. Cả đại đội khen thơ
mình, nhiều cậu còn chép để học thuộc đấy.
Tuân Nguyễn nhìn tôi
qua tròng kính cận dầy cộp, chợt mỉm cười. Cái miệng Tuân cười thật rộng, thật
tươi…
- Thơ của cậu, hai mươi
câu đầu để giữ gìn trật tự, hai mươi câu cuối chuẩn bị cho người nghe vỗ tay,
còn đoạn giữa là vè…
Tôi không ngờ thơ của
mình bị ông bạn mới "mạt sát" đến thế. Tôi đau quá, nổi sùng, chỉ
muốn đạp cho hắn một đạp. Nhưng tôi đã ghìm được, vì nhớ đến chức danh Tiểu đội
trưởng của mình. Tiểu đội trưởng mà đạp đội viên vì thơ bị chê thì ê quá. Nhưng
Tuân hình như không để ý gì đến thái độ giận dỗi của tôi. Cậu ta đọc cho tôi
nghe những bài thơ cậu ta làm, đủ các thể loại: tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn
bát cú, lục bát, những bài thơ mỗi đoạn bốn câu ba vần… Mặc dầu tự ái một cây,
tôi phải cay đắng nhận rằng bên cạnh những bài thơ ý tứ hàm súc đầy nhạc điệu
của Tuân, thơ tôi đúng là những bài vè tràng giang đại hải, không chối vào đâu
được. Từ đó đến nay đã hơn bốn mươi năm trôi qua, mỗi lần tôi đặt bút định viết
một bài thơ, lời nhận xét vừa nghiêm khắc, vừa giễu cợt của Tuân lại vang vọng
bên tai tôi, làm tôi chùn bút.
Một đêm ở chiến khu Câu
Nhi, hai chúng tôi nằm trên sạp nứa, gác vế lên nhau, Tuân khuyên tôi:
- Cậu phải học luật thơ
Đường làm cái vốn cơ bản, sau đó phát huy thành các thể thơ tự do, mới hy vọng
thơ có thể khá lên được.
Tôi mộng ước được làm
nhà thơ, tôi chấp nhận lời khuyên của Tuân. Tôi hạ quyết tâm phải học thành
thục luật thơ Đường. Ban ngày tôi dạy Tuân các môn xạ kích, ném lựu đạn, đâm
lê, đánh bộc phá… Đêm đến, bên bếp lửa bập bùng chiến khu, Tuân giảng dạy tôi
luật bằng trắc, luật các vế đối, luật cấu trúc các thể loại thơ Đường: tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn… Tôi dùng mũi đinh nhọn ghi lời giảng dạy lên
báng súng để lúc nào cũng có thể ôn lại được. Tôi tập làm thử một số bài thơ
theo cách Tuân dạy. Nhưng làm xong tôi phải vo viên liệng ngay vô bếp, không
dám đọc cho ai nghe. Trong nghề thơ, tôi tự ví mình như anh chàng ham trò đánh
phau nhưng chỉ quen dùng độc một môn "võ dân gian" là đá củ đậu, ba
năm võ tàu không bằng một chầu đá củ đậu. Bây giờ tôi phải học đâm lê theo đúng
quy tắc, một bước tiến, hai bước lùi… gạt trái, đâm phải… làm sao tiếp thu
nổi.
Mỗi lần nghĩ về người
đội viên mới của mình, lòng tôi lại thấy buồn vì ghen tài và đố kỵ: "Hắn
mới là người được trời sinh ra để làm thi sĩ. Tên tuổi hắn nay mai sẽ lẫy lừng
trên thi đàn đất nước. Còn mình dù cố gắng đến hết đời cũng chỉ là một anh văn
nghệ quần chúng, ca dao, hò, vè…". Để dịu bớt đau khổ, tôi tự an ủi:
"Nhưng về mặt binh nghiệp mình sẽ hơn hắn. Khi hắn nổi danh về văn thơ,
thì mình sẽ lên đến chức Sư đoàn trường. Vậy là huề"!
Những năm 1950, 1951,
1952 là những năm gian lao nhất của chiến trường Thừa Thiên. Những trận lụt bão
chưa từng thấy cuốn phăng cả một làng ở bên Phá Tam Giang. Biển Thuận An nổi
sóng thần, ném những thuyền đánh cá lớn lên bãi cát như ném cái vỏ trứng. Giặc
Pháp hùa với thiên tai tổ chức những trận càn lớn, phối hợp cả thuỷ lục không
quân, tăng pháo; quyết xoá sổ trung đoàn 101 chúng tôi. Chúng tôi phải đánh
những trận đẫm máu và tổn thất khá nặng nề.
Nhưng nỗi gian lao
thường trực của chúng tôi chưa phải là lụt bão, bom đạn, mà là đói. Đói lả
người. Đói mờ mắt. Có đận sáu tháng liền, chúng tôi phải ăn thứ mủn, có mùi hôi
thối như phân người ôi, mà muốn có thứ gạo mục thối đó, chúng tôi phải vượt qua
những hệ thống đồn bót dày đặc, luồn sâu vào hậu địch, nnh rập hàng trăm họng
súng phục kích… Nhiều anh em chúng tôi bị giặc bắn gục trên đường đi lấy gạo.
Nhiều ruột tượng gạo mang về đến đơn vị, xổ ra, đỏ lòm những máu, nhưng không
thể bỏ đi. Chúng tôi tìm đủ cách để vuốt gạo cho sạch máu. Những hạt gạo mục
xốp hút máu như giấy thấm. Chúng tôi ngâm gạo xuống suối, nhờ nước rửa máu.
Ngâm suốt đêm, sáng vớt gạo lên vẫn có màu hồng hồng. Chúng tôi bưng bát cơm
chan máu đồng đội, nhắm mắt nhắm mũi lùa vào miệng thật nhanh và nuốt chửng…
Mỗi chén cơm chúng tôi trộn một phần tư chén ớt bột, loại ớt hiểm, cho dịu bớt
vị tanh của máu…
° ° °
Từ ghế nhà trường, Tuân Nguyễn nhảy thẳng vào
đơn vị tôi đúng thời điểm khốc liệt đó. Hôm đầu tiên, tôi còn nhớ như in, Tuân
bưng bát cơm chan máu đồng đội lên ăn, mới và được hai miếng, anh nôn thốc nôn
tháo. Tôi nói với Tuân: "Cứ trộn thật nhiều ớt vô lùa thật nhanh, không
nên chần chừ". Tuân ứa nước mắt nói: "Nhưng mình không quen ăn vậy…
Mình chỉ sợ anh em cho mình là học sinh tiểu tư sản, không chịu được gian khổ…
Cậu nói giúp với anh em thông cảm cho mình… lần sau mình sẽ cố gắng không như
thế nữa…".
Đêm đó, họp tiểu đội, Tuân đứng lên xin lỗi, đã làm cho bữa ăn của anh em mất
ngon. Tuân còn nói thêm: "Ngay cả trong thiên anh hùng ca bất hủ Odyssée
của Homère, cũng không có hình ảnh nào dữ dội và bi tráng như bát cơm thấm máu
mà chúng ta ăn… Tôi sẽ ghi khắc nó vào ký ức; và nếu qua cuộc chiến tranh mà
tôi còn sống, nhất định tôi sẽ đặt nó vào trong tác phẩm của tôi". Anh em
trong tiểu đội chẳng hiểu Tuân muốn nói gì, nhưng vẻ mặt và giọng nói của cậu
ta làm họ cảm động. Họ còn xúm lại an ủi, động viên: "Đồng chí cứ ăn năm,
bảy lần rồi sẽ quen thôi".
Điều làm tôi lo lắng băn khoăn hơn cả là chuyện cử Tuân đi lấy gạo, Tuân chưa
quen chiến trận, vừa chậm, vừa yếu, lại cận thị. Nếu cử cậu ta vào địch hậu lấy
gạo, chết dễ như chơi. Nhưng tôi là tiểu đội trưởng, việc phân công anh em mình
vào địch hậu lấy gạo, phải hết sức công bằng. Mỗi lần họp tiểu đội phân công,
tôi phải tìm đủ cách để tránh cho Tuân công việc nguy hiểm này: "Đồng chí
Tuân ở nhà làm bích báo cho đại đội". "Đồng chí phải viết xong cho cả
tiểu đội khẩu hiệu: Rèn cán chỉnh quân để cài lên mũ trong đợt tổng diễn tập
sắp đến". "Đồng chí phải hoàn thành bài thơ nói lên ìòng quyết tâm,
tinh thần hăng say luyện tập trong thời gian qua của tiểu đội ta, để đọc vào
dịp liên hoan văn nghệ kết thúc đợt luyện tập!".
Tuy vậy, cứ làm mãi cách đó, anh em bắt đầu xì xào phản ứng. Họp tiểu đội, anh
em pỉlê bình tôi hết sức gay gắt: "Đồng chí tiểu đội trưởng thiên vị đồng
chí Tuân!". Có anh còn chua chát hơn: "Dù đồng chí Tuân có đậu tú
tài, có văn hay chữ tốt, nhưng đã ăn thì cũng phải đi lấy gạo như anh em".
Tuân đứng bật ngay dậy, yêu cầu được phân công đi lấy gạo, nhưng tôi cương
quyết gạt đi. Tôi đanh giọng, nói: "Tôi không thiên vị ai hết! Làm bích
báo, viết khẩu hiệu, làm thơ cũng cần thiết như việc đi lấy gạo. Tôi sẽ phân
công đồng chí Tuân đi lấy gạo tối nay. Nhưng hiện đồng chí phải dịch truyền đơn
địch vận ra tiếng Tây, do phòng Chính trị trung đoàn yêu cầu, mà phải dịch gấp.
Đây, truyền đơn địch vận trung đoàn mới giao về hôm qua đây. Giấy bút đây! Đồng
chí nào có thể đảm nhiệm công việc này thay đồng chí Tuân, xin giơ tay cho
biết!" Thế là cả tiểu đội ngồi ngay như phỗng. Quá nửa tiểu đội tôi trình
độ văn hóa lớp một, lớp hai, số còn lại vừa đọc vừa đánh vần. Trong cuộc đời
chiến sĩ của tôi, nếu có một niềm tự hào nào đó đáng ghi nhớ, thì đó chính là
niềm tự hào: trong những năm gian truân nhất của cuộc kháng chiến chín năm, tôi
đã tận dụng quyền lực tiểu đội trưởng để bảo vệ một nhà thơ tương lai của đất
nước. Sang cuối năm 1953, hai chúng tôi phải xa nhau vì nhiệm vụ của chiến
trường. Tôi được cử đi học trường Quân chính Bình Trị Thiên. Tuân Nguyễn được
bổ sung vào đơn vị tình nguyện quân mặt trận Trung Lào.
Mãi đến năm 1957 chúng tôi mới gặp lại nhau. Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi
quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, làm thầy giáo. Sau đó được
điều về Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Lương của Tuân Nguyễn năm đó là 93
đồng. Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân văn Giai phẩm phải về tá
túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm…
Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh
tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có
chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân
mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu
thịt, kẹo, thuốc lá căng tin… (kẹo, thuốc lá do cơ quan bán theo tiêu chuẩn bậc
lương). Mỗi lần đem cho như vậy, Tuân rất sợ tôi mếch lòng, tủi thân, nên bao
giờ cũng tìm cách nói thác. "Có bộ áo quần mình thuê may hỏng, mặc rộng
thùng thình cứ như áo tế. Cậu đậm người hơn mặc giúp mình cho đỡ phí".
"Một nhà báo ngoại quốc có nhận xét người Việt Nam ta rất có đầu óc hài
hước. Hài hước ngay cả trong việc sản xuất bánh kẹo. Ngoài bao bì đề kẹo cứng
thành kẹo mềm muốn chảy nước. Nếu đề kẹo mềm thì cắn muốn vỡ răng. Này, cậu
khoẻ răng ăn giúp mình hai gói kẹo mè này".
Một lần, tôi hỏi Tuân: "Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết.
Cậu không ngại à?" Tuân Nguyễn vốn là người ăn nói hết sức nhã nhặn, lịch
sự ở cơ quan cấm ai thấy cậu ta văng tục. Nhưng chỉ khi hai đứa với nhau, hoài
mệm cuộc sống lính tráng, cậu ta văng tục ào ào: "Có ngại cái con cặc. Đù
mạ, mình căm ghét nhất là thói vô ơn! Nếu ngày đó cậu không chơi trò "Nhân
danh tiểu đội trưởng" thì chắc mình đã nằm mục xương giữa trảng cát Phong
Chương, Thanh Lam Bồ, Phú Đa, Hà Thanh… với một ruột tượng gạo thối mục đầy
máu… Cậu quên rồi à, đúng cái hôm cậu phịa chuyện Phòng chính trị giao mình
dịch truyền đơn địch vận, bốn cậu được cử đi lấy gạo, tụi phục kích xơi tái mất
hai, cậu gì nhỉ, à cậu Lượng, cậu Vinh… Có đâu mình còn sống đến bây giờ mà đại
học đại hiếc, nhà thơ nhà thiếc, phát thanh phát thiếc?… Cứt!".
Năm 1963, vợ chồng tôi sinh con gái đầu lòng. Đến đón cháu ở nhà hộ sinh A, có
bà ngoại cháu (bà đã mất năm 1986), tôi và Tuân Nguyễn.
Vợ tôi vui lắm, nói với hai người:
- Bà với chú Tuân thấy cháu có xinh không?
Tuân cúi xuống nhìn gương mặt nhỏ xíu còn đỏ hỏn của cháu, cười cười. Bà ngoại
cháu vốn suốt đời chỉ biết công việc nội trợ, và gần như không biết chữ, buột
miệng nói:
- Bây giờ thì mẹ mừng mừng rỡ rỡ thế đấy, không biết đời con rồi có ngóc đầu
dậy được không!…
Bà ngoại và hai mẹ con đi xích lô về nhà. Tôi và Tuân lững thừng đi bộ dọc
đường Ngô Quyền. Dáng vẻ cậu ta trở nên trầm ngâm và lặng lẽ. Im lặng một lúc
khá lâu, Tuân chợt nói:
- Bà cụ nói thật khủng khiếp! Đó là lời tiên đoán về số phận những nghệ sĩ
quyết định: "Yêu ai cứ bảo là yêu. Ghét ai cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt
nuông chiều. Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao doạ giết. Cũng không
nói ghét thành yêu…".
Lời nhận xét bất ngờ của Tuân làm tôi bất giác rùng mình. Một câu Kiều chợt ập
đến trong đầu: "Đường xa nghĩ đến đoạn trường mà kinh!".
Tuân bảo tôi:
- Bắt đầu từ hôm nay, mỗi tháng mình gửi cậu 5 đồng mua sữa cho cháu. Hàng
tháng cứ đến ngày mùng ba - ngày mình lĩnh lương - cậu chịu khó đến chỗ mình.
Sợ có khi mình mắc việc, không xuống chỗ cậu được Nếu mình đi công tác vắng,
mình sẽ gởi lại chỗ cậu V. ở tổ thơ.
Ngày đó, 5 đồng mua được ba hộp sữa Ba Vì. Lúc chia tay, Tuân còn dặn thêm:
- Lỡ khi nào câu kéo không được gì, nếu tiện đường tạt vào chỗ mình mà ăn cơm.
Cơm tập thể chỗ mình khá lắm…
Từ đấy, hôm nào cạn túi, tôi lại đạp xe lên 20 phố Tràng Tiền, bếp ăn tập thể
của cơ quan Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. May mắn được gặp Tuân là no
bụng.
°
° °
Tuân Nguyễn sống trong một gian buồng nhỏ, rộng
chừng 8 mét vuông, ở tầng gác hai, ngay đằng sau gian nhà ăn tập thể. Buồng kê
một giường cá nhân, một giá sách lớn che kín mặt tường chiều ngang. Cạnh giá
sách là bàn viết. Đối diện cửa ra vào treo chân dung Dostoievsky lồng khung
kính trên tường, phía đầu giường treo ảnh của cậu ta, phóng to, cũng lồng khung
kính. Đó là hai vật trang trí độc nhất trong gian buồng.
Trên giá sách, có khoảng vài chục cuốn sách tiếng Việt. Còn lại là sách tiếng
Pháp, tiếng Anh. Tiền lương tháng, ngoài tiền ăn, một ít dùng may mặc, tiền cho
tôi, Tuân dồn hết vào việc mua sách. Tuân là khách quen của cửa hàng sách ngoại
văn. Toàn tập Dostoievsky, toàn tập Chekhov, toàn tập Brecht, Maxim Gorki, Jack
London…
Tôi đến, hầu như lúc nào cũng bắt gặp Tuân hí hoáy trước bàn viết. Trước mặt,
hai ba cuốn sách mới… Tôi biết lúc này cậu ta hoàn toàn đắm mình trong suy
tường, mộng mơ.
Đã từ lâu, Tuân chuẩn bị viết tác phẩm văn xuôi quan trọng của đời mình, anh
tâm sự. Chủ đề tác phẩm là một thanh niên trí thức say mê cách mạng, lúc nào
cũng sống trong mộng tưởng san phẳng hết mọi điều phi lý xúc phạm con người, và
xây dựng một cõi địa đàng nhân loại.
Tuân Nguyễn đọc đến nát nhừ toàn tập Dostoievsky. Cậu ta đọc Đốt đến rạc cả
người. Nhà văn mà Tuân đặt thành tích để vươn tới là Đốt. Tuân nói với tôi:
- Điều này mình chl nói riêng với cậu thôi. Nhiều đêm mình nằm mơ, cuốn sách
của mình được in ra, và được những người sành văn đánh giá là xấp xỉ với Đốt.
Bạn hữu chúng tôi không ai bảo ai cùng gọi đùa Tuân là cụ Đốt. "Ta đến
chơi cụ Đốt đi. Cụ Đốt vừa có thơ được in trên báo Văn Nghệ, ta đến bắt cụ khao
một chầu thịt chó".
Một bữa, tôi và một người bạn đến chơi, bắt gặp cụ Đốt trong tình trạng bứt
rứt, buồn bã. Tôi hỏi: "Có chuyện gì thế, Tuân? Hay tại chúng mình đến
chơi hơi nhiều, quấy rầy cậu?". Và chúng tôi nháy nhau, dợm đứng lên, định
chào ra về. Tuân vội đưa tay ngăn lại: "Các cậu chẳng có liên quan gì hết,
Tuân nhìn đồng hồ đeo tay, nhà ăn sắp mở cửa rồi, đợi tý ta xuống ăn cơm".
Tôi thầm đoán cậu ta chắc gặp chuyện gì rắc rối ở cơ quan. Nghe nói, trong đợt
học tập Nghị quyết 9, cậu ta xin bảo lưu ý kiến, bị cơ quan đưa ra kiểm điểm vì
những luận điệu ủng hộ chủ nghĩa xét lại Liên Xô. Cậu ta làm thơ ca ngợi
Khrutsov, đả kích Mao và Stalin… Nói chung, vào thời gian ấy, những chuyện như
thế là chuyện chết người cả.
Như đoán biết chúng tôi đang nghĩ gì, Tuân giải thích:
- Cách đây hai hôm, mình dọn dẹp lại gian buồng, quét tước mạng nhện… Mình gỡ
chân dung Dostoievsky và bức ảnh của mình xuống, lau sạch bụi rồi treo lại. Vừa
dọn dẹp xong thì có mấy cô sinh viên văn khoa đến chơi. Một cô nhìn lên giá
sách, hỏi mình: "Anh đọc nhiều sách, thế theo anh nhà văn nào lớn nhất,
anh khâm phục nhất?". Lúc đó mình đang ngồi gần cửa ra vào. Theo thói
quen, mình đưa thẳng tay chl lên chỗ treo chân dung Dostoievsky: "Ông này,
chỉ một mình ông này thôi! Đó là thiên tài của các thiên tài!". Các cô nhìn
theo tay chỗ mình chỉ, không nói gì, nhưng đều quay lại nhìn mình với ánh mắt
rất lạ, lúc đó mình không để ý…
Các cô về rồi, mình nhìn lên tường, thấy chân dung Dostoievsky treo hơi bị
lệch. Mới bắc ghế đứng lên sửa lại. Nhìn gần mới biết té ra đó là ảnh của mình,
chứ không phải chân dung Đốt. Thì ra, mình treo nhầm chỗ, do cận thị nên không
nhận ra. Thế có chết người không chứ? Thảo nào, mấy cô đều quay lại nhìn mình
với ánh mắt rất lạ, mà lúc đó mình không hỉểu tại sao. Không nói ra miệng,
nhưng chắc chắn trong bụng các cô phải cho mình là một thằng cha kiêu căng đến
ngu xuẩn!
Kể đến đó, nét mặt Tuân càng rầu rĩ, ủ rũ hơn. Tôi không sao nhịn được cười,
tôi ôm bụng mà cười, tôi cười lăn lộn, cười chảy nước mắt nước mũi!
- Thì đã sao! Thì đã sao!… - tôi nói, càng cười dữ hơn - Cậu cũng là một cụ Đốt
thứ hai đấy chứ! Nga thì Đốt Tôi, Việt Nam thì Đốt Tuân! Ha! Ha ha! Ha ha ha!
Đó là một lầm lẫn vĩ đại!
Tuân nổi quạu, giận dữ nói:
- Cậu thì chuyện chi cũng tếu được!
Tôi cố nhịn cơn cười, đưa ống tay áo quệt nước mắt nước mũi, lấy giọng nghiêm
túc nói:
- Theo mình, biết đâu chính sự lầm lẫn này là cái điều báo hiệu xuất hiện một
tài năng lớn. Có lần cậu đã kể với mình, nhà thơ Nekrasov sau khi đọc tác phẩm
đầu tay của Đốt, đã đội tuyết Petersburg đến nhà Belinsky lúc một giờ sáng, mà
reo lên: "Tôi đến báo với anh một tin vui: Nước Nga xuất hiện một Gogol
mới! Belinsky càu nhàu: các anh làm như Gogol là nấm không bằng. Quả nhiên, sau
này Đốt còn vượt cả Gogol. Cũng có thể cậu rơi vào đúng trường hợp này. Mình
biết cậu từ thuở 18, 19 tuổi. Mình không có cái tài tiên tri thấu thị của
Nekrasov, nhưng mình có cái trực giác của người lính dãi dầu trận mạc. Mình đã
tiên cảm trong tương lai, cậu sẽ là nhà văn làm sáng danh đất nước. Bởi vậy mà
mình mới quyết định chơi trò "Nhân danh Tiểu đội trưởng".
Cung cách Tuân Nguyễn trợ cấp tiền cho tôi hàng tháng mua sữa nuôi con, cũng
rất… Tuân Nguyễn. Mỗi lần đưa tiền cho tôi, Tuân đều có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ
như anh đang làm một điều gì không phải với bạn. Tiền cậu ta bỏ sẵn trong phong
bì dán kín - thứ phong bì vần dùng để viết thư trả lời các cộng tác viên của
Đài. Tuân dúi phong bì vào túi áo tôi, mắt tránh không nhìn tôi. Dúi xong, cậu
ta nói lảng ngay sang chuyện khác, thường là lấy cớ phải đến ngay cơ quan có
cuộc họp quan trọng gì đó. Vừa bước vội xuống cầu thang Tuân vừa bắt tay tôi:
"Hôm nào rỗi đến chơi. Bữa nay mình có chút việc bận, không vắng mặt ở cơ
quan được". Tôi biết Tuân không muốn ngồi lại với tôi, khi số tiền cậu ta
cho vẫn còn nằm cộm trong túi áo tôi. Con gái tôi uống sữa của chú Tuân chu cấp
cho đến lúc cháu bập bẹ biết nói. Rồi chú Tuân gặp nạn cho đến lúc cháu học hết
cấp I, mới được gặp lại chú.
°
° °
Tuân Nguyễn là người vỡ lòng cho tôi về
Dostoievsky, cũng như hơn mười năm trước đó đã vỡ lòng cho tôi về niêm luật
Đường thi. Nhờ cậu ta mà từ những năm 1961, 1962, tôi được biết nội dung tóm
tắt những tác phẩm quan trọng nhất của Đốt. Từ tác phẩm đầu tay Những người
cùng khốn đến các tác phẩm viết sau khi bị lưu đày ở Tây Bá Lợi Á mười năm: Kỷ
niệm ngôi nhà những người chết, Những người bị lăng nhục và bị xúc phạm, Tội ác
và hình phạt, Con bạc, Thằng ngốc, Đầu xanh tuổi trẻ, Lũ người quỷ ám, Anh em
nhà Karamazov… Những câu văn của Đốt Tuân trích dẫn đã in khắc vào trí nhớ tôi
cho mãi đến hôm nay: "Địa ngục nằm trong lòng những con người không còn
biết yêu thương", "Liệu chúng ta có quyền xây dựng lâu đài hạnh phúc
cho nhân loại trên một giọt nước mắt của trẻ con?". "Những con người
đơn giản là những con người hết sức nguy hiểm", "Cái đẹp sẽ cứu chuộc
nhân loại", v.v…
Về sau này, tôi được đọc khá nhiều những tác phẩm nghiên cứu về Đốt của các
chuyên gia nổi tiếng, cả xã hội chủ nghĩa lẫn phương Tây, nhưng chưa một tác
giả nào gây nên trong lòng tôi một ấn tượng kinh hoàng về thiên tài vô song,
phong phú và phức tạp của Đốt, như Tuân Nguyễn. Một lần tôi đến chơi, đúng vào
chiều ngày mồng ba… Bước vào buồng, tôi thấy Tuân đang tiếp ba cô gái, nữ sinh
hay sinh viên gì đó. Cửa buồng mở rộng cả hai cánh, và ngọn đèn trên trần bật
sáng chói. Tôi đứng khựng lại một chút ở ngưỡng cửa, liếc nhìn ba cô. Cô nào
cũng đẹp ngời ngời. Tôi định chào xin lỗi bước ra, nhưng hai chân cứ như bị
trói, không bước ra nổi. Tôi chưa bao giờ được nói chuyện với một, chứ đừng nói
đến ba cô gái đẹp đến thế. Một ý nghĩ ganh ty chợt ập đến trong đầu: "Hắn
với mình cùng lứa mà mình sao kém thế, còn hắn sao mà ngon thế!".
Tuân Nguyễn thì hình như chẳng chú ý gì đến sắc đẹp ba cô gái. Cậu ta mời ba cô
ăn bánh, chuối, kẹo, và… rao giảng Đốt. Bao giờ "bập" vào Đốt - mà
bập thường xuyên - gương mặt Tuân cũng sáng lên một cách khác thường. Đó là
gương mặt của những nhà truyền giáo lớn - tôi nghĩ. Cậu ta rao giảng Đốt như
các nhà truyền giáo rao giảng Thánh Kinh. Có một khác biệt là Tuân rao giảng
Đốt, không cần quan tâm người nghe có nghe và có hiểu hay không. Tôi thường nói
đùa: "Tuân Nguyễn đang nhập đồng Đốt". Chốc chốc Tuân ngừng lời, đưa
tay lên giá sách, không cần nhìn, mà rút rất trúng tác phẩm nào đó của Đốt mà
cậu ta cần dẫn chứng. Cậu ta lật lật rất nhanh những trang sách, đọc lên cái
đoạn cần trích dẫn bằng tiếng Pháp rồi dịch miệng rất lưu loát. Để khỏi quấy
rầy "cụ Đốt", tôi ngồi nép mình ở góc buồng, chốc chốc lại ngước mắt
nhìn những cái miệng xinh đẹp như bông hồng hàm tiếu, những hàng răng trắng như
ngọc trai nhỏ nhẻ cắn bánh, nhai kẹo… những cặp mắt long lanh như mắt trẻ nít
chăm chú nhìn "cụ Đốt" nhập đồng…
Tôi thì hầu như chẳng nghe thấy gì. Đốt điếc với tôi lúc này trở thành vô
nghĩa. Tôi chỉ thèm rộn rực được hôn lên một trong ba cái miệng hé hé mở có mùi
thơm trái chín cây kia, chỉ một lần thôi, rồi nằm lăn ra chết thẳng cẳng cũng
đáng đời! "Các cô ăn chuối, ăn bánh đi…", Tuân đưa tay lịch sự mời,
cốt để lấy hơi rao giảng tiếp. Cậu ta đang giới thiệu với ba cô chương Ngài Đại
pháp quan trong Anh em nhà Karamazov mà theo cậu ta, là khúc giao hường văn
xuôi sáng giá nhất trong nền văn xuôi cổ kim của nhân loại. Cậu ta đọc một mạch
cuộc đối thoại dữ dằn và hài hước giữa ngài Đại pháp quan đại diện của quyền
lực vô song của Giáo hội và Pháp đình tôn giáo ở Y Pha Nho thế kỷ 15, với Chúa
Trời giáng thế lần thứ hai: "Ông đấy à?". Ông già Đại pháp quan gằn
giọng hỏi. Chúa không trả lời. Ông ta nói tiếp: "Ông đừng nói gì mà lại
hơn. Vả chăng ông biết nói gì bây giờ? Ông đã trao tất cả quyền năng cho Giáo
hội chúng tôi. Chúng tôi đã mất 15 thế kỷ mới thiết lập được một trật tự như
hiện nay, thiết lập nhân danh ông. Bởi vậy ông không có quyền xuất hiện lần thứ
hai, và nói thêm bất cứ điều gì trước đây ông đã nói. Tại sao ông còn xuống đây
gây rắc rối cho chúng tôi? Ông có biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì không? Tôi
chỉ cần chỉ vào mặt ông, lên án ông: Đây là một tên tà giáo! Và tôi chỉ cần
phẩy tay ra hiệu, là đám quần chúng hôm qua cuồng nhiệt hôn dấu chân ông, sẽ
trói nghiến ông lại ném ông vào giàn hoả!…"
Gương mặt, giọng nói của Tuân sáng rực niềm cảm xúc do đoạn văn tác động. Nom
cậu ta lúc này thật quyết liệt, thật dữ dội. Cậu ta im lặng trân trân nhìn ba
cô gái, như muốn ba cô chia sẻ niềm cảm xúc lớn lao đang rần rần trong huyết
quản mình… Một trong ba cô, cô xinh nhất, đã chia sẻ niềm cảm xúc của cậu ta.
Cô ngừng cắn trái chuối tiêu trứng cuốc, hỏi:
- Anh đã đọc cuốn Nam tước Phôn Gôn Rinh chưa? Cũng chuyện của Liên Xô. Sách
dày ba tập mà em chỉ đọc có một đêm!
Cô ngồi cạnh liền đặt miếng bánh xuống, góp:
- Theo mình thì tác phẩm Chiếc khuy đồng còn hay hơn. Đọc mà tim cứ giật thon
thót!
Mặt Tuân Nguyễn tự nhiên nghệch ra. Miệng hơi hé mở mà không nói được, như bị
cấm khẩu. Cậu ta đỏ bừng mặt, nhìn ba cô như những sinh vật kỳ dị lạc vào buồng
mình. Tôi thì sướng tỉnh cả người, nhảy vào chuyện luôn:
- Các cô đã đọc Chiến dịch Phượng Hoàng chưa? Sách vừa xuất bản, mới toanh. Nam
tước Phôn Gôn Rinh và Chiếc khuy đồng còn phải gọi bằng cụ!
Cả ba cô lập tức quay sang tôi, như bất ngờ vớ được người cùng hội, cùng
thuyền. Nét mặt ba cô vụt trở nên nhẹ nhõm, rạng rỡ như vừa trút được gánh nặng
kinh người. Cả ba cô lúc này nom lại càng đẹp.
Cả ba cô tranh nhau thuật lại những chi tiết giật gân của mấy anh chàng tình
báo vườn. Còn tôi thì tranh thủ bồi dưỡng cặp mắt mà hàng ngày không nhìn thấy
gì khác ngoài mặt hồ rong rêu, tăm cá và khuôn mặt dữ dằn của mấy tay tuần hồ,
chuyên rình rập tóm cổ bọn câu cá trộm chúng tôi. Tuân Nguyễn nổi quạu thật sự,
đút Đốt vào giá sách, lẳng lặng ngồi vào bàn viết chúi đầu xuống cuốn sách đọc
dở. Chốc chốc cậu ta quay lại hết nhìn các cô lại nhìn tôi như nhìn mấy con
ruồi con muỗi cứ vo ve bên tai. Tôi cứ tảng lờ như không hay biết, cười nói hể
hả góp chuyện với ba cô.
Tuân Nguyễn tiễn các cô về với vẻ lạnh nhạt cố ý. Còn tôi thì xăng xái theo các
cô xuống hết các bậc cầu thang, tranh thủ ngắm các cô đàng sau. Eo, lưng, mông
- lưng mềm như ngọn lửa - mông tròn như trứng chim - và những cặp đùi, nói theo
kiểu trường ca Tây Nguyên - nếu gió thổi tung váy sẽ sáng chói như tia chớp!…
Lúc tôi trở lên, Tuân Nguyễn quạu cọ nói:
- Những chuyện bá láp như thế mà cậu cũng rỗi hơi bàn luận!
Tôi cười tràn:
- Cậu vẫn rao giảng cho mình điều rao giảng của Đốt: "Cái đẹp sẽ cứu chuộc
nhân loại!". Theo mình thì chỉ với ba cô này thôi cũng đủ cứu chuộc cho cả
nhân loại rồi!
Sau cái đận "cứu chuộc nhân loại" kể trên, có đến hơn nứa tháng tôi
mới đến thăm Tuân. Cậu ta bước ra hành lang đón tôi, gương mặt hốc hác, phờ
phạc, hai mắt thâm quầng. Tôi lo lắng hỏi:
- Cậu ốm hay làm sao thế?
Tuân vuốt mớ tóc rũ xuống trán, nói:
- Dostoievsky thì năm đêm trắng, mình thì mười đêm trắng cậu ạ!
- Nhưng đầu đuôi thế nào?
Tôi đăm đăm nhìn người chiến hữu cùng tiểu đội năm nào, tên một tác phẩm của
Đốt chợt hiện ra trong đầu: "Những người bị quỷ ám". Tôi nghĩ cậu ta
bị Đốt ám. Cái ma lực văn chương của thiên tài này thật kinh dị! Hai chúng tôi
ngồi xuống mép giường còn buông màn, Tuân rầu rĩ kể:
- Thế này, mình gọi nhầm tên người và bị tát!… Mà là gọi nhầm tên người yêu mới
chết chứ! Cách đây đúng mười hôm, mình mời cô ta đến chơi… Mình có ý định cầu
hôn với cô ấy… Mình đang bối rối chưa biết mở dầu thế nào, thì nghe tiếng trẻ
con reo hò dưới sân. Mình mới bước ra hành lang để nhìn xuống xem có chuyện gì.
Mấy đứa trẻ trong khu tập thể đang vây quanh hai con gà trống xù lông, vươn cổ
chọi nhau rất hăng. Mình vốn mê xem gà chọi từ nhỏ, thích quá liền ngoái đầu
gọi cô ta cùng ra xem. Nhưng đáng lẽ gọi A ơi, ra xem hai con gà chọi nhau hay
lắm! Mình lại nhịu ra thành B ơi. B. là tên một cô gái cũng có cảm tình với
mình, cô A của mình cũng biết, hai cô này không ưa nhau… Thế là cô ta bước ngay
ra, mắt nảy lửa, rít lên: "Anh là thằng đểu! Anh đang ngồi với tôi, nhưng
đầu óc anh vẫn nghĩ đến con B., nên anh mới gọi nhầm ra thế? Mình chưa kịp phân
trần thì đã bị ngay một cái tát. Rồi cô ta đùng đùng bỏ về… Suốt mười đêm nay
mình thức trắng vì chuyện đó…
- Nhưng cô ta tên là gì mà cậu gọi nhầm là gì? - tôi thắc mắc hỏi.
Tôi là đứa ham cười. Nghe những chuyện như thế là tôi không sao nhịn được cười.
Nhưng tôi sợ Tuân giận nên cũng cố làm bộ mặt đưa đám để chia sẻ nỗi khổ tâm
của bạn.
Tuân lắc đầu, phẩy tay:
- Cậu không cần đi vào chi tiết làm gì. Chl cần biết đáng lẽ gọi là A., thì
mình gọi là B.
Chúng tôi ngồi với nhau khoảng tiếng đồng hồ, nói đủ chuyện linh tinh. Nhưng
tôi không sao tập trung được tư tưởng. Tôi quá tò mò muốn biết tên của cô gái
bị gọi nhầm tên. Chọn đúng vào lúc cậu ta bất ngờ nhất, tôi làm như vô tình
buông một câu:
- Nếu cô ta tên An mà gọi nhầm thành Lan, thì cũng dễ thanh minh thôi! Người ta
lỡ miệng là thường…
Tuân buột miệng:
- Không, cô ta tên Nguyệt, mà mình lại gọi là Huệ, thanh minh thế nào được!
Đến đây thì tôi không sao nín nhịn được nữa. Tôi cười đến nỗi phái ôm chặt lấy
bụng sợ lỡ đứt ruột như Trình Giảo Kim ba búa. "Đúng!… Đúng", vừa nói
tôi vừa nấc, "nhầm thế thì đến thánh cũng không thể thanh minh được!
Nguyệt - Huệ! Hai vần tréo trẹo hẳn nhau!".
°
° °
Lâu lâu không thấy Tuân xuống Nghi Tàm chơi. Sợ
cậu ta ốm đau gì chăng, tôi tìm lên Tràng Tiền. Cậu ta đang cắm cúi trước bàn
viết.
Tuân đặt bút, tiếp tôi.
- Mình bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết mà mình vẫn nói chuyện với cậu… Mình hy
vọng trong năm nay sẽ hoàn thành bản thầo lần thứ nhất… Thời tiết này mà đóng
cửa buồng lại ngồi viết văn thì nhất. Nhưng khổ nỗi thời gian cứ bị cắt vụn vì
những công việc của cơ quan…
Tôi buồn cười:
- Thời tiết này đối với dân câu chúng mình cũng nhất. Hồ Tây đêm đêm mờ mịt mưa
xuân. Chúng mình đang hồi hộp đón vụ cá vật đẻ đầu tiên trong năm.
- Cậu bỏ văn rồi à? - Tuân băn khoăn hỏi tôi.
- Không bỏ cũng coi như bỏ, tôi nói: viết mà không ai in thì viết làm gì?
Lần đó, tôi dùng năm đồng Tuân trợ cấp sữa cho cháu sắm thêm mấy bộ lưỡi câu
chùm, loại chuyên dùng để giật cá vật đẻ.
Tháng ba. Trời nồm ẩm ướt gần suốt cả tháng. Đường phố Hà Nội lép nhép bùn.
Thềm nhà xi măng, đá hoa các nhà chảy nước. Dân trong Thành phố bực dọc nguyền
rủa thời tiết. Dân câu ven Hồ Tây chúng tôi lại vui mừng hết chỗ nói. Hồ Tây cá
trở mình suốt đêm. Cá cái như chép, diếc, thầu dầu… bụng căng trứng nôn nóng
chờ mưa rào…
Ngày hôm đó, trời đổ mưa rào, trận mưa rào đầu tiên. Người ta gọi trận mưa rửa
bùn. Dân câu chúng tôi gọi là trận mưa tiền. Đêm nay, sẽ bắt đầu từ lúc nửa
đêm, cá từ giữa hồ sẽ lao thẳng vào bờ vật đẻ dưới các vùng bèo do chúng tôi
chuẩn bị sẵn, trong các đám rong đuôi chó, cây niểng, cây sậy nước mọc gần bờ…
Bọn cá vật đẻ từ nửa đêm cho đến rạng sáng chúng hoàn tất vụ sinh đẻ đầu tiên
trong năm.
Khoảng bảy giờ tối, tôi đang dùng đá mài chuốt lại mấy bộ lưỡi câu. Tuân Nguyễn
đột ngột dắt xe bước vào. Cậu ta lấy trong túi xách ra một bao thuốc Điện Biên
và một gói trà Thanh Hương:
- Cậu pha trà đi. Đêm nay mình sẽ tra tấn cậu đây Mình đọc cho cậu nghe hai
chương đầu cuốn tiểu thuyết vừa chép sạch xong!
Tôi suýt buột miệng: "Hay cậu để đến đêm mai có được không?", nhưng
kịp ghìm lại. Tôi cũng đã từng viết văn, tôi biết rõ cái tâm trạng háo hức, hồi
hộp của người viết khi quyết định đọc những trang viết đầu tay cho bạn mình
nghe. Đó là mối tình đầu của chàng trai mới lớn. Tôi không muốn bạn mình cụt
hứng. Nhưng, tôi thầm nghĩ, tại sao hắn lại chọn đúng cái đêm nay mà đọc văn cơ
chứ? Với dân câu chúng tôi, mỗi năm chỉ có một vài đêm như đêm nay.
Tôi đang hy vọng sẽ kiếm được một yến cá chép. Năm ngoái, cũng đúng vào thời
điểm này tôi kiếm được hơn mười sáu cân cá, và một con rắn cạp nong lớn đi ăn
trứng cá. Tôi bán tất mang tiền về cho vợ. Vợ tôi mừng ứa nước mắt. Với tôi,
những đêm như đêm nay, mọi chuyện văn chương thơ phú chẳng có ý nghĩa gì hết so
với một yến cá chép!…
Tôi đành xếp dọn đồ nghề câu, nấu nước pha trà.
Tuân rút tập bản thảo, lật lật từng trang, bên ngọn đèn dầu tù mù, vẻ mặt căng
thẳng.
- Tên tác phẩm: Một người mơ mộng. Nhân vật chính là Lê Tuấn. chương một dài
hai mươi bốn trang… Chương hai dài hai mươi sáu trang… - Tuân khẽ khàng giới
thiệu.
Cậu ta hắng giọng, đọc chậm rãi, rõ từng dấu chấm phẩy. Chốc chốc lại bỏ kính
trắng xuống đăm đăm nhìn tôi ánh mắt dò hỏi: "Mình viết thế có được
không?". Tôi làm bộ chăm chú nghe nhưng tâm trí để hết ngoài bờ hồ, chỉ
cách cái túp của tôi một vườn quất của anh Cả Tựu, hàng xóm. Cá ngoài hồ trở
mình mỗi lúc một căng. Chúng đang từ giữa hồ lao vào bờ. Những nàng chép cái,
mỗi nàng nặng cỡ hai, ba ký, bụng chửa vượt mặt, dắt theo cả chục chàng chép
đực rốn cương sẹ (tinh trùng của cá) - cá cái vật đẻ phun trứng vào rễ bèo, vào
những lùm rong đuôi chó, vào gốc các bụi cây mểng, cây sậy mọc chìm dưới nước…
Cá cái phun trứng đến đâu, cá đực xô nhau tưới sẹ lên trứng. Chúng hoàn toàn
đắm mình trong cuộc giao hoan, không còn biết trời đất là gì. Chúng tôỉ chỉ
việc thả lưỡi câu chùm xuống, nhấc ngang, nhấc dọc, kéo cổ chúng lên khỏi mặt
nước. Để tranh thủ thời gian, giật được con nào, chúng tôi vứt luôn chúng xuống
giữa các rãnh cây, nắn vội lại bộ lưỡi câu chùm thả xuống giật tiếp. Ít có một
giống vật nào say mê tình dục như bọn chép đực. Nằm phơi mình trên mặt đất chờ
chết, chúng vẫn giẫy đành đạch, tiép tục phun sẹ đọng thành vũng trắng loang lổ
mảu sữa…
Nhưng chỉ một lát sau, những trang viết của Tuân bắt đầu cuốn hút tôi, làm tôi
quên phứt bọn cá vật đẻ, và cái sướng run người khi nhấc cái cần câu nặng trĩu,
ngọn cần cong chúi xuống nước vì bị một anh chép cỡ một, hai ký lôi kéo sợi dây
câu, cố sức vùng vẫy thoát khỏi những lười câu có ngạnh sắc như gươm báu, cắm
ngập vào da thịt? Đồng thời với cái sướng của bản năng giết chóc, săn bắn nằm
sẵn trong máu của con người có từ thời nguyên thuỷ, là cái sướng ước lượng tức
khắc số tiền mà các anh chàng, cô nàng sẽ mang lại sáng hôm sau, khi đặt các
"chàng, nàng" lên bàn cân mấy bà buôn cá… Và tiếp đó là ánh mắt rạng
rỡ của con gái được bố cho tiền ăn quà sáng, và nụ cười sắp-
chết-đuối-vớ-được-cọc của vợ, lương tháng giáo viên đã tiêu đến đồng cuối cùng,
và ngày mai đến kỳ đong gạo sổ mà chưa biết vay ai… Tôi ngồi, hai cánh tay bó
gối, nghe Tuân đọc văn mỗi lúc một chăm chú hơn. Không hiểu sao tự nhiên tôi ứa
nước mắt. Những trang văn thấm đượm chất thơ của Tuân làm sống dậy trong tôi
niềm mơ ước được trở thành nhà văn, mà cuộc sống nghiệt ngã đã chôn vùi từ lâu.
Tuân đã đọc xong hai chương đầu cuốn tiểu thuyết đậm màu sắc tự truyện, tôi vẫn
ngồi bó gối không nhúc nhích. Tôi muốn nói một điều gì mà cổ tự nhiên nghẹn
tắc. Từ đáy lòng tôi dâng lên một nỗi buồn kinh khiếp. Đó là nỗi buồn khi đọc
một nhà văn đồng thời, và tự phát hiện mình không bao giờ viết nổi những trang
viết như anh ta? Buồn vì tủi thân, và cả vì đố kỵ…
Tôi đâm giận thân, giận đời… Tôi nghĩ: nếu hoàn cảnh không xô đẩy mình đến cảnh
huống cùng quẫn như hiện nay, thì có lẽ mình cũng đã viết được một cái gì, có
thể không bằng nhưng cũng suýt soát được như Một người mơ mộng. Hai mươi tuổi
mình đã viết được Vượt Côn Đảo kia mà… Để khỏi phải nói ra với Tuân những đau
đớn, dằn vặt vụt nổi lên trong lòng như một cơn lốc Hồ Tây, tôi đứng lên, đi
xuống bếp.
- Chắc cậu đói rồi - mình nấu nồi cháo cá đãi cậu. Mình còn con chép hơn nửa ký
đang rộng dưới cầu ao… - vừa nhóm bếp, tôi vừa nói vọng lên - Còn tiểu thuyết
thì mình muốn nghe thêm vài chương nữa. Mình sẽ để hẳn một buổi để thảo luận
với cậu!
Thế mà không ngờ đó là hai chương tiểu thuyết đầu tiên mà cũng là cuối cùng -
tác phẩm mộng tưởng của cả đời Tuân Nguyễn - mà tôi được nghe.
Cho đến tận khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không nguôi hối tiếc tại sao
hôm đó tôi không mượn và chép giữ lại hai chương tiểu thuyết đó?… Được vậy thì
độc giả hôm nay, ngoài thơ ra có thể thưởng thức văn xuôi của Tuân Nguyễn. Và
tôi tin rằng độc giả sẽ bị thuyết phục, vì văn xuôi của Tuân được tôi rèn kỹ
lưỡng trong lò văn Dostoievsky. Nhưng, nói như người xưa, có ai học được chữ
ngờ…
Ngày 21 tháng 10 năm 1964, Tuân Nguyễn bị bắt. Và sau đó là thời gian đi tù
chín năm bảy tháng…
Tôi còn nhớ rõ được như vậy vì lúc Tuân bị bắt, con gái tôi, - được Tuân chu
cấp sữa hàng tháng - mới chưa đầy hai tuổi. Lúc Tuân được thả về cháu đã học
hết cấp một. Tội danh của Tuân và vì sao Tuân bị bắt, ngày đó tôi không được
biết tường tận cho lắm: Tôi chỉ biết Tuân Nguyễn bị bắt vào buổi sáng, thì buổi
chiều tôi lò dò đến 20 phố Tràng Tiền. Hôm đó tôi cạn túi, định ghé vô ăn chực
Tuân một suất cơm tập thể… Tôi đang loay hoay tìm chỗ dựng xe đạp trước cửa nhà
ăn thì nhà thơ Trần Nguyên Vấn, cũng là dân Huế và làm cùng cơ quan với Tuân,
từ bên trong nhà ăn sải bước chân ra, vẻ mặt thất sắc, hớt hải. Vấn đến sát bên
tôi, ghé sát tai thì thầm: Quán về ngay đi. Tuân Nguyễn vừa bị bắt sáng nay…
Tôi lây nỗi khiếp hãi của Vấn, nhảy phóc lên xe đạp phóng như điên về Nghi Tàm.
Tôi chệnh choạng dựa xe vào phên liếp, hai chân bỗng như bị đốn… Tôi nàm dài ra
nền nhà, mặt úp xuống đất, khóc nấe lên, một nỗi đau đớn không tên, quặn thắt
trong tim tôi…
Tôi còn lưu giữ trong ký ức một chuyện khá tức
cười về Tuân Nguyễn, trước khi chúng tôi gặp lại nhau, sau gần mười năm… Một
buổi chiều thu Tây Hồ trời se lạnh…
Đó là mùa câu cá diếc bằng giun đỏ. Thôn Nghi Tàm vàng một màu hoa cúc. Tuân
đạp xe về Nghi Tàm thăm tôi.
Tôi hỏi:
- Có mang theo chương mới nào của Một người mơ mộng không đấy?
Tuân lắc đầu:
- Mình tạm gác tiểu thuyết lại để dịch một truyện vừa tuyệt hay của
Solzhenitsyn mới đăng trên Les Nouvelles de Moscou.
Tuân Nguyễn tóm tắt cho tôi nghe Solzhenitsyn là ai. Tôi dắt Tuân đi loanh
quanh trong xóm xem hoa.
Lúc sắp ra về, Tuân chợt hỏi tôi, giọng hơi ngập ngừng:
- Cậu có đồng tiền vàng không, cho mình một đồng…
Tôi ngạc nhiên:
- Đồng tiền vàng? Cậu làm như mình là tay sưu tập tiền cổ không bằng?
Tuân đỏ mặt:
- Không phải. Nó là… cái ấy ấy mà…
Tôi chợt hiểu ra, bật cười. Cái ấy, là cái bao cao su của Tiệp Khắc sản xuất.
Mỗi cái được đựng trong cái hộp nhỏ, tròn và dẹt, in hình đồng tiền vàng cổ
trên giấy kim. Ngày đó, "đồng tiền vàng" là loại hàng cung cấp đặc
biệt. Muốn mua nó phải có giấy của Công đoàn cơ quan, hoặc của chi hội phụ nữ
sở tại chứng nhận: người mua đã có vợ, mua để dùng cho sự sinh đẻ có kế hoạch.
Nơi bán là các cửa hàng dược phẩm quốc doanh. Số lượng mua cũng rất hạn chế, để
tránh nạn đầu cơ tích trữ. Trẻ con thỉnh thoảng nhặt được một hai chiếc của
người lớn dùng rồi vứt đi, thì lấy làm thích thú lắm. Chúng thổi to lên, làm
bong bóng bay…
Tôi hỏi Tuân:
- Nhưng cậu cần "đồng tiền vàng" làm gì? Chắc có đối tượng nào cậu
định tòm tem hẳn?
Tuân càng đỏ mặt tợn:
- Ở cơ quan mình nghe tụi nó thì thào hỏi xin nhau đồng tiền vàng… Mình không
biết hình thù nó thế nào, muốn xem cho biết. Để miêu tả khi cần đến, trong văn
xuôi chẳng hạn…
Tôi nói:
Rất tiếc, mình lại không có… Mình có thuộc biên chế cơ quan nào đâu mà được
công đoàn giới thiệu cho mua?
- Thế trong chuyện sinh hoạt vợ chồng cậu giải quyết thế nào?
- Thú thật với cậu, tôi nói, tính mình vốn không ưa "khoa học kỹ
thuật" can thiệp vào chuyện tế nhị đó. Thứ nữa, mình là loại "đêm bảy
ngày ba, vô ra không kể", đồng tiền vàng đâu mà xài cho xuể? Nhưng mình
biết ở cơ quan cậu có thằng H. lúc nào trong túi cũng có "đồng tiền
vàng". Cậu cứ hỏi xin hắn, thế nào cũng có.
Một sự rủi ro đầy tính chất bi hài mà hình như số phận đặc biệt dành cho loại
người như Tuân Nguyễn.
Sáng ngày 21 tháng 10 năm 1964, trước giờ làm việc Tuân Nguyễn gặp H. ở cổng cơ
quan. Tuân rất ngạc nhiên, H. vốn là tay "đại nghệ sĩ" thường xuyên
đi muộn về sớm, thường xuyên bị thủ trường phê bình, sao bữa nay lại chăm chỉ
thế không biết? Có lẽ hôm nay trời đi vắng!
Về sau này, mỗi lần hồi tưởng lại sự việc ngày hôm đó, Tuân không sao quên được
chi tiết này. Tuân kết luận: cuộc đời mỗi người là một kịch bản phim truyện đã
được số phận đạo diễn phân cảnh. H. phải xuất hiện đúng lúc đó để tăng thêm
chất bi hài của truyện phim.
Sau một phút ấp úng, Tuân hỏi xin H. một "đồng tiền vàng":
- Sao cậu biết là tớ có sẵn của "gia bảo" ấy? - H. cười hỏi.
- Phùng Quán nó bảo thế.
H. không thôi cười, nói:
- Thằng ấy tớ cứ tưởng chỉ nắm vững lý lịch tụi cá mú Hồ Tây, không ngờ với bạn
hữu hắn cũng nắm vững gớm… Hôm nào gặp hắn, cậu nhắn hộ chịu khó lên tớ chơi,
tớ sẽ tặng một cái áo bông của bộ đội biên phòng, tha hồ chống chọi với sương gió
Hồ Tây.
H. rút cái ví ở túi quần sau, mở ra lấy một "đồng tiền vàng"
mới toe đưa cho Tuân:
Tuân đỏ mặt nói:
- Mình chỉ muốn xem cho biết thôi…
H. nói:
- Ba mươi tuổi đầu mà chưa biết mặt mũi "đồng tiền vàng" như thế nào
thì cậu là thằng hâm. Thời buổi này, Roméo Juliette nếu không ở trong biên chế,
không có công đoàn cơ sở giới thiệu, thì cũng phải lùng mua "đồng tiền
vàng" theo giá chợ đen!… Cậu phải bơn bớt sách vở, thêm chất sống sít của
cuộc đời thường vào mới hy vọng với tay đến Đốt được!
Tuân đút vội đồng tiền vàng vào túi áo, cài cúc cẩn thận, định bụng đợi đến
tối, đóng chặt cửa buồng lại mới mở ra xem mặt mũi nó… Không ngờ…
Sau lệnh bắt, người ta yêu cầu Tuân bỏ hết đồ dạc mang theo trong người, kể cả
kính cận để lập biên bản. Về sau này, Tuân kể lại cho tôi nghe giây phút nhớ
đời đó:
- Như cái máy, mình móc hết túi áo túi quần, bỏ đồ đạc lên mặt bàn. Nhưng khi
bỏ cái "đồng tiền vàng" lên mặt bàn, mình bỗng tỉnh trí lại. Chính
nỗi hổ thẹn đã làm cho mình tinh trí…
(…)
Tuân Nguyễn vốn tinh tế. Cậu ta cảm thấy nhục nhã ghê gớm. Cậu ta mấp môi định
thanh minh, nhưng kìm lại được.
" Một chi tiết khó tin trong tác phẩm Kỷ niệm ngôi nhà những người chết
của Dostoievsky vụt hiện ra trong ký ức mình. Có một người tử tù sắp sửa phải
thụ hình. Y bị trói vào cọc hành hình, cổ vươn ra chuẩn bị đón lưỡi dao bén
ngọt của đao phủ. Y chợt ngoảnh lại, run rẩy nói với đao phủ: Trên gáy tôi có
cái nhọt đang mưng mủ. Ông làm ơn đừng chém vào cái chỗ cái nhọt!".
Rất nhiều năm sau, Tuân kể lại với tôi chuyện này, rồi trầm ngâm:
- Rất đúng với hoàn cảnh mình lúc đó. Sắp sửa phải đi tù chưa biết bao nhiêu
năm, thế mà mình lại không cảm thấy đau khổ bằng sự việc trong túi có
"đồng tiền vàng"… Và cũng nhờ sự kiện "đồng tiền vàng" mà
mình có dịp kiểm chứng thêm tài năng vô song của Dostoievsky. Chỉ với một chi
tiết cái nhọt đang mưng mủ trên gáy người tử tù, Dostoievsky đã soi rọi cho
chúng ta thấy vực thẳm vô tận, đầy bí ẩn và kỳ dị trong tâm thức con người…
°
° °
Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đtm bếp,
thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi,
cổ nghẹn tắc:
- Trời… Tuân!
Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Tuân Nguyễn. Da mặt vàng úa và hơi phù
nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai
xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu
máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy
nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần
gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:
- Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…
Tuân cười buồn:
- Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?
- Cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để
nhận một đòn chí mạng như vậy…
Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:
- Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.
Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.
- Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. -
Tuân nói - Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh
nghiệt ngã nhất.
- Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào - tôi hỏi.
Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã
viết được hai chương đầu như cậu biết. Thực tế mười năm đã chỉ cho mình thấy
nội dung cuốn tiểu thuyết của mình quá hiền lành, quá nông cạn. Theo mình, nếu
không có mười năm lưu đày ở Sibir, tài năng của Dostoievsky không đạt đến độ
viên mãn như vậy. Mình tin, nếu viết lại, cuốn tiểu thuyết của mình sẽ hay hơn,
sâu sắc hơn rất nhiều. Nó sẽ là Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của mình. Hai
nữa, nhờ mười năm qua mình đã tự học được tiếng Nga. Bây giờ mình có thể đọc
được Dostoievsky từ nguyên bản. Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn
cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và
phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một
người…
°
° °
"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị
trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự,
người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta
không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của
người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác
anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi
ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh
ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh
ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác.
Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thắng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da,
gân với xương.
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn
thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn
còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn
xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc.
Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn
nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình
có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng
khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta
khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt,
mặt bù ìoong" cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có
khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh
ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao
của bậc đại hiền?… Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con
sông gần trại cho đầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị
nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi
tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi.
Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây.
Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn
dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta
bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm
cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa
thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng
nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về
Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng.
Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu
được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay
không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói
to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một
quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt. Anh ta
ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm
việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên
nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ
lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa
xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người hnh canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như
thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau
mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi tong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù
nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm
nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên
trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt
trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rầm mớ giẻ rách khoác
trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết.
Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay
mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo
bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Kể đến đó, Tuân Nguyễn chợt mở lòng bàn tay phải, nhìn đăm đăm như muốn tìm lại
dấu vết chữ Nhẫn, rồi lắc lắc đầu, nói như chl cốt cho mình nghe:
- Ngay cả trong tác phẩm Kỷ niệm ngôi nhà những người chết, cũng không có dược
một nhân vật như vậy.
°
° °
Tuân Nguyễn cho tôi biết về Hà Nội đã được gần một
tháng.
Tôi nói:
- Thế mà đến hôm nay cậu mới gặp mình. Tệ quá!
- Vừa đặt chân xuống Hà Nội, mình đã nghĩ về với cậu - Tuân nói - Nhưng nghĩ
lại thấy chưa nên. Cậu đang gặp khó khăn, mình lại về tụ bạ với cậu, sẽ không
hay cho cả hai… Tiện đường, mình ghé vào nhà vợ chồng Tạ Vũ. Vừa trông thấy
mình cả hai đều khóc. Vợ Tạ Vũ nói: "Anh cứ ở lại đây, chúng ta rau cháo
nuôi nhau". Nhưng có lẽ mình phải tìm một chỗ ở khác. Cuộc sống của vợ
chồng Tạ Vũ cũng quẫn quá. Hai vợ chồng, ba đứa con chui rúc trong cái túp chỉ
hơn chục mét vuông, và gần như sống trên một đống giẻ rách…
Sắp đứng lên ra về, Tuân Nguyễn như chợt nhớ điều gì.
- Ơ này, cậu có "đồng tiền vàng" nào không?
Tôi ngạc nhiên:
- Đồng tiền vàng nào?
- Thì… "đồng tiền vàng" ấy mà… Cuối cùng, đến hôm nay mình vẫn chưa
được biết mặt mũi nó thế nào…
Tôi bật cười mà hai mắt cay lệ. Tôi ôm lấy đôi vai lục cục những xương của bạn
nói:
- Chán quá, mình không có… Một ước muốn nhỏ nhoi như vậy mà mười năm không thực
hiện được thì kể ra cũng… vui thật. Cuộc đời vui quá, không buồn được. - tôi
ngâm to câu thơ của chính cậu ta làm - Nhưng mình nhất định sẽ lùng cho cậu hẳn
một chục đồng tiền vàng, xem thoải mái!
- Lần này không phải chỉ để xem, - Tuân nói - mà mình sẽ dùng. Được hẳn một
chục đồng thì còn gì bằng! Mình lại sắp lấy vợ…
- Lấy vợ? Mới một tháng trở về với cõi tục mà cậu đã tìm được vợ thì tài thật!
Không phải cái cô mà cậu gọi nhầm tên ấy chứ?
- Người mình định lấy chắc cậu cũng biết.
- Ai thế?
- Phương Thuý, con cụ Hoài Chân, một trong hai tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam.
- Phương Thuý thì mình biết quá, làm thơ, dạy đàn tam thập lục ở nhạc viện Hà
Nội. Nhưng chồng cô ta là một tiến sĩ vật lý danh tiếng kia mà.
- Phương Thuý vừa làm xong thủ tục ly dị…
- Bỏ một tiến sĩ vật lý danh tiếng để lấy một anh tù vừa được tha sau mười
năm…! - tôi cười to - Ngay cả thiên tài như Đốt cũng không nghĩ ra được một
tình huống cắc cớ đến như vậy?
°
° °
Tuân Nguyễn và Phương Thúy lấy nhau sau đó một
tháng, Thuý đem tất cả số tiền dành dụm được rồi bạn hữu gom góp thêm, mua một
gian buồng sáu mét vuông gần ga Hàng Cỏ. Bạn hữu xúm lại xây "tổ ấm"
cho cặp vợ chồng muộn màng. Người góp nồi, người góp xoong, bếp dầu, chén bát,
bàn viết, ghế ngồi, giá sách, giường… bằng gỗ tạp. Hoạ sĩ Chu Hoạch góp một bức
chân dung Đốt, treo trước bàn viết. Tôi và hoạ sĩ Huy Quang chở từ Nghi Tàm lên
mấy cây tre, đóng một cái chạn để bát đũa xoong nồi… Gian buồng tuy hẹp nhưng
xem chừng cũng tươm. Ngày còn ở trại, Tuân Nguyễn học thêm được nghề đánh
véc-ni. Tuân cùng một người bạn, một nhà thơ cũng thất cơ lỡ vận, tên là Lương
Vĩnh, đi đánh véc-ni thuê. Nghề đánh véc-ni cũng kiếm được ngày hai bữa gạo.
Tuân nói với tôi:
- Chỉ sợ một nỗi làm nghề này lâu, nó nhiễm vào văn chương thì bỏ mẹ.
Tuân lại bắt tay vào ghi chép và chuẩn bị làm lại cuốn tiểu thuyết dở dang.
Nhưng cậu ta không còn có cái háo hức, say mê như mười năm trước đây. Nhiều lúc
tôi đến thăm, bắt gặp Tuân nằm thừ trên giường, mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà,
mặt buồn rười rượi. Trên bàn viết, tập giấy trắng, cuốn sổ tay nằm chỏng chơ
với quản bút…
Một hôm, chỉ có hai đứa với nhau, tôi hỏi:
- Cậu có hạnh phúc không?
Tuân một tay chống má, ánh mắt lơ đãng, khẽ lắc đầu trả lời giọng xa vắng:
- Mình đang định nghĩa lại hạnh phúc… Mình như người ngủ và đang mơ một giấc mơ
quá đẹp, bỗng có người dựng cổ mình dậy một cách thô bạo… Cho đến lúc này mình
vẫn bàng hoàng chưa tỉnh hẳn. Điều cảm nhận đầu tiên sau khi bị lôi ra khỏi
giấc mơ là trong người mình có cái gì đó rạn vỡ, gãy nát, giống như một thứ đồ
chơi trẻ con ruột bị gãy mất bánh xe, đứt mất dây cót… Hình dáng bên ngoài vẫn
còn đấy nhưng không cử động được nữa…
(…)
"Ở hiền gặp lành". Đạo lý này tôi được dạy dỗ từ thuở ấu thơ. Nhưng
khi nhận được tin Tuân Nguyễn chết vì tai nạn giao thông, niềm tin vào đạo ìý
này lung ìay trong tôi. Tôi đau đớn tự hỏi: "Người bạn thân thiết của tôi
sống hiền đến như vậy, tại sao chỉ gặp toàn điều dữ?".
Sau ngày đất nước thống nhất được ít lâu, một người học trò cũ của Tuân từ Sài
Gòn ra Hà Nội, tìm gặp thầy và nói: "Thưa thầy, hiện nay em là Hiệu trưởng
một trường vừa học vừa làm. Nếu thầy chuyển vào Sài gòn, em xin hứa sẽ bố trí
thầy vào làm việc ở trường, đưa thầy vào biên chế. Như vậy thầy sẽ có lương
tháng đều đặn, và có một chỗ ở tử tế trong khu tập thể của cán bộ trường. Em
tin rằng chỉ mất một thời gian ngắn, cuộc sống của thầy sẽ đi vào ổn định, và
thầy có thì giờ để thực hiện tác phẩm mà suốt đời thầy mơ ước".
Vợ chồng Tuân Nguyễn nghe theo lời khuyên của bạn hữu, quyết định vào cư trú ở
Sài Gòn. Tuân để lại gian buồng cho người chủ cũ, cũng với giá bán 600 đồng;
mặc dầu lúc này giá nhà đang lên, có thể bán lại cho người khác từ 800 đến
1.000 đồng. Tuân nói:
- Mình mua của người ta sáu trăm, mình có quyền gì được bán lại một nghìn?
Chúng tôi đành cười trước lý lẽ gàn dở của cậu ta. Tôi nói:
- Cậu là người của thời Nghiêu Thuấn còn sót lại trên thế gian này.
Trước hôm vợ chồng Tuân lên tàu liên vận vào Nam, chúng tôi dọn sạch gian buồng
để trả lại cho chủ cũ, và tổ chức một buổi liên hoan tiễn đưa. Bạn hữu đến dự
ngồi chật kín gian buồng. Người nào cũng mang theo quà bánh, áo quần, tiền,
thơ, tranh… tặng hai vợ chồng làm vốn dắt lưng. Tiệc chia tay chỉ có mấy chai
rượu trắng, một ít lạc rang.
Tôi nhớ, hôm đó tôi mang tất cả số tiền bán cá định đưa về cho vợ, biếu vợ
chồng Tuân. Đâu chỉ có hơn chục đồng, toàn tiền lẻ nhàu nát và tanh sực mùi cá.
Tuân hỏi:
- Cậu không có thơ tặng mình à? Bây giờ mình lại thấy yêu những bài thơ tràng
giang đại hải, sặc mùi lính tráng của cậu.
Tôi cười:
- Bạn hữu hôm nay đã làm thơ về cậu quá hay. Nói như kiểu Lý Bạch hôm định đến
đề thơ ở Hoàng Hạc lâu: "Trước mặt có Tuân Nguyễn, nhưng vì thơ của bạn
hữu đã xếp đầy nhà, nên không thể nói nên lời". Sau khi uống cạn ba chén
đầy, niềm cảm hứng thơ chợt oà đến trong tôi. Tôi nói:
- Tôi không làm nổi thơ để tặng hai vợ chồng cậu, nhưng chợt nghĩ được mấy vần
nôm na, tặng gian buồng khốn khó này.
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ nhà thơ như ở đây ~
Ba thước vuông sáu nhà thơ ngồi
Hai phải đứng vì không đủ chỗ…
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ cô đơn như ở đây ~
Một đám trẻ bơ vơ không nhà cửa
Sống bằng thơ đau với rượu cay…
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ yêu thương như ở đây?
Mỗi tấc đất có một người quỳ gối
Dâng trái tim và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người.:.
Có nơi nào trên trái đất này?
Có nơi nào trên trái đất này?
Có nơi nào trên trái đất này?
°
° °
Một buổi chiều cuối tháng ba âm lịch 1981, một
buổi chiều định mệnh - đúng vào năm Tuân bốn mươi chín tuổi…, cậu ta đạp chiếc
xe mini tòng tọc đi lấy báo về cho sạp báo của vợ. Xấp báo xếp đầy trước giỏ
xe. Đường phố Sài Gòn xe cộ như mắc cửi. Tuân đạp rất chậm, gần sát lề đường.
Cậu ta biết mình có tật vừa đạp xe vừa nghĩ ngợi miên man, lại thêm cận thị
nặng nên "tránh xe chẳng xấu mặt nào". Đến một quãng đường vắng, Tuân
đạp xe nhanh hơn. Một chiếc xe tải cài số lùi, vừa lùi vừa bóp còi inh ỏi. Tuân
Nguyễn không nghe thấy gì. Có lẽ cậu ta còn mê mải nghĩ đến một ý thơ hoặc một
chi tiết tiểu thuyết chợt ập đến trong đầu… Cậu ta cứ mải miết đạp xe, và đạp
thẳng đến đít thùng xe. Cậu ta bỗng thấy trán mình va phải vật gì cưng cứng.
Chưa kịp hiểu vật gì thì cậu ta đã ngã lăn ra lề đường, kính trắng văng một
nơi, xấp báo văng khỏi giỏ xe.
Người lái xe hớt hải phanh xe lại, bánh xe sau cách Tuân đâu chỉ hơn một mét.
Người lái xe giúp Tuân đứng lên, lo lắng hỏi:
- Ông có sao không? Tuân nói không sao, chỉ thấy đầu váng vất. - Tôi bóp còi
liên tục mà sao ông không nghe tiếng? - Xin lỗi anh, tại tôi đãng trí… Tất cả
là lỗi tại tôi - Tuân ấp úng. Người lái xe ngơ ngác nhìn nạn nhân của mình. Có
lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử tai nạn giaĐ thông người bị đụng xe lại đi
xin lỗi tài xế. "Hay ông ta bị bệnh tâm thần?" Một ý nghĩ thoáng hiện
trong đầu anh tài xế. Bây giờ tốt nhất là lên xe phóng đi, tránh được mọi
chuyện rắc rối rầy rà. Nhưng cái vẻ hiền lành đến ngơ ngác của nạn nhân đã giữ
chân anh ta lại.
- Ông công tác gì?
- Tôi chẳng công tác gì cả. Tôi làm… thơ - Tuân lau cạp kính trắng, trả lời -
May quá, nó văng xa thế mà không vỡ.
- Nhà ông ở đâu, để tôi đưa ông về?
Tuân nói địa chỉ nhà mình, rồi xua tay:
- Tôi về một mình được, nhà tôi ở gần đây thôi. Anh cứ lái xe đi, chắc anh đang
có việc vội.
Tuân đạp xe về nhà, kể cho vợ nghe chuyện vừa xảy ra. Vừa ngồi xuống mâm cơm,
cậu ta bỗng thấy buồn nôn. Tuân bỏ bát đũa, lên giường nằm, rồi một cơn sốt bắt
đầu. Đêm đó Tuân chìm vào mê sảng.
Sáng hôm sau, Phương Thúy đưa Tuân vào cấp cứu ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Sau khi
khám nghiệm, bác sĩ cho biết Tuân bị xuất huyết não. Suốt một tuần liền, Tuân
Nguyễn lúc mê, lúc tỉnh.
Người lái xe tìm đến thăm nạn nhân của mình ở bệnh viện. Nhiều lần anh ta xin
với vợ và bạn hữu nạn nhân cho được chịu hết phí tổn, nếu cần phải thực hiện ca
mổ. Nhưng bác sĩ lắc đầu: "Muộn mất rồi!".
Chiều ngày 27 tháng 3 âm lịch, Tuân Nguyễn trút hơi thở cuối cùng trên giường
bệnh viện. Trước khi chết, Tuân chỉ để lại độc một lời trăn trối:
- Đừng bắt tội người lái xe. Cái kết cục buồn thảm này là lỗi tại tôi… Tôi là
người có lỗi…
Nghe Phương Thúy và bạn hữu kể lại giây phút cuối cùng của Tuân, tôi bàng hoàng
chợt nhớ lại hôm Tuân về chơi với tôỉ ở Nghi Tàm.
Hôm đó Tuân ở lại với tôi suốt ngày.
Tuân nói:
- Mình định viết một bài thơ dài, nhan đề: Tôi có lỗi. Tuân nói rõ thêm: chữ
Tôi ở đây phải viết hoa. Vì Tôi ở đây là nghệ sĩ và trí thức chân chính của đất
nước. Tôi có trách nhiệm với tất cả những lỗi lầm, những oan uổng, đớn đau,
những xấu xa, hèn mạt, đáng lăng nhục và xúc phạm con người. Trong mọi chuyện,
chính Tôi là người có lỗi. Vì Tôi chưa đem hết sức mình thực hiện sứ mệnh cao
cả mà Thượng đế đã đặc trao cho người nghệ sĩ.
14. Bản hùng ca bị mối
xông và mười bảy bộ hài cốt
Nội dung bài này đã được báo Tiền Phong chủ
nhật đăng 2 kỳ, số 47- 48 năm 1992 với tựa đề "Bản trường ca năm xưa"
(hay tư liệu mới về 17 bộ hài cốt vừa tìm thấy ở Huế) nhưng bị lược bớt. Cũng
nội dung này, tháng 5/1993, Nxb Trẻ đã xuất bản với tựa đề "Bản hùng ca về
17 anh hùng Vệ quốc đoàn" (Tủ sách Tuổi hồng). Bài này chúng tôi in theo
bản gốc chữ viết tay của Phùng Quán tặng cho Chi Đoàn TNCS HCM của UBKHKT Tỉnh
Bình Trị Thiên (cũ) sau đấy được trao lại cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê lưu giữ.
(Chú thích của Ngô Minh)
°
° °
Dạ thưa văn hữu Nguyễn Đắc Xuân cùng các chiến
hữu Trung đoàn Trần Cao Vân cũ. Mới đây do tình cờ tôi được đọc bài viết của
văn hữu đăng trên trang nhất báo Lao Động chủ nhật ra ngày 7-7-1992, thuật lại
một sự kiện làm chấn động cả thành phố Huế. Và sự kiện này có một chi tiết nhỏ
liên quan đến bản thân tôi:
"Ngày 4-6-1992, trong lúc đào đất cải tạo một công trình phụ của cơ quan
Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, công nhân xây dựng bất ngờ chạm
phải 17 bộ hài cốt nằm lẫn với súng, đạn, lựu đạn, dao găm, kiếm Nhật, khóa
thắt lưng, mũ sắt…Trong mười bảy bộ, có một bộ to lớn quá cỡ; và một bộ khác
nơi xương ống tay đeo lủng lẳng một cái "lập lắc" bằng nhôm có khắc
chữ: "Phùng Huấn- VQĐ.Thuận Hóa". Bài báo ghi chú: "Phùng Huấn
là bác của nhà văn "Tuổi thơ dữ dội" Phùng Quán. Chính nhờ di vật này
mà những người khai quật xác định ngay được đây là hài cốt của quân ta.
"VQĐ" là Vệ quốc đoàn. Ngày 16-6, một cuộc tọa đàm khoa học được tổ
chức tại hiện trường khai quật và đã nhất trí một số nét đại cương: "Mười
bảy bộ hài cốt là Trung đội 9, Tiểu đoàn Tiếp phòng quân, Trung đoàn Trần Cao
Vân, nay là Trung đoàn 101, sư đoàn 325. Trung đội trưởng là Nguyễn Ngọc Giao,
chính trị viên là Vĩnh Tập… đã hy sinh trong những ngày toàn quốc kháng chiến,
năm 1946. Nhưng ai đã chôn cả một trung đội Vệ quốc đoàn mà mãi 46 năm sau,
hoàn toàn do tình cờ mà phát hiện được? Theo ý kiến của một số người tham dự
cuộc tọa đàm, là do chính đồng đội của họ chôn; nhưng không may sau đó những
người chôn họ cũng hy sinh luôn, nên không còn ai biết chuyện này nữa…".
Nhân sự kiện này tôi có đôi điều muốn thưa chuyện cùng văn hữu và những đồng
đội cũ của tôi.
Tôi chỉ là một người lính già thất học, mù tịt về mọi khoản khoa học. Nhưng tôi
cả quyết rằng, Trung đội Vệ quốc đoàn này không phải do đồng đội của họ chôn.
Vì một ìẽ giản đơn là những người lính chúng tôi những ngày đó không bao giờ
chôn đồng đội của mình với vũ khí. "Súng là vợ, đạn là con" là đạo lý
chiến trận của chúng tôi ngày đó. Không ai đem chôn "vợ con" cùng với
người lính chết trận. Có một nhà thơ đã từng viết "Chết còn trao súng đạn
cho nhau".
Vậy thì ai chôn?
Đọc bài báo của văn hữu, rồi sau đó được xem ảnh của Trung đội trưởng Nguyễn
Ngọc Giao và chính trị viên Vĩnh Tập và nhiều bức ảnh chụp các góc độ của khuôn
viên khai quật, cùng vị trí và địa điểm cơ quan Uỷ ban KHKT (18- Hà Nội, Huế),
toàn thân tôi ớn lạnh. Tôi bỗng nhớ lại tất cả…
Cách đây trên ba mươi năm có lẻ, trong những ngày gian khó nhất của đời mình,
trong nỗi buồn bã và thất vọng khôn cùng, tôi khởi công viết một thiên hùng ca…
"Có những phút ngã lòng- tôi vịn câu thơ mà đứng dậy". Thiên hùng ca
kể lại một câu chuyện có thật, những người anh hùng có thật. Hơn nữa, những
người anh hùng mà tôi quen biết, và tôi có mối hàm ơn sâu nặng vì một lần họ đã
cứu tôi… thoát khỏi đạn đại liên giặc trong trận đánh kinh hồn vào vị trí Miễu
Đại Càng… Năm đó tôi vừa tròn 14 tuổi, là đội viên Đội thiếu niên trinh sát của
Trung đoàn Trần Cao Vân, mà tôi có dịp kể lại sự tích của toàn đội trong tiểu
thuyết Tuổi thơ dữ dội. Không có họ chắc xương thịt tôi cũng mục nát từ lâu,
như xương thịt các bạn tôi trong truyện: Quỳnh-sơn-ca, Vịnh-sưa, Bồng-da-rắn…
Thiên hùng ca gồm 10 chương, khoảng nghìn câu thơ, với một Khai từ và một Hậu
từ. Từ năm 1958 đến năm 1988, tôi mắc phải khổ nạn văn chương. Tôi bị mất quyền
in sách nên thiên hùng ca chịu chung số phận với nhiều tác phẩm khác của tôi:
Mối xông! Nghìn câu thơ nay tôi không còn nhớ nữa (ba mươi năm có le rồi còn
gì?). Nhưng cốt truyện, đoạn Khai từ và lác đác dăm câu thơ, đoạn thơ khắc họa
ý tưởng chính, tôi vần còn nhớ như in…
Đất nước ta đâu chừng ấy nghĩa trang!
Đâu chừng ấy nấm mồ liệt sĩ!
Hãy đi từ ải Nam Quan
Thẳng đến tận Hàng dương Côn Đảo
Nhặt lên từng hòn đất nếm xem
Có hòn nào không hăng nồng vị máu?
Đó là đoạn Khai từ của Thiên hùng ca HUYỆT LỬA CHÔN CHUNG?
Ngày đó… Cố đô núi Ngự sông Hương trầm mặc, hiền hòa, bỗng nổi giận, vùng dậy
dựng chiến lũy chống giặc ngoại xâm. Trên vừng trán xanh ngọn núi Tam Thai sáng
rực lên dòng chữ xếp bằng đá vôi: Thà chết không quay lại đời nô lệ!. Trung
đoàn Vệ quốc quân Trần Cao Vân, quân chủ lực của Thừa Thiên, gan dạ, khí phách
"Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" có thừa, nhưng vũ khí thì quá
thiếu. Họ được trang bị phần lớn là súng khai hậu, mút-cơ-tông, mã tấu, dao
găm, lựu đạn nội hóa mười quả chỉ nổ hai ba, mìn ba càng, chai xăng ngâm kếp…và
cả rơm rạ và ớt bột để xông giặc cho chết ngạt như kiểu xông chuột. Vũ khí hạng
nặng của Trung đoàn là một khẩu sơn pháo 75 ly, một máy ngắm, được gọi mật danh
là "Ông già Bảy lăm". Bởi vậy, muốn tiêu diệt được quân xâm lăng được
trang bị đến tận răng vũ khí hiện đại, xe tăng, máy bay… Vệ quốc đoàn không còn
cách nào khác là phải liều thân.
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi…Nào có mong chi đâu ngày trờ về…Ra đi ra đi bảo
tồn sông núi… Ra đi ra đi thà chết không lui…
Cả Trung đoàn Trần Cao Vân đã hát như vậy trước giờ xuất kích. Ban chỉ huy mặt
trận ngày đó mà một số người hiện nay còn sống: Hoàng Anh, Trần Hữu Dực, Hà Văn
Lâu…, quyết định tuyển chọn những chiến sĩ gan dạ nhất, dám liều thân nhất,
thành lập những đơn vị cảm tử quân. Cảm tử quân lãnh nhiệm vụ đêm đêm luồn sâu
vào tận sào huyệt giặc, đánh cận chiến bằng dao găm, lưỡi lê, lựu đạn, dùng mìn
ba càng; bom tự tạo phá huỷ xe tăng, đại bác; dùng chai xăng ngâm
"kếp" đốt phá các kho hàng… Trong số những đơn vị cảm tử quân có
Trung đội do anh Ngọc chi huy, và một chính trị viên rất trẻ con nhà Hoàng tộc,
nổi tiếng gan liều và đánh cận chiến giỏi. Trong thiên hùng ca, trung đội
trưởng Ngọc còn có biệt danh "Người-yêu-nước-khổng-lồ" vì tầm vóc anh
đặc biệt cao lớn. Anh đứng trong hàng quân thường cao vượt đồng đội một đầu và
một vai. Quê anh ở miền Bắc. Anh đến mặt trận Huế trong đoàn quân Nam tiến. Anh
luôn đội chiếc mũ sắt chiến lợi phẩm thủng một lỗ toang hoác trước trán giống
hình cái miệng cười ngạo, vừa cười vừa hát: Trông chết cười ngạo nghễ… Anh che
bớt cái miệng- sắt cười ngạo bằng chiếc quân hiệu ngôi sao vàng trên nền đỏ
hình trăng. Khẩu tiểu liên "Tuyn" anh khoác trên vai nom như khẩu
súng đồ chơi. Đôi giày ba-ta ngoại cỡ anh đi nom như hai chiếc xuồng… Một con người
có tầm vóc như vậy tưởng chừng hét phải sập cầu Trường Tiền như Trương Phi hét
sập cầu Tràng Bản. Nhưng hoàn toàn ngược lại, anh nói năng dịu dàng, nhỏ nhẹ,
ngay cả khi đứng trước hàng quân phổ biến lệnh chiến đấu. Và giữa câu nói anh
thường chen vào một vài tiếng Tây như thói quen những người có học thời đó. Anh
thương tụi liên lạc nhóc chúng tôi lắm. Anh nạt nộ la mắng khi bắt gặp chúng
tôi chạy liên lạc, ngại đường xa, liều lĩnh chạy tắt qua những đường phố trong
tầm súng của giặc. Giống hệt như mẹ chúng tôi ngày còn ở nhà nạt nộ la mắng khi
bắt gặp chúng tôi trèo tít lên ngọn cây bắt tổ chim: "Lần sau mà anh còn
trông thấy các em chạy tắt qua mấy đường phố đó, anh sẽ dùng que thông nòng
súng quất cho nát mông đít!"
Trận đánh vị trí miễu Đại Càng đêm đó trời mưa rét. Tối như bưng. Trung đội anh
Ngọc là lực lượng chủ công, được Mặt trận tăng cường hỏa lực gấp đôi, lĩnh
nhiệm vụ sẽ đánh vào điểm xung yếu nhất của vị trí. Tôi và thằng Bồng-da-rắn
chạy liên lạc truyền tin. Hai đứa chứng nào vẫn tật ấy, ngại chạy đường vòng,
rủ nhau chạy tắt theo con đường mà anh Ngọc đã ra lệnh cấm vì nằm trong tầm đạn
súng máy của giặc và địa hình trống trơn. Chạy được hai phần đường thì vấp phải
đèn pha giặc quét kiểm soát dọc đường. Chúng tôi vừa kịp nằm sấp xuống lề
đường, đạn đại liên cua địch đã kêu chiu chíu trên đầu, cày tung đất đá quanh
chỗ nằm. Đạn bay một lúc một dày đặc và hạ thấp xuống chỉ còn cách người chúng
tôi vài gang tay. Trong một nỗi hoảng sợ ghê gớm, chúng tôi cùng kêu thét lên:
"Các anh ơi, cứu em với!". Trung đội trưởng Ngọc lúc này đã áp sát
được đến vị trí tấn công. Nghe chúng tôi hoảng loạn kêu cứu, anh Ngọc liền chỉ
huy trung đội nhào trở lại con đường chúng tôi đang nằm bẹp dí chờ chết. Anh hô
trung đội dồn hết hỏa lực bắn xả vào phía hai nòng đại liên đang chớp lửa.
Trước sự phản công bất ngờ, hai khẩu đại liên vụt câm chừng một phút, đủ thời
giờ cho hai đứa chúng tôi chồm dậy, nhảy vọt xuống con hào đầy nước mưa phía
bên kia lề đường… Sự cố này đã làm lộ kế hoạch đánh vị trí trước giờ nổ súng.
Các đơn vị phải rút về. Hai đứa tôi theo trung đội anh Ngọc rút về địa điểm
giấu quân. Vừa kéo xuống tầng hầm chiếu sáng lờ mờ bằng ngọn đèn bão treo ở góc
hầm, đã thấy ông Điểu, tiểu đoàn trưởng Tiếp phòng quân đứng chực sẵn giữa nhà.
Ông xuất thân là lính khố xanh, tầm vóc nhỏ con, tính nóng như lứa, hay thét
lác và đôi khi đánh đập lính. Nét mặt ông giận phừng phừng. Vừa nhìn thấy anh
Ngọc, ông đã hét toáng lên: "Ai cho phép anh được thay đổi kế hoạch tấn
công? Tôi sẽ xử bắn anh tại chỗ!" Ông đưa tay chụp lấy báng súng lục đeo
bên hông. Anh Ngọc bước sải một bước đến sát bên ông, đưa bàn tay hộ pháp nắm
chặt lấy cổ tay ông đang định rút súng. Anh nói dằn giọng: "Đồng chí tiểu
đoàn trưởng, tôi yêu cầu đồng chí dẹp thói quân phiệt! Hãy bình tĩnh nghe tôi
nói đây! Đồng chí coi việc hạ cái vị trí của bọn chó chết ấy hơn mạng sống hai
thằng nhỏ này hay sao?". Anh đưa tay trỏ hai đứa chúng tôi đang đứng run
rẩy nép sát vào nhau ở góc tầng hầm. "Tôi sẽ đưa đồng chí ra xét xử trước
tòa án binh!". Ông Điểu rít lên và sầm sập nện giày đinh cồm cộp quay
ngoắt ra cửa tầng hầm. Hai đứa chúng tôi nháy nhau và định chuồn theo ông.
Nhưng anh Ngọc quát (tôi chưa bao giờ nghe anh quát to đến vậy): "Hai chú
đứng lại đó! Nằm sấp xuống nền!". Anh rút cái que thông nòng súng, dằn
giọng: "Bao nhiêu lần tôi đã ra lệnh cho các chú tuyệt đối không được chạy
tắt qua những con đường cấm. Tại sao các chú không tuân lệnh? Chỉ vì các chú mà
lỡ mất một trận đánh lớn. Tôi phạt các chú theo kỷ luật Vệ quốc đoàn!" Anh
quất chúng tôi mỗi đứa ba que thông nòng súng, quắn mông đít. "Cho các chú
đứng lên, và về đi!". Anh nhìn theo chúng tôi leo lên các bậc cửa tầng
hầm, nói với chính trị viên: "Tôi phải lên gặp anh Lâu, yêu cầu anh đưa
hết tụi nhóc này ra khỏi mặt trận, gửi ra ngoài vùng tự do cho đi học. Chỗ của
chúng đâu phải ở đây…". Nhưng anh chưa kịp làm điều đó thì sự cố quan
trọng nhất của đời người lính đã xảy. Cạnh nhân vật anh Ngọc là nhân vật chính
trị viên trung đội con nhà Hoàng tộc, người đảng viên cộng sản độc nhất trong
đơn vị. Tôi đặt biệt danh cho anh là "Chàng-cộng-sản-mệ". Nhân vật mà
tôi mất nhiều công sức nhất để miêu tả và khắc họa tính cách với cả trăm câu
thơ, là nhân vật chiến sĩ Anh tên là Phùng Huấn, xuất thân nông dân quê ở làng
Thanh Thuỷ Thượng. Phùng Huấn yêu một cô gái làng sắp làm lễ cưới. Mặt trận Huế
bùng nổ, anh hoãn ngày cưới, cùng nhiều trai làng xung phong gia nhập Vệ quốc
đoàn. Anh được tuyển chọn vào cảm tử quân…
°
° °
Bài thơ HÔN là đoạn thơ tôi trích ra từ thiên
hùng ca ấy. (Bài thơ này nhiều lần đăng trên báo, và mới đây được in trong
tuyển tập Parorama de la Littérature Vietnamism do dịch giả Hữu Ngọc dịch ra
tiếng Pháp: (Le Baiser):
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn!
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ!
Đó là lời của Phùng Huấn nói với vợ chưa cưới trước giờ xung trận. Phùng Huấn
là bác họ của tôi. Trong thiên hùng ca tôi không nói chi tiết này, chi miêu tả
mỗi lần chúng tôi đứng cạnh nhau, cả đơn vị ai cũng lầm là hai anh em ruột. Vì
chúng tôi giống nhau như hai cục bùn móc dưới ruộng sâu lên. Dù đã được che kín
quân phục và ướp mùi chiến trận, nhưng cả con người Phùng Huấn và tôi vẫn bốc
ra đậm đặc mùi bùn, mùi cứt trâu, mùi rơm rạ ủ mục, mùi áo quần chằm vá đầy rận
và ướt sũng mồ hôi, mùi bình dân học vụ… Trong đội cảm tử, Phùng Huấn được phân
công vào tổ "vũ khí nặng".
Vũ khí nặng Phùng Huấn phụ trách là một cặp đầu đạn đại bác 75 ly tịt ngòi được
công binh xưởng biến báo thành mìn đánh xe tăng. Hai trái đạn đựng trong cái rọ
heo được đan bằng tre cật, dây đeo bện bằng dây điện thoại to bằng ngón tay
cái. Phùng Huấn chăm sóc hai trái đầu đạn còn hơn ngày còn đi cày thuê ở làng,
chăm sóc con trâu đực tên là ô, nuôi rẽ của một nhà giàu. Phùng Huấn gọi nựng
chúng là "Hai thằng đẻ sinh đôi của tau". Hễ rảnh rỗi phút nào là
Phùng Huấn lại lôi "cặp con sinh đôi" trong rọ heo ra, lau chùi bằng
mỡ súng, dầu "luyn", làm chúng bóng ngời lên, soi gương được Anh em
trong đội thường xúm lại trêu chọc: "Cậu lau chùi nhiều rứa, có ngày tụi
hắn mòn thủng, thuốc súng trong bụng chảy ra hết, thành hai trái đạn
tộng-bộng…"
Tổ "vũ khí nặng" là siêu cảm tử, nên mỗi chiến sĩ được mặt trận cấp
phát một chiếc "lập lắc" bằng nhôm cứng, trên mặt khắc tên họ, dây
đeo bằng thép không rỉ, để lỡ hy sinh xác người nọ khỏi lan với xác người kia.
Các anh "vũ khí nặng" rất hãnh diện với việc cấp phát ưu tiên này.
Trời rét căm căm mà anh nào cũng xắn cao tay áo quân phục để khoe. Tôi còn nhớ
trong thiên hùng ca tôi viết cả một đoạn thơ dài về những chiếc "lập
lắc" này và những chiến sĩ đeo nó trên cườm tay. Tôi gọi chúng là của hồi
môn của cuộc chiến tranh Vệ quốc tặng cho những đứa con hiếu nghĩa tình nguyện
kết duyên với Tử Thần!
Một buổi sáng, mặt trận Huế chìm trong mưa. Bùn đất lép nhép trong các chiến
hào. Tôi từ chỉ huy sở Mặt trận chạy liên lạc xuống trung đội anh Ngọc đưa mật
khẩu chiến đấu đêm hôm đó. Mật khẩu đựng trong phong bì dán kín, có gắn xi, con
dấu đồng của Mặt trận đóng lên xi đảm bảo tuyệt mật. Phùng Huấn ngoắc tay gọi
tôi: "Bê! Bê." (tên gọi tôi ngày còn ở nhà), rồi ghé sát tai tôi nói
nhỏ: "Tối ni đơn vị tau đi cảm tử vị trí nhà hàng Sap- phăng-xông (Bây giờ
là cửa hàng Bách hóa số 1, thành phố Huế), Mặt trận sẽ đãi tụi tau một bữa thịt
bò, thịt heo với xôi ở sân chùa Vạn Phước. Để lỡ có chết thì anh em được chết
no. Tắt mặt trời, mi nhớ chạy xuống mà ăn chực". Tụi liên lạc nhóc chúng
tôi, hễ nghe nói được ăn thì có phải chui qua lưới lửa của đạn súng máy, chúng
tôi cũng chẳng từ. Chúng tôi thường lý sự: "Bắn chưa chắc đã trúng. Trúng
chưa chắc đã chết. Không trúng, không chết thì được ăn?".
Tôi ngờ bữa ăn tối hôm đó chính là bữa ăn mà Nguyễn Đắc Xuân đã kể lại trong
bài báo nói trên: "Vợ chưa cưới của dồng chí Phùng Huấn, đã 70 tuổi, từ xã
Thuỷ Dương ( tên mới của làng Thuỷ Thanh Thượng) chống gậy lên thăm hài cốt của
người yêu xưa. Bà kể: Chiều đó tôi lên đơn vị thăm anh ấy. Tôi rủ anh đi ăn
hàng. Anh ấy nói: "Tối ni đơn vị anh đi cảm tử với tụi Tây. Mặt trận hẹn
đãi Trung đội một bữa thịt bò thịt heo ê hề. Chừ đi ăn hàng, sợ ngang bụng tối
không ăn được, phí đi. Anh ấy nhất định không đi. Tôi ngó cổ tay anh ấy, hỏi:
"Người ta đeo vòng vàng xuyến bạc, anh đeo cái miếng sắt, miếng chì nớ mần
chi rứa?. Anh nói: Miếng sắt miếng chì ni nhưng ai đem vàng bạc đổi, đừng hòng
tui đổi. Chỉ có mấy thằng lính cảm tử như tụi anh mới được Mặt trận phát cho
đeo. Trên ni người ta khắc tên họ, để lỡ anh có chết, em nhận đúng xác anh đem
về chôn, không thì em lại chôn lộn một thằng chồng chưa cưới khác, mà cứ khóc
hu hu: "Anh Huấn ơi là anh Huấn ơi… Nỡ bỏ em mà đi tội nghiệp em lắm anh
nờ…". Tôi tưởng anh nói bông lơn chơi ai ngờ anh nói thiệt…"
Nếu bữa ăn bà kể lại với văn hữu đúng là bữa ăn cuối cùng của Trung đội cảm tử
ở sân chùa Vạn Phước đêm đó, thì tôi còn nhớ rất rõ có cả Trung đoàn trưởng Hà
Văn Lâu và chỉ huy trưởng Mặt trận khu C, Phùng Đông… cũng là bác họ tôi dự.
Bữa ăn đêm đó rất lạ. Không ồn ào, nhộn nhạo như những bữa liên hoan thường lệ
khác của lính tráng chúng tôi. Cả trung đội ngồi ăn rất lặng lẽ trong ánh sáng chập
chờn của mấy ngọn đuốc dầu hỏa. Nghe được cả tiếng đũa bát chạm lách cách.
Tiếng nhai nuốt vội vàng. Họ ăn mà nghiêm trang như hành lễ. Hình như họ dự cảm
một điều gì đó vô cùng nghiêm trọng sắp xẩy ra trong cuộc đời chiến trận của
họ. Chính cái không khí lặng lẽ bất thường này đã tạc khắc vào ký ức tuổi thơ
của tôi một ấn tượng buốt nhói mà thời gian không thể làm phai mờ…
Trận "cảm tử" vào nhà hàng Sáp-phăng-giông đêm đó không kết quả. Các
anh xung phong nhiều đợt định chiếm tầng dưới rồi dùng mìn đánh sập ngôi lầu.
Nhưng lưới lửa phòng thủ của giặc quá dày đặc, các anh đều bị đánh bật ra. Ba
giờ sáng, toàn mặt trận phải rút quân ra ngoài. Trung đội anh Ngọc vừa rút đến
ngôi lầu cạnh nhà tên trùm mật thám So-nhi, thì chạm trán bọn giặc mai phục sẵn
ở đó. Chúng dàn thành thế gọng kìm, kẹp chặt trung đội, với hỏa lực cực mạnh,
với ý đồ bắt sống hoặc tiêu diệt gọn. Lúc này các đơn vị chiến đấu quanh khu
vực này đã rút hết, không còn ai cứu viện. Các anh ở vào cái thế đơn độc, một
chọi mười.
Một ta chống với mười thằng
Mười con thú dữ nó quần một ta…
Tôi còn nhớ câu thơ lục bát mở đầu chương hùng ea mô tả trận thế hiểm nghèo
này.
Năm giờ sáng, cả Mặt trận nhận được thông báo: Trung đội cảm tử anh Ngọc bị mắc
kẹt trên đường rút lui. Các đài quan sát bí mật đặt trên cao điểm khu A, khu B,
khu C, được lệnh chĩa hết ống nhòm về phía khu vực Trung đội đang bị bao vây.
Trời hửng sáng. Tiếng súng vang lên dồn dập dưới tầng trệt của ngôi lầu hai
tầng. Đó là một ngôi lầu mái lợp đá đen rất dốc. Trên nóc lấu có cây cột thép
thu lôi nhọn như ngọn giáo Búp-đa. Chúng tôi đoán các anh bí thế phải nhào vô
ngôi lầu này để cố thủ. Tiếng súng nổ mỗi lúc một căng. Cả tuần liền trời mưa
tầm tã không ngớt. Bầu trời Cố đô u ám giăng kín lớp lớp mây chì. Sáng hôm đó
tự dưng trời nắng. Bầu trời sạch làu mây như được ai quét dọn, cao vút, xanh
màu trứng sáo. Rặng núi phía tây tím ngát, in bật lên nền trời đường uốn lượn
sắc gọn như được cắt bằng kéo. Nắng mới óng ánh như vàng nấu chảy, tưới hào
quang lên mặt sông Hương. Cây cầu Trường Tiền ta dùng bom chặt đứt hai nhịp
chính giữa, sắt cầu sáng rực lên trong nắng như được đúc bằng bạc. Thời tiết
Huế cuối đông mà có một ngày đẹp trời đến như vậy, thật hiếm. Nhìn núi, nhìn
sông, nhìn thinh không lộng lẫy trong suốt như thuỷ tinh, chúng tôi cứ ngờ
rằng, chính ông Trời (nếu có một ông trời thật) đã cố tình bố trí một ngày
tuyệt đẹp như vậy để cho cả Mặt trận được nhìn thật rõ cuộc đọ sức bi hùng của
những người con quê hương "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Mười giờ sáng, tiếng súng bắt đầu vang dội ở tầng trên ngôi lầu. Chúng tôi đoán
bọn giặc đã chiếm được tầng dưới. Các anh phải rút lên tầng trên cố thủ. Đạn
súng máy các cỡ từ các vị trí giặc xung quanh bắn xối xả vào tầng lầu, với
cường độ mỗi lúc một tăng. Tiếng súng chống trả từ trong tầng lầu lẻ tẻ từng
phát một, chêm một vài tiếng nổ lựu đạn. Các cánh cửa quanh tầng lầu bị trúng
đạn vụt mở tung. Mảnh gỗ, mảnh kính bị xé nát bay chấp chới trong nắng. Đạn các
loại súng cầu vồng rót xuống mái lầu dày đặc đến nỗi cây cột thép thu lôi bị
tiện phăng đến gốc. Mảnh đá đen lợp mái nhà văng tung tóe lẫn với màu khói đạn.
Chỉ chốc lát, mái lầu dốc đứng bị đạn chém phạt, băm vằm thấp hẳm xuống.
Trung đoàn trường Hà Văn Lâu thét lên trong máy điện thoại, gọi khẩu đội
"ông già Bảy lăm" bố trí trên lưng núi Ngự Bình, bắn cấp tập chi viện
cho Trung đội cảm tử. Khẩu đội trưởng báo cáo lại là súng không có máy ngắm,
không thể nào bắn trúng một mục tiêu quá nhỏ như vậy. Nếu bắn đạn có thể rơi
vào đầu quân ta.
Chiến sĩ lớn nhỏ trên các đài quan sát nhìn ngôi lầu phủ kín khói đạn, đều
khóc, nước mắt nhòe nhoẹt ống nhòm. Anh Thân Trọng Hàm, xuất thân là học sinh
trường dòng, được Tòa Thánh Vatican chọn sang La Mã học để trở thành cha cố.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh bỏ La Mã xung phong vào Vệ quốc đoàn, làm công
tác đồ bản ở Ban tham mưu Mặt trận. Lúc này anh đang đứng trên đài quan sát của
tổ chứng tôi. Anh bỏ ống nhòm xuống, nước mắt lưng tròng. Anh quỳ lên cái bao
cát chất làm công sự, làm dấu thánh, lầm rầm cầu nguyện: "Lạy Chúa tôi… Con
xin chịu nhận lãnh mọi cực hình trên thế gian, để các thế hệ sinh sau chúng con
không bao giờ còn phải chứng kiếm cảnh tượng mà lúc này chúng con đang phải
chứng kiến. Một bầy lang sói nhe nanh, dương vuốt, thả sức cắn xé đồng đội mình
ngay trước mắt, mà chúng con phải chịu cúi đầu, khoanh tay". Nhìn gương
mặt đẫm lệ nguyện cầu của vị cha cố hụt này, chúng tôi tự nhiên cũng muốn quỳ
xuống cầu nguyện theo… Hứng chịu chừng ấy đạn lửa trong từng ấy thời gian thì
đến Chúa trời cũng phải nát thành cám. Nhưng lạ lùng thay, bên trong tầng lầu
lại đột ngột vang lên tiếng súng, tiếng lựu đạn đánh trả, tuy thưa nhưng rất
đanh. Đúng vào lúc này xảy ra một sự việc làm chấn động cả Mặt trận: Thằng
Vịnh-sưa, đứa giỏi môn cờ tín hiệu nhất của đội thiếu niên trinh sát chúng tôi,
không rõ bằng cách nào và từ lúc nào, lỏn được sang khu vực trường Thiên Hựu.
Khu vực này áp sát vị trí giặc nên ban ngày cả ta và địch ít khi dám bén mảng
đến. Hắn trèo lên chót vót ngôi lầu cao nhất, trên nóc có dựng một cây Thánh
giá khổng lồ, với hai cây cờ tín hiệu trong tay. Hắn đứng dựa lưng vào chân cây
thánh giá, mặt hướng về phía ngôi lầu Trung đội cảm tử đang bị vây hãm, phất
phất cờ tín hiệu đánh đi nhiều lần bức điện mà tôi chắc hắn tự nghĩ ra:
"Các anh hãy đánh đến người cuối cùng! Đừng hàng! Hàng nhục
lắm!".
Liệu các anh có nhận được bức điện này hay không? Điều này vĩnh viễn không ai
biết. Có điều là đúng ba hôm sau, Vịnh-sưa hy sinh cũng trong tư thế đó, và
trên một cao điểm khác của Mặt trận. Sự việc này tôi đã kể lại trong tiểu
thuyết Tuổi thơ dữ dội.
Ba giờ rưỡi chiều, tiếng súng chống trả vẫn tiếp tục vang lên trong tầng lầu.
Như vậy là các anh còn đứng vững. Lệnh của Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu được
truyền đi khắp Mặt trận. Các đơn vị sẵn sàng xuất kích cứu viện vào lúc mặt
trời lặn. Chúng tôi nhìn vừng mặt trời chói lọi đang ngả dần về phía dãy núi
tím, lòng phấp phỏng hy vọng: Nếu các anh cầm cự thêm được chừng ba tiếng đồng
hồ nữa, các anh có thể thoát. Chiến sĩ cả mặt trận lòng như lửa đốt.
Các đài quan sát bỗng phát hiện có hai xe cứu hỏa của giặc chạy đến, đỗ khuất
sau bức tường cao phía trái ngồi lầu. Rồi chúng dùng vòi rồng phun nước lên đến
tận nóc ngôi lầu. Hai vòi nước đan chéo nhau lấp lóa trong nắng chiều vàng
rượi, như hai cây roi khổng lồ đúc bằng kim loại quất tới tấp xuống mái lầu đã
bị bom đạn băm nát. Hai cây roi quất thấp dần xuống chân ngôi ìầu. Các đài quan
sát tới tấp gọi điện thoại, báo cáo với Trung đoàn trưởng lúc này đang túc trực
tại chùa Từ Đàm: "Không biết tụi hắn định làm cái chi mà phun nước lên tắm
cả ngôi lầu các anh đang cố thủ?". Tiến Trung đoàn trưởng hét vang trong
máy: "Không phải nước! Xăng?". Và quả nhiên chúng tôi ngửi thấy mùi
xăng thoảng trong không khí. Chúng tôi chết lặng. Thế là hết, bọn giặc đã hạ
độc thủ! Chúng phun xăng chừng nửa giờ. Ngôi lầu lúc này ướt sũng như vừa tắm
xuống sông Hương. Tiếng súng đột ngột im hắn. Và bất ngờ, tiếng loa phóng thanh
cực lớn vang lên oang oang, hẳn bọn giặc muốn cho cả mặt trận nghe tiếng:
"Chúng mày hãy hàng đi! Ném tất cả vũ khí xuống sân! Từng đứa một, hai tay
chắp sau gáy, bước ra khỏi nhà! Không hàng, tất cả sẽ bị thiêu ra tro! Cho
chúng mày năm phút để quyết định". Tiếng loa giặc gọi hàng được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần. Đài quan sát chúng tôi đứng trước gió, nghe tiếng loa lúc
gần lúc xa, nhưng vang dội thấu con tim. Chúng tôi tự đặt mình vào hoàn cảnh
các anh lúc này, và tự hỏi: "Chịu chết cháy hay ra hàng?".
Và ngay lúc đó, chúng tôi như cảm thấy lửa xăng nóng rát đang táp thẳng vào mặt
mình. Bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng không hiểu làm sao cái cảm giác này tôi
nhớ kỹ càng đến vậy? Chi vì đó là lần đầu tiên những đứa trẻ chúng tôi, ở lứa
tuổi 13, 14, 15, trước ngày trốn theo Vệ quốc đoàn làm đủ nghề: giữ trâu, bán
đậu phụng rang, bán báo, đánh giày…, biết suy nghĩ một cách nghiêm túc cái sống
và cái chết, về danh dự và Tổ quốc, về tiếng thối và tiếng thơm mình còn để
lại, nếu không may mà phải chết…
Tất cả chúng tôi hướng mặt về phía ngôi lầu đang bị vây hãm, và ngứi thấy mùi
xăng phả vào mũi mỗi lúc một nồng nặc. Tim chúng tôi đau thắt vì khắc khoải chờ
đợi câu trả lời của các anh: Chịu chết hay ném súng ra hàng!
Ôi, nếu các anh cầm cự được thêm chừng hai tiếng đồng hồ nữa, thì tất cả Mặt
trận, không trừ một ai, từ bọn đội viên liên lạc nhóc chúng tôi cho đến Trung
đoàn trưởng, sẵn sàng liều mạng sống để cứu các anh ra khỏi ngôi nhà bị vây
hãm! Nhưng thật lạ lùng, khi nhìn thấy những tràng đạn lửa sáng chấp chới bay
vun vút vào tầng lầu, và ngọn lửa xăng vàng khé bùng lên, chúng tôi lại suýt
nhảy dựng lên mà reo hò… Giống hệt như ngày nào ở sân vận động Đất Mới, thấy
đội bóng đơn vị mình làm một bàn thắng quyết định vào một giây phút quyết định.
Nhưng chỉ một phút sau đó chúng tôi đã khóc như trẻ nít.
Đúng lúc ngọn lửa xăng sáng rực lên trên nóc lầu, từ trong tầng lầu tiếng súng
đồng loạt nổ vang, chen lẫn tiếng nổ chát chúa của lựu đạn. Chúng tôi vô cùng
ngạc nhiên, không hiểu các anh phải cầm cự với giặc gần suốt một ngày trời mà
còn đâu ra lắm đạn và lựu đạn đến thế? Có lẽ các anh đã linh cảm được màn kết
thúc không tránh khỏi của cuộc đọ sức bi hùng này. Nên đã dè sẻn trữ đạn và lựu
đạn lại, nổ thay cho câu trả lời gọi hàng của giặc. Câu trả lời của các anh chỉ
vẻn vẹn trong vòng năm phút rồi im bặt. Thay vào đó là tiếng nổ, tiếng réo hú
dữ dằn của của lửa xăng ngày một lan rộng, bốc cao.
Lửa lan nhanh khủng khiếp. Trong chớp mắt đã phủ kín ngôi lầu. Hàng trăm nghìn
lưỡi lửa thè lên tua tủa như muốn hếm thủng bầu trời.
Thực sự là một ngọn Hỏa Diệm Sơn mọc lên giữa thành phố Huế. Ánh lửa hắt xuống
dòng Hương Giang nhuộm bóng chiều tà. Các đỉnh sóng đỏ rực lên như cũng đang
bốc cháy. Rồi bất ngờ cả ngôi lầu phủ lửa bỗng sụm xuống trong tiếng nổ rung
chuyển cả Mặt trận. Tàn lửa và tro bụi khét lẹt mùi xăng bốc cao đến tận trời,
bay sang tận bên kia cầu Gia Hội. Chúng tôi lạ quá. Ngôi lầu vốn được xây dựng
kiên cố với bê tông và gạch đá, lửa cháy làm sao có thể làm sập đổ? Mãi sau đó
chúng tôi mới sực nhớ, lúc đi đánh nhà hàng Sáp-phăng-giông, các anh có mang
theo hai khối mìn dẻo khá lớn. Thứ mìn này deo và mềm như sáp nặn, màu vàng
nhạt, phong thành từng thỏi như bánh khảo, nếm hơi ngọt ngọt, sức công phá của
nó còn mạnh hơn bom. Các anh định dùng chúng đánh sập vị trí giặc nếu xung
phong vào được tầng dưới. Nhưng các anh không xung phong vào nổi nên mang chúng
về. Bây giờ trong tình thế tuyệt vọng, trước lúc hy sinh các anh đã dùng hai
hai khối mìn đánh sập ngôi lầu từ bên trong. Biến vị trí cố thủ thành nấm huyệt
chôn chung. Nấm huyệt chôn chung ấy vẫn tiếp tục bốc cháy mãi đến trưa hôm sau…
Nhưng tất cả cũng chỉ là phỏng đoán. Sự thật ra sao vĩnh viễn không có câu trả
lời. Nó đã cùng với thân xác các anh, cháy thành tro bụi… Ngày đó tất cả chúng
tôi đều tin chắc như vậy. Nằm giữa một ngọn Hỏa Diệm Sơn gần hai ngày đêm, thì
đất phải hóa thành gạch nung, đá phải hóa thành vôi bột, huống chi xương thịt
con người! Hơn ba mươi năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ được, đoạn kết
thúc cuộc đọ sức bi hùng này tôi miêu tả trọn hai chương thiên hùng ca, theo
thể thơ cổ phong và tất cả đều vần trắc. Đó là hai chương thơ đã hành hạ tôi
đến khốn khổ. Tôi gạch xóa nát các trang giấy, xé bỏ rồi viết lại không biết
bao nhiêu lần. Tôi viết trong nỗi phiền muộn, cay đắng về sự bất lực của mình.
Tôi đọc lại những trang viết, lòng vô cùng buồn bã, nghĩ bụng: Một đề tài như
thế này mà vào tay một nhà thơ khác, chắc họ đã viết thành một thiên I-li-át.
Thế mà vào tay mình, nó biến thành một bản diễn ca tầm thường kể chuyện người
thật việc thật.
Trong lòng tôi dâng lên một niềm hối tiếc khôn nguôi… Giống tình cảnh người thợ
kim hoàn tồi làm hỏng mất một viên trân châu. Tôi tìm đến anh Thanh Tịnh và anh
Bửu Tiến, người cùng quê và bậc thầy của tôi về nghề văn. Tôi kể lại đầu đuôi
câu chuyện và tha thiết đề nghị với hai anh, hãy vì những gì tốt đẹp nhất của
cuộc đời này, viết nó ra thành thơ, thành văn, thành kịch. Hai anh hỏi tôi:
"Sao em không viết?". "Đó là một đề tài quá sức em- Tôi trả lời-
Em không kham nổi sau khi đã thử sức. Vả lại có viết được người ta cũng chẳng
in…". Hai anh ghi chép câu chuyện, hỏi thêm nhiều chi tiết về Mặt trận Huế
ngày đó, và đều hứa sẽ viết… Con gái tôi lên chín, học sinh lớp ba, trong lúc
đi kiếm giấy loại để nhóm bếp đã phát hiện thiên hùng ca Huyệt lửa chôn chung bị
mối xông nát bét. Nhìn đàn mối trắng bệch, lúc nhúc, lũ lĩ cả ngàn con, ngang
nhiên bò đi bò lại, cắn xé, nhai nuốt không thương tiếc sự tích anh hùng hào
kiệt một thời của Tổ quốc và Cách mạng, lòng tôi ngập lụt căm giận. Căm giận
đến muốn phát điên. Tôi tưới lên ghê tởm cả một chai dầu hỏa. Chưa đủ, tôi dốc
cạn chút dầu còn lại trong ngọn đèn trên bàn viết và châm lửa. Tôi nghiến chặt
răng, dùng cây que sắt xới tung bọn chúng đang cuống cuồng, quân quại rúc trốn
vào những mảnh vụn sự tích anh hùng mà chính chúng đã huỷ hoại, tàn phá, để
chúng cháy thật hết, thật sạch. Một mảnh bản thảo bị chúng cắn nham nhở bay ra
khỏi đống lửa. Con gái tôi nhặt lên, reo to: "Bố ơi, mảnh này còn đọc được
bố ạ!" Rồi nó đọc to với giọng trong trẻo ngân nga như kiểu đọc bài tập
đọc ở lớp ba của nó:
Đất ơi! Con nguyện yêu người với tất cả máu xương
Với tất cả cuộc đời con mười tám tuổi
Con vui sao khi nghĩ tới gương mặt người trong tương lai
Rửa sạch hết lửa, máu và bùn tươi vui chói lọi
Người sẽ hát cho những thế hệ mai sau nghe về Thế giới Đại đồng
Mà thế hệ chúng tôi hôm nay không tiếc máu để sửa soạn cho lời ca…
Đây là đoạn thơ tôi tả cái chết của người chính trị viên trung đôi, đảng viên
Đảng Cộng sản độc nhất của đơn vị cảm tử quân. Trước lúc hy sinh anh cúi phục
xuống hôn đất quê hương bị lửa giặc thiêu đốt sắp thành gạch nung…
°
° °
Với các nhà văn khác thế nào tôi không rõ. Với
riêng tôi, trong suốt cuộc đời làm văn của mình, có vài ba đề tài ám ảnh tôi
không phút nào nguôi. Nó giống món nợ "bát cơm Phiếu mẫu", không trả
được chết không nhắm mắt. Nó giống mối tình "khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng
vào". Giống cái lưỡi câu có ngạnh dài và sắc, xóc vào trí nhớ, vào con
tim… Muốn gỡ được nó ra chỉ còn một cách là phải cầm lấy bút, chấm mực, trải nó
trên trang giấy. Mặc dù tôi biết chắc chắn rằng đây là một công việc sẽ làm
mình hao tâm tổn lực gấp mười lần thực hiện những đề tài khác. Mà kết quả rồi
sẽ chẳng ra sao. Nhà xuất bản sẽ từ chối không in vì là một đề tài lỗi thời:
"Ăn cơm mới, nói chuyện cũ". Nó là bài hát không còn ai hát nữa; là
câu thơ không còn ai đọc nữa. Nó ám ảnh anh chỉ vì nó chỉ có ý nghĩa với riêng
anh. Nó đè trĩu lên vai anh gánh nặng nghĩa tình quá khứ, kỷ mệm một thời sống
chết trận mạc. Nó giống chiếc chìa khóa của gian buồng anh. Anh có đánh rơi
cũng chẳng ai buồn nhặt, nhưng mất nó, anh sẽ khóc dở, mếu dở. Câu chuyện về
Trung đội cảm tứ quân anh Ngọc, về bác Phùng Huấn tôi… bị giặc thiêu cháy thành
tro bụi trong "Huyệt lửa chôn chung" là một đề tài như vậy đối với
đời văn của tôi.
Thiên hùng ca tuy bị mối xông nát, nhưng cũng đã hoàn thành. Tôi những tưởng
như vậy là thoát món nợ "bát cơm Phiếu mẫu", là đã rút được cái ngạnh
câu ra khỏi con tim, ký ức. Tôi hy vọng từ đây đầu óc tôi sẽ được thanh thản để
chăm bẵm cho một cuốn sách khác, một đề tài khác. Nhưng không ngờ nó vẫn còn
nằm nguyên ở đó.. Nó dằn vặt, hành hạ, làm tình làm tội tôi hết năm này qua năm
khác đến mức không chịu thấu. Hai chục năm đã trôi qua mà tôi đành phải dẹp
cuốn sách đang viết dở dang về một đề tài mà tôi hy vọng có thể bán được cho
một nhà xuất bản phía nam, để trở lại với nó. Lần này tôi quyết định kể lại câu
chuyện bằng văn xuôi. Tôi phải vật lộn với nó đến gần kiệt sức. Viết rồi xóa,
xóa rồi viết, dàn đi xếp lại, đảo ngược đảo xuôi.
Cuối cùng tôi cũng hoàn thành được "cuốn sách nợ đời" (tôi gọi nó là
như vậy). Tôi đọc đi đọc lại bản thảo, cảm thấy vừa ý, vì đã viết hết sức mình.
Nhưng rồi tôi bắt đầu hoang mang, tự hỏi: "Liệu người đọc có tin câu
chuyện tôi kể là có thật hay không?" Để né tránh điều này, không khó. Tôi
chỉ cần đề vào dưới tên sách: Tiểu thuyết, và đổi các nhân vật như anh Ngọc
thành anh Ngạc, Phùng Huấn thành Phan Hòa chẳng hạn. Nhưng tôi không đủ sức làm
việc đó. Tôi cảm thấy làm như vậy là có tội với Trung đội Vệ quốc đoàn có phiên
hiệu hắn hoi, đã một lần cứu tôi thoát khỏi đạn đại liên giặc ăn thịt. Tôi sẽ
trở thành kẻ vô ơn và hèn nhát vì không dám đưa đầu ra bảo đảm cho một sự thật
hiển nhiên!
Để nhẹ bớt gánh nặng hoang mang này, tôi thửa một bữa tiệc nhỏ, vài chai rượu
gạo với nồi cháo cá Hồ Tây. Tôi mời một số nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê
bình văn học thân quen, đến chơi nhà. Phần lớn họ đều ít tuổi hơn tôi, và đều
có tác phẩm được xuất bản. Tác phẩm của họ từng gây nên nhiều cuộc tranh luận
trên văn đàn. Tôi thật lòng ngưỡng mộ tài năng cũng như học vấn của họ. Có
người kém tôi đến vài chục tuổi, nhưng xem văn họ rồi nhìn lại văn mình, thấy
văn mình cũ kỹ, quê mùa hệt như anh lính đánh giặc bằng mã tấu, gậy tầm vông,
xem anh sĩ quan điều khiển tên lửa. Sau khi các bạn đã an tọa quanh chiếu rượu,
tôi trịnh trọng nói: "Hôm nay mời các bạn đến uống rượu là tôi có mục
đích. Tôi muốn các bạn chịu khó nghe giúp tôi cuốn sách vừa mới viết xong và
cho ý kiến. Sách nhỏ thôi, chừng trăm trang in, kể một câu chuyện có thật,
những nhân vật có thật. Nó là một tác phẩm chí cốt trong đời văn sắp tàn của
tôi, bởi vậy, tôi mong các bạn góp ý kiến thẳng thừng, không nể nang gì
hết".
Tôi đã đọc trọn cuốn sách. Các bạn đều chăm chú lắng nghe. Rồi sau đó họ không
phụ lòng tin cậy của tôi, "phang" tôi thẳng thừng…
°
° °
Sau đây là một số ý kiến của họ về cuốn sách:
- Về văn phong của anh tôi xin miễn bàn. Đó là văn phong quen thuộc của cái
thời "Chuyện anh hùng chiến sĩ thi đua, "Người tốt việc tốt, Thượng
Cam Lĩnh, Sự biến đổi ở Lý Gia Trang, Truyện một người chân chính, Đội thanh
niên cận vệ"… Tôi chỉ muốn bàn về nội dung. Nếu đây là cuốn tiểu thuyết
thì còn khả dĩ là trong tiểu thuyết tác giả tha hồ bịa tạc, miễn là bịa cho
hay, bịa mà như thật, nhưng là sự thật không có địa chỉ cụ thể. Nhưng anh khẳng
định câu chuyện anh kể là chuyện người thật việc thật thì tôi không tin. Một cá
nhân anh hùng, không hạ vũ khí hàng giặc, điều đó có thể xảy ra. Nhưng cả mấy
chục con người cũng quyết định như vậy, là bịa đặt. Anh hùng đâu ra mà lắm thế!
Anh không nghe dân gian người ta tổng kết sao: "Thạch Sanh thì ít, Lý
Thông thì nhiều!".
- Thế hệ nhà văn các anh đa số không làm văn mà làm công tác tuyên truyên. Các
anh dùng văn thơ, thêm chút dấm ớt, tý tình yêu, ti tí tiêu cực cốt làm cho văn
chương có vẻ như thật để tuyên truyền chủ trương chính sách. Các anh hư cấu các
nhân vật tích cực, chính diện, tô vẽ nhằm mực đích nêu gương. "Đấy, ở đơn
vị này, hợp tác xã kia, có người có tên tuổi, địa chỉ hẳn hoi, đã làm những
việc tốt như thế đấy. Họ đã xả thân vì cách mạng, vì lý tưởng như thế đấy… Câu
chuyện Trung độị cảm tử quân anh hùng của anh cũng không ra ngoài quỹ đạo đó.
- Để người đọc có thể nuốt trôi câu chuyện khó tin, anh đã khôn khéo chọn một
kết thúc bất khả tranh cãi: Tất cả các anh hùng đều bị thiêu cháy thành tro.
Cháy hết thành tro thì con ai có thể tranh cãi với anh được nữa? Nhưng biện
pháp nghệ thuật của anh là con dao hai lưỡi. Nếu câu chuyện này vào tay
tôi, tôi sẽ viết ngược lại, và tôi cũng khẳng định là hoàn toàn sự thật. Tôi sẽ
viết khi nghe tiếng loa bọn giặc gọi hàng, cả trung đội cảm tử tranh nhau ném
hết vũ khí xuống sân, kể cả con dao nhíp nhỏ. Rồi từng người một, hai tay chắp
sau gáy chạy ra khỏi nhà. Họ còn tranh nhau mà chạy nữa kia. Chỉ huy xô lính,
lính xô chỉ huy, mạnh ai nấy chạy. Trước nguy cơ bị chết cháy, kỷ luật, tình
đồng đội, đồng chí chẳng là cái đinh gì hết!
Tôi không nhịn được, cắt ngang: "Nhưng ngôi lầu bị thiêu cháy, hôm đó cả
mặt trận đều nhìn thấy?"
Sao anh ngây thơ thế? Ừ, đúng là ngôi lầu bùng cháy, một ngọn Hỏa Diệm Sơn như
anh đã tả. Nhưng bọn giặc chỉ đốt ngôi lầu khi cả trung đội đã ra hàng. Chúng
đốt để bịt mắt các anh, bảo vệ cho những người ra hàng chúng. Chúng làm cho các
anh quan sát từ xa, tưởng lầm rằng đồng đội cua mình đã chết bất khuất, anh
hùng… Trong khi đó, chúng bí mật đưa họ vào vị trí, cho ăn uống, băng bó các
vết thương, rồi tiến hành khai thác tài liệu. Sau đó, chúng đưa họ đến một
thành phố chúng chiếm đóng như Sài Gòn, Đà Lạt chẳng hạn… Chúng cho họ ăn chơi
xả láng, cơm no rượu say, gái đẹp. Chúng lọc ra những anh nông dân nồng nặc mùi
bùn ruộng sâu như ông bác Phùng Huấn của anh, cho sung vào lính ngụy, hoặc làm
cai tù, cai ngục. Chẳng mấy nỗi, chúng biến họ thành những tên ác ôn. Đánh đập
tra tấn những người trước đó chưa lâu, đã từng là đồng chí, đồng đội của họ.
Rồi càn quét, bắn giết, hãm hiếp đồng bào từng cưu mang nuôi sống họ! Anh ngạc
nhiên à? Thì Hoàng Văn Hoan đây thôi. Tham gia cách mạng từ thời Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội, từng là uỷ viên Bộ chính trị, Phó chủ tịch Quốc hội. Nhưng
rồi y đã bị nhà nước ta tuyên án tử hình vắng mặt vì tội phản bội Tổ quốc! Thế
thì ông bác Phùng Huấn tiểu tốt vô danh của anh thành một tên lính ngụy ác ôn
có gì là lạ? Còn trung đội trưởng Ngọc, chúng cho đi học các trường võ bị Thủ
Đức, Đà Lạt… Ra trường, y trở thành quan hai, quan ba, chi huy những đoàn quân
cơ động ứng chiến, quay lại, cùng với bọn Pháp tiêu diệt cả Trung đoàn 101 của
anh, trong trận càn Thanh Hương mà có lần anh đã kể với chúng tôi. Còn chính
trị viên trung đôi, con nhà Hoàng tộc, chàng-trai-cộng-sản, người anh hùng lý
tưởng của anh, thì được chúng gừi ra nước ngoài học các trường tình báo, gián
điệp và sau đó trở thành một điệp viên nhà nghề. Hoặc y sống lưu vong, lập các
Hội văn bút hải ngoại, viết văn, biết báo chống Cộng. Chuyện này đã từng xảy ra
với cả những con người mà ta bất ngờ nhất. Họ là con cưng của chế độ. Được chế
độ đặc biệt ưu đãi, tin cẩn cử họ ra công tác ở những quốc gia đối địch, với hy
vọng họ sẽ làm thêm vinh danh cho Tổ quốc. Nhưng vừa ra khỏi biên giới Tổ quốc,
họ quay lại cắn trả chế độ một cách dữ dằn, độc địa với những bài báo, cuốn
sách, mà họ nhân danh sự thật! Thế thì chàng trai cộng sản tiểu tốt vô danh của
anh trở thành một cây bút chống Cộng, có gì đáng ngạc nhiên?! Đấy, tôi sẽ viết
về cái Trung đội cảm tử quân Anh hùng, Nghla khí của anh theo chiều hướng đó.
Anh hãy tranh cãi với tôi đi! Tôi tin rằng anh không thể tranh cãi nổi! Vì
trong tay anh không có một chút bằng chứng để chứng minh rằng, câu.chuyện anh
kể là đúng sự thật. Ngược lại tôi có thể chứng minh với anh bằng hàng chục,
hàng trăm chứng cớ về những việc và những người tương tự xảy ra hên tiếp trong
những năm gần đây…
Có lẽ vì nhìn thấy vẻ mặt thảm hại của tôi khi phải nhận liên tiếp những cú đấm
tới tấp của sự thật không thể chối cãi đó, một anh bạn trẻ làm công tác phê
bình văn học cười phá lên và đọc nhại câu thơ của Nguyễn Khuyến:
"Khốn nạn thân anh!
Đéo mẹ cha chúng!"
Nếu anh còn muốn được chúng tôi coi trọng như một nhà văn đích thực, thì anh
nên theo gương một nhà văn cùng thời với anh "Ai điếu nền văn học minh
họa!". Nền văn học đã đẻ ra những tác phẩm tô vẽ hiện thực…?
Tôi rót đầy một ly rượu, uống cạn một hơi để có thể nuốt trôi những ý kiến về
tác phẩm của mình. Như thể dùng một cốc nước lã đầu để chiêu nhừng viên thuốc
quá đắng. Tôi buồn rầu nói: "Phải, tôi là người bộ hành còn sót lại trên
con đường không còn ai đi nữa. Tôi không đủ sức để minh chứng những điều tôi
viết là đúng sự thật. Trước hết vì tôi bất tài. Sau nữa vì trong tay tôi không
có lấy một mảy may chứng cớ, dù chỉ là một nắm tro của hình hài đồng đội tôi
chết thiêu trong lửa giặc. "Các anh ơi, sao các anh chết đi. mà không buồn
để lại cho thằng em các anh một nắm tro nhỏ hài cốt, để nó có thể chứng minh
được với các thế hệ sinh sau đẻ muộn rằng, các anh đã sống hào kiệt và chết anh
hùng?". Có tiếng vọng gay gắt: "Nhưng chứng minh để làm gì? Và tại
sao cần phải chứng minh? Khi chúng tôi quyết định thà bị thiêu cháy trong lửa
xăng nhưng quyết không hạ vũ khí, hai tay chắp sau gáy ra hàng giặc. Chúng tôi
đâu có ý định làm anh hùng lưu danh muôn thuở! Chúng tôi quyết định như vậy vì
Tổ quốc kêu gọi, vì chúng tôi muốn con, cháu, chắt, chút, chít… chúng tôi được
sống trong danh dự. Sự sống là vĩ đại. Và cơm và bánh mì là cội nguồn của sự
sống. Nhưng danh dự cũng vĩ đại không kém. Chính em đã viết đúng về thế hệ Vệ
Quốc quân chúng tôi:
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ!
Chúng tôi không quen với ý nghĩ: Nô lệ hay Tự do chẳng là cái gì! Miễn là được
hôn! Vì danh dự mà Bá Di và Thúc Tề chịu chết đói, chứ không thèm ăn thóc và cả
rau Vi của nhà Chu. Có lẽ ngày nay, người ta cho đó là những kẻ gàn dở. Nhưng
chúng tôi yêu quý sự gàn dở đó…! Nếu rơi vào hoàn cảnh cay cực, con người có
thể hành khất cơm và bánh mì, nhưng không thể hành khất danh dự! Chúng tôi nghĩ
vậy, nên chúng tôi đã lựa chọn cực hình của hỏa ngục để bảo toàn danh dự. Làm
của gia bảo để lại cho con cháu, chắt, chút, chít… chúng tôi như nghe vẳng bên
tại tiếng trả lời rành rọt của của các anh Cảm tử quân ngày đó về những ý nghĩ
trách cứ của tôi. Tôi uống cạn ly rượu tràn đầy thứ hai rồi nói tiếp ý nghĩ của
mình:
- Dù các bạn có khinh dễ tôi cho tôi là loại nhà văn lỗi thời, tôi cũng không
thể noi gương nhà văn nọ "ai điếu" tác phẩm của mình. Tôi viết với
niềm tin không gì lay chuyển nổi. Tôi không hề minh họa. Tôi kể lại sự thật. Có
những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù
của thời gian, không thể nào tin nổi.
Thật ra, một nhà văn có tài vẫn có thể thuyết phục được người đọc tin những
điều họ viết, ngay cả khi không có một chút bằng chứng trong tay. Tôi vừa bất
tài lại vừa không có bằng chứng, các bạn không tin tôi là phải lắm. Bởi vậy,
nếu cần ai điếu thì tôi chỉ ai điếu cho sự bất tài của tôi… Nồi cháo cá đã nguội
ngắt mà bếp lửa đã tắt ngấm. Tiện tay tôi cầm tập bản thảo châm vào ngọn đèn
dầu, và đút vào bếp. Tôi cười buồn, nói với các bạn: "Không phải tôi dịnh
ai điếu nó đâu, mà đơn giản là nhờ nó giúp hâm nóng lại nồi cháo cá để các bạn
được ngon miệng…".
Thưa văn hữu Nguyễn Đắc Xuân và các chiến hữu cùng Trung đoàn Trần Cao Vân năm
xưa. Kể từ buổi sáng trong cái phút giận thân, tôi đốt thành tro tác phẩm người
thật việc thật của tôi đến nay đã nhiều năm trôi qua. Tôi cố gắng không nhắc
nhở đến nó nữa, như không muốn nhắc đến kỷ niệm buốt lòng về một người ruột
thịt đã quá cố Nhưng thi thoảng bất chợt nhớ đến, tôỉ vẫn thấy cổ họng mình
đắng nghét nỗi niềm… Thế rồi vào một lúc bất ngờ nhất, tôi được đọc bài báo
tường thuật việc phát hiện 17 bộ hài cốt hệt sĩ nằm sâu trong lòng đất đã 46
năm. Sau đó tôi lại được nhìn các tấm hình gửi từ Huế ra, chụp các góc độ của
khuôn viên khai quật. Người tôi ớn lạnh! Thì ra, các anh Cảm tứ quân thành Huế
chưa cháy thành tro như ngày đó chúng tôi tưởng. Các anh đã kịp rút xuống tầng
hầm của ngôi lầu và kịp dùng mìn đánh sập cái khối bê tông, gạch, đá, sắt đồ sộ
phủ lên tầng hầm, như ngày đó chúng tôi phỏng đoán, làm cho lửa xăng không bén
được đến xương thịt và vũ khí của các anh, dù nó đã cháy suốt một đêm và nửa
ngày hôm sau.
Bây giờ thì tôi không những chỉ có một nắm tro, mà có những mười bảy bộ hài cốt
để chứng minh câu chuyện tôi kể là có thật. Một tập thể anh hùng, hào kiệt thà
bị thiêu cháy, quyết không hàng giặc là có thật. Người chiến sĩ cộng sản từ bỏ
giai cấp mình, xả thân vì lý tưởng Thế giới đại đồng là có thật! Qua lời tường
thuật của bài báo và các bức ảnh chụp khuôn viên khai quật, chúng ta thấy rất
rõ rằng, ngay cả khi lửa xăng cháy rừng rực phủ kín quanh mình, các anh vẫn tổ
chức cuộc rút xuống tầng hầm một cách bình tĩnh, kỷ luật, trật tự, xứng danh là
những người lính cảm tử của Tổ quốc. "Đào xuống độ sâu 0,7 mét, hai bộ hài
cốt nằm cạnh nhau. Bộ hài cốt quá cỡ là Trung đội trường Nguyễn Ngọc Giao
(chúng tôi quen gọi là anh Ngọc). Chị Nguyễn Thị Dung, em gái ruột của anh Ngọc
Giao hiện là bác sĩ Viện Tai mũi họng, cho biết anh trai mình cao một mét tám
ba. Bộ hài cốt thứ hai nhỏ thó cùng nằm với khẩu súng lục ru-lô và con dao găm
chính là chính trị viên Trung đội Vĩnh Tập. Vĩnh Tập là đảng viên cộng sản duy
nhất của đơn vị và là chắt nội của vua Hiệp Hòa. Nếu không có cuộc Cách mạng
tháng Tám, và nếu anh còn sống, có thể anh làm vua. Anh ruột anh là Vĩnh Mẫn,
tức đại tá Phan Thắng, chính uỷ Hải quân Cửa Việt, bạn chiến đấu của tôi từ
ngày còn ở chiến khu Hòa Mỹ. Đào sâu xuống thêm 0,5 mét là mười lăm bộ hài cốt
nằm sát bên nhau, cùng với vũ khí. Trong đó có hài cốt của ông bác tôi Phùng
Huấn với chiếc "lập lắc" bằng nhôm cứng, lủng lẳng nơi xương cổ tay.
Như vậy là chiến sĩ rút trước, chỉ huy rút sau cùng. Có thể chính hai anh Ngọc
Giao, Vĩnh Tập đã đánh mìn ngôi lầu trước khi rút.
Đội hình hài cốt của Trung đội cảm tử quân nằm sâu dưới đất 46 năm, gửi lại hậu
thế bức thông điệp: "Những chiến sĩ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Chúng tôi khi cần phải chết, chúng tôi đã chết đĩnh đạc, đàng hoàng, chết trong
danh dự, với đội hình chiến đấu". Tôi nghĩ rằng, ngay cả cái chết của các
anh cũng nặng trĩu ý nghĩa nêu gương!
Ngày 27-7-1992, học tục lệ của nhân dân quê tôi cúng tế các chiến sĩ trận vong,
tôi chờ đến đêm khuya thanh vắng, lập một bàn thờ nhỏ trước sân nhà: Một cái
khay đặt bỏng, muối, rượu trắng, một bát nhang. Tôi thắp hương, ngoảnh mặt về
hướng Nam, quỳ phục xuống đất, lạy bốn lạy rồi khấn: "Em là Phùng Quán,
thằng em nhỏ đội viên liên lạc ngày nào ở Mặt trận Huế cùng với các anh, nay đã
sáu mươi hai tuổi. Các anh đã sống vẻ vang, chết anh hùng, treo cao gương nghĩa
liệt cho hậu thế. Em nguyện cầu vong linh các anh được siêu thoát, và về đây
chứng dám cho lòng biết ơn sâu nặng, thuỷ chung của em. Các anh đã cứu sống em
hai lần. Lần thứ nhất trong trận đánh vị trí miễu Đại Càng, các anh cứu em
thoát khỏi đạn đại liên giặc ăn thịt. Lần thứ hai, bốn mươi sáu năm sau, chính
bằng hài cốt của mình, các anh đã minh chứng được cho em, những điều em viết về
các anh là hoàn toàn sự thật.
Vì một nhà văn viết ra những điều mà không còn ai tin nữa, thì nhà văn đó coi
như đã chết!
Hồ Tây, 14-8 Âm Lịch
Năm Nhâm Thân
15. Tuổi thơ dữ dội -
bản di chúc chiến sĩ của tôi
( Tuổi thơ dữ dội, 3tập, Nhà xuất bản Thuận
Hóa, Huế, 1987)
Mười tám tuổi, trước giờ xuất kích đánh một trận công kiên lớn nhất trên chiến
trường quê hương, tôi đã viết những vần thơ di chúc sau đây:
Nếu tôi chết, xin các đồng chí đừng đưa
tôi đi đâu hết cả
Hãy chôn tôi nơi chính tôi đã ngã!
Nếu mộ của tôi là vị trí tốt để đánh mìn
Xin các đồng chí đừng do dự gì hết cả
Hãy đào mộ tôi lên!
Quẳng hài côt tôi đi!
Và thay vào đó cho tôi một trăm cân
thuốc nổ.
Hai mươi bốn tuổi, trong một trận đánh khác còn dữ dội hơn, tôi phải sa vào một
hoàn cảnh thật khủng khiếp, bị ra khỏi hàng ngũ nhà văn. Đằng đẵng suốt hai
mươi năm trời, với nghị lực và lòng can đảm chiến sĩ, tôi tận sức chiến đấu để
tự minh oan cho mình.
Trong túp lều bên bờ Hồ Tây, tôi quyết định viết bản di chúc chiến sĩ thứ hai
của đời mình. Tôi viết di chúc trên những trang giấy một mặt, hoen ố, lấm láp,
nhặt nhạnh mua lại của bà chè chai đồng nát, như Quỳnh-sơn-ca, viết vở nhạc
kịch mộng tưởng của đời mình trên những lá cây vả rừng nhặt nhạnh bên bờ sông Ô
Lâu ở chiến khu Dương Hòa. Bản di chúc hơi dài, những tám trăm trang, và tôi
phải viết mất mười tám năm. Rồi Đại hội Đảng lần thứ VI đã đến mở ra những
hướng mới. Hội Nhà văn Việt Nam tuyên bố phục hồi hội tịch cho tôi. Bản di chúc
chiến sí được nhà xuất bản quê hương tôi in ra hai mươi ngàn bản với cái tên:
Tuổi thơ dữ dội.
Rồi một hôm, tôi được Hội Điện ảnh Việt Nam mời đến dự buổi chiếu phim Tuổi thơ
dữ dội tại trụ sở Hội. Xem phim tôi đã khóc như con nít. Trong bóng tối phòng
chiếu, trong tiếng đạn nổ, bom gầm, lửa cháy, máu chảy, lá rụng, chim hót,
tiếng cười trong trẻo trẻ thơ, tiếng nhạc bi thiết fấu lên với cây đàn tự tạo
bằng những cái vỏ chai đựng thuốc sốt rét, thuốc ghẻ, thuốc ho…, tôi thì thào
qua nước mắt: "Cảm ơn các bạn nhỏ Vũ Thanh Bình, Nguyễn Hoàng Anh, cảm ơn
Nguyễn Vinh Sơn, Huy Thành và tất cả các bạn khác trong đoàn làm phim, mà tôi
chưa từng gặp mặt. Các bạn đã phiên dịch bản di chúc của tôi thành ngôn ngữ
nghệ thuật của các bạn một cách tài hoa và sâu sắc đến kinh ngạc. Còn hơn thế,
các bạn đã đọc chuẩn xác, trọn vẹn bức thông điệp của tôi được mã hóa bằng từ
ngữ, đánh đi từ bản di chúc. Các bạn là những tay thám mã tuyệt vời!… Thì ra
những gì thật sự chân thành, lương thiện, trong sạch và cao thượng đều có khả
năng kỳ diệu tự mở lấy con đường đến thẳng trái tim các thế hệ, mà chẳng cần
giảng giải, biện minh. Các bạn đã dựng tôi sống lại từ đáy huyệt những tháng
uăm nghiệt ngã, cùng các bạn nếm chung vị thanh sạch của hạnh phúc sáng tạo;
giống Quỳnh- sơn-ca sống lại từ đáy mồ chiến sĩ phủ kín lá rừng, cùng với Mừng,
nếm chung vị ổi rừng vừa chát đắng, vừa ngọt ngào tình chiến hữu. Tôi và Nguyễn
Vinh Sơn lần đầu tiên gặp nhau tại Chòi-ngắm-sóng của tôi bên bờ Hồ Tây. Chúng
tôi lặng lẽ ôm nhau. Cùng là dân Huế cả. Tuổi Vinh Sơn bằng tuổi con gái đầu
lòng của tôi. Vinh Sơn nói: "Thoạt nhìn chú, cháu cứ ngỡ là ông lão làm
vườn ở vùng Lái Thiêu, Thủ Đức". Tôi cười: "Còn chú, thoạt nhìn cháu,
chú ngờ ngợ là thằng bạn giữ trâu của chú ở làng Thanh Thuỷ Thượng, quê nội
chú".
Chia tay nhau, tôi tặng Vinh Sơn một mảnh trầm hương cất giữ đã lâu, kèm với
mấy câu thơ vịnh trầm:
Thoạt nhìn tưởng củi mục
Cháy lên mới thấy thơm
Kiếp trước trầm đích thực
Anh hùng và thi nhân.
Chòi-ngắm-sóng
Tháng 7-1990
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét