Nhiều sử liệu được giải mật sau 1975 chứng minh chế độ Cộng hoà Miền Nam sụp đổ
vì lý do khiếm khuyết về tình báo hơn là vì yếu kém về mặt quân sự. Cuộc
chiến giữa Nam và Bắc VN, đúng vậy, là một sự tranh chấp ý thức hệ, nặng về tâm
lý, yếu tố ủng hộ của nhân dân vì thế đóng vai trò quyết định. Hiệp ước Genève
ký chưa ráo mực thì Cộng sản Bắc Việt đẩy mạnh tuyên truyền và sự
xâm nhập tình báo dưới vĩ tuyến 17 trong mọi lãnh vực : quân
đội, báo chí, quốc hội, học đường, nông thôn…..., với các khẩu hiệu nóng cháy
như chống ngoại xâm Mỹ, thống nhất và độc lập.
Frank Snepp, tác giả của quyển “Decent Interval” và
hiện là một chuyên viên truyền thông, truyền hình tại Los Angeles, cho biết:
sau Hiệp định Paris, có ít nữa 14.000 gián điệp CS hoạt động ráo riết tại miền
Nam VN.”CS trà trộn thẳng trong lòng địch. Chính phủ (Saigon) là một ổ phó mát
Thụy sĩ. Cộng sản biết gì xảy ra, trước hơn cả Tòa Đại sứ Hoa kỳ.”
Một gương mặt điệp viên, ba chục năm sau ngày
30.4.1975, vẫn được giới truyền thông Mỹ nhắc đến với lời lẽ “ngưỡng mộ”,
là nhà báo Phạm Xuân Ẩn (PXA). Ngày 23 tháng này, trong tạp chí The NewYorker,
giáo sư Thomas A. Bass, thuộc Đại học Albany, tác giả nhiều sách nghiên cứu về
VN, có đăng một bài khá dài “The Spy Who Loved Us” với nhiều tiết lộ khá độc
đáo về Phạm Xuân Aån mà ông đã phỏng vấn trực tiếp tại Thành phố HCM. Các tiết
lộ ấy sẽ được phân tích và bổ túc bằng những tài liệu khác sưu tập về Ẩn.
1 – CS huấn luyện chu đáo Phạm Xuân Ẩn.
PXA sanh ngày 12.9.1927 tại Biên Hoà, trưởng nam của
một kỷ sư đạc điền kết hôn tại Cam bốt với mẹ của Ẩn di cư từ Bắc Việt. Ông cố
của Ẩn gốc ở Hải Dương, làm nghề thợ bạc, được Triều đình Huế tuyển dụng để đúc
các loại huy chương. Ông nội của Ẩn là một giáo viên phụ trách một trường nữ tiểu
học. Thời niên thiếu, Ẩn sống tại Sàigòn, sau về Cần thơ học trường Phan Thanh
Giản. Năm 1945, lúc 18 tuổi, Ẩn theo kháng chiến, chống Nhựt và Pháp, tham gia
những trận đánh ở vùng Tây Nam bộ. Năm 1947, Ẩn xung vào đội tuyên truyền Việt
Minh và sau đó, trở về thành để săn sóc thân phụ nhập viện vì bệnh lao.
Trong thời gian này, Ẩn có dịp tham gia các cuộc biểu tình sinh viên chống
Pháp và Mỹ. Cho tới năm 1950, Ẩn tìm được một chân thơ ký taị hãng dầu
Caltex và thi đậu thanh tra quan thuế. Vào Tết Nguyên đán 1952, Ẩn vào bưng để
dự một phiên họp của Ủy ban kháng chiến Nam bộ. Trước khi cuộc chiến tranh Đông
dương lần thứ nhứt chấm dứt năm 1954, Mỹ thay Pháp chống CS. Trong bưng, Ẩn gặp
lại người chị bỏ theo kháng chiến ba năm trước đó để làm việc trong Đài phát
thanh Tiếng Nói Nam bộ. Cũng bắt đầu từ đây, CS chuyễn Ẩn sang cục tình báo
quân sự. PXA nóí với Gs Thomas A Bass: “Tôi là tuyển viên đầu tiên.
Lúc đầu, tôi không thích thú với sự chỉ định này. Gián điệp là chuyện
làm của chó săn. Tôi không muốn đóng vai trò của một con chim mồi hay điềm chỉ
viên.” Mối lo chính của Ẩn lúc trở về Sàigòn là làm sao tránh bị động viên vào
lực lượng chiến đấu của thực dân Pháp. Ẩn ghi tên học Anh văn tại USIS,
Cơ quan Thông tin Hoa kỳ, và xin được một job kiểm duyệt viên thơ tín tại Nhà
Bưu điện trung ương.
Năm 1953, PXA chính thức gia nhập đảng CS
trong một buổi lễ tại rừng U Minh chủ toạ bởi Lê Đức Thọ, lãnh đạo kháng chiến ở
Nam bộ và anh của Mai Chí Thọ là người đứng đầu hệ thống tình báo, xếp của Ẩn.
Dù tình nguyện lấy tin, freelance, cho Phòng Nhì của Pháp, Ẩn vẫn bị động
viên năm 1954 vào Quân đội. Ẩn kêu cứu với một người anh em họ là đại úy
Phạm Xuân Giai, chỉ huy Phòng 5, Nha Chiến tranh Tâm lý. Giai đưa Ẩn về
làm sĩ quan thơ lại ở Tổng hành dinh, đại lộ Galliéni, Chợ lớn.
Trong quyển hồi ký VN Nhân Chứng,
trang 258-259, (nxb Xuân Thu, 1989), cựu trung tương Trần Văn Đôn cho biết:
Sau ngày đảo chính 1.11.1963, ông có giúp cho đại uý trừ bị Phạm Xuân
Giai, được bổ nhiệm tuỳ viên quân sự ở Vientiane, phụ trách về tình báo. Trước
đây, Giai là một đàn em của tướng Nguyễn Văn Hinh. Khi Hinh bị rút về Pháp bởi
chống lại thủ tướng Ngô Đình Diệm, Giai trốn sang Lào, cưới vợ Lào và làm việc
cho Hoàng thân Souvana Phouma.
Chính trong lúc làm việc tại cục Tâm lý chiến
Sàigòn, PXA quen với đại tá Edward Lansdale, trùm CIA. Lansdale chú ý đến Ẩn,
hướng dẫn Ẩn trong công việc thảo phúc trình, reportorial method, theo phương
pháp Sherman Kent, giáo sư đại học Yale, một lý thuyết gia CIA và soạn giả của
tác phẩm Strategic Intelligence for American World Policy, 1949.
PXA tâm tình với tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải
trong quyển sách xuất bản gần đây tại VN kể lại về cuộc đời của Ẩn: “Dân chúng
thường chỉ có một nghề, tôi có đến hai: theo dõi cách mạng và nghề ký giả. Hai
nghề ấy rất đối nghịch mà cũng giống nhau vô cùng. Trách vụ tình báo gồm có việc
thu thập, phân tích và giữ kín tin tức như mèo mẹ ôm ấp mèo con. Ký giả,
mặt khác, gom góp tin, phân tích và sau đó, phổ biến cho thế giới.” Vì
làm việc cho bốn phiá: Phòng Nhì Pháp, chính quyền VN Cọng hoà, chính phủ Bắc
Việt và CIA Mỹ, Ẩn sống trong cơn ác mộng thường xuyên. “Tôi không có một giờ
phút yên tâm. Trước sau gì là một điệp viên, tôi sẽ bị bắt, như con cá nằm
trong ao. Tôi phải sẳn sàng chiụ tra tấn. Đó là số mạng không thể
tránh!”
Chính Mai Chí Thọ và Mười Hướng, cụm trưởng của Ẩn,
quyết định gởi Ẩn qua Hoa kỳ để được huấn luyện về báo chí. Trong một cuộc
phỏng vấn với tạp chí Thanh Niên, Mười Hướng tuyên bố ý nghĩ này đến từ Hồ Chí
Minh, trước kia cũng là một nhà báo. Danh hiệu này che đậy toàn hão công tác điệp
viên, cho phép người ký giả đi vào những chổ cấm kỵ và tiếp xúc với nhân vật hệ
trọng. Tuy Chính trị bộ đồng ý nhưng phải nhiều năm mới thực hiện được quyết định
trên đây. Một học bổng của Chính phủ đáng lý dành cho Ẩn bị huỷ vào giờ
chót để cấp cho một công chức mạnh thế hơn. Chiếu khán đi Hoa kỳ cũng gây
nhiều phức tạp. Rốt cuộc, Mai Chí Thọ tom góp được 8.000 đồng, trị giá
lúc đó lối một ngàn đô, để mua cho Ẩn một vé máy bay và sắm bốn bộ quần áo. Cha
của Ẩn qua đời tháng chín 1957. Ẩn đến Costa Mesa, Californie, ghi tên vào
Orange Coast College. Trong lúc theo học các môn xã hội, tâm lý, kinh tế, báo
chí và sinh ngữ Tây ban nha, Ẩn tập tành viết lách trong tờ báo The Barnacle của
trường. Tốt nghiệp sau hai năm, PXA tập sự tại toà soạn báo
Sacramento Bee và đi viếng một số tiểu bang, nhờ tiền trợ cấp của Asia
Foundation, một tổ chức có liên hệ với CIA. Ẩn thú nhận: vì thế, y có cảm
tình sâu đậm với nước Mỹ. Ẩn cũng không dấu với Gs Thomas A Bass rằng y
đã trộm yêu Lee Meyer, một nữ sinh viên tóc vàng, chủ nhiệm báo The
Barnacle và cũng là người hướng dẫn y trong nghiệp viết lách.
Giai đọan này cũng là giai đọan đen tối nhứt
của Việt cộng dưới vĩ tuyến 17. Năm 1959, lối 85% lực lượng
Việt Minh – tức 60.000 cán bộ – bị giết hay bị bắt. Qua một
tài liệu mật nhận được từ người em, Ẩn được biết Mười Hướng bị sa lưới và tra tấn.
Có lệnh Ẩn phải hồi hương gấp. Việt cộng (danh xưng mới của Việt
Minh) bắt đầu tranh đấu bằng võ lực, khai mào cuộc Chiến tranh Đông Dương lần
thứ hai.
Trong bài The Spy Who Loved Us, PXA kể lại với
Thomas Bass: Trước khi rời nước Mỹ, tháng 10.1959, tôi viếng thăm lần chót cầu
Golden Gate Bridge, San Francisco, và từ trên cao, tôi ngó về ngọn tháp cô đơn
và những bức tường kiên cố của hòn đảo giam phạm nhân Alcatraz Những hình ảnh
này làm tôi lo sợ. Đây có thể là số mạng dành cho tôi ngày trở về quê
hương: những năm tù tội và bị tra khảo trong các chuồng cọp ….. Như
Joséphine Baker, tôi có hai tình yêu: Việt Nam và Hoa kỳ. Khi nào
chiến tranh chấm dứt, tôi muốn hai nước trở lại với nhau!
Mặc dù được mời dạy tiếng Việt taị trường sinh ngữ
Quân đội Monterey hay có thể chọn sống lưu đày ở Pháp, Ẩn lấy máy bay trở về
Sàigòn vì cho rằng hành động như thế là hợp tình, hợp lý.
2 – Các hoạt động gián điệp của Phạm Xuân Ẩn từ 1959 cho đến tháng 4.1975
Đến Sàigòn, PXA trốn ở nhà một tháng để nghe
ngóng tình hình, rồi - trong một phút quyết định liều lĩnh - y nhờ một thân
nhân dẫn đến ra mắt bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị tại
Phủ Tổng thống. Tuyến đứng đầu hệ thống tình báo của VNCH và cọng tác chặt chẻ
với cố vấn Ngô Đình Nhu. Tuyến giao cho Ẩn phụ trách hướng dẫn các thông tín
viên quốc ngoại làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã, VTX. Tuyến đã ủng hộ
phương pháp huấn luyện của Ẩn trên phương diện báo chí chuyên nghiệp. Khi
Tuyến bị thất sủng vì mưu toan đảo chính hụt TT Diệm bại lộ, Ẩn rời VTX để làm
việc cho Reuters, rồi cho tạp chí Time Magazine.
Được đồng nghiệp nước ngoài công nhận như một
nhà báo siêng năng và luôn luôn sẳn sàng giúp đở kẻ khác bằng những tin tức cập
nhựt, PXA gây nhiều cảm tình. Với tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải, Ẩn mô tả
những điểm tương đồng giữa ký giả và điệp viên: “Món ăn của họ là tin tức, tài
liệu. Cần tiếp tục nuôi sống họ như nuôi chim để họ có thể hát được!”
Trong quyển Hồi Ký Không Tên, nxb Trẻ, 2004,
Lý Quí Chung, cựu Tổng trưởng Thông tin trong Chính phủ hai ngày Dương Văn
Minh, ghi lại: Chỗ “đóng đô” của PXA là tiệm bánh Givral, ngang mặt Quốc hội.
Chiếc xe Renault 4 ngựa cũ xì của anh luôn đổ ngay trước cửa Givral, phiá Lê Lợi.
Thường bao giờ cũng có một, hai nhà báo nước ngoài “đeo” theo anh. Anh
luôn phân tích tình hình một cách sắc sảo. Dĩ nhiên, những điều anh “xì”
ra đều có chủ đích. Thực tế, anh có rất nhiều bạn bè là tay chân thân thiết
của Hoàng Đức Nhã, cố vấn của Thiệu. Các tay to mặt lớn của chế độ đều liên lạc
mật thiết với anh, trong đó người nổi tiếng nhất là bác sĩ Tuyến (trang
221-222).
PXA còn tiết lộ thêm với Thomas A. Bass:
“Tôi nhận được tin từ đủ loại nguồn gốc: quân đội, tình báo, mật vụ.. Các
tư lệnh quân sự, sĩ quan của những lực lượng đặc biệt, hải quân, không quân..,
họ đều giúp tôi. Để bù lại, tôi cung cấp cho họ những gì tôi trình với
phiá kháng chiến. Chúng tôi thảo luận về các tài liệu. Phe quốc gia tìm hiểu ý
nghĩa. Họ vấp phải một vấn đề lớn: làm thế nào xử sự với người Mỹ?” Ẩn liền
xoay qua bày vẻ cho người Mỹ cách xử sự với phiá VN. Đây là một trò chơi tối
nguy hiểm có thể làm cho y mất toi mạng nếu họ khám phá sự thật.
Dưới bí danh Trần Văn Trung, Ẩn chuyển các
micro films tài liệu mật dấu trong ruột những đòn nem Ninh hoà hay cá ương đựng
trong giỏ. Món hàng được trao cho bộ chỉ huy CS ở những nới bất ngờ nhất
hay qua trung gian một mạng lưới nhân sự tinh vi. Mỗi lần Ẩn đi “giao
hàng” như thế, vợ Ẩn đi theo phiá sau, từ xa, để báo động các trạm liên lạc nếu
Ẩn bị đối phương bắt được. Ẩn còn dùng nhiều phương tiện tiếp xúc khác như
ra-dô, vô tuyến, mật hiệu v..v..Y luôn thủ sẳn độc dược trong mình để tự
vẫn trong trường hợp sa bẩy và bị tra tấn.
Khi được Thomas Bass cật vấn về vai trò quan
trọng của mình, PXA trả lời nhún nhường rằng y chỉ quan sát và phân tích các dữ
kiện và tình thế. Tuy nhiên, sự thật phủ nhận điều này. Sau đây, vài thí dụ:
a) Trận đụng độ tại Ấp Bắc năm 1963 đánh dấu một khúc quanh trong kế hoạch Mỹ mở
rộng chiến tranh taị Miền Nam. Một tiểu đoàn Việt Cộng đã gây thiệt hại nặng
cho quân đội quốc gia có trực thăng, trọng pháo và xe tăng Hoa kỳ hổ trợ. Sau
chiến thắng này, CS tuyên dương hai “anh hùng”: viên chỉ huy trưởng tiểu đoàn
và PXA là người đã góp nhiều công về chiến thuật.
b) Để chuẩn bị vụ tấn công Tết 1968, chính PXA đã ngụy trang chở đại tá Tư Can,
tổ trưởng tình báo Việt cộng. trong chiếc xe Renault 4CV của Ẩn đi nghiên
cứu các điểm quan yếu trong thủ đô Sàigòn. Sau 1975, chiếc xe này cùng với
các súng lục của Tư Can mang trong mình đêm tấn công được trưng bày trong Bảo
tàng viện quân sự Hà nội.
c) Trong quyển Hồi Ký Không Tên,
Lý Quí Chung đã không tiếc lời đề cao PXA luôn luôn sẳn sàng giúp đở
phe Dương Văn Minh khi cần phiên dịch viên để tiếp báo giới quốc tế hay
cho ý kiến về một số vấn đề. Chính Ẩn đã thúc cựu dân biểu đối lập Ngô Công Đức
trốn khỏi VN vào lúc Công an của Thiệu bũa lưới định bắt.
c) Năm 1970, PXA đã can thiệp để Hànội trả tự do cho một bạn đồng nghiệp trong báo Time là thông tín viên Robert Sam Anson bị Khờ me Đỏ và Mặt trận Giải
phóng Miền Nam bắt cóc tại Nam Vang. Không có sự can thiệp này thì Anson
đã bị thủ tiêu như 25 ký giả ngoại quốc khác. Gặp lại Ẩn năm 1987, Anson hỏi vì
sao Ẩn sốt sắng như vậy, Ẩn trả lời: “Tôi là kẻ thù của nước anh nhưng anh là bạn
tôi.”
d) Một cử chỉ khác: Ngày 30.4.1975, khi những thiết vận xa đầu tiên của Bắc Việt tiến vào trung tâm Saigon, Ẩn đã đích thân lái xe chở bs Trần Kim Tuyến đến
địa điểm trên nóc một cao ốc taị thủ đô để thoát khỏi ra nước ngoài trên chuyến
trực thăng chót của Mỹ. Đây là cách trả ơn của Aån đối với một ân nhân đã từng
che chở y.
3 – Phạm Xuân Aån sau tháng 4-1975
Chuyện gì xảy ra cho Phạm Xuân Ẩn sau ngày
VNCH bị bức tử ? Mặc dù phục vụ đắc lực cho Đảng, Ẩn không thoát được số mạng của
các cán bộ trí thức trong xã hội chủ nghiã đã may mắn - hay rủi ro? - nếm
qua mùi tự do ngôn luận và hấp thụ phần nào văn hoá của thế giới bên ngoài.
Chính Ẩn đã tiết lộ với Thomas Bass rằng , trong những ngày đầu sau 30.4.1975, Ẩn
cảm thấy lo sợ cho an ninh bản thân và gia đình nên Ẩn và mẹ phải lánh trốn
trong phòng của bạn đồng nghiệp Robert Shaplen ở Khách sạn Continental và sau
đó, dời qua Văn phòng của tạp chí Time. Công an phường nhiều phen mời Ẩn đến để
tra vấn vì nghi y thuộc loại “cách mạng giờ thứ 25”.
Cựu đại tá Bùi Tín, tác giả của Hoa Xuyên Tuyết, nhắc
lại trong hồi ký rằng ngày 1.5.1975, tức hai hôm sau khi đến Sài gòn với các
đơn vị tiền phong của Quân đội Nhân Dân, y đến Continental Palace tìm PXA.
Chính Ẩn đã giới thiệu Bùi Tín với các thông tín viên ngoại quốc để Bùi Tín
giúp họ chuyển điện văn ra nước ngoài. Ba tháng sau ngày chiến cuộc chấm dứt,
Bùi Tín thú nhận vẫn chưa biết PXA là gián điệp thuộc “phe ta”vì danh tánh và vị
trí của Ẩn trong hệ thống tình báo được bảo mật rất kỷ.
Ẩn điều khiển văn phòng Time taị Thành phố Hồ Chí
Minh (tên mới của Saigon) cho đến tháng 5.1976 mới đóng cửa. Cuối tháng chạp
1976, PXA lộ diện chính thức là một điệp viên nằm vùng khi y bay ra Hà nội
trong bộ quân phục đại tá để dự, với phái đoàn quân đội, Đại hội kỳ bốn của
Đảng Cộng sản.
Về sau, có tin đồn Chính Trị Bộ tranh luận
gay gắt với Cục An ninh Quân đội Nhân Dân về cách xữ dụng khả năng của Ẩn.
Quân đội muốn giao cho Ẩn tổ chức lưới tình báo hải ngoại, đặc biệt ở Hoa
kỳ, nơi mà PXA quen biết khá đông thông tín viên. Vì thế cho nên vợ và bốn con
của Ẩn được phép rời VN trước tháng tư 1975. Và cũng vì thế, sau khi nữ điệp
viên nhị trùng Đặng Mỹ Dung (tức Yung Krall) giúp FBI và CIA lột mặt nạ đại sứ
VC Đinh Bá Thi, đuổi về nước và truy tố trước Toà án Virginia vào tháng 7.1978
nhóm Trương Đình Hùng – Humphrey – Huỳnh Văn Đồng về tội trộm tài liệu quốc
phòng, có lời đồn Ẩn sẽ tái phối trí mạng lưới CS bị tan vỡ.
Chính trị bộ chống laị ý định nói trên của Bộ
Quốc phòng. Đảng nghĩ cần kiểm lại tư tưởng của Ẩn vì y có thể nhiễm vi
trùng phản động sau khi cọng tác khá lâu (và khắng khít) với tập đoàn truyền
thông tư bổn khét tiếng như Time, Reuters, New York Herald Tribune,
Christian Science Monitor..v..v.. Rốt cuộc, quan điểm này thắng thế. Ẩn
nhận được lệnh hồi hương gặp vợ là Thu Nhàn và bốn con. Mặt khác, tháng
8.1978, Ẩn phải đi học tập mười tháng tại Viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, một lọai
trại tẩy não về chủ nghĩa Mác-Mao dành cho cán bộ trung và cao cấp. PXA kể
lại cho Thomas Bass nghe cảnh mùa đông giá lạnh ở Hà nội, ngủ trên một chiếc giường
cây, không có quần áo ấm che thân. Ẩn nói, với một nụ cười chua chát:
“Tôi đã sống quá lâu giữa lòng địch. Họ rà tôi lại (recycle) để dùng. Tôi
là một đưá học trò dỡ, thuộc hạng bết trong lớp.. Họ không ưa lối nói đùa
của tôi. Họ không thích tôi chút nào. Nhưng tôi không có làm gì sai
lầm quá lố để họ bắn bỏ!”
Năm 1990, VN “đổi mới”. Được
thăng chức thiếu tướng, PXA phê bình châm biếm: Trước 1975, bạn hữu và đồng
nghiệp tặng tôi biệt danh “Tướng Givral” vì tôi thường ngồi cả ngày tán dóc tại
đây. Để khỏi lúng túng, Chính phủ quyết định thăng cấp tôi cho hợp với chức
tước này.
4. Tướng hồi hưu sa cơ.
Năm 1997, Ẩn bị từ chối chiếu
khán đi New York để nói chuyện trong một hội nghị. Tháng 3.2002, vào tuổi 74, vướng
bệnh lao phổi, Ẩn được phép về hưu. “Họ muốn kiểm soát tôi - Ẩn nóí với
Thomas Bass. Đó là lý do họ giữ tôi lâu như vậy trong binh ngũ. Tôi
ăn nói quá phóng túng. Họ muốn bịt miệng tôi lại».
Một câu hỏi: Các hệ thống truyền
thông lớn của Hoa kỳ thuê PXA làm thông tín viên trong giai đọan chiến tranh VN
nhiều năm – với số lương 75 mỹ kim một tuần, có lẽ hơn nữa – có biết mối liên hệ
của Ẩn với CS hay không? Chắc chắn họ không thể không biết, theo lời xác nhận
sau 1975 của Murray Garr, trưởng phòng Time taị Sàigòn. Chính ông này từng
tuyên bố đã để ý theo dõi hành tung của Ẩn lắm khi vắng mặt bất thường taị nhiệm
sở. Điều nên ghi là đa số – nếu không nói tất cả – các báo Mỹ có đại diện trước
1975 ở Sàigòn đều theo khuynh hướng phản chiến. Ngoài ra, Kissinger hối hả hoàn
tất kế họach thoát chạy khỏi Miền Nam. Sau hết, Ẩn là một con người xữ sự khôn
ngoan, một nhà báo hành động chuyên nghiệp, có nhiều bạn hơn kẻ thù, trong mọi
giới.
Mối cảm tình của các thông tín viên
Hoa kỳ vẫn còn sâu đậm đối với cựu đồng nghiệp Phạm Xuân Ẩn từng được họ
tặng nhiều biệt danh thân mật như Dean of the Vietnamese Press corps, Voice of
Radio Catinat, Professeur Coup d’État, The Quiet Vietnamese, Commander of
Military Dog Training, PH. D in Revolutions, General Givral.. Năm 1990,
nhà báo McCulloch đứng ra quyên được 32.000 đô để giúp cho Phạm Xuân Hoàng Ẩn,
trưởng nam của Ân, ghi tên vào Đại học North Carolina, ban báo chí. Lấy
xong bằng tiến sĩ luật tại Duke University, Hoàng Ân trở về Việt Nam làm việc
cho Bộ Ngoại giao.
Trong bài The Spy Who Loved Us, Gs
Thomas A Bass có ghi lại cuộc viếng thăm của ông tại tư thất cựu Tổng trưởng Nội
vụ Mai Chí Thọ. Thọ xác nhận Ẩn là người cán bộ đầu tiên Đảng chọn gởi đi du học
về báo chí năm 1957. Thọ nóí: “Ẩn là con người lý tưởng cho việc làm này!”. Gs
Bass hỏi về tin đồn chính phủ Hànội định gởi Ẩn qua công tác tình báo tại Hoa kỳ
sau 1975 và Mai Chí Thọ thẩm lượng ra sao những thành quả Ẩn thu thập được để
giúp CSVN. Thọ đáp: “Không hiểu taị sao kế hoạch gởi Ẩn qua Mỹ xì ra bên ngoài.
Nếu kế hoạch thành tựu thì Ẩn không gây thất vọng. Sau chiến tranh,
chúng tôi phong tướng cho y và ban cho y danh hiệu “Anh hùng Quân đội.”
Kết luận
Gs Thomas Bass đến từ giả Phạm Xuân Ẩn trước khi về Mỹ. Ẩn và gia đình hiện
ở trong một ngôi nhà khá ấm cúng, giữa Quận 3 TP-HCM, cạnh ga xe lửa. Thú tiêu
khiển của Ẩn vẫn như trước: nuôi chim, nuôi cá, huấn luyện chó, sưu tầm sách vở,
phần đông viết bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, có tác giả đề tặng. Rất ít
sách Việt. Ẩn giải thích: “Dân chúng tại đây không được viết tự do.
Đó là vì sao tôi không viết hồi ký. Tôi sẽ gặp khó khăn nếu tôi nóí đến đời
tôi hay những gì tôi biết…. Tôi làm việc trong bóng tối. Tôi chết trong
bóng tối. Tôi sẽ nhớ tiếc những quyển sách này khi tôi ra đi. Tôi
là người duy nhất còn lưu ý đến những chuyện cũ.”
Trả lời câu hỏi
nghĩ sao về thuyết Mác-Lê, Ẩn nhìn nhận chủ nghĩa này vướng không ít giới hạn
và chịu trách nhiệm về cái chết của nhiều triệu người trong thế kỷ 20. Ẩn
quay lại chất vấn: Ở Việt Nam, tổ chức nào có đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh
cho Đầt nước? Không có sự chọn lựa nào ngoài đảng Cộng sản. Theo Ẩn, CS
chủ trương mọi người là anh, em, bình đẳng. Để thể hiện điều này, cần một
triệu năm. Đây là giấc mơ không tưởng nhưng một giấc mơ đẹp.
Gs Bass ghi: Tôi
đã đến thăm PXA nhiều lần tại nhà. Mỗi lần, Ẩn chọn vài quyển sách hay, đặt
vào tay tôi, như để khoe. Tôi có cảm tưởng nhan đề và nội dung của mỗi quyển ấy
là một thông điệp mang nhiều ám hiệu nói lên một cách kín đáo các kinh nghiệm
quá hiểm nguy nếu đối địch trực tiếp. Một lần, Ẩn đưa cho tôi một tác phẩm của
Charles Dickens với câu “It was the best of times, it was the worst of times,
Thời khoảng đẹp nhất, Thời khoảng thê thảm nhất”. Ngày khác, bài học rút
từ tập thơ ngụ ngôn của Jean de La Fontaine. Ẩn thích đọc các câu chuyện
thú vật hành động như người, và người hành động như súc vật. Gặp nhau lần
chót, Ẩn đưa cho tôi một tác phẩm của Gérard Tongas, nhà giáo dục Pháp từng đến
Hà nội giúp CS dựng một trường trung học sau khi họ đánh bại Pháp năm 1954.
Ẩn kể lại: Tongas, như Edward Lansdale, có một con chó thông minh đã cứu
ông khỏi chết vì chất độc. Cái tựa của quyển sách mà thôi mang nặng một ý
nghĩa “J’ai vécu dans l’enfer communiste au Nord Việtnam et J’ai choisi la
liberté, Tôi đã sống trong địa ngục CS ở Bắc Việt và tôi đã chọn tự do.” Ẩn căn
dặn: “Đây là một quyển sách rất hệ trọng, một tác phẩm thiết thực. Ông nên đọc
nó.” Như lời giã từ, Ẩn nói, với một giọng châm biếm: “ Vợ tôi bảo
tôi: đã đến lúc tránh ra để nhường chỗ cho thế hệ trẻ nhưng tôi chưa thể chết
được. Không biết rồi đi đâu. Địa ngục để dành cho bọn gian manh.
Ở VN ngày nay, có quá nhiều gian manh. Đẩy đầy gian manh!”
Để kết thúc bài này, người
viết nghĩ nên ghi lại lời nhận xét như sau, có vẻ hữu lý, của David Haberstam,
bạn thân của Ẩn và tác giả quyển sách Making of a Quagmire nói về chiến tranh
VN: “ Câu chuyện của Ẩn nhắc lại tất cả những câu hỏi căn bản do Graham
Green từng nêu ra trong tác phẩm The Quiet American: Thế nào là sự trung thành?
Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là sự thật? Anh là ai khi anh nói những sự thật
ấy?”
Và Halberstam kết luận:
“Có hai mặt trong Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hiểu được. Nhìn lui dĩ
vãng, tôi thấy y là một con người bị xé làm đôi ở phiá giữa”.
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang, Californie
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét