Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

HỒI KÝ TRẦN ĐỘ - KỲ 3

1      2      3     4      5
CHƯƠNG 17  VÀI KỶ NIỆM KHÓ QUÊN   
Đầu năm 1965, tôi và anh Tấn đi chỉ huy chiến dịch Đồng Xoài, lại đem thực hiện cái mẹo đánh điểm diệt viện đã có kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi chủ trương đánh cứ điểm Đồng Xoài với dự đoán địch sẽ phải đưa quân tới tiếp viện hoặc là đổ bộ bằng trực thăng. Vậy phải bố trí lực lượng ở những nơi cơ động thì mới tiêu diệt được số tiếp viện. Kế hoạch này đã thực hiện được. Nhưng Đồng Xoài đánh không dứt điểm. Bên ta đã chiếm được đến 2/3 căn cứ song bị thương vong nhiều. Tôi với anh Tấn phải xử lý tình huống này, lại như hồi đánh Pháp ở Nghĩa Lộ, quyết định dừng lại, rút về. Việc trao đổi ý kiến về vấn đề này vẫn không dễ dàng, phải hết sức trung thực trình bày suy tính mọi bề để bàn bạc thật thông suốt mới đi đến quyết định.
Trận đánh ở vùng đồn điền Thuận lợi, phía bắc Đồng Xoài tiêu diệt được một tiểu đoàn. Sau đó chúng tôi kéo quân lên phía Bắc, vùng Bù Đốp vào đầu đợt hai chiến dịch. Đúng là chúng tôi đã phát huy được những kinh nghiệm chiến đấu. Hành quân dọc đường đều gặp những làng của công nhân đồn điền cao su. Kế hoạch là đi giữ bí mật vậy mà dân vẫn biết. Tuy vậy họ cũng biết giữ bí mật cho quân đội, không làm gì lộn xộn ồn ào cả. Đi qua các làng đó thật xúc động vì như đi qua các vùng ngoài Bắc. Tiếng nói từ các nhà vọng ra là giọng Bắc, cách mắng mỏ con cái, tiếng rít thuốc lào y hệt ở làng xóm ngoài Bắc. Tôi nghĩ đến cảnh dân nghèo miền Bắc đi phụ đồn điền cao su trước đây cho Pháp, đã đói khát còn lại bị bóc lột tận xương tủy: miên man nghĩ về đất nước Nam Bắc một giải, nghĩ đến lòng dân đang mong mỏi độc lập lự do mà khó nén nổi xúc động. Chuyến đó dẫn đường cho chúng tôi là ông Tư Nguyện, bí thư Phước Long. Sau này ông là Tổng cục trưởng tổng cục cao su, một con người vui tính. Để nghỉ chân ông đã dẫn chúng tôi vào cơ quan huyện trên đường đi. Tiếp tục cuộc hành quân thì cậu dẫn đường đã bị lạc. Đưa hai người là chỉ huy và chính ủy mặt trận mà lạc đường, làm ông Tư Nguyện rất lo lắng, cậu liên lạc cũng hoảng sợ. Ông Tấn tính vốn nóng cứ giậm chân giậm cẳng. Tôi khẽ nhắc ông là bình tĩnh để tính liệu. Tôi tìm chuyện vui nói cho không khí thoải mái trở lại, cả đêm hôm đó cứ đi hoài cuối cùng cũng tới nơi. Tôi biết lần ấy người khổ tâm nhất là ông Tư Nguyện.
Tiếp theo sau là chuyến hành quân từ phía đông sang phía tây thị xã Phước Long, qua núi Bà Rá. Đợt này, ông Nguyễn Minh Châu, tư lệnh khu 6, tên gọi là năm Ngà dẫn đường. Đồng chí này thì rất cẩn thận. Có đoạn đường khi đi qua, địch đóng ở đầu núi Bà Rá có thể nhìn thấy, ông dặn dò trước rất chu đáo. Cuộc hành quân ấy đi liền trong ba mươi sáu tiếng đồng hồ, toàn phải luồn rừng. Khi đoàn đến ngã ba đường cái, cách chừng trăm mét thì mấy loại pháo nện xuống chỗ ngã ba. Là ngẫu nhiên hay vì chúng phát hiện được mà bắn thì không rõ. Ông Năm Ngà kiên quyết bắt quay trở lại. Tôi thì cho là nó bắn vu vơ, ít đợt sẽ ngừng thôi. Chả lẽ nó bắn cả đêm! Nhưng ông Năm Ngà không đồng ý đi tiếp vì nguy hiểm. Trở lại đi đường khác, lại vòng qua mấy trạm giao liên, lội lên lội xuống tới hai giờ sáng. Tính ra là đã phải đi suốt đêm hôm trước, ngày hôm sau và cả đêm hôm sau, trừ những khoảng nghỉ ngắn ngủi. Đêm hôm đó cũng tới khuya tới chỗ tập kết để đánh Bù Đốp mới dừng lại. Ai cũng mệt lả nên được nghỉ chân thì sướng như tiên. Trời mưa, ai cũng ướt sũng. Tính nhóm lửa để hơ quần. áo, song vừa loé ánh sáng thì từ Bà Rá địch nã pháo ngay xuong trúng vào chỗ trú quân. Thế là phải cuốn gói, chuyển chỗ. Rút kinh nghiệm lần lạc đường vừa qua, tôi chú ý động viên cậu liên lạc bình tĩnh, nhớ đường chính xác. Có chỗ chúng tôi phải dừng lại cho cậu ấy lên trước xác định lại đường đi cho chắc chắn rồi quay lại đón đoàn đi tiếp. Tuy có chậm nhưng chắc, nhất là anh em không phải đi lòng vòng rất mệt mỏi. Khi chúng tôi đánh xong Bù Đốp thì địch ở Bù Gia Mập cũng bỏ chạy. Các anh ở tỉnh khen bộ đội thật tài. Đến chiến dịch Nguyễn Huệ thì tôi đi với ông Trà, trước đó đă có lần tôi xuống khu Tám để kiểm điểm Xuân 68, tôi đã thu hoạch được nhiều điều bổ ích. Nói là xuống đồng bằng, thực sự mới là vùng ven thôi. Các anh đóng ở đây quen, dùng nhiều từ ngữ phát sinh từ chiến đấu, phải trực tiếp và trực diện nghe thì mới hiểu nổi. Ví dụ các anh dùng từ: hai chân, ba mũi hay ba mũi giáp công rồl thế hợp pháp. v. v... Xuống đây thấy rõ các anh điều khiển cuộc chiến tranh ở đồng bằng rất chú ý đến thế hợp pháp. Đã có lúc tôi nặng lời với đồng chí bí thư khu ủy: Đến lúc này mà các anh còn tính tới thế hợp pháp thì làm sao mà có lực lượng để tiến công, làm sao để có tinh thần tiến công được!. Đến khi tình hình diễn biến mới thấy là các anh có kinh nghiệm sát thực tế. Dân ở đây cũng rất từng trải cuộc chiến. Cứ quân ta giải phóng xong thì địch chiếm lại. Quân ta lại đánh giải phóng, địch lại chiếm lại. Mỗi đợt như vậy địch thi hành nhiều âm mưu tàn khốc, thâm độc nên người dân rất cực khổ. Cứ mỗi lần địch quay lại được là dân phải chịu đựng gay go hơn trước. Cho nên cứ khi ta chuẩn bị đánh lớn thì dân lại hỏi: Tụi bay chuyến này có định làm thiệt không đấy?. Quân ta lại quả quyết với dân là làm thiệt. - ừ! Tụi bây muốn làm thiệt thì tụi tao sẽ làm kiểu làm thiệt. Còn tụi bây chưa làm thiệt được thì phải nói thật với bọn tao để chúng tao có cách làm phù hợp. Chứ không rồi chúng mày đánh xong lại rút đi là chết chúng tao đấy.!. Họ phân trần: Chúng mày chỉ có một thân, một mình. Mỗi thằng một khẩu súng và cái ba lô đi đâu mà chẳng được. Nhưng chúng tao thì còn trâu, còn lợn, còn vợ còn con nên không đi được. Chúng tao phải bám trụ, phải có cách đối phó với địch! Chúng mày đi là địch trở lại, lúc đó chúng tao phải đương đầu, còn chúng mày đâu còn ở đây mà đương đầu với chúng!. Nghe những lời như vậy mà thương nhân dân, phục nhân dân. Họ có kinh nghiệm sâu sát, học bao nhiêu cũng không bằng được. Trung ương Cục có nhiều lần. mở các lớp huấn luyện và tôi cũng đến giảng bài. Lúc ấy tôi đã giảng về phương pháp tư tưởng, thực ra như là một thứ dạy triết học, là triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử rồi chế biến gọi là phương pháp tư tưởng, tức là vận dụng triết học nhận định tình hình hàng ngày cho nó dễ hiểu. Anh Hoàng Văn Thái giảng về đường lối quân sự, khi nào anh vắng thì tôi giảng thay. Lúc rảnh rỗi ngồi chuyện trò với anh em hiểu biết thêm nhiều. Anh em bảo mỗi lần lên họp nghe phân tích thì thấy tình hình sáng sủa, phấn khởi lắm! Nhưng về tới địa bàn phải đối phó với quân địch, chúng nó nhiều vũ khí tối tân, lại tàn ác không chùn tay thì thấy tối sầm lại! Nghe phân tích thì địch mỏng như lá lúa cấu là đứt ngay. Còn về tới nhà thì thấy nó dai nhằng như da trâu, dày từng lớp, từng lớp. Sau Xuân 68 cũng cứ nhận định là thắng lợi! Thực tế thì cuối 1968 đầu 1969 địch phản công bình định cấp tốc. Các địa phương đều lâm nguy: mất dân, mất đất du kích cũng mất chỗ đứng chân. Nhiều nơi, du kích cũng phải bổ sung bằng thanh niên miền Bắc. Không thể nào lấy được tân binh địa phương để bổ sung cho chủ lực. Nguồn nhân lực bổ sung cho du kích và bộ đội địa phương cũng không huy động nổi nữa. Tình hình thực sự là gay go. Nhưng công tác tư tưởng vẫn khẳng định Xuân 1968 là chiến thắng vĩ đại.
Lúc anh em lên họp, ngồi nói chuyện vui với nhau thì anh em bảo: Dân họ nói rằng bây giờ cán bộ cứ lấy đũa cả cạy mồm chúng tôi đổ thắng lợi vào thì chúng tôi cũng không nuốt trôi. Vì ở địa phương cứ hàng ngày chạy địch, hàng ngày phải đối phó, hàng ngày chịu hy sinh, gian khổ ghê gớm. Sự chà sát của địch là kinh khủng. Thế mà lại cứ được nghe phổ biến là thắng lợi vĩ đại!.
Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi được sống và làm việc với các đồng chí ở Trung ương Cục miền Nam. Tuy ít hơn nhưng cũng được tiếp xúc với nhiều anh em ở các tỉnh lên học. Tôi nhận thức sâu sắc rằng trong chiến tranh yếu tố nhân dân, yếu tố con người, yếu tố chủ nghĩa anh hùng cách mạng thật là vĩ đại vô song, truyền thống đánh giặc ngoại xâm giữ lấy đất nước thật là phi thường. Tôi được biết nhiều chuyện xúc động lắm. Chuyện những con người sống với nhau đầy tình nghĩa, trung thực, thật thà, tin cậy chăm sóc nhau, lo toan cho nhau. Sau ngày giải phóng, hòa bình rồi, tôi có gặp lại những anh em cùng sống ở rừng trước đây thì cũng nhiều tâm sự phức tạp. Hết chuyện chia chác chiến lợi phẩm, đến tị nạnh công tích... Nghe đến là buồn. Lớp trẻ mới lớn nghe chuyện cũng chẳng hay gì! Mỗi lần gặp gỡ họ lại phàn nàn. Ai cũng tiếc những năm tháng ở rừng tuy gian khổ, cái chết liền kề, nhưng đối với nhau thật tình nghĩa, cuộc sống phóng khoáng nhẹ nhàng bao nhiêu! Tôi trao đổi với anh em là đáng tiếc nhưng cũng đừng xem là nghiêm trọng quá. Mỗi giai đoạn không khỏi có diễn biến về tư tưởng, tình cảm, tinh thần. Vấn đề mấu chốt là nên xem xét nó như thế nào, gạn lọc và thúc đẩy cái tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ra sao cho phù hợp với sự vận động của sự phát triển, của chiến thắng. Tôi dẫn tình hình tại chỗ để làm ví dụ. Giai đoạn đang đánh nhau thì bộ đội đánh Mỹ phần nhiều là lớp thanh niên mới lần đầu tiên ra trận. Tuổi trẻ măng, học lực cấp ba là cỡ tú tài mà hăng hái vào chiến trường chịu đựng gian khổ và nguy hiểm. Do vậy mà các má đều thương yêu như con cái trong nhà. Nhưng các chú này cũng tinh nghịch lắm nên quan hệ với dân không phải là suông sẻ cả và nội bộ các em cũng nhiều cái nghiêm trọng, cãi nhau, đánh lộn, thậm chí bắn nhau vì ghen tuông giận dỗi... Rồi B quay cũng không hiếm. Chuyện tự do lấy cái bắp quả bí của dân cũng xảy ra. So với bộ đội đánh Pháp thì không nghiêm bằng. Ngày ấy phần đông chiến sĩ đều lớn tuổi, tinh thần vì dân vì nước thật thiêng liêng. Hồi chống Pháp, tôi là chính trị viên làm công tác chính trị, đọc tài liệu về công tác chính trị của giải phóng quân Trung Quốc. Thấy có những cuộc vận dộng chống đào ngũ tôi cũng thấy ngạc nhiên. Tại sao quân đội cách mạng lại đào ngũ? ở Việt Nam trong chống Pháp hầu như không có đào ngũ. Dư luận xã hội cũng không chấp nhận kẻ đào ngũ. Những trường hợp vào tề thì bị xem là kẻ phản bội. Thế mà đến chống Mỹ thì tình hình đã khác. Cho nên có một số cán bộ Từng trải qua chống Pháp đã có nhận định là bộ đội chống Mỹ kém bộ đội chống Pháp, nghĩ là truyền thống quân đội bị phai lạt, sa sút đi. Trong khi ấy thì xuất hiện bao nhiêu tấm gương chống Mỹ, đánh Mỹ rất dũng cảm, rất anh hùng. Địch tiến hành chiến tranh xâm lược ở ta tàn bạo khốc liệt như thế đến cả thế giới kinh hoàng. Thế mà bộ đội, nhân dân ở mọi nơi vẫn trụ bám vững, vẫn chiến thắng vang dội, càng đánh càng thắng lớn. ý kiến đánh giá bộ đội thế này, thế kia làm tinh thần cán bộ có biểu hiện bực dọc không vui. Trước tình hình không lành mạnh ấy, tôi phát động trong anh em cuộc tranh luận với chủ đề là: Bộ đội chống Mỹ có thua bộ đội chống Pháp không? Thua ở chỗ nào? Không thua ở chỗ nào? Cán bộ phải đánh giá lại chiến sĩ của mình. Là người chỉ huy mà không tin chiến sĩ thì nguy lắm. Cuộc thảo luận không đi đến kết luận ồn ào gì nhưng mục tiêu thì đạt tới. Cán bộ tin vào chiến sĩ của mình hơn và quân đội cũng gắn bó với dân hơn. Một việc đơn giản mà ai cũng nhận ra là trong đội ngũ không tránh khỏi có phần tử lạc hậu, có hành vi tiêu cực, và ngay trong số này cũng không phải là hỏng cả. Người lãnh đạo phải tỉnh táo và thấu suốt mới xây dựng được lực lượng của mình, trước hết là lòng tin chiến sĩ, làm chiến sĩ tin yêu mình. Cuối cuộc chiến tranh tôi mới nói đùa với anh em thế này: Nếu mà hệ thống lại từng giai đoạn thì té ra chúng mình toàn đi xuống. Bởi vì thời chống Mỹ thì không bằng thời chống Pháp. Những con người chống Pháp kém những ai hoạt động bí mật. Những con người chống Mỹ lại kém những ai chống Pháp. Còn những ai tham gia khi đã giải phóng hoàn toàn lại kém những con người chống Mỹ. Thế hóa ra dân tộc mình đi xuống à? Con người ta đi xuống à? Đặt ngược lại vấn đề như thế, tôi thấy anh em đã nghĩ lại, theo kiểu cho những tiêu cực đó cũng có thực nhưng là một mảnh của sự thật chứ không phải toàn bộ. Tóm lại nhìn toàn bộ cuộc chiến bấy giờ, khái quát lại sự hy sinh của nhân dân ta là ghê gớm lắm, con người ta đã anh dũng phi thường.

HẾT CHƯƠNG 17 XEM TIẾP CHƯƠNG 18 
CHƯƠNG 18 SỐNG TRONG RỪNG MIỀN ĐÔNG
Tôi sẽ không lần lượt kể các sự kiện, sinh hoạt trong gần mười năm trời ở chiến trường miền Nam từ đầu năm 1965 đến đầu năm 1974. Tôi chỉ ghi lại nhứng kỷ niệm khó quên trong cuộc sống ở đấy, chủ yếu là cuộc sống đời thường. Phần liên quan đến các sự kiện chiến đấu hay các chiến dịch thì chỉ lướt qua mà thôi. Rừng miền đông có những cái lạ mà rừng miền Bắc không thấy có. Thứ nhất là rừng rất hiền, tôi cảm thấy vậy. ở miền Bắc việc ngủ rừng khó khăn lắm, vì rất nhiều côn trùng, ở đây cũng có côn trùng nhưng cứ chỗ nào hơi bằng phẳng trải một đám lá hay tấm ni lông là có thể yên trí nằm ngủ. Có những vùng vắt cũng nhiều nhưng ở miền đông nói chung, ít phải nằm đất, vì có cái võng rất tiện lợi. Võng bằng vải ni lông gói gọn chỉ bằng hai nắm tay, dắt ở thắt lưng. Tới đâu thì mắc vào cây, ngủ thoải mái. Nắm được kỹ thuật thì mắc và tháo võng rất nhanh. Buổi đầu chưa thạo, tôi cũng lúng túng và có bị ngã võng. Nằm võng ở rừng miền Đông tôi xem là một cái thú.
Tiếp đến là cây trái. Nằm ở một cái lán, tôi thấy mái lợp lá nhưng cứ như lợp ngói rất đẹp mắt. Sau hỏi ra mới biết đó là lá trung quân. Có người còn nói cả nguồn gốc tên gọi đó. Hồi Gia Long bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy vào rừng đã dùng lá này lợp chòi mà lẩn trốn. Về sau làm vua đã nhớ đến công che nắng che mưa của lá cây này nên đã phong là lá trung quân. Tôi nghĩ cũng là một sự bịa đặt thôi. Nhưng điều rất thú vị là khi khô lá này khó bắt lửa. Dùng lợp nhà, với đặc điểm đó là thứ lá lợp hơn nhiều các lá khác. Nó lại có màu tươi rất bắt mắt. Nằm võng êm ái, dưới mái lá nâu tươi của căn nhà gỗ, giữa khuôn rừng xanh rờn êm ả, phảng phất gió kể cúng là sang.
Rừng miền Đông có rất nhiều trái dại: bưởi, ổi, bòng bong, dâu da... rất sẵn và cứ như những thứ giải khát trời biện sẵn cho ai đi rừng. Có thứ gọi là trái gùi, thân dây leo mà rất sai quả, cỡ như quả trứng gà có xơ có cơm. Trái chín vào đầu mùa mưa. Hái về gọt vỏ, lấy xơ và cơm quậy với đường thành thức nước giải khát đặc sản. Vị chua chua ngọt ngọt đem mời khách ai cũng mê. Về sau có kinh nghiệm chế biến, chúng tôi đã hái thật nhiều, giỡ cơm của quả ra đánh thành nước cô lại cho vào chai dùng dần.
Rừng có lắm thứ hoa, nhiều nhất là mai vàng. Quanh chỗ chúng tôi gần như một rừng mai. Trước tết một tháng, cây nào còn xanh lá, anh em trèo lên tuốt sạch cả rồi tưới nước, có thể pha cả nước giải là cách thức làm cây nảy nụ tập trung đón tết. Hoa mai vừa đẹp vừa sang. Được đứng giữa một rừng mai bừng bừng hoa nở lòng ta cũng thanh thản trong sáng hơn.
Rừng cũng đầy phong lan. Nhưng anh em tôi rất thú chơi phong lan Đai Châu. Đó là tên gọi quen miệng nhưng ý nghĩa nguồn gốc thì mỗi người nói một cách. Những kẻ gọi phong lan Đai Châu vì hình dáng chuỗi hoa rừng từ ba tấc đến nửa thước dài, cánh hoa trắng đốm đỏ hồng, lung linh trong gió xem ra còn đẹp hơn, sang hơn cả chuỗi ngọc. Đâu có hoa thì cả cánh rừng sực nức hương thơm. Trời càng nắng, hương càng ngát. Đâu dễ tìm ra được thứ hoa đủ cả hương sắc như vậy.
Đã là rừng thì có gỗ. Gỗ rừng miền Đông có phần dễ chế tác. Cơ quan đều đã cất nhà, làm hầm có lót ván. Nhà cũng gọn gàng chỉ cần đủ chỗ làm việc và mắc võng. Về sau sách vở tài liệu tăng lên lại có thợ mộc cưa xẻ nên đã chế một thứ giá sách đa năng. Thường nhật là giá để sách, để tài liệu. Khi cần di chuyển thì ghép thành cái hòm rương. Lúc cần dùng có thể làm thành chiếc tủ gỗ. Có sẵn gỗ, sẵn thợ, các vật dụng bằng gỗ cứ sinh sôi theo thu cầu hóa cồng kềnh dần. Rừng miền đông có bụi le rất kín đáo và măng le ăn ngon được nhiều người thích. Thịt rừng cũng nhiều thứ. Có voi, hổ, nai, trâu rừng... cũng có cả giống hoẵng ở ngoài Bắc mà ở trong này gọi là con mễn. Nó giống hệt hươu nhưng bé hơn. Thịt mễn nấu cháo ăn thì vừa ngon vừa bổ. Có con dọc, thịt không ngon lắm khi làm thịt dọc trông kinh lắm vì cạo sạch lông nhìn cứ như đứa trẻ.
Các loài chim thì nhiều lắm. Tại đây tôi mới biết và mới hiểu từ anh em thường nói là đi săn thịt nghĩa là săn thú lấy thịt. Anh em thích dùng súng thể thao vì súng AK tiếng nổ to, dễ lộ bí mật nên bị cấm. Có những tay thiện xạ với súng thể thao vẫn hạ được gấu, nai, hươu, lợn rừng.
Có lần tôi mang khẩu súng thể thao, đạn dư dật để bắn tiêu khiển hơn là đi săn. Tự biết bắn xoàng nên tìm chim để bắn. Anh em thấy thế nói: Thủ trưởng lãng phí lắm. Một phát đạn bắn chim thì có trúng nữa cũng chỉ được một lạng thịt là nhiều. Chúng tôi đặt mục tiêu một phát đạn phải có chục ký. ít ra thì cũng là con dọc, con mễn gì đó.. Quanh chuyện đi săn cũng có nhiều điều rắc rối. Có cậu đi lạc đường phải ngủ rừng hoang, sau khi loanh quanh tìm không ra đường về. Sáng dậy mở mắt ra lại tháy chị nuôi đang vo gạo ngay cạnh. Cũng có lúc bắn nhầm nhau. Và đau đớn là có người cá biệt bị trúng đạn và chết. Anh Tư Nguyện bí thư tỉnh ủy Bình Long đã kể chuyện một cậu đi săn mà con mồi cướp mất súng Anh ta bắn con hươu. Con mồi bị thương chạy. Anh đón đường giang tay ra bắt. Cánh tay vẫn tòng teng khẩu súng. Con mồi lao xô tới và móc luôn vào quai súng. Nó càng hoảng và mang luôn cả khẩn súng phóng vào rừng. Thế là đi săn mà không được thú lại bị tước cả súng.
Có lần chúng tôi đến một căn cứ mới. Vệ binh đến trước đã bắn được một con gấu. Hôm ấy được một bữa thịt gấu. Anh em ưu tiên dành cho thủ trưởng (là tôi) được món chân gấu. Tôi cũng có nghe đồn trong các món sơn hào hải vị có món chân gấu này, ngon và cực kỳ bổ. ăn chân gấu đúng là ngon hơn chân giò nhiều, mùi vị lại rất thích. Nhưng vốn không sành ẩm thực nên tôi bất lực không tả nổi. Về sau tôi có dịp ăn thịt cò ngẳng loại cò giống con chim cút. Thịt cò ngẳng cũng ngon như vậy. Cò ngẳng không bay được cao, không bay xa, thường chạy trên mặt đất. Hôm tôi tới thăm anh Trà, anh có nói chuyện ăn thịt cò ngẳng. Anh Trà nói: Sau này thắng lợi rồi, tớ lại trở lại rừng miền đông này, làm căn nhà lợp bằng lá trung quân, hàng ngày vào rừng thổi cò ngẳng về chén. Hồi tôi còn nhỏ từng có cái thú thổi ống xì đồng. Đó là một ống tre nhỏ thông mắt, đạn là viên đất sét vừa lòng ống phơi khô. Hơi thổi mạnh dồn viên đất bay qua lòng ông dài cũng bắn ra khá xa và mạnh. Ai thổi giỏi cũng có thể hạ chim xa chục thước. Tôi liên tưởng cho thổi là như vậy, hóa ra là không phải. Anh Trà liền giải thích: Giống chim này đi đâu cũng có đôi - cho nên đã săn là bắt được cả đực và cái. Đặc tính của chúng là con đực đang kiếm ăn mà nghe tiếng con cái là nó lao lới. Hai con đang kiếm ăn mà nghe tiếng con chim đực khác thì con đực liền nổi khùng và canh giữ con cái thật quyết liệt. Con cái cũng bám đực không kém. Biết đặc tính đó anh em bèn trang bị hai cái còi. Một phát ra tiếng con cái, một làm giọng con đực. Lại mang theo cái lưới cao độ hai mươi phân, dài dăm bảy thước đủ bẫy con mồi.
Một lần đi họp tôi cùng đi với một ông cấp dưỡng và một vệ binh biết bắt cò ngẳng. Suốt cuộc họp đó, tôi được thưởng thức món cò đặc sản này. Cò ngẳng không thiếu. Lại nắm được đặc tính nên việc bắt nó không khó lắm. Có điều kiện thì anh em đi bắt về khá nhiều và cũng xuất hiện nhiều tay thổi cực kỳ xuất sắc. Tôi mới hiểu điều anh Trà bảo về cái thú thổi cò ngẳng ăn chơi.
Còn con cheo, trông giống con mễn, nhỏ bằng con mèo. Vốn có câu Nhát như cheo nên săn nó có lúc chẳng cần bắn. Bắn không trúng cũng có khi bắt được cheo vì nghe tiếng nổ nó sợ nằm lăn ra đấy, ngất đi chỉ việc đến lượm. Tuy vài cân thịt thôi nhưng hôm nào được đãi cháo cheo thì khỏi phải bàn, ăn rồi còn ngon mãi.
Song ở đâu và lúc nào cũng vậy, cuộc sống vẫn có hai mặt. ở rừng miền đông, bên những điều thú vị hiếm thấy, thì bệnh sốt rét ở đấy cũng ghê lắm, gọi là sốt rét ác tính. Có lúc số anh em tân binh ở miền Bắc bổ sung vào chỉ một nửa là đưa xuống các đơn vị chiến đấu, còn phải nằm điều trị sết rét một thời gian. Bấy giờ bác sĩ Nguyễn Thiện Thành đã tìm được phương pháp chữa sốt rét và phục hồi sưc khoẻ rất hiệu nghiệm và anh đã được thưởng huân chương vì công lao này. Thanh niên đang tuổi hai mươi lúc khiêng tới trạm xá chỉ còn da bọc xương, nằm bất động, chỉ còn chừng ba mươi ký. Anh Thành đã dùng insulin liều nhỏ tiêm cho hay chữa bằng huyết thanh đẳng truơng làm anh em ăn được rất nhanh. Có anh em một ngày ãn chục bát cơm vẫn đói phải thêm nửa nải chuối. Với sức ăn như vậy người lên sức lên ký cũng nhanh, có cậu rời. trạm cân được năm mươi ký.
ở rừng ngày ấy chúng tôi rất ngại rắn độc. Có nhiều thứ lắm nhưng ngại nhất là rắn chàm ngoạm... Thân nó nhỏ, ngắn chỉ độ ba bốn mươi phân, di chuyển chậm chạp. Nhìn lờ đờ thế mà đụng tới là bị nó mổ ngay. Nó mổ trúng chân là lập tức quỵ xuống. Không chữa chạy kịp thời là chết. Tiếng dữ rộn cả miền. Tôi đã viết một bài nói lại là quân Mỹ gọi rắn này là ông ba bước tức là bị nó mổ phải thì bước ba bước là quỵ thôi. Có một anh ở cục chính tri đêm nằm ngủ để dép ở dưới chân. Buồn đi giải, thả chân quờ dép thì bị nó đớp. Phải đưa đi cấp cứu ngay nhưng cũng nằm điều trị đến hàng tháng. Một cậu cán bộ tuyên huấn to khoẻ bảnh trai cũng bị rắn cắn. Chữa trị xong không ra hồn người nữa. Là loài rắn cực độc lại có nhiều sơ ý là bị với nó ngay. Rắn lục cũng không hiếm. Người bảo là rắn độc, kẻ bảo là hiền chỉ thích bất chuột. Cho nên có lần tôi thấy nó bò lên mái lều cũng để vậy. Nếu nó bắt chuột thật thì hay quá.. Có rắn hổ mà ngoài Bắc gọi là Cạp nong. Có loại thân cứ khoanh trắng khoanh đậm nhìn đến ghê. Có lúc nhìn rắn bò bên cạnh lại mơ màng nghĩ là hầm mình chuyển động. Đánh đuổi chúng cũng không dễ. Hễ động là chúng trườn xuống dưới thanh lát. Đành phải nghĩ rằng Thì hãy chung sống với chúng mày vậy!! Tuy thế với kẻ đồng phòng này, mình cũng phải cảnh giác thường trực, vì nó mà trườn ra mình sơ ý là bị mổ ngay. Số bị rắn cắn khá nhiều nhưng nhờ cấp cứu kịp và các bệnh viện có đủ thuốc từ Bắc gửi vào và có kinh nghiệm chữa trị. Mỗi người vượt Trường sơn vào đều mang theo thuốc chống rắn và chữa rắn cắn. Có thứ thuốc anh em gọi là da tay tức là da con tê giác. Lần tôi đi khu sáu anh em cho một miếng bằng bàn tay. Đưa về tôi xẻ cho mỗi người một mảnh bằng đồng xu. Bị rắn cắn, đặt miếng da vào vết cắn, nó sẽ bám chặt và hút hết nọc độc ra, rất linh nghiệm.
Các loại côn trùng ở rừng cũng không thiếu và con nào cũng ngoại cỡ. Rết thì như đũa cả, dài cả hai mươi phân, cứ nhìn thấy là mình đã sởn da gà. Người ta bảo rết rừng cắn chết trâu huống chi là người. Cuốn chiếu thì dài hơn hai mươi phân, đen trùi trũi, mình bằng ngón chân cái. Bọ cạp cũng lắm. Ai lỡ đụng phải đuôi nó thì bị nhức nhối khổ sở một ngày một đêm mới đỡ chút ít. Ông Tấn treo áo ở vách hầm. Không may bò cạp chui vào mà không hay, ông lấy áo mặc đã bị một trận la trời. Trong các loại kiến thì đáng kiềng là kiến bù nhót. Hễ đánh hơi mồi là nó kéo đến đen nền nhà. Nằm võng vô tình chống chân vào chúng là bị đốt ngay, nọc nó làm nhức nhối khó chịu không kém. Trị loại kiến không gì bằng dầu hỏa, cứ phun dầu là chúng lần hết. Có lúc không có dầu, anh em phun nước bọt thấy cũng có kết quả nhưng mất thời giờ hơn.
Mối rừng dữ dội lắm, cứ từng đống một dọc đường đi. Càng mối giống như càng cua, nhỏ nhưng rất sắc. Có lần chị Ba Định đi họp về giữa đêm tối. Đang đi thì chị hét lên, chân dãy cuống quýt. Chiếu đèn pin vào mới hay chị bước phải đống mối càng. Các cháu cùng đi xúm vào gỡ cho chị. Càng mối cắn như găm chặt vào da thịt. Cứ dứt con mối ra là dứt cả da thịt. Chân chị Ba đẫm máu.
Lại một lần nữa anh Nguyễn Chí Thanh bị sốt. Bác sĩ cho cặp nhiệt độ thì có cao nhưng bắt mạch và làm các khám nghiệm khác thì không có hiện tượng bệnh tật gì. Cho uống thuốc giảm sốt vẫn không có kết quả. Cứ thế đến hai ba hôm. Sau anh em có kinh nghiệm ở rừng bảo anh Thanh vén áo lên xem. Thì ra ve nó bám vào chỗ hiểm cắn. Nó vốn mình dẹt như hạt cốm đã qua cối giã, nay mình đầy máu căng tròn như hạt đỗ. Gỡ ve ra cũng phải biết cách. Lấy cái nhíp nung nóng rồi cặp vào nó một lát là nó nhả ngay và vết cắn tự lành. Nếu gỡ bằng tay thì không được. Nếu cạy nó ra thì cái vòi vẫn còn đó gây ngứa và nhức nhối cả năm. Tôi bị ve cắn ở trán, không có kinh nghiệm gạt nó ra và đã bị nhức đến năm trời. Loại ve này thích cắn vào chỗ da mềm, chúng cứ mò vào những chỗ kín nên rất khó phát hiện. Có một giai thoại Tây bị ve cắn. Hắn là chủ đồn điền cao su, bị sốt liên miên, thuốc gì cũng chẳng được. Vợ nó mới lễ cầu xin thần thánh cũng không xong. Nó bèn thông báo ai chữa được cho nó khỏi sốt sẽ được thưởng. Có người phu cao su biết là nó bị ve cắn. Anh bảo cho gặp riêng thằng tây. Bảo nó cởi hết quần áo ra, anh sức dầu cù là vào tay mình rồi đặt vào chỗ con ve. Bị dầu nóng thì ve nhả ra. Thằng tây thôi sốt, bình thường trở lại nhưng vẫn không biết là bị ve cắn. Anh phu được nó thưởng như đã hứa nhưng không cho nó hay vì sao nó sốt.
Rừng miền đông nam bộ dù ai chỉ sống với nó một, hai năm cũng đã có bao nhiêu chuyện muốn nói. Và tôi cũng như mọi người, điều đọng lại sâu sắc nhất là những năm tháng đầy gian khổ và hy sinh ấy, con người vẫn lạc quan yêu đời với những ngày tháng sống cùng thiên nhiên, chim muông, động vật hoang đã, quý hiếm, kể cả những con vật dữ dằn nhất.
HẾT CHƯƠNG 18 XEM TIẾP CHƯƠNG 19
CHƯƠNG 19  TÔI NHỚ ANH, ĐỜI CŨNG NHỚ ANH
Vĩnh biệt anh trường chinh
Thế là anh đã thọ được 81 tuổi trời. Tôi tiếp nhận tin anh mất với một sự sững sờ, vừa cam chịu quy luật khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa cay đắng bị mất đi của đời mình một cái gì quý báu và thân thiết không thay thế được.
Được cùng sống với anh cả một quãng đời dài hơn 40 năm, tôi luôn luôn có một sự vững tin: có anh, một người anh, một người thầy, một người đồng chí lãnh đạo đầy tin cậy. Biết bao nhiêu kỷ niệm về anh mà tôi nhiều lần kể cho con cháu và bạn bè nghe với niềm thích thú và cảm phục. Dịp này không phải là dịp lại kể lể những điều đó. Dịp này, anh mất đi, tới chỉ muốn ghi nhận sự lắng đọng của anh trong tôi và có lẽ trong cả cuộc đời chung.
Năm 1944, khi tôi mới bước sang tuổi 21, tôi được gặp anh. Khi tôi vượt khỏi xiềng xích từ ngục, được anh, lúc ấylà Anh Toàn đón tôi ở bờ sông Hồng một buổi trưa trời đầy nắng đẹp, gió lành. Sau đó, tôi dược nghe các anh các chị quanh anh nói về Anh Toàn với một sự tôn kính đặc biệt, tôi thấy cuộc sống của tôi có một hạnh phúc lớn. Không hiểu tại sao tôi biết ngay và tôi yên chí như vậy: Anh là Đặng Xuân Khu, và anh là người chịu trách nhiệm chủ chốt trong sự lãnh đạo phong trào cách mạng lúc đó. Và tôi nói chuyện với anh về cuốn sách Vấn đề dân cày và báo Travail như tới vốn dĩ đã biết anh rõ từ lâu. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn không lý giải được cái linh cảm kỳ lạ của tôi về con người của anh. Anh sát hạch tôi mấy câu: Anh có đọc được không Anh có viết được không và khi lôi trả lời là có, anh liền kết luận: Anh về công tác thanh lliên nông thôn, tốt lắm đấy!. Thật là đơn giản, sâu sắc, thiết thực và chính xác. Rồi từ đó khi ở chiến khu, lúc về giúp anh làm báo Cờ Giải Phóng, tôi đã tiếp nhận những sự chỉ đạo cách mạng mà tôi nghĩ như là sản phẩm củi một trí tuệ huyền thoại từ ở đâu xa thẳm chuyền về, mà lại gần gũi rõ ràng trên những trang vết của anh, tôi phải chép sạch lại cho anh. Những tư tưởng trong Đề cương văn hóa Việt Nam, trong sách phân tích Chiến tranh Thái Bình Dương... trong chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động chúng ta, trong bài xã luận báo Cờ Giải Phóng kêu gọi và chỉ đạo chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tính tôi vẫn mang ấn tượng thượng cấp là những đấng minh quân, thông minh, xuất chúng, từ ở thượng cấp mỗi lời mỗi ý đều là thánh ý, thiên ngôn. ấy thế mà tôi lại sống ngay bên cạnh một thượng cấp như vậy. Tôi lại còn thấy thượng cấp cao siêu như thế còn thương tiếc đến đau xót và tôn trọng cực kỳ một đồng chí khác: anh Hoàng Văn Thụ. Anh phải bảo tôi đưa chuyển chiếc áo len của anh Hoàng Văn Thụ cho người khác, kẻo hàng ngày anh mặc anh xúc động thương nhớ anh Hoàng Văn Thụ đến không chịu nổi. Tôi còn được thấy anh hớn hở một cách hồn nhién khi làm xong một bài thơ, anh đọc tôi nghe và nói thác ra là: của người ta gửi đến đăng báo. Tôi cũng thấy anh than thở:
Tiền không có, lâý gì mua len sợi
Tặng cho em đan áo mặc mùa đông
Lúc ấy anh chưa nói rõ em đó là cô Oanh và tôi chỉ đồng cảm với anh là có một đồng chí nào đó chịu rét mướt, anh thương và than thở.
Cái cao cả nằm ngay trong cái bình dị. Tôi ngẫm nghĩ và hết sức thích thú vì tên bí của anh có lúc là Nhân. Tôi ngắm anh và tôi thấy toàn bộ con người anh, phong cách anh, tâm hồn của anh, tiếng cười và ánh mắt của anh đều biểu hiện một chữ Nhân thật sự. Nhân dân khu vực căn cứ lúc ấy bàn tán về anh, đều có nhận xét anh là người có chân mạng..., họ muốn nói chân mạng thiên tử nhưng thực chất anh đúng là anh có chân mạng và tướng tinh nhân hậu.
Tôi lại cũng rất thích tên Thận của anh. Và tôi nhiều phen lao đao khổ sở về tính cẩn thận rất nguyên tắc của anh.Tôi cứ thích thú hoài: Tên anh là Thận, lại là Nhân. Hôm nay tôi lại cầm trên tay những cuốn sách của anh gửi cho với những chữ đề tặng hết sức chân phương chu đáo, đầy đủ hết các dấu i và dấu nặng. Anh đề Tặng Anh Trần Độ với chữ Anh víết hoa. Anh trân trọng đồng chí bao nhiêu, tuy tôi nhỏ hơn anh gần 20 tuổi và thường nghịch ngợm lếu láo, anh phải dạy bảo khuyên nhủ và đe nẹt. Và có lúc tôi cũng cả gan cãi ngược lại với anh cả những nhận định về văn nghệ hoặc về một vài tác phẩm cụ thể. Những lúc ấy anh cười, cười hồn nhiên và sảng khoái.. Một tình người, tình đồng chí như vậy há chẳng phải là một hạnh phúc lớn hay sao? Anh mất đi, cả nước tổn thất lớn. Nhưng tổn thất của riêng tôi có lẽ lớn hơn cả.
* * *
Sự tổn thất do anh mất đi đối với và tôi cũng chắc đối với nhiều người, còn là ở chỗ này:
Cách mạng nước ta trong hơn chục năm qua gặp một sự thử thách nặng nề. Trong sự bối rối chung ấy, ở tuổi ngoài 70 của anh có một sự hồi xuân trí tuệ và tình cảm hết sức đặc sắc đáng quý vô cùng, lẽ ra nó phải được trở thành ánh sáng và niềm hy vọng lớn của đất nước.
Lúc này tôi chẳng có tâm trí lục lại văn kiện của Đảng, nhưng tôi nhớ sâu sắc rằng từ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa V anh có thốt ra hai chữ bung ra với tư tưởng cái gì quốc doanh làm tốt thì quốc doanh làm, cái gì HTX làm tốt hơn thì để HTX làm, cái gì tư nhân làm tốt hơn thì để tư nhân làm, không nên phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế và những người có đầu óc tư hữu, nhưng không vì thế họ không yêu nước. Đó chính là tiền đề cho tư tưởng giải phóng mọi năng lực sản xuất và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất và phải nhận thức cho đầy đủ quy luật: Quan hệ sản xuất phải được cải tạo cho phù hợp với tính chất và trình độ sức sản xuất,.. Tôi được biết, khoảng những năm 1983- 1984 sau khi anh trực tiếp xem xét và nghe báo cáo của một số cơ sở kinh tế anh đã nói: Anh đã gặp một sự thật ngược hẳn lại những điều anh đã nghe các cơ quan báo cáo. Và đó có lẽ cũng là yếu tố quan trọng để anh có thể đề xướng lấy dân làm gốc và nhìn thẳng vào sự thật anh cảm nhận sâu sắc đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước hiện nay. Tôi cứ sung sướng mà nghĩ rằng anh Trường Chinh lại trở lại vai trò của mình trong những năm 40 trước cách mạng. Với một sự trong sáng tuyệt vời và tinh thần hồn nhiên, nhân hậu anh đã đề xướng đúng và trùng với những vấn đề của đất nước đặt ra.
Tới biết chắc tất cả không phải chỉ là ý kiến của một mình anh, nhưng tôi tin chắc là do anh đề xướng, anh đề xướng những điều mà anh thu hút được rõ ràng, chính xác trong cuộc sống của nhân dân. Do đó bốn bài học anh nêu lên trước Đại hội 6 được toàn Đảng tán thưởng và trở thành Nghị quyết của Đại hội.
Những gì anh để lại cho đời là lớn lao: từ những tác phẩm trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được xuất bản, 2 tập sách Về văn hóa và nghệ thuật của anh là những tài sản tinh thần quý giá. Nhưng tư tưởng đổi mới của anh trong thời gian gần đây có thể còn có giá trị đặc sắc hơn nhiều. Giá trị đặc sắc đó còn biểu hiện ở phẩm chất tuyệt vời của một người lãnh đạo như anh: Tin ở dân và quyết tâm đổi mới!
Anh thật xứng đáng học trò và bạn chiến đấu của Bác Hồ kính yêu.
Anh Trường Chinh thân yêu.
Anh đã ra đi để gặp Bác Hồ
Hôm nay tôi và các anh em trong Ban văn hóa văn nghệ trung ương đến nhà để viếng anh, thắp những nén hương thầm kín. Tôi lại xúc động tóm tắt một quãng đời tôi với hai sự kiện: Năm 1944, anh giảng Đề cương văn hóa cho tôi và phái tôi đi liên lạc với các anh văn hóa cứu quốc. Năm nay (1988) tôi đến thắp hương vĩnh biệt anh cùng với những đồng chí trong Ban văn hóa văn nghệ của trung ương. Tôi đã ghi vào sổ tang Thương tiếc sâu sắc anh tutờng Chinh, một người anh, một nhà văn hóa lớn, một người lãnh đạo xuất sắc...
Vĩnh biệt anh, nhưng tôi vẫn tự bồi dưỡng và tẩm bổ cho tôi những tư tưởng đổi mới, tinh thần đổi mới. Đó là tư tưởng của thời đại. Đó là tư tưởng và tình cảm của anh để lại cho đời và cho tôi.
Vĩnh biệt anh, tôi thầm mong tư tưởng đổi mới được tôn trọng, được phát triển và được thực hiện. Và tôi tin rằng như vậy thì - giống như người xưa đã nói - Anh có thể ngậm cười nơi chín suối. Xin một lần nữa bằng những dòng này tôi thắp những nén hương lòng trước vong hồn anh.
NHớ Về MộT ANH Bộ độI
(Hồi ký về Anh Nguyễn Chí Thanh)
Tôi gọi anh là một ANH Bộ ĐộI vì anh là một Đại tướng, cũng không phải chỉ vì anh là Đại tướng, mà trước hết vì anh là một nhân cách lớn, một tâm hồn lớn, một nhà chiến lược xuất sắc, một nhà tư tưởng vững chắc và sắc sảo. Anh sống với Quân đội Nhân dân Việt Nam không lâu, nhưng anh có một vai trò hết sức lớn lao trong sự trưởng thành và các thắng lợi của Quân đội. Anh mất đi đã 17 năm rồi. Tôi nhận được tin anh mất rất đột ngột. Trong lúc chúng tôi đang chờ đợi anh từ Hà Nội vào chiến trường l2 để cùng chúng tôi hoạch định và điều khiển cuộc tổng công kích xuân 1968. Hôm ấy, một buổi tối mùa thu, trời mát, như thường lệ, tôi đang ngồi trong lán nhỏ với ngọn đèn con, xem tin tức thì anh Ba Long (tức Lê Trọng Tấn) cầm đèn đến tìm tôi. Tôi hơi ngạc nhiên và ngờ rằng trên chiến trường có tình huống gì đột xuất anh ra thông báo và hội ý với tôi chăng? Anh Ba Long bước vào trong lán tôi đặt đèn trên bàn, ngồi vào ghế ghép bằng mấy thanh tre trước mặt tôi rồi thở dài, nói một câu bằng một giọng trầm trầm: Có một tin buồn lớn, ông Chín ạ!. Tôi giật mình và gai người lên, tôi thoát nghĩ đến Bác Hồ vì lúc đó chúng tôi được tin Bác không được khoẻ và vẫn luôn luôn lo lắng về sức khoẻ của Bác, nhưng sau một giây, anh Ba Long nói tiếp: Anh Nguyễn Chí Thanh mất rồi! Tôi a một tiếng rồi lặng người, có một cái gì sụt đổ trong người. Vì chúng tôi đang chuẩn bị đón anh Thanh vào lần thứ 2 mà chúng tôi biết là anh đang chuẩn bị lên đường. Chúng tôi mừng anh rất nhiều vì chúng tôi đang đứng trước một kế hoạch vĩ đại: chuẩn bị cho xuân 1968. Anh Thanh vào chiến truờng từ năm 1964, đến 1966 anh yếu mệt phải trở ra Hà Nội điều trị. Lúc đó tình hình chiến trường diễn biến rất phức tạp. Anh Thanh là chỗ dựa vững chắc và tin cậy của chúng tôi. Giờ đây để nhớ lại ngày chúng tôi cùng chuẩn bị lên đường đi B sau 20 năm và để chuẩn bị kỷ niệm những ngày lễ lớn: 10 năm đại thắng và 40 năm thành lập Quân đội. Tôi sống lại những xúc cảm lúc đó, tôi hầu như mới nghe tin anh mất hôm qua. Tôi ghi lại những kỷ niệm nhỏ trong những dịp được làm việc với anh Thanh khi còn trong quân đội.
Anh Thanh nhận nhiệm vụ phụ trách công tác chính trị trong quân đội từ năm 1950 trong chiến dịch đánh địch ở Hoà Bình, tôi được nghe một giai thoại về anh và giai thoại này gây ấn tượng sâu trong tôi về một nhân cách, một bản lĩnh. Tôi rất thú vị chuyện kể rằng: Trên một quãng đường bộ đội hành quân ra trận, con đường gặp một suối chảy ngang không có cầu, ai nấy tự xắn quần lội suối mà đi. Có một anh cán bộ cỡ đại đội tiểu đoàn gì đó) đi giày da, đến bờ suối đứng lay hoay chờ đợi tìm cách qua suối mà không phải cởi giày. Bỗng anh thấy một người mặc áo cánh nâu bạc màu hơi đứng tuổi đến đuổi, khỏe mạnh, vững chắc, anh cán bộ chắc rằng đây là một bác nông dân đi làm nhân công hoặc người địa phương gần đó. Anh ta liền kéo bác nông dân lại nằn nì cậu chịu khó cõng tớ qua suối một tí. Bác nông dân vui vẻ nhận lời ghé lưng vén quần cõng anh cán bộ, lội sang suối. Sang bờ bên kia, ánh cán bộ được đặt xuống, phấn khởi vỗ vai bác nông dân và định cám ơn nồng nhiệt. Nhưng bỗng bác nông dân nắm tay anh cán bộ kéo lại và hỏi giọng nghiêm nhưng không gay gắt:
- Này, cậu biết mình là ai không?
Anh cán bộ ngớ ra và còn chưa kip phật ý về thái độ Không thoả đáng của bác nông dân với một cán bộ chỉ huy, thì bác ta đã nói:
- Mình là Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - lần sau đừng bắt người khác phải cõng nữa nhé!
Câu chuyện chỉ được kể đến thế, tôi cứ tưởng tượng nếu tôi rơi vào tình trạng anh cán bộ kia thì tôi không biết phải xử sự thế nào? Nhưng tôi chắc kỷ niệm đó đối với anh trong cả cuộc đời không thể có lúc phai nhạt được. Cách xử sự của anh Thanh thật độc đáo, anh không từ chối việc cõng anh cán bộ qua suốí, có lẽ anh cũng hồn nhiên, nghĩ ràng giúp đỡ một người theo yêu cầu của anh ta lúc này cũng là bình thường, vì anh không biết mình là cấp trên thì cứ mặc anh ta. Nhưng rồi anh cũng nghĩ rằng cán bộ chỉ huy ra trận mà cứ quan cách, bắt người khác phục vụ mình vô tội vạ thì thật không tốt. Hành động của anh có bài học kép: Một là trong Quân đội Nhân dân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vẫ là một người lao động bình thường có thể làm những việc bình thường: Hai là đã là cán bộ chỉ huy trong Quân đội Nhân dân không được tùy tiện yêu cầu người khác phục vụ mình vô tội vạ. Tôi cho rằng anh cán bộ được cõng kia và mọi người biết chuyện, ai nấy đều phải suy nghĩ về bài học cụ thể nói lên phẩm chất cao quý của Quân đội Nhân dân, chứ không thể chỉ là một cái vật mình choáng váng suốt đời vì tội phạm thượng quá lớn! Đi chiến dịch này tôi đã được cùng đi với anh Thanh một chặng đường dài suốt từ căn cứ Bộ Tổng tư lệnh ở địa phận tỉnh Thái Nguyên đến một huyện phía Nam của tỉnh Phú Thọ ở hữu ngạn sông Hồng. Tôi không có dip hỏi lại anh Thanh xem chuyện kể trên có thực hay không! Rất có thể là một chuyện bịa. Nhưng người bịa chuyện này nhất đinh phải là người nắm vững, hiểu rõ tính cách anh Thanh. Câu chuyện rất Nguyễn Chí Thanh. Nếu đó là chuyện bịạ thì chuyện ấy đã được hư cấu rất nghệ thuật vậy.
* *
Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc 1952, anh Thanh đến kiểm tra công tác ở Sư đoàn tôi. Tôi hướng dẫn anh Thanh đi mấy Trung đoàn, xem xét tình hình ở mấy tiểu đoàn, mấy đại đội. Suốt thời gian anh Thanh ở Sư đoàn, lúc nào tôi cũng ở bên anh. Tôi nhớ lại những ngày đó, với một ấn tượng sâu sắc về phong thái làm việc của anh, cảm kích mạnh mẽ về một tác phong làm việc rất nghiêm túc, rất thoải mái, rất thân tình và chân tình. Anh và tôi đến các đơn vị như đến thăm các gia đình bạn bè quen thuộc. Không một nghi thức gò bó, không có những buổi báo cáo chính thức trang trọng, không có những cuộc xét hỏi gay gắt. Đi đến nơi, gặp cán bộ, chiến sĩ hỏi những chuyện thường ngày, hỏi những điều cần kiểm tra cũng bình thường như hỏi chuyện ăn ngủ.. Kết thúc thời gian kiểm tra, cũng không có cuộc tập họp cán bộ nghe huấn thị - Chỉ có trong bữa ăn cơm cuối cùng trước khi ra về, anh vừa ăn vừa bảo tôi: Này Độ này, tình hình của Sư đoàn khá đấy. Không khí đoàn kết tốt - Cậu có nhiều sáng kiến trong công tác đấy. Mình có cảm tưởng cậu đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ đang en fleur (độ nở hoa). Nhưng trong khi làm việc, cậu nên chú ý có tính kiên trì cao hơn nữa, nghĩa là định ra việc gì cố làm cho đến đầu đến đuôi, đạt được kết quả sau cùng. Không nên cứ tung việc, ra nhiều mà không kiên trì rút cục cuối cùng không thu được kết quả cụ thể gì?, Thế thôi, anh nói bình thản, tự nhiên và thân tình như một người anh bàn chuyện nhà cửa với một đứa em. Nhưng sao những lời đầm ấm và nghiêm khắc ấy tôi nhớ mãi suốt những năm tháng sau đó và cho đến bây giờ, mỗi khi có sáng kiến về một công tác gì tôi lại nhớ hai chữ, kiên trì của anh Thanh. Đối với tôi hai chữ đó nó có ý nghĩa rộng và sâu hơn nhiều. Nó yêu cầu sự nhìn xa trông rộng, yêu cầu sự tính toán kế hoạch? yêu cầu có ý thức về sự nhất quán trong ý đồ công tác, chứ không phải chỉ có ý nghĩa là cố gắng kiên trì một cách bo bo những ý định của mình - Trong đời tôi, tôi cũng được nhiều sự phê bình và góp ý kiến. Nhưng những trường hợp tiếp nhận một ý kiến phê bình rồi ý kiến đó khắc sâu mãi trong tâm trí thì cũng không nhiều.
ở chiến dịch Lào tôi cũng có lần được phê bình như vậy. Nhưng sự đầm ấm chân tình của anh Thanh lay động tôi mạnh mẽ. Anh Thanh không phê bình gì tôi gay gắt, không chỉ ra khuyết điểm gì nặng nề, nhưng lại nêu một ý kiến có tác dụng hướng dẫn sự suy nghĩ của tôi rất lâu dài.
* * *
Những kỷ niệm đằm thắm nhất của tôi với anh Thanh là thời gian chiến đấu ở B2. Trước hết là kỷ niệm về việc chuẩn bị đi B. Hồi ấy vào khoảng đầu năm 1964, trong một hội nghị Trung ương, khi giờ nghĩ giải lao, anh Thanh vỗ vai tôi, kéo tôi đi chơi trong sân và chỉ nói một câu: Này, chuẩn bị đi B nhé!. Tôi cũng trả lời thản nhiên, coi như sự việc không thể nào khác được, vâng, bao giờ đi, anh?. Anh trả lời: Cứ chuẩn bị đi thế thôi. Lúc ấy trong mỗi người cán bộ đảng viên trong Quận đội ở miền Bắc, ai cũng chờ đợi một sự việc thiêng liêng và bí mật, nhưng rất tự nhiên là Đi B. Anh Thanh không hề nói một câu gì giải thích bay phân tích mà chỉ có một câu đơn giản như vậy thôi. Nhưng đối với tôi và đốí với tâm trạng tôi lúc ấy, nó đày đủ ý nghĩa là một sự trao nhiệm vụ long trọng và sâu sắc của Đảng, của cấp trên, đầy đủ ý nghĩa những lời phân tích tình hình và những lời động viên chiến đấy.
Anh Thanh sau này thông báo cho tôi là anh đã chọn một nhóm cán bộ, đủ điều kiện để tham gia việc xây dựng lực lượng vũ tran chủ lực và chỉ huy việc tác chiến tập trung vì tình thế của miền Nam lúc ấy đã đặt vấn đề như vậy. Chúnb tôi hiểu khá rõ và khá sâu sắc nhiệm vụ và sứ mạng của mình không cần có sự giải thích nào khác.
Về mặt riêng tư, khi tôi hỏi ý kiến anh Thanh là nên chuẩn bi để đi như thế nào? ý tôi muốn hỏi nên bố trí một thư ký đi giúp việc không? Thì anh Thanh lại nhẹ nhàng gạt đi và bảo tôi: Đừng chuẩn bị gì cả, mình đã bảo mua cho các cậu mỗi cậu một đồng hồ và một bút máy để làm việc. Còn riêng cậu thì kiếm một máy ảnh thật tốt nhé, Về sau tôi mới biết thêm anh Thanh cũng rất thích chụp ảnh.
Vì điều kiện tổ chức đi, anh Thanh và anh Lê Trọng Tấn đi trước tôi vài tháng, anh Hoàng Cầm và tôi đi sau. Anh Văn Phác cũng vào trước tôi, khi tôi vào đến nơi, đến thẳng địa điểm của Trung ương Cục thì đã gặp anh Văn Phác ở đó. Chúng tôi mừng rỡ gặp nhau. Nhưng anh Văn Phác lại kéo tôi ra ngay một chỗ và tâm sự: Anh Sáu bắt tôi làm bí thư cho anh ấy (anh Sáu là tên bí danh của anh Thanh). Tôi cười bảo Vãn Phác: Thế mà lúc mình hỏi anh ấy có bố trí bí thư đi theo giúp việc không? Thì anh ấy lại không cần
Anh Văn Phác tâm tình thêm với tôi: Anh ấy khôn lắm, anh ấy gọi tôi lên nói gọn lỏn một câu, Cậu làm bí thư cho mình thế thôi, không hỏi ý kiến, không giải thích gì cả. Tôi cứ thế phải tự giác mà nhận nhiệm vụ, giá lúc đó anh ấy lại hỏi ý kiến hay giải thích và tôi được trình bày thì có.. khi tôi không nhận. Nhưng thế này tự mình phải thấy rõ sự cần thiết mà làm thôi. Nhưng tôi chỉ đề nghị anh là tôi xin làm một thời gian thôi, khi anh Sáu tìm được người khác thì cho tôi làm việc khác. Tôi chú ý và nhớ mãi, rất lâu về sau này câu anh Văn Phác khen: Anh ấy khôn lắm - Tôi thấy quả tình anh Thanh khôn thật, nghĩa là anh ấy xử lý rất hợp lý và rất chính xác, đúng như anh Văn Phác đã phân tích với tôi. Thì ra, có những lúc trao nhiệm vụ cho cán bộ không cần nói nhiều, cấp trên cần có sự tin cậy đầy đủ vào trình độ ý thức và sức suy nghĩ của cán bộ, và như vậy lại có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ lên rất nhiều. Những cách xử lý cáa anh Thanh không phải là có một sự, tính toán cụ thể, mà là một cách xử lý tự nhiên hồn hậu, cách xử lý đó là kết quả tất nhiên của một tâm hồn nhân hậu, có tính yêu mến và tin cậy cán bộ một cách sâu sắc.
* * *
Thực tình, tôi không dám tự nhận là bạn của anh Thanh, nhưng những ngày tháng cùng sống và làm việc với anh ở chiến trường 2, tôi thấy thoải mải phấn khởi như sống với một người bạn, tuy rằng tôi công tác dưới sự chỉ đạo của anh. Tôi tâm đắc ở anh nhiều điểm đặc biệt nhất là tôi thấy ở anh một cách tư duy biện chứng khoáng đạt, và sáng suốt: tôi thấy anh một nhà chiến lược bẩm sinh và một phong cách làm việc tiên tiến và ưu việt, một tính tình hồn hậu, quả đoán và tự tin một cách mạnh mẽ
Trong khi chỉ đạo các đơn vị hoạt động, cách tư duy và lòng tự tin của anh truyền cho các cán bộ cấp dưới một quyết tâm và lòng tin tưởng lớn. Có lần, sau khi bàn vớl một số chỉ huy đơn vị về phương thức tác chiến, anh dặn thêm: Các cậu về cứ thế mà làm, hễ không thành công cứ về đây lấy đầu tớ mà chặt. Đó là một câu nói nhuộm vẻ hài hước, nửa đùa nửa thật, nhưng nó biểu lộ một sự tin tưởng vào các ý kiến chỉ đạo của mình hết sức mạnh mẽ. Tôi ngồi tôi nghe mà tự nhiên tôi cũng thấy nâng cao được lòng tin lên rất nhiều. Có những lúc bàn bạc công việc một cách hăng say anh có những ý kiến mà chúng tôi chưa thông lắm, còn muốn cãi nhưng hết gìơ anh hồ hởi nóí Thôi, nghỉ ăn cơm đã, xong rồi tớ cho các cậu tha hồ cãi và các cậu hãy cẩn thận tớ sẽ đập cho các cậu tơi bời và br gẫy vụn các cậu ra cho mà coi. Câu nói đầy vẻ hăm dọa ấy không làm chúng tôi sợ hãi mà ngược lại, gây cho chúng tôi rất nhiều hào hứng tranh cãi và cảm thấy cái không khí tinh thần đồng chí cùng nhau tìm chân lý một cách đầy nhiệt huyết mà lại thân tình. Anh hay nói năng mạnh mẽ, hùng hổ, nhưng không ai thấy sợ anh cả, chỉ thấy thích tranh cãi với anh cho ra nhẽ. Anh không có vẻ gì là cần cù chăm chỉ cả, thỉnh thoảng rỗi việc anh lại rủ chúng tôi: Đi rãy chụp ảnh đi và chúng tôi kéo nhau đi chơi. Nhưng thực ra những lúc ấy anh vẫn đang suy nghĩ với một tinh thần trách nhiệm rất cao, vì có lúc đang đi chơi, đột nhiên anh lại gợi ý hỏi một câu về tình thế chiến lược, hoặc về một công tác nào đó. Anh thường khuyến khích chúng tôi viết bài cho các báo, và bản thân anh cũng luôn viết bài. Những bài bình luận quân sự đầu tiên của anh, anh ký tên Hạ sĩ Trường Sơn có tiếng vang rất lớn ngay. Anh ký đùa là hạ sĩ, còn thật ra các bài của anh đều chứa đựng những ý kiến của một Đại tướng thật sự. Tư duy của anh luôn là tư duy chiến lược. Anh luôn luôn nghiền ngẫm về sự so sánh lực lượng địch ta bằng những con số chiến lược: tổng quân số, tổng số đơn vị, cách phân bổ trên toàn chiến trường, những số liệu về bảo đảm hậu cần trong chiến trường trong từng chiến dịch và trong một năm. Anh tìm ra những tỷ lệ khái quát: ta thương vong một thì địch thương vong bao nhiêu ta mất một súng thì thu được mấy súng. Trong một trận đánh bao nhiêu viên đạn thì ta diệt được một địch. Anh chuyển những con số tính toán ấy thành những câu chuyện hằng ngày và có lúc là những chuyện vui. Ví dụ anh bảo chị Ba Định là cứ mỗi khi có trận đánh, ta tiêu diệt một tiểu đoàm địch, thì chị Ba phải làm khao Bộ chỉ huy Miền một bửa bánh bao, và như vậy một tháng, một năm, ăn bao nhiêu lần bánh bao là ta tiêu diệt bằng ấy tiểu đoàn địch. Mỗi khi anh tìm các số liệu kiểu đó, tôi lại ngạc nhiên, vì anh chưa học về chiến lược quân sự ở trường lớp nào, không biết anh có đọc sách lúc nào không, nhưng tôi chỉ thấy cứ như anh nhắc cho tôi ôn các bài tập về chiến lược mà tôi đã được học ở một lớp trong Viện hàn lâm quân sự của Liên xô.
Tôi nhớ nhất năm 1965 và 1966 khi Mỹ đổ bộ trực tiếp đưa 20 vạn quân vào tham chiến ở Việt Nam, tình thế chiến trường đặt ra một loạt câu hỏi:
- Phải chăng tương quan 1ực lượng đã thay đổi có lợi cho địch (Mỹ - ngụy).
- Phải chăng ta phải thay đổi phương châm chỉ đạo, không thể tiếp tục tấn công mà phải quay về phòng ngự.
- Mỹ nó có hỏa lực mạnh, cơ giới nhiều, biên chế đầy đủ, ta đánh cách nó, có thể đánh tiêu diệt được không?.
Qua nhiều lần trao đổi phân tích, những ý kiến của anh hình thành ra những tư tưởng chỉ đạo rất sắc bén, những ý kiến đó làm bản thân tôi nhận thức được tình thế chiến trường hết sức sáng sủa và tăng quyết tâm, tin tưởng lạ lùng. Những ý kiến đó sau rất nhất trí với nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị. Đó là những ý kiến đại thể:
- Mỹ vào Việt Nam, trong thế bị động, thế thua, tương quan lực lượng không thay đổi căn bản được.
- Do đó ta cứ tiếp tục tấn công, chỉ có tấn công mới tiếp tục giữ thế chủ động và làm cho Mỹ - ngụy bị động, suy yếu
Mỹ có cách đánh của Mỹ, ta có cách đánh của la. Ta phải bắt Mỹ theo cách đánh của ta chứ không để Mỹ kéo ta vào cách đánh của nó.
Cố nhiên trong khi thảo luận, cũng nhiều đồng chí có những ý kiến phong phú, nhưng ấn tượng đọng lại trong tôi vẫn là, những ý kiến đó được xuất phát từ những lời phát biểu đầu tiên của anh Thanh rồi. Chúng tôi phát biểu thêm, bổ sung cho ý kiến hình thành rõ rệt. Cũng dịp này có các chỉ huy đơn vị về họp có nói Xin Quân ủy Miền chỉ các phương châm tác chiến - anh Thanh trả lời đùa mà cũng như thật Phương châm tác chiến nó nằm ở mặt trận ấy, các cậu ra đó mà lấy.
Quả thật sau đó, những khẩu hiệu Vành đai diệt Mỹ, Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh, Mười kinh nghiệm đánh Mỹ của Củ Chi ở chiến trường dội về, chúng tôi phải rất khẩn trương làm việc, phổ biến các kinh nghiệm đó cho kịp thời và rộng rãi. Những tư tưởng chỉ đạo đúng đã khai thác được tiềm năng sáng tạo trong nhân dân và chiến sĩ mạnh mẽ đến như vậy. Cũng trong những buổi đi chơi, đột nhiên anh Thanh lại gọi tôi, nói một câu lửng lơ: Này Độ này, thế mà lại hóa ra hay đấy! Tôi không hiểu, phải hỏi lại. Thì té ra anh lý lại đang suy nghĩ về tình thế chiến lược, anh phân tích Tớ bảo thằng Mỹ đem quân nhảy vào mà hóa ra hay. Ta sẽ nhất định thắng và khi ấy trắng ra trắng, đen ra đen, không nhập nhằng gì nữa. Ta thắng là thắng thẳng thừng với quân Mỹ Nếu nó không vào khi ta thắng, nó lại nói phét là tại quân Mỹ không vào nên Việt cộng mới thắng được. Nay nó đã vào. Ta với Mỹ đã mặt đối mặt rồi nhé Mỹ thua là thua Việt cộng đứt đuôi con nòng nọc, không cãi được vào đâu nhé! Cậu bảo thế chả là hay à?. ý kiến của anh vừa giản dị vừa sâu sắc, nó cũng giảm nhẹ đi rất nhiều những lo âu trong khi tôi phải cùng các anh trong Bộ chỉ huy tính toán bao nhiêu vấn đề để đối phó với một tình thế chiến tranh ngày càng căng thẳng và phức tạp. Tôi cảm thấy đó là một ý kiến độc đáo, rất biện chứng, rất lạc quan anh hùng. Tính lạc quan anh hùng cửa anh rất ồn ào sôi nổi, nhiều lúc giản đơn hóa sự việc đi nhiều. Nhưng cũng rất thú vị. Tôi vừa vào tới nơi hôm trước thì hôm sau anh bảo tội chuẩn bị đi dự Đại hội Thanh niên giải phóng. Anh bảo tôi: Cậu nên đi và cần phải đi, ở đó cậu sẽ gặp những thanh niên anh hùng rất thú vị mình vừa dự Đại hội Phụ nữ, thật là tuyệt vời. Mình gặp một cô nữ du kích ở Trà Vinh - chắc cô ấy cũng sẽ dự Đại hội thanh niên. Rất đặc biệt. Cô ta mới 19 tuổi, người hiền khô (anh bắt đầu nói kiểu Nam bộ), hiền lắm, thế mà đánh giặc 110 trận rồi đó. Napoléon suốt đời đánh có 100 trận mà cô này mới 19 tuổi đã đánh nhiều trận hơn Napoléon rồi. Cậu thấy dân ta có ghê không nào?.
Tôi có gặp cô du kích đó. Cô là Tô Thị Huỳnh, đến năm sau được tuyên dương Anh hừng các lực lượng vữ trang Giải phóng. Tôi hỏi chuyện cô, tôi thấy có những chi tiết không hẳn như anh Thanh nói số trận cô đánh, đánh có nhiều thật nhưng là những trận đánh du kích, một trận vây bót, một trận phục kích bắn một phát cũng là một trận, còn Napoléon, đối với hắn mỗi trận đánh phải kể là một chiến dịch. Còn Tô Thị Huỳnh thì có hiền gì đâu, trôhg cô to lớn lực lưỡng, có đôi mắt sếch rất dữ tướng. Trong đại hội thi đua, cô nghe những thành tích của anh hùng Bi năng Tắc người ở khu 6 (nay là tỉnh Thuận Hải) ăn lá bếp 6 tháng để đánh giặc. Cô rất khâm phục và so sánh như sau: Thành tích của bác Bi năng Tắc mới đáng kể là thành tích, bác gian khổ quá trời, chứ chúng cháu đánh giặc như đi chơi ấy mà, đánh xong về nhà, tối má lại nấu cháo gà cho ăn, thành tích chẳng đáng kể.
Tuy tình hình có như vậy thật, nhưng tôi vẫn thừa nhận về căn bản những nhận xét hào hùng của anh Thanh là sự thật, một sự thật hào hùng của đất thành đồng Tổ quốc. Trong cách phân tích, nhận định tình hình, anh không quan tâm những chi tiết lặt vặt mà anh thường chỉ quan tâm tới những điều cơ bản nhất, bản chất nhất, anh nắm được những cái đó thật nhanh và thật tài tình. Chính vì vậy trong cuộc sống hàng ngày, anh hay bị chúng tôi dùng mẹo: Anh thích đánh tú lơ khơ - Mà tú lơ khơ là một trò chơi phải tính toán vặt. Anh hay bị thua. Nhóm anh đủ một cỗ bốn người để chơi: anh, anh Vãn Phác, đồng chí bảo vệ, đồng chí bác sĩ. Khi tôi khuyên các cậu ấy không nên kéo dài cuộc chơi buổi tối để bảo đảm giấc ngủ cho anh Thanh. Đồng chí bảo vệ nói vui với tôi: Anh yên tâm, chúng tôi đánh bài với anh Sáu, chúng tôi có chính sách cả đấy. Và đồng chí ấy giải thích thêm: Có chính sách nghĩa là hôm nào, anh Sáu làm việc nhiều, mệt mà không dứt được công việc, cứ tiếp tục suy nghĩ, chúng tôi để anh Sáu được nhiều, để anh ấy thoải mái vui vẻ trở lại, còn hôm nào xét thấy cần anh ấy nghỉ sớm, chúng tôi hè nhau đánh cho phe anh ấy thua ba ván liền là anh ấy chán đòi đi ngủ ngay. Cbúng tôi ba đứa hùa nhau cho nên muốn thua, được như thế nào cũng được tất
Tôi có thể tin chắc anh Thanh không hề biết đến mưu mẹo ấy của chúng tôi. Anh rất hồ hởi sòng phẳng trong cuộc sống. Anh thấy chúng tôi tráng phim ảnh, anh cũng tham gia, rồi những khi có ảnh, anh cũng ngồi ôm chậu nước ngắm ảnh để bình luận, khen chê, say sưa. Có lần in được mấy ảnh do anh chụp, khi có ảnh, anh gọi anh em lại bên và chìa tấm ảnh ra hỏi: Thế nào? được không? tất nhiên các anh em đều khen đẹp. Đến lượt tôi được hỏi, tôi cũng lấy cái tính sòng phẳng của anh và trong khi vui vẻ, tôi cũng có ý muốn trêu tức anh xem sao, tôi trả lời: Cũng xoàng anh buồn xỉu ngay. Nhưng rồi anh không hề giận tôi và từ đó lại tỏ ra hay hỏi ý kiến tôi về ảnh hơn. Một lần tôi giới thiệu với anh một cách chi tiết cụ thể nguyên lý cấu tạo ống kích máy ảnh. Anh rất thú vị khen tôi trình bày dễ hiểu, cụ thể làm anh nắm được kiến thức rất nhanh và rõ. Nhưng rồi sau đó anh quên ngay vì tôi biết anh còn mãi nghiền ngẫm những tính toán chiến lược của anh, anh không thể quan tâm ghi nhớ những điều chi tiết về kỹ thuật của một môn chơi như vậy được. Tôi để ý thấy khi họp, hoặc khi nghe báo cáo ít khi thấy anh ghi chép cẩn thận, sổ công tác của anh thường còn rất nhiều giấy trắng. Ngồi nghe, anh hay lấy một, hai tờ giấy trắng và vừa nghe anh vừa vẽ những hình thù rất khó hiểu lên những tờ giấy đó. Hình như mỗi điều gì anh nghe được phải biến hóa ngay thành những suy nghĩ của anh để anh phát biểu. Anh nghe không phải để ghi nhớ những điều nghe được, mà anh nghe để anh lại bật ra những suy nghĩ khác trong đầu. Tôi cho rằng anh rất năng động và có một cách tư duy luôn độc lập và sáng tạo. Lúc anh phát biểu, anh cũng cứ cầm bút vạch đi vạch lại trên giấy trắng, tô lại nhiều lần những đường nét anh đã vạch ra trước đó. Cứ như là ở đó hiện lên những dòng chữ, anh cần đọc nó để phát biểu vậy. Trong cặp anh luôn có một tập giấy chứa đựng những điều trong một bài anh đang viết dở. Tôi rất yêu tâm hồn anh, anh luôn luôn say mê, ồn ào và dứt khoát. Anh luôn độc lập suy nghĩ nhưng không hề bài bác những ý liến khác anh, anh luôn kiên trì ý kiến, nhưng rất sẵn sàng tuyên bố rút lui ý kiến khi anh thấy ý kiến ấy không đứng vững. Anh giữ ý kiến hay rút lui ý kiến cũng đơn giản dứt khoát và hồn nhiên, không có gì phải quanh co, phải tránh né. Tôi rất yêu anh ở chỗ cách sống của anh rất hồn hận và hài hòa. Cách tư duy biện chứng của anh giúp anh giải quyết rất hài hòa, rất đẹp những mặt mâu thuãn trong cuộc sống của anh với nhiều vai trò xã hội khác nhau. Anh nhận rõ trách nhiệm lãnh đạo cao của anh nhưng không bao giờ anh tỏ ra phải nhấn mạnh đến uy thế của cương vị anh trong cử chỉ, trong ăn mặc cũng như trong đối xử. Anh rất có ý thức về uy tín của anh trong lĩnh vực tư tưởng - nhưng anh lại không muốn mọi người tiếp thu tư tưởng của anh một cách thụ động, miễn cưỡng. Anh muốn mọi người sẽ được sự thuyết phục đầy đủ những lư tưởng của Đảng của anh. Có lần anh đến nói chuyện ở một Hội nghị cán bộ, khi anh bước lên diễn đàn. Mọi người rào rào dở sổ, xấp bút để chờ ghi chép anh cười vui. Tôi nói, các đồng chí cần chú ý nghe và suy nghĩ tốt hơn là cấm cúi ghi, rồi anh chứi thề: Tôi thề này: Đ... mẹ thằng nào ghi đấy nhé! Ai nấy cười ồ ồ, nhưng rồi cả Hội nghị có một sự châm chú khác thường.
Làm việc dưới sự chỉ đạo của anh, tôi còn tâm đắc điều này: Cách làm việc của anh tạo cho cấp dưới phát huy khả năng sáng tạo và nâng cao tinh thần trách nhiệm, biết rõ ý thức trách nhiệm về những quyết định của mình, không ỷ lại, không dựa dẫm. Một lần, Quận ủy Miền có quyết định chủ trương xây dựng Chi bộ 4 tốp trong các lực lương vũ trang. Sau khi có Nghị quyết chủ trương, tôi bàn với các anh ở Cục Chính trị Miền, vạch một kế hoạch để thi hành quyết định đó. Khi có kế hoạch rồi, tôi báo cáo xin anh bố trí thời gian để chúng tôi trình bày và anh góp ý kiến. Anh liền gạt đi mà bảo rằng: Thôi việc đó là thuộc chức trách các cậu. Các cậu nghĩ gì cứ làm vậy rồi rút kinh nghiệm sau. Việc gì các cậu cũng cứ báo cáo trình bày chờ ý kiến mình, thì các cậu đâm ỷ lại ra. Sau đó anh nói như tâm tình tiếp: Thật ra, chúng mình làm việc, mỗi người có những mặt mạnh yếu khác nhau, mỗi người có một quá trình tích lũy riêng. Các cậu ở đơn vị dưới đã lâu có khi về khả năng suy nghĩ tổ chức thực hiện những việc cụ thể, mình không bằng các cậu đâu, trong khi bàn về những chủ trương chung mình, đã phát biểu hết ý kiến các cậu nhất trí tán thành nghị quyết của tập thể là được. Sau đó chính là trách nhiệm các cậu phải triển khai thực hiện, đừng chờ đợi mình nữa. Từ nay cứ thế mà làm! Tôi nghiệm ra ý kiến của anh rất chính xác. Nghe anh nói như vậy, tự nhiên tôi thấy tôi có trách nhiệm nặng hơn, phải suy nghĩ, cân nhắc nhiều hơn và cũng tự tin hơn, yên tâm hơn.
Sau này trong nhiều việc khác, có khi hỏi anh, hoặc có khi tôi tranh thủ chủ động báo cáo với anh. Nhưng về những việc trong phạm vị trách nhiệm của tôi, tôi cảm thấy anh không bao giờ anh bác một ý kiến nào? Phần lớn là anh nghe, chấp nhận và im lặng, coi như để biết vậy thôi, thỉnh thoảng anh khuyến khích và tán thưởng một vài việc.. Năm 1965, chúng tôi tổ chức Đại hội mừng công toàn Miền lần thứ 1, để tuyên dương anh hùng các 1ực lượng vũ trang Giải phóng. Trong việc chuẩn bị, anh tham gia rất sát với chúng tôi, từ việc hướng dãn địa phương báo cáo, nghe các chiến sĩ thi đua báo cáo thành tích, bầu tiêu chuẩn, tuyển chọn cụ thể, viết bản tuyên dương, định kế hoạch và làm việc với văn nghệ sĩ để viết các chuyện anh hùng v. v... Anh đều tham gia tích cực và có tác dụng hướng dẫn cả một tập thể cơ quan chính trị rất có hiệu quả.
Anh đặc biệt chú trọng cùng chúng tôi duyệt văn bản tuyên dưdng trong đó tóm tắt thành tích các anh hùng, vì bản này rất khó viết. Làm sao thật ngắn gọn mà nổi bật được những thành tích nói lên, bản chất anh hùng của chiến sĩ mà không khoa trương thổi phồng, lại có giọng văn cổ vũ lòng người. Làm xong Đại hội, anh khen ngợi ban tổ chức trong không khí thân tình: Các cậu bây giờ khá thật, lần đầu tiên t[r chức một Đại hội anh hùng mà ta làm được khá chu đáo tốt đẹp. Như vậy là giỏi lắm. Trong thời kháng chiến chống Pháp khi mình phải chịu trách nhiệm tổ chức Đại hội anh hùng ở Việt Bắc mình cứ búi sùm sùm, bao nhiêu là cố vấn giúp đỡ mà còn vất vả trầy trật. Sau Đại hội này các cậu có thể tổ chức các Đại hội khác không khó khăn gì.
Thật vậy, sau đó, năm 1970, chúng tôi tổ chức Đại hội anh hùng lần thứ hai, và 1973 tổ chức Đại hội anh hùng lần thứ ba, chúng tôi coi như đã có bài bản, kinh nghiệm triển khai việc chuẩn bị và tổ chức bình tĩnh yên tâm hơn, không có vấp váp gì. Những đại hội sau anh Thanh không còn nữa. Nhưng chúng tôi làm việc vân còn cảm thấy như vẫn còn anh Thanh gần đó, vẫn là chỗ dựa cho chúng tôi và chỉ dẫn chúng tôi.
Tôi tâm đắc điều đó mãi đến bây giờ, và tôi vẫn cho rằng anh Thanh có một phong cách làm việc tiên tiến và ưu việt, nó mang tính khoa học sâu sắc và có rất phù hợp với yêu cầu hiện nay. Phát huy tinh thần làm chủ tập thể của từng cấp, phát huy tinh thần trách nhiệm của các cấp để nâng cao tính chủ động, sáng tạo, độc lập suy nghĩ của các cấp, khắc phục được lính ỷ lại của cấp dưới và tính bao biện áp đặt của cấp trên. Chính nhiều văn kiện của Đảng hiện nay đang yêu cầu xây dựng một phong cách làm việc như vậy. Phong cách đó phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa. Anh Thanh sớm có phong cách ấy vì vậy anh Thanh rất tiên tiến vậy.
Bây giờ chúng ta có 40 năm lịch sử Quân đội và 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy. Chúng ta cũng có bằng ấy năm để mà thấy được bao nhiêu điều tốt đẹp về những con người anh bộ đội, Hiện nay chúng ta có những ANH Bộ ĐộI, là những vị tướng mà tuổi quân chiếm một nửa hoặc hai phần ba cuộc đời. Cũng có những anh bộ đội mà tuổi đời mới bằng trên dưới một nửa tuổi của quân đội. Có những binh đoàn có thể có anh bộ đội, ông chỉ huy, anh bộ đội cháu, anh bộ đội Bộ chỉ huy anh bộ đội con.
Thế mà hồi ở B2, các cô cậu chiến sĩ giải phóng cứ kêu chúng tôi là mấy chú, chúng tôi cứ uốn nắn mãi, dở cả các bài bản chính qui ra để uốn nắn, cũng không được. Rồi về sau, chính chúng tôi cũng kêu cả chiến sĩ là mấy đứa một cách ngon lành, vui vẻ. Cuộc đời hơn 30 năm trong quân đội của tôi đầy ắp kỷ niệm sâu sắc.
Tôi được tiếp xác với nhiều bậc đàn anh đáng kính. Các anh đã để lại cho tôi biết bao nhiêu bài học của cuộc đời cách mạng. Nhưng dịp này tôi thích chọn kỷ niệm về anh Thanh mà ghi lại. Bởi vì tôi rất yêu anh. Bởi vì trong cương vị của anh, cái phẩm chất Anh bộ đội Cụ Hồ biểu hiện ra trong qui mô chiến lược, trong những mối quan hệ lớn hơn, nhưng nó vẫn thắm đượm nhưng gì gần gũi, bình dị. Cái xuất sắc và cái đẹp của anh biểu hiện ra trong những cái bình dị, và một cách bình dị. Tôi cứ tưởng tượng nếu anh là một cán bộ trung đội, đại đội, hoặc cán bộ trung đoàn, sư đoàn, anh cũng sẽ sống và làm việc như vậy, anh sẽ giải quyết các nhiệm vụ công tác và chiến đấu của anh như vậy thôi, nghĩa là trung thực, quyết liệt, hồn hậu, nhân ái năng động sáng tạo và nhất là biện chứng.. Nhân cách và tâm hồn anh rất đẹp. Vì vậy. tôi phải dùng chữ ANH Bộ đội viết hoa để nói về anh, một anh bộ đội Cụ Hồ thật sự..
Tôi xin thắp nén hương tựởng nhớ anh, anh Nguyễn Chí Thanh ANH bộ Đội viết hoa của tôi!
ANH đại TướnG.
(Nói với hương hồn anh Lê Trọng Tấn)
Anh Tấn ơi,
Hôm nay anh được đưa đến chỗ an nghỉ cuối cùng. Tôi không thể không nghĩ đến anh, nghĩ về anh. Tôi đã viết nhiều bài về Anh bộ đội, kể cả nói về anh Nguyễn Chí Thanh. Nhưng nay nghĩ tới anh, tôi lại muốn nói về một anh đại tướng. Tôi nói thế, không phải vì anh là Đại tướng. Trong chữ Anh Đại tướng của tôi có hai yếu tố, yếu tố Anh và yếu tố đại tướng - cả hai yếu tố đó thống nhất trong một con người - nhưng tôi muốn nói về Anh nhiều hơn về Đại tướng. Và dù cho có nói về một Đại tướng, vị Đại tướng, dù anh đã thọ ngoài 70 tuổi, thì anh vẫn là Anh Đại Tướng. Anh đã dành gần như toàn bộ cuộc đời trong Quân đội, và có mặt hầu hết ở các chiến trường trên đất nước Việt Nam và ở các nước ở bán đảo Đông Dương, anh đã góp phần xứng đáng vào các chiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam, và vì vậy anh đã là một Đại tướng., Nhưng trong anh, có một Anh, với ý nghĩa là một con người đáng yêu và tôi thực sự yêu quý cái Anh ấy trong anh. Và cái đó quý hơn nhiều thứ ở đời.
Tôi với anh rất nhiều duyên nợ, rất nhiều cùng - Tôi với anh cùng chỉ huy và xây dựng Trung đoàn Sông Lô, cùng xây đựng Đại đoàn rồi. Sư đoàn 312, Sư đoàn mang một tên rất đáng tự hào Chiến thắng - Tôi với anh cùng nhau đi chiến dịch biên giới, trung đu, đường 18, Nghĩa Lộ, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ, đã trải qua những giờ phút hào hùng của thắng lợi và giờ phút đắng cay của thất hại. Rồi anh lại cùng tôi trong một tổ học tập ở Học viện Quân sự cao cấp ở Liên Xô, công nhau đi B, cùng nhau ở Bộ chỉ huy Miền và quân ủy Miền, cùng nhau đi chiến dịch Đồng Soài, cùng nhau nhận huân chương Quân Công sau kháng chiến chống Pháp, sau kháng chiến chống Mỹ.. Những cái cùng nhau ấy để lại trong tôi bao kỷ niệm đẹp đẽ và sâu sắc cũng như những ấn tượng thú vị về con người anh.
Chúng ta đã cùng nhau chia sẻ nắm cơm với muối vừng trước trận Đông Khê và cùng nhau uống rượu chiến lợi phẩm sau trận biên giới.
Chúng ta đã nằm cùng một sàn, đắp cùng một chăn và gửi lưng vào lòng nhau, hô một hai để cùng trở mình trong những đêm giá lạnh dưới chân núi Ba Vì, cùng nhau ngồi một thuyền vượt Sông Đà ở Tây Bắc để đánh Bản Hoa và Ba Lay, cùng nhau ăn củ chuối và nõn chuối trong cuộc truy kích địch. ở Cao Pho, cùng nhau đánh Tú lơ khơ trong những đêm hành quân dài dằng dặc. Tôi lại cùng anh có những cuộc hành quân liền 36 tiếng đồng hổ, bắt vắt cho nhau trên địa bàn khu 6, cùng ăn thịt voi ở trước trận đánh Đồng Soài. Chúng ta chưa bao giờ nói với nhau những lời to tát và hoa mỹ về tình yêu, tình bạn và tình đồng chí, nhưng chúng ta đã đi với nhau bằng ấy chặng đường trong sự tôn trọng, thương yêu và chăm lo nhau thật lòng. Chúng ta cũng chưa hề tỷ tê với nhau những nổi niềm riêng tư, nhưng chúng ta đã bao lần trao đổi với nhau về từng nhiệm vụ, từng công lác, từng tình thế cách mạng và tình hình quân đội, trong trường hợp cán bộ và chiến sĩ có vấn đề trong đơn vị. Và hầu như chẳng bao giờ anh với tôi phải tranh luận, phải cãi nhau. Tôi thấy tôi không cố điều gì phải phàn nàn về anh, cũng như chắc anh cũng chưa bao giờ phải phàn nàn với ai về tôi. Tuy rằng tính nết ta khá khác nhau. Anh nóng nảy nhưng cũng còn ít nóng hơn anh Vương Thừa Vũ, anh khẩn trương vì anh là chỉ huy quân sự, còn tôi thì ôn hòa, thường hay chậm chạp. Anh thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, ít nói, ít cười, tôi thì nhiều ham say văn chương nghệ thuật, hay cười hay nói. Anh biết tôi vậy và tôi cũng biết anh vậy và hai đứa mình hoàn toàn trọng nhau, ủng hộ nhau trong cách sống. Tôi với anh cùng nhất trí tổ chức cuộc họp tâm sự khi mới thành lập Đại đoàn, cùng tích cực tự phê bình sau chiến dịch đường 18 và nhất là sau chiến dịch Lý Thường Kiệt, đánh Nghĩa Lộ không xong. Ta xác định được trách nhiệm của Đại đoàn, cùng với trách nhiệm các Trung đoàn, vì vậy ai nấy nhận phần trách nhiệm của mình và thực hiện được điều Thắng không tranh công, thua không đổ lỗi,
* *
ấn tượng của tôi về anh là ấn tượng về một con người nhân hậu và trung thực. Và tôi mơ ước biết bao để người ta có thể sống với nhau nhân hậu và trung thực. Tôi biết rõ tính nóng của anh và tính ghê gớm hơn của Vương Thừa Vũ. Nhưng đó là cái nóng nảy của người có trách nhiệm và đặc biệt là của người nhân hậu. Nóng giận vì công việc, vì kỷ luật, chứ không phải để làm oai, để biểu dương quyền lực. Tôi còn nhớ anh Vũ đánh một chiến sĩ vô kỷ luật lấy ngựa của anh ấy đi chơi. Nhưng đánh xong, anh lại làu bàu bảo cậu chiến sĩ như bố nói với con. Còn ngồi đấy hả! - Vào ăn cơm đi! Còn anh, trong chiến dịch biên giới, chúng ta rất thú vị vì lần đầu tiên được chỉ huy bằng điện thoại. Thế mà cái lúc khẩn trương vây đánh Charton, anh cầm máy nói, bị đứt liên lạc anh quát mắng anh em thông tin ầm ỷ lên rồi anh giơ cao cái tổ hợp định đập nó vào một tảng đá trong hang, nhưng anh giơ tay thật cao, xong anh lại hạ từ từ và thả nhẹ cái tổ hợp lên một lùm cỏ. tôi vừa buồn cười vừa yêu, anh giận mà vẫn khôn, vì anh biết ta còn quá nghèo, đập một máy nói thì tai hại bao nhiêu. Anh Vương Thừa Vũ cũng có lần chụp ảnh cứ bị mắc phim, giận quá đem đập cái máy ảnh vào... chăn bông. Anh với tôi tự nhiên phân công nhau, mà không cần văn bản, không lên nghi quyết, không cần thảo luận. Khi có nhiệm vụ chiến dịch, tự nhiên anh lo tổ chức trinh sát và chuẩn bị chiến trường, vạch kế hoạch hành quân, còn tôi lo chỉ đạo tổ chức hành quân, kiểm tra và bảo đảm hậu cần. Tôi thường nhớ mãi mỗi khi sau trận đánh, tôi tự động lên việc chấn chỉnh tổ chức, bổ sung vật chất, anh tự động lo tổng kết kinh nghiệm và chuẩn bị kế hoạch cho trận đánh sau. Không bao giờ chúng ta có ý kiến khác nhau về cách đánh. Nếu tôis không có ý kiến thì ý kiến của anh cũng là ý kiến của cả hai người và ngược lại.
Anh nhân hậu và trung thực, nên tâm trí anh có thể chứa đựng được tâm trí tôi, tâm trí anh luôn mở rộng để đón nhận tâm trí tôi. Cũng như tâm trí tôi cũng sẵn sàng hấp thụ được tâm trí anh. Rất khó nói được rằng tôi học được ở anh cái gì vì những ý nghĩ hay của anh tự nó biến thành của tôi tự bao giờ, không ai hay. Ta nghe nhau thì đầu óc ta thêm giàu có
Chúng ta khác nhau khá nhiều về tính cách nhưng trong mỗi chúng ta chỉ cháy bỏng một ngọn lửa: Lòng yêu nước, ý chí trung thành với cách mạng. Mục đích cuộc sống của anh và của tôi chỉ là một. Chúng ta đánh giặc mà không hề nghĩ rằng mình sẽ làm tướng, cho dù bây giờ anh là Đại tướng. Chúng ta làm tướng để đánh giặc, chứ không phải đánh giặc để làm tướng. Và đó là điều gắn bó anh với tôi, không có sức mạnh và trở ngại nào phá vỡ nổi sự gắn bó đó.
Chúng ta sống với nhau tự nhiên, hồn hậu không cần phải bàn luận và nói nhiều điều to lớn về đoàn kết..
Nghĩ đến đây, tôi bỗng thấy mình ngớ ngẩn mà tự hỏi mình rằng Tại sao có những người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận được những ỷ tưởng, thậm chí quan điểm khác nhau và cả những điều khác nhau trong cách sống. Người ta phải gào to lên: Đoàn kết! mà thật sự lại sống với nhau không đoàn kết. Phải chăng người ta có thể tự tin và có ý tưởng và phương pháp của mình, cho nó là đúng nhất, là duy nhất cần thiết cho mục đích của cách mạng mà không chấp nhận bất cứ ý kiến nào khác. Nếu họ thành thật nghĩ như vậy thì có thể cho rằng đó là cách nghĩ ngu ngốc nhất. Còn nếu không thì hẳn là phải có những động cơ cá nhân rất xấu xa, tồi tệ mà họ không dám nói ra, không dám thừa nhận.
Và khi người ta đã có những động cơ xấu xa, người ta không từ bỏ một thủ đoạn hiểm độc nào kể cả thủ đoạn lừa lọc, cạm bẫy nhau và vu cáo, xuyên tạc v.v... Đó là một nỗi đau cho mỗi chúng ta. Chúng ta đã không như vậy - Và chúng ta có quyền tự hào về điều đó. Tôi nhớ lại và cảm thấy thật sự có hạnh phửc khi cùng sống, cùng công tác với anh. Điều đó có được là nhờ ở bản chất nhân hậu trung thực của anh. Qua anh, tôi nhìn rõ được tôi là tôi cần phải cảm ơn anh và vui lòng vì không đến nỗi phải xấu hổ với anh... Anh và tôi cùng các đồng chí trong Đảng ủy Sư đoàn tạo cho Sư đoàn được truyền thống đoàn kết. Chiến thắng và Đoàn kết. Anh và tôi cũng có những bạn chiến đấu tuyệt với như Nam Long, Hoàng Cầm, Lê Thùy, anh và tôi cùng nhau thương tiếc Thiết Cường, Thăng Bình. v.v...
Chúng ta không cần nói với nhau về tình người. Nhưng chúng ta ăn ở với nhau như những con người trung thực.
* * *
Anh Tấn ơi,
Có lẽ anh không biết những điều này. Khi tôi còn làm chủ nhiệm báo Vệ Quốc Quân, một lần được dự nghe anh báo cáo sau chiến dịch Lê Lợi của anh ở Suối Rút. Tôi thèm cuộc sống chiến đấu, tôi thú vị mãi hình ảnh của anh, một người chỉ huy chiến trường báo cáo. Thế rồi tôi bộc lộ nguyện vọng muốn ra đơn vị chiến đấu. Về ngay trung đoàn 209 làm Chính ủy để đỡ cho anh một nhiệm vụ mà anh phải gánh vác kiêm từ trước. Ngay từ bữa đầu anh đã cho tổ chức đón tôi trong bữa họp thân mật có liên hoan văn nghệ: mọi người nhảy múa xòe Thái Sơn La, tôi còn nhớ có cả Lê Linh Hùng Tráng, Phi Hùng, rồi ngay sau đó, anh đưa tôi đi thăm các đơn vị xem một đơn vị diễn tập đánh đồn bằng nằm bò ra sát hàng rào lông nhím của đồn địch và chặt rào bằng dao rựa. Anh giới thiệu với tôi một cách hào hứng về trình độ chặt rào của anh em công binh. Quả thật lúc ấy tôi thấy hơi thất vọng với cái thô sơ quá đỗi của quân ta, nhưng tôi vẫn hào hứng cùng anh.
Mười năm sau ấy, khi học tập ở Liên Xô, có lúc làm bài tập, anh đóng vai Tham mưu trưởng Tập đoàn quân, tôi đóng vai Chủ nhiệm pháo binh, tôi còn nhớ lại cái cảnh chặt rào năm trước. Tôi nhớ mãi anh hay nói có phỏng?. Cái lần vượt sông Đà ở gần núi Chẹ, nơi mà Nguyễn Bàng hy sinh, nơi mà Bạch Đăng Hội đón ta ở bên kia sông, lúc đó pháo sáng địch bắn liên hồi, anh thì cứ sốt ruột gặp thuyền nào cũng muốn kéo tôi sang ngay và luôn mồm có phỏng? Ta sang đi, có phỏng?. Còn tôi thì vẫn cứ thong thả chờ anh em xếp thuyền nào thì đi thuyền đó.
Lại có lần trong chiến dịch Tây Bắc, anh với tôi đến một bản Mèo trước khi đổ dốc xuống La Hầu Peng và về cách đồng Mậm Mười, ta gặp đội trinh sát Sư đoàn tới anh em cho ta ăn một bữa ngô luộc. Anh hỏi tình hình địch mà vẫn cứ luôn mồm có phỏng?.. Anh với tôi hay trao đổi nhận xét anh em cán bộ trong đơn vị. Chưa bao giờ chúng ta phái bực bội về một ai, có những cậu chày bửa không chịu công tác, nói năng lung tung, khi gọi đi học chỉnh huấn, còn lẩy Kiều thách thức:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân.
Thử xem chính ủy xoay vần ra sao?
Có cậu ruồng rẫy vợ một cách vô lý. Chúng ta chỉ cười, cùng thương anh em, cùng bàn cách vun đắp cho anh em. Tôi cũng không biết tôi bị ảnh hưởng của anh, hay anh bị ảnh hưởng của tôi. Chỉ nhớ rằng về những việc như vậy, ta không bao giờ cãi cọ nhau. Cũng có những thời gian xa nhau, tôi theo dõi tin anh khi thấy anh ở chiến trường này, lúc thấy anh ở chiến trường khác, anh luôn là một tướng chỉ huy nhiều khả năng được tin cậy ở nhiều mặt trận.
Năm ngoái ( 1985) chúng ta cùng về kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Sư đoàn, ta gặp lại nhiều cán bộ cũ. Sư đoàn ta có đến nấy chục người cấp tướng đủ cả thiếu, trung, thượng, đại... Anh em Sư đoàn đã rất tự hào có anh là người Sư tưởng thân yêu đầu tiên của anh em, nay có trách nhiệm lớn trong toàn quân đội.
Chúng ta ngậm ngùi thương tiếc bao đồng chí đă không còn. Nhưng chúng ta cũng nói vui: chúng ta còn sống nhiều, và lại còn sống dai nữa. Thế mà bây giờ anh lại không còn.
Tất nhiên anh đã hưởng thọ kha khá, nhưng anh mất đi đột ngột quá, và vào cái lúc rất không nên vắng mặt. Thế mà anh lại đi đến với Bác Hồ một cách bất ngờ quá! Cũng gần sắp đến ngày kỷ niệm Quân đội và kỷ niệm thành lập Sư đoàn rồi đấy Anh Tấn ơi! Anh đã sống rất đẹp. Cái đẹp ấy không phải chỉ ở những chiến công, ở quân hàm Đại tướng và ở những huân chương.. Anh sống đẹp vì anh đã có tinh thần trách nhiệm cao, anh tận tụy hoàn thành các nhiệm vụ, anh được nhiều người yêu mến, tin cậy. Anh không phải bực mình vì ai không phải ghét ai, mà anh chỉ có tôn trọng và thương yêu. Cái đẹp ấy của cuộc đời anh để lại là quý giá vô cùng. Tôi rất hạnh phúc được sống lại những kỷ niệm với anh. Và đó là một hạnh phúc, một niềm vui chân chính. Nó giúp ta vượt qua được nhiều nỗi quay quắt, ô trọc trong cuộc sống hôm nay. Những kỷ niệm đã qua bây giờ bỗng lại trở thành mơ ước cho cuộc đời.
Cuộc đời còn muốn anh sống thêm nữa, cũng như cuộc đời đã thương tiếc bao người đã ra đi. Nhưng anh có thể hoàn toàn yên lòng mà nghỉ ngơi và báo cáo với Bác Hồ. Anh mất đi nhưng những gì anh làm được, những gì anh có được, là những giá trị cao đẹp của cuộc đời này. Không còn được gặp anh nữa, không còn có được những giờ phút tâm tình nữa, tôi muốn có vài dòng tâm tình này với anh và với nhiều người.
Chị BA, Cô bA, Bác BA, Bà bA
Đó là cách gọi chị Ba Nguyễn Thị Định, tùy theo vị trí và lứa tuổi trong gia đình hoặc ngoài xã hội. Chị Ba là con út trong gia đình. Tôi thấy các cháu chị gọi chị là Cô út, Dì út nhưng khi chị đi làm cách mạng thì chị lại nhận một thứ: đó là thứ ba..
Phong tục ở Nam Bộ là gọi nhau bằng thứ chứ không gọi tên. Vì vậy chỉ cần gọi Chị Ba, Cô Ba... là người ta biết ngay đó là Nguyễn Thị lịnh. Sau khi nước nhà thống nhất, người miền Bắc nói đến chị, mới nói đầy đủ Ba Định. Nhưng cũng rất nhiều người chỉ nói chị Ba, cô Ba, Bác Ba và các cháu nhỏ thì Bà Ba với một sự trìu mến kính trọng. Ba đã thành một tên không phải chỉ là tên người cụ thể, mà là tên của một cuộc đời đấu tranh, tên một phẩm chất, một tấm lòng và một tâm hồn. Hôm nay với Chị, tôi cũng nhắc đến chữ Chị Ba với ý nghĩa như vậy.
Tôi được biết chị từ đầu năm 1965. Lúc ấy tôi vừa chân ướt chân ráo vào đến chiến truờng, gặp anh Nguyễn Chí Thanh (Anh Thanh cùng nhóm với tôi, nhưng vào được trước mấy tháng cùng anh Lê Trọng Tấn). Anh Thanh với tính cách sôi nổi và hồn nhiên, trong những câu chuyện đầu tiên, nói về Đại hội phụ nữ mới họp. Anh nói đến Đại hội phụ nữ để yêu cầu tôi phải thu xếp dự Đại hội Thanh niên sắp họp. Trong những câu chuyện về Đại hội Phụ nữ, anh hết lời ca ngợi phụ nữ Miền Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng, anh nhấn mạnh tới ba phẩm chất đặc biệt của Phụ nữ Miền Nam: anh hùng, trung hậu, đảm đang. Anh rất hào hứng nói về các đại biểu dự Đại hội và đặc biệt nói nhiều về Chị Ba và nữ du kích Tô Thị Huỳnh (sau được tuyên dương anh hùng). Lúc ấy, Chị Ba đã gắn chặt với phương thức đấu tranh Đồng Khởi, ba chân hai mũi, Ba mũi giáp công. Tất nhiên không phải một mình chị là tác giả của các khái niệm vừa kể, nhưng tự nhiên tên tuổi chị gắn chặt với nó, vì chị đã sống trong thực tiễn đấu tranh của mấy phương thức đó và vì chị thuyết minh về những phương thức đó một cách rất sinh động và hấp dẫn. Anh Thanh nói về Tô Thị Huỳnh một cách ngây thơ thú vị, tôi còn nhớ anh nói: Huỳnh 19 tuổi, đánh 101 trận hơn Napoléon vì Napoléon đánh có 1l trận, Huỳnh hiền khô và rất dễ thương. Anh bảo tôi nhất thiết phải dự Đại hội Thanh niên để được gặp chị và Tô Thị Huỳnh là những nhân vật anh hùng có thật của cuộc chiến tranh, mà chúng tôi chỉ mới nghe nói. Tôi nói anh Nguyễn Chí Thanh ngây thơ là vì khi tôi gặp Tớ Thị Huỳnh thì thấy Huỳnh không hiền khô mà là một nữ thanh niên to lớn, trông hơi dữ tướng và so sánh Huỳnh với Napoléon là quả khập khiểng vì Napoléon đánh 11 trận là 11 chiến dịch tầm cỡ quốc gia. Còn Huỳnh đánh 101 trận là kể cả những trận bắn vài phát đạn quấy rối một đồn địch, rồi về ăn cháo gà. Khi Đại hội chiến sĩ thi đua, Huỳnh nghe thành tích của anh hùng Bi Năng Tắc ở khu 6 ăn lá bếp 6 tháng để đánh địch, Huỳnh bảo các chú đánh giặc chi mà cực quá trời. Chúng chấu đi đánh giặc, mẹ ở nhà nấu cháo gà chờ về ăn. Chú Tắc mới thật là anh hùng. Còn chị thì đúng như anh Thanh nói: khoẻ mạnh, hoạt bát và nhanh nhẹn.
* * *
Thế là sau đó chị đã là Phó Tư lệnh Miền của Quân giải phóng, phụ trách phong trào du kích, với tất cả những sắc thái phong phú và mới mẻ của nó mà chị là một tư lệnh địa phương giàu kinh nghiệm. Những năm tháng chị công tác ở Bộ Tư lệnh Miền có rất nhiều kỷ niệm. Tôi không muốn nói nhiều về nội dung công tác, tôi muốn nhớ nhiều đến những kỷ niệm. Chị ở Bộ Tư lệnh Miền, vừa là một vị tướng du kích, nhưng cũng có vai trò một người chị, một người mẹ ở cơ quan. Chị theo dõi phong trào với tính cách rõ rệt một người dân Bến Tre và một phụ nữ. Tôi còn nhớ rõ sự bộc lộ những xúc động rất sôi nổi của chị khi quê hương Bến Tre có một thành tích, một chiến công hoặc một khó khăn mới nảy sinh. Chị cũng sôi nổi như vậy khi trên khắp đất nước có một chiến công, một thành tích nào của một đơn vị hay một người du kích nữ, dù đó là đơn vị ở Quảng Nam Đà Nẵng, ở Long An hay ở Châu Đốc. Chị không thể quên nhắc cơ quan xét thành tích và đề nghị khen thưởng, và chị không ngớt bình luận về tài năng quân sự của các nữ du kích. Tôi còn nhớ chị bình luận rất nhiều về một tấm ảnh đội nữ pháo binh địa phương, trong đó có khẩu đội trưởng đang chỉ mgón tay làm động tác chỉ huy. Chị không ngớt khen ngợi bàn tay đó với ngón chỏ cong cong vì chị cho là tuyệt vời. Trong các hội nghị tổng kết chiến tranh du kích và các đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua. Chị đặc biệt ân cần đối với các nữ đại biểu. Chị hầu như thuộc lòng các bản thành tích và lý lịch của các nữ du kích. Chị chăm lo việc tặng cho các chiến sĩ đó những món quà thiết thực trong chiến đấu như súng ngắn, tiểu liên nhẹ, vải ngụy trang, vải mưa. Chị còn quan tâm đến cả những trắc trở trên đường đời riêng tư của các thiếu nữ anh dũng mà sinh đẹp. Chị chú ý hơn tới những chiến trường gian khổ hoặc quyết liệt. Những lúc này tình cảm một người chỉ huy cao cấp gần đồng hóa với tình cảm một người chị cả trong gia đình. Chị yêu quê hương thật tha thiết (Bến Tre) nhưng chị không cục bộ. Chị tự hào và bênh vực chị em phụ nữ một cách mạnh mẽ và quyết liệt nữa. Nhưng chị không biệt phái. Tôi có thể nhận xét một cách vô tư và chính xác như vậy. Bởi vì tôi luôn lo cho chị về những điểm đó. Nhưng nỗi lo của tôi đã tỏ ra vô căn cứ. Chị dành một tình cảm đặc biệt sâu sắc đối với cán bộ và chiến sĩ miền Bắc được bổ sung vào chiến trường. Chị đã thông cảm khá đầy đủ với cảnh các bà mẹ và các người vợ tiễn con và chồng đi chiến đấu. Chị rất thương xót những thanh niên còn trẻ dại rời nhà trường để đi vào Nam chiến đấu (trong đó có cả con trai tôi). Tôi đã thấy chị khóc khi nghe anh em ở B3 (Táy Nguyên) báo cáo về đời sống thiếu thốn và gian khổ của các cán bộ và chiến sĩ. Chị hay bàn luận với chúng tôi: tôi và anh Ba Long (Lê Trọng Tấn) về sự hy sinh của đồng bào miền Bắc với lòng khâm phục và tình thương yêu đặc biệt.
Chị mới về công tác ở Bộ tư lệnh Miền được mấy hôm, với tính tình cởi mở của chị, tôi đã được biết rõ cuộc đời cách mạng của chị. Tôi được biết mối tình đầu của Chị với anh Bích, nỗi đau của chị khi mất anh Bích, tôi lại được biết nỗi đau của chị khi cháu Minh được tập kết ra Bắc ăn học rồi bị bệnh mà bỏ mình. Tôi đã thấy chị trong dịp năm 1969 ra viếng mộ cháu Minh ở Văn Điển (mà chị vẫn gọi cháu là thằng On). Tôi thấm thía nỗi đau của người mẹ và càng quí trọng chị hơn. Chị đã gánh trọn nỗi đau người dân mất nước, mất tự do bị ngục tù, hành hạ: nỗi đau của người vợ trẻ xa chồng và mất chồng, nỗi đau của người mẹ mất đứa con duy nhất. Chị đã dành tất cả tình thương cho mấy đứa cháu được gần chị. Chị cũng nhận được niềm an ủi lớn lao, nhưng cái đó vẫn không bù đắp được nỗi đau mênh mông và sâu thẳm của chị.
Tôi rất xúc động khi được biết là mới gần đằy, chị đã đích thân đưa bài cốt cháu On về nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh. Và ngay sau đám tang chị các cháu Thung và Mẫn đã thu xếp để táng hài cốt cháu On chung với chị. Vậy là cháu On, cuối cùng đã được về trong lòng chị, được chị ôm ấp, che chở mãi mãi. Hai mẹ con chị đã được ở bên nhau vĩnh viễn. Phải chăng đó cũng là một ước mơ thầm kín của chị đã được chị và các cháu tự mình thực hiện. Xin mừng cho chị.
Cuộc đời của chị là một đời cách mạng cao cả toàn bộ sinh lực và tinh thần của chị dành cho cách mạng. Luôn luôn chị sống với công tác cách mạng nhưng cũng luôn luôn chị đã sống như một người chị, người mẹ. Chị là một Phó tư lệnh như những người phó tư lệnh khác với chức trách của mình, nhưng chị lại vừa như một nữ chủ nhân của một gia đình gồm cả các tướng lĩnh và các cô, các chú binh nhất binh nhì. Chị lo cho mọi người từ miếng ăn, manh áo, liều thuốc. Các cô cấp dưỡng y tá đã tíu tít quanh chị nhận những lời khuyên nhủ, dạy bảo của một mẹ hiền. Cũng rất độc đáo là trong Bộ Tư lệnh hình thành một tục lệ do anh Nguyễn Chí Thanh đề xướng: hễ từ ở chiến trường có một báo cáo là tiêu diệt một tiểu đoàn, thì chị Ba phải chiêu đãi anh em một bữa bánh bao. Thế là những lúc đó, Phó tư lệnh lại có mặt ở bếp để chỉ đạo nhào bột, làm nhân và hấp bánh. Chị còn đầy tinh thần cách mạng trong việc học tập. Chúng tôi quý chị lo cho chị học và tổ chức việc học cho chị. Chi là một học viên rất chăm chỉ và nghiêm túc. Cùng một lúc chị học văn hớa với các môn Sử, Địa, Toán, Lý và học quân sự với các thứ lý thuyết về chiến lược, chiến địch chiến thuật, lý thuyết tấn công và phòng ngự, những kinh nghiệm lịch sử về chiến tranh du kích ngoài ra chị còn phải tự hoàn chỉnh những kinh nghiệm riêng của chị.
Tinh thần học tập của chị chứng tỏ chị ý thức đầy đủ những gì còn thiếu trong trí thức và năng lực. Chị không cần tỏ tra khiêm tốn, vì thông thường ở nhiều người cái tỏ ra đó nó giả dối, mà chị là người trung thực, chị chứng tỏ ý thức của chị bằng việc làm. Cách sống tận tụy và trung thực của chị vẫn còn mãi sau này khi chị đã lớn tuổi. Những năm tháng chị hoạt động trong Hội đồng Nhà nước, chị đi nhiều nhất, kiểm tra nhiều nhất và nhiều kiến nghị nhất. Chị thường trao đổi với tôi nỗi băn khoăn lo lắng của chị về tình hình đất nước về đời sống và lợi ích của nhân dân. Chị đã trung thình tuyệt đối với những lý tưởng cách mạng cao đẹp của chị cũng như của tất cả chúng ta. Nay chị không còn nữa, nhưng chị đã sống đẹp, sống tốt. Tôi tâm niệm và suy ngẫm nhiều về cuộc sống của chị. Đó là một cuộc sống của một con người trung thành với lý tưởng đời mình, trung thực và tận tụy với trách nhiệm và công việc đầy lòng thương yêu mọi người.
Chị đã có nhiều danh hiệu cao quý: Một vị nữ tướng quân duy nhất của đất nước. Một chủ tịch của Hội Liên hiệp Phụ nữ. Một Phó chủ tịch của Hội đồng Nhà nước. Như tôi thấy nhân dân thương tiếc chị không phải ở những danh vị đó, mà họ chỉ thấy thương tiếc một Chị Ba, một Chị Ba có tấm lòng, sống với mọi người đầy tình cảm và đạo lý. Đối với một cuộc đời một con người, cái đó là quý giá nhất. Chị mất đi, đời thương tiếc chị vì những gì chị để lại cho đời. Chị có thể yên lòng an nghỉ chắc chắn sự vận động của quy luật cuộc sống sẽ thực hiện được những lý lưởng của chúng ta. Nhân dân, người đời đã tỏ ra thật vô tư và hiểu đúng được những giá trị đích thực. Chị hãy yên lòng và vui vẻ.
TàO MạT
Tôi biết Tào Mạt từ những năm cuối của thập kỷ 50 và những năm đầu của thập kỷ 60, lúc ấy anh là một cán bộ sáng tác của Đoàn Văn Công Quân Khu Hữu ngạn mà tôi là Chính ủy. Chính ủy vốn hay quan hệ mật thiết với văn công. Tôi biết anh như một thành viên của Đoàn Văn Công. Tôi gặp anh hoặc nghĩ đến anh không bao giờ bằng cái tên thật của anh: Nguyễn Đằng Thục, mà chỉ là Tào Mạt. Lúc ấy cũng có người hay hỏi tôi tại sao anh ấy lại tên là Tào Mạt. Tôi thường trả lời theo sự phán đoán thô thiển của tôi: Cậu ấy là viết kịch mà ở Trung Quốc có một ông viết kịch giỏi tên là Tào Ngu. Có lẽ cậu ấy muốn mình cũng giỏi như Tào Ngu, nên lấy tên là Tào Mạt cho vui.
Rồi tôi cũng không bao giờ hỏi Tào Mạt về chuyện tên tuổi, mà tôi chỉ nhận biết con người ấy là Tào Mạt. Sau, tôi đọc lại Đông Chu Liệt Quốc, mới thấy có nhân vật Tào Mạt là tể tướng tài năng và cương trực. Tôi hiểu ý Tào Mạt là không phải muốn làm tể tướng mà muốn là một người tài năng và cương trực, thực sự anh đã là như thế.
Vì vậy anh không chọn những tên tuổi nổi tiếng quen biết khác, mà lại lấy tên của ông Tào Mạt một nhân vật trong Đông Chu Liệt Quốc, mà không ít người có đọc qua, cũng không nhớ lắm!.
Từ năm 1974, thì tôi gặp anh nhiều hơn. Sau 15 -20 năm, tôi gặp lại một Tào Mạt khác hẳn: Anh trưởng thành hơn, chín chắc hơn, hiểu biết hơn và cũng bốc lửa hơn.. Tôi gặp lại anh đúng vào lúc anh đang sáng tác và đạo diễn biểu diễn ba vở chèo nổi tiếng của anh, có một tên chung là Bài ca giữ nước. Anh đang thành công và cũng đang gặp khó khăn trắc trở. Anh có một mục tiêu mà anh đem cả sinh mệnh và ý chí tâm huyết ra thực hiện: khôi phục và phát triển ca kịch dân tộc (Chứ không phải chỉ là chèo). Tôi được nghe anh nói nhiều về việc này. Anh có một nhận thức toàn diện về việc này, mà tôi hoànn toàn tán thành và khâm phục. Đó là: cần phải biết rõ thực chất ca kịch dân tộc, (tức là chèo và cả tuồng, cả cải lương) nó là cái gì, là thế nào, và thực chất, nguồn gốc của nó là cái gì, thế nào? Muốn phát biển nó, phải hiểu thực sự thấu đáo những điều đó và anh đã thực hiện những ý kiến của anh một cách tốt đẹp và có hiệu quả. Tôi nhớ mãi những lúc anh nói chuyện với tôi về việc anh học tập để có vốn mà sáng tác Bài ca giữ nước. Anh đã học những nguyên lý cơ bản về ngôn ngữ Việt Nam, học những nguyên lý cơ bản về âm nhạc và thanh nhạc quốc tế. Anh bảo: dân tộc mình có kịch hát, hát thì phải có lời, muốn làm lời hát đúng và hay thì phải học ngôn ngữ và âm nhạc. Vừa nói chuyện vừa anh vừa hát thí dụ cho tôi một cách say sưa. Khi anh gặp một nghệ nhân có nhiều điệu hát cổ, anh liền mang máy ghi âm đến xin học, một cách kiên trì và công phu, anh học đến khi anh hát được như nghệ nhân hát. Anh không như một số người vì quá yêu nghệ thuật dân tộc, mà gần như bài bác mọi thành quả của loài người ở các nước khác. Đến múa của chèo anh cũng đi học những nguyên lý cơ bản của múa ba lê, để tìm hiểu thật sâu sắc các điệu múa của dân tộc mình. Anh học người để hiểu mình sâu hơn. Anh thường nhấn mạnh với tôi là muốn đào tạo diễn viên kịch hát dân tộc, phải bắt đầu các môn cơ huấn (huấn luyện cơ bản) về ngôn ngữ, âm nhạc và vũ đạo, chứ nếu chỉ học truyền nghề thì chậm mà không vững chắc, không thật chính xác. Có bữa trong phòng tôi, anh dẹp hết bàn ghế và anh cứ mặc cái áo đi mưa bộ đội lòe xoè sột soạt, và đôi giầy săng đá có đinh kêu cồm cộp, mà anh hát, anh múa để minh họa những ý kiến của anh. Anh đọc tất nhiều và rất thuộc nhiều văn cổ của Việt Nam. Anh nói chuyện cũng nói với giọng văn cổ. Và anh sáng tác lời hát cũng thấm nhuần cái âm điệu và cách hành văn và ngôn từ của văn cổ. Nên lời hát của anh chau chuốt, hợp âm điệu, người nghe dễ nghe và người hát dễ hát. Lời của anh, đều có nhiều ý vị triết học, đạo lý mà không bị loàng xoảng những danh từ chính trị hiện đại.
* * *
Tôi còn khâm phục anh ở tinh thần và ý chí tự học: Anh đọc toàn bội Lê nin toàn tập đọc kỹ Hồ Chí Minh toàn tập, anh đọc nhiều tác phẩm của Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, của Nguyễn Klìuyến, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, đến Tản Đà... và anh thuộc lòng nhiều đoạn. Anh tự học chữ Nho và trở thành một người làm thơ chữ Nho nhiều và hay, một người viết chữ Nho rất bay bướm và rất đẹp. Tôi đã gặp nhiều nơi treo thơ chữ Nho của anh như những bức tranh nghệ thuật và kể cả phòng tôi cũng luôn có tranh của anh. Có Tết 1992, anh lóc cóc đến nhà tôi, đeo theo một túi bút nho, một nghiên mực, bắt tôi đưa cho anh mấy tờ giấy trắng lớn rồi anh dẹp bàn nước, phủ phục xuống để viết thơ Tết tặng tôi, anh lại còn tặng luôn các cháu nhà tôi mỗi đứa một bài.
* * *
Tôi tâm đắc với anh rất nhiều ý kiến về nhận thức văn nghệ. Tôi còn nhớ nhiều câu nói của anh, nó ngạo ngược nhưng sâu sắc và thật, mà anh chỉ nói với tôi thôi và cả tinh thần chiến sĩ của anh, tôi lại tâm đắc cả với những khát vọng nghệ thuật của anh mà anh thấy là còn phải làm việc thật nhiều. Tôi yêu cái tinh thần lạc quan và bốc lửa của anh. Anh nằm bệnh viện mấy tháng, tôi chỉ thăm anh được ba lần, mà cuối cừng không được đưa tiễn anh. Lần nào vào, anh là người bệnh lại nói nhiều hơn tôi là người thăm. Tiếng nói của anh cứ sang sảng và dự kiến của anh hầu như vô tận. Trong lúc anh ốm, anh được in một tập sách mỏng những lời tâm huyết là hầu hết những ý kiến của anh tôi đã được nghe và tán thành về cơ bản. Anh phấn khởi tặng tôi một cuốn khi anh trên giường bệnh. Anh Tào Mạt có thể còn có những hạn chế về tư duy, về thông tin, nhưng nói chung, tôi nhìn nhận anh là một Nghệ sĩ lớn xứng đáng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân với thực chất của nố. Anh còn nhiều khát vọng, nhiều hoài bão nghệ thuật. Rất tiếc anh không còn để thực hiện những điều mà ngoài anh ra không ai làm nổi.
Nhưng Tào Mạt ơi! Anh có thể yên tâm an nghỉ. Vì chỉ cần anh để lại cho đời bộ ba chèo Bài ca giữ nước và Mấy lời tâm huyết cũng là anh đã để lại cho đời những giá trị cao quý mà rất ít người có được. Tôi mãi mãi nhớ anh và Đời cũng mãi mãi nhớ anh!

PHẦN 2 CHƯƠNG 1
Ngót mười năm ở chiến trường, sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết, các anh ở Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh miền gợi ý tôi tranh thủ ra Bắc nghỉ ngơi một thời gian. Đầu năm 1974, sau khi hoàn thành một số nhiệm vụ cần thiết và bàn giao xong mọi công việc tôi lên đường trở ra Bắc.
Cuộc chia tay thật bịn rịn. Tôi lần lượt đến các cơ quan của Trung ương Cục, Quân ủy Miền, Bộ tư lệnh Miền và đặc biệt là các anh em trong cơ quan chính trị mà có thời gian tôi vừa là phó Chính ủy Miền vừa là Chủ nhiệm Chính trị, bắt tay từng người, lưu luyến. Khó mà nói hết được tình cảm hết sức cao đẹp và thiêng liêng của những người đồng chí ở nơi khói lửa chiến trường.
Lần này ra Bắc tôi không đi máy bay như hồi 1969 cùng anh Nguyễn Vãn Linh dự lễ tang Bác Hồ, mà là đi dọc Trường Sơn theo con dường chiến lược mang tên Hồ Chí Minh. Khi được tin này tôi rất thích thú, bởi nó rất phù hợp với nguyện vọng của tôi bấy lâu nay. Cách đây mười năm, khi đi B, tôi đã đi một con đường đặc biệt: Hà Nội - Quảng Châu bằng máy bay; Quảng Châu-Xi-ha-núc-vin bằng tầu thủy: Sau đó lên Nông Pênh rồi trở về căn cứ Trung ương Cục ở sát biên giới Việt Nam-Campuchia. Lần này ra Bắc lại được đi theo đường Trường Sơn, con đường chiến lược huyền thoại, thì đối với tôi là một niềm vui lớn. Vốn từ lâu, tâm trí tôi đã luôn hướng về con đường mà hàng vạn hàng vạn đồng đội của tôi đã lần lượt băng qua để từ hậu phương lớn vào tiền tuyến lớn. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy và chia sẻ nỗi gian nan, vất vả với họ. Và quả thật, là người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, nếu ai chưa từng đặt chân tới tuyến đường lịch sử này sẽ là một thiệt thòi lớn. Tất cả những cuốn sách đã viết ra, những bộ phim đã hoàn thành, những lời ca ngợi của phương Tây... chỉ mới nói lên được một phần rất nhỏ tầm vóc thời đại của con đường.
Có thể nói đường mòn Hồ Chí Minh là hình ảnh thu nhỏ của cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình cửa Đảng. Cùng với 3 lần đánh thắng quân Nguyên, mười năm Lam Sơn tụ nghĩa dân tới "Bình Ngô Đại Cáo". Quang Trung đại phá quân Thanh... cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta thực sự là một cột mốc chói lọi trong trang sử vàng bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính ở thời điểm này, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh được khẳng định như là yếu tố quyết định nhất trong mỗi thắng lợi của nhân dân ta.
Sau mười năm lăn lộn ở chiến trường ác liệt, trên đường trở về hậu phương lớn, tâm hồn tôi vẫn trong trẻo một niềm tin, phơi phới một niềm tự hào chính đáng về dân tộc anh hùng, về Bác Hồ vĩ đại, về Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh do chính Bác Hồ sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Những khuôn mặt tôi gặp trên đường đi, từ những anh bộ đội trẻ măng đến các cô thanh niên xung phong đã hy sinh cả tuổi xuân để giữ vững con đường huyết mạch, đều để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ về thế hệ sinh ra và lớn lên sau Điện Biên Phủ. Chính họ cùng với thế hệ chống Pháp, đã làm nên kỳ tích của thế kỷ 20: "Một dân tộc nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ". Trong những năm ở chiến trường, nhìn những gương mặt gái, trai tuổi mới 18, đôi mươi ấy, nhiều lúc tôi không ngăn được nước mắt, đặc biệt là những lức tôi đến động viên họ trước khi bước vào một trận đánh, bởi tôi biết chắc trong số họ có những người sẽ không trở về. Cũng có nghĩa là những người mẹ ở miền Bắc sẽ nhận được những tờ giấy báo tử báo tin con mình đã hy sinh. Nỗi đau này là không gì so sánh được.
Đó là sự hy sinh vô giá. Bởi vậy, từ lâu tôi luôn nghĩ rằng, khi nói đến thắng lợi vĩ đại của cuộc chống Mỹ cứu nước, bên cạnh nguyên nhân là sự lãnh đạo của Đảng, phải nói đến nguyên nhân quan trọng khác là sự đóng góp to lớn của nhân dân, của hàng triệu chiến sĩ trên các mặt trận. Nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Lê Nin: "Suy cho cùng thắng lợi của một cuộc chiến tranh tùy thuộc vào tinh thần chiến đấu của người lính ở chiến trường". Tất nhiên, để có tinh thần chiến đấu đó, những người lính phải có một hậu phương tuyệt vời như hậu phương miền Bắc của chúng ta với sự hy sinh thầm lặng của hàng triệu, hàng triệu người vợ, người mẹ anh hùng, trung hậu, đảm đang suốt ngày đêm lo toan mọi việc để chồng con yên tâm đánh giặc. Quên mất điều này là có tội. Chẳng những thế, sẽ dẫn đến những cách nghĩ không đúng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. (Nhân dân biết ơn Đảng và Đảng cũng biết ơn nhân dân, vì chính nhân dân là cội nguồn của mọi chiến thắng).
***
Trở lại miền Bắc, sau mười năm ở chiến trường, thông thường thì người ta chỉ muốn nghỉ ngơi, thăm thú. Sau một tuần về quê thăm mẹ ở quê hương Tiền Hải, tôi đã đi thăm một số tỉnh ở Việt Bắc, Nam Hà, một số địa phương ở Thái Bình, gặp gỡ hỏi chuyện một số cán bộ cơ sở để nắm rõ tình hình miền Bắc trong mười năm qua...
Và tôi đã nhận ra ngay một điều là tình hình miền Bắc qua đài qua các nghị quyết được phổ biến, ít giống như những điều tôi vừa mất thấy, tai nghe, có điều còn khác rất xa. Và tôi đã sớm đi đến kết luận: ở miền Bắc đang có nhiều hiện tượng tiêu cực, không những trong xã hội, mà cả trong một số các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền.
Tôi giành thời gian nghiên cứu nghị quyết 22, xin được dọc một số báo cáo tình hình các mặt và tôi suy nghĩ, tìm hiểu để khẳng định thêm kết luận của mình. Tôi âm thầm suy nghĩ mà chưa vội nói với ai. Bởi trong thời điểm đó, người ta đang nói nhiều đến một tiền tuyến lớn anh hùng, một hậu phương lớn anh hùng, một miền Bắc xã hội chủ nghĩa ưu việt, với những năng xuất cao trong công nghiệp, những cánh đồng 5 tấn trong nông nghiệp và với một hình ảnh được khái quát nổi tiếng: "Ra ngõ gặp anh hùng".
Chỉ khi nào gặp một người bạn cũ thật thân thiết cả những người ở cương vị cao, tôi bộc lộ tâm sự về suy nghĩ của mình, thì ngay lập tức được sự cộng hưởng: Ông mới về chỉ mới thấy thế thôi. Trong một số lĩnh vực còn nghiêm trọng hơn nhiều, nhưng phải có thì giờ suy nghĩ rồi mới dám nói. à ra thế! Thế là còn vấn đề lớn hơn, đáng quan tâm hơn: đó là vấn đề dân chủ, dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Phải chăng đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Tôi nhớ hồi ở Việt Bắc, đọc tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của Bác, tôi đã từng kinh ngạc về một nhận định thiên tài:
Những ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta xét cho kỹ thì thật có như thế.
"Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muôn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tối đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra.
"Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét có khi lại bị trù" là khác."
"Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói "không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng". Trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói thậm thà thậm thụt" và những thói xấu khác..."[1]
Tác phẩm này Bác viết vào năm 1947, tính đến nay là ngót một nửa thế kỷ nhưng vẫn còn mang tính thời sự biết bao!
Thiên tài Hồ Chí Minh không những thể hiện ở những quyết sách lớn mang tầm chiến lược mà còn thể hiện ở những câu nói bình thường giản dị, mà sức sống của nó xuyên suốt cả chiều dài lịch sử. Ví như năm 1945, trong thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (tỉnh Nghệ An) ngày 17-9, Bác đã khẳng định: Lực lượng toàn dân là vĩ đại hơn hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó." Một tháng sau, cũng trong năm 1945, ngày 17 tháng 10, trong thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác lại căn dặn:
"Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta..."
Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua, sau những chấn động của các sự kiện lịch sử trong thời gian gần đây, ta tưới thấm thía những lời cảnh cáo của Bác:
Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. không ai chiến thắng được lực lượng đó." "Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu kính ta."
Suy ra, nếu không như thế thì ngược lại. Diễn biến tình hình Đông Âu, tình hình Liên xô vừa qua chứng minh rất rõ những dự báo của thiên tài Hồ Chí Minh.
***
Tôi phải trăn trở nhiều đêm với một câu hỏi: Có nên nói hay không nên nói thực trạng xã hội miền Bắc và những nhận định của mình với các đồng chí lãnh đạo cao cấp Liệu các anh có cho mình là "hâm" không? Hoặc xấu hơn, các anh có quy kết mình thằng thế này, thế nọ hay không?
Tôi tin là không, và nghĩ các anh sẽ hiểu mình. Đặc biệt là đối với anh Trường Chinh, người mà tôi có vinh dự được làm người giúp việc từ năm 1944, sau khi vượt ngục từ Sơn La về. Dạo đó, tôi giống như là "Chánh văn phòng" của Tổng Bí Thư, được anh Trường Chinh yêu mến, giao nhiều việc quan trọng, và việc nào cũng hoàn thành tốt. Chính tôi được chứng kiến từ đầu sự ra đời của bản "Đề cương văn hóa" do anh Trường Chinh soạn thảo. Sau đó anh Trường Chinh đề cử tôi mang "Đề cương văn hóa" sang phổ biến cho anh Lê Quang Đạo, lúc bấy giờ là Bí thư thành ủy Hà Nội, phụ trách văn hóa cứu quốc.
Anh Đạo bố trí cho tôi gặp các văn nghệ sĩ trong nhóm để tôi trực tiếp phổ biến bản đề cương. (Cuộc họp diễn ra vào ngày mồng 2 Tết năm 1945, trong nhà anh Tô Hoài. Tôi còn nhớ đó là một căn buồng tối om, có một cái giường bằng gỗ, có một tấm ván kê làm bàn. Chúng tôi được mẹ Tô Hoài kiếm cho mấy cái bánh chưng, chấm nước mắm mà ăn vẫn rất ngon). ở đây lần đầu tiên tôi đã gặp các nhà văn, nhà thơ mà khi còn ngồi ghế nhà trường tôi rất ngưỡng mộ: Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng... Trong lúc truyền đạt tôi đã cố gắng làm rõ những ý tưởng lớn mà tôi đã tiếp thu được qua những suy nghĩ mà anh Trường Chinh trao đổi với tôi trong quá trình chuẩn bị bản đề cương, đặc biệt là 3 nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng... Có lẽ bắt đầu từ đây, từ bản đề cương văn hóa này và từ cuộc tiếp xúc đầu tiên với các nhà văn nhà thơ trong thời kỳ hoạt động bí mật, mà tôi có duyên nợ với văn hóa văn nghệ, duyên nợ cho đến suốt đời.
Tháng 2 năm 1990, có chân trong ban dự thảo cương lĩnh đại hội VII, tôi đã đề xuất một số vấn đề văn hóa Việt Nam, với tên là "Một phác thảo cương lĩnh văn hóa Việt Nam những năm 1990". Rất tiếc là lúc này anh Trường Chinh vừa mới đi xa. Không biết nếu còn sống anh sẽ đánh giá thế nào về bản phác thảo đề cương của tôi, người học trò, người em của anh hôm nay, đặc biệt là các điểm 8 và 9:
Điểm 8: Phát triển nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở quan niệm dúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo và tự do phê bình.
Điểm 9: Ra sức bảo tồn mọi di sản văn hóa của dân tộc bao gồm cả nền văn hóa của từng dân tộc ít người. Kết hợp kế thừa văn hóa cổ truyền với giao lưu văn hóa thế giới, làm cho văn hóa dân tộc ngày càng dày thêm, giàu thêm.
Đây chính là vấn đề mà nghị quyết Trung ương 9 khóa VII vừa rồi của Đảng nâng lên thành một trong số 6 quan điểm chủ yếu quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân để tiến tới Đại hội VII... Rõ ràng thực tiễn cuộc sống đã đi vào Nghị Quyết không cưỡng lại được, chứ không như ta thường nói đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Với chính sách mở cửa, kéo theo sự du nhập ồ ạt các nền văn hóa ngoại lai, đặc biệt là văn hóa phương Tây nếu không giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc thì không tránh khỏi nguy cơ xuống cấp đạo đức về nhiều mặt. Ngay từ tháng 2 năm 1990, tôi đã khẩn thiết đưa vấn đề này vào cương lĩnh, vào các nghị quyết, nhưng không được coi trọng đúng mức. Kể ra như thế đã là chậm. Năm 1995 mới có nghị quyết 9 về 6 quan điểm chủ yếu thì càng chậm hơn, nhưng người ta nói: chậm còn hơn không. Cũng giống như sự kiện khoán hộ của Kim Ngọc. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc do Kim Ngọc làm bí thư đã đề ra khoán hộ từ tháng 9 năm 1966, nhưng liền sau đó bị kiểm điểm, bị cấm đoán. Đảng cấm, nhưng dân cứ làm, như một câu nói vui từng có thời lan truyền rộng rãi: đảng có sách, dân có cách", vì dân có thực tiễn cuộc sống của dân. Nhưng một Đảng luôn luôn tự cho mình là sáng suốt. Nghị quyết nào cũng là một nguồn ánh sáng rực rỡ" mà để dân phải làm chui một việc đúng thì thật là đau lòng.
Như ta biết, mãi hơn 20 năm sau, 1988, Đảng mới có Nghị quyết 10 cho phép nông dân thực hiện khoán hô. Và những gì xảy ra sau đó thì chúng ta đã biết. Chỉ hai năm Việt Nam đã từ một nước thiếu ăn triền miên trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 thế giới. Nhưng khi nói đến sự kiện này người ta chỉ nói đến "sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng" đến Nghị quyết 10, mà quên mất công lao hàng đầu chính là nhân dân, là sự năng động nhạy bén của cơ sở, tiêu biểu là sự năng động của đồng chí Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Sự kiện này đã gây thắc mắc kéo dài trong nhân dân ở miền Bắc trước đây và lan rộng ra cả miền Nam sau ngày giải phóng. Thử bình tĩnh nhìn lại mà xem, nếu các năm 89, 90, 91 cứ tiếp tục cái cảnh hàng nghìn người đói khát, rách rưới từ các miền quê Thanh Hóa, Nghệ An kéo từng đoàn dài ra Hà Nội như các năm 1977 thì tình hình sẽ ra sao?
Vấn đề lương thực không chỉ căng thẳng ở miền Bắc mà cả ở miền Nam, vựa lúa của Đông Dương, từ thời Pháp đã xuất cảng gạo, chỉ sau giải phóng miền Nam ít lâu, dân Sài Gòn đã phải ăn bo bo và cũng ăn cơm độn mì như đồng bào miền Bắc. Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã sớm áp đặt mô hình hợp tác xã vào nông thôn miền Nam, khiến người nông dân tài hoa của đồng bằng sông Cửu Long khó có thể phát huy được tính tích cực năng động vốn có của mình mà phải "noi gương nông dân miền Bắc đi làm theo kẻng", "cấy chay, cày gãi, bừa chùi cho xong việc để về sớm, mặc dù có nơi thu hoạch chỉ có 3 lạng thóc một đầu người. Và kết quả tất nhiên là đói, đói từ miền Bắc đói vào, đói lan tràn khắp nước. Thật là đau lòng khi ở một đất nước nông dân thì cần cù, sáng tạo, đất đai thì màu mỡ phì nhiêu mà phải liên tục nhập khẩu gạo. Có thể nói sự kiện khoán hộ là một trong những sự kiện điển hình nhất để lại dấu ấn khá đậm trong sư lãnh đạo của chúng ta. Chúng ta đừng quên mất lời dạy của Bác Hồ:
"Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính..."[2] Tôi tìm đọc lại những trang này trong cuốn "Sửa đổi lối làm việc". Đọc đi, đọc lại, càng đọc càng thấy Bác Hồ thật vĩ dại. Người như thấu hiểu mọi lẽ trên đời, hiểu hiện tạ i và đoán biết cả tương lai. Nếu như ta không biết những dòng này Bác viết từ năm 1947 cứ ngỡ là Bác đang nói với chúng ta hôm nay. Tôi cảm thấy những dòng chữ của Bác như những cặp mắt đang nhìn thẳng vào tôi và nghiêm khắc hỏi: "Anh vào Đảng từ hồi bí mật, đã trải qua hai cuộc kháng chiến, đứng trước cái chết, trước kẻ thù anh không sợ, liệu anh có dám nói ra những điều anh nhìn thấy không?
Những lời dạy của Bác Hồ như khuyến khích tôi, và tôi hạ quyết tâm sẽ viết những điều tôi đang suy nghĩ lên Bộ Chính Trị bằng hình thức một lá thư để các anh tham khảo. Tôi sẽ viết một cách chân thật, thẳng thắn, với tất cả tinh thần trách nhiệm của một đảng viên cộng sản.
Tháng 3 năm 1974, tôi nhận quân hàm Trung tướng. Như vậy là từ ngày nhận quân hàm Thiếu tướng đến ngày nhận quân hàm Trung tướng, thời gian kéo dài 16 năm. Đối với tôi đó là một ngày vui đáng ghi nhớ. Bởi ra đi làm cách mạng, ngay từ đầu đã bị tù đày, tra tấn, tôi và những người cùng lứa với tôi, có ai nghĩ là mai sau sẽ trở thành tướng lĩnh hoặc ông này, ông nọ. Đánh đổ đế quốc phong kiến, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa cộng sản, công nhân làm chủ nhà máy, nông dân làm chủ ruộng đồng, mọi người đều bình đẳng, ấm no, hạnh phúc... Đó là lý tưởng cao đẹp từng theo tôi suốt chặng đường hành quân đánh giặc 30 năm qua. Bây giờ được nhận quân hàm Trung tướng, đối với tôi là một vinh dự lớn. Đây là điều tôi ít khi nghĩ đến.
Cùng nhận quân hàm đợt này với tôi có các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung ở Bộ tư lệnh Đại đoàn 312 cũ, các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh... ở Bộ tư lệnh B2 và nhiều đồng chí khác cùng đợt phong quân hàm năm 1958. Có những đồng chí tiến bộ vượt bực như đồng chí Lê Đức Anh, Đồng Sĩ Nguyên... Năm 1958 chỉ mới được phong Thượng tá, Đại tá, nay đều nhận quân hàm Trung tướng. Tôi chúc mừng tất cả. Điều này nói lên sự lớn mạnh vượt bực của Quân đội ta.
Tôi đang suy nghĩ về bức thư gửi Bộ Chính trị thì được tin Văn phòng Trung ương cho biết, Ban bí thư bố trí cho tôi đi tham quan Cộng hòa dân chủ Đức một thời gian. Tôi nghĩ cũng là một dịp tốt để có tầm nhìn bao quát hơn, giúp cho những nội dung tôi trình bày có thêm những căn cứ khoa học.
Rất may mắn là những điều tai nghe mắt thấy ở Cộng hòa dân chủ Đức càng thôi thúc tôi viết thư cho Bộ Chính trị. Những vấn đề nung nấu trong tôi từ ngày ra Bắc càng thêm chín mùi. Không viết được, chưa viết được, lòng dạ cứ không yên chút nào. Đêm nào nằm cũng suy nghĩ có đêm hầu như thức suốt, bất chợt nảy ra ý gì mới lại vội vàng trở dậy ghi chép, sợ sáng ra lại quên mất. Cứ như thế ròng rã hơn một tháng trời tôi mới viết xong bức thư 14 trang. Tôi không đề gửi Bộ Chính trị, sợ như thế nó to tát quá. Cân nhắc mãi tôi chỉ đề gửi các anh Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, để vừa mang tính chất chung, gửi cho các anh ấy tức là gửi cho Bộ Chính trị rồi, nhưng cũng vừa mang tính chất cá nhân, thân tình bộc lộ những suy nghĩ của mình như lời tâm sự của một đứa em đối với các anh lớn...
Rất may là tôi còn giữ được bức thư cho đến ngày hôm nay. Do đó, để cho trung thực, khách quan, có tính lịch sử, tôi xin chép ra nguyên văn bức thư ấy. Mặc dầu hiện nay tình hình chung đã khác trước nhiều, Đảng ta đã qua 4 lần Đại hội, tới là Đại hội VIII. Những suy nghĩ của mình cách đây hơn 20 năm không tránh khỏi những ấu trĩ, ngây thơ nhưng tôi không sợ mọi người cười chê, bởi tôi tin ở tấm lòng chân thật của mình, mà chân thật chính là một trong những tiêu chuẩn của cái đẹp. Tôi không có tham vọng gì trong bức thư này. Có chăng là sự mong muốn cháy bỏng của một người lính từ chiến trường trở về, làm sao cho đất nước ngày càng phát triển, dời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, Đảng ta ngày càng trong sạch, chính quyền ta ngày càng vững mạnh...
Kính gửi: Anh Ba, anh Năm, anh Sáu[3]
Vừa qua trong mấy tháng, tôi đã được đọc Nghị quyết 22, nghe báo cáo một số tình hình, đi thăm các tỉnh ở Miền Bắc Nam Hà, Thái Bình, được nghe chuyện cụ thể của một số cán bộ kể có ý muốn phản ánh các khía cạnh của tình hình. Tôi được Trung ương cho đi thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, lúc về tôi qua Moscow vài ngày, Bắc Kinh vài ngày.
Qua tất cả cả các sự quan sát, thấy và nghe được tôi chưa chú ý đi sâu nghiên cứu có hệ thống được một vấn đề nào nhưng tổng hợp những điều đã thấy và nghe được, tôi có một số cảm giác, ấn tượng. Tôi không muốn chờ đợi mà tôi muốn báo cáo với các anh những cảm giác, ấn tượng là có tôi chút suy nghĩ sơ bộ với các anh. Tôi không có tham vọng đề đạt một ý kiến to tát nào. Vì tôi chắc Bộ Chính trị đã nắm tình hình và đã suy nghĩ rất nhiều đã được nghe nhiều ý kiến, đã có nhiều dự án.
Tôi chỉ muốn để các anh thấy thêm một số khía cạnh, có tác dụng làm phong phú thêm cho sự suy nghĩ, nói cách khác là tôi cũng nêu lên những thắc mắc, những mong mỏi, những câu hỏi để các anh suy nghĩ giải đáp trong lúc các anh cũng đang giải đáp những vấn đề đã đặt ra.
I
ở miền Bắc đang có nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và cả trong các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền. Và những hiện tượng tiêu cực trong tổ chức Đảng và chính quyền tác động nhiều trong xã hội. Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại biến chuyển chậm chạp? Sự biến chuyển chậm chạp này đã tạo nên một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, trong đảng viên, trong nhân dân và đáng lo ngại hơn cả trong thanh niên. Tôi đã gặp một số thanh niên, họ nói thực lòng Họ tin và họ phục vào lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. Nhưng đứng trước hiện tại và tương lai họ giảm sút lòng tin
Giảm lòng tin vào những mục tiêu cụ thể của các sự nghiệp, giảm lòng tin vào lý tưởng, vào đường lối.
Những hiện tượng tiêu cực của xã hội (và trong Đảng trong chính quyền) làm vẩn đục sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, tạo nên một triết lý "sống tiêu cực tạo nên "một thế lực xã hội bao vây và xô đẩy những tâm hồn trung thực.
Tình trạng trên có những nguyên nhân và khuyết điểm là sự kém cõi trong sự lãnh đạo quản lý xã hội. Nhưng có phải nó còn đang phản ánh một cái mâu thuẫn gay gắt giữa những nhu cầu ngày càng cao do được kích thích bởi sự phát triển văn hóa và tình hình phát triển của thế giới với sự thiếu thốn của cơ sở Vật Chất của ta? Tức là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất phát triển nhanh mà sức sản xuất không theo kịp. Có phải một mặt ta phải khắc phục tình trạng quản lý kém và đồng thời phải tìm cách nhanh chóng nâng cao cơ sở vật chất của ta lên không?
Về mặt quản lý có nhiều vấn đề nhưng hình như ta đang có những hiện tượng:
- Đẻ ra nhiều tổ chức quá làm cho bộ máy ngày càng nặng nề cồng kềnh mà lại vướng víu lẫn nhau?
- Đã nhiều tổ chức mà ít luật pháp. ít điều lệ quy định cụ thể rõ ràng, để bắt buộc chức trách, để buộc mọi người phải tự giác tôn trọng.
- Tổ chức thiếu ổn định, thay đổi luôn tình trạng đó biểu hiện ở một vài hiện tượng cụ thể.
- Kỷ luật lao động lỏng lẻo.
- Tùy tiện, đẻ ra tình trạng mà ta gọi là "cửa quyền", bất cứ một nhân viên nhỏ nào cũng "sáng tác ra những quy tắc cụ thể của mình, gây rất nhiều chậm trễ rắc rối trong công việc.
- Mơ hồ, trống rỗng, không cụ thể, ví dụ về luật lệ giao thông: rất ít những biển có ký hiệu luật lệ cụ thể mà nhiều khẩu hiệu vớ vẩn:
"Cấm bóp còi inh ỏi".
"Cấm phóng nhanh vượt ẩu.
"An toàn là bạn, tai nạn là thù".
Thế nào là còi inh ỏi và không inh ỏi. Thế nào là phóng
nhanh? Trong khi đó có những ký hiệu cấm còi, cấm vượt, hạn chế tốc độ có tính chất quy ước quốc tế rồi?
Nhiều công việc chưa có nội dung, quy tắc cụ thể đã có nhiều tổ chức, nhiều hội đồng nên có thể nói hữu danh vô thực.
Nhiều phê phán, mà ít phạt nghiêm, thưởng phạt khen chê, không dứt khoát, không rõ ràng. Đãi ngộ vật chất người có công lẫn lộn với trao quyền chức cho những người không có năng lực.
Đội ngũ về hưu", về hưu về công tác lao động chức quyền xã hội lại vẫn là "vai vế trong Đảng thì có hợp lý hay không?
- Báo chí thường phản ảnh không thực chất tình trạng thực tế nhất là của các sinh hoạt đoàn thể (và đáng chú ý hơn là Đoàn thanh niên và đội Thiếu niên tiền phong).
Theo tôi thấy cần phải xác định và tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc, ví dụ:
- Khi nào có nội dung nhiệm vụ cụ thể xác định được các quy tắc quyền hạn quan hệ, có điều lệ cụ thể về hoạt động cụ thể hãy nên tổ chức.
- Phải làm thế nào có một sự tập trung có hiệu lực trong từng bộ phận và trong cái toàn thể để tránh tình trạng:
- Đường lối, nghị quyết hay nhưng tổ chức thực hiện (kế hoạch, chương trình) dở.
- Chủ trương cấp trên giải quyết nhanh linh hoạt dễ dàng, nhưg chuyển xuống đến bộ máy là cứ dằng dai kéo dài, thậm chí không giải quyết được. Cần phân biệt "cố vấn, nghiên cứu với chỉ đạo thực hiện.
Trước mắt tôi nghĩ không biết có nên giải quyết gấp, chấn chỉnh mấy mặt bằng luật pháp có hiệu lực.
Luật pháp về trật tự xã hội để củng cố trị an và củng cố quan hệ sản xuất.
- Trừng trị thật nặng những kẻ dựa vào chức quyền để làm giàu và những kẻ bất kể động cơ gì xâm phạm đến tự do thân thể danh dự và tài sản của người khác một cách bất hợp pháp.
- Tạo những điều quy chế có tính chất phổ cập thường xuyên ở các nơi công cộng và có lực lượng quần chúng tham gia tích cực xây dựng.
Nghiêm ngặt ban hành và tổ chức thực hiện, chấn chỉnh các phương tiện để duy trì tốt luật giao thông.
Tôi thắc mắc trong lịch sử, có những lúc những tên độc tài có thể biến chuyển tình hình xã hội trong một thời gian ngắn.
- Napôlêon trong mấy tháng chuyển một đội quân ô hợp thành một đội quân thiện chiến.
- Hitler trong mấy năm chuẩn bị nước Đức đi vào một cuộc chiến tranh lớn.
- Pierre đệ nhất của Nga cũng biến chuyển nước Nga lạc hậu trong vòng một số năm.
Tất nhiên ta không bắt chước bọn phát xít độc tài. Nhưng ta phải suy nghĩ xem bí quyết của chúng ở chỗ nào, mà có thể nhanh chóng thay đổi tình hình một xã hội?
Thông thường là ở thưởng phạt thật nghiêm khắc, có nhiều vụ thưởng phạt điển hình được truyền tụng, có những biện pháp mạnh, vừa có tính cổ vũ vừa có tinh cảnh cáo, tạo thành một sức mạnh "xã hội".
ở Đức hậu quả của các chếđộ Bismach, Friederich, Hitler còn lại phần tích cực là tính kỷ luật rất cao trong nhân dân Đức. Đó là một sự thật khách quan ta phải thừa nhận.
Cho nên ta cần có những luật pháp, những bộ luật và những lực lượng có hiệu quả thi hành những điều luật đó.
Đó là các cơ quan thanh tra kiểm soát, đó là các lực lượng Công đoàn, Thanh niên, Thiếu niên và cả Phụ nữ.
Muốn cho thật có hiệu lực, phải là một thanh Đảng nghiêm túc và có thể "công khai". Hiện ta đang có cuộc học tập vận động có tính chất thanh Đảng đấy! Nhưng tôi cảm thấy chưa đủ liều lượng. Cần tập trung:
- Đưa ra khỏi Đảng: những người lười biếng, những người lợi dụng chức quyền ăn cắp làm giàu, móc ngoặc với gian phi. Những người đã hết khả năng lãnh đạo.
- Cần có danh hiệu "Cựu Đảng viên cho những ai không có khuyết điểm nhưng hết khả năng công tác và lãnh đạo, đã về hưu... để có đãi ngộ mà không cần giao chức quyền, không cần tham gia sinh hoạt lãnh đạo để giảm bớt chất ì trong các tổ chức Đảng.
Nên thực hiện chế độ thẻ đảng viên. Cần có cuộc vận động tương tự trong Đoàn thanh niên và cũng nên có vận động phát huy đổi thẻ Đoàn viên với những nội dung có tác động tích cực thúc đẩy các yếu tố tích cực.
Tất nhiên có hàng loạt việc phải làm nhưng tôi "cảm thấy cần tập trung có trọng điểm, tập trung và biện pháp mạnh để thực hiện một sự kiên quyết nghiêm túc và có hiệu lực, có tác dụng cổ vũ nhân dân, củng cố lòng tin, nhằm biến chuyển nhanh chóng tình hình trong thời gian ngắn. Phải có những việc làm có tác động mạnh mẻ, sôi nổi về tinh thần và cổ vũ những yếu tích cực vừa ngăn chặn trấn áp mạnh mẽ những yếu tố tiêu cực. Nhưng dù sao đó cũng là một mặt có tính chất ở "thượng tầng kiến trúc. Còn vấn đề có ý nghĩa cơ bản ở "hạ tầng cơ sở" là vấn đề xây dựng kinh tế, vấn đề tạo cơ sở vật chất.
Tôi xin có mấy ý kiến như sau:
II
Về vấn đề này tôi không dám có những ý kiến gì nhiều. Vì thật ra là rất dốt, lại xa các công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội hàng mười năm nay. Nhưng cũng có những cảm giác và ấn tượng muôn trình bày với các anh.
Đi tham quan nước Đức, chỉ đi chơi có tính chất du lịch, chủ yếu là quan sát và đọc vài tài liệu giới thiệu đơn giản. Nhưng qua hệ thống đường xá qua cơ sở các thị xã, thị trấn, thành phố họ đã có và đang xây dựng, qua các di tích lịch sử về văn hóa và cả về công nghiệp của họ thì tôi có ấn tượng tương đối rõ ràng về cái gọi là:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi đánh đổ chính quyền của tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Nó có hàng loạt vấn đề về quy luật đặt ra. Những quy luật cơ bản là những gì. Và những quy luật của công việc xây dựng xã hội chủ nghĩa là những gì.
Có lẽ khi Đảng ta đặt vấn đề "Bước đi ban đầu có lẽ đã phát biểu triển lên một quy luật rồi chăng?
Nếu chủ nghĩa tư bản có một thời kỳ tích lũy tư bản, hết sức tàn khốc mà cũng dài lâu mới có của cải vật chất để phát triển và mới có những cơ sở vật chất, những vấn đề tổ chức, về kỷ luật kỹ thuật cho tư bản chủ nghĩa phát triển và những cái đó lại là những vốn hết sức quan trọng tạo điều kiện cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, thì chủ nghĩa xã hội với những yêu cầu về phân phối của nó rõ đang đòi hỏi một cơ sờ vật chất thế nào đây.
Có phải nội dung của bước đi ban đầu là tạo một cơ sở vật chất tối thiểu, để làm đà cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa không? Và yêu cầu của cái cơ sở vật chất tối thiểu ấy là gì?
Ví dụ lấy con số về yêu cầu điện đầu người và thép đầu người thì con số: 1500 kW/giờ đầu người/năm và 100 kg gang thép đầu người là con số yêu cầu tối thiểu hợp lý chăng?
Chủ nghĩa tư bản tạo cơ sở vật chất bằng tích lũy tư bản tàn khốc. Vậy chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa phải tạo cơ sở vật chất bằng gì? Có lẽ cơ bản bằng tích lũy lao động tập thể.
Thế nhưng đặc điểm cơ bản và cũng là điều kiện tiên quyết cốt tử cho các nước thuộc địa tiến lên xã hội chủ nghĩa là có phe xã hội chủ nghĩa, có Liên Xô. Ngoài ra còn có thế giới thứ ba, có cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới. Và riêng Việt Nam mình lại có hai miền, nhiệm vụ giải phóng dân tộc và dân chủ nhân dân chưa hoàn toàn xong. Tác động của chủ nghĩa thực dân mới về kinh tế miền Nam thế nào ta đánh giá chưa rõ (sẽ phát biểu phần sau). Vậy thì ta làm gì?
Yêu cầu gay gắt là trong một số năm ta phải làm những việc mà tư bản chủ nghĩa làm hàng mấy trăm năm. Ta làm thế nào và khai thác đặc điểm của thời đại ra sao? Tôi cũng thấy rõ Trung ương ta đang đặt vấn đề như vậy:
- Dựa vào phe xã hội chủ nghĩa.
- Khai thác cách mạng khoa học kỹ thuật.
- Lợi dụng cả tham vọng của những nước tư bản tương đối tiến bộ hoặc cả những bọn tư bản đế quốc mà tạm thời chưa phải là kẻ thù trực tiếp.
Nhưng qua những tài liệu tôi được đọc và báo cáo tôi được nghe. Tôi có "Cảm giác ta chưa thật mạnh bạo tập trung và dứt khoát, linh hoạt.
1 Còn nhiều lúng túng trong việc xác định quy luật của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: Quy luật của Stalin phát biểu thì có phải đấy là quy luật, hay đấy là yêu cầu của chủ nghĩa xã hội.
Lại ví dụ về quy luật giá trị thì trên thực tế thị trường thế giới chủ nghĩa tư bản dùng giá trị sử dụng làm phương tiện để thu lợi nhuận, thì giá trị sử dụng hàng hóa của tư bản lại cứ phát triển tiến bộ, còn ta giá trị sử dụng là mục đích trực tiếp của sản xuất thì giá trị sử dụng hàng hóa lại không cao, riêng Việt Nam thì cứ theo "quy luật" thụt lùi trước tốt sau xấu? Đó là hiện tượng gì?
Riêng tôi còn thấy lúng túng nhiều trong việc nhận thức những cái gọi là quy luật này. Có điều rõ ràng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể phát huy nhiều, phát huy đầy đủ khi nào ta có một nền công nghiệp khá. Hiện nay ta vừa phải tạo cơ sở vật chất cho nền công nghiệp đó vừa phải rèn luyện con người và tổ chức xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với nền công nghiệp đó
Cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản nó buộc con người phải sống cho phù hợp và nó cuốn tổ chức xã hội phải phù hợp với cơ sở vật chất phát triển của nó. Nhưng chủ nghĩa xã hội ta lại chuẩn bị cho con người và tổ chức xã hội để đẩy mạnh công nghiệp hóa và có lẽ đó cũng là nhiệm vụ của vô sản chuyên chính chăng? Bây giờ yêu cầu cấp bách có nên đặt vấn đề ta cần phải có những chính sách hết sức táo bạo như kiểu Lênin định ra "Chính sách kinh tế mới, sau khi kết thúc nội chiến ở Nga với một nền kinh tế xơ xác tiêu điều không?
Tôi nói "như kiểu nghĩa là với một tinh thần mạnh dạn táo bạo và dứt khoát như vậy, chứ không phải theo nội dung của Lênin lúc đó, vì điều kiện lịch sử đã khác nhau hẳn. Ví dụ như thế này: Ta phát huy hết mức cái ưu thế về tài nguyên phong phú của ta, có những chính sách táo bạo mạnh dạn thu hút sự đầu tư của các nước anh em chủ yếu là các nước có kỹ thuật cao mà lại cần đến tài nguyên của ta. Thu hút mạnh dạn đầu tư của các nước tư bản chủ nghĩa chưa phải thù địch (như Thụy Điển, Pháp, Nhật). Có thể ta chịu thiệt đi một ít kể cả những thứ quý giá, kể cả một số mặt về lâu dài. Nhưng ta tập trung giải quyết mấy yêu cầu cốt tử của ta để đạt cho bằng được trong một thời gian ngắn, coi như ta phải bán tài nguyên quý đi để đạt được những yêu cầu cơ bản trước mắt là những yêu cầu cơ bản nền tảng cho lâu dài. Chứ nếu cái gì ta cũng muốn giữ cả vừa cứ nhập nhằng thì e rằng có khi thiệt (chứ không đến nỗi mất) cả chì lẫn chài. Tôi có những suy nghĩ đại khái như thế này.
Ta cần hết sức tập trung vào điện, thép, và dầu (Tôi chưa rõ ý nghĩa của cái "cơ khí là then chốt" lắm) bằng cách cho các nước đầu tư vào đứng ra làm, ta giữ vững chủ quyền về chính trị và kinh tế, làm sao sau một thời gian họ có lãi đến mức nào đó thì cái đó trở lại hoàn toàn thuộc (ta) về ta. Ví dụ như dầu có thể trao hẳn cho Nhật Bản làm cái gì đó với những điều kiện nào đó và đồng thời đòi Nhật phải giải quyết giúp ta những mặt khác. Còn những cái khác làm như đổi. Ví dụ nước anh em nào cần đồng, than... thì mời anh em đem kỹ thuật phương tiện và nhân viên đến xây dựng cơ sở khai thác và khai thác đi nhưng đổi lại, anh em làm cho tôi các cơ sở khai thác và chế biến quặng sắt, đúc thép, các cơ sở nhiệt điện, thủy điện... với yêu cầu ta đạt được mục tiêu của ta, bạn có lãi có lợi (và tất nhiên về chỗ đó: đồng, apatit, titan... ta chịu thiệt). Sau một thời gian bạn đã có lãi rồi thì tất cả vẫn là của ta. Ta còn có thêm Crom, chì, kẽm thậm chí cả cái thứ "đất nặng quý giá tôi nghĩ ta vẫn có thể đổi. Làm như vậy tôi tưởng tượng quang cảnh là tự các bạn mang xe cộ phương tiện vật liệu xây dựng, xây dựng nên những cơ sở hiện đại trên đất nước ta, có thể thu hút cả công nhân ta, huấn luyện cho công nhân ta. Sau 10, 15, 20 năm thì những thứ đó là của ta và trước mắt thì cũng là làm thay đổi quang cảnh của đất nước ta ngay.
Ta tập trung trí lực, tài lực lo những cái khác. Không sợ bị xâm phạm chủ quyền, ta được tập trung vào những yêu cầu chủ yêu của ta. Ta dám hy sinh cả những thị xã, thành phố để giữ gìn độc lập, thì ta cũng có thể chịu thiệt đi một số tài nguyên để mau chóng xây dựng đất nước.
***
Lại một suy nghĩ nữa về ta khai thác lợi thiên nhiên của ta.
Ví dụ: ta mời nước nào giỏi về tổ chức du lịch (tôi thấy CHDC Đức cũng khá giỏi về cái này) ta trao cho tổ chức du lịch ở Vịnh Hạ Long, ở rừng Cúc Phương. Họ xây dựng tổ chức khách sạn và họ thu tiền ta chỉ lấy một tỉ lệ thuế đủ cho họ thu lãi và thu vốn của họ. Sau mấy chục năm ta cũng sẽ thu hồi cố nhiên việc này phức tạp và cũng không biết có nước nào họ thích thế không? Ví dụ ta dùng hình thức kết nghĩa giữa các tỉnh của hai nước, ta đưa công nhân của ta sang họ. Ví dụ đưa sang với thời gian 10, 15, 20 năm với những điều kiện:
- Họ phải để thời gian huấn luyện 2, 3 năm.
- Số người đưa sang có tỉ lệ nam, nữ là người yêu (thương binh còn khỏe) người lớn tuổi...
- Có những quy chế đi lại trong thời gian làm việc.
- Quy chế đối với những gia đình lập trong thời gian đó (việc học tập của các cháu...)
Tôi không biết vấn đề nào có liên quan gì đến quốc thể không? Và đúng là giữa các nước xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ có vấn đề như thế này. Nhưng nếu ta không câu nệ, có thể đưa sang trên dưới độ 1, 2 triệu người thì ta phát huy được lực lượng ta, ta tích lũy vốn, người, kỹ thuật cho ta sau này. Tạo công ăn việc làm được cho số người càng đông của ta.
Đây có thể là một ý nghĩ ngây thơ, nhưng riêng chủ quan với cách suy nghĩ của tôi, tôi cũng thấy thiết thực và có thể là một hình thức rất mới mẻ, rất mới mẻ của sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa chăng?
***
Tôi cứ tưởng tượng thế này. Hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa anh em khó có vẻ giúp ta như Cuba được, mà Cuba cũng lại nghèo và nước nhỏ. Cách giúp là "hai bên cùng có lợi mà bên bạn đã có lợi thì bên ta là phải thiệt.
Nhưng nếu thu hút được đầu tư của bạn vào thì có thể tạo nên nhiều cái lợi khác cho ta. Ví dụ nếu cùng một lúc có hàng chục, vài chục công trường lớn của bạn triển khai thì riêng những việc bạn phải làm đường, đem vật liệu vào xây dựng cũng là tăng thêm của cải cho ta.
Nếu trong vòng 5, 7 năm ta đưa sức điện của ta lên 10 tỷ kW-giờ và sau 10, 15 năm ta cố có lấy 50, 60 tỷ kW-giờ thì mới được. Trước mắt phải xây dựng thật nhiều điện chạy than và dầu, trong khi đó ta làm các công trình thủy điện và chạy nguyên tử. Nếu không có cách tập trung rất lớn thì không có cách nào giải quyết.
Tôi không biết hiện nay mỗi năm mình phải nhập bao nhiêu sắt thép nhưng nếu trong vòng 3, 5 năm mình có sắt thép không phải nhập. Sau đó lại có thể phát triển thêm việc xây dựng và đẩy mạnh chế tạo máy thì ta mới có đà để thúc đẩy các việc khác, nếu nói cơ khí là then chốt mà không có sắt thép thì có vẻ gay go.
Việc xây dựng cơ bản hiện nay đang phát triển rộng khắp mà thiếu sắt thép cũng gay go. Ngoài ra có thể thu xếp để đổi thế nào đó thu hút được việc chế tạo phân bón và phát triển công nghiệp hóa. Tôi nghĩ rằng khi ta đã có điện và thép đến một mức nào đó là ta có thể phát triển toàn diện sang các ngành khác và lúc ấy có thể có đà để có thể phát tiến nhanh chóng được.
Trên đây là nói về những vấn đề có liên quan đến những chính sách lớn có một tinh thần táo bạo và dứt khoát nhằm có cách để nhanh chóng đẩy mạnh mọi mặt khai thác và tạo ra những cơ sở vật chất cần thiết của thời kỳ bước đi ban đầu và tôi có thể quan niệm bước đi ban đầu có thể bao gồm một kế hoạch 5, 7 năm hoặc hai kế hoạch ngắn hơn.
Mặt khác cần có một chính sách cụ thể để sử dụng quy luật, quy luật giá trị, kết hợp với động viên tinh thần làm chủ của nhân dân để nâng cao chất lượng sản phẩm như:
- Chính sách khen thưởng rộng rãi và kỷ luật nghiêm ngặt đối với các hợp tác xã gia công.
- Chính sách thưởng phạt rộng rãi nghiêm minh với các xí nghiệp quốc doanh.
- Chính sách thu thập ý kiến người sử dụng (kiểu trưng cầu ý kiến) thường xuyên căn cứ vào đó mà xác định việc khen thưởng và kỷ luật.
Nói chung, trong bộ máy quản lý và điều khiển việc sản xuất cũng như trong bộ máy chính quyền của ta, việc thưởng và phạt có vẻ còn quá ít. Nên có những quy định về mặt này và có một thời gian thi hành rất kiên quyết dứt khoát. Dưới chính quyền vô sản chuyên chính phải quan niệm thưởng phạt là một biện pháp giáo dục quan trọng, sự thưởng phạt nghiêm tăng thêm tinh thần tự giác của nhân dân, cán bộ. ở nước cộng hòa dân chủ Đức, mọi người đều chấp hành khá nghiêm túc các quy định về trật tự vệ sinh công cộng và giao thông, trong đó có một tâm lý rõ rệt là ngại công an phạt, đồng thời với ý thức là cần tôn trọng tự do người khác. Thưởng phạt rõ rệt và quyết liệt mới là cách giáo dục tinh thần trách nhiệm, có hiệu lực nhất, mới góp phần hết sức quan trọng loại dần hiện tượng trì trệ, tùy tiện, làm ăn lơ mơ, đủng đỉnh. Đó là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao kỷ luật lao động và từ đó nâng cao năng xuất lao động.
Có biện pháp thưởng phạt, mỗi khi thưởng và phạt có kèm vài câu nhắc nhờ thì sẽ có hiệu lực hơn 100 lần việc cứ họp suốt tuần, họp hết tài liệu nọ đến tài liệu kia. Tôi quan niệm giáo dục không phải chỉ là lên lớp học tập và có lẽ cũng không phải là chủ yếu là lên lớp và học tập.
Muốn tạo nên một tập quán xã hội, một tư tưởng xã hội thì phải tạo hành động quen thuộc thường xuyên hằng ngày, và muôn thế phải có quy tắc cụ thể và những quy tắc đó ai vi phạm nhất định phải trừng phạt.
Mọi người đi tàu hỏa hết sức "tự giác" đúng giờ đến ga khi làu chạy (mà không cần ai giáo dục mục đích ý nghĩa cả) là vì không đến đúng giờ thì bị "sự trừng phạt đau đớn ngay: lỡ tàu.
Phải làm cho bộ máy xã hội chạy một cách quyết liệt, lạnh lùng như đoàn tàu hỏa chạy vậy, buộc mọi người phải đúng giờ ra ga..
Tôi cảm thấy đây cũng là sự mong muốn của đa số đảng viên, cán bộ, thanh niên và nhân dân tôi gặp. Họ cũng muốn tôi phản ánh nhiều tình hình cụ thể với Bộ chính trị với ý định để Bộ chính trị nắm tình hình nhiều hơn.
Tuy các anh đã thấy được những tình hình cơ bản, nhưng hiện nay mọi người trung thực đều nóng lòng mong đón một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh mẽ, loại trừ mau chóng được một số mặt tiêu cực trong xã hội, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Tôi cũng muốn qua những ý kiến trên đây mà phản ánh với các anh một cách như vậy.
Chín Vinh
Tôi không hiểu lá thư tâm huyết của tôi có đến các anh không và nếu đến được thì các anh có bỏ ít thì giờ ra để đọc và suy nghĩ điều gì không. Nhưng tôi đã chờ đợi và chờ đợi. May sao sau đó luồng gió đổi mới từ Liên xô tới.
Đảng ta, đứng đầu là Tổng bí thư Trường Chinh, đã nhanh chóng tiếp nhận một cách sáng tạo, với quyết tâm lớn "Đổi mới hay là chết", đã vực dậy một đất nước hầu như đang lao xuống dốc không phanh...
Thực ra những vấn đề của đổi mới đã được nhiều cán bộ, đảng viên, các nhà trí thức, khoa học trong nước phát biểu nơi này nơi nọ, bằng các hình thức khác nhau, nhưng dường như nhiều đồng chí vẫn còn e ngại. Đây là một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm, là nguyên nhân của nhiều sai lầm được lặp đi lặp lại, và tiếc thay, vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay...
Nhớ năm 1946, khi chính quyền non trẻ mới thành lập, tài ba như Bác mà vẫn kêu gọi tìm người tài đức trong thiên hạ để giúp nước. Báo Cứu quốc ngày 20-11-1964 đã đăng thông cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với nhan đề: Tìm người tài đức.
Thông cáo viết:
"Nước nhà cần phải kiến thiết kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức.
E vì chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các đia phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thì phải báo cáo ngay cho chính phủ Báo cáo phải nói rõ: Tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó.
Hạn trong một tháng, các cơ quan đia phương phải báo cho đầy đủ.
Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
Hồ Chí Minh[4]
Bác Hồ thì như thế, còn chúng ta ngày nay thì sao? Hơn lúc nào hết, muốn cho công cuộc đổi mới hiện nay giành được thắng lợi, ta cần nhớ và thực hiện đúng những lời dạy quý báu của Bác Hồ:
"Có nhiều đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác... Họ quên rằng, chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng, so với nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu... Nêu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết.
"Vì vậy ta cần phải hợp tác với những người ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc, cô độc thì nhất định thất bại. "Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết, ôm lấy dĩ nhiên là làm không nổi. "Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào (như tôn giáo, quốc dân thiểu sô anh em tri thức, các quan lại cũ...) "Từ nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chữa cái bệnh hẹp hòi đó để thực hiện chính sách đại đoàn kết. "Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi... mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ, địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ bên trong phá ra[5]

TẬP 2 CHƯƠNG 2 ĐẠI HỘI 5
Đại hội IV của Đảng diễn ra suôn sẻ, tưng bừng như là một Đại hội mừng công. Những tràng vỗ tay dài như những đợt sóng liên tục vang lên trong hội trường Ba Đình. Hơn 1 nghìn đại biểu từ khắp các địa phương, các chiến trường tụ hội về đây, tay bắt mặt mừng. Những cuộc gặp gỡ cảm động, những vòng tay ôm nhau thân thiết. Nét mặt ai nấy rạng ngời một niềm vui, phơi phới tự hào. Không vui sao được, không tự hào sao được, bởi đây chính là ngày hội của những người chiến thắng. Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: "Dân tộc ta sẽ có vinh dự là một dân tộc nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ" đã được thực hiện. Đây là chiến công chung cả toàn dân tộc nhưng lực lượng tiền phong đi đầu, vừa dẫn đường chỉ lối, vừa xông pha trận mạc chính là những người cộng sản mà tiêu biểu là những đại biểu đang có mặt trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV hôm nay.
Đối với tôi, những ngày đại hội thực sự là những ngày vui Không khí tưng bừng của đại hội, những cuộc gặp gỡ thân tình với bạn bè, đồng chí. Có người từ Điện Biên Phủ nay mới gặp lại tính ra đã hơn 20 nam, có người suốt 16 năm từ Đại hội Đảng lần thứ III. Đặc biệt là các đồng chí ở 321 : Lê Trọng Tán, Đàm Quang Trung, Hoàng Cầm... Những tướng lĩnh từng xông pha trăm trận, gặp nhau đông đủ ở đây Đoàn đại biểu Quân đội trong Đại hội với tư thế hiên ngang, quân phục mùa đông thẳng nếp, trên ngực lấp lánh huân chương, tạo nên vẻ đẹp hào hùng cho Đại hội với đầy đủ ý nghĩa là một đại hội của những người chiến thắng.
Trước đại hội, tôi có viết một bài tùy bút với tựa đề: "Sự nghiệp vẻ vang của nhiều thế hệ" nói lên những suy nghĩ của mình trước chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nhân đang nói về Đại hội IV, tôi muốn trích vào đây một số đoạn Có thể nói đây là những suy nghĩ bước đầu của tôi về thời kỳ mới của dân tộc.
Mùa xuân 1975 đến và qua đi để lại trong lịch sử của Việt Nam và của thế giới một mốc son chói lọi: ở Việt Nam, một thắng lợi trọn vẹn của độc lập, tự do, ở thế giới, một thắng lợi của chính nghĩa và nhân phẩm. Ngày tháng cứ qua đi, nhưng ý nghĩa của thắng lợi mùa xuân 1975 cứ còn vang mãi, vang xa mãi... Những nhiệm vụ mới, tình hình mới, những vấn đề mới cứ đặt ta dồn dập tới tấp, nhưng ý nghĩa của thắng lợi vẫn cứ như ánh sáng lấp lánh, chói lòa ngày càng rực rỡ.
Lịch sử đã sang trang. Từ sau mùa xuân 1975, toàn bộ cuộc sống của mọi người dân Việt Nam đều gặp một sự đảo lộn sung sướng: bỏ lại sau một cuộc sống của tiền phương lớn, hậu phương lớn và bước vào một cuộc sống hòa bình vững chắc trong độc lập, tự do, cả nước sum họp một nhà, giang sơn liền một giải. Đất nước chuyển mình vào một thời kỳ lịch sử mới.
Thời gian cứ qua đi. Có những sự việc đã quên đi, nhưng có những sự việc còn nhắc mãi, càng nhắc, sự việc càng lớn lên mãi. Ta quên đi những hận thù, những đau sót, những khổ nhục. Ta nhắc mãi những chiến công, những đóng góp, những hy sinh và những yêu thương. Thời gian cứ đi, nhưng những cảm xúc, những tình cảm, những suy tư cứ lớn lên mãi, dài mãi ra và dày dặn mãi lên, phong phú mãi lên.
Những giọt nước mắt tức tưởi trước đây chỉ rơi dè dặt dưới bụi dừa nước, trong hầm bí mật, nay nó sẽ rơi trước lăng Bác và long lanh dưới ánh nắng của khoảng trời Ba Đình lồng lộng. Những niềm vui sướng trước đây thường tắc nghẹn ở từng nơi hoặc chỉ bừng nở vội vàng, thì nay có thể tràn ngập khắp không gian đất nước, khắp cả Hà Nội, đồng thời ngập cả Sài Gòn, dạt dào sông Hồng, đồng thời rộn rã khắp Cửu Long...
Những xum họp trước đây ngắn ngủi, bất ngờ hoặc chỉ gián tiếp qua những tờ giấy mỏng, thì nay được hẹn trước, được thể hiện trong những vòng tay, những bông hoa, những kỷ vật, những buổi liên hoan và những cuộc kể lể tâm tình vô tận, nhắc đi nhắc lại nhiều lần về những dự kiến tương lai.
Bao nhiêu việc cấp bách đã đặt ra: nào công ăn việc làm cho hàng triệu người, nào những hậu quả đau đớn và bẩn thỉu của bọn xâm lược để lại trong mỗi gia đình, mỗi tâm hồn con người, nào cải tạo những nếp sống, những nếp suy nghĩ không phù hợp nữa, nào tổ chức lại mọi việc theo quy mô nhà nước, nào những nhu cầu cấp bách: sách học, cơm ăn, vải mặc, củi đốt, phân bón, giống má nguyên liệu cho những công trình cấp bách...
Nhưng lại còn phải nghĩ các bước đi cho 10 năm, 20 năm, cho 50 năm, cho 100 năm, bước đi của đất nước, của nền kinh tế, của những con người, những thế hệ. Muốn tính được bước đi đó, muốn giữ vững non sông đất nước, lại phải còn xem lại đất nước ta hơn 4000 năm qua ra sao, hơn 100 năm qua thế nào và nhất là hơn 30 năm qua ta đã làm những gì. Những điều đó tiếp tục trong tương lai ra sao? Hình thành trong đầu óc những lớp người hôm nay hai mươi tuổi, mười tuổi và cả những lớp người đến nay chưa ra đời nữa, ra sao? Tài nguyên đất nước có những gì? Trong thế giới hiện nay, đất nước ta đi lên ra sao? Kinh nghiệm nào hay, kinh nghiệm nào dở? Những thất bại và thành công? Phấn khởi, vui mừng, cảm động, náo nức và có những lo nghĩ, suy tư, những bực bội, những sốt ruột, vừa làm mở mang tâm trí, lại vừa quặn thắt nỗi lòng.
Nhưng dù sao một suy nghĩ bao trùm vẫn là một suy nghĩ cho riêng ta, riêng dân tộc ta, riêng giai cấp công nhân cách mạng, cho hiện tại, cho tương lai và cho chung cả nhân dân thế giới: Đó là suy nghĩ về "Sức mạnh Việt Nam", sức mạnh của cách mạng và sức mạnh của phản cách mạng, sức mạnh Việt Nam và sức mạnh đế quốc Mỹ trong thời đại này.
Có một điều cảm tưởng rõ rệt nhất và chung nhất là ta thấy được rõ hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn cái sức mạnh vật chất, tiền của đế quốc Mỹ, cái thâm độc, xảo quyệt của thực dân kiểu mới với các loại triết lý, học thuyết chống cộng phản động của nó. Nếu ta không phải là người đã trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu và chiến thắng vĩ đại này, thì ắt là ta phải lóe mắt, ngợp đầu về những sức mạnh "không tưởng tượng được" của nền văn minh kỹ thuật của Hoa Kỳ, sẽ rùng mình kinh sợ trước những cái xảo quyệt, tàn bạo, và rồi tự hỏi "Làm thế nào để có thể sống sót, để có thể chống nổi những cái đó", chứ chưa kể đến đánh bại nó. Chính những bọn tay sai của Mỹ đã thật sự tin tưởng vào sức mạnh đó, chúng không giải thích nổi tại sao chúng lại thua và không giải thích nổi cái số phận "đuôi chó" của chúng. Rất nhiều người có lương tri sống trong những vùng địch chiếm và hoặc ở nơi này, nơi khác của thế giới đều chứng tỏ ra đồng tình với mục đích chiến đấu của chúng ta, cảm phục cuộc chiến đấu của ta, nhưng cũng đã từng "không tưởng tượng nổi" thắng lợi cuối cùng của ta. Thậm chí, có những người biết rõ Mỹ xâm lược và theo Mỹ là tay sai, là việt gian, nhưng cũng tự nhủ rằng: Mỹ nó mạnh thế, không thể không theo Mỹ và rồi tự an ủi bằng câu "gặp thời thế, thế thời phải thế với một tinh thần tiêu cực hoặc với một tiếng thở dài, xuôi tay cho "thế sự và "sức mạnh Hoa Kỳ".
Thế đấy! Thế mà ngày nay cả 50 triệu người của cả dân tộc ta đang vượt lên trên những hình bóng của thứ sức mạnh ghê gớm ấy, đang ca hát, đang khôi phục, đang xây dựng, nhân dân lao động đã vào cái gọi là dinh Độc lập, để tận mắt xem bọn tay sai sống trên nhung lụa như thế nào? Trẻ em nhảy nhót trên những xác xe tăng gục đổ, la hét và đùa vui. Cả dân tộc ta vụt đứng lên y hệt như một người có phép thần và đã khuất phục được một loài quỷ khát máu và tàn bạo mà mọi người không ai không kinh sợ. Không những thế, ta còn đem cái thân xác thất bại của loài quỷ đó phơi bày cho cả thiên hạ xem. Và những người trung thực bỗng thấy thêm lòng can đảm, thêm niềm tin nụ cười hướng đến tương lai để gạt bỏ những sự hù đọa của bọn hung nô của thời đại.
Quả thật, kẻ địch của ta đã có một sức mạnh ghê gớm. Nhưng nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại có sức mạnh lớn lao hơn, kỳ diệu hơn và đã thắng chúng một cách vẻ vang trọn vẹn, dứt khoát rõ rệt. Chúng cũng không thể cãi bài bây mà xí xóa thất bại của chúng được. Kể ra khó mà nói là kẻ địch yếu. Chúng có một loại sức mạnh của chúng. Nhưng Việt Nam lại có một loại sức mạnh của Việt Nam. Và, sức mạnh Việt Nam thắng sức mạnh của đế quốc Mỹ. Vậy sức mạnh Việt Nam phải cao siêu hơn, kỳ diệu hơn: đó là sức mạnh cách mạng, sức mạnh của thời đại, sức mạnh của chủ nghĩa Mác Lênin, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, của tinh thần đoàn kết sâu sắc. Sức mạnh đó biểu hiện tập trung vào sự lãnh đạo tài tình và niềm tin sâu sắc mạnh mẽ. Sức mạnh đó được tích lũy từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Trong những ngày hội của non sông, trên khắp nẻo đường của đất nước, trong các phòng họp, trên các công trường, đồng ruộng... Chúng ta đã gặp bao nhiêu gương mặt khác nhau. Có những gương mặt của niềm hân hoan trọn vẹn: Thắng lợi, sum họp, chung thủy, có những gương mặt của niềm vui chung và nỗi đau riêng.
Ta hãy đi tìm những gương mặt của nhiều thế hệ. Đây là những gương mặt của các đồng chí của "thời dựng Đảng" những người học trò và đồng chí đầu tiên của Bác Hồ. Hiện nay, đó là những gương mặt của các đồng chí lãnh đạo tuổi đã suýt soát bảy mươi. Những cụ già khác vào tuổi đó đều đã trải qua dưới nhiều chế độ áp bức và khủng bố, ngày nay được nhìn thấy độc lập, tự do, trông thấy con cháu đều thật sự "đã nên người" có kiến thức, có việc làm, biết tự hào, thì các cụ vẫn tự nhủ lòng "bây giờ nhắm mắt cũng yên tâm, vui lòng, hả dạ". Nhưng còn các đồng chí lãnh đạo của chúng ta thì ba bốn chục năm tranh đấu đã qua lại chỉ chứa chất thêm trong đầu bao nhiêu dự tính ngày càng phong phú, càng tha thiết cho những năm sấp tới Những dự tính đầy ứ và nóng bỏng, mà sức lực không còn như xưa, thời gian để thực hiện những dự tính thì còn quá ngắn. Phấn khởi và tự hào về thắng lợi càng dạt dào, tin tưởng vào tương lai càng vững chắc, thì những lo âu về vạch ra những dự tính, tìm những phương pháp và những con người đủ khả năng và tin cậy để thực hiện các dự tính đó lại càng nặng trĩu, càng gay gắt và càng sôi bỏng. Những gì các đồng chí đã cảm thụ và nhận thức được trong gông cùm, trong máu lửa vẫn cứ như những giọt thép chảy đốt cháy tâm can. Những người kế thừa cảm thụ nhận thức ra sao đây? những chân lý đơn giản: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa, đạo đức "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", "đoàn kết là sức mạnh", lại cũng là những chân lý vĩ đại. Nói đơn giản vì ai cũng nói được. Nhưng nó vĩ đại bởi vì muốn thực sự nhận thức được nó và toàn tâm thực hiện nó, lại phải có phẩm chất, nghị lực phi thường.
Lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc đã được 50 năm qua làm cho rạng rỡ như bây giờ. Nhưng không phải và không thể cứ sống như bây giờ: hằng năm, vẫn còn những ngày tháng giáp hạt thiếu ăn, nhà ở của nhân dân còn thiếu thốn, chật chội, còn có chỗ tối tăm, bữa ăn chưa đủ định lượng, chưa ngon, đa số trẻ em còn chưa có chỗ học đàng hoàng và chỗ chơi tử tế, trong cuộc sống người ta còn ganh tỵ, hách dịch, việc làm còn trì trệ, thậm chí còn có người ăn cắp, hối lộ,. trốn việc, có người trù móc nhau, lừa lọc, tranh giành, bất mãn... nhìn rộng ra thì cả thế giới cũng đang tiến lên những con đường phong phú và phức tạp Xã hội chủ nghĩa trở thành một xu thế của lịch sử, đồng thời là ước mơ, khát vọng của loài người. Nhưng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa lại không thể không trải qua những bước đi khác nhau: nhanh hay chậm, thành công hay thất bại, thậm chí cả việc vừa xã hội chủ nghĩa vừa lại là không phải xã hội chủ nghĩa, hoặc xã hội chủ nghĩa thật, cũng có xã hội chủ nghĩa giả. Kẻ thù của xã hội chủ nghĩa ra sức xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, chê bai, khoét sâu khuyết, nhược điểm, lợi dụng mâu thuẫn "Đâm bị thóc, chọc bị gạo" luôn tìm sơ hở để phản kích ác liệt.
Bác Hồ nói: "Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Ngày nay, non nước ta đã được giữ vững, ta lại phải nhớ câu Bác Hồ dặn lại trước lúc Bác đi xa: "Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!" và "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết".
Lớp trẻ ta, bây giờ bắt đầu phải bảo nhau: Bác Hồ và các Bác đi trước đã có công giữ nước, nay chúng ta phải cùng nhau dựng nước to đẹp hơn mười lần xưa để Bác được vui lòng. Bác Hồ vẫn yên nghỉ nơi quảng trường Ba Đình theo dõi các bước đi của con cháu.
Chúng ta phải cùng nhau, nghĩa là phải là một khối đoàn kết nhất trí góp sức mỗi người một phần, cái phần đó mỗi người ta cố gắng cho nó được nhiều, được to, dù rằng so với lịch sử từ trước đến nay cũng như so với không gian của Tổ quốc, chỉ là phần rất nhỏ bé. Nhưng, chúng ta phải cùng nhau?
Trong sự quan hệ cùng nhau của nhiều thế hệ này, không khỏi không nảy sinh những mâu thuẫn. Những ưu tư và kinh nghiệm và những mong ước sâu xa của những lớp người đi trước, thì lớp đi sau cũng khó mà hiểu được cho hết ngay một lúc, còn những ước mơ táo bạo, những kiến thức mới mẻ, những sức lực dồi dào và những mong muốn phong phú của lớp người đi sau, thì lớp người đi trước cũng không thể nào hiểu hết được và cũng không thể nào hiểu được sâu sắc.
Nhưng đã là quan hệ cùng nhau thì chỉ có quyền cùng nhau bổ sung, cùng nhau bồi đắp cho nhau, chứ tuyệt nhiên không có sự chê bai và phủ nhận.
Ta thường nghe những dư luận:
- Đảng lãnh đạo chiến tranh giỏi, lãnh đạo kinh tế, văn hóa không giỏi.
Đảng lãnh đạo chính trị giỏi, chứ lãnh đạo khoa học kỹ thuật, chuyên môn không giỏi.
Phải trên một chân lý hiển nhiên là có Đảng lãnh đạo mới có nền kinh tế và văn hóa như ngày nay. Có Đảng lãnh đạo nước ta mới có một trình độ khoa học và kỹ thuật như ngày nay. Và trên cơ sở chân lý đó, có những yêu cầu nâng cao sức lãnh đạo của Đảng về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật thì tạm coi là một ý kiến tích cực. Nhưng, từ những ý kiến đó mà đi tới một sự chê bai, châm chọc, thậm chí phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng thì là những ý kiến phản động mà kẻ thù của ta mong muốn gợi lên.
"Những luận điệu cứ muốn gạt bỏ những người già (mà thực tế không thể gạt được) là một luận điệu sai lầm. Nhưng những luận điệu cứ cho là trẻ con, non nớt, chưa làm được việc thì cũng quá cũ kỹ và trì trệ. Trong cuộc sống luôn có lớp người trẻ, lớp người già, có lớp người đi sau, lớp người đi trước. Và điều đó cứ làm bản thân tôi luôn luôn suy nghĩ. Đó cũng vì tôi thuộc loại người vừa đi trước vừa đi sau, già thì chưa quá già, mà trẻ thì cũng không còn trẻ nữa. Đã từ lâu không có cái thú làm cha, mà cũng đã từ lâu đã có cái thú làm ông. Các anh lớn gặp tôi thì nói "mày còn trẻ lắm" nhưng các thanh niên gặp tôi đã từ lâu, không gọi là chú nữa mà kêu là thưa bác, cả chung quanh họ hàng tôi đã là một đội ngũ cháu gọi bằng ông không đếm xuể nữa. Các cháu nhỏ nhìn tôi bằng con mắt tò mò như muốn tìm những gì thần bí cổ xưa trong các câu chuyện xảy ra từ lúc chúng chưa ra đời. Nhiều chuyện chúng nó nghe mà không hiểu. Cũng có nhiều chuyện các cháu làm bây giờ tôi cũng cứ băn khoăn "Không hiểu tại sao nó làm thế?"
Lớp người lớn tuổi đi trước thì nhìn vào cơ đồ sự nghiệp của nước nhà gây dựng được đến ngày nay, thấy ở đó biết bao xương máu, bao đắng cay, bao tâm huyết của bao nhiêu lớp người... mà tâm tư suy nghĩ không biết rằng những người kế thừa có tiếp tục phát triển được sự nghiệp như ý Bác Hồ mong muốn, xứng đáng với những vinh dự, vẻ vang đã đạt được hay không?
Lớp người mới lớn lên, có hoài bão có chí khí nhìn vào những cục diện lớn thì hoặc thiếu tự tin ở kinh nghiệm tài năng của mình, hoặc quá tự tin vào kiến thức và sức bật mạnh mẽ của mình mà tâm tư lo ngoại những "ông già" ngày càng chậm chạp, bảo thủ, không đưa được đất nước bay bổng trên những đôi cánh ước mơ vĩ đại.
Thường thường những người trẻ tuổi ít tự tin ở tài năng và kinh nghiệm quán xuyến toàn diện, nhưng lại nhiều tự tin vào lãnh vực cụ thể mà mình được học tập, nghiên cứu và hoạt động. Và trong mỗi lĩnh vực, những người trẻ tuổi đều có cảm giác bức bối chật hẹp chưa thỏa được lòng vùng vẫy: chật hẹp về đời sống, chật hẹp về điều kiện làm việc, chật hẹp về sự chỉ đạo cụ thể, vướng víu trong các mối quan hệ hiệp đồng... Vì vậy một tâm trạng chờ mong ao ước ở sự lãnh đạo chung, có được những bí quyết thần tình gì, hoặc có một cái gì mới mẻ hơn, gỡ được nhiều gút mắc vướng víu để tất cả được thoải mái vùng vẫy bay xa.
Không thể lấy những ngày tuổi trẻ của những năm cách đây 20 - 30 năm để hiểu được những ngày tuổi trẻ hiện nay, nhưng những người lớn tuổi lại có thể đo kinh nghiệm dày dạn của mình, hiểu được những tác động khác nhau đến tuổi trẻ, mà bản thân tuổi trẻ ngày nay khó nhận ra. Tuổi trẻ ngày nay đang lớn lên trong một hoàn cảnh lịch sử rất phong phú mà cũng rất phức tạp.
Tuổi trẻ nước ta sinh ra trong một nước mà nền sản xuất còn thấp, kinh tế còn nghèo, nhưng lại được tiếp thu những kiến thức khoa học rộng rãi, thật mới mẻ, được tiếp xúc hằng ngày với bao nhiêu lý thuyết khoa học thật và giả, bao nhiêu quan hệ rối rắm mới lạ. Đời sống vật chất và những điều kiện và đời sống tinh thần trước mắt không phù hợp chút nào với những kiến thức và những nhu cầu ngày càng cao càng nhiều về cả vật chất lẫn tinh thần, và cả những quan hệ ngày càng nhiều nội dung tế nhị và phong phú. Vì vậy trong các loại tâm tư, có cả những tâm tư về đời sống, về điều kiện làm việc và về quan hệ xã hội. Nhưng tất cả các loại tâm tư thì lại đều nhân danh lý tưởng, nhân danh sự nghiệp, cho nên nhiều khi những tâm tư đó cũng mâu thuẫn đối chọi nhau, vướng mắc nhau, không thoát ra được.
Ngay cả trong những lớp người lớn tuổi nhưng tâm tư cũng đủ loại, đủ kiểu như vậy. Những yếu tố tiêu cực như nấm độc cứ len lõi khắp nơi. Chỉ những chỗ nào, lúc nào ánh sáng của lý tưởng, của sự nghiệp chân chính chiếu rọi vào thì mới hạn chế được những nấm độc chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, của những thói tự cao tự đại và bảo thủ lạc hậu -ánh sáng đó là mặt trời, mặt trời chân lý, mặt trời của lý tưởng, của sự nghiệp. Dù sao nó cũng cứ vằng vặc sáng soi khắp chỗ, dù sao cũng có đội ngũ những con người chân chính giương cao, mây mù che lấp nó chỉ là những đám mây tạm thời giao động, không bền vững, luôn luôn bị ánh sáng chói lọi xé tan ra và những làn gió đấu tranh quét sạch đi, mây mù tan ra rồi lại tụ lại, bị gió quét đi rồi lại bay quẩn. Nhưng nó cũng chỉ là những đám mây, và mặt trời vẫn cứ là mặt trời".
Trong Đại Hội IV hầu như ai cũng thấy rõ một nỗi buồn vắng Bác, nhất là những đồng chí có mặt từ đại hội III. Dạo đó Bác đã 70 tuổi, nhưng còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Bác ngồi ghế Chủ tịch đoàn, một bên là đồng chí Trường Chinh, một bên là đồng chí Lê Duẩn. Trong không khí tưng bừng của Đại hội IV hôm nay, tôi càng nhớ một đoạn trong diễn văn khai mạc Đại hội III của Bác:
"Đảng ta có thể tự hào là người kế tục những truyền thống vẻ vang của dân tộc ta, là người mờ đường cho nhân dân ta tiến lên một tương lai rực rỡ". Và Bác nhấn mạnh:
"Tất cả những thắng lợi đó không phải là công lao riêng của Đảng ta. Đó là công lao chung của toàn thê đồng bào trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào."
Rất tiếc là người ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu hết ý nghĩa những lời nói quan trọng có chủ ý giáo dục đó của Bác. Chính vì vậy, mà sau này có người nói không khí của đại hội 4 là không khí say sưa chứa đầy những chất men chiến thắng, ý nghĩ cho mình là những người "Khai quốc công thần" bộc lộ khá rõ ở một số người và tác hại của ý nghĩ ấy rất lớn ở vào những năm sau đó. Mặt khác, sự say sưa chiến thắng đã làm cho một số người nào đó vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt mang vào đại hội tinh thần tự mãn, duy ý chí và phải đúng mười năm sau, đến Đại hội VI mới bắt đầu khắc phục được. Bản thân tôi cũng chịu một phần trách nhiệm đó. Rất tiếc là không còn Bác cho đến hôm nay. Nếu còn thì trong Đại hội này, Bác lại sẽ nói: "Đây chỉ là thắng lợi bước đầu... như sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ năm 1954. Sau này khi đi chúc của Bác được công bố toàn văn, chúng ta mới biết, Bác đã dặn dò rất kỹ những công việc phải làm sau chiến tranh:
"Ngay sau khi cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man."
Và Bác nhắc nhở dặn dò:
"Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm." Thực là những lời Bác dạy sáng suốt biết bao, nếu không nói đó là một nhà tiên tri vĩ đại. Trong đi chúc Bác còn dặn một điều cực kỳ quan trọng:
"Theo ý tôi việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng".
Tại Đại hội IV, tôi trúng cử ủy viên Trung ương. Lúc này tôi bước vào tuổi 53. Như người ta nói: "49 chưa qua, 53 đã tới" lẽ ra là năm hạn, nhưng tôi đã thấy có điều gì không xảy ra trong cuộc sống của mình. Cũng như cả cuộc đời tôi, từ năm 17 tuổi tham gia hoạt động cách mạng cho đến nay nói chung là suôn sẻ, thuận lợi. Có bị bắt vào tù, bị tra tấn dã man, nhưng đã dũng cảm vượt qua, chiến thắng trở về đội ngũ. Cuộc đời tôi hơn 35 năm qua là những năm tháng đẹp đẽ, thật sự đáng tự hào: 18 tuổi vào Đảng, 19 tuổi đã là tỉnh ủy viên dự khuyết Thái Bình, 23 tuổi là Chính ủy Mặt trận Hà Nội, 27 tuổi là Chính ủy Đại đoàn, 32 tuổi là Chính ủy quân khu, 35 tuổi dược phong hàm Thiếu tướng. Như vậy là vào quân đội, tôi không qua binh nhất, binh nhì, không qua cấp úy, cấp tá mà khi Quân đội có chế độ quân hàm năm 1958, tôi được nhận ngay quân hàm tướng.
Sau Đại hội IV, tôi chính thức được chuyển ngành sang làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, phụ trách bí thư Ban cán sự đồng thời kiêm nhiệm chức phó Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách văn hóa văn nghệ. Đây chủ yếu là do nguyện vọng của tôi. Còn một số đồng chí quen thân thì thành thật khuyên tôi nên ở lại tiếp tục phục vụ trong Quân đội. Nhưng cái duyên nợ với văn hóa văn nghệ đã lôi kéo tôi vào con đường mà sau này tôi mới nhận ra lắm chông gai.
Những ngày đầu mới ra cơ quan dân sự tôi cảm thấy thật bỡ ngỡ. Đặc biệt là đi đến đâu cũng nghe nói đến những hiện tượng tiêu cực, nào là lên án nhau, nặng lời với nhau, rồi thì hiện tượng bè phái, ê kíp... nghe nó lạ tai lắm. Lúc đầu tôi không tin đó là sự thật, bởi làm sao cùng làm cách mạng, cùng đồng chí với nhau, lại có thể xảy ra những chuyện như thế. Nhưng đến khi chuẩn bị cho đại hội V thì những điều ấy đã bộc lộ một cách rõ ràng ngay trước mắt tôi mà thể hiện tập trung nhất là vấn đề nhân sự
Lúc bấy giờ vào cuối năm 1981, Ban văn hóa văn nghệ Trung ương vừa thành lập, tôi được bổ nhiệm làm trưởng ban, trong lúc vẫn là Bí thư ban cán sự kiêm Thứ trưởng bộ văn hóa.
Từ lâu rồi, có lẽ từ khi sinh ra chủ nghĩa xã hội, cứ mỗi lần đại hội Đảng cầm quyền là mỗi lần vấn đề nhân sự lại nổi lên hàng đầu. Đây là dịp để sắp xếp lại bộ máy trên tất cả các ngành, các cấp, các địa phương.
Riêng về lĩnh vực Văn hóa - Văn nghệ thì ngay từ đầu tôi đã được ban tổ chức Trung ương mời sang trao đổi về việc sắp xếp ở Bộ Văn hóa, ở Ban Văn hóa văn nghệ, ở các hội văn học nghệ thuật. Ngoài ra, Ban văn hóa văn nghệ còn góp người cùng các Ban khác, dưới sự điều hành của Ban tổ chức Trung ương làm nhiệm vụ thẩm tra các vụ việc dính líu đến các Trung ương ủy viên hoặc những đồng chí dự kiến sẽ vào Trung ương khóa V.
Trước hội nghị Trung ương chính thức bàn về nhân sự, anh Nguyễn Đức Tâm có nói riêng với tôi là khối văn hóa văn nghệ, vấn đề nhân sự không có gì thay đổi. Tôi cũng tin là như thế. Vì tôi mới nhận nhiệm vụ Trưởng ban văn hóa văn nghệ chưa được một năm đang còn triển khai ổn định tố chức, biên soạn chức danh. Nguyễn Đức Tâm là bạn cùng thời học sinh với tôi hồi nhỏ, rất biết tôi mê văn học từ ngày còn trên ghế nhà trường, bây giờ ở cương vị Phó ban Tổ chức Trung ương nói như thế nên tôi rất tin. Vả lại, hồi đó, tôi vừa đi học một lớp nghiên cứu về văn hóa văn nghệ ở Liên xô về nên đang tập trung thời gian vào việc triển khai những điều thu hoạch được mà sau này nó là một trong những tiền đề của Nghị Quyết 05. Do đó, vấn đề nhân sự đối với tôi, đối với ban văn hóa văn nghệ, đối với Bộ văn hóa, tôi cứ nghĩ không có vấn đề gì.
Thế mà một hôm, đang ngồi làm việc thì tôi nhận được giấy mời họp của Tiểu ban nhân sự Đại hội 5. Địa điểm: 4 Nguyễn Cảnh Chân. Tôi tự hỏi: "Quái! Không biết còn vấn đề gì nữa?" Tôi có trao đổi với một số đồng chí xung quanh thì có đồng chí nói ngay: Sao anh đơn giản thế. Những việc làm vừa qua chỉ là những động tác thăm dò, còn bây giờ mới thực sự đi vào "giai đoạn quyết đấu, anh phải suy nghĩ thật kỹ, chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi tình huống.
Thế là tôi lần lượt điểm lại những sự việc đã diễn ra vừa qua. Nổi lên là hình ảnh một người có tên Chú, cán bộ của Ban tổ chức Trung ương, phụ trách khu vực Văn hóa văn nghệ, có chân trong bộ phận giúp việc Ban nhân sự đại hội.
Đúng là thời gian qua, đồng chí này có đến làm việc với tôi nhiều lần trong đó có việc phải hoàn thành một bản nhận xét về tôi để trình bày ban nhân sự Đại hội. Mà không chỉ riêng tôi, nhiệm vụ của đồng chí này còn phải làm bản nhận xét đối với từng đồng chí trong ban lãnh đạo Bộ Văn Hóa như Nguyễn Văn Hiếu, Hà Xuân Trường, Nông Quốc Chấn... và một số đồng chí thứ trưởng khác. Riêng về tôi, trong quá trình làm việc, quan hệ giữa tôi và đồng chí Chú đã đến chỗ thân tình, đôi khi đến mức rủ rỉ với nhau như là tâm sự. Tôi không chủ quan khi nói rằng, đồng chí Chú rất mến và quý tôi. Nhưng quá trình đi tìm hiểu dư luận về tôi thì lại có ý kiến không giống như sự hiểu biết của đồng chí ấy về tôi. Do đó tôi cảm thấy đồng chí Chú có nhiều băn khoăn khi phải làm bản nhận xét về tôi.
Biết vậy tôi nói với đồng chí Chú : Anh cứ khách quan mà làm theo chức trách của mình, dư luận xung quanh thế nào về tôi anh cứ phản ánh với cấp trên đúng như thế. Không hiểu đối với những người khác, đồng chí Chú làm thế nào còn riêng đối với tôi, đồng chí làm "Rất dân chủ. Trước hết đồng chí ấy đến trao đổi thẳng thắn những điểm mà đồng chí dự kiến sẽ nhận xét về tôi rồi nghe tôi trao đổi lại một số ý, sau đó đồng chí Chú mới thảo bản nhận xét chính thức và đem đến đọc cho tôi nghe, hỏi xem tôi có ý kiến gì không? Do đã có trao đổi trước nên tôi hoàn toàn nhất trí. Tôi thấy đồng chí Chú tỏ ra rất băn khoăn trong quá trình làm bản nhận xét này. Nguyên do là khi đi nắm tình hình, có hai luồng dư luận khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau về tôi. Luồng thứ nhất là : Trần Độ lỏng lẻo về quan điểm trong lãnh đạo Văn hóa văn nghệ, cho nên không thể tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được. Luồng dư luận thứ hai thì lại đánh giá rất cao, về khả năng lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Trần Độ: Nào là sắc bén, đúng đắn, được lòng nhiều anh em trong giới văn nghệ; Nào là chịu khó học tập, nghiên cứu, tìm tòi nên thường đề xuất được nhiều ý kiến mới mẻ.
Cả hai luồng ý kiến đó dẫn đến hai kết luận khác nhau: Một là đồng chí Trần Độ không thể lãnh đạo được Văn hóa văn nghệ, hai là đồng chí Trần Độ lãnh đạo văn hóa văn nghệ tốt. Điều đáng chú ý là người làm báo cáo không dứt khoát đứng về nhận định nào cả, mà chỉ nêu hai nhận định như vậy một cách khách quan...
Sau khi hoàn thành bản nhận xét, một hôm đồng chí Chú đến thăm tôi. Anh ngồi trầm ngâm một lúc rồi tâm sự:
- Tình hình nhân sự của đại hội V sắp tới rất phức tạp. Có những chuyện lớn lắm.
Đồng chí Chú nói:
- Riêng cái việc của anh thì xin trình bày thật với anh như thế này. Rõ ràng hai luồng dư luận về anh nói lên hai quan điểm khác nhau về văn hóa văn nghệ. Do đó, việc Trung ương có tiếp tục dùng anh hay không nói lên sự thắng bại của hai quan điểm đó... Nếu Trung ương chấp thuận những ý kiến của anh, chấp thuận phong cách lãnh đạo của anh thì chứng tỏ khuynh hướng lãnh đạo văn nghệ sắp tới sẽ có những biến chuyển mới.
Phải chăng cái giấy mời lên Nguyễn Cảnh Chân lần này là để biết rõ Trung ương còn tin dùng tôi hay không. Thú thật là đêm trước ngày đến dự cuộc họp về nhân sự ở Ban tổ chức Trung ương, tôi có thao thức suy nghĩ nhiều. Tôi mới 58 tuổi, đã ở Trung ương hai khóa liền tổng cộng 21 năm. Tôi lại vừa đi học ở Liên xô về, vừa mới nhận chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương với bao nhiêu dự định sẽ triển khai thực hiện. Tôi đang muốn có điều kiện đóng góp nhiều hơn cho Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, cũng như trong chiến tranh tôi đã đóng góp hết sức mình cho thắng lợi của toàn dân, trên cương vị người lính. Tôi không có tham vọng gì lớn.
Tôi say mê văn hóa văn nghệ vì tự nhận mình có ít nhiều khả năng về mặt này. Tuy chẳng tài ba gì cho lắm nhưng dù sao cũng đã được mọi người, kể cả tổ chức thừa nhận. Do đó thực sự là tôi chưa muốn nghỉ. Mới 58 tuổi, còn sức khỏe, còn khả năng mà lại nghỉ hưu trong lúc cuộc chiến đấu của toàn dân tộc đang còn tiếp diễn thì vô lý quá
Tôi bước chân đến cổng 4 Nguyễn Cảnh Chân, đồng chí thường trực quen biết tôi chạy ra mời đon đả:
- Các anh đến đủ cả rồi, mời anh vào?
Các anh nào nhỉ?
Tôi bước vào thì ồ, lạ chưa? Toàn là các khuôn mặt quen thuộc cả, đầy đủ toàn bộ các vị trong ban cán sự Bộ văn hóa mà tôi là Bí thư: Nguyễn Văn Hiếu, Hà Xuân Trường, Cù Huy Cận, Lê Thành Công, Nông Quốc Chấn, Mai Vi... Rõ ràng đây là một cuộc họp Ban cán sự mà tôi không hề biết...
Tôi im lặng bước vào phòng, không chào hỏi ai, không bắt tay ai, cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, tìm một chỗ ngồi ở cạnh cửa sổ. ở Bộ văn hóa, mỗi lần có những cuộc họp gồm những nhân vật này, bao giờ tôi cũng ngồi ghế chủ trì, và những người vây quanh tôi bao giờ cũng vui vẻ, niềm nở.
Còn bây giờ mọi người nhìn tôi bằng những cặp mắt khác. Thì ra thời thế đổi thay thì nhân tình thế thái cũng đổi thay. Trong lúc tôi đang cố đoán xem ai đứng ra triệu tập cuộc họp này và mục đích cuộc họp là gì thì một cán bộ trong Ban tổ chức từ phòng bên bước ra vui vẻ nói:
- Xin các anh chờ cho ít phút nữa, anh Thọ đang có tý việc mắc bận.
Thì ra người chủ trì cuộc họp hôm nay là ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức - Lê Đức Thọ. Té ra người triệu tập một cuộc họp Ban cán sự của một Bộ mà Bí thư của Ban cán sự ấy không được biết.
Nói là chờ ít phút nhưng cũng phải đến nửa tiếng. Mỗi người cầm trong tay một chén nước để trước mặt nhưng hầu như không ai uống. Họ ngồi gần nhau, thỉnh thoảng rỉ tai nhau một chuyện gì đó, cặp mắt hướng về chiếc cửa thông sang buồng bên, nơi trưởng ban tổ chức xuất hiện. Hầu như ai cũng muốn mình là người đầu tiên được nhìn thấy Trưởng ban tổ chức Trung ương bước vào phòng.
Và cuối cùng thì Lê Đức Thọ bước vào phòng họp, dáng đi nhanh nhẹn, nụ cười mở rộng trên môi. Phải nói là anh Thọ có nụ cười khá hiền hậu cộng với cách ăn mặc giản dị làm cho người ta ngay cái phút đầu tiên cảm thấy dễ gần gũi. Không ai nghĩ rằng, đằng sau nụ cười ấy, bên trong sự giản dị ấy là một con người quyền uy, nắm trong tay sinh mệnh chính trị của hàng triệu cán bộ đảng viên.
Khi anh Thọ bước vào, tất cả đều đứng dậy. Riêng tôi vẫn ngồi yên. Làm sao mà phải thế. Động tác này chỉ có thể dành cho Bác Hồ, hoặc chí ít là Tổng Bí thư. Hà Xuân Trường chạy đến bắt tay trước, rồi dẫn anh Thọ đi một vòng bắt tay từng người.
Khi đến gần tôi, tôi mới đứng dậy, anh Thọ bắt tay tôi và hỏi vui:
- Thế nào, người bạn tù Sơn La của tôi dạo này có khỏe không?
Tôi vui vẻ đáp lại:
- Khỏe lắm!
Đối với tôi, anh Thọ là một người có nhiều kỷ niệm tốt đẹp nhưng cũng có những tình cảm trái ngược nhau mà bản thân tôi chưa phân tích một cách rõ ràng được. Về cơ bản mà nói, tôi phục và quý mến anh Thọ. Cho đến nay, khi tôi viết những dòng này, tình cảm quý mến vẫn hầu như nguyên vẹn, mặc dầu ở phần dưới đây, tôi sẽ kể lại toàn bộ sự việc Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ không muốn tôi tiếp tục ở Trung ương khóa V như thế nào.
Thực ra ngay trước Đại hội V tôi đã nghe nói nhiều về quyền hành của Lê Đức Thọ, về sự bất bình của người này người khác khi bị Lê Đức Thọ đối xử thế này thế khác, nhưng tôi thì vẫn giữ nguyên những tình cảm quý mến anh, bởi tôi cho rằng những điều tiếng này nọ đối với anh Thọ là khó tránh khỏi khi anh ở cương vị một người phụ trách công tác tổ chức - một công tác cực kỳ phức tạp, liên quan đến sự tồn vong của một Đảng, động chạm đến quyền lợi sống còn đối với nhiều người. Nếu không có quan điểm toàn Cục, khách quan thì sẽ sinh ra oán trách khi sự phân công bổ nhiệm không vừa ý mình. Mà việc này thì làm sao tránh được.
Tôi biết anh Thọ vẫn thường quan tâm đến tôi. Gần đây khi nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, có cô cháu gái về đằng vợ anh Thọ là bác sĩ ở đó, kể cho tôi nghe câu chuyện chiếc áo anh Thọ mang từ Pa-ri về, một số người trong gia đình muốn xin anh cũng không cho. Anh bảo: Cái này để làm quà cho thằng Độ. Cô bác sĩ ấy nói: Cháu không hiểu do đâu mà Bác Thọ cưng chú đến thế. Tôi kể cho cô bác sĩ ấy biết rằng tôi và anh Thọ quen nhau ở nhà tù Sơn La từ năm 1942, đã trải qua những ngày gian khổ sống chết có nhau: Dạo đó, tôi là một thanh niên hăng hái, mới 18 tuổi, trẻ đẹp có học thức. Anh Thọ là người kết nạp tôi vào Đảng...
Cũng như năm 1945, sau Cách Mạng tháng 8, anh Thọ gọi tôi lên bảo:
- Bây giờ có hai việc, cậu tự chọn lấy, một là làm Chủ tịch tỉnh Phúc Yên. Hai là về Hà Nội làm lính chiến đấu.
Và tôi đã chọn cuộc đời làm lính, rồi sau đó trở thành Chính ủy đầu tiện của Mặt trận Hà Nội. Tiếp đó làm lính suốt 30 năm trời.
Cuộc họp hôm nay, chính người kết nạp tôi vào Đảng cách đây 35 năm, chủ trì kiểm điểm tôi, một cách làm đã trở thành quen thuộc của cơ quan tổ chức, nhằm mục đích hợp lý hóa một vấn đề nhân sự.
Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, anh Thọ tuyên bố lý do cuộc họp ngay, không rào đón gì cả:
- Hôm nay tôi mời các đồng chí trong Ban cán sự Bộ Văn hóa lên để tiến hành việc kiểm điểm đồng chí Trần Độ.
Trong lúc tôi đang bị bất ngờ trước lời tuyên bố của anh Thọ thì anh Thọ vẫn tiếp tục bằng cái giọng đều đều:
- Tôi biết các đồng chí trong ban cán sự cũng đã họp, đã kiểm điểm đồng chí Độ rồi, nhưng gần đây có nhiều dư luận về đồng chí Độ, trong đó có những vấn đề thuộc về quan điểm, phong cách nên tôi mời các đồng chí lên đây tôi sẽ trực tiếp chủ trì để cuộc kiểm điểm đạt kết quả.
ông Lê Đức Thọ vừa dứt lời thì Hà Xuân Trường với quyển sổ đã cầm sẵn trên tay từ bao giờ:
- Tôi xin có ý kiến?
Thế là ông ta mở sổ ra, mắt thì nhìn vào sổ, tay thì vung lên nói luôn. Xem ra Hà Xuân Trường đã chuẩn bị rất kỹ và chờ đợi từ lâu cái giờ phút này.
Tôi nhớ hôm đó Hà Xuân Trường phát biểu khá dài, nhưng mạch lạc, từng điểm rõ ràng, có phân tích... Chứng tỏ bài phát biểu chuẩn bị khá công phu. Đặc biệt phần lên án khá nặng nề, nâng lên thành quan điểm hẳn hoi, cùng với những dẫn chứng rất cụ thể. Ví dụ : khi lên án Trần Độ có quan điểm sai lầm nghiêm trọng, nhất là muốn tách văn nghệ khỏi chính trị. Ông ấy dẫn chứng những câu tôi viết trong bài nào, những lời tôi nói trong cuộc nói chuyện hay hội nghị nào. Thậm chí có những câu, những lời bản thân tôi không còn nhớ tôi đã viết ở đâu, đã nói ở chỗ nào. Vì tôi viết khá nhiều, đi nói chuyện cũng khá nhiều và đọc diễn văn cũng khá nhiều. Chỉ biết rằng nói chuyện ở đâu, đọc diễn văn ở đâu tôi cũng đều được hoan nghênh. Bây giờ Hà Xuân Trường đem trích ra từng câu, từng chữ ở nơi này, nơi khác trong một mạch văn có trước có sau có thuận có nghịch... để đi đến kết luận: Là người lãnh đạo văn nghệ mà không giữ vững lập trường quan điểm của Đảng như đồng chí Trần Độ thì sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Tôi nhớ Hà Xuân Trường còn cho những lời phát biểu của tôi về vấn đề tự do sáng tác trong văn nghệ rất gần với quan điểm của Garôđi, người đang bị Đảng Cộng sản Pháp và các nước xã hội chủ nghĩa lên án.
Hà Xuân Trường vẫn tiếp tục phát biểu say sưa, hết quan điểm thứ nhất đến quan điểm thứ hai, thứ ba, quan điểm nào cũng đi đến kết luận là Trần Độ thường có những biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí có đôi lúc chế giễu sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa văn nghệ, như cho Ban Tuyên huấn của Đảng chỉ thích làm nhiệm vụ một người lính gác cần mẫn, chỉ nhăm nhăm gọt đầu cắt đuôi các tác phẩm văn nghệ, để cuối cùng còn hai chữ lập trường rồi hoan hỷ coi như hoàn thành nhiệm vụ...
Chưa hết, bản "tham luận" của Hà Xuân Trường còn phê phán Trần Độ về chuyện tóc tai, quần áo, nếp sống, thẩm mỹ. Chẳng là vừa qua tôi cũng thường hay phát biểu các vấn đề này và rõ ràng là tôi không tán thành việc phê phán quần loe, tóc dài là mất lập trường, là kém đạo đức. Tôi nói: Bác sĩ Tôn Thất Tùng có bộ tóc rất dài, nhưng ai dám bảo Tôn Thất Tùng là kém đạo đức. Mà ngược lại đó là một con người làm việc rất giỏi, được phong là anh hùng lao động. Nhưng có những tên tướng cướp hẳn hoi tóc lại cắt rất ngắn, thậm chí có đứa để đầu trọc, thì lại là thằng có đạo đức hay sao...
Vấn đề quần loe, tóc dài một thời đã sôi nổi trong cuộc sống đời thường của đất nước và tốn biết bao thời gian để xử lý nó. Người ta không những lên án nó trong các cuộc họp, trong Nghị quyết, mà còn tổ chức những đội thanh niên cờ đỏ chân đường cắt tóc, cắt quần khách qua đường... Cho đến hôm nay, nhìn lại, ta cảm thấy buồn và có pha phút thương hại cho một thời ấu trĩ. Đau lòng hơn khi ta nghĩ đến việc một số người nào đó tưởng mình có quyền lực trong tay, muốn cả một cộng đồng phải sống theo một khuôn mẫu theo ý riêng mình.
Bây giờ ai muốn mặc quần loe, loe mười lăm, hai mươi phân chứ loe ba mươi phân, bốn mươi phân cũng mặc, nếu anh muốn, và cho như thế là đẹp. Tóc cũng vậy, nếu anh muốn thì cứ để quá gáy, hoặc dài hơn cũng tùy anh. Điều quan trọng là anh có được xã hội công nhận hay không.
Người phát biểu thứ hai là anh Nguyễn Văn Hiếu. Từ ngày về Bộ văn hóa, tôi và anh Hiếu luôn có mối quan hệ thân tình và hiểu biết lẫn nhau. Anh Hiếu là Bộ trưởng, tôi là Thứ trưởng. Về chính quyền tôi là cấp dưới của anh nhưng là Bí thư Ban cán sự, nên tôi được anh Hiếu luôn tỏ ra tôn trọng. Tôi biết đây trước hết là sự tôn trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Để đáp ứng lại, tôi cũng luôn luôn tôn trọng những ý kiến của Bộ trưởng, không bao giờ áp đặt, kể cả trong công tác cán bộ. Vì vậy mà khi thấy anh Hiếu giơ tay phát biểu trong một cuộc họp mà chủ đề là để kiểm điểm tôi, thực lòng tôi không thể đoán biết được anh Hiếu sẽ phát biểu như thế nào. Phải chăng đây là lúc có thể nói thẳng ra nhiều điều cần nói.
Khác với của anh Hà Xuân Trường, anh Hiếu nói từ tốn, điềm đạm, nhưng rất chân thành. Anh nói: "Ban cán sự chúng tôi cũng thường họp để kiểm điểm lẫn nhau. Nhưng cũng xin nói thật là những cuộc họp như thế chúng tôi chưa nói hết được những ý kiến của mình, tuy đôi lúc cũng muốn góp ý với anh Độ ý này ý khác, nhưng vì anh Độ là Bí thư, thường chủ trì các cuộc họp nên chúng tôi cũng ngại nói. Vả lại thực ra anh Độ sống với chúng tôi, làm việc với chúng tôi rất tốt, rất chân thành và biết tôn trọng lẫn nhau. Anh am hiểu sâu sắc nhiều vấn đề văn hóa và thường có những ý kiến sắc sảo, có những chủ trương sáng tạo, mạnh đạn, được nhiều người, nhất là lớp trẻ trong các giới văn học nghệ thuật hoan nghênh, ủng hộ. Cho nên có thể nói trong Ban cán sự, trong lãnh đạo Bộ không có vấn đề gì căng thẳng và nghiêm trọng cả." Giọng anh Hiếu toát lên một vẻ rất chân thành. Mắt anh nhìn bao quát cả phòng họp. Tôi ngồi nghe và cảm thấy càng quý mến anh nhiều hơn.
Tuy nhiên, do đây là một cuộc họp kiểm điểm có mục đích cụ thể, mà lại do người có uy quyền nhất trong Đảng chủ trì, nên anh cũng không thể không có một số ý kiến tỏ ra nghiêm khắc đối với người bị kiểm điểm. Tôi nghĩ như thế nên không hề ngạc nhiên hoặc phật lòng khi nghe anh nói: "Anh Độ có nhược điểm là hơi thiên về cảm tình, rộng rãi, độ lượng, đôi khi quá thoải mái làm cho công tác lãnh đạo có lúc chưa được nghiêm".
Sau anh Hiếu là anh Nông Quốc Chấn, thứ trưởng Bộ văn hóa. Tôi nhớ anh Chấn phát biểu có hai ý: "Thứ nhất là đối với anh Độ thì chúng tôi rất kính trọng vì quá trình tham gia cách mạng lâu, có nhiều cống hiến trước cách mạng cũng như trong Quân đội". Nhưng lại có ý kiến thứ hai là: "Chúng tôi chỉ phục thôi chứ chưa thật mến, vì phong cách của anh quá rộng rãi, khoan dung làm cho chúng tôi gặp khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình...
Như vậy là cả anh Hiếu- Bộ trưởng, lẫn anh Chấn- Thứ trưởng không có phê phán về quan điểm, đường lối như Hà Xuân Trường.
Không khí đang hơi chùng lại thì đến lượt anh Cù Huy Cận, cũng là Thứ trưởng phát biểu ý kiến. Anh nói giọng khu bốn, sôi nổi, rất tự nhiên. Cũng như anh Hiếu và anh Chấn, anh Cận không có sổ tay chuẩn bị trước gì cả mà chỉ nói vo như trong một buổi gặp mặt nói chuyện bình thường. Anh nói: "Anh Độ mới về lĩnh vực văn hóa văn nghệ nhưng nắm bắt vấn đề rất nhanh, rất sâu do anh rất chịu khó học tập, nghiên cứu đặc biệt là rất say mê. Tôi thấy là người lãnh đạo phải như thế, chứ không thể cứ chung chung lĩnh vực nào cũng phán được nhưng lĩnh vực nào cũng chỉ lướt qua dăm câu, ba điều. Tôi đã nhiều lần nghe anh Độ phát biểu và lần nào tôi cũng học thêm được một điều gì mới mẻ. Điều này làm cho tôi vừa ngạc nhiên, vừa thú vị, bởi lúc đầu được tin anh Độ sẽ sang lãnh đạo văn hóa văn nghệ tôi đã nghĩ bụng: Không hiểu rồi ông Trung tướng từng xông pha trăm trận này sẽ làm ăn ra sao trong cái lĩnh vực này. Cho đến bây giờ thì điều hồ nghi ấy không còn trong tôi nữa". Cuối cùng anh Cận kết luận: "Tôi không nói anh Độ là người lãnh đạo văn hóa, văn nghệ tốt, nhưng có thể khẳng định rằng, anh Độ đang trên đường trở thành người lãnh đạo văn hóa văn nghệ tốt".
Kể từ khi nhận được giấy triệu tập lên Nguyễn Cảnh Chân, mà không biết lên để làm gì, rồi khi biết có cuộc họp ban cán sự Bộ văn hóa mà chính mình là Bí thư cũng không biết và cuối cùng nghe đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương tuyên bố mục đích cuộc họp là để kiểm điểm Trần Độ, tôi thấy một nỗi phiền muộn dâng đầy trong tâm hồn.
Sau 30 năm phục vụ trong Quân đội, tôi tự nguyện chuyển sang môi trường mới với hy vọng phục vụ Đảng được nhiều hơn trong một lĩnh vực mà tôi ưa thích. Hơn 4 năm qua, tôi đã đưa hết sức mình ra làm việc, tất nhiên không tránh khỏi vấp váp, thiếu sót mặt này mặt khác, nhưng nói chung là tôi đã toàn tâm toàn ý phục vụ hết mình.
Tôi còn nhớ trong phát biểu của mình, Cù Huy Cận còn nói đùa là: "Không biết có phải do tên anh là Độ hay không mà trong cuộc sống đời thường anh tỏ ra rất độ lượng, đầy lòng nhân ái, giải quyết việc gì cũng vừa có tình, có lý, mà chủ yếu là thuyết phục bằng tình cảm. Có lẽ vì thế mà một số người cho anh Độ là lỏng lẻo. Theo tôi thì đây là một đức tính cần có của một người lãnh đạo văn hóa văn nghệ. Thuyết phục con người bằng tình cảm chứ không phải bằng mệnh lệnh".
Lúc này tôi thấy cả Lê Đức Thọ và Hà Xuân Trường đều nhìn về phía Lê Thành Công. Và tôi thấy Lê Thành Công đứng dậy mở sổ ra phát biểu ngay: "Thời gian qua đồng chí Trần Độ có nhiều sai lầm thuộc về quan điểm..." Thế rồi Lê Thành Công nêu lên một loạt vấn đề mà ông cho là những sai lầm thuộc về quan điểm của tôi mà không thể nào nhớ hết.
Chỉ nhớ là ông ta nhắc lại vấn đề quần loe, tóc dài và quy cho tôi là tách rời thẩm mỹ với đạo đức. Còn những câu nói rất nghiêm túc của tôi, thì ông ta không nêu ra, chẳng hạn tôi thường dẫn một câu nói rất hay của Gocki là: "Đạo đức học tương lai chính là mỹ học". Tức là loài người bao giờ cũng có xu hướng vươn tới cái đẹp, đến một lúc nào đó, cái đẹp được thể hiện chính trong đạo đức của con người, hoặc nói như Sôlôkhốp "Đôi khi một cô gái mặt rỗ mà vẫn có sức hấp dẫn bởi cái đẹp bên trong của tâm hồn và trí tuệ". Cũng như thế đừng nên nhìn một người quần loe, tóc dài là một người xấu. Nhưng tôi nhớ nhất trong bài phát biểu của Lê Thành Công quy kết tôi có hai quan điểm sai lầm, mà có lẽ cho đến suốt đời tôi không thể nào quên được:
Quan điểm sai lầm thứ nhất là quan điểm "Văn hóa xóa thông tin". Ông ta phân tích là từ khi Tổng cục Thông tin sát nhập vào Bộ văn hóa thì đồng chí Trần Độ để cho văn hóa lấn át thông tin, bớt cả quyền hạn, bớt cả điều kiện làm việc, làm cho Thông tin chỉ là cái bóng mờ của Văn hóa, làm cho anh em thông tin rất bất bình.
- Quan điểm sai lầm thứ hai Lê Thành Công quy kết là quan điểm tách rời thẩm mỹ với đạo đức, cho rằng thẩm mỹ không dính dáng gì đến đạo đức và lại xoay quanh vấn đề quần loe, tóc dài...
Lê Thành Công phát biểu xong thì hội nghị giải lao. Tôi đến gần Nguyễn Văn Hiếu, kéo anh ra một góc hỏi nhỏ : "Anh nhận được giấy mời như thế nào?" Thế là anh Hiếu rút trong túi ra cái giấy mời đúng như là giấy mời của tôi: Ngày ấy, giờ ấy, đến 4 Nguyễn Cảnh Chân họp với Ban nhân sự. Tôi lại hỏi: "Thế anh có biết là mời tất cả ban cán sự không?" Anh Hiếu lại đáp: "Không hề biết một tý gì, chỉ khi lên đây mới té ra là họp Ban cán sự. Sau đó anh Hiếu rỉ tai tôi, nói rất khẽ: "Chắc chắn là Hà Xuân Trường và Lê Thành Công biết việc này, vì cách đây ba hôm, Hà Xuân Trường có nói riêng với tôi là sắp có cuộc họp kiểm điểm Trần Độ".
Thế là đã rõ như hai với hai là bốn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là cuộc họp nhằm chuẩn bị nhân sự mới mà người phải thay là tôi.
Giờ giải lao kết thúc. Cuộc họp lại tiếp tục. Khi mọi người đã trở lại chỗ ngồi đông đủ, anh Thọ nói:
- Như vậy là các đồng chí trong ban cán sự đã phát biểu nhiều ý kiến, ưu điểm có, khuyết điểm có, bây giờ đề nghị anh Độ phát biểu ý kiến của mình, chủ yếu là xoay quanh những khuyết điểm thuộc về quan điểm, lập trường...
Quả thực lúc này tôi ở trong trường hợp khó nói, nhìn chung thì toàn bộ những ý kiến phê phán tôi trong hội nghị đều chưa đủ thuyết phục. Chính vì vậy mà tôi không muốn tranh luận. Vì một cuộc họp đã có sẵn mục đích, đã có chuẩn bị, lại do một người có quyền lực nhất nhì đất nước chủ trì thì dù tranh luận cũng vô ích. Cho nên khi nghe Lê Đức Thọ hỏi, tôi chỉ phát biểu rằng những vấn đề các đồng chí nêu ra còn phải tiếp tục có thời gian trao đổi mới đi đến kết luận ai đúng, ai sai dược.
Đặc biệt có một vấn đề rất đáng được bàn cãi cho ra môn, ra khoai, một vấn đề mà bấy lâu nay tôi suy nghĩ rất nhiều, có liên quan đến khuynh hướng lãnh đạo văn hóa văn nghệ sắp tới. Đó cũng là một ý kiến nữa Lê Thành Công phê phán tôi mà trên kia tôi chưa đề cập đến. Lê Thành Công nói: "Đồng chí Trần Độ thường bộc lộ một quan điểm hết sức sai lầm rằng tình hình đã hoàn toàn mới cho nên phải thay đổi cách lãnh đạo. Nếu nói hoàn toàn mới thì tức là đã phủ nhận tất cả những gì đã làm được lừ trước tới nay. Cũng do quan điểm sai lầm này mà đồng chí Trần Độ thường không chấp nhận những cái đã có, muốn tìm tòi những cái mới hẳn mà anh ấy gọi là tư duy mới, phong cách mới trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ."
Riêng vấn đề này thì ngày hôm ấy tôi đã nói thẳng giữa hội nghị, cũng tức là nói thẳng với đồng chí Lê Đức Thọ là : đúng, tôi đang có suy nghĩ như thế và đang trong quá trình tìm tòi, phát hiện để trình bày với Đảng một quan điểm mới về lãnh đạo văn nghệ, chứ không thể cứ giữ cái cung cách làm ăn như trước đây được. Nếu cứ giữ cái cung cách như hiện nay thì nhiều tài năng sẽ bị thui chột, văn nghệ sẽ chỉ là sự minh họa đơn điệu, buồn tẻ, sẽ không có những tác phẩm hay, xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhưng đây là một vấn đề lớn tôi đang tập trung suy nghĩ, mà trong phạm vi cuộc họp hôm nay không cho phép tôi nói hết được. Chỉ có điều tôi có thể nói ngay ở đây rằng tôi hoàn toàn không thể chấp nhận những ý kiến của đồng chí Hà Xuân Trường và Lê Thành Công. Đó là những ý kiến vừa không có sức thuyết phục về lý luận vừa không lành mạnh, biểu hiện rõ ràng nhất là những dẫn chứng chắp vá, trích dẫn cắt xén, không đúng với bối cảnh thực tế. Tóm lại đây là những vấn đề còn phải tiếp tục tranh luận mới có thể phân rõ đúng sai. Do đó, tôi đề nghị cần có một cuộc tranh luận hẳn hoi, mang tính khoa học, khách quan, chứ không thể nằm trong bối cảnh một cuộc kiểm điểm như hôm nay.
Còn những ý kiến của các đồng chí khác thì tôi xin tiếp thu để nghiên cứu, suy nghĩ. Với tư cách là người bị kiểm điểm, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí. Riêng về vấn đề lỏng lẻo thì thực tình là cả về tình cảm và lý trí đối với anh chị em văn nghệ sĩ tôi có một sự quý mến đặc biệt, bởi lao động của họ là một loại lao động đặc biệt và tôi luôn cho rằng họ là vốn quý của dân tộc, riêng những người có tài năng còn là niềm tự hào của dân tộc. Ta thường nói, cách mạng tháng Tám của Việt Nam là một sự thần kỳ, cuộc chống Mỹ cứu nước của chúng ta là vĩ đại, đần tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhưng ai là người nói lên những điều đó nếu không có "Vùng mỏ" của Võ Huy Tâm; "Xung kích" của Nguyễn Đình Thi; "Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc; "Trước giờ nổ súng" của Lê Khâm, "Vượt Côn đảo" của Phùng Quán, "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân; "Mẹ đào hầm" của Bùi Minh Quốc... Chúng ta có thể có rất nhiều Bộ trưởng, Thứ trưởng thậm chí có thể có nhiều thủ tướng và phó thủ tướng, nhưng chúng ta chỉ có mỗi một Xuân Diệu, một Nguyễn Tuân, một Chế Lan Viên... Không ai có thể thay thế được. Đó là nói trong lãnh vực văn học, còn trong các lãnh vực khác cũng thế, chúng ta có những nhân vật nổi tiếng như Văn Cao, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái... Có một hiện tượng rất đáng để chúng ta quan tâm là một số chính khách nước ngoài, một số nhân vật tầm cỡ thế giới khi sang đến Việt Nam là đòi gặp cho bằng được Nguyễn Tuân, Nguyễn Khắc viện, Xuân Diệu... Đó chính là họ muốn gặp nền văn hóa Việt Nam, gặp gương mặt Việt Nam trong chiến đấu và xây dựng.
Chính xuất phát lừ những suy nghĩ đó mà đối với giới văn nghệ sĩ tôi thường có sự khoan dung rộng rãi, tôn trọng nghề nghiệp của họ, không khe khắt xét nét họ về tác phong, cách sống và sẵn sàng tạo điều kiện tốt nhất để họ phát huy hết tài năng của mình, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, cũng tức là phục vụ Đảng. Nếu như vậy mà các anh cho tôi là lỏng lẻo thì tôi xin nhận khuyết điểm. Còn khuyết điểm đến mức nào thì thú thật đến bây giờ tôi cũng chưa đánh giá được.
Sau khi tôi phát biểu xong thì anh Thọ kết luận. Đại ý là trong lãnh vực lãnh đạo văn hóa văn nghệ có nhiều vấn đề mới đặt ra. Anh Độ chịu khó phát hiện, tìm tòi như vậy là tốt. Riêng vấn đề quan điểm này, quan điểm nọ thì không phải một cuộc họp hôm nay mà kết luận được, đúng như anh Độ nói là còn phải có quá trình tiếp tục trao đổi Thế nhưng rõ ràng anh Độ cũng tự nhận là có lỏng lẻo lỏng lẻo trong lãnh đạo sẽ dẫn đến đến lỏng lẻo về tổ chức, về sinh hoạt.
Và cái kết luận thứ hai của anh Thọ mới thực sự là vấn đề quan điểm; quan điểm sai lầm của Trần Độ về lãnh đạo văn nghệ. Anh nói:
- Tôi tán thành ý kiến của đồng chí Lê Thành Công là anh Độ nói tình hình đã hoàn toàn mới là không nên. Lịch sử phát triển của sự vật bao giờ cũng có sự kế thừa, dù mới đến đâu cũng phải dựa trên cái cũ. Nếu nói tình hình mới và cắt đứt hoàn toàn cái cũ là không đúng.
Anh Thọ vừa phát biểu xong thì Hà Xuân Trường giơ tay phát biểu: "Vâng! Vấn đề quan điểm này nọ thì phải tiếp tục trao đổi nhưng tôi muốn lưu ý anh Độ đến mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Đây là vấn đề cốt lõi trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng ta. Vấn đề này đã được Đảng xác định từ lâu là chính trị phải lãnh đạo văn nghệ phải phục vụ chính trị không thể mập mờ trong vấn đề này được".
Tất nhiên là với thái độ như vậy tôi không thể kìm giữ được mình. Tôi đứng dậy nhìn thẳng anh Hà Xuân Trường nói:
- Này! Tôi nói cho anh biết là tôi không đồng ý cách quy kết của anh đối với tôi như vậy đâu. Nhưng tôi sẽ trở lại vấn đề này với anh trong một cuộc thảo luận khoa học chứ không phải trong một cuộc họp như thế này.
Đây cũng là câu kết thúc cuối cùng của cuộc họp. Anh Thọ không nói thêm gì, hội nghị cũng không ai phát biểu gì thêm.
Nhưng ai cũng cho rằng, sau cuộc họp ấy, vấn đề ai sẽ là Trưởng ban văn hóa văn nghệ đã rõ ràng. Khoảng một tháng sau cuộc họp ấy, anh Thọ gọi tôi lên gặp riêng tại văn phòng Trung ương số 4 Nguyễn Cảnh Chân.
Trước đây khi chuẩn bị đi B, ngoài việc được ăn cơm với Bác Hồ, được các đồng chí trong thường trực Quân ủy, các đồng chí Thủ tướng Tổng cục Chính trị chiêu đãi chia tay, tôi cũng được anh Thọ mời cơm riêng trong không khí gia đình. Có thể nói anh Thọ thật sự quan tâm và thương yêu tôi. Anh hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con, có gì cần đề đạt... Nhưng tôi nói với anh Thọ là tôi ra đi rất yên tâm và phấn khởi, mọi việc về chính sách đã được các anh bên Tổng cục lo cho chu đáo. Là người đã từng nhiều năm ở chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Pháp nên hôm ấy anh dành thời gian nói cho tôi khá nhiều kinh nghiệm trong sinh hoạt và chiến đấu... Hôm nay anh lại gọi tôi lên sau cuộc kiểm điểm và tôi biết rõ cuộc gặp này chắc không ngoài mục đích báo cho tôi biết là tôi sẽ không còn ở trong Trung ương nữa và tất nhiên cũng sẽ thôi giữ chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ, theo cách thức mà cơ quan Tổ chức từ trên xuống dưới thường hay làm trước đại hội.
Hôm ấy tôi lên vẫn thấy anh Thọ niềm nỡ, thân mật. Sau vài câu hỏi thường tình về gia đình, sức khỏe, anh vào câu chuyện chính một cách rất tự nhiên.
- Cậu như thế là lỏng lẻo quá. Anh em người ta nói như vậy mà tớ cũng nhận thấy như vậy. Do đó nên không thể tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được. Mà không là Trưởng ban văn hóa văn nghệ thì cũng không có cơ cấu vào Trung ương. Hôm nay tớ thông báo cho cậu biết Bộ Chính trị không dự kiến giới thiệu cậu.
Anh Thọ vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi:
- ý cậu thế nào?
Tuy đã biết cái kết cục của cuộc kiểm điểm sẽ dẫn đến kết quả hôm nay, nhưng một lần nữa tôi bỗng cảm thấy hụt hẫng. Con người ta thường có tâm lý như thế. Tuy biết chắc một chuyện không may nào đó sẽ đến, nhưng vẫn hy vọng là có thể nó không đến. Trong trường hợp này hy vọng của tôi là có thể không còn giữ chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ nhưng vẫn là ủy viên Trung ương và sẽ được chuyển sang phụ trách một lĩnh vực khác. Nhưng qua anh Thọ thì cùng một lúc tôi phải rút lui cả hai cương vị, có nghĩa là nghỉ hưu... Và đây quả là một điều tôi chưa từng nghĩ đến. Năm đó tôi chưa đến tuổi 60, sức khỏe đang hồi phục tốt, đang rất muốn làm việc, cống hiến, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ.
Tôi nói với anh Thọ:
- Tính đến nay, tôi đã 21 năm ở Trung ương, cũng có thể nghỉ để cho lớp trẻ hơn thay thế. Tôi không phải là con người tham quyền cố vị. Đã 40 tuổi Đảng, 30 năm tuổi quân, hai cuộc kháng chiến tham gia trọn vẹn, nghỉ cũng được rồi. Nhưng như anh phát biểu hôm kiểm điểm tôi là hiện nay đang có nhiều vấn đề mới đặt ra đối với sự lãnh đạo văn hóa văn nghệ và tôi đang cố gắng tìm tòi phát hiện những vấn đề mới ấy về đề xuất của Đảng... Vì vậy, tôi xin thẳng thắn phát biểu với anh, người làm công tác tổ chức của Đảng, nguyện vọng của tôi là còn muốn làm việc. Tuy nhiên quyền quyết định là ở các anh, tôi sẵn sàng chấp nhận ý kiến của tổ chức.
Mặc dù nghe tôi phát biểu một cách chân thành tha thiết như vậy, nhưng nét mặt anh Thọ vẫn không có một chút thay đổi. Xem ra việc đã được phán quyết rồi...
Cũng như chỉ mới cách đây một tuần, Trưởng ban Tổ chức Lê Đức Thọ đã gặp Bí thư Trung ương Đảng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào. Kết quả là Song Hào thôi giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị để ra làm Bộ trưởng Bộ thương binh xã hội, lý do là vì có một số "sai lầm về quan điểm".
Sau lần gặp đó, ở Hội nghị Trung ương về công tác nhân sự để trực tiếp chuẩn bị cho Đại hội V, trong danh sách dự kiến của Bộ Chính trị về Trung ương mới không có tên tôi mà có tên Hà Xuân Trường. Nhưng có một điều bất ngờ đã xảy ra: Các tổ vẫn đề nghị tôi vào danh sách, đặc biệt là các đồng chí ủy viên Trung ương khóa IV thì rất nhiều đồng chí nhất trí ủng hộ tôi. Họ nói thẳng: "Tại sao lại rút tên Trần Độ - Trần Độ đang có sức khỏe, có năng lực - Nếu nói tiêu chuẩn của một ủy viên Trung ương là lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng, là trình độ hiểu biết, là năng lực hành động thì Trần Độ rất xứng đáng". Đứng trước tình hình nhiều tổ, bất chấp dự kiến của Ban nhân sự, nhưng được núp danh nghĩa là dự kiến của Bộ Chính trị, cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương được chia nhau đi các tổ để giải thích vì sao Bộ Chính trị lần này không đề cử Trần Độ. Mặc dầu vậy, nhiều tổ vẫn giữ ý kiến đề cử Trần Độ vào danh sách.
Và thế là đích thân ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, phải đến từng tổ để giải thích trường hợp này. Vẫn là cái lý do Trần Độ lỏng lẻo, không lãnh đạo Vãn hóa Văn nghệ được nên không thể có trong cơ cấu, nhưng đặc biệt lần này anh Thọ có nói thêm một chi tiết liên quan đến một câu phát biểu của Hoàng Ngọc Hiến mà chính bản thân tôi cũng không biết. Tôi còn nhớ rất rõ ý kiến của anh Thọ nói ở tổ tôi như sau: "Đúng, anh Độ là người có năng lực, tuổi còn ít, có sức khỏe, làm việc tốt, có nhiều cống hiến. Thế nhưng anh Độ đã bị kiểm điểm về lỏng lẻo trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ, gần đây có người phát hiện ra một sai lầm còn lớn hơn: Cụ thể là ở một hội nghị, có một văn nghệ sĩ phát biểu công khai rằng thần tượng Đảng đã đổ rồi, thần tượng Bác Hồ đã đổ rồi, thế mà anh Độ có mặt ở đấy vẫn cứ cho qua không nói gì. Đến mức như vậy thì làm sao để anh Độ tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được".
Câu nói của anh Thọ có sức nặng đến mức như bà Định, xưa nay vẫn rất ủng hộ tôi, phải thốt lên "Chu cha? Thế thì hết biết", sau đó, bà Định còn láy đi, láy lại: Thật quá lắm, quá lắm..."
Riêng đối với tôi thì đây đúng là "Oan Thị Kính" vì Hoàng Ngọc Hiến phát biểu câu nói trên ở đâu, vào lúc nào tôi đâu có biết...
Mãi sau này tôi đi hỏi Hoàng Ngọc Hiến, hỏi lại chị Lê Minh và một vài người khác thì thực chất việc đâu có phải như thế... Mà ý của Hoàng Ngọc Hiến là ta không nên thần thánh hóa Bác Hồ, thần thánh hóa Đảng, bởi vì không làm như thế thì uy tín của Đảng vẫn còn đó, uy tín của Bác Hồ vẫn còn đó... Nếu cứ tìm cách thần thánh, linh thiêng hóa Đảng và Bác Hồ thì lợi bất cập hại.
Trong nội dung phát biểu này không hề có ý gì xúc phạm đến Đảng, xúc phạm đến Bác Hồ. Thế mà đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương lại dựa vào cái câu nói đó để phê phán tôi và đưa tôi ra khỏi danh sách dự kiến vào Trung ương khóa V thì thực là một việc đau lòng. Đau lòng không phải là việc tôi sắp bị mất chức ủy viên Trung ương, mà đau lòng do cái cách làm việc của cơ quan tổ chức, quy kết, bất chấp sự thật, chỉ nhằm mục đích đạt cho bằng được ý của mình. Như vậy là trong Đảng ta còn có một quyền lực tối thượng nào đó, nhưng lại nhân danh Bộ Chính trị, nhân danh Đảng quyết định tất cả...
Trong lúc đa số Trung ương ủy viên đều yêu cầu đưa Trần Độ vào danh sách ủy viên Trung ương khóa V thì Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ vẫn tìm mọi cách kiên quyết gạt ra.
Nhưng do ý kiến đa số Trần Độ vẫn có tên trong danh sách và Trần Độ vẫn trúng cử ủy viên Trung ương chính thức.
Nhưng, như trên tôi có nói, Lê Đức Thọ là một con người quyết đoán không bao giờ chịu thua hoàn toàn. Không đưa được tôi ra khỏi Trung ương vì đây là thuộc quyền của Đại hội, thì Lê Đức Thọ dùng quyền của cơ quan tổ chức.
Sau Đại Hội V, chỉ chưa đầy một tuần, bổ nhiệm ngay Hà Xuân Trường - ủy viên Trung ương dự khuyết vào chức vụ Trưởng Ban văn hóa - văn nghệ Trung ương. Và kể từ đó, tuy trúng cử ủy viên Trung ương chính thức, nhưng tôi "bị treo giò", nghĩa là không được trao nhiệm vụ gì cả. Đây cũng là một trường hợp hiếm có...
Sau này có dịp đi các địa phương, gặp lại những bạn bè thân thiết cũ từng tham gia Đại hội V, họ kể lại cho tôi nghe là hồi đó chính họ cũng được một nhóm người đi vận động không bỏ phiếu cho tôi. Vận động một cách khá trắng trợn. Kể xong họ cười mỉa và nói: "Nhưng chúng tôi có chính kiến của chúng tôi chứ. Cái gậy chỉ huy mà không trung thực thì chỉ huy được một số người thôi, chứ không thể chỉ huy được tất cả".
ở Đại hội V còn có chuyện to hơn chuyện của tôi, có thể nói là chuyện "tầy đình", so với chuyện của tôi thì đúng như trên tôi đã nói "chẳng là cái đinh gì". Đó là chuyện anh Giáp và anh Linh ra khỏi Bộ Chính trị... Như trên tôi đã nói, vụ việc của tôi ở đại hội V thì tôi đã rõ ràng, còn việc của anh Giáp thì vẫn cứ bị cái án lơ lửng treo giò, bởi kết luận của Bộ Chính trị cuối cùng vẫn là chưa kết luận được.
Sau 30 năm chiến tranh, toàn dân tộc vẫn tiếp tục sống trong nghèo khổ, thiếu thốn. Tiềm lực thì lớn lao mà trí tuệ thì. hạn hẹp. Những người lãnh đạo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến tranh tưởng rằng vấn đề có thể tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ trong xây dựng hòa bình. Nhưng quy luật của cuộc sống là khắc nghiệt, nó có con đường đi của nó, loại ra ngoài mọi thứ duy ý chí.
Có người nói, nếu như Bác còn sống đến ngày giải phóng miền Nam thì tất nhiên là tốt đẹp rồi. Lòng nhân ái bao la của Bác, tầm mắt nhìn xa trông rộng của Bác (như ngay từ năm 1945, 1946 Bác đã chính thức mời Mỹ, Pháp đầu tư vào Việt Nam. Mời các cụ Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng tham gia việc nước...) thì nhất định, sau giải phóng miền Nam sẽ không có những cảnh tượng đau lòng như ta đã thấy.
Sau này vào khoảng năm 1984, 1985 nhân dịp vào Sài Gòn công tác, anh Nguyễn Văn Linh lúc bấy giờ là ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh có nhắn mời tôi đến chơi.
Từng làm việc với nhau suốt mười năm ở chiến trường, anh là Phó Bí thư Trung ương Cục, tôi là ủy viên, chúng tôi có nhiều kỷ niệm gắn bó thân thiết. Anh Linh hơn tôi gần chục tuổi, tham gia cách mạng trước tôi, nên bao giờ tôi cũng coi anh là người đi trước. Anh là một nhà lãnh đạo có uy tín lớn, luôn quan tâm đến mọi người, chín chắn trong tác phong công tác. Nhưng bao trùm lên tất cả là tấm lòng nhân ái, tình thương yêu đồng chỉ, đồng đội...
Trong buổi tối hôm ấy, khi nhắc đến Đại hội V, anh cười hỏi tôi:
- Làm sao mà lúc đầu không có tên anh trong danh sách vào Trung ương?
Tôi kể cho anh nghe toàn bộ sự việc xảy ra đặc biệt nói kỹ về quan điểm lãnh đạo văn nghệ không được anh Thọ chấp nhận nên đưa Hà Xuân Trường lên thay...
Anh Linh lắng nghe một cách chăm chú, ra chiều suy nghĩ, cuối cùng khi tiễn tôi ra về, anh mới thốt lên không ra vui cũng không ra buồn:
- Thì cả hai chúng ta đều bị phê phán là tự do. Anh thì tự do trong văn nghệ, còn tôi thì tự do trong kinh tế... Cả hai chúng tôi cùng cười.
Lúc này tôi và anh Linh đều là ủy viên Trung ương khóa V nhưng anh Linh vẫn được nhận trọng trách là Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, còn tôi thì vẫn chưa có một công việc nào rõ rệt.
Trước khi chia tay về nghỉ ở T78, tôi có nói với anh Linh:
- Hồi ở rừng, chúng ta sống dẹp biết bao nhiêu. Sống chết có nhau, yêu nhau như ruột thịt. Thế mà mới có hơn 5 năm sau hòa bình, có biết bao nhiêu là chuyện...
Anh Linh cười:
- Rồi mọi chuyện lại tốt đẹp thôi.
ít lâu sau, anh được bổ sung vào Bộ Chính trị. Đại hội VI anh được bầu làm Tổng bí thư; tôi lại trúng cử ủy viên Trung ương chính thức và trở lại phụ trách Trưởng ban Văn hóa văn nghệ.
Hai khóa Trung ương trước tôi rất ít phát biểu. Nhưng trong khóa V, tôi phát biểu khá nhiều, hầu như phiên họp nào tôi cũng chuẩn bị một bản tham luận. Trong bài phát biểu nhan đề: "Một vài ý kiến về những vấn đề chung của công tác tư tưởng và tổ chức" tại phiên họp Trung ương khóa IV, khóa V tuy còn mang nặng tính giáo điều và tư duy cứng nhắc, nhưng cũng có một số ý kiến về dân chủ tập trung và tổ chức cán bộ, cho đến nay tôi thấy vẫn còn có giá trị, xin trích lại dây để nhớ về một đại hội V buồn vui lẫn lộn:
"Ta đang ở trong một quá trình cách mạng sôi nổi, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, mà nội dung của nó là một sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện triệt để mọi mặt trong xã hội như Nghị quyết Đại hội Đảng IV và V đã chỉ rõ, đồng thời phải làm nhiều việc để bảo vệ Tổ quốc
Vì vậy, những vấn đề cấp bách về tư tưởng và tổ chức của ta hiện nay cũng là những vấn đề cơ bản, những vấn đề then chốt trong quá trình cách mạng đó, nó vừa cấp bách vừa lâu dài vì nó cần tác động trong tất cả các mặt và trong suốt thời gian lâu dài của quá trình cách mạng.
Ta cần đề phòng một tình hình là điều đó sẽ dẫn đến sự đơn giản trong công tác tư tưởng, bất cứ một biểu hiện nào cũng quy về hữu khuynh, mỗi chỗ người ta cố tìm ra một khía cạnh của hữu khuynh. Như thế liệu có thể có hiệu quả trong tình hình cách mạng lúc này không? 1954 ở Điện Biên Phủ có cuộc vận động chống hữu khuynh, có hiệu quả lớn, nhưng lúc ấy mục tiêu nhiệm vụ rõ rệt, cụ thể, phạm vị có hạn. Nay không thể như vậy.
Đồng thời có sự hiểu phương hướng tăng cường, chuyên chinh vô sản thì chỉ là tăng cường kiểm soát, tăng cường nghiêm trị và tăng cường xử phạt như vậy cũng không đúng với tinh thần của học thuyết Lê-nin về chuyên chính vô sản.
Trong quá trình cách mạng hiện nay, luôn luôn có những hiện tượng mới mẻ xuất hiện và phát triển và có những cái gì cũ lạc hậu bị đào thải, những cái gì mới xuất hiện thì gặp khó khăn, có khi còn phải xuất hiện chui, hoặc bị coi là bất hợp pháp bị lên án.
Thí dụ rõ rệt nhất là xí nghiệp đánh cá Côn Đảo và việc khoán trong nông nghiệp. Hiện nay ở một số địa phương và đơn vị cơ sở, có những đồng chí phụ trách đứng trước tình hình làm những việc mà có thể trờ thành anh hùng hoặc vào tù.
Thứ hai là vấn đề dân chủ tập trung, tôi thấy không phải chỉ là ý thức mà là cơ chế. Cơ chế phải bảo đảm các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước nắm chắc được bản chất tình hình xã hội (thông tin) về các mặt, đồng thời bảo đảm sự huy động các nguồn trí tuệ trong xã hội để giải quyết các vấn đề do xã hội đặt ra. Không nên quan niệm dân chủ chỉ là nghe ý kiến của người trực tiếp sản xuất (nông dân và công nhân) mà phải là vấn đề phát huy các nguồn trí tuệ, trong đó có một nguồn trí tuệ quan trọng là các cơ quan khoa học, cán bộ khoa học, cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp các ngành. Các cấp khoa học vốn là của Đảng, do Đảng tạo ra, cán bộ khoa học cũng thế, phải có cơ chế làm việc thu hút các cơ quan này châu tuần chung quanh các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Các cấp của Đảng phải coi các cơ quan khoa học có liên quan là trợ thủ của mình. Phải tăng cường việc xây dựng nhiều cơ quan thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu.
Không thể có một cấp nào hay một người nào hiện nay có thể biết hết mọi vấn đề, phải có sự phối hợp và liên kết các cơ quan khoa học.
Về mặt khác, phải thúc đẩy tốc độ việc xây dựng pháp luật thể chế các mặt cho kịp với yêu cầu quản lý và đổi mới quản lý, phải nâng cao trình độ "lập pháp" ở tất cả các cơ quan nhà nước.
Đó là những nội dung quan trọng trong toàn bộ nội dung của vấn đề dân chủ kỷ luật.
Nên quan niệm tăng cường chuyên chính vô sản không phải chỉ là tăng cường kiểm soát, tăng cường nghiêm trị, tăng cường xử phạt. Đó là mặt cần thiết, nhưng không phải chỉ có thế. Tăng cường chuyên chính vô sản còn phải là "nâng cao kiến thức, bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ tổ chức, năng lực tổ chức và hiệu quả của tổ chức, bao gồm việc định ra các loại chính sách, các thể lệ quy chế quản lý có hiệu lực, bảo đảm phát huy mọi tiềm năng ở mọi lĩnh vực để tăng hiệu quả rõ rệt ở các mặt kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội, khoa học giáo dục, tạo nên thành quả mới, lực lượng mới cho cách mạng. Như vậy, cũng cần quan niệm đúng đắn "chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch", thực chất là phải đẩy mạnh ba cuộc cách mạng như ý kiến đồng chí Tổng Bí thư phát biểu. Nhiều đồng chí phát biểu đã nêu lên những dẫn chứng về vấn đề này:
Thứ ba là tổ chức và về cán bộ: Nhất thiết cần nghiêm khắc phê phán và xử trí nghiêm minh những cán bộ, đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất. Đồng thời cũng cần có thái độ như vậy với một loại cán bộ cơ hội bất tài, bảo thủ và vô vị, có khi không có một khuyết điểm nào nhưng chỉ có một khuyết điểm là chỉ biết nhắc lại chỉ thị nghị quyết như con vẹt và không hề làm được việc gì có ích cho xã hội, đã như thế lại còn chiếm chỗ quan trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, và có lúc là đầu mối cho mọi sự bất hòa xích mích của tổ chức.
Loại cán bộ đảng viên này tai hại cho sự nghiệp cách mạng không kém loại cán bộ đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất chút nào.
Mặt khác cần khẳng định mạnh mẽ một phương hướng tuyển chọn và bố trí cán bộ: Khuyến khích những người có kiến thức, trung thực, năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, đạt tới những hiệu quả cụ thể trong phạm vi công tác phụ trách. Thực tế trong xã hội cũng đang xuất hiện các loại cán bộ có những phẩm chất như vậy. Có thể nói chắc chắn rằng trong xã hội ta về tất cả mọi mặt, không thiếu nhân tài, nhân tài kinh tế, nhân tài quản lý, nhân tài quân sự, nhân tài sáng tạo khoa học và văn học.
Cần có những chính sách khuyến khích nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ, dám nghe những điều nói ngược tai mới lạ để cho sĩ tử xa gần nô nức đem tài năng ra thi thố, giúp ích cho dân, cho nước. Cần có những chính sách thi cử, tuyển cử, ứng cử để thực hiện được việc phát hiện nhân tài và sử dụng nhân tài.
Đối với loại cán bộ mới, có tài, nên có thái độ độ lượng với điểm gọi là khiêm tốn. Thật ra, ai là có tài và khiêm tốn thì thật là tốt và hoàn toàn. Nhưng thông thường những người có tài năng cũng kèm theo một cá tính là tự tin một cách mạnh mẽ. Do tự tin mạnh, nên có những biểu hiện thiếu khiêm tốn, nhưng lòng tự tin lại là một đức tính nên khuyến khích, vì đó cũng là một mặt của tinh thần dám chịu trách nhiệm, không nên chỉ vì đi tìm cán bộ bằng cách cơ quan tổ chức nắm lý lịch rồi đi thăm hỏi và dò tìm.
Cần mau chóng có một đội ngũ cán bộ có năng lực thích hợp với tình hình cách mạng mới, chính sách đó được khẳng định sẽ tác động mạnh mẽ vào tâm lý thanh niên và là một việc góp phần rất hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và một chính sách cán bộ đúng sẽ đập tan một tâm lý "chỉ cần biết sống" nghĩa là biết ngậm miệng, ăn tiền, biết tìm ghế, nịnh nọt để giữ ghế và chính sách đúng cũng tạo nên một tâm lý hăng hái trau dồi kiến thức, hăng hái sáng tạo, hăng hái cống hiến".
Đại hội V đối với tôi là một kỷ niệm không vui, nhưng rồi thời gian qua đi thì những sự việc nó cũng nhạt dần. Tôi cũng không mấy quan tâm đến nữa.
HẾT TẬP 1 MỜI XEM TIẾP TẬP 2
1      2      3     4      5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét