Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
(Để kính dâng anh hồn
đồng đội tôi đã nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon)
Ngựa đang sải vó lưng
đồi
Súng gươm bỏ lại cuộc
chơi nửa chừng
Một thời ngang dọc
kiêu hùng
Tháng tư gảy súng thấm
từng nổi đau…
*
Ta đứng bên nầy, trông
núi sông
Một trời thương nhớ ở
phương đông
Đường hoa theo dấu
chân luân lạc
Một gánh giang san
khóc hộ chồng
Một ngày tan nát bao
thân phận
Nửa kiếp lưu vong tối
mặt mày
Cũng thử đưa cay bằng
chiến trận
Ói toàn uất hận lúc
xuôi tay
Bạn bè còn lại bao
nhiêu đứa
Đứa còn, đứa mất chẳng
ai hay
Chí lớn cùng đường,
tài bỏ xó
Anh hùng bạt mạng, vợ
con lo
Nhớ quê chửi nát mồ ma
đỏ
Một nắm xương khô đẫm
máu đào
Nhìn nhau bổng thấy
quê hương củ
Nghìn trùng rực rở núi
sông xưa
Vết đau ngày tháng còn
mưng mủ
Giọt lệ bên đường mặc
gió mưa
Ví thử xuân xanh còn
rực lửa
Cũng đành dâng hiến
trọn non sông
Và em, sẻ một đời tựa
cửa
Nhìn qua lục địa để
ngóng trông.
Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn
2 Pháo Binh Nhảy Dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái
trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được
chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20
người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh
và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp.
Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp
tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì tình thế sôi động có thể hành quân bất
cứ lúc nào, không còn sĩ quan huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện
cho pháo đội. Một tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về
Saigon bảo vệ thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội
Dù tác chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho
thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi
chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản
nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng
bắn đã sẵn sàng một vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và
Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải
ra vào làm nhiệm vụ nên xin giử chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ,
thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: “Trung úy định tử thủ”. Tôi trả lời không
vào câu hỏi: ” Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải
đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn
sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ.”
Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi
thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội
để bảo vệ Thủ đô sẻ do những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề có vài ngày
như thế này bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm
còn lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ
chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới
về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cãm thấy có bổn phận của một
người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại đơn vị đúng ngày
giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trể thì đừng trách. Đòn tâm lý có hiệu
quả, không có một người nào trể phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả
trăm tay súng sẳn sàng sống chết với mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước
ngực hay không tôi không rỏ, chứ biết rỏ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần
trưa ngoài cổng có một người xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân
Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám
về trình diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo
đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới
thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm, vì một
khi đụng lớn có thể không tiếp tế được. Người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc nào
cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt Động Quân Biên
Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi
báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có
gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi vì tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng
đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập,
cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền tin.
Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một địa điểm tìm đơn vị
bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của
nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe
tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không thấy
rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người còn
súng, có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn
vào, còn các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả
dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em còn súng và thất lạc đơn vị
này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng lòng, nhưng tình
thế hết sức phức tạp hiện nay nên không tiện yêu cầu điều này. Đến xế trưa, một
chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin tức rồi lại
bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy Trần Văn
Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc trực
thăng khác bay từ biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ
đang di tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn
về phía Saigon lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa lòng Thủ đô, cuộc
đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân
quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn
còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học
vẫn còn đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi
tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến
tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức tử.
Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào Saigon đã bị
phong kín, cơn hấp hối này sẻ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu còn sống
sau chinh chiến, hay sẻ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Dòng suy nghỉ miên man
đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu dấu của tôi đang
ở cách tôi chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức
như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng,
con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia cầm súng đang bảo
vệ Thủ đô đã chọn cho mình một số phận, hiên ngang đi nốt con đường khổ nạn của
dân tộc, nếu anh có bề gì thì ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù,
chết để bảo vệ thủ đô.
Những tràng súng lẻ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài
trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần, cả
Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng chuyện
này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử. Có nhiều điều đã
báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn ngoại
giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay qua
Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và Trung cộng
thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký thông cáo chung bao giờ cũng phải
có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào
tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất
động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó,
chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẻ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi
có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ Thủ đô và
đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao
giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đã đến..
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển
122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u
ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng
Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại
bàng bị tiển thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm
quân đội khét mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới
có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10 giờ
sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội B của Tiểu đoàn
tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về Tiểu
đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng địch, 6
khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đã tác xạ, khói
bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẳn
sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói, một lúc sau
Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc
này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà Điểm và nhiều
nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, còn Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh. Những chiếc trực
thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại sứ cùng với
những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ.
Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh “check fire”
(ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn “Hướng bắn của
tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn
không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi”. Thiếu Tá Việt bảo “Đợi”. Tôi
buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ mặt
phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire, tiện
thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn vị
phòng thủ Saigon. Tôi nhìn vào xạ bảng, những điểm cận phòng mà tôi đã chấm
chung quanh Dinh Độc Lập, đã làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước
mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội tôi
đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng,
không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một
lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn
lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực
thăng nói tại tụi nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung
Úy, ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng
Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim
mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc
bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ
nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ
nhìn ra ngoài, các đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại
bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục tục rời vị
trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi ngang qua
chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc
chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ
Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng, 21 năm nay, Việt cộng đâu có
làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một
quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên,
một mình quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản
tế hung hản, đánh tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của
giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về
thăm gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước
ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền
này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh.
Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc
đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan
hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng
Hoa Thám để chào tạm biệt, rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo đội,
quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng
chào trình diện quân số, đợi lệnh”.
Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào
kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật
nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh
cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu
vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn
chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm,
những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh
cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em
nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc
này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh,
sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh
em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống”. Sau đó tôi cho pháo
đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng hàng trên
ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi
tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại
hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập
mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà,
pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng
sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột
đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm.
Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở
vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận,
xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng
bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức
sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê
hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm
uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay
lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nửa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng
tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước,
nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố gắng
để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người
lính nguyên thủy.
Hơn ba mươi năm qua, mổi năm đến ngày này, tôi lại khóc, không
phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, vì những người
lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng
mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì không giữ được nước, vì cuộc
chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là
con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính
quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay bị thống khổ dưới gông
cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của mình, vì một khi vào
quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản
thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử.
Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh
buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm nhận
lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so
với lính cộng hòa, nếu tiếp tục cuộc chiến thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ đời
đời “sinh Bắc tử Nam”. Cộng sản Bắc việt đã vét hết thanh niên miền bắc đưa vào
nam, chết nhiều quá không còn người nửa, thì bắt cả trẻ em đi lính .Tấm ảnh
ngàn lời nói dưới đây là tù binh lính nhí Bắc Việt bị bắt trên đường mòn Hồ Chí
Minh năm 1968, cũng như vô số lính trẻ em Bắc Việt bị bắt trong trận Mậu Thân.
Người đọc phài công bình nhận xét, miền nam không bao giờ làm điều bất nhân ép
buộc trẻ em đi lính cả .
Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ
sơ giải mật cho thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu
giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên
Xô, và đã thành công, cộng sản quốc tế bị tan rả sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989
và khối cộng sản Đông Âu cũng tan rã theo sau đó. Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng
sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nữa vì
Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó,
và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cản
Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng,
Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, và kết quả đúng như bàn
cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị
tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này.
Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam
hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào
nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li
khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội
đã hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì
cũng phải nghe, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có
dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy
múa trước mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng
đội tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng,
không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một
lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn
lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực
thăng nói tại tụi nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung
Úy, ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng
Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim
mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc
bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ
nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ
nhìn ra ngoài, các đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại
bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục tục rời vị
trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi ngang qua
chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc
chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ
Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng, 21 năm nay, Việt cộng đâu có
làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một
quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên,
một mình quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản
tế hung hản, đánh tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của
giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về
thăm gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần
bước ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền
này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh.
Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc
đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan
hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng
Hoa Thám để chào tạm biệt, rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo đội,
quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng
chào trình diện quân số, đợi lệnh”.
Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào
kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật
nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh
cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu
vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn
chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm,
những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh
cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em
nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc
này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh,
sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh
em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống”. Sau đó tôi cho pháo
đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng hàng trên
ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi
tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại
hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập
mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà,
pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng
sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột
đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm.
Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở
vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận,
xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng
bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức
sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê
hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm
uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay
lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nửa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng
tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước,
nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố gắng
để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người
lính nguyên thủy.
Hơn ba mươi năm qua, mổi năm đến ngày này, tôi lại khóc, không
phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, vì những người
lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng
mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì không giữ được nước, vì cuộc
chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là
con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính
quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay bị thống khổ dưới gông
cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của mình, vì một khi vào
quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản
thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử.
Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh
buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm nhận
lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so
với lính cộng hòa, nếu tiếp tục cuộc chiến thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ đời
đời “sinh Bắc tử Nam”. Cộng sản Bắc việt đã vét hết thanh niên miền bắc đưa vào
nam, chết nhiều quá không còn người nửa, thì bắt cả trẻ em đi lính .Tấm ảnh
ngàn lời nói dưới đây là tù binh lính nhí Bắc Việt bị bắt trên đường mòn Hồ Chí
Minh năm 1968, cũng như vô số lính trẻ em Bắc Việt bị bắt trong trận Mậu Thân.
Người đọc phài công bình nhận xét, miền nam không bao giờ làm điều bất nhân ép
buộc trẻ em đi lính cả.
Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ
sơ giải mật cho thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu
giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên
Xô, và đã thành công, cộng sản quốc tế bị tan rả sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989
và khối cộng sản Đông Âu cũng tan rã theo sau đó. Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng
sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nữa vì
Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó,
và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cản
Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng,
Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon , và kết quả đúng như bàn
cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị
tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này.
Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam
hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào
nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li
khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội
đã hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì
cũng phải nghe, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có
dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét