Đặng Chí Hùng - Quá khứ đã
trôi qua gần 40 năm , tuy nhiên quá khứ đó vẫn là nỗi đau với nhân dân Việt Nam
nói chung và quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng. Vết thương không
thể lành lặn nếu đảng cộng sản vẫn tiếp tục xúc phạm danh dự của quân dân Việt
Nam Cộng Hòa và đàn áp nhân dân Việt Nam. Tôi viết bài này chỉ xin góp một
tiếng nói chân thật của lịch sử nhằm phanh phui tội ác của Lê Duẩn và cộng sản
Việt Nam, để như một nén hương với người đã khuất trong lao tù cộng sản hay tri
ân những ai đã vì tự do mà phải chịu đọa đày trong ngục tù cộng sản.
Như trong “Những sự thật cần phải biết
6”, bài Lê Duẩn: Kẻ đồng mưu với
Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968, tôi đã trình bày với
bạn đọc tội ác của Lê Duẩn trong việc đồng mưu cùng Hồ Chí Minh tàn sát hàng
nghìn người dân Huế vô tội tết mậu thân 68. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin
trình bày về tội ác tiếp theo của Lê Duẩn trong việc trả thù tàn bạo đối với
quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975. Đây là một trong những tội
ác không thể bỏ qua vì nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo
Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế
(The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Trên thực tế , những ai là quân dân, cán chính
Việt Nam cộng hòa sau khi bị bị cộng sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài
ra, gia đình họ bị cộng sản bức hại đi lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý
lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những nỗi thống khổ của những quân dân cán
chính VNCH. Trong khuôn khổ bài viết này, tội ác của Lê Duẩn và đảng cộng sản
đối với quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa trong lao tù của cộng sản.
I. Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ
:
Thứ nhất, ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The
Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô
của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập
cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng: "Ngay sau khi xâm chiếm
VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn -
dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết
lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng thiêng nước độc với khí
hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị
giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy
con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là
7,000,000 năm.”
Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử
của đảng cộng sản cộng sản và những người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng
được được đưa vào cáo trạng mà chúng tôi đang thực hiện nhằm đưa tội ác của Hồ
Chí Minh và đảng cộng sản ra trước ánh sáng công lý.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ
mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và
trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ,
tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị,
bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt
Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có
Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ.
Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang
diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.
Thứ hai, trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14
được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ
như sau tại trang số 6: "Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo
để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người.
Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia
đình , bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là 1.236.569 người".
Qua tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản
nói lên điều gì? Đó là họ đã coi những quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là
những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không phải là tù nhân vì theo như cộng sản
tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương đường lối của “cách mạng”. Nhưng
chính tài liệu của cộng sản đã coi họ là tù nhân.
Ngoài ra con số người mà đảng cộng sản cho
biết chính là con số nói lên thực tế về trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê
Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán chính VNCH.
Thứ ba, theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại
San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như
sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng
tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ
VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng
tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di
tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có 600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500,
bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù
72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và
các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam
Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và
không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.
Như vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền
Nam, cộng với những thống kê những người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì
những con số mà Viện Bảo tàng cũng cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam
thành một địa ngục tù ngục trong chính sách trả thù man rợ của mình đối với
những ai liên quan đến VNCH.
Thứ tư, để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân
dân cán chính VNCH, cũng cần phải nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương
theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem
chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin
xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ" phần 4,10,11,12) và
làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những tư tưởng của Lê Nin đã được Hồ Chí
Minh truyền thụ cho đàn em của mình trong việc trả thù những ai bất đồng chính
kiến, trong trường hợp này là quân dân quán chính VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt
Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ của cộng sản không có gì là điều lạ
lùng . Hãy đọc cuốn “Lê Nin và Xã hội chủ nghĩa" xuất bản
tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết:
"Chiếm được một tỉnh, giải phóng được một
nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau
khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản
động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xã hội, nắm
vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng về”.
Và cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê
Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn này gồm những tên đầu đường
xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số
một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam
giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng
cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).
Qua đây chúng ta có thể thấy, việc cộng sản
Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính
Việt Nam cộng hòa cũng là điều hết sức thường tình đối với bản chất của cộng
sản.
Thứ năm, trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của
tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên
đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật
không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn
sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các
đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch
đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 202 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có
nội dung trích như sau: “Sau ngày 30/4/1975, tư tưởng của Mác, Lê Nin
đã hoàn toàn làm chủ cả Việt Nam. Hàng triệu người theo chế độ cũ do người Mỹ
giúp đỡ đã phải vào tù theo lệnh cải tạo của nhà nước Việt Nam”.
Cuốn sách này cho thấy người cộng sản Pháp đã
phải công nhận có hàng triệu người quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa bị cộng
sản đẩy vào tù để phục vụ cho mục đích trả thù những ai không theo cộng sản độc
tài.
II. Trả thù man rợ :
Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản
Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt những người là quân dân cán chính đi cải
tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô
thân. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng
phải vượt biên... Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven
biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh
VNCH thì bị đẩy ra lề đường.
Để nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng
sản đã phải thừa nhận sự thật này . Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần
Vietnamnet: "Anh tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy,
Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính
chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em
thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần
quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc của gia đình anh Vò chủ yếu làm ruộng,
và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá thường xuyên của anh là lấy đất thải san
ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả bom mìn còn sót lại trong vùng đem bán.
Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo
: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).
Còn đối với những người bị giam trong tù thì
ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân
cán chính Việt Nam cộng hòa như thế nào.
Trên thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng
hòa được thông báo: "Công chức trung ương từ Chánh sở, địa phương
từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở
lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình báo ra trình diện học tập tại
trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng”.
Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội
vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt
ba năm… do Công an quản lý, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn
này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều
người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh
Hóa, Hà Nam Ninh…
Những người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ
vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa
ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều
người chết bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy,
những người quá trình nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về
trong vòng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an
ninh tình báo thường là được về sau 5 hay 6 năm... Trong thời gian đó, cộng sản
hành hạ quân dân cán chính VNCH hết sức tàn tệ:
Thứ nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về
một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này.
Nhưng cộng sản đã nghĩ ra một giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của
Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt
Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm
hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách
mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi
ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não,
hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên
tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác
trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ
phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng
rùng mình.
“Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được
sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả
những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn
hận!”,
(Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.).
Người tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói
khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính
sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều
về sự hành xác này.
“Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn
miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi
ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh
buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối,
không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da
khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300
gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ
trang 378- 379.).
Thứ hai, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong
những người đã chứng kiến cảnh tượng đó. Và ông đã mô tả chân thực cuộc sống
của nhà tù cộng sản giành cho quân dân cán chính VNCH. Chật chội, ngột ngạt hơi
người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm.
Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ
chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào
trên mặt đất…
“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như
không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy.
Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ,
lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu
nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi
ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi
như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của
tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan cho. Trong thời gian
kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi
cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Ðầu Địa
Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ.).
Và cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều
quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng
trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt
những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc
nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ
hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”,
(Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.).
Cùng đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:
“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các
hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng
theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới
để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn
đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm
răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp
nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được
“cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.)
Thứ ba, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của
Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính
VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô
tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy”
vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai
tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo
đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt
nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới
chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116).
Tác giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả
tình trạng thiếu thuốc men và y tế của cộng sản đối xử với quân dân cán chính
VNCH: "Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục,
chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba
ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong
manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...”, (Đại Học
Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).
Thứ tư, cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi
tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù
cộng sản mà trong khuôn khổ bài này tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số
điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản chất tàn bạo của cộng sản.
Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao
cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53
trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học
Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án
Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin
Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù cải tạo
(1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng
là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ
Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng
Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính
trị được phổ biến rộng rãi có viết:
"Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn
khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an
gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa
đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4
chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi
xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những
người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần
nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng
lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà
nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương
sườn và chốc lở sương vai.Sức người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày
môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè,
lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy
xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc
anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời
gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc,
không gây sợ hãi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm
như chờ đợi một sự giải thoát”.
(Links:
Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên
giam “ nổi tiếng của mình thì viết: "Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi
tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu .
Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến
bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ
có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu
được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân
xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7
ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay
bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải
nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiện - Trại
Tù Kiên Giam, trang 35).
Hoặc: “Hai chân tôi bị còng chéo để
bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và
thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không
thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào
sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc
cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một
vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng
phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm
danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí Thiện, tr 473).
Thứ năm, trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ
chính những người bị cộng sản trả thù man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về
điều này? Xin giới thiệu cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của
nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã được giải mật
năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải biết” phần
5) cho biết tại trang 75 như sau: "Những hình phạt của đảng cộng
sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn đã cho thấy những người anh em
của chúng ta đã không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng...”.
Cuốn sách này còn nói thêm tại trang 82: "Trong
một điều kiện khó khăn và kỷ luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam
thống nhất đã thanh lọc rất tốt tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.
Như vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã
chỉ rõ cộng sản Việt Nam học tập phương pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng
loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản
chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng sản Việt Nam áp dụng đối với quân
dân cán chính VNCH.
III. Lê Duẩn là đầu xỏ :
Việc trả thù quân dân cán chính VNCH do chủ
trương của đảng cộng sản gây ra. Những người trực tiếp thực hiện đó là Võ Văn
Kiệt, Trần Văn Trà, Cao Đăng Chiếm… Nhưng chủ trương và phương án này chính là
do Lê Duẩn cầm đầu.
Thứ nhất, Lê Duẩn chính là một người tuy thích
thân Liên Xô hơn Tầu nhưng Duẩn cũng học tập chính sách của Hồ Chí Minh trong
cải cách ruộng đất. Và chính đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận điều
này: "Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là “người học trò xuất sắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, người cống hiến trọn đời cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội…” (Trích: Thông
cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 11/7/1986).
Và tại thời điểm sau năm 1975, Duẩn với cương
vị đứng đầu của nhà nước cũng như đảng cộng sản (Lúc đó có tên là đảng lao
động) chính là kẻ đã chỉ đạo và quyết định việc đối xử tàn tệ với quân dân cán
chính VNCH.Là kẻ đứng đầu đảng và nhà nước, đương nhiên Duẩn biết điều này và
không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai: "Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt
Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư
thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình
hình, gồm cả tình hình kinh tế.”
Và: "Năm 1960, tại Đại hội lần
thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại và Ban Chấp hành Trung ương vào Bộ
Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.Tại Đại hội
lần thứ IV Đảng (năm 1976) và lần thứ V của Đảng (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn
tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng".(Trích bài phát biểu của Nông
Đức Mạnh: Báo Điện tử đảng cộng sản Việt Nam 6/4/2007 )
Thứ hai, trong cuốn “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có
viết: "Sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua
gần nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại, kết tinh cả truyền thống chiến đấu và tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ý
chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm đường lạc lối theo Mỹ - Ngụy đã được
lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xã hội mới..”.
Bỏ qua những từ ngữ huyênh hoang quen thuộc
của cộng sản để tự lăng xê chính mình. Bỏ qua những mỹ từ “Cải tạo, lao động”
thì chúng ta thấy Lê Duẩn đã rất tâm đắc với chủ trương của mình trong việc
hành hạ những người là quân dân cán chính VNCH.
Thứ ba, cũng vẫn cuốn sách: “365 ngày ở Việt
Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam
đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại trang 83: "Đồng Chí Tổng
bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đã
tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật
hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính chế độ Sài Gòn đã được chính
đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.
Qua đây có thể thấy, đảng cộng sản mà đứng đầu
là Lê Duẩn đã vạch ra kế hoạch “hà khắc” đối với quân dân cán chính Việt Nam
cộng hòa. Những hành động đầy tội ác mà tôi đã nêu ra ở phần hai chính là do Lê
Duẩn – một đồ tể tay chân của Hồ Chí Minh gây ra.
Thứ tư, ngày 1-11-1978, Lê
Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa
để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ
liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6 của hiệp ước
này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những
biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho Việt Nam.
Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho
Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm
chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình
Dương. Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hính quan hệ với Trung
cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo: “Cơ bản tình hình trong nước
chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để cho
ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời
đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng bố…”(
Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang
422”).
Vậy không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng
sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao tù khắc nghiệt.
IV. Kết Luận :
Qua những hành động trả thù man rợ quân dân
cán chính Việt Nam cộng hòa của cộng sản nói chung và Lê Duẩn nói riêng cho
thấy bản chất của cộng sản là không thay đổi qua các thê hệ từ sau Hồ Chí Minh.
Tội ác đó vi phạm công ước về tù binh chiến tranh cũng như luật nhân đạo. Sau
nhiều chục năm bị bưng bít bởi chế độ cộng sản toàn trị, đã đến lúc chúng ta
cần cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ thấy được bản chất tàn bạo của cộng
sản.
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân
tộc, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại rơi vào thảm cảnh như ngày hôm nay do
bàn tay độc ác của cộng sản. Chúng ta cần phải đoàn kết lại để lên án và lật đổ
chế độ bán nước hại dân cộng sản Việt Nam. Xin trả lại sự thật lịch sử và danh
dự cho những người quân dân cán chính VNCH để tôn vinh họ - Những người anh
hùng không chịu khuất phục lao tù cộng sản.
6/6/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét