Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ 6

1      2      3      4      5      6      7      8
CHƯƠNG 7C TRẠI TẬP TRUNG NAM HÀ TIẾP NẤU ĂN.

Cuối năm 1981, sau thời gian khá dài, những vật dụng của chúng tôi bị bắt buộc để bên ngoài buồng giam bị mất cắp càng lúc càng nhiều vào ban đêm, nhất là thức ăn do gia đình mang đến khi thăm nuôi, tất cả Đội Trưởng chúng tôi cùng đề nghị Ban Giám Thị trại giải quyết tình trạng này, vì ban đêm không một tù chính trị lẫn tù hình sự nào ở ngoài buồng giam cả. Chúng tôi không nói ra, nhưng điều đó có nghĩa là chúng tôi muốn nói “Công An canh gác và tuần tra trong khuôn viên trại” là kẻ cắp chớ không ai khác. Chỉ có buồng giam 15 và 16 vì không có “nhà ăn” bên ngoài nên tất cả đồ đạc lỉnh kỉnh đều để trong buồng giam, còn các buồng giam có nhà ăn phải để đồ đạc bên ngoài.
Trại tổ chức buổi họp với tất cả Đội Trưởng tù chính trị chúng tôi. Thảo luận một lúc, họ chấp nhận cho chúng tôi mỗi chiều đem vào buồng giam những gì mà chúng tôi thấy cần, và mỗi sáng phải đem ra ngoài ngay khi cửa buồng giam mở. Đồ đạc đem vào để ở lối đi giữa hai sạp nằm. Thấy được một bước, chúng tôi đề nghị cho tù chính trị chúng tôi được nấu ăn trong khuôn viên buồng giam để có thêm dinh dưỡng. Thế nhưng chúng tôi rất ngạc nhiên là họ chấp nhận đề nghị của chúng tôi ngay. Rất có thể họ đã có quyết định về việc này để họ khỏi mang tiếng với thế giới là họ bắt chúng tôi vào tù mà không nuôi ăn cũng nên? Họ nói thêm:

“Khi lao động về, các  anh được mang theo bó củi nhỏ vào ngày thứ ba và thứ sáu, nhưng cả Đội phải cột lại hai bó thôi. Bếp làm sát hàng rào phía sau khuôn viên buồng”.

Thế là chúng tôi sắm nồi niêu tô chén bằng cách xin gia đình mang theo khi đến thăm nuôi hoặc gởi các chị bạn mang giúp. Cái bếp là dễ nhất, chỉ cần mấy cục gạch là xong. Củi thì lượm ở khu trồng rau mang về, hoặc mua lại của những bạn mang vào trại vừa sử dụng vừa bán. Lệnh của họ bắt phải cột lại thành hai bó, nhưng những tên Công An -ngoại trừ tên Thịnh khuỳnh- cũng nương tay, nên mỗi người chúng tôi cũng mang vào được một bó nhỏ. Từ lúc ấy, nhiều anh em chúng tôi trong các Đội trồng rau cũng như trong các Đội làm gần đó “ăn cắp rau” nhiều hơn. Ăn cắp thì không khó vì là bạn cả,  nhưng đem được rau vào trại mới thật sự là khó. Ấy vậy mà rau vào trại ”bất hợp pháp” ngày càng nhiều thêm.

Đây là cái hoạt cảnh “chuyên chở rau” vào trại mà tôi là điển hình vào những tuần lễ đầu tiên, lúc ấy rau chúng tôi trồng chưa ăn được, nên phải sang Đội bên cạnh xin hoặc “ăn cắp”. Rau muống hoặc cải xanh tùy mùa. Xin lỗi quí vị quí bạn dùng tay che mắt lại cho tôi cởi cái quần dài ra, tôi dùng sợi giây quấn vòng quanh bắp chân lên đến bắp vế. Sau khi mối cuối cùng cột lại cho chặt, tay trái nong sợi giây ra rồi ghim những cọng rau vào. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi những cọng rau nằm im hai bên ống chân từ trên xuống dưới, tôi mặc cái quần dài vào là xong. Bây giờ quí vị quí bạn buông tay ra được rồi. Thế là tôi thản nhiên vào trại. Nói vậy chớ thật ra có hôm bị đám trực trại xét cũng phập phồng lắm, tuy không phải lúc nào họ cũng khám xét trên người. Các bạn tù trẻ còn ghim những cọng rau vào phần ngực và bụng để có được nhiều thêm chút ít.

 Tôi nói “họ nương tay” cũng không phải đơn thuần như vậy đâu quí vị quí bạn à! Thật ra là ngay sau cái lệnh cho anh em chúng tôi nấu ăn thêm, từng bước, anh em chúng tôi tùy khả  năng mỗi người, “mua chuộc” đám trực trại với quản giáo và võ trang bằng những tách cà phê, thuốc lá đầu lọc, bột ngọt, mì gói, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thuốc tây thì anh Phạm Kim Qui (Đại Tá Phụ Tá Tư Pháp tại bộ tư lệnh Cảnh Sát) nhiều nhất vì vợ anh gởi về từ Paris.

Cạnh khu vực trồng rau có hai cái mương vừa lớn vừa dài do đất đào lên đấp thành khu trồng rau. Thường ngày có những cậu bé từ chợ Ba Sao vào, hoặc những tên quản giáo với võ trang đến đây câu rê. Nhờ đó mà thỉnh thoảng tôi mua được cá lóc. Chúng tôi gọi là cá lóc nhưng người dân  địa phương gọi là “cá trào” hay “cá trèo đồi”. Mỗi khi mua được cá, tôi làm sạch để nguyên con cho vào cái gà-mèn tròn, cùng với rau muống, muối, bột ngọt đem theo, treo cạnh thùng nước đang nấu trên bếp của anh Nguyện. Khoảng 30 phút sau là tôi có gà-mèn canh. Thế là giờ giải lao giữa buổi, tôi với anh Nguyễn Kim Tây có bữa ăn thật ngon.

Do được nấu ăn mà họ gọi là “bồi dưỡng” mà sức khỏe tù chính trị chúng tôi, nhìn chung, có phần khá hơn những năm trước đó. Nhớ lại những năm 1977-1980 mà hãi hùng! Rất nhiều bạn đã chết do thiếu dinh dưỡng. Trong những năm đó, chỉ riêng trong buồng giam số 1 chúng tôi có thể chia thành ba nhóm về phong cách ăn uống: Nhóm thứ nhất, có bao nhiêu cứ ăn hết bấy nhiêu cho cái bao tử dễ chịu một chút. Nhóm thứ hai, vừa ăn vừa dành dụm cho những ngày kế tiếp. Nhóm thứ ba, ăn theo kiểu “sương rơi mùa hạ” mà điển hình là ăn đường cát. Mỗi ba tháng lãnh được 100 gram đường cát. Vài bạn trong nhóm này dùng cây tăm xỉa răng hoặc bẻ nhánh cây chuốt nhỏ lại như cây tăm, để vào lưỡi cho đầu cây tăm thấm ướt, cho vào đường cát dính ở đầu cây tăm trên dưới 10 hột đường, cho vào miệng nhâm nhi thưởng thức cái chất ngọt trôi chầm chậm vào cơ thể. Và cứ thưởng thức như vậy cho đến hết 100 gram đường, tương tự như lúc ăn bo-bo bằng cây tăm vậy.

Niềm vui cao nhất.  

Tôi thấy cần giải thích ngay kẻo quí vị quí bạn tưởng là tôi được ra khỏi trại tập trung này. Niềm vui đó là cuối tháng 5 năm 1981, vợ tôi báo tin vắn tắt rằng hai con chúng tôi -Phạm Tuyết Vân 20 tuổi, và Phạm Bá Nghĩa 10 tuổi- sau hai ngày vượt biển đã được thương thuyền ngoại quốc vớt đưa đến Singapore bình an. Hai ngày sau nữa, vợ tôi nhận được điện tín xác nhận tin đó. Tôi nói với anh Nguyễn Kim Tây:

“Tây ơi Tây. Nhà ngươi có nhớ hồi năm ngoái vợ ta ra thăm có dắt theo con gái với thằng trai út không?”

“Có. Tuyết Vân với thằng nhóc đòi uống nước đá chớ gì”.

“Đúng. Bây giờ hai con ta tới trại tị nạn Singapore rồi nhà ngươi”.

“Nhà ngươi được thư của Chị rồi hả?”

“Anh Lê Viết Mười vừa được Chị ấy đến thăm, có mang theo thư ngắn và quà của vợ ta”.

“Vợ nhà ngươi can đảm thiệt. Cho tụi nhỏ đi từng đợt và tất cả đến nơi bình an. Đâu phải gia đình nào cũng có cái may mắn tròn vẹn ấy. Còn thằng ở trại tị nạn Phi Luật Tân đến Mỹ chưa?”

“Nó đến Houston hồi tháng 3 (1981) ở chung với hai anh nó. Ta quên nói với nhà ngươi”.

“Vậy là nhà ngươi ăn mừng chớ?”

“Tất nhiên. Ngay tối nay. Mình ăn bánh uống trà với cà phê trong gói quà mà anh Mười vừa mang vào giùm chiều nay”.

Tháng sau đó, tôi nhận được thư của vợ tôi do chị Nguyễn Tài Lâm mang ra và chui qua chú tù hình sự vào “hộp thư chết”. Trong đó có thư của con gái tôi thuật lại rằng:

“Bác Trại Trưởng và một bác nữa nói là bạn cũ của Ba. Hai bác trợ giúp tụi con về thủ tục giấy tờ nhanh chóng lắm nên Con hi vọng sang Hoa Kỳ sớm”.

Con tôi không nói tên hai bạn ấy, có lẽ nó sợ cộng sản kiểm soát thư vì thư gởi về Sài Gòn, trước khi đến tôi. Cuối năm 2007, khi viết đến đoạn này, tôi có hỏi con gái tôi (năm nay 46 tuổi) về tên của hai anh bạn giúp nó hồi năm 1981, nhưng con tôi chỉ nhớ như tôi đang nhớ. Vì vậy, tôi nhờ những dòng chữ này chuyên chở lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến hai bạn ấy, cùng tất cả những bạn nào đã giúp đỡ các con chúng tôi  lúc chạy nạn cộng sản, trong khi tôi bị nhốt trong trại tập trung mà cộng sản gọi là trại cải tạo.

Nhóm chữ “chạy nạn cộng sản” dường như chưa phơi bày hết tính chất độc tài tàn bạo của cộng sản nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, có lẽ phải dùng nhóm chữ “cộng sản là thảm họa của nhân loại” mới đúng. Nói ngắn gọn là “thảm họa cộng sản”. Trong tập nhật ký Rồng Rắn của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng cộng sản viết trong năm 2000 và 2001. Ông nêu rất nhiều câu hỏi với chính ông liên quan đến chủ nghĩa xã hội mà lãnh đạo của ông tự tôn vinh là ưu việt, nhưng sau 25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội mà người dân ngày càng kiệt quệ, xã hội ngày càng suy đồi? Và ông nêu câu hỏi với lãnh đạo của ông:

“Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Việt Nam, có đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết trốn chạy tìm đường sống ở các nước khác?

Vì là thảm họa của nhân loại, nên quốc gia nào bị cộng sản cai trị thì y như rằng, các thành phần trong xã hội đều tìm mọi phương cách chạy trốn. Dĩ nhiên không phải muốn chạy là chạy được vì nhiều yếu tố liên quan, chẳng hạn như: Lòng can đảm chấp nhận hiểm nguy bất trắc với mức độ rất cao của người quyết tâm ra đi cũng như của người thân còn lại, tiền bạc, âm thầm tìm tổ chức đưa người vượt thoát, phương cách vượt thoát từ nhà đến địa điểm hẹn mà tránh bị Công An rình rập bắt bỏ tù, thậm chí bị chúng bắn chết tại chỗ, người còn lại phải có cách đối phó với đám Công An địa phương, ..v..v...    

Đầu tháng 09/1981, sau hơn 3 tháng ở trại tị nạn trên đảo quốc Singapore, hai con tôi đến Houston. Thế là các con chúng tôi: Tháng 4 năm 1980 hai con trai vượt biển đến Thái Lan, tháng 10 cùng năm một con trai vượt biển đến Phi Luật Tân, tháng 05/1981 một con gái và một con trai vượt biển  đến Singapore, tất cả các con chúng tôi -bốn trai và 1 gái- cùng đến Houston, với sự giúp đỡ của các em tôi là vợ chồng Phạm Phi Long, vợ chồng Phạm Thu Nguyệt, và em út Phạm Bá Sáng, định cư tại đây từ những năm trước đó. Bốn đứa con lớn, vừa đi học vừa đi làm, đứa nhỏ nhất học tiểu học.

Với nỗi vui mừng tột độ đó, tôi viết trang thư gởi “chui qua hộp thư chết” ra nhà thăm nuôi, nhờ mang về Sài Gòn để vợ tôi gởi sang Hoa Kỳ cho các con tôi. Nội dung gồm những lời khen tặng vợ tôi, cũng là vừa khen vừa khuyến khích các con tôi bắt đầu hành trình “xây dựng tương lai”. Sau khi đọc đi đọc lại mấy lần, tôi nắn nót từ trang thư thành “trang thơ tự do”, với tựa “Dù Thế Nào Anh Vẫn Nhận Ra Em”:

Vào một ngày nắng hạ

một chín bảy lăm (1975)

Anh phải đi “học tập”

Em ở lại cùng con

Một vòng tay, hai nụ hôn từ giã

Em đứng nhìn, đôi mắt đỏ long lanh

Em nghẹn ngào:

     bởi vì đâu, hai đứa phải chia tay Anh hởi?

                 liệu cuộc đời, bước ngoặc có xa không?

Anh nói khẽ:

     hoàn cảnh mình, ai biết được ngày mai

                 ta hẳn biết, sẽ sum vầy sau ba mươi ngày xa vắng! (1)

                                             

***

Nhưng

chẳng phải ba mươi ngày

                 cũng chẳng phải ba năm (2)

mà là một trăm bốn mươi bảy tuần trăng tròn khuyết (3)

Đó là thời gian

     cũng là cuộc sống

Cuộc sống ấy, với biết bao gian khổ

Bủa vây Em, mà Em phải xông pha

Là vợ người chiến sĩ

     hai mươi năm dài binh nghiệp (4)

                 tích lũy dần, đức tính đảm đương

Bằng tình yêu Chồng, và tình Mẹ thương Con

Em chấp nhận cuộc đời

                 dẩm lên mà bước

                 đạp xuống mà đi

                 và Em đi thật vững

Với Anh

     dù ngàn dặm xa xôi cách trở

     dù nắng hạ oi nồng

     dù rét buốt mùa đông

     Em vẫn đến thăm chồng

                 bằng tất cả tâm hồn trong sáng ấy

Với Con

     dù trên lằn ranh tù ngục

     dù trên lằn biên sống chết

     dù ray rứt tâm tư

                 bởi tình thương người Mẹ

     Nhưng

                 vì tương lai con trẻ

                 Em tập trung nghị lực

                 vẫn lệ nhòa, khi tiễn các Con đi



                                                ***

Các Con này

     đường tương lai trước mắt

                 Phải trau dồi Kiến Thức

                 Đạo Đức phải vun bồi

                 Và giũa mài Nghị Lực                                                    

phải vững vàng, bước tiếp nghe Con

Đừng ngập ngừng, khi vấp ngã

Hãy đứng lên, kịp bước với bạn hiền

Thành công nào, cũng trả giá nghe Con

Và chính đó, mới vẹn tròn ý nghĩa

Ráng nghe Con

     đừng phụ Mẹ Ba

     với Ông Bà Cô Chú Cậu Dì

                                                ***

Em

Mười hai năm qua

Em đã lớn biết bao

                 lớn bởi cách nhìn

                 lớn do cách nghĩ

                 lớn về tầm cao nghị lực

                 và lớn về chiều sâu tâm hồn

Ôi!

Nỗi cô đơn, những năm dài cách biệt

     Tình yêu chồng

Em đong bằng nước mắt!

                 Tình thương Con

                 Em nhỏ lệ cánh thư dài!

Giờ đây

     một vòng tay, hai nụ hôn đoàn tụ

     nói gì đây, Anh biết nói gì đây

Anh chỉ nói được rằng:

Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em

     bởi Em, có một tình yêu đầy đặn với Chồng

     bởi Em, có một thương dào dạt với Con

     bởi Em, có một tình quyến thuộc họ hàng

     và bởi Em, có một tình người với bạn

Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em

     bởi Em, là nửa phần hơi thở của hồn Anh

     bởi Em, là nửa phần con tim Anh đang nhịp

     và bởi Em, là nửa phần cuộc sống của riêng Anh

Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em

     bởi Em là Người Vợ

                  Người Yêu

                 Người Bạn Đời mãi mãi của riêng Anh

Dù thế nào Anh vẫn nhận ra Em

     để hôn Em, với những nụ hôn dài

                 và hôn Em, với những nụ hôn dài …    

(1) Tại Sài Gòn, thông cáo của cộng sản bảo chuẩn bị học tập 30 ngày.

(2) Tại trại Tam Hiệp, cộng sản nói chính sách cải tạo 3 năm.

(3) 147 tháng, hay là 12 năm 3 tháng trong các trại tập trung.

(4) 21 năm trong quân ngũ.

                                                         

Thưa quí vị quí bạn,

Bài thơ này khi ra trại tập trung về Sài Gòn hồi tháng 9 năm 1987, tôi cập nhật thời gian cho thích hợp. Cũng xin giải thích thêm về nỗi vui mừng của tôi. Trong những năm 1960, vợ chồng tôi bắt đầu một kế hoạch dành dụm cho con trai lớn du học sau khi xong bậc trung học. Vì đến lúc ấy, chúng tôi chỉ có khả năng thế thôi, trong khi hi vọng con tôi sau khi thành đạt có thể đùm bọc các em nó. Giờ đây, dù muốn hay không muốn, rõ ràng là trong cái “nguy” vì chế độ tự do sụp đổ, lại có cái “cơ” hội. Vì không thể sống nỗi dưới chế độ độc tài tàn bạo của cộng sản, ngay đến cái đơn xin vào làm tiệm giặt ủi cũng không được chấp nhận vì là con của “Đại Tá ngụy”, nên các con tôi phải vượt biển tìm tự do, và an toàn đến vùng đất tự do xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Vậy là tất cả các con chúng tôi được “du học tại chỗ” trên đất nước có nền giáo dục khoa học kỹ thuật được xếp vào bậc nhất thế giới. Khi biết được “thư chui” của tôi đã đến tay một chị bạn và chị ấy đã rời nhà thăm nuôi để về Sài Gòn, tôi mỉm cười khi nghĩ rằng:

“Nếu tôi có chết trong trại tập trung của cộng sản, tôi vẫn giữ nụ cười khi nhắm mắt”, vì các con chúng tôi có được tương lai, mà tương lai của các con chúng tôi chính là cuộc sống là hạnh phúc của vợ chồng tôi.

Trại Nam Hà giai đoạn 1982-1987.    

Tết Nguyên Đán đầu năm 1982 là Tết thứ tư tại trại Nam Hà này. Từ cái bánh chưn kha khá, nhỏ dần xuống, rồi đến nhỏ xíu. Tết năm nay cái bánh chưn biến mất, thay vào đó là chén cơm nếp với 5 điếu thuốc lá đen. Nếu như không được gia đình tiếp tế thì tù chính trị chúng tôi sẽ là “những bộ xương cách trí” như tù hình sự thôi. Dưới chế độ cộng sản, từ quận/huyện tỉnh/ thành phố, đặc khu, biệt khu, đều có nhà tù, cộng thêm hằng loạt nhà tù trực thuộc trung ương nữa. Bởi dưới chế độ này, mọi người dân đều có tội với nhà nước vì mỗi người không tội này cũng là tội khác, ngay cả ý kiến khác với nhà nước đã là có tội rồi. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người dân không được nói những điều cộng sản cấm nói mà phải nói những gì cộng sản bảo nói, người dân không được thấy những gì cộng sản cấm thấy những phải thấy những gì cộng sản bắt thấy, người dân không được nghe những gì cộng sản cấm nghe nhưng phải nghe những gì cộng sản bắt nghe. Vì vậy mà nhà tù trên toàn cõi Việt Nam nhiều vô kể.

Tình hình kinh tế xã hội chủ  nghĩa của họ suy sụp dần. Đầu năm 1979, họ bắt đầu cho gia đình đến thăm và mang theo lương thực thực phẩm nuôi tù chính trị. Nhờ vậy mà tình trạng sức khỏe của anh em tù chính trị chúng tôi, nhìn chung là tốt, và “cái tốt” này lại là điều để họ khoe với các phái đoàn ngoại quốc đến thăm, chứng tỏ cho thế giới bên ngoài thấy cái mà họ gọi là chính sách nhân đạo đối với tù chính trị không có điều gì chỉ trích cả. Cái bản chất gian trá của họ dễ dàng nhận thấy trong các trại tập trung.

Có lẽ do đời sống ngày càng suy kém của người dân nói chung, và của đám Công An “cai tù” nơi đây nói riêng, mà gần đây anh em chúng tôi mua chuộc được đám Công An trực trại với đám Công An quản giáo và võ trang, ngoại trừ tên “Thịnh khuỳnh” và tên “Thắng chuột” an ninh. Dần dần chúng tôi có phần dễ thở. Điển hình như trường hợp Đội chúng tôi, cứ mỗi sáng khi đến chỗ lao động, tôi cho tên quản giáo với tên võ trang 20 điếu thuốc quấn với bình trà, thế là chúng nó ngồi trong lều chớ không đi tới đi lui kiểm soát chúng tôi làm. Sở dĩ tôi cho nó thuốc hút với trà uống, vì nó đồng ý với tôi là khi giao việc cho chúng tôi thì chúng nó chỉ kiểm soát trước giờ về thôi. Thật ra chúng nó có bao giờ kiểm soát tất cả đâu. Thí dụ như giao chúng tôi mỗi người mỗi ngày đào và trồng 5 hốc bí rợ trong khu rừng chồi chen lẫn đá tảng, đâu làm sao chúng nó đếm từng cái một để biết chắc là chúng tôi làm đúng hay không đúng số lượng chúng giao.

Ngày Ba Mươi và Mồng Một Tết, không một tên Công An nào vào trong trại. Thấy yên tịnh, bắt đầu có vài cuộc họp mặt đồng hương, ăn bánh mứt uống trà và nói với nhau cả chuyện xưa lẫn chuyện nay. Thấy được, anh em chúng tôi họp mặt nhau trong cùng binh chủng hay cùng đơn vị, hoặc họp bạn đồng khóa. Đông cũng được vài chục bạn, ít cũng năm bảy người. Tất nhiên là phải chọn cái góc nào đó trong trại tương đối kín đáo, hoặc nơi nào dễ trông thấy chúng nó vào trại để kịp giải tán. Hơn 20 anh em cùng khóa 5 Thủ Đức chúng tôi cũng ngồi lại với nhau ở sát góc buồng giam số 2. Mỗi anh mang theo vật dụng đựng nước uống, nếu anh nào có bánh mứt thì mang đến, ngoài ra còn mang theo cái gì đó để làm ghế ngồi. Anh Văn Công Báu (Trung Tá Lực Lượng Đặc Biệt) nấu cho một thùng nước trà. Anh Khoa (Trung Tá Cảnh Sát) nhiều tuổi nhất, được anh em bầu làm “chủ tọa”. Anh Khoa có vài lời:

“Tôi thành thật cám ơn các bạn. Trong chiến tranh, chúng ta gặp nhau trên khắp nẻo đường, bây giờ thua trận, chúng ta gặp nhau trong trại tập trung, đây là điều đáng quí của chúng mình. Mong rằng, buổi họp mặt đơn giản nhưng có phần ấm áp hôm nay, sẽ giữ mãi cho chúng ta một gạch nối tình cảm cho tương lai, dù chúng ta chưa biết tương lai sẽ ra sao. Xin mời các anh cùng nâng chén trà gọi là cùng nhau chúc mừng năm mới”.

Thế là tất cả anh em gần như nói cùng lúc: “Chúc Mừng Năm Mới”, như vừa chúc cho bạn, cũng vừa chúc cho mình.

Tôi đưa ý kiến:

“Bây giờ chúng ta thử bàn đến lời của ông Phạm Văn Đồng -Thủ Tướng cộng sản- đã nói chúng ta là thành phần ác ôn không thể tha thứ, đồng thời với sự kiện gần đây có dư luận cho rằng Hoa Kỳ sẽ “bốc” chúng ta sang Mỹ. Tôi nghĩ là chúng ta khó có đủ yếu tố khả dĩ dẫn đến kết luận, nhưng biết đâu trong lúc bàn luận lại có những điều mới có thể giúp chúng mình cập nhật những hiểu biết liên quan…..”

Nói đến đây thì anh Bùi Quang Hiền đứng ở hành lang ngay lối vào buồng 2 này, anh ngoắc tôi:

“Anh và mấy anh cẩn thận. Tụi nó đứng ngoài cổng trại đông lắm, có thằng Thịnh khuỳnh nữa”.

Tôi bước nhanh đến đầu hành lang nhìn ra nhà trực trại ngay bên ngoài cổng. Đúng là tụi nó khá đông. Chạy vội vào trong:

“Các bạn ơi! Không xong rồi, chúng ta nên giải tán thì hơn, chúng nó vào trông thấy là phiền phức lắm”.

Anh Khoa: “Giải tán anh em ơi! Một lần nữa, tôi cám ơn và chúc các anh sức khỏe và giữ vững nghị lực. Chúng ta sang bên Văn Hoá đi”.

Anh em chúng tôi tay xách ghế xách lon theo hành lang ra sân trại để sang bên Văn Hoá. Anh Khoa đi sau cùng. Lúc anh vừa ra khỏi hành lang để sang Tổ Văn Hoá bên kia sân trại, Thịnh khuỳnh vào cổng với một toán Công An sau lưng. Hắn chận anh Khoa lại:

“Các anh họp hành gì đó?”

“Báo cáo cán bộ, không ạ! Vài anh em chúng tôi ngồi ăn bánh uống trà cho vui thôi cán bộ. Bây giờ sang Văn Hoá xem chung kết cờ tướng”.

Hắn nhìn một lúc:

“May cho các anh đó. Bộ các anh tưởng chúng tôi không biết các anh làm gì à!”

Anh Khoa lẳng lặng băng qua sân trại về hướng phòng văn hoá.

Chẳng bao lâu sau đó, anh Khoa bị tai biến mạch máu não và chết ngay. Anh Khoa bị cao huyết áp, đang mùa đông anh nấu nước nóng pha nước lạnh cho ấm để tắm. Nước ấm hết trong khi cơ thể chưa sạch xà bông, anh dùng lon nước lạnh xối lên đầu, thế là ngã quỵ trên nền xi măng. Và chết ngay sau đó.

Vợ tôi đến thăm.

Tuần kế tiếp, vẫn còn thoang thoảng hương vị ngày Tết Nguyên Đán. Trong khi lao động buổi sáng, tôi mua được nửa kí lô thịt heo nạc và khi cơm xong tôi bắt đầu kho tiêu. Lúc ấy kẻng báo thức buổi chiều vang vang, tôi vội nếm xem mặn lạt ra sao để dẹp vào và chuẩn bị lao động. Anh Nguyễn Tài Lâm gọi tôi:

“Hoa ơi! Cán bộ gọi thăm nuôi kìa”.

“Thiệt hông Lâm?”

“Cán bộ Trọng chờ anh kìa”. Trọng trong toán trực trại.

Anh Ngô Văn Huế: “Anh vô chuẩn bị đi, để nồi thịt tôi kho cho”.

Tôi ra đến đầu hành lang gặp ngay Trọng “cụ non”. Công An ở đây gọi hắn là “Trọng cụ non” vì lúc nào trông hắn cũng giống như “ông cụ” vậy.

“Anh chuẩn bị ra gặp gia đình”.

“Ai thăm tôi vậy cán bộ?”

“Tôi không rõ. Cán bộ Thúy nhờ tôi gọi anh đấy”.

“Cám ơn cán bộ”.

Tôi nghĩ mãi nhưng vẫn không đoán được là ai đến thăm. Vì mùa đông giá rét này chắc chắn không phải là Ba tôi, còn vợ tôi đang bận lo cho mấy đứa em vượt biển chưa xong. Trong thư gần đây vợ tôi cho biết, sau khi các con đến noi an toàn, vợ tôi lo cho mấy đứa em vượt biển. Ngoài Ba tôi với vợ tôi, tôi nghĩ không có ai đến thăm tôi hết. Có thể là vợ tôi nhờ chị bạn nào đó nhân đến thăm gia đình, thăm tôi luôn.

Quanh năm mặc quần áo tù, lâu lâu được mặc quần tây sơ mi vào, cảm thấy gọn và khỏe. Với cái áo sơ mi ngắn tay màu vàng và cái quần tây màu nâu mà vợ tôi mua cho trong chuyến thăm tôi hồi giữa năm 1980, đôi giày thể thao do Mỹ sản xuất mà anh Trịnh Xuân Nghiêm (Sư Đoàn Nhẩy Dù) nhượng lại tôi vì chân anh đi không vừa. Trước khi ra khỏi phòng, anh Đặng Văn Hậu bảo tôi xoay qua xoay lại:

“Ê! Trông còn phong độ lắm nghe”.

“Thiệt hông đó?”

“Tớ nói thiệt mà”.

Ra đến nhà trực trại, thấy nụ cười của tên Thịnh khuỳnh là phát ghét rồi. Hắn hỏi:

“Ai thăm anh mà diện thế?”

“Báo cáo cán bộ, tôi không biết”.

Công An Thúy, phụ trách hướng dẫn thăm nuôi, cười cười và nói nho nhỏ:

“Đã biết mà còn hỏi. Khéo vớ vẩn”.

Tên Thịnh khuỳnh hỏi tôi:

“Nào, có thư từ gì bỏ ra ngay”.

“Không có gì cả cán bộ”.

“Chắc không. Tôi kiểm tra có thì anh tính sao?”

“Chắc chắn mà cán bộ. Cán bộ cứ kiểm soát tôi đi, nếu có gì vi phạm nội qui tôi chịu kỷ luật”.

 Họ dùng chữ kiểm tra, tôi dùng chữ “kiểm soát. Hắn chưa buông tha:

“Trong giày có gì không?”

“Chỉ có vớ không thôi, cán bộ”.

“Anh đùa đấy à?”

“Tôi nói thật mà cán bộ”Không biết hắn có tin hay không, nhưng còn ráng thêm một câu nghe như ân huệ:

“Được rồi. Đội Trưởng tôi không kiểm tra”.

“Cán bộ nói vậy chớ thật ra cán bộ kiểm soát tôi rồi”.                          

Nói xong là tôi đi ngay. Trong thời gian gần đây, không còn cái xe cải tiến nào dành riêng cho thăm nuôi vì chẳng ai tu bổ nên hư hỏng hết trơn. Cứ mỗi lần cần xe cải tiến cho thăm nuôi, phải xuống tổ nhà bếp mượn. Nhà bếp có ba chiếc nhưng chỉ còn một chiếc dùng được. Tuy ọp ẹp nhưng nhờ cái lạnh của mùa đông nên đỡ mệt khi kéo lên dốc. Lên đến đầu dốc, con bé Thúy mới nói:

“Vợ anh thăm anh đấy”.

“ Cám ơn cán bộ”.

Tôi chửi thầm: “Con quỷ cái” này chắc không vừa với cái  miệng quai xách của nó. Nó cầm đơn thăm nuôi trong tay, vậy mà lúc nảy tôi hỏi nó làm thinh. Dễ giận!

Đến nhà thăm nuôi, vừa để cái xe bên ngoài là vợ tôi bước nhanh ra:

“Anh”.

“Em đến lúc nào vậy? Em đi đường có mệt lắm không?”

“Em đến cách đây khoảng 3 tiếng đồng hồ. Em khá quen rồi nên không cảm thấy mệt như mấy lần trước, nhất là lần đầu thăm Anh”.

“Trời lạnh quá sao Em dám đi. Còn mấy cậu nó đi được chưa?”

“Tụi nó đến Thái Lan hết rồi Anh. Nhưng chuyến đi gian khổ lắm vì mưa bão, thức ăn nước uống đều liệng xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Cuối cùng thì tàu cũng đến nơi bình yên nhưng rất nhiều người chết vì đói khát, trong số đó có hai đứa con của vợ chồng thằng Bảy (Triệu Văn Trí)”.

“Vậy cũng là may lắm rồi. Em còn áo lạnh nữa không, nên mặc thêm vào chớ như vầy Em dễ bị cảm lạnh lắm”.

“Không sao. Đủ rồi Anh. Để Em lấy hình của các con cho Anh xem. Em để ở phòng nhỏ bên kia”.

Tôi quay sang “Thúy quai xách”:

“Báo cáo cán bộ, cho tôi sang phòng bên soạn quà giúp vợ tôi?”

Nó làm thinh một lúc mới mở miệng:

“Được. Chỉ một lúc thôi nhé!”

Tôi bước nhanh theo vợ tôi và hôn vợ tôi thật nhiều, vì phòng nhỏ bên này không có người nào cả. Đây cũng là những nụ hôn đầu tiên sau gần 7 năm xa cách … Ngần ấy, chỉ ngần ấy thôi, nhưng chứa đựng biết bao nồng thắm ngọt ngào bên trong những nụ hôn vội vàng ….

Vợ Chồng tôi cùng mang quà sang phòng bên, nếu vắng lâu thể nào “Thúy quai xách” cũng hỏi han tra xét.

Từ đầu năm 1981, theo lệnh của Bộ Công An, Ban Giám Thị trại cho phép tù chính trị được thăm gặp vợ 24 tiếng đồng hồ. Giấy tờ thì như vậy, nhưng nếu không sòng phẳng với “cái giá phải trả” cho tên Vũ Quấc (tên của hắn là vậy) phụ trách giáo dục trại Nam Hà A này thì đừng hòng, vì hắn cho ý kiến vào đơn xin trước khi đến tên trại trưởng quyết định. Đến lúc bấy giờ, “cái giá phải trả” là 200 đồng cho mỗi lần thăm gặp 24 tiếng đồng hồ. Ngoài ra còn phải sòng phẳng với toán Công An phụ trách nhà thăm nuôi nữa, nhưng cái giá ở đây nhẹ nhàng thôi, chỉ cà phê thuốc hút loại đầu lọc coi như “sòng phẳng”.

Ngay chiều hôm ấy, tôi được trở ra nhà thăm nuôi đến chiều hôm sau mới hết hạn. Chúng tôi xem hình các con chúng tôi cao lớn cả rồi. Cùng thuê “chung cư” tại Houston sau thời gian được Cô Dượng Chú Thiếm chúng nó giúp đỡ. Vừa đi học vừa đi làm, dĩ nhiên là nhiều khó khăn lắm, nhưng các con chúng tôi chấp nhận vượt qua. Trong thư, các con chúng tôi nói rằng, những khó khăn trên đất Hoa Kỳ không có nghĩa gì so với những gian khổ trên quê hương Việt Nam cộng sản! Các con chúng tôi hứa sẽ thành công trên đất Mỹ.    

Có thời gian dài, vợ tôi kể cho nghe biết bao chuyện buồn vui lẫn lộn. Chuyện trong thân quyến chẳng bao nhiêu, nhưng chuyện mà đám Công An Phường với Công An Quận, đối xử với gia đình chúng tôi mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền” thật là khiếp đảm!

- Chính sách lừa dối để đẩy hằng trăm ngàn quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung mà họ gọi là học tập cải tạo. (Năm 2004, khi xem tạp chí Dân Vận của đảng bộ Việt Quốc tại Đức, tôi đọc được những con số sau đây: Theo tài liệu của Sở Công An Sài Gòn mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, đến cuối tháng 07/1975, cộng sản đã đẩy 154.772 người vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10/1975, Cảnh Sát Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30/10/1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Trong số khoảng 200 trại này, chỉ riêng Đoàn 776 của họ, đã quản trị đến 82 trại trong tổ chức của 6 Liên Trại trong vùng rừng núi từ Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, ngược lên thượng nguồn Sông Hồng đến tận biên giới Việt Nam-Trung Hoa)

- Ngày 20/08/1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh thiêu hủy tất cả văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa vì họ cho là loại phản động và đồi trụy. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra tòa án nhân dân. Chính sách này trong một mức độ nào đó, tương tự như chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và của  Mao Trạch Đông thời Trung Hoa cộng sản.

- Ngày 18/09/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn.

- Ngày 10/11/1975, chính sách triệt hạ kinh doanh thương mãi tự do, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là vận  động hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là khu kinh tế mới tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.

- Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21/03/1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13/06/1976.

- Tháng 06/1977, lại một chính sách khác ra đời. Đó là chính sách buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là vận động đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính.    

Người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ tại Sài Gòn, có câu nói truyền cho nhau nghe thật là cay đắng: “Hòa bình, bắt đầu sum họp, cũng là lúc chia ly!” Những bạn đồng đội từ các đơn vị xa xôi về quê sum họp với gia đình, nhưng rồi lại chia ly không ngày trở lại! Câu này cũng có thể hiểu “bọn cộng sản sum họp, người tự do chia ly! Cũng có câu: “Nếu cái cột đèn mà đi được thì nó cũng vượt biển rồi”.          

Vợ tôi nhắc lại chuyện con thứ tư của chúng tôi là Phạm Bá Hùng vượt biển từ bờ biển Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, hồi giữa năm 1980. Bị quân cộng sản phác giác truy lùng, nhiều người lớn cùng với con tôi và các bạn nó bị bắt. Nhà giam chật quá, với lại có lẽ chúng nó thấy con tôi còn nhỏ (mới 14 tuổi), chúng nó bảo con tôi xuống nhà bếp phụ việc lặt vặt. Mấy ngày sau chúng nó thả về. Lúc ấy con tôi trần trụi vì lúc chạy "bán sống bán chết", cái áo bị các nhánh cây "giữ làm kỷ niệm" lúc nào chẳng hay. Có một gia đình gần đó, thấy vậy mới cho con tôi một cái áo, mà là "cái áo con gái" vì nhà bà không có con trai. Khi con tôi về đến nhà Ba Má tôi ở Nha Mân,  Ba Má tôi và vợ tôi trông thấy, vừa cười vừa khóc! Khóc vì thấy nó nhỏ quá mà bị tù, còn cười vì cái áo con gái trên người nó. Khi còn sống, mỗi khi Ba Má tôi nhắc lại chuyện ấy là Ông Bà cười thật tươi. Hiện giờ (năm 2008) con trai tôi đã vào tuổi 42, có vợ 2 con, và có cơ sở làm ăn ở tiểu bang khác. Chúng tôi xin mượn những dòng chữ này để bày tỏ lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến gia đình ân nhân của con chúng tôi 28 năm về trước. Cái áo không là bao, nhưng điều nghĩa ân mới là đáng quí".        

Trở lại chuyện thăm nuôi. Những tù chính trị chúng tôi khi được phép gặp gia đình 24 tiếng đồng hồ, chỉ được đi khỏi nhà thăm nuôi cho đến cái cầu vệ sinh thôi, ngoài khoảng cách đó ra đều bị cấm.

Buổi chiều, có vẻ như thời gian qua nhanh quá! Trong khi tôi đang xếp áo quần của vợ tôi mà chúng tôi giặt ban trưa, tiếng con Thúy ong ỏng:

“Khẩn trương lên chứ. Làm gì mà lề mề thế!

Hôn vợ tôi xong là ra cửa, vợ tôi vừa đi vừa nói:

“Khoảng tháng 5 Em ra thăm Anh. Các con với mấy đứa em đi xong, Em có thì giờ thăm Anh thường hơn”.

Con Thúy chen vào ngay:

“Thăm gì mà thăm liền thế?”

“Xin lỗi cán bộ có gia đình chưa?”

“Anh định nói gì thế? Đã có thì sao?”

“Vậy mà tôi tưởng cán bộ chưa có gia đình”.

“Tại sao anh tưởng thế?”

“Đã có gia đình thì cán bộ phải thông cảm tình vợ chồng, nhưng sao cán bộ có ý chỉ trích”.

“Tình cảm vợ chồng ai mà chẳng biết, nhưng còn công tác nữa chứ ”.

“Chẳng lẽ cán bộ cho là chúng tôi trong Nam chỉ biết có gia đình không thôi sao. Nếu vậy mà phải hơn 20 năm, quân đội nhân dân mới vào được Sài Gòn sao cán bộ”.

Cô ta trừng mắt:

“Anh định nói gì đấy? Đi vô”.

Nhân lúc xuống dốc, tôi phụ đẩy xe quà của anh bạn để khỏi phải lôi thôi với con nhỏ có cái miệng quai xách này. Đám quản giáo với võ trang gọi cô ta là “Thúy tây” vì xem ra cô ta có phần trắng trẻo và sạch sẽ hơn những Công An “tóc dài” khác trong trại này. Con bé này “chưa nhận hối lộ” từ khi phụ trách hướng dẫn thăm nuôi thay con bé Kim. Hơn hai tháng trước, “Thúy tây” rình chụp được một vụ. Hôm ấy anh Vũ Văn Dần (Đại Tá Cảnh Sát) được gia đình đến thăm và được ở lại 24 tiếng. Có mấy anh kéo xe cát về ngang nhà thăm nuôi, ngừng trước cửa, chắc là do anh Dần bảo nên chị Dần bước vội ra và dúi nắm tiền vào đống cát trên xe cải tiến, “Thúy tây” đứng sau khung cửa sổ trông thấy nhưng không nói gì hết. Khi các bạn kéo xe cải tiến đi, cô ta nói lớn:

“Các anh không được đi. Đứng đấy chờ tôi”.

Thế là “Thúy tây” bảo mấy anh đang thăm nuôi ra về cùng với xe cải tiến chở cát. Đến nhà trực trại, “Thúy quai xách” yêu cầu trực trại kiểm soát xe cát. “Trọng cụ non” kiểm soát không thấy gì, cho xe cát đi. “Thúy quai xách” bắt đứng lại, nó bảo mấy anh kéo xe cát phải xúc ra từng xẻng cho nó kiểm soát. Cuối cùng, 500 đồng bạc phơi mình trên đống cát, thế là “Thúy quai xách” lập biên bản. Ngay sau đó nó ra nhà thăm nuôi bắt anh Dần viết kiểm điểm và buộc chị Dần phải hứa 6 tháng sau mới ra thăm nuôi.

Thế nhưng chỉ hung hăng con bọ xít được vài tháng là quỵ ngã  trước sức cám dỗ của quà cáp tiền bạc. “Công An cái” với cái miệng quai xách này nhận hối lộ chẳng kém tên Công An cai tù nào cả. Nó mang cả tiền và thư vào trong trại trao tận tay cho tù chính trị chúng tôi, nhưng nó ăn 15% lận.    

Trở lại trường hợp anh Khoa chết. Trước khi ra về, tôi đưa vợ tôi địa chỉ nhà anh Khoa ở Sài Gòn để vợ tôi đến cho vợ anh Khoa là chị Bạch Vân biết trường hợp anh Khoa chết. Chỉ tuần sau đó, chị Khoa với cô con gái khoảng 20 tuổi đến trại. Chị Khoa xin cho tôi ra gặp chị. Không có đơn của vợ tôi nhờ thăm, có lẽ chị Khoa “hối lộ” cho chúng nó nên tôi được ra nhà thăm nuôi. Trông chị Bạch Vân buồn lắm, nhưng chị cố gắng nói chuyện với tôi:

“Anh biết hông. Lúc chị (Hoa) đến nhà nói với tôi là anh Khoa chết, tôi đâu có tin. Tôi cứ hỏi tới hỏi lui xem chị có nghe lầm không, nhưng chị quả quyết là anh chứng kiến anh Khoa chết thật. Tôi chỉ mới nửa tin nửa ngờ chớ chưa tin hẳn, vì tôi đâu được trại báo tin tức gì trong khi tôi chờ tin anh Khoa về nhà. Đến đây, tôi mới biết đó là sự thật”.

Chị nín lặng khá lâu. Không khóc! Có lẽ chị đã khóc nhiều rồi! Sau cái dụi mắt mà tôi nghĩ là chị lau khóe mắt ươn ướt. Chị trở lại bình tỉnh:

“Tôi nói anh nghe. Anh Khoa chết, coi như tôi thua canh bạc quá lớn anh à!”

Đến đây thì chị bật khóc thành tiếng! Con gái chị ngồi cạnh cũng khóc theo! Lúc ấy tôi chưa hiểu rõ câu nói của chị, cho đến tối tôi mới nghĩ: “Có lẽ chị Khoa lo tiền lo vàng gì đó để anh Khoa về, và cũng có lẽ đã đưa tiền đưa vàng cho họ rồi và đang chờ ngày anh Khoa về thì phải”.

Một lúc sau, chị lại nói và nói thật lớn như để các anh chị đang có mặt trong nhà thăm nuôi cùng nghe:

“Mấy anh có biết là ông Văn Vĩ đã lái xe Honda chạy vòng vòng Sài Gòn được rồi hông?”

Hầu như anh em tù chính trị đang thăm gặp gia đình đều ngạc nhiên quá sức. Tôi cũng vậy. Lúc ấy chị Khoa nháy mắt với tôi, thế là tôi hiểu. Và tôi hiểu như thế này. Ông Văn Vĩ là nhạc sĩ cổ nhạc rất nổi tiếng. Bất cứ ai mà thích nghe cổ nhạc, có thể nói là đều nghe đến tên ông với ngón đàn tuyệt diệu của ông. Nhưng ông không thấy đường. Nói rõ hơn là ông Văn Vĩ bị mù. Thế nhưng vừa rồi ai cũng nghe chị Khoa nói là lái xe Honda hai bánh được rồi. Nghĩa bóng của câu ấy được hiểu là người dân Sài Gòn bây giờ sáng mắt ra rồi, tức là hiểu được cộng sản rồi, không còn mù lòa về cái chủ nghĩa cộng sản ưu việt nữa. Tôi nói nho nhỏ:

“Câu nói của chị thật rõ nghĩa. Câu nói công khai như vậy nhưng qua mặt chúng nó dễ dàng vì chúng nó có biết gì đâu. Chị đã mang đến cho anh em chúng tôi một nhận thức chính trị của người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ. Cám ơn chị”.

Nỗi khổ của dân quê.

Mùa đông năm 1982, trại tổ chức lại các Đội tù chính trị sau khi các bạn từ trại tập trung Vĩnh Quang và Tân Lập (tỉnh Vĩnh Phú) chuyển đến đây, và một số đã chuyến về các trại trong Nam. Lần tổ chức này không còn các Đội cấp Đại Tá riêng biệt nữa, nghĩa là Đội hỗn hợp. Tôi vào Đội 5 và dọn sang buồng giam số 4, với trách nhiệm Đội Trưởng. Trong Đội 5 có 6 bạn trẻ mà trước đây thuộc Đội 20, bị bắt trong năm 1976 vì tham gia tổ chức Phục Quốc do Công An cộng sản trá hình tổ chức. Đội này lúc ở buồng giam số 8 có lúc công khai chống đối đám Công An, nên bị chúng nó chuyển ra biệt giam tại trại Mễ ở Phủ Lý. Khi trở về trại, sức khỏe của các bạn quá kém vì bị chúng nó hành hạ và phần ăn bị cắt giảm mà vốn dĩ đã không đủ no! Đến mức bạn trẻ Đặng Hữu Nam, trước đó là Đội Trưởng Đội 20, không thể tự mình từ cổng trại vào buồng giam được phải nhờ một bạn cỏng vào!

Đội 5 chúng tôi vào thung lũng khai phá trồng bí rợ và khoai mì. Thung lũng có nhiều cỏ tranh nên đám Công An gọi là thung gianh, trong khi chúng tôi gọi tắt là “thung”. Cách trại khoảng 4 cây số mỗi lượt đi về nên chúng tôi làm “thông tầm”, đi từ sáng đến chiếu mới về. Thung, toàn đá tảng trải dài hai bên triền núi cao, lác đác có đất trống từng mảng nhỏ nhưng cỏ tranh cao khỏi đầu. Công việc của chúng tôi là tìm những phần đất cỏ tranh để dọn sạch đào hốc trồng bí rợ và cuốc những khoảnh đất trống trồng khoai mì. Khởi đầu còn có Đội 6 với Đội 7 cùng vào thung lũng này, nhưng vài tháng sau chúng nó chuyển hai Đội bạn lao động khu vực khác.

Mỗi sáng chúng tôi lãnh phần gạo ăn trưa. Từ vài tháng nay chúng tôi được ăn gạo tuy là gạo đầy trấu và sạn. Nhớ lại những năm ăn 100% bo bo, khoai tây, khoai mì khô, hay bột mì luộc mà hãi hùng! Ngoài phần gạo, có thêm nắm rau. Chỉ thế thôi. Những anh có gia đình đến thăm nuôi hoặc được gia đình gởi tiếp tế thì có chút gì đó giúp cho bữa ăn trưa thêm đậm đà.

Thung lũng này rất rộng. Khi chúng tôi vào đây thì nhiều gia đình nông dân đang dở chòi và đào khoai mì mà họ gọi là thu hoạch để tìm vùng đất khác trồng trọt. Hỏi ra mới biết, nhiều gia đình nông dân từ Phủ Lý vào đây khai thác thung lũng hoang vu này cách nay 3 năm, khi thấy canh tác được nên Công An trại đuổi họ đi nơi khác với lý do đất của trại, họ bị đuổi nhưng không được một đền bù gì cả. Trong số dân nghèo khai phá trồng trọt ở đây, có gia đình ông Tạ với hai cô con gái, chuyển chòi của họ sát vào chân núi mà phía bên kia chân núi là nhà thăm nuôi của trại. Gia đình này đào khoai đến đâu, chúng tôi đào hốc trồng bí rợ đến đó. Tôi hỏi chị Tạ sau khi tìm hiểu về tình cảnh những gia đình canh tác nơi đây:

“Gia đình chị có ngần này người mà ban đêm dám ngủ ở đây sao?”

“Có phải chúng tôi ở đây ban đêm hết đâu. Chiều thì vợ chồng tôi về nhà ngoài Ba Sao một chút, ở nhà còn mấy cháu nhỏ nữa. Chỉ có hai đứa này ngủ đây thôi”.

Vừa nói chị vừa chỉ hai con bé gái bé xíu của chị.

Anh Dương Công Liêm ngạc nhiên: “Chị nói thiệt hả?”

Con bé lớn cười cười:

“Chỉ có cháu với em cháu ngủ đây thôi ông à. Mấy năm rồi chứ phải bây giờ đâu. Mà sao ông ngạc nhiên?”

Các bạn chung quanh cùng nói: “Cháu can đảm thiệt”.

Anh Liêm hỏi: “Chị Tạ ơi! Cháu này được mấy tuổi rồi chị?”

“Cháu Oanh 16 tuổi, còn cháu Loanh 15. Cháu có can đảm can điếc gì đâu mấy ông ơi, chẳng qua là do miếng ăn dần dần rồi quen thôi ”.

“Chị nói sao. Một cháu 15 và một cháu 16 à?”

“Vâng. Trẻ con ở cái đất này có được ăn uống như trong Nam mấy ông đâu mà lớn được. Vùng Ba Sao ra đến Phủ Lý trẻ con đều thế cả”.

“Xin lỗi chị. Tôi không có ý gì khác đâu”.

Quả thật khó tin, nhưng trước mắt là sự thật. Chúng tôi không thể ngờ vóc dáng hai cháu này áng chừng 10 hay 11 tuổi là cùng, không ngờ chúng tôi đoán sai quá xa. Ngẫm cho cùng, câu nói của chị Tạ là một lời than cho cái thân phận người dân xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc! Nếu chưa đủ tiêu biểu cho nhiều địa phương đồng bằng Sông Hồng, ít ra cũng là cái khốn khổ của người dân nói chung và tuổi trẻ nói riêng quanh vùng này!

Mỗi hốc bí rợ, chúng tôi cho vào 80% phân xanh làm từ những cây dại mà thân mềm, và 20% phân cứt dê mà chúng tôi gọi là “phân thầy”. Thường ngày có hai bạn là anh Phạm Kim Tấn với anh Thuận khiêng “phân thầy” từ  cái chuồng dê mà chúng tôi gọi là  “chung cư của thầy” ở mãi 3 cây số cách nơi chúng tôi trồng bí. Đúng là người ăn độn, súc vật ăn độn, hốc bí rợ xã hội chủ nghĩa cũng ăn độn luôn.

Đó là công việc, bây giờ mời quí vị quí bạn nhìn qua cuộc sống dọc theo thung lũng này một chút, hi vọng sẽ nhận ra điều gì đó về thân phận người phụ nữ xã hội chủ nghĩa nơi đây. Thượng nguồn thung lũng có một làng của người cùi, xa hơn nữa là nông trường trồng trà.

Vào những ngày giáp Tết, tên võ trang bảo tôi theo hắn vào làng cùi mua vài món về ăn. Ở đây có bán gà vịt, trái cây, rau cải. Vào làng cùi, phải thú thật là tôi rất sợ, vì mọi người già trẻ lớn bé, không lở loét cũng tay không ngón, chân không bàn. Vì là lần đầu hắn kéo tôi  đến đây nên trong túi không có đồng nào cả mà chỉ đi một vòng rồi quay về Đội. Từ ngày Đội chúng tôi vào thung lũng này, có thể nói là chúng tôi “mua đứt” tên quản giáo với tên võ trang, cho dẫu là tên võ trang thay đổi hằng tháng, có khi hằng tuần. Mỗi sáng đến khu vực trồng bí, tôi cho mỗi đứa 10 điếu thuốc quấn và lon guigoze nước trà, do chú Hổ -bạn tù trẻ- nấu. Thuốc quấn, là thuốc điếu người ta quấn bằng tay bán từng bó 100 điếu chỉ vài đồng, mà tôi gởi tên quản giáo mua giùm để phát cho chúng nó hút khi ốheo Đội .

 Lúc ăn sáng ăn trưa, ngoài anh Phạm Kim Tấn (Trung Tá Cảnh Sát), tôi, với chú Hổ, còn có tênquản giáo với võ trang cùng ăn với chúng tôi. Trừ lúc ăn, hai tên gần như chỉ ngồi trong cái chòi bé xíu cách chòi chúng tôi không xa, vì hắn đồng ý với tôi là khi giao só lượng hốc bí cho chúng tôi làm, đến chiều trước khi rời nơi đây hắn mới kiểm soát kết quả việc làm. Nhưng làm sao hắn kiểm soát nỗi vì khu vực rộng lớn toàn đá tảng với bụi rậm, chỗ này vài hốc bí, xa xa chỗ kia vài hốc bí, ngay khi chúng tôi đi tìm cũng khó chớ nói gì tên quản giáo kiểm soát. Chỉ khi những giây bí nằm la liệt trên các tảng đá hắn mới trông thấy được.

 Trước ngày nghỉ Tết, tên võ trang hướng dẫn một số anh em chúng tôi vào làng cùi mua những cành đào rất đẹp để trang trí buồng giam chúng tôi, đồng thời tặng bên Tổ Văn Hoá để trang trí nơi tranh giải cờ tướng với giải bóng bàn do anh em “cầu thủ” tù chính trị chúng tôi tranh giải. Nói là “tranh giải” cho nó oai chớ thật ra khi chiếm hạng nhất cũng chỉ vài cái bánh ngọt với nhúm trà, và tiếng vỗ tay của bạn bè chung quanh thôi. Nhưng cũng giúp đôi chút nhẹ nhàng thư thái trong cái không khí trại tù vốn dĩ luôn căng thẳng!

Hãy gọi là “thể thao”.

Nói đến bóng bàn mà không nói đến anh Chu Văn Sáng (Đại Tá An Ninh Quân Đội) quả là thiếu sót lớn. Vào giữa những năm 50, anh Sáng là Trưởng đoàn tuyển thủ bóng bàn Việt Nam đoạt giải bóng bàn thế giới tại Tokyo, Nhật Bản. Chiến thắng oanh liệt của đoàn tuyển thủ Việt Nam khi hạ đoàn tuyển thủ Nhật Bản tại thủ đô của họ trước sự có mặt của Thái Tử Nhật. Sau đó, theo lời mời của đoàn tuyển thủ Pháp, đoàn tuyển thủ Việt Nam sang Paris và hạ luôn đoàn tuyển thủ này ngay tại thủ đô của họ.

Nói đến cờ tướng mà không nói đến anh Nguyễn Văn Phiên (Đại Tá, Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Phòng), cũng là một thiếu sót khác. Tuy anh Chu Văn Sáng cũng là tay cờ tướng mà nhiều bạn không đương cự nỗi, nhưng anh Phiên là người đoạt giải.

Hào hứng nhất là bóng tròn, hay nói cho dễ hiểu là đá banh. Bước đầu hình thành tương đối khó, nhưng sau đó thì cả trại chia ra 3 đội hạng A và 3 đội hạng B. Tôi nói “chia ra” chớ không phải tổ chức, vì bất cứ bạn nào chịu mang giày vào sân, và thích đội nào thì vào đội đó miễn đủ 7 người là được. Thay vì đội banh phải 11 người, nhưng vì sân trại không đủ kích thước của sân banh, nên chỉ cần 7 cầu thủ: 1 thủ môn + 2 hậu vệ + 1 trung vệ + và 3 ở hàng tiền đạo. Chia ra là như vậy, chớ nếu “tổ chức” phải chọn những anh thích hợp từng vị trí trong sân. Nguồn gốc của “phong trào” đá banh, xin tạm gọi như vậy cho ra vẻ một chút, là đầu tháng 09/1981, tổ Văn Hoá do anh Dương Huy Nam (đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng) trách nhiệm, được trại cấp cho 2 trái banh để tù chính trị đá chơi nhân ngày lễ 2/9 của họ. Anh Cao Văn Phước, một thời là thành viên Tổng Cuộc Bóng Tròn Việt Nam, và từng hướng dẫn đoàn tuyển thủ bóng tròn tham dự nhiều giải quốc tế, tương tự như anh Chu Văn Sáng bên bóng bàn vậy. Anh Phước rủ từng anh vào sân đá banh chơi. Thế là nhiều anh em tham gia, đá hươu đá vượn gì cũng được, miễn có chạy tới chạy lui thì đám trực trại mới mở cửa buồng giam cho ra ở ngoài xem.

Mang đôi giày vải vào sân là may rồi chớ làm gì có giày đá banh. Còn cái sân banh chính là cái sân giữa trại, hai bên là hai bức tường đá tảng, bên trên có hàng rào kẽm gai, nền sân là nền đá lổm chổm, nếu không cẩn thận là đá luôn những cục đá nho nhỏ trên sân nữa. Chuẩn bị cho trận banh đầu  tiên, anh Phước hỏi tôi:

“Anh muốn đá ở vị trí nào?”

“Tôi quen hậu vệ giữa, nhưng với kích thước sân này anh cho tôi đứng trung vệ xem sao”.

“Ủa. Bộ anh có đá banh rồi hả?”

“Trong những năm 1937 đến 1940, lúc học trường sơ học Đại Ngãi (Sóc Trăng), tôi là “vua ăn trộm” bưởi trên cây đem thui cho mềm một chút rồi cột giây chuối vào để đội banh tí hon tụi tôi đá được vài trận. Bị đòn quá trời nhưng hổng bỏ cái bệnh đó được vì tôi mê đá banh lắm. Năm 1954, lúc học ở Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, tôi cũng đá trong đội banh của trường. Năm 1956-1958 phục vụ Trung Đoàn 35 ở  Plei Ku rồi Kon Tum, tôi vẫn đá”.

“Ê! Trung vệ phải chạy lên tấn công rồi chạy về tăng cường phòng thủ, mệt lắm à nghe. Nhắm kham nỗi hông đó?”

“Lo gì, cứ thử một hiệp xem sao”.

Thế rồi trận đầu tiên với hai đội tạp nham, với chiến thuật cũng tạp nham, mạnh ai nấy đá, trúng cũng đá mà trật cũng đá, nhưng rất ư là vui vì “khán giả” ngồi bít các đầu hành lang vào các buồng giam, vỗ tay liên hồi. Vỗ tay, không phải do đá hay mà là đá loạn trên sân làm cho các bạn tức cười. Vậy là vui rồi. Nhưng sáng hôm sau hầu hết “cầu thủ” chúng tôi đều khai bệnh, vì bắp thịt chân “bị xổ” nên đi đứng rất khó. Anh này nhìn anh kia, muốn cười mà cười không nỗi. Mỗi lần leo lên sàn gác bên trên, tay phải nắm song sắt cửa số đầu hồi buồng giam, tay trái nhấc cái chân để lên nấc cái thang sắt thẳng đứng, đến lượt thay tay để nhấc chân phải lên, và lần thứ hai là ngồi trên sàn gác được rồi. Nhưng sau vài trận thì các bắp chân bình thường trở lại, không thấy đau nữa. Thật ra đâu phải mỗi ngày được đá banh, mà chỉ được đá vào chiều thứ bảy hoặc ngày chủ nhật thôi, nhưng có cái lợi là khi đá banh thì đám trực trại không đóng cửa buồng giam, nếu không đá banh thì chúng nó khóa cửa nhốt trong buồng.

“Phong trào” đá banh được hình thành trong sự hào hứng như vậy đó, nhưng nuôi dưỡng được phong trào mới khó, thậm chí rất khó vì làm sao có banh để đá, và có nước chanh đường để uống hằng tuần. Công An trại chỉ có thể cho vài trái banh nhân ngày lễ của họ thôi. Với lại banh do mấy cái xí nghiệp trời ơi của xã hội chủ nghĩa trên đất bắc sản xuất, đá vài trận là nó sút chỉ hết trơn, lúc ấy chỉ có liệng vào đống rác thôi.              

 Trong lần vợ tôi thăm hồi đầu năm 1982, tôi thuật vợ tôi nghe về điều khó khăn để nuôi dưỡng phong trào đá banh, vợ tôi hứa sẽ nói với một số chị bạn trong mục đích luân phiên ủng hộ banh cho anh em chúng tôi. Thế là từ cuối mùa xuân năm 1982,  gần như cứ hai tháng chúng tôi nhận được một trái banh từ Sài Gòn gởi ra. Thỉnh thoảng còn có một lố khăn lông nhỏ để lau mặt trong lúc giải lao giữa hai hiệp. Phải công nhận những trái banh do kỹ nghệ tại Sài Gòn sản xuất có phẩm chất tốt hơn nhiều so với kỹ nghệ xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc. Đá được 7 hay 8 trận mới loại ra, dù rằng sân đá banh toàn đá dăm nên da banh mau mòn lắm. Anh Dương Huy Nam gởi Công An đi phép cuối tuần mua giùm cái còi cho trọng tài là anh Cao Văn Phước. Thỉnh thoảng anh Bùi Đức Tài (Đại Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh) hoặc tôi luân phiên làm trọng tài. Có điều là chúng tôi chỉ đá mỗi hiệp 30 phút thay vì theo đúng luật phải đá 45 phút, vì lẽ anh em cầu thủ chúng tôi trẻ nhất cũng hơn 30 tuổi, còn già sơ sơ như tôi cũng hơn 50, đá đúng luật theo thời gian e kiệt sức.                    

Do hàng hóa sản xuất tại Sài Gòn dù là Sài Gòn cộng sản vẫn có được phẩm chất tốt, cho nên những tên Công An được đi công tác trong miền Nam, họ xem như tương đương với xuất ngoại sang Liên Xô vậy. Và đám Công An quản giáo với võ trang, rất thích đá banh sản xuất tại Sài Gòn, nhưng vì không có nên chúng nó muối mặt vào trại đá với tù chính trị chúng tôi. Chúng tôi đá với nhau còn nương tay nương chân, nhưng với đám Công An thì chúng tôi đá đến nơi đến chốn lắm, nghĩa là thẳng chân. Ngón nghề nào dùng được là dùng với họ nhưng không sợ chúng nó trả thù, vì khi đến chỗ lao động chúng nó vẫn nhờ cậy chúng tôi về trà thuốc, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thỉnh thoảng cũng có đứa chơi xấu, lúc ấy anh em khán giả chúng tôi la ó dữ lắm, có hôm đến mức đám trực trại phải đánh kẻng nhốt vào buồng giam.

Bình thường không có lý do gì để “tranh giải” thì giữa các buồng giam cáp độ đá với nhau, đội banh của buồng nào thua phải đãi bên buồng thắng một nồi chè. Chè gì cũng được nhưng phải ngọt đúng mức, vì có lần buồng chúng tôi thắng trận nhưng khi ăn chè giống như ăn đậu xanh luộc vậy quí vị quí bạn à! Có những trận giữa hai đội lão tướng, hoặc hai đội trẻ, lần vui nhất là đá với nhau giữa hai đội độc thân. Vui vì độc thân được hiểu là còn trẻ, thế nhưng anh Nguyễn Kim Tây lúc ấy hơn 50 tuổi mà vẫn độc thân, cũng phải vào sân. Theo banh một lúc là đứng thở để banh lăn tự do. Chưa hết, chúng tôi còn cáp độ giữa khu bên này với khu bên kia nữa, tức là các buồng giam khu bên kia thành lập một đội banh, đấu với đội banh của các buồng giam khu bên này. Như vậy quí vị quí bạn cũng hình dung được là các cầu thủ “xào qua xáo lại” để có những cái tên đội banh nghe như nhiều lắm, chẳng hạn như trận đấu giữa hai đội lão tướng, trận đấu giữa hai đội thanh niên, trận đấu giữa hai đội của hai khu, trận đấu giữa hai đội độc thân, trận đấu giữa đội nhà bếp với “đội tuyển trại”, vì đội nhà bếp có nhiều cầu thủ ngon lành lắm, ..v..v…Có điều là trận banh càng dở chừng nào càng làm cho khán giả cười đến đau bụng lận.

Sau Tết, khoảng trung tuần tháng 03/1983, một số các anh cấp Đại Tá đã chuyển trại trên Yên Bái hồi tháng 10/1977, lại chuyển đến trại Nam Hà. Lúc ấy tôi mới biết các anh ấy từ Yên Bái chuyển xuống trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú, sau đó chuyển vào trại Thanh Phong tỉnh Thanh Hóa. Tại đây một số trong số đó chuyển vào các trại trong Nam, và số còn lại chuyển đến trại Hà Tây tỉnh Hà Sơn Bình, nay cả trại Hà Tây chuyển đến đây.

Tháng sau đó, khoảng 200 cấp Đại Tá trong trại Nam Hà A -kể cả số Đại Tá từ trại Hà Tây mới chuyển đến- cùng chuyển vào Nam, và nghe đâu bị nhốt trong các trại tập trung ở Xuân Lộc với Hàm Tân. Riêng số bạn cấp Đại Tá hoặc viên chức hành chánh cao cấp trong Tổ Dịch Thuật từ Hà Tây đến, không một bạn nào chuyển vào Nam. Tổ này chuyên dịch các tài liệu và các sách Anh ngữ lẫn Pháp ngữ, nghe nói do cơ quan nghiên cứu gì đó thuộc Bộ Quốc Phòng của cộng sản đưa dịch. Trong số các bạn từ Hà Tây xuống, còn có các vị cựu Tướng Lãnh và bị nhốt riêng trong buồng giam số 3. Các vị không ra ngoài lao động mà chỉ quanh quẩn trong khuôn viên buồng giam này.

Trở lại Đội 5 chúng tôi trồng bí rợ và trồng khoai mì trong thung lũng cỏ tranh. Bên rìa thung lũng có một khu đất nho nhỏ chưa thể gọi là “nghĩa trang” nhưng cũng có một số mộ của tù chính trị lẫn tù hình sự. Mỗi khi có một tù nhân chết, họ sai hai tù hình sự khiêng cái gọi là quan tài đi chôn. Các anh hình sự cứ chỗ nào tiện đào là bỏ quan tài xuống đó mà lấp đất, tiện nhất là cứ tìm cái mộ nào thân nhân đã hốt cốt rồi quẳng cái quan tài xuống rồi lấp đất sơ sài là xong. Vì vậy mà  những ngôi mộ ngang dọc rất ư lộn xộn, không biết đầu đít ngôi mộ ở phía nào vì không có cái gì khả dĩ thay thế mộ bia. Sở dĩ chúng tôi biết có khu mộ này là do con gái của anh chị Tạ nói. Lúc nửa giờ nghỉ trưa, tôi nhờ Hổ với Tâm, hai anh bạn tù trẻ trước kia thuộc Đội 20, lén theo con bé để nó chỉ khu mộ đó để biết mà đốt nhang khi có thể thực hiện được.

Nhân tháng “Thanh Minh”, tôi với Hổ lén đến khu mộ toàn cỏ tranh rậm rạp cao khỏi đầu. Hóa ra là gần cái chòi của hai con bé Oanh và Loanh. Hầu hết đã bị trâu bò dẫm nát và gần như chỉ còn một nhúm đất cao thôi, nếu không được hai cô bé tội nghiệp kia chỉ từng nhúm đất thì không thể nhận biết đó là ngôi mộ, ngoại trừ mộ của anh Khoa là dễ nhận. Thật là buồn! Đồng đội và đồng tù của chúng tôi khi từ giả cuộc đời không một người thân bên cạnh! Ngày vào trại tập trung với nguyên vẹn một con người từ thể xác đến tinh thần, ngày ra khỏi cổng trại lại nằm trong cái quan tài nhỏ bé tồi tàn, máng trên hai vòng giây với cây đòn dài do hai chú tù hình sự khiêng đến chân núi bên kia trại mà ”yên nghỉ” dưới lớp đất sơ sài gọi là những nấm mộ!

Sau khi cắm nhang xong, tôi nói với chú Hổ:

“Hổ, mình đứng yên lặng và cúi đầu một phút để tưởng nhớ các bạn đồng tù đã không còn nữa nghe Hổ!”

Xong. Tôi với Hổ lần lên triền núi thử tìm hai ngôi mộ mà lúc cầu cơ có hai hồn nhập vào nói là sĩ quan Hoa Kỳ chết vì kiệt sức tại trại Nam Hà A này, nhưng không tìm được bất cứ dấu vết gì để có thể xem đó là nấm mộ cả. Thuật chuyện quí vị quí bạn nghe như cả buổi trời, nhưng thật ra chỉ trong khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ là chúng tôi quay về, vì e thằng võ trang biết được thì phiền lắm.

Nỗi khổ của nữ công nhân.

Trưa hôm sau, tôi nhờ Hổ lén sang nhờ hai con bé Oanh với Loanh làm cỏ quanh những ngôi mộ, nhưng hai con bé này đòi đến 5.000 đồng tiền công, đào đâu ra ngần ấy tiền vì chúng tôi ước tính năm bảy chục đồng thì chấp nhận được. Thế là anh Huỳnh Chí Tài -quốc tịch Hong Kong- bị Công An bắt vì cờ bạc rồi đưa vào nhốt chung với chúng tôi, cùng với chú Hổ tình nguyện mỗi trưa lén sang làm cỏ.

Cũng may là vài hôm sau đó, tên võ trang gọi tôi:

“Anh Hoa, anh vô Đội 4 Nông Trường chè (trà) với tôi”.

“Chi vậy cán bộ?”

“Đi chơi mà. Nếu tiện thì mua ít đổ (đậu) xanh về nấu chè ăn”.

“Xa không cán bộ?”

“Khoảng 1 giờ đi chân”.

“Liệu cán bộ Cảnh -quản giáo- có cho tôi đi không?”

“Tôi nói với cán bộ Cảnh rồi”.

“Không được cán bộ, tôi phải hỏi cán bộ Cảnh cho chắc”.

Hắn ở đằng chòi, nghe nói thế bèn lên tiếng:

“Tôi đồng ý anh đi với cán bộ Minh, nhưng phải trở về đây trước giờ về trại”.          

Tôi xoay sang tên võ trang: “Cán bộ chờ tôi một chút”.

Tôi gọi chú Hổ:

“Hổ, chú rủ anh Tài sang khu mộ làm cỏ được rồi, vì tôi đi với cán bộ Minh cũng phải 3 tiếng đồng hồ lận. Áng chừng hai tiếng đồng hồ là quay về đây nghe Hổ”.

Tên võ trang đi trước, tôi theo sau. Băng qua làng người cùi, ngang qua khu rừng chồi, bắt đầu vào khu vực Đội 4 Nông Trường Trà ở thượng nguồn thung lũng. Hắn mặc đồ Công An, tôi mặc quần áo tù. Đứng trước gian nhà thật nhỏ ngay đầu dãy, đang có sáu cô gái ngồi bên trong. Một trong sáu cô gái vui vẻ:

“Chào anh Minh”. Rồi cô ta nhìn tôi: “Chào anh”.

Tên Minh đưa tay về phía tôi:

“Giới thiệu với các cô, đây là anh Hoa”.

Cô vừa chào, lên tiếng:

“Mời anh Minh và anh vào. Các anh thông cảm cho cảnh nghèo của chúng em nhé!”

Tên Minh có vẻ nịnh đầm:

“Sao hôm nay cô Lan rào đón thế?”

Hai cô cầm hai chiếc ghế đẩu  mời ngồi cạnh cái bàn già nua ọp ẹp, trong khi bốn cô kia ngồi chung trên cái giường cá nhân mà tuổi đời với phẩm chất của nó cũng tương đương với cái bàn. Tên Minh hỏi:

“Tất cả các cô ở chung gian nhà này à?”

Cô gái tên Lan trả lời:

“Không anh à! Mỗi gian chúng em ở hai hoặc ba người. Gian này em ở với chị Ánh. Đây là nhà ở, vừa là văn phòng của Đội 4”.

Cô ta quay sang tôi:

“Mời anh dùng chè. Anh có dùng chè xanh được không? Ở đây chúng em nghèo lắm, chè này nếu phải mua chúng em cũng không có tiền mua đâu. Đây là chè xanh trên mấy ngọn đồi mà các anh vừa đi qua đấy”.

Từ nảy giờ tôi im lặng dò xem thái độ các cô gái này đối với tôi xem sao, vì trông vào bộ đồ của trại tù tất nhiên các cô này đoán biết tôi là tù. Các cô nhìn tôi, nhìn thẳng lẫn nhìn lén. Có lẽ các cô muốn nhận biết người miền Nam như thế nào, cho dẫu người miền Nam đang đối diện với các cô là tù chính trị.

“Cám ơn các cô. Đến nay là hơn 7 năm tôi ở trong các trại trên đất Bắc, tôi uống trà xanh này khá nhiều. Có nghĩa là tôi uống được. Còn các cô than nghèo, thật ra đất nước nghèo, người dân nghèo, điều này cả nước biết mà. Tôi xin hỏi, các cô có biết tôi là thành phần nào ở vùng này không?”

“Dạ có, vì nơi anh ở là trại Ba Sao, nơi anh đang ngồi là nhà chúng em ở Nông Trường Ba Sao, nên chúng em biết”.

“Vâng. Cám ơn các cô”.

Cô Ánh hỏi tôi:

“Anh có đến đây lần nào chưa?”

“Đây là lần đầu tiên. Chẳng lẽ cô nghĩ tôi muốn đi là đi được sao?”

“Xin lỗi anh”. Im lặng một lúc, cô ta nói tiếp:

“ Chắc anh chưa biết hoàn cảnh của chúng em. Trong Đội 4 này có 102 công nhân, nhưng có đến 100 nữ mà chỉ có hai nam công nhân thôi …”.

Tên võ trang cắt ngang dường như nó quê vì không cô nào nói chuyện với nó:      

“Trong số 100 cô, có bao nhiêu cô có chồng?”

“Chỉ có hai chị có chồng”. Cô Lan trả lời.

“Buồn nhỉ?”

“Anh nói anh buồn hay anh nói chúng em?”

Tên Minh ú ớ mãi mà chưa trả lời, tôi mĩm cười:

“Có lẽ cán bộ Minh muốn làm người thứ 3 lập gia đình ở đây nhưng chưa rõ ý các cô ra sao thì phải”.

Cô tên Ánh nói như một lời than:

“Không ai đến đây với chúng em đâu anh!”

 Ngưng một lúc, dường như cô ta đang xúc động!

“Chúng em biết số phận của chúng em trong xã hội này lắm anh. Có khi cả năm mới có một vài anh vì lý do gì đó mới tạt vào đây, chứ chẳng anh nào muốn làm bạn với những cô gái lam lũ quanh năm chỉ quanh quẩn những đồi chè như chúng em đâu!”

“Tôi là người miền Nam, nhưng các cô đừng nghĩ là tôi quá lời về miền Nam chúng tôi. Miền Nam chúng tôi có rất nhiều đồi trà mênh mông bao quanh thành phố Plei Ku và vùng Bảo Lộc, mà là có từ bốn năm chục năm trước. Nhưng ngay trong mấy chục năm chiến tranh mà công nhân vẫn có mức sống cao cùng với mọi tiện nghi trong gia đình, và hưởng mọi tiện nghi tân tiến trong xã hội nữa. Thật lòng mà nói, tôi không hiểu tại sao đời sống của các cô như thế này?” Tôi xin hỏi thêm, theo các cô thì những cô gái ở các vùng khác có cuộc sống khá hơn các cô ở đây không?”

Tên võ trang lên tiếng:

“Tại vì chế độ trong đó thoáng hơn”.

Tôi đáp với chút ngạc nhiên: “Có thể là như vậy”.

Lẽ ra tôi phải nói chính xã hội chủ nghĩa làm cho dân nghèo, đất nước nghèo, nhưng dù gì thì thằng này cũng là Công An cai tù, nói như vậy cũng đủ rồi. Câu của hắn vừa rồi, không hiểu là hắn muốn bẫy tôi, hay trong lúc bất chợt hắn bộc lộ nhận thức chính trị trong con người thật của hắn? Hắn hỏi tôi:

“Anh có đọc bài báo viết về Nông Trường Chè Sông Bôi chưa?”

“Có, vì tôi phụ trách đọc báo trong buồng giam”.

Cô tên Lan hỏi tôi: “Bài báo nói gì vậy anh?”

“Tôi không biết là có nên nói hay không nữa”.

Đó là cách gợi thêm tính tò mò của cô ta nên tôi bỏ lửng như vậy. Tên Minh châm mồi:

“Bài báo nói bên Nông Trường Sông Bôi có đến mấy trăm cô chưa chồng đó mà”.

Cô Lan tỉnh bơ:

“Tưởng gì chứ tin đó bình thường thôi. Hiện giờ công nhân nữ ở Nông Trường nào cũng thế đấy. Bộ anh Minh tưởng Nông Trường này ít à!”

“Tôi thấy bài báo nói ở đó hơn 400 cô chưa chồng, nhưng không thấy nói tổng số các cô ở đó là bao nhiêu nên chưa thể nói là nhiều hay ít”.

“Họ nói chưa đúng đâu anh …..”.

Tên Minh cắt ngang:

“Chẳng lẽ cứ câu chuyện này mãi sao!

Như một lời than, cô Lan nói:

“Thú thật với các anh, chuyện của chúng em ở cái xó rừng này quanh quẩn chỉ thế thôi. Đó là sự thật không thể chối bỏ, đến mức chúng em xem nó bình thường nên chẳng tránh né gì cả”.  

 Không thể chần chờ được nữa vì phải một tiếng đồng hồ đi bộ để còn kịp giờ về trại, tôi nhắc tên võ trang ra về. Cô Lan vào trong cầm ra một bọc giấy nhỏ:

“Anh Minh cho anh Hoa nhận trà xanh đem về trại uống được không?”

“Được”. Anh Hoa nhận đi”.

Cô ta quay sang tôi:

“Anh Hoa, anh mang trà này về trại uống. Ở đây chúng em chỉ có thế”.

“Cám ơn cô. Chào các cô”.

Sau lời chào đó, tất cả các cô bước ra cửa vẫy tay như một cử chỉ thân thiện. Trên đường về, tôi hỏi:

“Bộ thanh niên  vùng này không thích cưới vợ là công nhân ở các Nông Trường sao cán bộ?”

“Anh không biết. Thời bây giờ chẳng anh nào lao đầu vào cưới các cô không có kinh tế cơ bản cả. Tôi không rõ trong Nam các anh ra sao, nhưng ngoài này (tức đất Bắc), sắc đẹp là thứ yếu, kinh tế (ý nói có tiền) mới là chủ yếu”.

“Cán bộ có thể nói trường hợp điển hình được không?”

“Bất cứ cô nào trong số đó, nếu chuyển sang làm mậu dịch viên (tức là đứng bán hàng) là tôi cưới ngay. Làm mậu dịch hoặc nghề máy khâu (thợ may) thì có đồng vào, chứ cưới vợ mà vợ không đẻ ra tiền lại đẻ ra con thì chết sớm thôi. Thanh niên ngoài này (tức trên đất Bắc) thế đấy”.

“Tôi nhớ ra rồi. Có lần cán bộ Giao nói với anh em chúng tôi rằng, sở dĩ cán bộ Giao không cưới cô Liên em gái cán bộ Thịnh (khuỳnh), mà cưới cô nào đó làm thợ may ở Ninh Bình vì cô thợ may có tiền vô hằng ngày, dù rằng cô đó  kém cô Liên về sắc đẹp. Cán bộ Giao còn nói cô Liên chỉ là công nhân nhà bếp, vài chục đồng lương mỗi tháng làm sao mà sống”.

“Thanh niên miền Bắc chúng tôi vậy đó anh. Anh biết vợ cán bộ Lực không?”

“Biết, vì khi Đội chúng tôi trồng rau dưới đồng, cô ấy hay xuống xin rau”.

“Xấu như ma lem mà ông Lực vẫn cưới, chỉ vì bố vợ ông Lực là Đại Úy trưởng phòng tổ chức của trại, nên ông Lực nương vào bố vợ để tiến thân. Nhờ vậy ông Lực mới được cái chức trưởng toán trực trại chứ bình thường thì đừng hòng”.

“Cán bộ có biết vụ cán bộ Hèo từ hôn với cô nào đó không?”

“Có chứ. Bị ông bố ép quá nên ông Hèo mới chịu làm lễ đính hôn với cô công nhân trồng cói (tức lát làm chiếu). Mà anh có nghe nói gì về cô đó không?”

“Không, cán bộ”.

“Cô ấy nom xinh xinh nhưng vì không có kinh tế cơ bản, nên sau một tháng đi lại với nhau thì ông Hèo bỏ luôn”.

“Theo cách nhìn của tôi, cán bộ Hèo hành động như vậy không đúng. Thà không chịu từ lúc đầu, đằng này cán bộ Hèo dắt cô ta về quê cả tuần rồi dứt giây là không tốt”.

“Anh nói theo anh ở trong Nam, chứ thanh niên ngoài Bắc này nhất trí (tức đồng ý) với hành động của ông Hèo”.

Qua câu chuyện vừa rồi, tôi nhận ra vài điểm sau đây:

- Thật lòng mà nói, lời của các cô gái xã hội chủ nghĩa ở Nông Trường trà vừa rồi, chính là những lời than tự con tim các cô ấy rất là tội nghiệp! Các cô nói lên sự cùng cực về vật chất, và cùng cực về tình yêu trai gái như một số phận! Chấp nhận một cách tự nhiên như hơi thở từ giây này sang giây khác vậy! Nhưng tôi không cho là số phận, mà chính là tội ác của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã đẩy xã hội miền Bắc xuống đến tận cùng của đau khổ!

- Lời của tên Minh võ trang “tại vì chế độ trong đó thoáng hơn”, tôi tin là hắn bộc lộ bản chất thật trong con người của hắn. Hắn nhận ra điều đó, nhưng hắn không thể nói với đồng chí của hắn, và trong lúc bất chợt hắn không kịp nén lại bên trong mà thốt nên lời. Chừng như hắn nhận ra sự lỡ lời đó nên hắn xoay sang đề tài khác.

- Vậy là quan niệm hôn nhân của thanh niên xã hội chủ nghĩa trên đất bắc này không còn lồng trong cái gọi là lý tưởng cộng sản nữa, mà là gói gọn trong vật chất dù chỉ là mớ vật chất nhỏ nhoi của cô thợ may hay cô gái bán hàng mà họ gọi là mậu dịch viên. Hoàn toàn không còn tình yêu trong hôn nhân nữa.

Những nhận xét trên đây, chính là ông Hồ và những nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, vừa xây dựng con người trên nền tảng duy vật vừa phá tan đạo đức dân tộc để thay vào đó cái gọi làđạo đức cách mạng, chỉ biết nghe theo đảng và chết cho đảng. Hoàn toàn không có cái gì thuộc về bản thân của những thế hệ thanh niên đúng nghĩa thông thường nữa.  

Miên man trong câu chuyện xã hội chủ nghĩa mà lần đầu tôi được biết qua những cô gái vừa nghèo vừa khổ, mà về đến Đội lúc nào không hay. Khi tiếng chú Hổ gọi tôi mới ngưng suy nghĩ vì đến cái chòi của chúng tôi rồi.

Tôi rút cây viết ra vì trong cây viết có cái đồng hồ nhỏ xíu mà vợ tôi cho hồi đầu năm nay, thấy còn thì  giờ, tôi đi một vòng xem qua những đám bí rợ và khoai mì. Bí rợ thì vài tuần nữa là hái được, nhưng khoai mì còn phải vài tháng nữa. Trồng khoai mì thì sau khi bỏ “cọng hom” xuống cái hốc, cứ chờ đến ngày nhỗ lên lấy củ, trong khi dây bí rợ bò tứ tung phải kéo đầu nó để lên các tảng đá hoặc những nhánh cây nhỏ cho nó bám vào. Khi bí rợ ra hoa mà hoa thì có hoa đực hoa cái, cứ mỗi sáng anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) được phân công, len chân vào đám bí ngắt “hoa đực” đem cắm vào “hoa cái” gọi là “thụ phấn” để có đủ âm dương mà kết thành trái. Đúng ra theo tự nhiên thì “hoa cái” thụ phấn do ong, bướm, kiến, đậu trên hoa đực rồi bám vào hoa cái, thế nhưng “nước sông công tù” nên dư nhân công để làm “cái việc ấy” thay ong bướm. Khi từ nụ hoa kết thành trái thì phát triển nhanh lắm. Đến khi không cần cho kết trái nữa sau khi mỗi giây chỉ để 2 trái cho nó lớn, chúng tôi tha hồ ngắt đọt bí và bông bí luộc hay nấu canh đều ngon cả. Tôi nói luộc hay nấu canh, quí vị quí bạn nghe như những món ăn “đâu ra đó” chớ thật ra chỉ là nồi nước với đọt bí bông bí bên trong, đổ nước ra gọi nó là luộc, để nguyên nước cho vào chút muối với chút bột ngọt gọi nó là canh.

Nỗi khổ của hai ba thế hệ.

Nơi mà chúng tôi chọn làm cái lều nhỏ xíu để nấu nước cho Đội và anh em tự nấu cái gì đó để ăn, là ngã ba đường mòn. Con đường mòn này dài theo thung lũng, có cái ngã ba leo lên dốc núi khá cao để qua thung lũng bên kia núi thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, vì bên đó có nhiều người dân từ Phủ Lý vào khai phá trồng trọt. Trong số những người dân làm lụng bên đó có một gia đình bốn người, gồm: Một ông già khoảng 60 tuổi với 3 đứa cháu: Một cô gái khoảng 20 tuổi, và hai cậu bé 12 và 14 tuổi. Theo lời ông cụ, mỗi lần vào là ở đó một tuần, về lại Phủ Lý vài ngày thì trở vô. Nhìn thấy cả gia đình gánh khoai mì từ thung lũng bên kia, leo lên đỉnh núi cao, lại tuột dốc xuống thung lũng chúng tôi đang làm, lại leo lên cái đỉnh núi nữa mới xuống đến con đường đá gần nhà thăm nuôi để ra Ba Sao rồi về Phủ Lý. Những củ khoai mì cột chặt ở hai đầu cây tre mà gánh. Ông cụ với cô gái, mỗi người khoảng 15 kí lô, mỗi cậu bé 7 kí lô. Nhìn tận mắt cái lam lũ của gia đình này thật là tội nghiệp! Cuộc sống của họ bi đát quá! Hơn 20 năm sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc cằn cỗi này, họ chỉ được ăn những củ khoai mì mà họ đổ ra biết bao công lao cộng với hiểm nguy của núi rừng mới có được! Nếu muốn ăn gạo, phải bán 3 kí lô khoai mì mới đủ mua 1 kí lô gạo.

Từ khi Đội chúng tôi vào đây, mỗi khi gia đình này cũng như những gia đình khác đi ngang đều ghé vào lều xin nước uống, vì chúng tôi luôn có nước trà. Một hôm tôi hỏi:

“Mỗi lần vào rẫy, bác phải mang theo thức ăn hay vào mua trong đó?”

“Đâu có mang gì theo ngoài gạo hoặc bắp với muối. Trong đó cũng đâu có gì ăn được ngoài rau, mà rau đâu phải lúc nào cũng có. Khi trồng chưa ăn được, phải chia nhau vào rừng tìm những thứ ăn được hái về ăn”.

“Bác làm gì ăn khi có rau?”

“Luộc chấm với muối chớ có  gì khác đâu ông”.

“Bác có quen dùng bột ngọt không?”

Ông già hỏi lại: “Ông nói bột ngọt là gì thế?”

Cậu bé nhanh miệng: “Là mì chính đó Nội”.

Tôi hỏi cậu bé:

“Vậy là ở nhà có dùng phải không cậu bé?”

“Dạ có, nhưng ít khi lắm, vì phải mua”.

“Bây giờ tôi biếu bác một ít đủ nấu canh trong mấy hôm ông với các cháu ở trong rẫy. Dù sao thì có chút canh dễ ăn hơn”.

Tôi quay sang chú Hổ:

“Hổ ơi! Chú ráng cho ông cụ đầy hai muỗng bột ngọt nghe Hổ”.

Nhìn thằng bé cứ mân mê gói bột ngọt chút xíu trên tay với nụ cười vừa dễ thương vừa tội nghiệp! Chừng như nó đang nghĩ là sẽ được những bữa ăn ngon do cái gói nhỏ xíu này vậy!

Ông già run run:

“Cám ơn ông. Thật là quí hóa quá”.

“Không có chi đâu bác. Chắc bác cũng biết, trong hoàn cảnh chúng tôi chẳng phải nhiều nhỏi gì, nhưng giúp nhau được gì thì anh em chúng tôi không hẹp bụng đâu”.

“Chúng tôi biết. Ngoài Phủ Lý cũng biết. Tuy các ông như vậy (ý nói ở tù thì phải), nhưng cuộc sống của các ông vẫn hơn chúng tôi nhiều. Chúng tôi làm gì có cơm trắng như các ông, chỉ mong ăn no chứ đâu dám mong ăn ngon”.

“Thật tình tôi không ngờ cuộc sống của người dân đất Bắc xã hội chủ nghĩa này kém cuộc sống của người dân trong Nam chúng tôi không thể tưởng tượng được, dù rằng chúng tôi phải đương đầu với chiến tranh triền miên do ngoài này gây ra”.

Ông già buông một lời than rất tội nghiệp:

“Ngoài này nghèo lắm ông ơi!”

Trong cái chòi của chúng tôi có cái vạt giường nhỏ xíu và cái bàn ăn cũng nhỏ xíu, là tôi trả công cho hai cô con gái của anh chị Tạ bằng 100 gram bột ngọt. Hai con bé vào rừng tìm những sợi giây leo cở ngón tay út, phơi vài nắng cho dai rồi kết lại thành cái vạt giường nằm êm lưng lắm. Cái chân bàn bằng cây rừng, cái mặt bàn làm bằng cây chổm. Trước khi về trại phải đem giấu trong bụi rậm chớ để đây là mất, vì khu vực này có tù hình sự thường đi ngang để vào làng cùi mua gì đó cho những tên Công An cai tù.

Thời gian cứ tuần tự trôi qua và đám bí rợ đến ngày cắt trái. Đội chúng tôi cắt và gom lại một chỗ, Đội khác vào đây khiêng về. Phải một tuần lễ mới cắt hết trái. Tổng cộng lần cắt bí này mà họ gọi là thu hoạch đầu tiên, bộ phận kế hoạch cân được 2.600 kí lô. Thật ra, trước khi cắt bí thì anh em chúng tôi tự do ăn cắp những trái nho nhỏ đem về trại luộc, xào, kho, hay nấu canh. Còn tại  chỗ thì cắt ăn công khai. Ngay cả quản giáo với võ trang, cho dẫu có lục lọi cách mấy cũng không thể nào tìm thấy tất cả trái bí.

Khu vực này khoảng 2 cây số vuông, rất nhiều tảng đá hốc đá mà ở đó giây bí trái bí chen lẫn với cỏ tranh và cây dại hoa dại. Tôi, anh Trần Ngọc Thống, và anh Nguyễn Xuân Dung chuyên viên thụ phấn, chúng tôi biết rõ những trái bí nằm ở đâu vì chúng tôi giấu nó từ lúc còn nhỏ, nên chúng tôi chỉ chỗ cho các bạn ăn cắp. Với lại theo lời của cán bộ Cảnh -quản giáo- thì bộ phận kế hoạch cho là “được mùa bí” nên họ chỉ kiểm soát qua loa chớ không hạch hỏi gì. Nói chung là họ không thể tìm thấy “cái bê bối” về cái gọi là “chỉ tiêu” đã giao cho chúng tôi.

Tôi xin nhấn mạnh, cái không khí dễ chịu đó không phải do chính sách của họ, mà là do chúng tôi mua chuộc mới có kết quả như vậy. Bất cứ lợi ích nào cũng có cái giá của nó mà. Trong nhà tù cũng vậy, nếu mình nhận ra được yếu điểm của họ trong khi mình có thể và có cách trả giá thì cái giá sẽ nhẹ nhàng.                

Bếp của Đội chúng tôi có anh bạn sồn sồn và hai chú bạn trẻ. Trẻ là chú Hổ nấu cơm và chú Phùng A Ốn nấu nước. Sồn sồn là anh Trương Đình Thăng (Đốc Sự Hành Chánh) lấy củi cung cấp cho Hổ và chú Ốn. Anh Thăng cẩn thận lắm, khi vác củi về còn chặt nhỏ phơi khô mới giao “nhà bếp”. Nhờ vậy mà cứ vào đến chòi một lúc là chú Ốn gọi các bạn đến lấy nước sôi, vì dòng nước bên cạnh trong khi có sẳn củi khô. Các bạn cần nấu cơm thì đến suối vo gạo, cho nước vào rồi đem gởi chú Ốn vừa nấu nước vừa nấu giùm những lon gô hoặc gà mèn cơm hoặc canh. Những cái có quai thì chú máng quanh miệng thùng nước, những dụng cụ nấu nướng mà không quai, chú cào than ra ngoài và để lên đó.

Một hôm anh Thăng vác củi về là “tấn công” tôi:

“Anh Hoa, hai dì cháu con nhỏ đó hỏi thăm anh kìa”.

“Gì kỳ vậy. Hai dì cháu nào mà hỏi bất tử vậy cha nội?”

“Đừng vờ vịt nữa. Tuần trước có hai người, một sồn sồn một trẻ xinh xinh, ghé lều xin nước uống đó chớ ai. Có không? Khai mau lên?”.

“A! Hôm ấy là chú Hổ mời uống nước chớ hổng phải tôi à nghe. Lúc tôi vác cuốc về lều cũng là lúc bà ta đi ra, chớ có nói gì đâu mà bây giờ hỏi thăm”.

Anh Thăng cười cười:

“Tôi hổng biết, bà ta hỏi thăm thì tôi chuyển lời thôi. Còn muốn biết có hay không thì hôm nào dì cháu người ta đi ngang chận lại mà hỏi”.

“Anh quỷ quái lắm. Đã quen với ai trên núi rồi về đây kiếm chuyện phải hông? Khai thiệt nghe coi”.

Chú Hổ nhảy vào: “Anh Thăng có bồ rồi anh Hoa ơi”.

Anh Thăng xuống giọng chậm rãi:

“Đi trên núi, người ta chào mình, mình chào lại chớ có gì đâu”.

Tôi bắt bí anh:

“Vậy là nhận rồi hén. Người ta là ai? Khai lẹ lên”.

“Người ta là dì cháu đấy. Sao mà hỏi kỹ thế”.

“Hỏi kỹ đặng nghiên cứu xem có nên mét hay không vậy mà”.

Anh Thăng cười lớn:

“Đó” thì chưa rõ, chớ “đây” có hiếu với vợ lắm, đừng hòng mà đe với dọa”.

Tôi bèn cười theo:

“Ô! Đây cũng thế. Vậy là Phe ta rồi. Cho bắt tay cái đi”.

Vài nét đặc biệt.

Trong Đội 5 chúng tôi hầu như mỗi người có cái nét gì đó, hay gọi cho oai là cái “tài” gì đó, chẳng hạn như:

 - Anh Huỳnh Văn Trứ (cựu Dân Biểu) là “kỹ sư” sửa đồng hồ. Đồng hồ hư nhận sửa đã đành, đồng hồ không hư cũng nhận sửa cho hư rồi sửa lại hết hư để khỏi cuốc đất.

 -  Anh Nguyễn Khoa Phước (cựu Nghị Sĩ)  là ca sĩ già với giọng rất hấp dẫn “phụ nữ”, nhưng tiếc một điều là  trong trại tập trung này không có tù nữ.

 - Ông Lê Văn Sớt (Phủ Đặc Ủy Tình Báo) nằm cạnh tôi, tóc bạc trắng nhưng không bỏ sót buổi tập thể dục nào. Tôi với ông Sớt, ai dậy trước thì kêu người kia. Chúng tôi tập ngay trong mùng từ mờ sáng trước khi trực trại mở cửa buồng giam, chớ ra sân làm gì có thì giờ mà tập.

 - Chú Nguyễn Văn Thuận (Sĩ quan Cảnh Sát) trong số các bạn trẻ của Đội 20, chuyên viên trốn lao động nhưng có tài kể truyện chưởng với những chi tiết được “pha chế” làm cho nội dung trở nên ly kỳ hấp dẫn.

 - Chú Tâm “mập” cũng là bạn trẻ trong Đội 20 cũ, “mê” khơi khơi một cô khi thấy cô ta về làng cùi thăm thân nhân. Mê đến nỗi lúc say rượu mà miệng cứ nói câu “nàng ơi, nàng đừng bỏ ta nghe nàng”. Bạn bè cười quá trời, vì anh chàng Tâm thương cô nào đó chớ cô ta có thương lại đâu. Tình yêu một chiều đó quí vị quí bạn à!

- Chú Nguyễn Kim Tiếng (Cảnh Sát đặc biệt) cũng là bạn trẻ trong Đội 20 cũ, từ lúc ở tù không một thân nhân nào đến thăm. Ấy vậy mà chỉ hai bàn tay trắng trơn dần dần trở thành một trong những tù chính trị “giàu sụ” nhờ “bán hàng lậu” trong trại và ngoài trại. “Hàng lậu” thoạt nghe tưởng như ghê gớm lắm nhưng thật ra chỉ là những món lặt vặt như nắm rau, con cá, hộp sữa, trái chuối, củ khoai, … mua bên ngoài mang “chui” vào trại bán, mua áo quần từ bên trong mang “chui” ra ngoài bán. Nét đặc biệt của chú bạn trẻ này là khách hàng của chú, chẳng những là bạn tù trong trại, mà khách hàng còn là dân bên ngoài trại, và cả Công An cũng là khách hàng của chú nữa. Ngay đám nữ Công An bán hàng cho chú Tiếng đủ thứ hết, ngược lại thì mua áo quần lẫn những thứ hàng thường dùng do trong Nam sản xuất hoặc hàng ngoại quốc, như xà bông thơm, viên thuốc tây, kem đánh răng, răng vàng, nhẫn vàng, nói chung là thượng vàng hạ cám trong trại tù có đủ hết. Cái hoạt cảnh vui nhộn hơn hết là lúc Nguyễn Kim Tiếng, cầm cây kềm cạy cái răng vàng còn trong miệng một bạn cần bán để có tiền mua thuốc lào. Phải công nhận Nguyễn Kim Tiếng vóc dáng không có gì hấp dẫn, nước da ngâm đen, nhưng nói chuyện kèm theo nụ cười rất có duyên.

Khi có phương tiện trong tay kể cả tiền, chú bạn trẻ này dần dần mua chuộc được “Thịnh khuỳnh”, và mua luôn tên phụ trách giáo dục trại Nam Hà A là Vũ Quấc nữa. Nhờ vậy công việc “mua bán chui” vào trại ra trại an toàn mặc dù nội qui nghiêm cấm. Đến mức mua nguyên con dê của tên Niệm, phụ trách giáo dục toàn trại, khiêng vào trại bán lại anh em gần như công khai nhưng an toàn.

Thấy vậy, Đội 5 chúng tôi chuẩn bị Tết Nguyên Đán đầu năm 1984. Nguyễn Kim Tiếng tình nguyện mua nguyên con heo làm sẳn từ những Công An “tóc dài”, đem vào trại bán lại cho anh em có thịt ăn Tết, chỉ cần lời bộ đồ lòng nấu cháo cho cả Đội ăn là được. Thế là chiều 30 Tết, anh em trong Đội được ăn cháo lòng đúng nghĩa của nó. Điểm đáng quan tâm là tất cả anh em trong Đội, đều chung tay góp sức vào tổ chức tất niên chiều nay. Bạn nào làm được việc gì thì nhận ngay việc ấy, kể cả công việc lặt rau, kiếm củi, gánh nước, chụm củi, ..v..v.. Cũng xin nói thêm là mỗi khi chúng tôi “chui” được con dê hay con heo vào trại xẻ thịt bán cho nhau, thì y như rằng, đám Công An trực trại cũng có bữa nhậu không mất tiền. Âu đó cũng là “sòng phẳng theo luật chơi”, vì nếu không như vậy thì không thể nào “chui cả con heo con dê” vào trại được.

Anh em chúng tôi khoái nhất là mua cá do đám Công An cai tù mang vào trại bán. Khoái là vì bọn họ thức đêm thức hôm lặn lội xuống mấy  cái hồ dưới cánh đồng chiêm câu cá, nôm cá, để rồi sáng sớm chúng nó đem cá chui vào cái khe thoát nước ở bờ tường đá tảng từ trong trại ra ngoài, sau đó chúng nó vào cổng trại túm cá trong cái bao đem bán cho chúng tôi. Chính vì vậy mà chúng tôi sử dụng chút tiền với vật dụng có được, để khai thác đúng mức cuộc sống thiếu thốn của chúng nó, ảnh hưởng trực tiếp vào sinh hoạt hằng ngày của tù chính trị chúng tôi càng lúc càng dễ thở hơn. Có lần tên cán bộ Quan, trong lúc uống cà phê với anh Phạm Kim Qui ở hàng hiên buồng (giam) số 1, hắn buột miệng:

“Tôi không hiểu tại sao khi mấy anh mới đến trại, chúng tôi bắt mấy anh phải đứng xa 6 mét mỗi khi cần nói chuyện với chúng tôi. Thật ra mấy anh rất tốt”.

Tất nhiên là hắn chỉ nói với chúng tôi chớ đâu dám để “đồng chí” của hắn nghe câu nói ấy, vì chúng nó có bao giờ tin vào chúng nó đâu.

Trong trại tập trung Nam Hà A này, tuy là  qua những góc cạnh nhỏ thôi, nhưng chúng tôi có nhận xét chúng nó rất luộm thuộm về mặt tổ chức. Chẳng hạn như cấm mang tiền vào trại, nhưng khi tiền vào trại rồi thì tha hồ mua những thứ mà chúng nó đưa vào trại hoặc ngang qua các anh phụ trách mua hàng ở căn-tin của chúng nó ngay bên ngoài trại. Có lần bọn chúng đi săn được con nai, xẻ thịt để ở căn-tin bán từ sáng đến chiều không hết, bọn chúng mang vào bày ở giữa sân trại bán lấy tiền mặt mà không hỏi han gì về số tiền đó ở đâu ra. Sự thể như vậy, nhưng khi chúng nó khám xét lục soát buồng giam mà thấy tiền là tịch thu ngay trong khi chúng tôi không thể phân bua gì được, vì trái nội qui. Cho nên mua bán có vẻ dễ dàng, nhưng lúc nào cũng phải cất giấu tiền bạc cẩn thận. Phần tôi, tôi giấu tiền trong cái hộp đựng sữa bột mà tôi thường dùng loại này để gởi được nhiều trang thư về vợ tôi. Chiếc nhẫn thì giấu trong cái túi da đựng kem, bàn chải, xà bông, và dao cạo râu. Cái túi này có hai lớp mà phần đáy khá dày, để vào ngay lằn xếp và may dính vào đó.

Đến đêm, anh em chúng tôi trong buồng giam này cùng đón Giao Thừa bằng hoạt cảnh Sớ Táo Quân, có đủ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, với Táo Quân. Nếu quí vị quí bạn đứng bên ngoài cửa sổ đầu hồi buồng giam, sẽ thấy chúng tôi cười đến ra nước mắt, và ngay sau đó là từng nhóm năm ba người quây quần bên những gói bánh mứt, những cái ca cái lon nước trà hoặc cái gì đó đựng chút cà phê. Nhóm nào trong số chúng tôi cũng nói chuyện râm ran với ý tưởng lạc quan về ngày ra khỏi trại tập trung, nhưng không có chuyện nào dẫn đến kết luận rõ nét cả, vì lẽ chưa đủ yếu tố vững chắc mà toàn là đồn đoán trong dư luận, dư luận ở Sài Gòn, dư luận trong trại, và dư luận ngay trong buồng giam chúng tôi.

Trong những ngày nghỉ Tết, hầu như tất cả tù chính trị chúng tôi quây quần với cờ tướng, bóng bàn, bóng chuyền, nhưng ba môn thể thao này có khuynh hướng chìm dần trong khi môn bóng tròn ngày càng được anh em hâm mộ. Vài tháng nay, hai khung thành của cái gọi là “sân banh” có lưới bọc phía sau và hai cạnh. Lưới này đan bằng giây thừng phế thải từ kho của trại. Anh Dương Huy Nam, Tổ Văn Hóa, xin được gói thuốc lá đầu lọc của một bạn vừa được vợ đến thăm nuôi, làm “chìa khóa” (hối lộ) mở cửa nhà kho khiêng vào trại đống giây mục đứt nhiều đoạn. Lại phải trả công bằng 2 kí lô giò heo và 2 kí lô hủ tiếu cho mấy anh tù hình sự đan 2 lưới khung thành. Tuy không sắc sảo nhưng không đến nỗi tệ. Nói nghe nhẹ nhàng suông sẻ như vậy, nhưng thật ra cuộc sống trong trại tập trung mà chúng tôi làm được những chuyện như vậy không phải là dễ dàng, nếu như không có niềm tin vào tương lai dù chưa biết tương lai sẽ như thế nào, cộng với những phương tiện trong tay.

Tấm ảnh đầu tiên.

Tết năm 1984 này có sự kiện được xem là đặc biệt. Đó là tên trại trưởng trại Nam Hà A -Đại Úy Lới- cho phép gia đình anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) ở lại một tuần kể từ 27 Tết, để nuôi anh Tân trong tình trạng bại liệt do tai biến mạch máu não. Gia đình anh Tân gồm vợ và con gái tên Phương Nga. Nhà trực trại dành một phòng trống nhỏ xíu để anh Tân được bạn khiêng từ trong trại ra nằm, vợ và con anh Tân từ nhà thăm nuôi vào đó chăm sóc anh. Hết giờ làm việc chiều, vợ con anh Tân trở ra nhà thăm nuôi, trong khi anh Tân được các anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), Nguyễn Văn May (Đại Tá Hải Quân), và anh Phan Văn Phương (Thiếu Tá Hải Quân) khiêng vào trạm xá. Chị Tân và cháu Phương Nga có trường dạy “nữ công gia chánh” cùng tên Phương Nga ở góc đường Phạm Ngũ Lão, gần chợ Thái Bình, Sài Gòn. Chị Tân có mang theo nguyên liệu và dụng cụ làm bánh, kể cả mua than từ Hà Nội. Nhờ vậy mà mỗi đêm, chị Tân với “con gái rượu” của chị làm và nướng bánh, để sáng mang vào nhà trực trại hoàn chỉnh phần “bắt bông kem” để tặng Ban Giám Thị với trực trại gọi là “có đi có lại cho toại lòng nhau”. Chị cũng tặng cho anh em chúng tôi gần phần nửa trong số bánh mà chị với con gái của chị làm. Đều đều như vậy trong một tuần lễ chị được phép chăm sóc chồng.

Sáng Mồng Một Tết, theo đơn xin của chị Tân, tôi được ra nhà trực trại ngay trước cổng trại gặp chị. Lúc ấy cháu Nga lấy trong giỏ ra cái máy ảnh, tôi nói khẻ:

“Nga, con cẩn thận”.

Vừa nói tôi vừa chỉ tấm vách có chiều cao lưng chừng:

“Bên kia họ trông thấy và theo dõi nghe con. Nếu họ bắt gặp con chụp ảnh, có thể họ sẽ tịch thu cái máy, mà hổng chừng sẽ có biện pháp gì đó trong những lần thăm nuôi sau này nữa nghe con”.

“Dạ. Con cám ơn bác, con sẽ cẩn thận. Bác bước ra sát vách, con chụp lén cho bác một tấm ảnh đem về đưa cho bác gái”.

Thế là cháu Nga ra ngoài cửa xem có tên Công An nào ở đó không. Vắng vẻ. Tôi bước ra ngoài đứng vào một góc trong khi cháu bước vào trong rồi  quay lại bấm máy thật nhanh. Tuy tấm ảnh không thành công về mặt kỹ thuật, nhưng với tôi thì thành công về tâm lý, vì từ nửa vòng bên kia trái đất, các con tôi trông thấy tôi qua tấm ảnh mờ mờ này.

Đến trước ngày hết phép, chị Tân lại làm đơn xin cho tôi ra nhà trực trại lần nữa. Chị nói với tôi:

“Anh biết không. Khi được trại cho phép ở lại một tuần, má con tôi mừng lắm. Nhưng ban đêm ở nhà thăm nuôi, má con tôi sợ lắm anh ơi! Nhà thăm nuôi sát chân núi, bên cạnh chỉ có dãy nhà của Công An, còn trước mặt là cái thung lũng mịt mù bóng tối. Nói thiệt với anh, má con tôi không dám ngủ cho nên phải thức làm bánh choán thì giờ còn hơn là nằm mà run, vì lúc nào cũng nghe như có bước chân bên ngoài. Không biết họ canh gác tuần tra hay rình rập ám muội gì thì không rõ, nhưng lúc nào má con tôi cũng sợ hãi!”

“Tôi nghĩ, không phải chúng nó canh gác gì đâu vì chúng nó đâu có sợ chị trốn mà canh giữ chị. Nhưng bên ngoài có người đi lại thì không ai khác hơn là bọn chúng nó đâu chị”.

“Suốt đêm, tôi với con Nga đâu dám ra ngoài. Hai má con cột cánh cửa dính vô cái ghế đặng không cho bên ngoài đẩy vào. Chỉ làm được như vậy thôi anh à”.

“Thành ra tuần lễ Tết này chị với cháu Nga vất vả quá, nhưng bù lại có được thời gian trực tiếp chăm sóc anh Tân, phải hông chị?”

“Con Nga nó vui lắm anh”.

Tôi phải vào trại ngay để kịp đá banh. Tôi thuộc đội banh hạng B nên đá trước để còn thì giờ cho hai đội hạng A. Tôi nói hạng A với hạng B chắc là quí vị quí bạn nghe có vẻ như “đâu ra đó” lắm, nhưng thật ra cứ anh nào nhanh tay lẹ chân mà biết kỹ thuật đá banh chút ít là hạng A, còn lại là hạng B chớ có gì ghê gớm đâu. Đang mùa Đông khá lạnh, cứ khoảng 5 giờ chiều là màn đêm xuống rồi. Sân  trại toàn đá dăm mà chúng tôi gọi là “sân banh”, chiều nay “khán giả” đông nghẹt. Khán giả tù chính trị lẫn khán giả Công An vào xem. Cái lý do thu hút khán giả hôm nay là vì có “con gái rượu” của anh chị Nguyễn Viết Tân đứng xem. Cháu Phương Nga, khoảng 20 tuổi. Chỉ có “khán giả dân” duy nhất này trở thành cái “đinh” của khán giả Công An. Đội hình đội banh buồng 5 chúng tôi với chú Đinh Vượng trong khung thành, tôi hậu vệ thòng ở giữa, hậu vệ bên phải bên trái là anh Nguyễn Đức Đào với anh Hoàng Bá Thông. Trận banh bắt đầu độ 15 phút thì tạm ngưng, vì tên võ trang mới lên phiên gác cổng bước vào hỏi cháu Phương Nga:

“Cô là ai mà vào đây?”

“Tôi đến thăm ba tôi là Nguyễn Viết Tân. Thấy đá banh vui tôi vào xem”.

Hắn nạt: “Đi ra ngoài ngay”.

Tiếng một bạn nào đó trong số khán giả tù chính trị chúng tôi:

“Với phụ nữ phải lịch sự một chút chớ”.

Hắn quay tìm hướng có tiếng nói: “Anh nào phát biểu đó?”

Đâu có bạn nào điên mà lên tiếng, thế là hắn quê. Càng quê hắn càng tức, nhưng cũng tiết ra một chút lịch sự:

Mời cô đi ra”.

Không tên Công An nào có mặt lên tiếng cả, vì đó là quyền của tên gác cổng. Lại có tiếng của một bạn tù chính trị: “Vừa phải thôi chứ”.

Hắn không lườm lườm tìm ai nói nữa mà theo cháu Phương Nga ra cổng, rồi leo lên “chuồng cu” tiếp tục nhiệm vụ gác cổng.

Những ngày Tết trôi qua… Đội 5 chúng tôi trở vào thung lũng cỏ tranh, chuẩn bị đất xuống 10.000 cọng hom khoai mì cho số lượng phải trồng trong năm 1984. Ngày đầu tiên vào thung lũng, tên Cảnh -quản giáo- và tên Minh -võ trang- đồng ý cho Đội chúng tôi nghỉ trọn ngày.  Tôi ướm thử tên quản giáo:

“Nhân ngày Tết, cán bộ có thể cho một số anh em chúng tôi sang khu nghĩa trang cắm nhang cho bạn bè nằm ở đó được không cán bộ?”

Hắn suy nghĩ một lúc:

“Tôi đồng ý nhưng anh phải hết sức cẩn thận, vì mấy ổng thấy chẳng những mấy anh bị mà tôi cũng bị kiểm điểm nữa”.

“Hổ ơi! Chú lo cơm trưa cho tuị nó nghe. Chú chịu khó đi dọc theo thung lũng nhổ cải trời về luộc ăn với thịt heo kho cũng được lắm nghe chú”.

Tôi với 10 anh nữa vẹt lau sậy và nhanh chân sang chân núi, nơi có một số mộ của các bạn. Đến nơi, tôi trao mỗi anh 5 cây nhang do hôm trước chị Tân cho tôi. Chúng tôi chia ra mỗi bạn đi một hướng, cứ thấy ngôi mộ thì khấn vái cắm nhang mà không phân biệt mộ của ai. Thật ra cũng khó nhận ngôi mộ lắm, vì mấy anh tù hình sự đấp sơ sài rồi trâu bò đạp lên, nên thấy đất cao cao một chút có vẻ như ngôi mộ là cắm nhang. Trong khi một số bạn theo tên võ trang vào làng cùi, xem họ ăn Tết ra sao, và nếu có gì mua được thì mua.

Sau khi trở về chòi, tôi với anh Thống đi vòng quanh khu trồng cây “so đủa” mà họ giao chúng tôi trồng thử. Chúng tôi trồng hai bên đường mòn dọc theo dòng nước quanh co giữa thung lũng, khi nó cao ngang đầu người trông đẹp lắm. Cây “so đủa” là cây nhiệt đới, bông của nó nấu canh chua hoặc xào ngon lắm, vì trên đầu của bông có cái hộc nhỏ chứa một chút mật, còn thân cây làm củi. Mùa hè và mùa thu, cây so đủa phát triển tốt như trồng ở miền Nam vậy, nhưng mới hai tháng mùa đông nó khuỵu hết trơn.

Trồng khoai mì xong, chúng tôi phải trồng 1.200 hốc bí rợ mà họ gọi là bí đỏ, sau bí rợ là trồng bí đao mà họ gọi là bí xanh. Bí rợ trồng theo hốc cho bò lên những tảng đá, bí đao trồng theo luống và làm giàn hình chữ A, cao 8 tấc (0.8 thước), để hai hàng giây bí leo lên. Vì thung lũng này toàn đá tảng, cho nên có những giàn bí chỉ có năm bảy giây mỗi bên thôi.

Tổ Văn Hoá.

Một buổi chiều về đến cổng trại, tên Lực trực trại điểm số cho Đội vào, nhưng hắn bảo tôi:

“Anh để Đội vào, còn anh đứng lại”.

Khi Đội vào trại xong, hắn ra lệnh:

“Ngay chiều nay, anh nhận bàn giao của anh Dương Huy Nam với trách nhiệm Tổ trưởng văn hoá, vì anh Nam được tha ra trại. Nhận xong, anh dọn sang buồng 7 ngay tối nay”.

“Sao lại là tôi?”

“Thôi. Vô trại lo công việc đi, ở đó mà hỏi tại sao”.

Anh Dương Huy Nam, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng tôi không rõ anh thuộc hệ phái nào, có điều tôi thắc mắc anh là thành viên đảng chính trị mà lại được ra trại một mình.

Anh Nam hướng dẫn tôi phải làm gì, khi có đơn thăm nuôi từ trực trại đưa vào, khi có báo do bộ phận giáo dục đưa vào, cho mượn sách và đòi sách, tổ chức vài môn thể thao để anh em vui Tết, nói chung là chẳng có gì gọi là quan trọng cả, vì tên Vũ Quấc là Tổ Trưởng Giáo Dục mà Tổ văn hoá này dưới quyền hắn. Nói cho dễ hiểu là làm theo lệnh của hắn chớ có tự mình đâu. Cái công tác tham mưu có gì ghê gớm mà Vũ Quấc cứ hỏi tôi:

“Anh có nắm được không?”

“Báo cáo “ban” có”.

Ở trại tập trung này, tất cả tù chính trị chúng tôi lẫn tù hình sự, phải gọi những Công An dù là lính, hạ sĩ quan, hay sĩ quan, là “cán bộ”. Nhưng còn một “tầng lớp” nữa mà chúng tôi phải gọi là “ban”. Ban, nguyên chữ là “Ban Giám Thị” nhưng gọi tắt là ban. Khi đứng trước tên nào đó trong thành phần Ban Giám Thị mà cần báo cáo, phải nói: “báo cáo ban” …. Ban Giám Thị trại này chỉ năm ba người gì đó tôi không rõ, nhưng trường hợp Vũ Quấc mà anh em tù cũ -trước khi chúng tôi từ Yên Bái đến đây- đều gọi là “ban”. Do vậy mà khi cần nói gì với hắn, phải mở đầu: “Báo cáo ban” trở thành cái lệ không miễn trừ, dù hắn không thuộc thành phần để được gọi là “ban”, nhưng nếu gọi hắn là cán bộ thì cái mặt của hắn trở nên cau có và có chuyện ngay.

Hắn nói thêm:

“Anh có điều gì không rõ phải hỏi anh Nam để được hướng dẫn”.

“Báo cáo ban, tôi không có gì phải hỏi thêm”.

Anh Dương Huy Nam hầu hạ tên Vũ Quấc này đến nơi đến chốn lắm. Mỗi năm có một hoặc hai lần nhà bếp có làm  heo thì y như rằng anh Nam xuống bếp -kể cả ban đêm- chỉ cho các bạn nhà bếp xén những phần thịt ngon cung cấp với tính cách riêng tư cho hắn. Nhiều anh em chúng tôi bất mãn với anh Nam về cái việc cắt xén quyền lợi chung của cả trại để cung phụng riêng tư cho tên Quấc .

Tôi đang muốn ra sân vì trận banh gọi là tiễn anh Dương Huy Nam đang ồn ào ngoài sân trại. Sở dĩ có trận banh giao hữu giữa Đội banh tù chính trị chúng tôi với Đội banh Công An cai tù để tiễn anh Nam, vì phong trào đá banh bắt đầu từ anh Nam nối vào anh Phước về tổ chức, và tôi phụ trách cung cấp banh do vợ tôi cho kể cả xin của các chị bạn. Cuối cùng tôi cũng vào đá hiệp hai. Đội tù chúng tôi thắng Đội Công An cai tù 4-2.

Trở lại Tổ Văn Hoá. Năm 1978, khi chúng tôi từ trại Yên Bái chuyển xuống đây, văn phòng Tổ Văn Hoá trong gian nhà ọp ẹp mà họ gọi là câu lạc bộ. Trong một cơn mưa giông đã đè cái câu lạc bộ nằm sát mặt đất nên Tổ Văn Hoá phải chuyển vào khuôn viên buồng giam số 10, sử dụng gian nhà để đồ đạc làm văn phòng, còn buồng giam làm nơi hội họp được gọi là hội trường.

Tổ Văn Hoá, ngoài Tổ trưởng, còn có cụ Hoàng Văn Úy (Việt Nam Quốc Dân Đảng), anh Đinh Tiến Dũng (Thiếu Tá An Ninh Quân Đội. Anh Dũng là em ruột của kịch sĩ Thanh Hoài), anh Khiêm (Thiếu Tá bộ binh), và bạn tù trẻ Đinh Vượng (tổ chức Phục Quốc). Đó là trong văn phòng, còn phụ trách làm vườn trong khuôn viên buồng 10 là ông Vũ Văn Vỵ (đảng chính trị). Công việc gồm có:

-  Nhận đơn thăm nuôi do trực trại đưa vào, ghi vào sổ, gọi các anh có gia đình đến thăm, hướng dẫn ra cổng cho trực trại.

- Nhận báo. Vài ba ngày tên Vũ Quấc hoặc tên Dục -phụ tá tên Quấc- đem vào một lần. Chuyển đều cho các buồng (tù hình sự không có). Khi các buồng hoàn trả, cho vào tủ cất.  

- Trong trại có xảy ra việc gì làm mất trật tự thì đến giảng hòa, nếu không được thì báo cho đám trực trại vào giải quyết. Các buồng giam tù hình sự đánh đấm đâm chém như cơm bữa, không đánh nhau cũng là tranh cãi ồn ào.        

- Nếu có bạn nào bệnh bất ngờ, đi mời bác sĩ (cũng là bác sĩ tù) ở trạm xá lên hoặc khiêng bệnh nhân xuống trạm xá.

- Điều hành công việc cho mượn sách. Trong  ngăn sách có khoảng 700 cuốn, có đến hơn phân nửa là sách dịch của Nga.

- Vài ba tháng, bộ phận giáo dục có đem phim vào chiếu ở sân trại. Thông báo các buồng đến xem. Phần lớn là phim của Nga.  

- Tổ chức văn nghệ và thể thao nhân ngày Tết, do anh em chúng tôi thực hiện.

Trại trưởng mới, tù dễ thở.

Bận rộn nhiều nhất của chúng tôi là đá banh. Từ đầu năm 1984, chúng tôi được tổ chức đá banh nếu có thì giờ chớ không cần đến ngày nghỉ nữa. Thường thì các Đội làm thông tầm về trại khoảng 2 đến 3 giờ chiều, hễ “cáp độ” được là ra sân đá ngay. “Cáp độ mà tôi dùng ở đây, được hiểu là có được hai Đội thì đá chớ với nhau cho vui, chớ không mang tính chất ăn thua bằng vật chất. Xem như phụ trách cáp độ là ông Lê Phước Thưởng (đảng chính trị), tuy lớn tuổi nhưng tinh thần thể thao còn cao lắm. Ông thường đến các buồng cáp độ ra sân, có khi cáp độ ngay tại chỗ lao động nữa. Ông là cầu thủ Đội “lão tướng”, đá hậu vệ, nhưng nhớ khoảng sau 10 phút là phải đưa lão tướng khác vào thay để ổng ra ngoài đứng thở.

Đội banh lão tướng chúng tôi gồm: Anh Cao Văn Ủy thủ môn, ông Lê Phước Thưởng, ông Nguyễn Hữu Vị (Phủ Đặc Ủy Tình Báo), ông Lê Văn Sớt (Phủ Đặc Ủy Tình Báo), anh Phạm Kim Tấn góc trái (Trung Tá Cảnh Sát), anh Nguyễn Thành Long (Phủ Đặc Ủy Tình Báo), và anh Trương Đình Thăng (Đốc Sự Hành Chánh). Nhưng chỉ sau hai trận thì Đội banh “trẻ” phản đối cầu thủ Thăng dữ quá, với lý do cầu thủ lão tướng mà chưa đến 50 tuổi. Thế là phải “loại” anh Thăng ra và đưa cầu thủ Bùi Đức Tài vào. Anh Tài là cầu thủ góc mặt. Tôi phụ trách trọng tài có cái còi hẳn hòi, chỉ vào trận khi thiếu “lão cầu thủ”.

Trong khi “phong trào” đá banh -tạm gọi như vậy- giúp anh em chúng tôi không bị nhốt trong buồng giam, thỉnh thoảng tên Vũ Quấc (tên của hắn viết như vậy đó), cán bộ giáo dục trại vào kiếm chuyện. Có hôm hắn nói đá banh gây ồn ào trong trại, có hôm hắn dọa đóng cửa buồng giam, và rồi hắn yêu cầu tên Lực, cán bộ trực trại nhốt tất cả vào buồng giam, nhưng tên Lực trả lời là Ban Giám Thị cho phép. Vì đó là quyền của trực trại nên hắn im. Trong thời gian gần đây, tên Quấc tỏ ra lấn quyền Trưởng Trại A mà tiêu biểu là gần như quyết định về thời gian thăm nuôi của tù chính trị chúng tôi. Không rõ hắn với Đại Úy Lới -Trưởng Trại A- như thế nào mà mỗi khi hắn cho  ý kiến “thuận” sau khi nhận tiền đút lót, thì hầu như Trưởng Trại đều chấp thuận đơn xin thăm gặp gia đình theo ý kiến của hắn. Theo tên Dục, phụ tá cho hắn thì hắn đang âm mưu “hạ bệ” tên Lới để hắn lên nắm chức Trưởng Trại A này.

Dưới nét nhìn của chúng tôi, tên Thịnh “khuỳnh” trực trại là loại ác ôn về những sinh hoạt của tù trong phạm vi quyền hạn của hắn, trong khi Vũ Quấc vừa độc vừa đểu khi hắn cho ý kiến cái gọi là “nhận xét về mức độ cải tạo” của tù. Có thể nói một cách chắc chắn rằng, không một tên Công An nào trong trại Nam Hà A này chơi với hắn cả.

Cuối cùng thì trại Nam Hà A cũng có Trưởng Trại mới, nhưng không phải Vũ Quấc mà là Đại Úy Công An Bùi Dênh. Cũng từ đó, tên Vũ Quấc mờ dần ở vị trí cán bộ giáo dục trại A. Vẫn theo tên Dục, những đơn xin thăm gặp gia đình của tù chính trị, tuy rằng Vũ Quấc vẫn có ý kiến nhưng không còn tính cách quyết định như thời tên Lới làm trại trưởng nữa. Tuy Bùi Dênh là loại vai u thịt bắp, nhưng hắn có chút ít cởi mở đối với tù chính trị chúng tôi. Tôi nhấn mạnh về “chút ít cởi mở” của Bùi Dênh, là do chính hắn sau một chuyến công tác trong Nam trở về Bắc, chớ không phải cởi mở do chính sách của Bộ Công An. Tiêu biểu cho “chút ít cởi mở” là Bùi Dênh cho phép gặp gia đình 24 tiếng đồng hồ, đôi khi được 48 tiếng, và có trường hợp bệnh hoạn cần gia đình chăm sóc sẽ được xét thăm gặp trọn tuần. Mặt khác, Bùi Dênh còn khuyến khích chúng tôi tiếp tục giữ phong trào đá banh.

Phải công nhận rằng, được thăm gặp một ngày hay hai ngày, nói chung là  nhiều giờ, ngoài chuyện riêng tư còn giúp vợ chồng hiểu sâu thêm hoàn cảnh gia đình nhất là cuộc sống và học hành của các con, sau khi chúng tôi bị đẩy vào các trại tập trung. Từ đó, người chồng có cơ hội “rót” vào tai vợ những lời khen nhẹ nhàng, người cha “rót” vào tai con những lời khuyến khích nồng nhiệt cùng với những hướng dẫn cần thiết, bởi lời khuyến khích hay lời hướng dẫn của những người chồng người cha bị nhốt trong bốn bức tường trại tập trung có ảnh hưởng mạnh mẽ, nếu như khéo léo tế nhị trong cung cách xử sự với vợ với con. Và cao hơn nữa, trong một đôi ngày bên nhau có khả năng củng cố thêm tình cảm thân thương gia đình, nâng đỡ thêm nghị lực để vượt qua cuộc sống đầy bất trắc trong xã hội mà nhóm lãnh đạo cuồng tín cai trị, luôn ập lên đầu gia đình các sĩ quan viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ!

Nhìn chung, trong đầu trưởng trại Bùi Dênh có mưu định gì thâm độc đối với tù chính trị chúng tôi hay không thì không rõ, nhưng có điều trước mắt là anh ta tạo không khí giảm bớt tính cách hà khắc với chúng tôi. Nhớ lại thời trưởng trại Huy “hô”, cái không khí trong trại tập trung này lúc nào cũng nghẹt thở, bởi những gì xếp vào loại hắc ám nghiệt ngã đều có ở đây. Cho đến cuối thời tên Huy có nới lỏng đôi chút do các anh em Đội Trưởng chúng tôi tranh đấu đòi hỏi, như ban đêm đem đồ vật vào buồng giam để tránh mất trộm và nấu ăn có thêm dinh dưỡng. Thời trưởng trại Lới “lé”, sự sa ngã của đám Công An từ trực trại, quản giáo, võ trang, đến đám Công An hướng dẫn thăm nuôi rất rõ nét, chung qui do tù chính trị chúng tôi mua chuộc bằng tiền và bằng vật chất. Vì bất cứ sản phẩm gì do xã hội xã hội chủ nghĩa sản xuất với phẩm chất quá ư tồi tệ, nên những sản phẩm mà anh em chúng tôi có là từ ngoại quốc gởi về, hoặc ít nhất là do sản xuất trong miền Nam phẩm chất vẫn cao hơn, nên khả năng thu hút họ rất mạnh tong cuộc sống thiếu thốn của họ.

Thấy đám trực trại cũng như đám quản giáo buồng giam giảm bớt mức độ khắc khe, từng bước, các anh trực buồng giam xới khoảnh đất bé xíu phía sau buồng để trồng vài luống rau có thêm chất dinh dưỡng. Dần dần những bầu những mướp đậu rồng đậu đủa che kín bờ tường, bên dưới thì hành ngò cải xanh cải bắp ớt cà xanh tươi. Không thấy phản ứng của họ, nhóm chúng tôi trong tổ văn hoá cũng xới khoảnh đất phía sau hội trường trồng rau trồng đậu. Nhìn vào chẳng bao nhiêu, nhưng thật sự những hoa màu ít ỏi đó cũng góp phần đáng kể cho bữa ăn của chúng tôi, nhất là các anh bị bệnh khó trị.

Về “thư chui” mà trong suốt thời gian trong Đội trồng rau tôi gởi vào “hộp thư chết”, nhưng khi vào tổ văn hoá thì tôi rất lo là không biết phải bằng cách nào để tiếp tục gởi thư chui. Nhưng rất may có chú Đinh Vượng rất trẻ, thường giúp đám trực trại những thứ lặt vặt mà chúng nó cần, nên chú được đám trực trại cho ra vào cổng trại với nhà trực trại khi cần. Do vậy mà tôi nhờ chú lận lưng “thư chui” đưa ra cho anh tù hình sự từ nhà thăm nuôi vào trực trại, hoặc vào bếp của Công An bên ngoài trại. Một đôi khi chú Vượng ra tận nhà thăm nuôi, bằng cách len lỏi luồn lách giữa các dãy nhà lụp xụp của Công An, rồi xuống lưng chừng triền núi ra tận nhà thăm nuôi, tạt vào nhà của đám Công An phụ trách ở đây để mời chúng nó hút thuốc hay biếu gói cà phê, sau đó xin phép chúng nó chạy qua nhà thăm nuôi đưa cho các bà các chị thăm tù chính trị chúng tôi nữa. Phải có “tí hối lộ” với vài lời “giao tế” như vậy mới “thuận buồm xuôi gió”.

Công việc tương đối nguy hiểm, nhưng Đinh Vượng nhanh tay lẹ chân mà lại mau miệng nữa, nên chẳng mấy khi bị chúng nó bắt tại trận, chẳng qua là nghi ngờ thôi. Nếu bị bắt, Đinh Vượng xuống nước năn nỉ, điều mà các anh lớn tuổi như chúng tôi không thể hạ mình làm như vậy. Lại có khi Đinh Vượng mang vào trại một lúc đến mấy ngàn đồng trao lại các bạn, và hoàn toàn mang giùm chớ không nhận đồng thù lao nào cả. Trước kia Đinh Vượng là chuyên viên cơ khí phục vụ Sư Đoàn 3 Không Quân, bị bắt năm 1976 khi tham gia tổ chức Phục Quốc.            

Anh em trong Tổ văn hoá chúng tôi lại dọn sang buồng giam số 1, ở chúng với tổ văn nghệ của anh Phạm Kim Qui, và tổ chăn nuôi của anh Chu Mạnh Bích (Đại Úy Không Quân).

Những màn kịch cởm.

Hạ tuần tháng 1/1985, hơn 100 anh được ra về. Trước ngày chánh thức có lệnh tha ra trại, nhiều tin đồn đãi đưa vào trại là người này có tên người kia có tên, bắt nguồn từ những Công An “tóc dài” có liên lạc buôn bán chui hoặc thường nhờ vả thuốc men của tù chính trị. Anh Huỳnh Văn Châu (Không Quân) đang trong tổ thợ điện của trại, chạy tìm tôi đang chăm sóc vườn rau “mini”:

“Anh ơi! Em có tên về rồi. Con “Hoa điện” vừa cho em hay và em đã hỏi lại thì đúng rồi”.

“Hoa điện” là tổ trưởng điện, cán bộ quản giáo của anh Châu.

“Hay quá. Vậy thì anh có thì giờ thu xếp chuyện gia đình cho ổn, chớ tình trạng của anh còn kéo dài, tôi e gảy gánh thiệt đó Châu”.

“Em cũng lo lắm anh”.

“Hãy cố lên. Đã có được thời gian, anh đừng để vấn đề vuột khỏi tầm tay nghe Châu”.

Anh Ngợi cũng tìm tôi:

“Anh ơi! Em cũng có tên về rồi Anh. Anh Châu có nói với anh chưa?”

“Có. Châu mới nói với tôi đây. Anh về là nhanh tay lẹ chân tổ chức đám cưới cô bạn gái chờ anh hơn chục năm rồi. Tình yêu như  vậy tôi cho là đẹp lắm, vì thời gian thử thách quá dài với lại trong hoàn cảnh nghiệt ngã”.

“Em sẽ cố gắng nhưng phải về mới biết rõ sự việc được anh”.

Phải nhận rằng, anh em tù chính trị chúng tôi xôn xao trong ý nghĩa tốt, có thể nói vui vẻ là khác. Tối đến, anh Châu với tôi ngồi đối diện hai bên sàn gác. Châu nói:

“Anh ơi! Một trăm mấy anh em mà tụi nó chia làm hai chuyến đi, cách nhau vài ngày, và nghe đâu chuyến thứ nhì có quay phim nữa”.

“Liệu về kịp Tết hông Châu?”

“Con Hoa nó nói em về đến Sài Gòn trước giờ Giao Thừa. Thôi thì miễn về là được rồi anh, sớm muộn cũng không sao”.

Quả thật khi họ đọc danh sách thì những anh được đồn đoán đều đúng, và về Sài Gòn trong hai chuyến cũng đúng luôn. Ngay sau khi họ đọc danh sách ra trại, tổ văn hóa chúng tôi bận tíu tít, vì họ bảo viết đến mấy bản danh sách, cùng lúc gọi các anh đến hội trường làm thủ tục. Anh Khiêm trong tổ văn hoá được về trong đợt này. Anh em có tên ra về cùng với khá đông anh em không có tên cũng có mặt trong khuôn viên buồng 10, về thì vui đã đành nhưng chưa về cũng vui, vì nhắn gởi về gia đình. Tụm năm tụm ba trò chuyện khá ồn ào, pha lẫn trong tiếng của đám Công An gọi từng anh vào làm thủ tục. Chuyến thứ nhất lên xe trại ra Phủ Lý để lên Hà Nội, các bạn trong chuyến thứ nhì chuẩn bị cho đoàn quay phim dường như của Thụy Điển đang thu hình các Đội trồng rau gánh rau về trại. Cứ mỗi lần có phái đoàn đến thăm trại cho dù là cộng sản hay tư bản thân cộng, Bộ Công An từ Hà Nội xuống hướng dẫn trại trưởng tổ chức màn kịch để phô trương. Muốn phô trương phải che giấu cái tồi tệ của họ, mà chính vì che giấu lại làm cho màn kịch của họ trở nên tồi tệ hơn. Mời quí vị quí bạn theo dõi 3 màn kịch tồi.

Màn kịch thứ nhất.

Thật là vô duyên khi hai đội banh tạp nham bị bắt buộc vào sân đấu với nhau để họ quay phim. Theo lời của đám trực trại thì Bộ Công An muốn đoàn quay phim ngoại quốc thấy cảnh sinh hoạt của tù chính trị, nhưng theo chúng tôi nhận xét thì nhóm quay phim chú trọng thu hình những lối ra vào khu vực các buồng giam, vì họ đặt hai máy thu hình ở hai đầu sân thu hình sự đi lại của anh em chúng tôi ra vào các hành lang đó. Không hiểu họ khai thác góc cạnh nào trong sự đi lại của anh em chúng tôi, nhưng rõ ràng là họ chú trọng những hình ảnh đó hơn là trận banh trên sân.

Đến tổ dịch tài liệu do anh Lại Đức Chuẩn phụ trách, được chọn lọc hẳn hòi chớ không phải toàn tổ đều tham dự trình diễn tại hội trường, trong khi tổ văn nghệ do anh Phạm Kim Qui phụ trách trình diễn nhạc hòa tấu. Trong màn này có lẽ họ muốn phô trương “sinh hoạt của tù chính trị trí thức” là như vậy đó.

Màn kịch thứ hai.

Sau đoạn phim về trận banh tạp nham với hai tổ dịch thuật và văn nghệ, đến đoạn phim tù chính trị ăn cơm chiều với “thực đơn” đặc biệt. Đám trực trại cho dọn cái gọi là nhà ăn của buồng giam số 1, để ở đó một cái bàn với sáu ghế ngồi. Cả mấy trăm tù chính trị mà chỉ có một bàn ăn duy nhất, làm sao che giấu cái bản chất dối trá trước phái đoàn truyền thông quốc tế? Vậy mà họ vẫn cứ thực hiện. Sáu anh tù chính trị được chỉ định ngồi vào bàn ăn “kịch cởm” này, họ bắt phải mặc áo quần mà họ nói là đẹp nhất. Tôi với cụ Hoàng Văn Úy đến từng anh thuyết phục nên mặc đồ thường thôi, vì hy vọng đoàn quay phim này sẽ có tác dụng thuận lợi cho mình khi họ phổ biến trên hệ thống truyền thông thế giới. Các bạn đồng ý, nhưng cũng cố gắng một chút tươm tất, nếu không sẽ không yên với đám an ninh của trại.

Tôi và anh Đặng Hoàng Long đứng nhìn nhóm Thụy Điển thu hình. Anh chàng chuyên viên chỉ đưa ống kính quét một lượt phần trên bàn, rồi anh ta ngồi bệt trên sàn xi-măng, đưa ống kính vào các ống chân bàn chân của “thực khách” và thu thật chậm nên không sót bàn chân anh nào cả. Đó là những bàn chân nứt nẻ bị bùn đen bám vào, cộng với nước phèn ngấm vào da, làm cho những bàn chân trở nên sàm sở, và người quay phim khai thác một cách rất nghệ thuật về những chứng tích không thể chối cải trong trại tập trung của cộng sản Việt Nam.

Màn kịch thứ ba.

Lúc ấy trời tối hẳn, vì mùa đông nên thì giờ ban ngày ngắn hơn thì giờ ban đêm. Họ hoàn toàn thu hình mà không hỏi bất cứ ai về bất cứ điều gì. Nhóm quay phim Thụy Điển yêu cầu Công An cho mở các phên cửa sổ để có chút ánh sáng thu hình vài sinh hoạt trong buồng giam số 1. Nghe thông dịch xong, tên Công An từ Hà Nội xuống ra lệnh cho Công An trại:

“Không được. Nói với chúng nó nếu mở tấm phên thì mấy anh này chịu lạnh không nỗi”.

Thật ra không phải đám Công An Hà Nội sợ tù chính trị chúng tôi lạnh đâu, và đây là bằng chứng vẫn do tên Công An Hà nội nói:

“Bọn này ghê lắm! Chúng nó quay toàn những cảnh không như Bộ hướng dẫn chúng nó trước khi vào trại. Không cho chúng nó quay nữa”.

Sau cái lệnh không cho mở tấm phên cửa sổ, anh chàng chuyên viên thu hình Thụy Điển cao lêu nghêu, lặng lẽ ra chỗ xe của anh ta ngoài sân đem vào cái ống trắng giống ống đèn néon nhưng lớn một chút, dài khoảng 6 hay 7 tấc gì đó. Hóa ra cái ống ấy là đèn điện tử, tỏa một vùng ánh sáng thật dịu nhưng thật mạnh trong khoảng chừng một thước vuông, đủ để họ lần lượt thu hình 3 quang cảnh.

Cảnh 1 là anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ và là thông dịch viên Anh ngữ) cùng với một bạn nữa (dường như là anh Bửu Uy) đang đánh cờ tướng.

Cảnh 2 là anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo) có hàm râu dài trắng phếu, đang ngồi vá chiếc áo mùa đông, trông thật là buồn!

Và cảnh 3 là anh Phạm Văn Thuần (Đại Tá, Phủ Thủ Tướng) dưới ánh đèn leo lét đang cắm cúi viết “thư tình già” gởi về cho “má bầy trẻ”. Cái gọi là bàn viết của anh Thuần chỉ là cái mền chồng lên cái gối do mấy bộ quần áo tù cuộn lại. (Mấy tháng sau đó, con gái của anh Vị từ Paris gởi về anh Vị tấm ảnh “anh ngồi vá áo” do chụp lại từ trong tivi mà cuộn phim đó trình chiếu trên hệ thống tivi nước Pháp).

  Trước khi rời trại, một anh chàng trong nhóm quay phim của Thụy Điển cầm cái micro dài, đứng giữa sân áng chừng 5 phút trong khi anh chàng quay phim  thu hình anh ta. Trại trưởng Bùi Dênh nói với đám trực trại đang đứng nhìn:

“Cứ để nó thu, cho nó thấy sự yên tĩnh trong trại. Điều đó tốt thôi”.

Hôm sau, các Đội xuất trại xong, tên Niệm -phụ trách giáo dục của toàn trại- vào tổ văn hoá:

“Anh Hoa. Anh Vũ Tiến Phúc có đi lao động không?”

“Tôi không biết cán bộ”.

Hắn quay sang tên Lực trực trại:

“Đồng chí Lực, cho người xuống đồng tìm anh Phúc, bảo về trại  ngay”.

Nửa giờ sau, hắn nói với anh Phúc đang đứng trước mặt:

“Anh đã có tiến bộ về tư tưởng thông qua phóng sự do đài truyền hình Cần Thơ thực hiện hai tháng trước. Ông Bộ Trưởng (Công An) xem xong đoạn phim đó ra lệnh thả anh về. Anh tiến hành thủ tục ra trại ngay hôm nay để cùng về với toán kia”.

Xin nói thêm một chút. Khoảng năm 1977, lúc bị nhốt trong trại tập trung trên Yên Bái, anh Vũ Tiến Phúc có nói với tôi rằng, anh có liên hệ gia đình với cộng sản Võ Trần Chí, Bí Thư thành ủy Sài Gòn mà chúng nó lắp cái tên ông Hồ thay vào chữ Sài Gòn. Theo người nhà của anh cho biết, thì Võ Trần Chí muốn lãnh anh ra trại nhưng anh không đồng ý. Anh nói anh không muốn dính dáng tới cộng sản dù là anh em.

Về đoạn phim mà tên Niệm gọi là “phóng sự”, thật ra anh em tù chính trị chúng tôi không ai biết về cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Cần Thơ tại trại Nam Hà A này cả. Chỉ biết là họ có thu hình anh Vũ Tiến Phúc và anh Lâm Chánh Ngôn (Đại Tá, Sư Đoàn 21 Bộ Binh). Hôm đó là buổi chiều, họ thu hình hai anh đứng cuốc đất trên khoảng đất nhỏ xíu ngay góc cái giếng lớn cạnh cổng chánh của trại. Khoảng đất “đầu thừa đuôi thẹo” chút xíu xìu xiu này chưa bao giờ trồng trọt gì cả. Còn phỏng vấn lúc nào và ở đâu, chúng tôi hoàn toàn không biết.

Nếu cho rằng đài truyền hình Cần Thơ muốn phỏng vấn những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng phục vụ vùng đồng bằng Cửu Long mà đài truyền hình này xem là địa phương, thì đâu phải chỉ có anh Phúc với anh Ngôn, mà có các anh Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn May, Huỳnh Thanh Sơn, và nhiều nữa. Phải chăng đó chỉ là cách nói của trại như là lý do ra về của anh Phúc do ông Bộ Trưởng Bộ Công An “tử tế và rộng lượng quá”, chỉ cần lúc nhàn hạ ngồi xem một đoạn phim là đủ yếu tố để quyết định thả tù, loại tù mà ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố là không thể tha thứ.  

Buổi trưa, tất cả các anh rời trại chuyến thứ hai, cộng thêm anh Vũ Tiến Phúc, tập trung ở khuôn viên buồng 10 chờ lên xe ra Phủ Lý. Đám trực trại không cho tiếp xúc với anh em còn ở lại. Lệnh là như vậy, nhưng giờ trưa chẳng có tên nào vào trại, thế là anh em chúng tôi tha hồ nhắn gởi về nhà.

Khi tập trung để đám trực trại điểm số, cũng là lúc nhóm quay phim Thụy Điển làm công việc thu hình. Nhóm này thu hình khi anh em ra cổng trại đi bộ lên chỗ xe buýt đậu trước nhà tên Lưu Văn Hán, trại trưởng toàn trại Nam Hà. Nghe đám trực trại nói chuyện, mới biết là nhóm quay phim Thụy Điển thu hình tại nhà ga Hà Nội, sau đó lên phi cơ vào Sài Gòn để thu hình các anh tại nhà ga Hòa Hưng.

Tháng sau đó, một anh bạn được vợ đến thăm, nhờ đó mà anh em chúng tôi biết  nhóm quay phim Thụy Điển theo anh Đoàn Viết Cảnh -trong số được tha- và gia đình về đến nhà, nhưng không rõ là họ có phỏng vấn gì không.

 Khoảng hai tháng sau đó,  tên Lực trực trại, vào buồng giam số 1 chúng tôi nói chuyện linh tinh. Sau khi uống tách cà phê, hắn nói:

“Mấy thằng Thụy Điển đểu lắm. Nó quay phim các anh ở đây nó không hỏi ai điều gì, nhưng khi về bên đó nó thuyết minh ngược lại hết làm cho Bộ Công An bị phê bình dữ dội”.

“Họ thuyết minh thế nào vậy cán bộ?”

“Khi thu hình Đội trồng rau trên đường về trại, Ban Giám Thị bảo bó cuốc xẻng lại và vác về cho nó thấy là cẩn thận, nhưng lời thuyết minh trong phim cho rằng trại bắt các anh vác củi về cho trại sau giờ lao động. Nó nói như vậy là vì nó chỉ thu hình từ phía trước, mà phía trước chỉ là những cán cuốc cán xẻng chớ đâu thấy lưỡi cuốc lưỡi xẻng. Còn lúc nó đứng thu âm thanh ở giữa sân, nó thuyết minh là sự khắc nghiệt đến mức mà hằng ngàn tù nhân cũng không dám phát ra một âm thanh nào cả, nghĩa là một không khí im lặng đến nghẹt thở! Đểu đến thế!”

“Đúng là chúng nó đểu rồi”.

Đó là lời của cụ Hoàng Văn Úy nói theo kiểu vuốt đuôi tên Lực, nhưng trong lòng anh em chúng tôi thầm cười “cái đểu rất đểu với bọn cộng sản quá đểu”. Thế là những màn kịch tồi đã bị nhóm thu hình Thụy Điển vạch trần một cách nghệ thuật. Xin cám ơn các bạn Thụy Điển trong nhóm quay phim ấy.    

Lại một cái Tết trong tù.

Sau khi các anh thuộc chuyến thứ hai ra về, tù chính trị chúng tôi còn lại vừa hơn 400, chuẩn bị “ăn Tết”. Tết đầu 1985 này có cái đặc biệt, rất đặc biệt. Đó là trại trưởng Bùi Dênh cho phép tất cả vợ con của tù chính trị đang có mặt tại nhà thăm nuôi ngày 30 Tết, được ở lại “ăn tết” với chồng. Theo cái lệnh đặc biệt đó, các anh sau đây được sống với vợ con trong 3 ngày Tết: Anh Vĩnh Thái, (Trung Tá Nhảy Dù), anh Trần Hiệp Thới, anh Nguyễn Minh Công, anh Huỳnh Quang Minh, và anh Huỳnh Chí Tài (anh Tài quốc tịch Hong Kong).

Lần đầu tiên, sáng Mồng Một, phái đoàn tù chính trị gồm các anh Đội Trưởng và Tổ Trưởng do tên Dục hướng dẫn lên nhà trại trưởng chúc Tết. Nhưng Lưu Văn Hán, trại trưởng Nam Hà đã về quê ăn Tết, giao lại cho Đại Úy Tân, phụ trách giáo dục toàn trại. Tên Niệm mở đầu:

“Nhân ngày đầu năm, Ban Giám Thị muốn tiếp xúc với đại diện trại viên (họ gọi tù chính trị chúng tôi là trại viên) và các gia đình đang được thăm gặp thân nhân, để chuyển lời thăm hỏi và chúc mừng đầu năm của Trại Trưởng. Bây giờ mời một anh đại diện phát biểu”.

Trước khi ra cổng trại, các bạn tôi giao tôi trách nhiệm đáp lời nếu như họ bảo tù chính trị chúng tôi làm việc đó. Sau khoảnh khắc im lặng, tôi đẩy ghế, đứng dậy:

“Thưa Ban Giám Thị và các cán bộ, thưa các Anh các Chị. Tôi được phép thay mặt các bạn tôi có măt trong phòng này, chúc Ban Giám Thị, chúc cán bộ và gia đình, một năm mới nhiều sức khỏe. Xin chúc các Anh Chị được vui vẻ bên nhau trong mấy ngày Tết lạnh buốt nơi đây. Tôi xin hết lời”.

Nói xong, tôi vòng qua bên kia bàn, trao cho con gái của anh chị Thới và hai con của anh chị Tài, mỗi cháu một nhánh đào bé bỏng mà tôi ngắt từ cành đào thật lớn bên cạnh, với lời chúc mừng các cháu thêm một tuổi.

Đến chị Trần Hiệp Thới thay mặt các chị, chúc Tết Ban Giám Thị và mời họ một trái dưa hấu. Trái dưa này của chị Vĩnh Thái đưa chị Thới làm quà đầu năm, xem như “có qua có lại” cho sòng phẳng.

Không phải trưởng trại A Bùi Dênh chúc Tết chúng tôi, mà là Đại Úy Tân, phụ trách giáo dục toàn trại. Cùng lúc, mấy tên Công An trong bộ phận tổ chức và kế hoạch mời chúng tôi uống trà với thuốc lá đen. Thường ngày chúng nó có việc cần là vào trại  bảo chúng tôi làm việc như điên, bây giờ chúng tôi ngồi vào ghế để chúng nó mời thuốc mời trà lia lịa.

Sau đó, các anh chị được thăm gặp nhau  trở ra nhà thăm nuôi, anh em chúng tôi quay vào trại. Vẫn là những trò giải trí như năm trước, cờ tướng, đá banh, đánh banh (bóng chuyền). Đó là phần nhiệm của tổ văn hoá, còn đàn hát thì buồng giam nào cũng có. Các bạn “chạy sô văn nghệ” tại các buồng giam như anh Lương Trọng Lạt (Thiếu Tá Cảnh Sát), anh Vũ Quang Tĩnh (Đại Úy Cảnh Sát), anh Phạm Duy Thanh (Thiếu Tá Cảnh Sát), anh Nguyễn Phan Đệ (Đại Úy), anh Phạm Gia Đại (viên chức cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Nha Trang), anh Bửu Uy (Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo), anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ, thông dịch viên), và anh Nguyễn Văn Quí (Đại Tá Cảnh Sát). Thật ra thì rất nhiều anh không thuộc tổ văn nghệ, nhưng tiếng đàn giọng hát vững vàng lắm.

Ngoài các anh kể trên, còn có các anh Lâm Minh Sơn (Thiếu Tá) có  biệt danh “Sơn gà  tre” vì khi đá banh anh chạy nhanh lắm, Lê Thành Kỉnh (Tuyên Úy Phật Giáo), Chu Mạnh Bích (Đại Úy, lái phi cơ C130), Nguyễn Minh Chí (một trong những bạn rất trẻ), anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), anh Vĩnh Thái (Trung Tá Nhẩy Dù), ..v..v...

Đâu đã hết, còn có các anh thuộc hàng “thợ ca” như anh Nguyễn Khoa Phước (Nghị Sĩ), anh Vĩnh Biểu (Đại Tá), anh Phạm Kim Tấn, Nguyễn Hữu Vị, anh Đinh Tiến Dũng, anh Nguyễn Dũng, anh Nguyễn Văn Năm (Đại Úy, lái khu trục phản lực), Trương Đình Thăng, Triệu Huỳnh Võ (anh Thăng với anh Võ là Đốc sự hành chánh). Trong số này có hai “thợ đàn với thợ ca”  thuộc hạng siêu là anh Nguyễn Văn Năm với anh Nguyễn Dũng. Hai bạn này cạnh nhau, sau khi nằm yên trong mùng thì anh Năm đàn anh Dũng ca. Tiếng đàn với tiếng ca thật nhỏ. Nói nghe có vẻ quá lời, thật ra hai anh có thể đàn hát tới sáng cũng chưa hết bài hát thuộc lòng nữa quí vị quí bạn à!

Tối Mồng Một Tết trong buồng giam số 1, chúng tôi quân quần bên nhau trên sàn gác, uống trà uống cà phê đàn ca hát xướng. Chỉ cần một tiếng đồng hồ, anh Đặng Hoàng Long vẽ xong chân dung tôi (bên cạnh), và vẽ một hoạt cảnh bằng bút chì. Ôi thôi, “ca nhạc sĩ” đủ kiểu ngồi nằm vừa đàn vừa hát, áo quần ngổn ngang trên những giây giăng mùng, những túi những lon móc đầy trên vách, đằng sau “ban nhạc” là anh Nguyễn Văn Sảo (Đại Tá An Ninh Quân Đội) “thưởng thức văn nghệ bỏ túi” trong thế ngồi bó gối, có vẻ như anh đang buồn ngủ? Cứ sau khi đám trực trại khóa cửa buồng giam, chúng tôi tự cho  mình  được tự do  ca hát, mà hát  toàn những  bài liên quan đến đời sống chiến đấu lẫn đời sống tình cảm thời chiến tranh giữ nước. Hát nhạc ngoại quốc, phải công nhận anh Lê Minh Đảo (Thiếu Tướng), anh Phạm Kim Tấn, anh Bửu Uy, anh Vĩnh Biểu, anh Phạm Gia Đại, anh Chu Mạnh Bích, thuộc nhiều mà hát hay nữa. Trong chốn riêng tư của con người, đêm đêm cái đám Công An vào đứng hay ngồi bên ngoài cửa sổ các buồng giam để nghe đàn hát. Những khi không nghe đàn hát, chúng nó yêu cầu chúng tôi hát những bài hát mà chúng nó muốn nghe cứ như “chương trình nhạc yêu cầu” vậy.

Ngày Mồng Hai Tết, anh Lại Đức Chuẩn, tổ trưởng tổ dịch thuật bên buồng giam số 2, tổ chức văn nghệ có ăn trưa hẳn hòi. Từ 9 giờ sáng đến 1 giờ trưa ngưng lại ăn cơm. Ăn xong tiếp tục phần hai, nhưng có lẽ “mở heo” (từ thịt kho) bám vào thanh quản nhiều quá nên “các ca sĩ” xuống phong độ và chấm dứt sớm.

Thưa quí vị quí bạn, đó là niềm vui trong cái đắng cay của những người thua trận chúng tôi, nhưng đó cũng là cách góp phần giúp chúng tôi giữ vững nghị lực mà tin tưởng ngày mai, dù ngày mai vẫn là niềm hy vọng chưa có câu trả lời rõ nét.

Còn lại một ngày nghỉ nữa, tôi đưa anh Đặng Hoàng Long mấy tờ giấy “bristol” mà tôi ăn gian của mấy tên Công An nhờ tổ văn hoá trang trí đám cưới của chúng nó, để anh Long vẽ chân dung cho anh nào muốn lưu lại cái kỷ niệm đắng cay trong trại tập trung!

Tưởng cũng nên kể lại quí vị quí bạn biết qua cách trang trí đám cưới của chúng nó để có khái niệm về lễ cưới của thanh niên xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc. Phần phụ trách trang trí là anh Đinh Tiến Dũng với anh Đặng Hoàng Long. Trên tờ giấy trắng dầy, anh Long vẽ hai trái tim đỏ lòm chồng lên nhau, viết hai mẫu tự đầu của cô dâu chú rể ngay giữa hai trái tim. Trên cuống hai trái tim có hai sợi giây tơ hồng quyện vào nhau do hai con chim bồ câu cắn hai đầu giây đó trong tư thế đang bay. Vẽ xong, dán lên tấm phông trắng treo trên vách sân  khấu hoặc tương tự như vậy nếu ở nhà riêng. Bên trên có hàng chữ trăm năm hạnh phúc cắt giấy màu dán lên. Trong khi đó, anh Dũng dùng loại giấy xấu có màu xanh lá cây cắt thành bụi tre. Gần trên ngọn tre có mặt trăng bằng giấy màu vàng. Cạnh bụi tre, vẫn giấy màu xanh, cắt hình một nam một nữ dìu nhau dưới ánh trăng. Toàn bộ đó dán bên  trái tấm phông, còn bên phải tấm phông dùng giấy màu tím màu vàng màu đỏ cắt hình một ban nhạc với đầy đủ nhạc công nhạc khí. Trên nền trắng còn lại, cắt những ngôi sao với những nốt nhạc dán lên đó. Đấy là tấm phong gọi là hoàn chỉnh cho một đám cưới.

Anh Long với anh Dũng thường phá chúng nó bằng cách, vẽ hai sợi giây vừa quấn vào nhau mà vừa đá nhau, còn anh Dũng cho chân chúng nó đá nhau dưới ánh trăng, nhưng chỉ có “phe ta” biết chớ chúng nói làm sao biết được cách chơi “xỏ lá” đó.

Đổi tiền lần thứ ba.

Trung tuần tháng 9 năm 1985, đây là lần thứ ba chúng nó đổi tiền. Lần thứ nhất vào tháng 09/1975, lúc ấy họ tự qui định 1 đồng của họ bằng 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa cũ. Lần thứ nhì họ gọi là thống nhất hai đồng bạc miền Nam với miền Bắc theo trị giá đồng bạc miền Nam. Bây giờ họ lại tự qui định 1 đồng mới bằng 10 đồng cũ. Nói cách khác, 1 đồng bây giờ bằng 5.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa trước.

Sáng sớm ngày đổi tiền, khi nghe cái loa của trại loan tin tôi chạy tìm tên Dục, đang là cán bộ giáo dục của trại A trong khi chờ tên khác đến thay vị trí tên Vũ Quấc buộc phải về hưu:

“Cán bộ có thể đổi giúp giùm tôi ít tiền được không?”

“Anh có nhiều không?”

“Tôi và các bạn gộp lại được 1.200 đồng”.

“Được. Anh đưa tôi”.

Đến chiều, hắn mang vào trại đưa tôi 120 đồng mới. Tôi đưa nó 20 đồng:

“Cán bộ giữ cái này uống cà phê”.

“Không. Các anh chẳng có bao nhiêu, giữ mà tiêu”.

Để sòng phẳng, sáng hôm sau tôi tặng hắn cái áo thể thao với màu sắc rất đẹp. Trông thấy là mắt hắn sáng lên trong khi miệng cám ơn lia lịa. Áo này tôi mua lại của anh Nghiêm hồi năm ngoái với giá 200 đồng. Ở đâu không biết chớ tại trại tập trung này, đám Công An mê hàng sản xuất từ Hoa Kỳ lắm, cứ thấy nhản hiệu USA là sáng mắt ngay.

Công An Dục rất trẻ, tuy đôi lúc bốc đồng nhưng chẳng mấy khi gắt gỏng. Hắn cũng “ngậm” như những tên khác, nhưng được một điều là khi có việc nhờ hắn thì hắn làm ngay. Hầu hết anh em chúng tôi chủ trương sòng phẳng dứt khoát với đám Công An để không dây dưa với chúng nó.

Về trường hợp tên Vũ Quấc ra rìa và bắt buộc phải về hưu, làm cho hắn xem những đồng chí áo vàng (đồng phục của Công An) của hắn là thù địch. Chuyện là mấy tháng trước, hắn xin đi áp tải tù chính trị duy nhất vào Nam, đó là anh Ung Ngọc Nghĩa, trước kia là đảng viên chính trị. Anh Nghĩa là em ruột của Ung Ngọc Ky, tên cộng sản tập kết ra Bắc năm 1954. Trong khi Vũ Quấc vào Nam, cái đám chi bộ đảng của hắn tại trại Nam Hà A này, đưa tên hắn vào danh sách đề nghị cưỡng bách về hưu. Vũ Quấc là tên Công An vừa tham vừa thâm lại vừa độc, ngay cả với những “đồng chí” của hắn nếu như họ không đứng trong phe cánh với hắn. Theo tên Dục nói lại thì trong một tháng ở Sài Gòn, Vũ Quấc được anh Dương Huy Nam hướng dẫn đến một số các anh tù chính trị về trước để xin tiền. Trở về trại là hắn tối tăm mặt mũi, khi biết bị đám đồng chícủa hắn chơi một đòn quá nặng.

Tôi không rõ là hắn đã gởi đơn tố cáo các đồng chí của hắn ra sao, nhưng hắn nói với tôi thế này:

“Rồi đây sẽ có phái đoàn trung ương đến đây thanh tra, nếu họ có hỏi anh thì anh nói là cả trại này chỉ có ông Quấc là có uy tín, còn thì thối nát cả”.

Thưa quí vị quí bạn, đúng là cái đám Công An trại này đều thối nát, nhưng Vũ Quấc là tên thối nát hơn tất cả, mà ăn nói cũng ngược ngạo hơn tất cả. Hắn nói như vậy, rõ ràng là hắn không hiểu tôi chút nào, và đó là sự thành công của tôi. Tôi nói “thành công”, vì tôi luôn “giữ cái tẩy” để chúng nó không nhận ra được con người thật của tôi đối với chúng nó. Lúc nào cần sòng phẳng tôi sòng phẳng, lúc nào cần xỏ lá là xỏ lá. Có lẽ nhờ vậy mà hắn hiện nguyên hình của một tên Công An ác ôn độc hại khi hắn nói với tôi câu ấy.

Điển hình cái tham cái độc của Vũ Quấc. Tháng 01/1985, khi anh Liêm (Thiếu Tá) Đội trưởng đội thợ mộc được ra trại, hắn bảo anh Liêm ăn cắp dụng cụ đồ nghề của thợ mộc gồm cưa, bào, đục, giũa, búa, khoan, đem về buồng giam, rồi lúc thuận tiện sẽ có tù hình sự đến lấy đem ra phòng hắn bên ngoài cổng trại. Đến chú Vượng có thời gian giữ kho dụng cụ, trước khi được ra trại, hắn bảo ăn cắp mai xén đất, cuốc bàn, cuốc chim, xà beng, búa tạ, dao lớn dao nhỏ dao dài dao ngắn, bao bọc lại rồi lén mang đến phòng hắn vào buổi trưa. Đâu đã hết tham, hắn xuống buồng giam số 18 thấy mấy tấm “lưới chống B40”, hắn bảo mấy anh tù hình sự tháo ra rồi gập lại cho ngắn gọn, bỏ vào giỏ rác, buổi trưa khiêng ra cổng đổ vào đống rác. Hắn lại bảo anh hình sự phục vụ khu doanh trại, chờ giờ nghỉ trưa lén mang đến phòng hắn, để hắn mang về nhà đúc cái sân thượng nho nhỏ. Nhưng cái số của hắn đã mạt càng thêm mạt, vì cuộn lưới cuối cùng trên đường đến phòng hắn thì tên Công An gác cổng kêu dừng lại xét, và bắt tại trận. Không biết hắn có bị gì không, nhưng anh hình sự bị đuổi về Đội đi lao động, không được phục vụ ngoài khu doanh trại nữa. Cái khác biệt giữa theo đội đi lao động với phục vụ khu doanh trại bên ngoài, tuy cùng là lao động nhưng lao động khu doanh trại tự do hơn, vì chỉ có một mình nên sự đi lại dễ dàng, nhưng ngược lại khi tên Công an nào bảo gì thì làm nấy.

Về hưu cũng là một vấn đề dưới chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Không phải nói về hưu là nghỉ ngay đâu. Trước khi thật sự nghỉ hưu, họ được về nhà nghỉ chơi từ hai đến năm năm tùy từng đơn vị, sau đó mới thật sự về hưu. Trong thời gian “đuổi gà cho vợ” họ vẫn hưởng những quyền lợi như đang làm việc, như tiền lương, được phân phối gạo, thịt, đường, với giá như cho không.



Trại trưởng mới, tù nghẹt thở.

Không biết có phải do “chính sách riêng” của Bùi Dênh về việc nới lỏng đối với tù chính trị chúng tôi hay không, mà sau Tết thì Đại Úy Tân, cán bộ giáo dục toàn trại Nam Hà, thay thế Bùi Dênh trong chức vụ trưởng trại Nam Hà A. Chỉ biết rằng, theo mấy “thằng chèo” biệt danh do chúng tôi đặt ra để chỉ đám Công An cai tù, trong khi người dân vùng này gọi chúng nó là “chó vàng”, nói  chuyện với nhau thì nguyên nhân do Bùi Dênh “nới lỏng chúng tôi” nhưng lại “siết chặt chúng nó”. Chữ trói chặt, chúng tôi suy đoán có lẽ do Bùi Dênh nắm quyền trực tiếp quyết định những vấn đề liên quan đến sinh hoạt của tù chính trị thì phải, bởi đó là cánh cửa để chúng nó kiếm “chút cháo” từ chúng tôi.

Cũng không biết có phải vì vậy hay không, mà tên Tân “bô lô ba la” khi nắm quyền trưởng trại là bắt đầu siết chúng tôi lại, và phần thăm gặp gia đình là hắn siết chặt nhất. Điển hình là rất ít trường hợp được thăm gặp 24 tiếng đồng hồ, và tuyệt đối không có trường hợp nào quá 24 tiếng đồng hồ cả. Hạn chế gắt gao nấu nướng và trồng rau cải trong khuôn viên buồng giam. Có lần đám tù hình sự coi chúng tôi đá banh rồi đánh nhau đến đổ máu, thế là hắn cấm đá banh luôn. Từ đó, không khí trong trại trở nên nghẹt thở như lúc ban đầu. Chưa hết, hắn còn ngăn cấm những ai đến thăm thân nhân mà mang giúp quà cho người khác, nghĩa là chỉ được mang quà cho thân nhân thôi. Thường khi vợ anh Huỳnh Chí Tài mang theo rất nhiều quà của các chị bạn với ít tiền công để làm lộ phí, thế là chị Tài bị bắt buộc phải mang về. Nhưng chị ấy mang ra bưu điện Ba Sao gởi, thông thường thì bưu điện Ba Sao gọi trong trại ra lãnh, và trường hợp này thì Tổ văn nghệ của anh Phạm Kim Qui được cử đi.

Đẩy xe cải tiến ra bưu điện Ba Sao nhận bưu kiện, cũng là niềm vui nho nhỏ của tù chính trị chúng tôi. Cứ mỗi lần đi như vậy, một số anh em chúng tôi gởi tiền cho các bạn ra đó mua thức ăn, con gà con cá củ khoai bó rau hay bánh kẹo. Thường khi hướng dẫn ra bưu điện Ba Sao là tên Dục phụ trách cùng với một tên võ trang. Tổ Văn nghệ đưa tiền cho tên Dục giữ lúc ra cổng trại, trên đường ra Ba Sao thì hắn đưa lại anh em. Tất nhiên khi mua hàng thể nào cũng mua cho hắn món gì đó để gọi là sòng phẳng, thế là mọi việc đâu vào đó. Đến Ba Sao, mấy bà trong cái chợ chồm hổm này thấy tù chính trị chúng tôi là mừng lắm, có món gì cũng mời gọi vì các bà ra giá bao nhiêu chúng tôi mua bấy nhiêu, mua không cần trả giá mà lại mua nhiều nữa. Các bà bán hàng gọi chúng tôi là “tù miền Nam” trong khi đám thanh thiếu niên gọi chúng tôi là “tù áo hoa”. Cả hai tên gọi mà người dân ở đây gắn cho chúng tôi, nghe như chỗ thân tình chớ không nhằm châm chọc.

Một hôm, anh Thanh hỏi mấy cậu bé đứng xem mua hàng:

“Em học lớp mấy?”

Mấy đứa cùng trả lời, đứa lớp 5 đứa lớp 4. Anh Thanh hỏi tiếp:

“Lớn lên mấy em muốn làm gì?”

Đám trẻ như tranh nhau trả lời, tuy cách dùng chữ có khác nhau nhưng cùng chung một nghĩa:

“Em muốn làm tù áo hoa”.

Không phải riêng anh Thanh mà  các anh cùng đi đều ngạc nhiên. Một anh hỏi tiếp:

“Tù áo hoa tức là như mấy anh đây phải không?”

Thằng bé tỉnh bơ, cứ như trong sự suy nghĩ non nớt của nó hình thành từ bao giờ:

“Phải”.

“Tại sao em muốn làm tù áo hoa?”

“Tại vì làm tù áo hoa sướng hơn”.

Trả lời xong là cả đám cháu ngoan của ông Hồ vừa cười vừa chạy, cứ như chúng nó bằng lòng với lời bày tỏ ước vọng tương lai của chúng nó vậy.

Thưa quí vị quí bạn, “tù áo hoa” vì những bộ đồ rằn ri tức đồ trận mà anh em chúng tôi mặc, do họ lấy trong các kho của Tiếp Vận quân lực Việt Nam Cộng Hòa và phát cho chúng tôi sử dụng, và chúng tôi thường mặc khi thời tiết vào đông. Do vậy mà các “đấng nhi đồng với thanh thiếu niên xã hội chủ nghĩa” nơi đây gọi chúng tôi là “tù áo hoa”. Nhưng tại sao các “đấng thiếu niên” đó nói như một ước vọng khi lớn lên làm tù áo hoa sướng hơn? Chữ “sướng hơn” mà cậu bé lớp 5 sử dụng, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện rõ nét về đời sống người dân quá khổ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc này, hay ít nhất cũng là trong khu vực nơi đây! Khổ đến mức tuổi lên mười cũng nhận ra được, và lớp tuổi này cũng nhận ra mức sống của tù chính trị chúng tôi trong trại tập trung để so sánh.

Trở lại với tên trại trưởng Đại Úy Tân. Hắn có giọng nói ngọng nghịu, cái tật hay nói nhưng sau khi nói quá nhiều thì hắn nói là hắn không muốn nói nhiều. Chúng tôi nói hắn “bô lô ba la”, vì khó khăn lắm hắn mới thoát ra khỏi một đề tài để sang đề tài khác. Vì sự hách dịch và bóp chẹt thăm gặp gia đình, bóp chẹt sinh hoạt trong trại, và cả lao động nữa, một số anh em chúng tôi, nhất là anh Qui với anh Chuẩn, thường cho hắn khi hắn ngửa tay xin thuốc tây cho vợ chồng hắn, đồng ý bóp chẹt lại hắn. Họa hoằn lắm mới nhả ra cho hắn chút chút sau vài lần xin. Đó là cách “trả đủa thụ động” mà chúng tôi có thể làm được.

Chẳng hiểu chúng nó sắp xếp ra sao, mà tên Thắng “chuột” lại được làm quản giáo nhà thăm nuôi nữa. Chúng tôi gắn cho hắn chữ “chuột” theo sau cái tên của hắn, vì “cái mỏ” của hắn dài và nhô ra trông như mỏ con chuột vậy. Tân “bô lô ba la” với Thắng “chuột” kết lại nhau, càng làm cho trại Nam Hà A này mất sinh khí.

Tháng 06/1986, sau khi vợ tôi đến thăm, cùng với các chị bạn trở lên Hà Nội đề về Sài Gòn. Lúc ấy vùng Thanh Hóa bị cơn bão tàn phá nhiều nhà cửa cầu đường, và xe lửa không lưu thông được vì một đoạn đường rầy hư hỏng. Tất cả các chị từ Sài Gòn ra thăm nuôi đều bị kẹt lại, mà theo thông báo của nhà ga Hà Nội ít nhất phải chậm lại một tuần. Vợ tôi với chị Tài và hai con của chị, mua một ít trái cây trở xuống trại tập trung Nam Hà trao cho chồng. Không phải riêng của tôi với anh Tài, mà còn vài chị bạn cũng gởi thêm chút ít. Nói nghe có vẻ nhiều lắm, nhưng thật ra mỗi người chỉ một gói vàì kí lô thôi vì sợ trại không cho gặp.

Tên Tân đi khỏi, tên Thụng trại phó không cho gặp. Tên Thung là tên đã uy hiếp tôi bằng cách dùng cây nhọn xoáy nhẹ vào lưng tôi khi phái đoàn Pháp chọn tôi để gặp họ. Tôi nhét cho tên Dục 100 đồng, hắn xoay sở thế nào với đám trực trại mà hắn dắt tôi ra nhà thăm nuôi lúc giữa trưa, và chỉ ở đó trong một tiếng đồng hồ. Khi theo tên Dục vào trại, tôi yên tâm là sáng mai vợ tôi với chị Tài mới ra  Phủ Lý. Thế nhưng khi tôi vào đến nhà trực trại thì Thắng “chuột” lù lù tới. Hắn hằn học với tôi, kèm theo nụ cười lúc nào cũng nham hiểm:

“Ai cho anh ra gặp vợ anh?”

“Tôi không biết. Cán bộ gọi tôi thì tôi đi”.

“Anh có mang thư ra không?”

“Không”.

Tôi trả lời cộc lốc mà không dùng chữ báo cáo cán bộ.

“Anh có mang tiền vào không?”

“Cán bộ gọi cán bộ trực trại xét tôi đi”.

“Tôi sẽ xét vợ anh xem có thư anh thì anh biết tay tôi”.

“Cán bộ có quyền thì cán bộ cứ xét đi”.

Sau đó không biết Thắng “chuột” nói nặng nói nhẹ gì vợ tôi, mà chú hình sự tôi thường “thuê” chuyển thư “chui”, khi vào trại cho tôi biết là vợ tôi với chị Tài cùng hai con của chị ấy, đi bộ ra Ba Sao ngay lúc xế chiều. Anh ta nói thêm là đoạn đường từ trại ra Ba Sao cũng như từ Ba Sao ra Phủ Lý, từ giờ đó không có xe nào ra Phủ Lý cả.

Lần thăm nuôi sau đó, vợ tôi thuật lại chuyện hôm ấy như thế này. Hắn hạch hỏi:

“Chồng chị có đưa thư cho chị mang về  không?”

“Không có thư gì cả, vì tôi đến thăm thì chồng tôi đâu cần gởi thư”.

“Bây giờ chị phải đi khỏi nhà thăm nuôi”.

Tức quá! Vợ tôi, chị Tài và hai con của chị, đi bộ ra Ba Sao, hy vọng có xe ra Phủ Lý. Người dân ở đây cho biết là không có xe nào ra Phủ Lý vào giờ này đâu, mà ở Ba Sao cũng không có nhà trọ. Thế là vợ tôi với chị Tài quyết định đi bộ, cũng nuôi chút hy vọng mong manh là dọc đường biết đâu có chuyến xe nào ra Phủ Lý quá giang. Cứ thế mà đi! Đi 17 cây số đường đồi đất đá! Không chiếc xe nào ra Phủ Lý! Không một quán nước bên đường để giảm cơn khát! Chập choạng tối mới đến Phủ Lý! Chờ xe lửa lên Hà Nội. Trở lại đến nhà trọ thì tay chân đều sưng lên, trong khi bụng đói, người mệt lả! Trong tình cảnh đó, các chị bạn giúp đỡ xoa bóp và nấu cho chén cháu đỡ lòng thay vì cơm nặng bụng. Hai ngày sau mới giảm bớt, và hai ngày sau nữa lên xe lửa về Sài Gòn.

Thật lòng mà nói, tôi không thể nào tưởng tượng được là vợ tôi đã đi bộ trên quảng đường dài đến như vậy! Và cũng không thể nào tưởng tượng được là vợ tôi chịu đựng nỗi cái tức trong lòng do tên Thắng “chuột” gây ra, dẫn đến cái khổ về thể xác đến như vậy!

Điều gì đã giúp vợ tôi vượt lên cái đau cái tức đó? “Phải chăng là tình yêu chồng cộng với tình thương con?” Vợ tôi đã xác nhận như vậy, và nói bên tai tôi rằng:

“Khi Anh vào tù, cuộc sống của Anh và tương lai các Con chính là cuộc sống của Em, như mình đã đồng ý với nhau từ những ngày đầu viết thư qua lại cho nhau”.

Ánh sáng cuối đường hầm.

Trước khi nhận ra chút ánh sáng, xin mời quí vị quí bạn đến thăm tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân một chút. Tiến sĩ Xuân một thời là Tổng Trưởng Kinh Tế, một thời là Việt Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ. Trong thời gian bị giam tại trại Nam Hà này, ông gởi mua sách học tiếng Nga để tự học. Ông nói với tôi là tiếng Nga cũng không khó như ông tưởng. Tôi quen biết với ông từ năm 1964.

Tại trạm xá có một “bác sĩ” Công An, nhưng thật sự là bác sĩ Trương Văn Quýnh điều hành. Bác sĩ Quýnh từng là Giám Đốc Bệnh Viện Sài Gòn chuyên về cấp cứu, ông có uy tín trong giới y khoa thuở ấy. Phần lớn bác sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa đều bị giam ở các trại tập trung trong Nam, nhưng bác sĩ Quýnh và một số ít bác sĩ khác bị chúng nó đưa ra giam giữ cùng chúng tôi trên đất Bắc, do là  thành viên của đảng chính trị hoặc do chúng nó gắn cho cái tội trời ơi gì đó. Tuy lúc ấy bác sĩ Quýnh không thấy rõ nếu không nói là gần như bị mù, nhưng ông giúp anh em chúng tôi rất nhiều về kinh nghiệm chuyên môn của ông. Anh em chúng tôi rất quí trọng ông.

Tôi nhớ hôm ấy là buổi sáng, một anh đau răng đến trạm xá nhờ ông nhỗ, ông Quýnh vừa cười vừa nói.

“Ngồi đó đi, tôi nhổ răng không đau đâu, anh đừng sợ”.

Vì ông không thấy rõ, nên ông cho tay vào miệng bệnh nhân lắc lắc từng cái răng, và hỏi liền miệng:

“Phải cái này hông? Phải cái này hông? Phải cái này hông?” Đến cái răng thứ tư, bệnh nhân đáp vội vàng:

“Đúng rồi. Đúng rồi. Cái đó đó bác sĩ”.

Bác sĩ Quýnh cầm cái kềm, lựa thế để kẹp cái răng, và chỉ một tiếng “phựt” là cái răng ngoan ngoản theo cái kềm ra ngoài. Súc miệng xong, bệnh nhân ngậm miếng bông gòn chút xíu rồi khoan khoái trở về buồng giam. Chiều hôm ấy, anh “bệnh nhân” trở xuống trạm xá, lớn tiếng từ ngoài cửa:

“Cái răng đau của tôi còn nguyên, vậy mà ông nói ông nhổ răng không đau. Bây giờ ông nhổ lại cho tôi đi”.

Bác sĩ Quýnh tỉnh bơ:

“Tôi hỏi anh đàng hoàng, anh chỉ cái răng cho tôi nhổ chớ có phải tôi tự ý đâu”.

Ông cười cười với giọng nửa đùa nửa thiệt:

“Hồi sáng tôi có nói với anh là tôi nhổ răng không đau, anh cũng đồng ý mà”.

Rồi ông trở nên nghiêm chỉnh:

“Thôi. Ngồi xuống đây, tôi nhổ cái răng đau cho anh với điều kiện anh phải chỉ đúng cái răng đau à nghe”.        

Trở lại trường hợp tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân. Sau khi khám bệnh ông Xuân trong lúc tôi đang xin miếng bông gòn thoa vết trầy ở chân, bác sĩ Quýnh kéo tay tôi bảo sờ ngực trái sát trên xương vai của ông Xuân:

“Cậu Hai có thấy gì không?” Ông thường gọi đùa tôi là “cậu Hai”.

“Không bác sĩ. Tôi không cảm thấy gì hết”.

Ông lại bảo tôi sờ lần nữa, tôi vẫn không cảm nhận gì cả. Ông nói: “Vậy hả”. Rồi im lặng. Mãi đến khi ông Xuân rời khỏi trạm xá ông mới nói:

“Sát trên xương vai trái ông Xuân có cái u nho nhỏ, phải mạnh tay một chút mới cảm thấy. Theo kinh nghiệm của tôi, đó là triệu chứng ung thư. Thông thường, cái u đau thì không nguy hiểm trong khi mấy anh thấy đau thì sợ, nhưng thật sự cái u không đau mới là đáng sợ. Ông Xuân trong trường hợp thứ hai”.

Tôi nghe vậy hay vậy chớ biết gì đâu mà bàn luận. Mấy hôm sau, ông Xuân nghe được lời chẩn đoán của bác sĩ Quýnh, ông xuống trạm xá phản đối lời chẩn đoán đó của bác sĩ Quýnh.

Sau lần thứ hai bệnh viện Phủ Lý khám nghiệm ông. Bác sĩ cộng sản tại đó hỏi bác sĩ cộng sản trạm xá Nam Hà:

“Tôi nghe nói trong trạm xá của trại có anh bác sĩ gì đó giỏi lắm, anh ấy còn trong đó không?”

“Bác sĩ cộng sản của trạm xá trả lời:

“Còn. Anh ấy vẫn còn trong trại”.

“Anh bác sĩ đó có nói anh này (tức anh Xuân) bị bệnh gì không?”

“Anh Quýnh cho biết đó là triệu chứng ung thư”.

Anh bác sĩ cộng sản ở bệnh viện Phủ Lý, buông một câu như lời khen thầm kín:

“Ít ra cũng có một bác sĩ chẩn đúng bệnh. Đúng là anh ấy giỏi”.

Và rồi sau đó bệnh ung thư của ông Xuân phát triển rất nhanh. Chỉ trong vài tháng, từ cái u còn sâu dưới lớp da lớn dần và nổi cao lên trên, nếu nhìn theo chiều dài cái trứng gà nhỏ thì nó lớn khoảng một phần ba của cái trứng úp xuống. Lúc ấy ông Xuân không ăn uống gì được nữa. Trại cho phép anh Phạm Hữu Trung (Đại Úy Cảnh Sát), từ buồng giam số 1 xuống trạm xá giúp chăm sóc ông Xuân. Anh Trung rất kiên nhẫn, cứ mỗi lần cho được một muỗng nước pha mật ong vào miệng ông Xuân, anh dùng tay liên tục vuốt ở cuống họng mãi năm bảy phút sau muỗng nước ấy mới xuống thực quản. Anh lại từ tốn cho thêm muỗng nước khác vào miệng ông Xuân, và cứ liên tục vuốt như vậy. Rồi cái u ấy di chuyển dần từ trái sang phải, vừa di chuyển vừa tụt dần xuống đến thắt lưng bên phải. Trong thời gian cái u ung thư di chuyển, cũng là thời gian ông lịm dần theo cái chết. Và khi đến thắt lưng, tiến sĩ kinh tế Nguyễn Duy Xuân chết hẳn! Lúc ấy là cuối năm 1986 do ung thư di căn.

Theo lời tên Dục phụ tá giáo dục, trại chụp tấm ảnh để hồ sơ sau này có cơ quan nào cần thì tham khảo. Đây là lần đầu tiên trong số rất nhiều anh em chúng tôi chết tại đây, nhưng có bao giờ nghe họ nói đến cái vụ chụp hình lưu hồ sơ như trường hợp này đâu. Anh em chúng tôi, mỗi người một tay gọi là tẩn liệm ông vào cái quan tài tồi tàn, nhưng không được phép chôn cất ông như hồi anh Trần Hữu Dụng chết, mà họ giao cho hai anh tù hình sự cột hai vòng giây, xỏ cây đòn dài theo quan tài và khiêng như khiêng món hàng gì đó mà ra cổng trại. Gần một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đứng trong sân trại nhìn hai anh tù hình sự từng bước leo lên đường đỉnh sau nhà thăm nuôi, đem chôn ở thung lũng bên kia trại. Đám tang ông Nguyễn Duy Xuân thật là buồn trong cái lạnh buốt của mùa Đông 1986! Thôi thì điểm đến cuối cùng của qui luật trong cuộc sống của mỗi con người, có hoàn cảnh nào giống hoàn cảnh nào đâu!

Tên Dục cho anh em chúng tôi trong tổ văn hoá xem tấm ảnh chụp trước khi để ông vào quan tài. Cứ vài hôm tôi xuống trạm xá thăm ông Xuân, nhưng khi nhìn tấm ảnh, tôi vẫn không thể tưởng tượng nỗi mức độ tàn tạ của ông. Người trong hình, chẳng qua chỉ là bộ xương bao bọc bởi lớp da nhợt nhạt, ở đôi mắt tinh anh của ông ngày nào nay là hai cái hốc sâu thẳm với màu nâu đậm, những cái xương sườn hiện lên rất rõ. Nói chung là không còn chút gì để nhận ra cái xác ấy là tiến sĩ  Nguyễn Duy Xuân, Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ cả!

Ít lâu sau đó, cháu của ông Xuân đến trại. Với những gì còn lại đã làm biên bản ngay sau khi ông Xuân chết, trong đó thuốc tây rất nhiều, người cháu yêu cầu trại giao cho cựu Chuẩn Tướng Trực sử dụng, vì ông Trực với ông Xuân là anh em cột chèo.

Thưa quí vị quí bạn, đầu năm 1987, sau vài năm gần như im hơi lặng tiếng về những đồn đoán, nay bừng lên niềm hy vọng dù còn là mong manh, do sự kiện đại hội của cộng sản Việt Nam hồi cuối năm qua (1986) đưa ra nghị quyết “đổi mới” còn gọi là “cởi mở”. Dù họ chưa có chính sách nào rõ rệt về đổi mới, nhưng một xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng kiệt quệ đến mức sát bờ vực thẳm, họ phải tìm cách để tồn tại. Và từ trong cách mà họ tìm sự tồn tại đó, biết đâu vấn đề tù chính trị chúng tôi lại là một cách góp phần “giúp họ” chăng?

Những ngày đầu năm âm lịch năm nay không có cái ồn ào vui nhộn với những thi đấu thể thao, cờ tướng, văn nghệ như những năm gần đây, nhưng bù lại là cái không khí vui vẻ bàn luận về “hy vọng ngày ra trại”. Đó đây trong các buồng giam đều có cảnh tụm năm tụm ba quanh chén trà điếu thuốc, râm ran bàn luận và lần này kết thúc với lời chúc “đoàn tụ gia đình”. Nhưng trong chốn riêng tư, khá đông anh em tù chính trị chúng tôi vẫn giữ mức lạc quan dè dặt. Trong sự dè dặt đó, tôi nói với cụ Hoàng Văn Úy và ông Trương Đình Nam, cả hai cùng là đảng viên Việt Quốc:

“Cụ ơi! Tôi tin là trong đường lối mới của họ có ảnh hưởng đến mình, nhưng tôi cho rằng, nếu điều đó có thành sự thật cũng phải từ nửa cuối năm nay hay chậm hơn nữa chớ không sớm đâu, vì họ cần ổn định cơ cấu lãnh đạo mới của họ. Cụ với ông Nam nghĩ sao?”

Cụ  Úy đáp:

“Tôi đồng ý là có ảnh hưởng tốt, nhưng về thời gian có thể phải sang năm (1988) chớ năm nay chưa đâu ông. Cái bọn cộng sản nó lì lợm lắm ”.

Cái không khí lạc quan có vẻ như tràn ngập trại Nam Hà A này. Nơi chốn đông bạn bè thì mức độ lạc quan theo cái lạc quan chung mà thường là lạc quan quá mức, nhưng trong chốn riêng tư thì niềm lạc quan dè dặt vẫn có, vì chẳng lẽ hơn chục năm trong các trại tập trung mà không rút ra được kinh nghiệm gì về bản chất gian trá và ngoan cố của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam sao!

Công An tên Sáng chánh thức giữ chức cán bộ giáo dục trại Nam Hà A thay tên Vũ Quấc. Hắn đến buồng này uống cà phê đến buồng kia ăn bánh uống trà vì vẫn còn hương vị ngày Tết, trong lúc uống cà phê tại buồng giam 1, hắn nói với chúng tôi:

“Các anh có triển vọng được ra về nhờ đường lối cởi mở của đảng. Như thế nào thì tôi chưa rõ, nhưng triển vọng như vậy không phải là không thành sự thật đâu”.

Khi hắn ra khỏi phòng, anh em chúng tôi trong tổ văn nghệ, tổ chăn nuôi, với tổ  văn hoá bàn luận. Câu chuyện bàn luận của chúng tôi như thế này:

“Các bạn thấy có thể tin thằng này được không?”

“Tôi nghĩ có thể tin được, vì hai điểm: Thứ nhất là tánh hắn không có cái bí hiểm như tên Quấc “đểu”, Thịnh “khuỳnh”, hay Thắng “chuột”. Chưa thấy hắn gắt gỏng với anh em mình, cho nên tôi nghĩ hắn không “nói đại” để uống tách cà phê của anh Qui đâu. Tin thì mình chưa hẳn tin, nhưng nếu nhìn qua các khía cạnh khác có thể giúp chúng ta có yếu tố để tin hắn hay không tin hắn. Thứ hai là xã hội xã hội chủ nghĩa kiệt lực nếu không nói là sắp sụp đổ, biết đâu sự kiện anh em mình ra trại lại là sự đổi chác gì đó với Hoa Kỳ cũng nên. Tôi tin lời hắn, nhưng tin trong mức dè dặt”.

“Tôi cũng có nhận xét tương tự, nhưng thêm một yếu tố nữa. Đó là anh Đàm Quang Yêu mới nhận thư nhà cho biết, dư luận trong Sài Gòn về nguồn tin anh em chúng mình ra về trong ngày gần đây, và sẽ sang Hoa Kỳ mà Mỹ với cộng sản Việt Nam thỏa thuận rồi”.

“Các anh tin thì tin, tôi chẳng tin gì chúng nó cả”.

“Chúng nó là ai mà ông nói? Ở đây chúng mình bàn chuyện giữa Hoa Kỳ với tụi cộng sản Việt Nam, chớ có phải thằng cộng sản nói đâu. Có tin hay hay thì nói ra cùng nghe, còn đúng hay không còn phải chờ chớ có gì đâu mà ông châm chích”.

“Thôi, đừng cãi nhau các anh ơi! Anh em cứ có tin gì cứ nói ra, biết đâu là từ những tin tức đó mà mình tìm ra được cái lý vững vàng, cho dẫu “cái lý vững vàng đó” có lợi hay không có lợi, nhưng ít ra niềm tin của mình cần có lý có lẽ chớ”.

Câu chuyện chưa kết thúc thì Thịnh “khuỳnh” bước vào cổng khuôn viên buồng giam, chúng tôi xoay sang chuyện bánh mứt. Hóa ra hắn vào đây tìm chú Nguyễn Minh Chí -tù chính trị trẻ nhất trong buồng giam số 1- ra dọn sạch sẽ nhà trực trại.

Đầu tháng 05/1987, vợ tôi từ Sài Gòn ra thăm mang theo đồn đoán liên quan đến tin tức làm xôn xao anh em tù chính trị chúng tôi. Thêm nữa, tin tức không chỉ đồn đoán tại Sài Gòn, mà thư các con tôi từ Hoa Kỳ cho biết, trong Cộng Đồng Việt Nam bên đó cũng có dư luận về tin tức này và tin tưởng sẽ là sự thật. Ngoài tin tức sốt dẻo nói trên, lại có tin không vui của vợ tôi. Đó là sự kiện hồi tuần trước, trong khi vợ tôi lên xe lửa tại Sài Gòn bị đám lưu manh giựt cái túi xách tay mà trong đó có một số tiền đáng kể, gồm của vợ tôi và của các chị bạn gởi ra để các anh có tiền về đường, và cái túi quần áo cũng bị giựt. Nói chung là cả áo quần lẫn tiền bạc đều mất hết. Sau khi khai báo với Công An, vợ tôi quay về gom góp trong nhà và mượn của đứa em trai để trả lại các chị và mua sắm ít đồ dùng. Dù bị mất mát khá nhiều, nhưng vợ tôi vẫn cố gắng ra thăm tôi để nói với tôi về việc anh em tù chính trị chúng tôi rất có hy vọng  được ra về.

1      2      3      4      5      6      7      8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét