CHƯƠNG 4: XÂY DỰNG MỘT CHÍNH PHỦ QUỐC GIA
“Mỗi người dân thường, và tất cả mọi người trên trái đất này, đều
có quyền tự trị".
Thomas Jefferson, 1790 - Người soạn thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập
HIẾN PHÁP CỦA CÁC TIỂU BANG
Thành công của cuộc cách mạng đã đem lại cho
người Mỹ cơ hội xây dựng khung pháp lý cho những lý tưởng của họ như đã được
trình bày trong bản Tuyên ngôn Độc lập, đồng thời khắc phục mọi nỗi oan Đức
thông qua các bản hiến pháp của tiểu bang. Ngày 10/5/1776, Đại hội Lục địa đã
thông qua một nghị quyết kêu gọi các thuộc địa thành lập các chính phủ mới đảm
bảo tốt nhất việc mưu cầu hạnh phúc và an toàn cho tất cả mọi cử tri. Một số
chính phủ đã làm được như vậy, và trong vòng một năm sau khi Tuyên ngôn Độc lập
ra đời, tất cả ngoại trừ ba tiểu bang, đã soạn thảo xong hiến pháp.
Các bản hiến pháp mới đã thể hiện ảnh hưởng
của các tư tưởng dân chủ. Không có bản hiến pháp nào đoạn tuyệt thô bạo với quá
khứ cả vì tất cả các bản hiến pháp đó đều được xây dựng trên một nền tảng vững
chắc của những trải nghiệm qua thời kỳ thuộc địa và thực tiễn cuộc sống ở nước
Anh. Nhưng mỗi bản hiến pháp đều được thổi thêm luồng sinh khí mới của tinh
thần chủ nghĩa cộng hòa - một lý tưởng vốn từ lâu đã được các triết gia thời kỳ
Khai sáng ca ngợi.
Theo lẽ tự nhiên, mục tiêu đầu tiên của những
người khởi thảo những bản hiến pháp bang là bảo vệ những quyền tất yếu bởi việc
vi phạm những quyền đó là nguyên nhân khiến các thuộc địa cũ đoạt tuyệt với
nước Anh. Như vậy, mỗi bản hiến pháp đều bắt đầu bằng một tuyên ngôn về quyền.
Bản hiến pháp của bang Virginia vốn được coi là mẫu mực cho tất cả các bang
khác bao gồm bản tuyên ngôn về các nguyên tắc như chủ quyền nhân dân, giữ chức
luân phiên, tự do bầu cử và xác định những quyền tự do căn bản: bảo lãnh có mức
độ và trừng phạt mang tính nhân đạo, xử án nhanh thông qua bồi thẩm đoàn, tự do
báo chí và tự do tín ngưỡng, và quyền của đa số được cải cách hay thay đổi
chính phủ.
Các bang khác đã mở rộng danh mục các quyền tự
do để bổ sung thêm quyền tự do ngôn luận, hội họp và thỉnh nguyện. Các bản hiến
pháp của họ thường có những quy định như quyền được mang vũ khí, quyền bảo hộ
nhân thân, quyền bất khả xâm phạm nơi cư trú và bình đẳng trước pháp luật. Tuy
nhiên, tất cả các bản hiến pháp đều bày tỏ sự trung thành với mô hình tam quyền
phân lập - hành pháp, lập pháp và tư pháp - mỗi cơ quan đều được hai cơ quan
còn lại kiểm soát và cân bằng.
Hiến pháp bang Pennsylvania là cấp tiến nhất.
Ở tiểu bang này, các nghệ nhân Philadelphia, tín đồ Tin Lành đến từ Bắc Ai-len
sinh sống ở biên giới và các chủ trang trại nói tiếng Đức đã nắm vai trò kiểm
soát. Hội đồng lập pháp địa phương thông qua hiến pháp cho phép mọi người đóng
thuế là nam giới và các con trai của mình có quyền bầu cử; yêu cầu các chức vụ
phải được đảm nhiệm theo chế độ luân phiên (không ai có thể được làm đại diện
quá bốn năm trong mỗi nhiệm kỳ bảy năm) và xây dựng cơ quan lập pháp đơn nhất.
Các bản hiến pháp bang có một số hạn chế rõ
ràng, đặc biệt nếu xét theo tiêu chí hiện nay. Các hiến pháp được khởi thảo để
đảm bảo cho mọi người những quyền tự nhiên của họ nhưng lại không bảo vệ được
cho tất cả mọi người quyền tự nhiên căn bản nhất - bình đẳng. Các thuộc địa ở
phía nam bang Pennsylvania đã tước đi của những người dân nô lệ các quyền tất
yếu với tư cách là những con người. Phụ nữ không có các quyền chính trị. Không
bang nào đi xa tới mức cho phép quyền phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới.
Thậm chí ngay cả ở những bang cho phép tất cả những người đóng thuế được đi bầu
cử (ngoài bang Pennsylvania còn có các bang Delaware, Bắc Carolina và Georgia),
thì những người giữ chức vụ trong chính quyền bắt buộc phải có một lượng tài
sản nhất định.
CÁC ĐIỀU KHOẢN CÚA LIÊN BANG
Trận chiến với nước Anh đã làm được nhiều điều
khiến thái độ của thuộc địa thay đổi. Các hội đồng lập pháp địa phương đã bác
bỏ Kế hoạch Liên minh Albany vào năm 1754, kiên quyết không trao quyền tự trị,
dù là nhỏ nhất, cho bất cứ ai khác, kể cả những người mà chính họ đã bầu ra.
Nhưng trong suốt quá trình diễn ra cách mạng, sự tương trợ lẫn nhau đã chứng
minh có hiệu quả, đồng thời nỗi lo sợ về việc loại bỏ quyền lực cá nhân đã giảm
đi rất nhiều.
Năm 1776, John Dickinson đã soạn thảo Những
điều khoản của Liên bang và Liên minh vĩnh cửu. ại hội Lục địa đã thông qua các
điều khoản này vào tháng 11/1777. Ngay sau khi được tất cả các bang phê chuẩn,
các điều khoản trên đã có hiệu lực vào năm 1781. Do thể hiện tính chất rất mong
manh của tư tưởng lập quốc mới còn chập chững, các điều khoản này đã quy định
thành lập một liên minh rất lỏng lẻo. Chính phủ quốc gia không có quyền áp thuế
quan, điều tiết thương mại và đánh thuế. Đồng thời, chính quyền liên bang kiểm
soát rất ít về quan hệ quốc tế: một số các bang đã bắt đầu đàm phán với nước
ngoài. Chín bang đã tổ chức quân đội riêng, và một số đã có hải quân riêng. Do
thiếu một đồng tiền chung thống nhất nên trong lĩnh vực thương mại, quốc gia
mới phải sử dụng kết hợp đủ loại tiền xu và tiền giấy phức tạp do chính họ và
các tiểu bang phát hành. Tuy vậy, tất cả các đồng tiền đều nhanh chóng mất giá.
Những khó khăn kinh tế sau chiến tranh đã
gióng lên những hồi chuông đòi thay đổi. Cuộc chiến kết thúc đã để lại hậu quả
nghiêm trọng đối với các lái buôn trước đây đã tham gia cung cấp cho quân đội ở
cả hai phe và giờ đây, họ đã mất đi những lợi thế có được từ việc tham gia vào
hệ thống mậu dịch nước Anh. Các tiểu bang ưu tiên cho hàng hóa Mỹ trong các
chính sách thuế quan, nhưng các biểu thuế quan lại không nhất quán. Chính điều
đó đã thôi thúc cần phải có một chính phủ trung ương mạnh hơn để thực thi một
chính sách thống nhất.
Có lẽ các chủ trại bị thiệt thòi nhiều nhất do
những khó khăn kinh tế sau cuộc cách mạng. Nguồn cung cấp nông sản đã vượt cầu.
Tình trạng bất ổn tập trung chủ yếu ở những chủ trại đang mắc nợ. Họ mong muốn
có những biện pháp mạnh để tránh việc tịch thu tài sản hoặc tống giam vì mắc
nợ. Các tòa án nhận được quá nhiều đơn kiện đòi nợ. Suốt mùa hè năm 1786, các
hội nghị của tòa thị chính và các cuộc họp không chính thức ở một số bang đã
yêu cầu cải cách trong các cơ quan hành chính bang.
Mùa thu năm đó, những đám đông lộn xộn gồm các
chủ trại ở bang Massachusetts dưới sự lãnh đạo của cựu đại úy Daniel Shays đã
bắt đầu dùng vũ lực ngăn cản không cho các tòa án giải quyết các vụ kiện về nợ
do chủ nợ khởi xướng, đồng thời trì hoãn cuộc bầu cử ở tiểu bang sắp đến. Tháng
1/1787, một đội quân rách rưới gồm 1.200 chủ trại đã tiến về kho vũ khí của
Liên bang ở Springfield. Quân nổi dậy được trang bị bằng phần lớn các thanh gỗ
đóng thùng rượu và cây xỉa rơm đã bị một lực lượng nhỏ dân quân bang đẩy lui.
Tướng Benjamin Lincoln sau đó đã đến cùng lực lượng tăng viện từ Boston và đánh
tan tác những người còn lại đi theo Shays, chính ông cựu đại úy này đã chạy
thoát về Vermont. Chính phủ đã bắt 14 người nổi loạn và xử tử hình, nhưng cuối
cùng đã tha bổng cho một số và thả những người khác sau một thời hạn tù ngắn
ngủi. Sau khi đánh bại quân nổi loạn, một cơ quan lập pháp mới được bầu mà phần
lớn số người ủng hộ những người nổi loạn và đã chấp nhận một số yêu cầu giảm
nhẹ nợ cho họ.
VẤN ĐỀ MỞ RỘNG LÃNH THỔ
Cùng với sự kết thúc của cuộc cách mạng, Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ lại phải đối mặt với vấn đề miền Tây vẫn chưa được giải quyết
- vấn đề mở rộng lãnh thổ với những mặt phức tạp về đất đai, buôn bán lông thú,
người da đỏ, khu định cư và chính quyền địa phương. Bị quyến rũ bởi đất đai vô
cùng màu mỡ mới được phát hiện, những người tiên phong đã vượt qua dãy núi
Appalachian và tiến tới xa hơn nữa. Cho đến năm 1775, những triền đồi xa xôi
nằm rải rác dọc theo những tuyến đường sông có đến hàng chục nghìn người định
cư. Bị chia cách bởi những dãy núi và hàng trăm cây số xa những trung tâm quyền
lực chính trị ở miền Đông, cư dân ở đó đã thành lập các chính quyền của riêng
mình. Cư dân từ tất cả các bang vùng Tidewater đã dồn về các thung lũng sông
màu mỡ có những thảo nguyên bao la nằm sâu trong lục địa. Tới năm 1790, dân số
của vùng Appalachian đã lên tới hơn 120.000 người.
Trước chiến tranh, một số thuộc địa đã đưa ra
những tuyên bố khẳng định phần đất sở hữu của họ thật lớn và nhiều khi chồng
chéo vượt khỏi dãy Appalachian. Đối với những người không có những yêu sách như
thế thì chiến lợi phẩm về lãnh thổ giàu có này dường như được chia phần không
công bằng. Đứng về phía những người đó, bang Maryland đã đưa ra một quyết nghị
khẳng định các vùng đất miền Tây phải được coi là tài sản chung do Đại hội Lục
địa phân chia thành những chính quyền tự do và độc lập. ý tưởng này không được
đón nhận một cách hồ hởi. Tuy vậy, vào năm 1780 bang New York đã tiên phong
bằng cách nhường lại tất cả phần đất mà họ khẳng định thuộc quyền sở hữu. Năm
1784 bang Virginia vốn nắm giữ những quyền sở hữu lớn nhất đã từ bỏ toàn bộ đất
đai ở phía bắc sông Ohio. Các bang khác cũng đã nhượng lại những vùng đất họ
khẳng định thuộc quyền sở hữu. Đại hội có thể sẽ thừa hưởng quyền sở hữu tất cả
mọi đất đai ở phía bắc sông Ohio và phía Tây dãy núi Allegheny. Việc sở hữu
chung hàng triệu héc - ta đất chung như vậy là một bằng chứng hiển nhiên nhất
về tính chất quốc gia và tính thống nhất, và điều đó đã đem lại nội dung nhất
định cho tư tưởng thống nhất và hợp nhất thành quốc gia, đồng thời những phần
lãnh thổ rộng lớn này cũng là một khó khăn đòi hỏi phải được giải quyết.
Đại hội Liên bang đã xây dựng một hệ thống tự
trị hạn chế cho vùng lãnh thổ Tây Bắc mới đó. Sắc lệnh Tây Bắc năm 1787 đã quy
định về bộ máy tổ chức mới này. Lúc đầu, đây được coi là một quận với người
đứng đầu là thống sứ cùng các thẩm phán do Đại hội bổ nhiệm. Khi lãnh thổ này
có đến 5.000 cư dân nam giới tự do nằm trong độ tuổi bầu cử thì sẽ được có
quyền lập Quốc hội lưỡng viện, và chính khu vực này sẽ tự bầu ra Hạ viện. Ngoài
ra, khu vực này còn được cử một đại biểu không có quyền bỏ phiếu tới Đại hội.
Cứ khi nào một trong số các bang có tới 60.000 cư dân tự do thì sẽ được gia
nhập Liên bang có vị thế bình đẳng với các bang sáng lập trên mọi phương diện.
Sắc lệnh cũng đảm bảo các quyền dân sự và các quyền tự do, khuyến khích giáo
dục và nghiêm cấm chế độ nô lệ hay các thức nô lệ cưỡng bức khác.
Chính sách mới đã bác bỏ quan niệm vốn có từ
lâu đời cho rằng các thuộc địa tồn tại vì lợi ích của mẫu quốc và lệ thuộc về
chính trị, có địa vị thấp kém về xã hội. Trái lại, chính sách mới đề ra nguyên
tắc các thuộc địa (lãnh thổ) là phần mở rộng của quốc gia và được phép - không
phải là đặc quyền và chỉ là quyền - được hưởng tất cả mọi lợi ích của bình
đẳng.
HỘI NGHỊ LẬP HIẾN
Đến thời điểm Sắc lệnh Tây Bắc được ban hành,
các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn đang trong quá trình soạn thảo bản hiến pháp mới, mạnh
mẽ hơn để thay thế cho các điều khoản Liên bang. George Washington, tổng công
trình sư trong quá trình đó, đã mô tả rất chính xác rằng các tiểu bang hợp lại
với nhau chỉ bằng sợi dây cát. Những tranh chấp giữa bang Maryland và bang
Virginia về tuyến đường thủy trên sông Potomac đã dẫn tới việc tổ chức hội nghị
đại biểu của năm tiểu bang tại Annapolis, bang Maryland năm 1786. Một trong số
các đại biểu là Alexander Hamilton đã thuyết phục các đồng nghiệp của ông rằng
thương mại có quan hệ mật thiết với các vấn đề kinh tế và chính trị. Do vậy,
điều cần làm là phải có một tư duy mới căn bản về Liên bang.
Hội nghị Annapolis đã ra lời kêu gọi tất cả
các tiểu bang cử đại diện tới dự Đại hội sẽ được tổ chức vào mùa xuân năm sau
tại Philadelphia. ại hội Lục địa lúc đầu phẫn nộ trước bước đi táo bạo này,
nhưng sau đó đã chấp thuận khi George Washington ủng hộ phương án này và được
cử làm đại biểu. Trong suốt mùa thu và mùa đông năm sau, các cuộc bầu cử đã
được tổ chức ở tất cả các bang, trừ bang Rhode Island.
Tháng 5/1787 đã diễn ra một cuộc họp quan
trọng của những người xuất chúng tại Đại hội Liên bang. Các cơ quan lập pháp
bang đã cử các nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm từ chính quyền thuộc địa và
bang, Đại hội Lục địa, quân đội và tôn giáo. George Washington vốn được coi là
công dân xuất sắc của đất nước vì tính liêm chính và tài thao lược của ông
trong thời cách mạng đã được chọn làm chủ tịch.
Trong số các thành viên tích cực nhất có hai
người đến từ bang Pennsylvania: Gouverneur Morris - người đã thấy cần phải có
một chính quyền liên bang, và James Wilson - người đã lao động không mệt mỏi vì
tư tưởng quốc gia. Bang Pennsylvania cũng đã bầu Benjamin Franklin khi ông sắp
kết thúc sự nghiệp phi thường phụng sự nhân dân và đạt những thành tựu khoa học
rực rỡ. Từ bang Virginia còn có James Madison, một chính khách trẻ tuổi có suy
nghĩ thực tế, một người am tường chính trị và lịch sử. Theo lời của một người
đồng sự thì xét từ góc độ siêng năng và đầu óc thực tế thì... đây là một người
am hiểu tường tận nhất về bất kỳ một điểm tranh luận nào. Madison được công
nhận là cha đẻ của Hiến pháp.
Bang Masachusetts cử hai đại diện tới là Rufus
King và Elbridge Gerry, những thanh niên đầy năng lực và kinh nghiệm. Roger
Sherman, từ anh thợ đóng giày trở thành thẩm phán, là một trong số các đại biểu
của bang Connecticut. Đại diện cho bang New York có Alexander Hamilton, người
đã đề xuất tổ chức hội nghị. Vắng mặt tại hội nghị có Thomas Jefferson - khi đó
ông là công sứ đại diện cho Hoa Kỳ tại Pháp, và John Adams - đang nắm giữ chức
vụ như Jefferson ở nước Anh. Trong số 55 đại biểu thì thanh niên chiếm đa số
với độ tuổi trung bình là 42.
Đại hội Lục địa đã ủy quyền cho Hội nghị thảo
các điều sửa đổi những Điều khoản Liên bang, nhưng, như Madison đã viết sau
này, các đại biểu với niềm tin mạnh mẽ vào đất nước của họ đã gác các điều
khoản sang một bên và tập trung xây dựng một hình thức chính quyền hoàn toàn
mới.
Họ đã nhận thấy điều vô cùng cần thiết là hài
hòa hai cấp chính quyền khác nhau - chính quyền địa phương hiện có của 13 bang
bán độc lập, và chính quyền trung ương. Họ đã thông qua nguyên tắc khẳng định
tất cả mọi chức năng và quyền lực của chính phủ thống nhất - hoàn toàn mới và
mang tính cởi mở - phải được xác định và công khai cẩn thận trong khi tất cả
những chức năng và các quyền lực khác cần phải được hiểu là thuộc về các bang.
Nhưng do hiểu rõ chính phủ trung ương cần phải có quyền lực thực tế nên các đại
biểu cũng nhất trí là chính phủ đó phải được trao quyền - đúc tiền, quản lý
thương mại, tuyên bố chiến tranh và thiết lập hòa bình cùng những quyền khác.
TRANH LUẬN VÀ THỎA HIỆP
Các chính khách nhìn xa trông rộng của thế kỷ
XVIII từng nhóm họp ở Philadelphia là những người trung thành với khái niệm cân
bằng quyền lực trong chính trị của Montesquieu. Nguyên tắc này đã được củng cố
thêm nhờ thực tiễn diễn ra ở thời kỳ thuộc địa và qua những tác phẩm của John
Locke đã trở nên quen thuộc đối với hầu hết các đại biểu dự hội nghị. Những ảnh
hưởng như vậy đã củng cố niềm tin vững chắc rằng cần phải thiết lập ba nhánh
chính quyền ngang bằng và tương hỗ lẫn nhau. Các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp phải được cân bằng một cách hài hòa sao cho không một cơ quan nào lại
có thể giành được thế áp đảo. Các đại biểu cũng nhất trí cơ quan lập pháp,
tương tự như các cơ quan lập pháp thuộc địa và Nghị viện Anh, phải là lưỡng
viện.
Trong hội nghị đã có sự nhất trí cao về những
điểm này. Nhưng cũng có những ý kiến khác nhau nảy sinh. Các đại biểu của các
bang nhỏ, như New Jersey chẳng hạn, đã phản đối những điều thay đổi có thể sẽ
làm giảm ảnh hưởng của họ trong chính phủ trung ương nếu dựa theo quy mô dân số
chứ không dựa vào vị thế bình đẳng của tiểu bang như đã được quy định trong các
điều khoản của Liên bang.
Mặt khác, đại diện của những bang lớn như
Virginia lại lập luận ủng hộ cho quyền đại diện theo tỷ lệ. Các cuộc tranh cãi
này có nguy cơ kéo dài bất tận cho đến khi Roger Sherman đưa ra các luận cứ ủng
hộ quyền đại diện theo tỷ lệ dân số của các bang trong một viện của Quốc hội -
Hạ viện - và quyền đại diện bằng nhau ở viện kia - Thượng viện.
Việc tập hợp những bang lớn áp đảo bang nhỏ
sau đó đã tan rã. Nhưng hầu như bất kỳ vấn đề kế tiếp nào cũng đều làm nảy sinh
những chia rẽ mới, chỉ có thể được giải quyết thông qua thỏa hiệp. Đại diện
miền Bắc muốn số nô lệ được thống kê để tính mức thuế đóng góp của mỗi bang,
nhưng con số này không quyết định số ghế một tiểu bang sẽ có trong Hạ viện.
Theo một thỏa hiệp đạt được mà hầu như không có bất đồng quan điểm thì số thành
viên trong Hạ nghị viện sẽ được phân chia theo số dân tự do cộng với ba phần
năm số nô lệ.
Một số thành viên như Sherman và Elbridge
Gerry vẫn còn khốn khổ vì cuộc nổi loạn của Shays. Họ lo sợ quảng đại quần
chúng thiếu sự khôn ngoan cần thiết để tự trị, vì vậy họ không muốn bất cứ
nhánh nào trong chính quyền liên bang được nhân dân bầu trực tiếp. Những người
khác lại cho rằng chính quyền liên bang cần phải dựa vào quần chúng càng rộng
rãi càng tốt. Một số đại biểu mong muốn loại trừ vùng miền Tây đang ngày càng
lớn mạnh không được trở thành tiểu bang; những vị khác thì bảo vệ nguyên tắc
bình đẳng được xác lập trong Sắc lệnh Tây Bắc năm 1787.
Không có sự khác biệt nghiêm trọng về những
vấn đề kinh tế quốc gia như tiền giấy, các đạo luật liên quan tới những nghĩa
vụ hợp đồng, hoặc vai trò của phụ nữ vốn bị loại trừ ra ngoài chính trị. Nhưng
đã xuất hiện nhu cầu cân bằng những lợi ích kinh tế của các tầng lớp; giải
quyết những cuộc tranh luận về quyền hạn, nhiệm kỳ và lựa chọn người đứng đầu
cơ quan hành pháp; và giải quyết những vấn đề liên quan tới nhiệm kỳ của thẩm
phán và các loại hình tòa án cần được thành lập.
Làm việc suốt trong mùa hè nóng bức ở
Philadelphia, cuối cùng Hội nghị đã đạt được dự thảo trình bày ngắn gọn việc tổ
chức một chính phủ tinh vi nhất từ trước tới nay - một chính phủ có quyền tuyệt
đối trong phạm vi đã được xác định và hạn chế rõ ràng. Chính phủ liên bang có
toàn quyền đánh thuế, vay tiền, lập các sắc thuế thống nhất và thuế gián thu,
đúc tiền, xác định các đơn vị trọng lượng và đo lường, cấp bằng sáng chế phát
minh và chứng nhận bản quyền, thiết lập các bưu điện và xây dựng các đường bưu
điện. Chính phủ liên bang cũng có quyền tuyển mộ và duy trì quân đội và hải
quân, quản lý các công việc liên quan tới người da đỏ, thực hiện chính sách đối
ngoại và tiến hành chiến tranh. Chính phủ liên bang sẽ thông qua các đạo luật
nhập tịch cho người nước ngoài và quản lý đất công, và cho phép các tiểu bang
mới gia nhập trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối với các tiểu bang cũ. Quyền thông
qua toàn bộ đạo luật thích hợp và cần thiết để thực thi những quyền lực đã được
xác định rõ ràng được trao cho Chính phủ Liên bang để có thể đáp ứng những nhu
cầu và đòi hỏi của các thế hệ mai sau và của một chính thể đã được mở rộng đáng
kể.
Nguyên tắc tam quyền phân lập đã được thí điểm
ở hầu hết hiến pháp của các tiểu bang và đã chứng tỏ có hiệu quả. Vì lẽ đó, Hội
nghị đã lập ra hệ thống chính quyền với ba nhánh riêng biệt - lập pháp, hành
pháp và tư pháp - mỗi nhánh đều được hai nhánh còn lại kiểm soát. Chính vì vậy
các dự luật của Quốc hội sẽ không trở thành luật cho đến khi được tổng thống
phê chuẩn. Tổng thống cũng phải trình tất cả những đề cử vào vị trí quan trọng
và tất cả những hiệp ước do ông ký kết để Thượng viện thông qua. Đến lượt mình,
tổng thống có thể bị buộc tội hay bãi chức theo quyết định của Quốc hội. Cơ
quan tư pháp phải xét xử tất cả mọi trường hợp nảy sinh theo quy định của luật
pháp và Hiến pháp liên bang. Trên thực tế các tòa án được trao quyền diễn giải
cả luật cơ sở và luật thành văn. Nhưng các thành viên của cơ quan tư pháp do
tổng thống đề cử và được Thượng viện công nhận cũng có thể bị Quốc hội phế
truất.
Để bảo vệ cho hiến pháp tránh bị thay đổi vội
vã, điều V đã quy định những Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp phải được đề nghị
hoặc bởi hai phần ba ở cả hai viện của Quốc hội, hoặc bởi hai phần ba số bang
tham dự hội nghị. Các đề xuất phải được phê chuẩn bởi một trong hai phương
pháp: hoặc do các cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang hoặc do hội nghị ở
ba phần tư các bang và Quốc hội đề nghị cách thức được áp dụng.
Cuối cùng hội nghị đã phải đứng trước một vấn
đề quan trọng nhất: các quyền lực được trao cho chính phủ mới phải được thi
hành như thế nào? Theo các điều khoản liên bang trước đây, trên lý thuyết,
chính quyền liên bang đã nắm những quyền lực quan trọng, song trên thực tế
những quyền lực này đã vô giá trị vì các bang không hề quan tâm đến những quyền
lực ấy. Vậy phải làm gì để cứu vãn chính phủ mới tránh khỏi số phận như thế?
Ngay từ lúc đầu, hầu hết các đại biểu đã nhất
trí với câu trả lời duy nhất - sử dụng vũ lực. Nhưng họ đã mau chóng nhận thấy
rằng việc sử dụng vũ lực đối với các bang sẽ phá hoại liên minh. Người ta đã
quyết định chính phủ không chỉ đạo các bang mà chỉ định hướng cho dân chúng ở
các bang, và nên ban hành luật để quản lý toàn bộ các công dân của đất nước.
Hội nghị đã thông qua hai lời tuyên bố ngắn gọn nhưng rất quan trọng và là vấn
đề chủ đạo của Hiến pháp:
Quốc hội có quyền... ban hành tất cả các đạo luật cần thiết và
thích hợp để thực thi... Quyền lực quy định trong Hiến pháp này được trao cho
Chính phủ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Điều I, Khoản 7).
Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành theo Hiến
pháp này, mọi Điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa Kỳ sẽ là
luật tối cao của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải tuân theo những luật
này; bất cứ một điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các bang mà trái ngược
với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị. (Điều VI)
Do đó các bộ luật của Hợp chúng quốc có khả
năng thực thi tại các tòa án quốc gia thông qua các thẩm phán và cảnh sát
trưởng, cũng như trong các tòa án bang thông qua các thẩm phán bang và các quan
chức thực thi luật pháp bang.
Cuộc tranh luận còn tiếp tục cho tới tận ngày
nay về những động cơ thôi thúc những người viết Hiến pháp. Năm 1913, nhà sử học
Charles Beard, trong cuốn Giải thích Hiến pháp từ góc độ kinh tế, đã lập luận
rằng những người cha lập quốc đại diện cho lợi ích của tầng lớp tư bản thương
mại đang ngày càng lớn mạnh và đòi hỏi cần phải có một chính phủ trung ương
hùng mạnh. Ông cho rằng rất nhiều người trong số họ có thể đã được thôi thúc
bởi họ nắm giữ quá nhiều trái phiếu đã bị mất giá của chính phủ. Tuy nhiên,
chính James Madison, người soạn thảo chính của hiến pháp lại không có trái
phiếu và chỉ là một chủ đồn điền ở bang Virginia. Trái lại, những người phản
đối Hiến pháp lại sở hữu một lượng lớn chứng khoán và trái phiếu. Như vậy,
không chỉ có lợi ích kinh tế đã ảnh hưởng đến diễn tiến của cuộc tranh luận mà
cả những lợi ích của các tiểu bang, tầng lớp dân cư và ý thức hệ cũng đã chi
phối. Nhân tố không kém phần quan trọng chính là chủ nghĩa lý tưởng hằn sâu
trong những người thảo hiến pháp. Là sản phẩm của phong trào Khai sáng, những
người cha lập quốc đã xây dựng một chính quyền mà họ tin rằng sẽ thúc đẩy tự do
cá nhân và bản tính thiện của con người. Những lý tưởng thể hiện trong bản Hiến
pháp Mỹ là một thành tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc Mỹ.
PHÊ CHUẨN VÀ TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN
Ngày 17/9/1787, sau 16 tuần cân nhắc cẩn thận,
bản hiến pháp hoàn thiện đã được 39 trong số 42 đại biểu có mặt ký kết.
Franklin chỉ vào hình nửa mặt trời vẽ bằng mầu vàng chói ở sau chiếc ghế tựa
của Washington và nói:
Suốt những ngày diễn ra Hội nghị, tôi đã thường xuyên... nhìn vào
chiếc ghế (kia) phía sau lưng tổng thống mà không thể phân định được đó là mặt
trời đang mọc hay đang lặn; nhưng giờ đây cuối cùng thì tôi thực sự hạnh phúc
biết rằng đó là vầng mặt trời lúc bình minh chứ không phải lúc hoàng hôn.
Hội nghị đã kết thúc, các thành viên tản ra
quán rượu thành phố, cùng ăn và chia tay nhau thật chân thành, ấm áp. Tuy
nhiên, một nội dung quan trọng trong đấu tranh xây dựng một liên minh hoàn hảo
hơn vẫn đặt ra phía trước. Vẫn cần phải có sự chấp thuận của các hội đồng lập
pháp dân bầu ở các tiểu bang trước khi văn kiện hiến pháp có thể có hiệu lực.
Hội nghị đã quyết định rằng hiến pháp sẽ có
hiệu lực ngay sau khi hội đồng lập pháp của 9 trong tổng số 13 bang phê chuẩn.
Đến tháng 6/1788, đã có chín bang theo yêu cầu phê chuẩn hiến pháp, nhưng các
bang lớn như Virginia và New York thì chưa. Hầu hết mọi người đều thấy nếu
không có sự ủng hộ của họ thì hiến pháp sẽ không bao giờ được tôn kính. Đối với
nhiều người, bản hiến pháp dường như còn ẩn chứa vô số những mối nguy: liệu
chính phủ trung ương hùng mạnh đã tạo nên hiến pháp đó có áp bức và hành hạ họ
bằng các khoản thuế khóa nặng nề và lôi họ vào cuộc chiến tranh hay không?
Những quan điểm khác biệt về các vấn đề này đã
dẫn tới sự tồn tại của hai phe nhóm - những người ủng hộ chế độ liên bang và
một chính quyền trung ương mạnh mẽ, và những người phản đối chế độ liên bang
muốn có một liên minh lỏng lẻo của từng bang riêng rẽ. Những lập luận của cả
hai phe được chuyển tải qua báo chí, các cơ quan lập pháp và các hội nghị bang.
Ở Virginia, những người chống chủ nghĩa
liên bang đã tấn công chính phủ mới được đề xuất bằng cách phản bác đoạn mở đầu
của Hiến pháp: “Chúng tôi, những người dân của Hợp chúng quốc. Bằng việc không
sử dụng các tên riêng của các bang trong Hiến pháp, các đại biểu lập luận các
bang sẽ không duy trì được quyền hay quyền lực riêng rẽ của mình. Phái chống
chủ nghĩa liên bang ở Virginia thì do Patrick Henry lãnh đạo. Ông đã trở thành
người phát ngôn chính cho những người nông dân ở vùng sâu, vùng xa vốn rất lo sợ
trước những quyền lực của Chính phủ Liên bang mới. Các đại biểu còn do dự đã bị
thuyết phục bởi đề nghị của hội nghị bang Virginia đưa ra Tuyên ngôn Nhân
quyền, còn phái chống chủ nghĩa liên bang đã liên minh với những người ủng hộ
chủ nghĩa liên bang để phê chuẩn Hiến pháp ngày 25/6.
Tại New York, Alexander Hamilton, John Jay và
James Madison đã kêu gọi phê chuẩn Hiến pháp qua một loạt các bài luận nổi
tiếng mang tựa đề Bút ký của những người ủng hộ liên bang. Những bài luận đăng
tải trong các tờ báo ở New York đã trở thành lập luận cổ điển ủng hộ chính
quyền liên bang trung ương theo mô hình tam quyền phân lập - hành pháp, lập
pháp và tư pháp kiểm soát và cân bằng lẫn nhau. Do những bài Bút ký có ảnh
hưởng lớn tới đại biểu New York nên Hiến pháp đã được phê chuẩn ngày 26/7.
Mối ác cảm với một chính quyền trung ương mạnh
chỉ là một mối lo lắng duy nhất trong số những mối lo của những người phản đối
Hiến pháp; một mối lo ngại tương đương đối với nhiều người là nỗi lo sợ rằng
Hiến pháp không bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cá nhân một cách có
hiệu quả. George Mason, người Virginia, tác giả bản Tuyên ngôn Nhân quyền của
bang Virginia năm 1776, là một trong ba đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến đã
từ chối ký văn kiện cuối cùng vì nó không liệt kê ra những quyền cá nhân. Cùng
với Patrick Henry, ông đã ra sức chống lại bang Virginia phê chuẩn Hiến pháp.
Đương nhiên, năm bang bao gồm cả Massachusetts đã phê chuẩn Hiến pháp với điều
kiện rằng những Điều bổ sung sửa đổi hiến pháp cần phải được bổ sung lập tức.
Khi phiên họp Quốc hội đầu tiên diễn ra ở
thành phố New York tháng 9/1789, những lời kêu gọi có các Điều bổ sung sửa đổi
để bảo vệ các quyền cá nhân đã thực sự giành được sự nhất trí rất cao. Quốc hội
đã nhanh chóng thông qua 12 Điều bổ sung sửa đổi như vậy; đến tháng 12/1791, đã
có đủ số bang đã phê chuẩn 10 Điều bổ sung sửa đổi để đưa chúng vào thành một
phần của Hiến pháp và gọi chung là Tuyên ngôn Nhân quyền. Trong số các quy định
của các Điều bổ sung sửa đổi có: quyền tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo và
quyền hội họp một cách hòa bình, quyền phản đối và yêu cầu các thay đổi (Điều
bổ sung sửa đổi thứ nhất); Bảo vệ chống lại những cuộc khám xét, tịch thu không
hợp lệ tài sản và bắt giam (Điều bổ sung sửa đổi thứ tư); thủ tục tố tụng công
bằng ở tất cả các vụ án hình sự (Điều bổ sung sửa đổi thứ năm); Quyền được xử
án công bằng và nhanh chóng (Điều bổ sung sửa đổi thứ sáu); Bảo vệ chống lại
hình phạt dã man và bất thường (Điều bổ sung sửa đổi thứ tám); và điều khoản
cho rằng mọi người được sử dụng những quyền bổ sung mà không được ghi trong
Hiến pháp (Điều bổ sung sửa đổi thứ chín).
Từ khi thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ có
16 Điều bổ sung sửa đổi được bổ sung vào Hiến pháp. Tuy một số Điều bổ sung sửa
đổi tiếp theo đã điều chỉnh cấu trúc và hoạt động của Chính phủ Liên bang,
nhưng phần lớn các điều khoản này vẫn tuân theo những tiền lệ do Tuyên ngôn
Nhân quyền đã xác lập và mở rộng các quyền cá nhân và các quyền tự do.
TỔNG THỐNG WASHINGTON
Một trong những công việc cuối cùng của Quốc
hội liên bang là tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên tiến hành, lấy ngày
4/3/1789 là ngày khai sinh chính phủ mới. Một cái tên được tất thảy mọi người
nhắc tới cương vị người lãnh đạo quốc gia là George Washington và ông đã được
tín nhiệm bầu làm tổng thống và tuyên thệ nhậm chức ngày 30/4/1789. Bằng những
lời tuyên thệ mà sau này bất kỳ tổng thống nào cũng sử dụng, Washington đã cam
kết thực thi những bổn phận của chức vụ tổng thống một cách trung thành, và cố
gắng hết sức mình nhằm bảo toàn, bảo vệ và che chở Hiến pháp của Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ.
Khi Washington nhậm chức tổng thống thì Hiến
pháp mới chưa hề quan tâm tới tập quán lẫn ủng hộ hoàn toàn quan điểm của dư
luận có định hướng. Chính phủ mới đã phải xây dựng bộ máy riêng và điều tiết
một hệ thống thuế để đảm bảo sự hoạt động của chính mình. Các bộ luật vẫn chưa
được thực thi chừng nào cơ quan tư pháp vẫn chưa được thành lập. Quân đội thì
nhỏ bé. Lực lượng hải quân tạm thời không còn tồn tại nữa.
Quốc hội mau chóng thành lập Bộ Ngoại giao và
Bộ Tài chính với Thomas Jefferson và Alexander Hamilton giữ chức bộ trưởng
tương ứng. Bộ Chiến tranh và Bộ Tư pháp cũng đã được thành lập. Do Washington
chỉ muốn đưa ra các quyết định sau khi tham vấn ý kiến những người có trí tuệ
được ông đánh giá cao, nên Nội các của Tổng thống Mỹ đã được thành lập, bao gồm
Bộ trưởng của tất cả các bộ mà Quốc hội có thể lập ra.
Trong khi đó, đất nước vẫn liên tục phát triển
và làn sóng nhập cư từ châu Âu đang gia tăng. Người Mỹ đang chuyển sang miền
Tây: Người các bang New England và Pennsylvania đang chuyển tới bang Ohio;
người các bang Virginia và Carolina chuyển sang các bang Kentucky và Tennessee.
Chỉ cần có số tiền nhỏ cũng đủ để mua những trang trại mầu mỡ, và do vậy, nhu
cầu lao động không ngừng tăng. Miền thung lũng màu mỡ trải dài phía trên các
bang New York, Pennsylvania và Virginia chẳng bao lâu sau đã trở thành khu vực
trồng lúa mì.
Tuy nhiều mặt hàng vẫn còn được sản xuất thủ
công tại gia, nhưng cuộc cách mạng công nghiệp vẫn còn đang ở buổi bình minh ở
Mỹ. Bang Massachusetts và Rhode Island đang đặt nền móng cho các ngành công
nghiệp dệt quan trọng; bang Connecticut bắt đầu sản xuất hàng thiếc và đồng hồ;
các bang New York, New Jersey và Pennsylvania chế tạo giấy, thủy tinh và sắt.
Vận tải biển ở Mỹ đã phát triển tới quy mô lớn mức chỉ đứng thứ hai sau nước Anh.
Thậm chí cho tới năm 1790, các tàu Mỹ đã tới Trung Quốc để bán lông thú và mang
về chè, hương liệu và tơ lụa.
Vào thời khắc quyết định trong sự nghiệp phát
triển đất nước, sự lãnh đạo tài tình của Washington đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Ông đã tổ chức chính quyền liên bang, ban hành các chính sách định cư ở
các vùng lãnh thổ trước kia nằm trong tay nước Anh và Tây Ban Nha, bình định
biên giới tây bắc và giám sát việc kết nạp ba tiểu bang mới: bang Vermont
(1791), bang Kentucky (1792) và bang Tennessee (1796). Cuối cùng trong Diễn văn
Từ biệt của mình, Washington đã cảnh báo cả nước Mỹ nên tránh xa những liên
minh lâu dài cố định với bất cứ thế lực nào ở thế giới bên ngoài. Lời khuyên
này đã ảnh hưởng tới thái độ của người Mỹ đối với thế giới trong nhiều thế hệ
tương lai.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA HAMILTON VÀ JEFFERSON
ĐÃ có mâu thuẫn nảy sinh trong thập niên 1790
giữa các đảng phái chính trị đầu tiên ở Mỹ. Trên thực tế, phái ủng hộ chủ nghĩa
liên bang do Alexander Hamilton lãnh đạo, và phe chống chủ nghĩa liên bang do
Thomas Jefferson đứng đầu, là những chính đảng đầu tiên ở thế giới phương Tây.
Khác với các nhóm chính trị lỏng lẻo trong Hạ viện Anh, hay ở các thuộc địa Mỹ
trước thời kỳ cách mạng, cả hai chính đảng này đều có cương lĩnh và nguyên tắc
tương đối nhất quán, lực lượng ủng hộ tương đối ổn định và bộ máy tổ chức mang
tính liên tục.
Phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang nhìn chung đại
diện cho nhóm lợi ích thương mại và công nghiệp bởi lẽ họ cho rằng đây chính là
những động lực thúc đẩy tiến bộ trên thế giới. Họ tin rằng thương mại và sản
xuất chỉ có thể được thúc đẩy qua bàn tay của một chính quyền trung ương hùng
mạnh, có đủ sức huy động vốn tín dụng và phát hành đồng tiền ổn định. Mặc dù
công khai nghi ngờ chủ nghĩa cấp tiến đang âm ỉ trong quần chúng nhân dân, song
họ lại thu hút được công nhân và thợ thủ công. Lực lượng chính trị hùng mạnh
của họ nằm ở các tiểu bang vùng New England. Thấy nước Anh, xét trên nhiều góc
độ, là một mô hình mà nước Mỹ nên chạy đua nên họ ủng hộ duy trì quan hệ hữu
hảo với mẫu quốc trước đây.
Mặc dù Alexander Hamilton chưa bao giờ có thể
có đủ sức tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng đối với việc lựa chọn các chức vụ
qua bầu cử, song ông lại là bộ não của phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang về hệ tư
tưởng và chính sách công. Ông cống hiến cho xã hội niềm đam mê hiệu quả, trật
tự và tổ chức. Đáp lại lời kêu gọi của Hạ viện về kế hoạch huy động tín dụng
công, ông đã đưa ra và ủng hộ các nguyên tắc không chỉ áp dụng với nền kinh tế
quốc dân mà còn với một chính phủ hiệu quả. Hamilton đã chỉ rõ nước Mỹ phải có
tín dụng hỗ trợ phát triển công nghiệp, thương mại và hoạt động của chính
quyền. Những bổn phận của chính phủ đòi hỏi phải có niềm tin và sự ủng hộ của
dân chúng.
ĐÃ có nhiều người mong muốn chối bỏ các khoản
nợ công hay chỉ trả một phần của khoản nợ ấy. Tuy nhiên, Hamilton đã cương
quyết đòi thanh toán hoàn toàn và cũng yêu cầu có kế hoạch tiếp quản các khoản
nợ phát sinh từ thời cách mạng nhưng các bang vẫn chưa trả được. Hamilton cũng
bảo trợ một đạo luật của Quốc hội nhằm xây dựng Ngân hàng Trung ương Hợp chúng
quốc theo mô hình Ngân hàng Trung ương Anh. Ngân hàng này vừa là thiết chế tài
chính trung ương của quốc gia vừa có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nơi khác
khắp cả nước. Ông đã bảo trợ cho xưởng đúc tiền quốc gia, ủng hộ thuế quan, và
nhấn mạnh việc bảo hộ tạm thời cho các công ty mới là cần thiết để thúc đẩy sự
phát triển của các ngành công nghiệp quốc gia có sức cạnh tranh. Những biện
pháp này - đặt nền tảng vững chắc cho các khoản tín dụng của chính phủ trung
ương và cung cấp cho chính phủ tất cả nguồn lực cần thiết - đã khuyến khích
thương mại và công nghiệp phát triển, đồng thời tạo ra mạng lưới những lợi ích
tạo chỗ dựa vững chắc cho chính quyền liên bang.
Đảng Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Thomas
Jefferson chủ yếu đứng về phía lợi ích và giá trị nông nghiệp. Họ nghi ngờ các
nhà băng và hầu như không quan tâm tới thương mại và sản xuất. Họ tin rằng tự
do và dân chủ sẽ đơm hoa kết trái tốt nhất trong một xã hội thuần nông, gồm
những nông dân tự cung tự cấp. Họ cảm thấy không cần một chính phủ trung ương
hùng mạnh. Thực ra, họ coi một chính phủ như vậy chỉ là nguy cơ gây đàn áp
trong tương lai. Tóm lại, họ cổ xúy cho quyền của các tiểu bang. Họ có lực
lượng hùng mạnh nhất ở miền Nam.
Mục tiêu cao cả của Hamilton là một bộ máy
chính quyền hiệu quả hơn, trong khi đó Jefferson lại nói "Tôi không phải
là người ủng hộ một chính phủ quá nhiệt huyết". Hamilton lo sợ tình trạng
vô chính phủ và luôn suy nghĩ đảm bảo an ninh, trật tự; trong khi đó Jefferson
lại lo sợ tình trạng chuyên chế và luôn suy nghĩ đảm bảo quyền tự do. Nếu
Hamilton coi nước Anh là một hình mẫu thì Jefferson - công sứ tại Pháp trong
giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng Pháp - lại coi việc lật đổ chế độ quân chủ ở
Pháp là một hiện thân của những lý tưởng tự do của thời kỳ Khai sáng. Trái với
bản năng bảo thủ của Hamilton, Jefferson lại thiên về chủ nghĩa cấp tiến dân
chủ.
Một mâu thuẫn nảy sinh rất sớm giữa hai người
ngay sau khi Jefferson nhậm chức ngoại trưởng đã dẫn tới một cách lý giải mới
và rất quan trọng của Hiến pháp. Khi Hamilton trình dự luật thành lập ngân hàng
quốc gia của mình thì Jefferson - đại diện cho những người cổ xúy quyền lực của
các tiểu bang - đã lập luận rằng Hiến pháp đã liệt kê một cách rõ ràng toàn bộ
những quyền lực thuộc về Chính phủ Liên bang và dành tất cả những quyền lực
khác cho tất cả các tiểu bang. Không có quy định nào trong Hiến pháp cho phép
chính phủ được thiết lập ngân hàng.
Hamilton đã phản bác lại rằng, vì đây có muôn
vàn chi tiết cần thiết nên một bộ luật quy định về quyền phải được diễn giải từ
những quy định chung, và một trong những quyền đó là cho phép Quốc hội ban hành
tất cả các đạo luật cần thiết và phù hợp để thực thi những quyền lực khác đã
được trao cụ thể. Hiến pháp đã trao quyền cho chính quyền liên bang đặt ra và thu
các loại thuế, trả nợ và vay tiền. Ngân hàng quốc gia sẽ giúp đỡ về mặt vật
chất trong việc thực hiện những chức năng này có hiệu quả. Vì vậy, theo những
quyền lực được suy rộng ra, Quốc hội có quyền thành lập một ngân hàng như vậy.
Washington và Quốc hội đã chấp nhận quan điểm của Hamilton - và như vậy đã tạo
một tiền lệ mở rộng việc diễn giải quyền lực của Chính phủ Liên bang.
CÔNG DÂN GENET VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Tuy một trong những nhiệm vụ đầu tiên của
chính phủ mới là củng cố nền kinh tế trong nước và làm cho quốc gia được an
toàn về tài chính, song Hoa Kỳ không thể coi thường những vấn đề đối ngoại.
Những nền tảng của chính sách đối ngoại của Washington là duy trì hòa bình,
giúp đất nước có thời gian phục hồi những vết thương và tiếp tục quá trình hợp
nhất dân tộc. Những sự kiện ở châu Âu đã đe dọa các mục tiêu này. Nhiều người
Mỹ theo dõi một cách say sưa và dành thiện cảm sâu sắc cho cuộc cách mạng Pháp.
Tháng 4/1793, những tin tức dồn dập đổ về, thông báo Pháp đã tuyên chiến với
Anh và Tây Ban Nha, đồng thời đặc phái viên mới của Pháp, Edmond Charles Genet
- công dân Genet - đang trên đường sang Mỹ.
Sau cuộc cách mạng Pháp dẫn tới việc Vua Louis
XVI bị xử tử tháng 1/1793, Anh, Tây Ban Nha và Hà Lan đã can dự vào cuộc chiến
với nước Pháp. Theo Hiệp định Liên minh Pháp - Mỹ năm 1778, Hoa Kỳ và Pháp là
những đồng minh vĩnh viễn và nước Mỹ có nghĩa vụ giúp nước Pháp bảo vệ khu vực
Tây ấn. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn còn là một nước rất yếu về quân sự và kinh tế, và
do vậy không có khả năng can dự vào một cuộc chiến tranh mới với các cường quốc
châu Âu.
Ngày 22/4/1793, Washington đã bãi bỏ thành
công các điều khoản của Hiệp ước 1778 - điều ước đã giúp Mỹ có thể giành độc
lập thông qua việc tuyên bố Hợp chúng quốc mong muốn hữu nghị và vô tư, không
thiên vị với tất các cường quốc đang tham chiến. Khi tới nước Mỹ, Genet được
nhiều công dân hoan hô, nhưng được tiếp đón bằng nghi thức lạnh nhạt của Chính
phủ. Genet nổi giận và vi phạm lời hứa, không cung cấp một chiếc tàu chiến Anh
bị bắt giữ với tư cách là tàu lùng (tàu của tư nhân được chính phủ giao nhiệm
vụ chuyên đi bắt tàu buôn địch). Sau đó Genet đe dọa trực tiếp nêu vấn đề cho
nhân dân Mỹ thấy. Ngay sau đó Hoa Kỳ đã yêu cầu Chính phủ Pháp triệu hồi ông về
nước.
Sự kiện Genet đã làm căng thẳng những mối quan
hệ giữa Mỹ với Pháp giữa lúc quan hệ với nước Anh còn lâu mới được coi là khăng
khít. Quân đội Anh còn chiếm đóng các pháo đài ở miền Tây, tài sản bị binh lính
Anh chiếm đoạt trong thời cách mạng vẫn chưa được khôi phục hay trả lại, và hải
quân Anh đang chặn các tàu Mỹ chuẩn bị tới các cảng Pháp. Hai nước dường như
vẫn tiến đến bên bờ của một cuộc chiến. Trước tình hình đó, Washington đã cử
John Jay, Chánh án Tòa án Tối cao đầu tiên, làm đặc phái viên tới Luân Đôn. Jay
đã đàm phán một hiệp ước bảo đảm việc rút quân Anh ra khỏi các pháo đài miền
Tây và về lời hứa của Luân Đôn sẽ đền bù thiệt hại do việc nước Anh chiếm giữ
các tàu và hàng hóa Mỹ vào năm 1793 và 1794, nhưng lại không nêu cam kết sẽ
không có các vụ bắt giữ trong tương lai. Hơn nữa, hiệp định đã không giải quyết
vấn đề hết sức nhức nhối là người Anh vẫn cưỡng bức tòng quân các thủy thủ Mỹ
tham gia lực lượng Hải quân Anh, cản trở ghê gớm việc buôn bán của Mỹ với Tây
ấn, đồng thời chấp nhận quan điểm của Anh cho rằng đồ quân trang quân dụng của
hải quân và các vật liệu chiến tranh đều là hàng lậu, và sẽ bị bắt giữ nếu chở
tới cảng biển của quốc gia thù địch trên tàu của các quốc gia trung lập.
Nhà ngoại giao người Mỹ Charles Pinckney thì
thành công hơn trong thương thuyết với Tây Ban Nha. Năm 1795, ông đã đàm phán
một hiệp định quan trọng giải quyết vấn đề biên giới Florida theo yêu cầu của
Mỹ và cho phép người Mỹ tiếp cận cảng New Orleans. Cũng tương tự như vậy, Hiệp
định Jay với người Anh đã phản ánh vị thế tiếp tục suy yếu của Mỹ so với một
siêu cường trên thế giới. Hiệp định này không được công chúng ủng hộ rộng rãi,
nhưng lại được những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang công khai ủng hộ bởi lẽ
họ đề cao mối quan hệ kinh tế và văn hóa với nước Anh. Washington ủng hộ hiệp
định này vì nó là món quà mặc cả tốt nhất có thể có trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Sau một cuộc tranh luận nảy lửa, Thượng viện đã thông qua hiệp định này.
Vụ trò hề công dân Genet và Hiệp ước Jay đã
chứng minh cả những khó khăn mà một nước nhược tiểu phải đương đầu khi bị kẹt
giữa hai cường quốc, và khoảng cách rất xa trong quan điểm giữa phe ủng hộ chủ
nghĩa liên bang và những người theo chủ nghĩa cộng hòa. Đối với những người ủng
hộ chủ nghĩa liên bang, những kẻ theo chủ nghĩa cộng hòa ủng hộ cuộc Cách mạng
cấp tiến và đầy bạo lực ở Pháp là những tên cấp tiến đầy nguy hiểm
(Gia-cô-banh). Đối với những người cộng hòa, những người ủng hộ chính sách thân
Anh là những kẻ bảo hoàng, dám vứt bỏ quyền tự nhiên của người Mỹ. Những người
ủng hộ chủ nghĩa liên bang gắn hiệu quả và phát triển quốc gia với thương mại;
còn những người chủ trương cộng hòa lại coi tương lai của nước Mỹ là tương lai
của một nền cộng hòa thuần nông rộng lớn. Cuộc cạnh tranh trong quan điểm mâu
thuẫn nhau của họ ngày càng trở nên trầm trọng.
ADAMS VÀ JEFFERSON
Washington nghỉ hưu năm 1797, kiên quyết rời
nhiệm sở sau hơn sau hơn tám năm làm Tổng thống. Thomas Jefferson, người bang
Virginia (chủ trương cộng hòa), và John Adams (ủng hộ liên bang) cạnh tranh
nhau để kế nhiệm ông. Adams đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử với số phiếu
sít sao. Tuy nhiên, ngay từ đầu, ông là đã người đứng đầu một đảng và một chính
quyền bị chia rẽ giữa những người ủng hộ ông và những người thuộc phe của
Hamilton đối nghịch với ông.
Adams gặp muôn vàn khó khăn ở bên ngoài. Giận
dữ trước việc hiệp ước của Jay được ký với Anh, Pháp quay sang áp dụng định
nghĩa đồ buôn lậu của hiệp định trên và bắt đầu bắt giữ tàu của Mỹ khi trên
đường sang Anh. Đến năm 1797, Pháp đã chiếm giữ 300 tàu của Mỹ và đã cắt đứt
các quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Khi Adams gửi ba người đại diện tới Paris để
đàm phán, các đại diện của ngoại trưởng Charles Maurice Talleyraud (những người
được Adams đặt biệt hiệu X, Y và Z trong báo cáo của mình gửi Quốc hội) đã
thông báo cho người Mỹ rằng những cuộc đàm phán chỉ có thể bắt đầu nếu Hoa Kỳ
cho Pháp vay 12 triệu đô-la và hối lộ các quan chức Chính phủ Pháp. Sự thù địch
của nước Mỹ đối với nước Pháp đã dâng lên tới tột điểm. Vụ áp-phe XYZ đã dẫn
tới việc tuyển binh lính và củng cố lực lượng hải quân còn non trẻ của nước Mỹ.
Vào năm 1799, sau một loạt trận hải chiến với
Pháp, chiến tranh dường như không thể tránh khỏi. Trong cuộc khủng hoảng này,
Tổng thống Adams đã bác bỏ những lời khuyên từ Hamilton - người muốn tiến hành
chiến tranh - và nối lại đàm phán với Pháp. Napoleon lúc ấy vừa mới lên nắm
quyền, ông đã tiếp các phái viên của Mỹ rất chân tình và hiểm họa của cuộc xung
đột đã lắng xuống sau khi có cuộc đàm phán về Hiệp định năm 1800. Hiệp định này
đã chính thức giải phóng nước Mỹ khỏi liên minh quân sự đã được ký kết với Pháp
1778. Tuy nhiên, do biết được thế yếu của Mỹ nên Pháp từ chối việc trả 20 triệu
đô-la đền bù cho những chiếc tàu Mỹ bị hải quân Pháp chiếm giữ.
Sự thù địch với nước Pháp đã khiến Quốc hội
thông qua các Đạo luật về Ngoại kiều và nổi loạn. Những đạo luật này này ngược
lại nghiêm trọng những quyền tự do dân sự của Mỹ. Đạo luật Nhập quốc tịch thay
đổi yêu cầu nhập quốc tịch từ năm năm lên tới 14 năm là nhằm vào người nhập cư
Ai-len và Pháp vốn bị nghi ngờ ủng hộ những người chủ trương cộng hòa. Đạo luật
Ngoại kiều chỉ có hiệu lực trong hai năm đã trao cho tổng thống quyền trục xuất
hay tống giam những công dân nước ngoài trong thời chiến. Đạo luật Nổi loạn cấm
việc viết, nói hay xuất bản bất cứ nội dung giả dối, xúc phạm và ác ý chống lại
tổng thống hay Quốc hội. Một vài vụ kết án thành công theo Đạo luật Nổi loạn
chỉ đẻ ra những kẻ tử vì đạo chiến đấu vì sự nghiệp tự do dân sự và càng gia
tăng sự ủng hộ cho phe Cộng hòa.
Các đạo luật đã vấp phải sự chống đối.
Jefferson và Madison đã bảo trợ cho việc thông qua các nghị quyết của hai bang
Kentucky và Virginia do các cơ quan lập pháp của họ trình vào tháng 11 và
12/1798. Khẳng khái tuyên bố các quyền của tiểu bang, các nghị quyết nhấn mạnh
các tiểu bang có thể nêu những quan điểm của họ về những hành động của liên
bang cách và vô hiệu hoá các hành động ấy. Học thuyết về vô hiệu hóa sau này
được các bang miền Nam sử dụng chống lại thuế quan bảo hộ và chế độ nô lệ.
Đến năm 1800, nhân dân Mỹ đã sẵn sàng thay
đổi. Dưới sự lãnh đạo của Washington và Adams, phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang
đã thiết lập được một chính quyền mạnh, nhưng đôi khi đã không tôn trọng nguyên
tắc Chính phủ Liên bang phải lắng nghe nguyện vọng của dân vì chính phủ đã theo
đuổi các chính sách xa lạ với đông đảo nhân dân. Chẳng hạn, năm 1798, họ đã ban
hành sắc thuế về nhà cửa, đất đai và nô lệ, làm ảnh hưởng tới tất cả chủ sở hữu
ở Mỹ.
Jefferson dần dần đã tập hợp một lực lượng
quần chúng gồm đông đảo các chủ trại nhỏ, những chủ cửa hàng và những người làm
công ăn lương khác ủng hộ ông. Ông đã đắc cử với kết quả sít sao. Jefferson rất
được lòng dân bởi ông kêu gọi thực hiện chủ nghĩa lý tưởng Mỹ. Trong bài diễn
văn nhậm chức - diễn văn nhậm chức đầu tiên tại thủ đô mới là Washington, D.C.
- ông cam kết xây dựng một chính quyền khôn ngoan và tiết kiệm, đảm bảo trật tự
cho dân chúng nhưng sẽ cũng để cho công chúng tự do theo đuổi nghề nghiệp và
tiến bộ.
Chỉ có sự hiện diện của Jefferson ở Nhà Trắng
mới có thể khuyến khích những tiến trình dân chủ. Ông giảng giải và thực hiện
những triết lý đơn giản về dân chủ, tránh xa hoa và phô trương thường gắn liền
với chức vụ tổng thống. Theo tư tưởng cộng hòa, ông đã cắt giảm chi tiêu quân
sự. Do tin rằng nước Mỹ là thiên đường của những người bị áp bức, ông đã thông
qua luật nhập quốc tịch tự do. Đến cuối nhiệm kỳ hai của ông, vị Bộ trưởng Tài
chính nhìn xa trông rộng của ông, Albert Gallatin, đã giảm nợ công xuống còn
dưới 560 triệu đô-la. Vì được lòng dân nên Jefferson đã tái đắc cử tổng thống
nhiệm kỳ tiếp theo một cách dễ dàng.
BANG LOUISIANA VÀ NƯỚC ANH
Một trong số những đạo luật của Jefferson đã
nhân đôi diện tích nước Mỹ. Vào thời kỳ cuối của cuộc Chiến tranh Bảy năm, nước
Pháp đã nhượng quyền cho Tây Ban Nha sở hữu vùng lãnh thổ phía Tây sông
Mississippi. Việc tiếp cận cảng New Orleans gần cửa sông này có ý nghĩa sống
còn đối với việc vận chuyển hàng hóa của Mỹ bằng tàu từ vùng thung lũng sông
Ohio và Mississippi. Ngay sau khi Jefferson đắc cử tổng thống, Napoleon đã buộc
Chính phủ Tây Ban Nha trả lại lãnh thổ rộng lớn ở Lousiana cho Pháp. Động thái
này đã khiến người Mỹ e sợ và căm phẫn. Những kế hoạch của Napoleon nhằm xây
dựng một đế chế thuộc địa bao la ở phía Tây đã đe dọa sự phát triển trong tương
lai của Hợp chúng quốc. Jefferson đã tuyên bố "nếu nước Pháp chiếm lại
Louisiana thì kể từ giây phút đó, chúng ta phải tự kết thân với người Anh và
hạm đội của họ".
Tuy nhiên, Napoleon không còn quan tâm đến
Lousiana sau khi Pháp bị đánh bật khỏi Haiti trong cuộc nổi dậy của nô lệ. Khi
biết rằng một cuộc chiến tranh khác với nước Anh đang sắp xảy ra, Napoleon đã
quyết định bổ sung ngân sách và đặt Louisiana ngoài tầm với của người Anh bằng
cách bán vùng đất này cho Hoa Kỳ. Đề nghị của Napoleon đã đưa Jefferson vào
tình thế khó xử: Hiến pháp không nêu cụ thể quyền mua bán lãnh thổ. Một mặt,
Jefferson muốn đề xuất một Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp song mặt khác, việc
trì hoãn cũng có thể khiến Napoleon thay đổi ý định. Sau khi được tham mưu rằng
quyền mua lãnh thổ đã nằm sẵn trong quyền ký kết các điều ước, Jefferson đã dịu
đi và nói rằng "lương tri của dân tộc ta sẽ sửa sai hậu quả của một sự
giải thích không chặt chẽ một khi sự giải thích ấy sản sinh ra những kết quả
không mong muốn".
Hợp chúng quốc đã mua được Louisiana với giá
15 triệu đô-la vào năm 1803. Miền này rộng hơn 2,6 triệu km2 và có cảng New
Orleans. Nước Mỹ đã có được một vùng đất bao la có những đồng bằng màu mỡ,
những dãy núi, những khu rừng và hệ thống sông ngòi. Chỉ trong vòng 80 năm, khu
vực này trở thành trung tâm của nước Mỹ - và là vựa lúa mì của thế giới.
Khi Jefferson bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của
mình vào năm 1805, ông tuyên bố quy chế trung lập của Mỹ trong cuộc chiến giữa
Anh và Pháp. Tuy cả hai phe đều cố gắng hạn chế vận chuyển hàng hải trung lập
tới phe kia, song sự kiểm soát của Anh trên biển cả đã khiến lệnh cấm và bắt
giữ của nước này càng trở nên nghiêm trọng hơn nhiều so với bất cứ hành động
nào do Pháp của Napoleon gây ra. Các chỉ huy hải quân Anh thường xuyên khám xét
tàu Mỹ, tịch thu tàu và hàng hóa, và cướp đi những thủy thủ mà họ cho là thần
dân của nước Anh. Họ cũng thường xuyên cưỡng ép ngư dân Mỹ đi lính cho họ.
Khi Jefferson tuyên bố ra lệnh cho các tàu
chiến Anh ra khỏi lãnh hải của Mỹ thì người Anh đã phản ứng lại bằng cách cưỡng
bức tòng quân càng nhiều thủy thủ người Mỹ hơn. Jefferson quyết định sử dụng
sức ép kinh tế. Tháng 12/1807, Quốc hội thông qua Đạo luật Cấm vận, cấm tất cả
hoạt động ngoại thương. Trớ trêu thay, luật lại yêu cầu cần có lực lượng cảnh
sát hùng hậu, và chính điều này đã gia tăng rất nhiều quyền hạn của Chính phủ
Liên bang. Về mặt kinh tế, biện pháp này quả là lợi bất cập hại. Chỉ riêng
trong một năm, xuất khẩu của Mỹ đã giảm một phần năm so với trước. Ngành vận
tải biển cũng bị mất đi do biện pháp này. Tình trạng bất mãn tăng mạnh ở New
England và New York. Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề. Giá cả hàng hóa đã
sụt giảm khi các chủ trại miền Nam và miền Tây không thể xuất khẩu được lượng
ngũ cốc, bông, thịt và thuốc lá dư thừa của họ.
Lệnh cấm vận đã không khiến nước Anh phải chết
đói đến mức phải thay đổi chính sách. Do sự phản đối trong nước ngày càng gia
tăng, Jefferson đã quay sang biện pháp mềm mỏng hơn nhằm hài hòa lợi ích của
ngành vận tải biển. Đầu năm 1809 ông đã ký Đạo luật Không giao dịch, cho phép
buôn bán với tất cả các nước trừ Anh hay Pháp và những nước phụ thuộc họ.
James Madison đã kế nhiệm Jefferson làm tổng
thống năm 1809. Quan hệ với nước Anh đã trở nên tồi tệ hơn, và hai nước đã
nhanh chóng đi đến bên bờ vực của cuộc chiến. Tổng thống đã trình Quốc hội một
bản báo cáo chi tiết, chỉ dẫn hàng nghìn dẫn chứng về việc người Anh cưỡng bức
công dân Mỹ tòng quân. Ngoài ra, những người định cư ở Tây Bắc đã bị thổ dân da
đỏ tấn công vì bị mật vụ Anh ở Canada kích động. Kết quả là, nhiều người Mỹ đã
ủng hộ việc chinh phục Canada và loại bỏ ảnh hưởng của Anh ở Bắc Mỹ, đồng thời
trả thù cho món nợ cưỡng bức tòng quân và đàn áp về thương mại. Đến năm 1812,
không khí chiến tranh bao trùm khắp nơi, và nước Mỹ đã tuyên chiến với Anh ngày
18/6.
CUỘC CHIẾN TRANH NĂM 1812
Nước Mỹ tham chiến mà nội bộ chia rẽ sâu sắc.
Nếu như miền Nam và miền Tây ủng hộ chiến tranh thì các bang New York và New
England lại phản đối bởi lẽ chiến tranh cản trở việc làm ăn buôn bán của họ.
Lực lượng quân sự của Mỹ rất yếu. Cả binh lực mới có dưới 7.000 quân chính quy,
lại đóng rải rác dọc bờ biển gần biên giới với Canada và ở vùng nội địa xa xôi.
Lực lượng dân phòng của các tiểu bang chỉ được huấn luyện thô sơ và vô kỷ luật.
Sự thù nghịch giữa hai nước đã bắt đầu từ việc
xâm lược Canada. Lẽ ra nếu được dàn xếp kịp thời và hợp lý thì họ đã chung tay
chống lại Montreal. Tiếc thay, toàn bộ chiến dịch đã thất bại và kết thúc với
việc quân Anh chiếm đóng Detroit. Tuy nhiên, hải quân Mỹ lại đạt nhiều thắng
lợi. Ngoài ra, các tàu chiến Mỹ do tư nhân quản lý, di chuyển khắp Đại Tây
Dương, đã bắt giữ được 500 tàu Anh trong những tháng mùa thu và mùa đông hai
năm 1812 và 1813.
Chiến dịch năm 1813 chủ yếu diễn ra ở Hồ Erie.
Tướng William Henry Harrison - sau này là tổng thống - đã lãnh đạo lực lượng
gồm dân quân, lính tình nguyện và quân thường trực từ bang Kentucky với mục
tiêu chiếm lại Detroit. Ngày 12/9, trong khi vẫn còn ở thượng nguồn sông Ohio
thì ông đã nhận được tin tức cho biết Thiếu tướng Hải quân Oliver Hazard Perry
đã đánh bại hoàn toàn hạm đội Anh trên Hồ Erie. Harrison đã bao vây Detroit và
đẩy lùi quân Anh sang Canada, đập tan đội quân Anh bại trận đang tháo chạy cùng
bè lũ thổ dân da đỏ của chúng trên sông Thames. Giờ đây toàn bộ vùng đất này đã
nằm trong sự kiểm soát của Mỹ.
Một năm sau, Thiếu tướng Thomas Macdonough đã
giành chiến thắng trong cuộc đấu súng tầm ngắn với hạm đội nhỏ của Anh trên Hồ
Champlain ở vùng New York thượng. Mất sự yểm trợ của hải quân, đội quân xâm
lược của Anh gồm 10.000 người đã rút lui về Canada. Tuy nhiên, hạm đội của Anh
lại quay sang quấy rối vùng bờ biển miền Đông với khẩu hiệu tiêu diệt và tàn
phá. Đêm ngày 24/8/1814, một lực lượng viễn chinh đã đột kích vào lực lượng dân
quân của Mỹ, rồi hành quân lên Washington D.C., sau đó rút lui và để lại thành
phố trong khói lửa. Tổng thống James Madison phải rút chạy về bang Virginia.
Các nhà đàm phán Anh và Mỹ đã hội đàm tại châu
Âu. Tuy nhiên, các phái viên của Anh quyết định nhượng bộ khi họ biết tin về
chiến thắng của Macdonough trên Hồ Champlain. Trước tình trạng ngân khố ngày
càng thâm thủng phần lớn là do các chi phí quá lớn trong các cuộc chiến tranh
của Napoleon, các nhà đàm phán của Anh đã chấp nhận Hiệp định Ghent vào tháng
12/1814. Hiệp định đã chấm dứt tình trạng thù địch, đặt dấu chấm hết cho việc
phục hồi các cuộc chinh phục, đồng thời xác định một ủy ban phụ trách giải
quyết tranh chấp biên giới. Do không biết hòa ước đã được ký kết nên cả hai bên
vẫn tiếp tục giao chiến ở New Orleans, bang Louisiana. Dưới sự chỉ huy của
Tướng Andrew Jackson, quân Mỹ đã giành chiến thắng trên bộ vẻ vang nhất, chấm
dứt mãi mãi bất kỳ tia hy vọng nào của người Anh về việc tái lập sự ảnh hưởng
của họ ở phía Nam biên giới Canada.
Trong khi người Anh và người Mỹ đang đàm phán
giải quyết thì các đại biểu ủng hộ chủ nghĩa liên bang được các cơ quan lập
pháp của các bang Massachusetts, Rhode Island, Connecticut, Vermont và New
Hampshire lựa chọn đã tập trung ở Hartford, bang Connecticut để phản đối cuộc
chiến tranh của Ngài Madison. Bang New England đã cố giao thương với kẻ thù
trong suốt cuộc chiến, và một số vùng thực tế đã trở nên giàu có nhờ hoạt động
thương mại này. Tuy nhiên, những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang lại tuyên bố
rằng cuộc chiến tranh đã hủy hoại nền kinh tế. Do có thể xảy ra khả năng ly
khai khỏi liên minh, nên hội nghị đã đề xuất một loại các dự thảo Điều bổ sung
sửa đổi Hiến pháp nhằm bảo vệ lợi ích của bang New England. Song đoạn kết của
cuộc chiến - bị ngưng lại sau chiến thắng vẻ vang ở New Orleans - đã để lại
trong những người ủng hộ chủ nghĩa liên bang một vết nhơ nhục nhã về sự phản
bội mà họ không bao giờ có thể tẩy được.
CƠN GIÁC NGỘ VĨ ĐẠI LẦN HAI
Đến cuối thế kỷ XVIII, nhiều người Mỹ có học
thức đã tự nhận không còn theo những tín ngưỡng Cơ- đốc truyền thống nữa. Đáp
lại phong trào thế tục đang diễn ra trong thời đạ i, phong trào phục hưng tôn
giáo đã nhanh chóng tiến về phía tây vào nửa đầu thế kỷ XIX.
“Cơn giác ngộ vĩ đại lần hai này có nhiều loại
hình hoạt động và có sự khác biệt theo địa phương và cách thức thể hiện gắn bó
tôn giáo. Ở bang New England, tinh thần tôn giáo trỗi dậy đã kích thích một làn
sóng tuyên truyền mạnh mẽ trong xã hội. Ở phía tây New York, tinh thần phục
hưng đã khuyến khích sự xuất hiện những giáo phái mới. Ở vùng Appalachian thuộc
bang Kentucky và Tennessee, phong trào phục hưng đã củng cố các giáo phái Giám
lý và Baptist, và sản sinh một hình thức thể hiện tôn giáo mới - tụ họp trong
lều trại.
Trái với Cơn giác ngộ vĩ đại trong thập niên
1730, phong trào phục hưng ở miền Đông nổi tiếng vì không có kích động cuồng
loạn và công khai cảm xúc. Trái lại, những người phi tín ngưỡng đã kinh sợ với
sự im lặng đáng kính của những người đang mang những bằng chứng cho đức tin của
họ. Tinh thần phục hồi phái phúc âm ở bang New England đã dẫn đến sự ra đời
những hội truyền giáo liên giáo phái để truyền bá phúc âm tới miền Tây. Các
thành viên của những giáo phái này không chỉ hành động như những tông đồ vì đức
tin mà còn như những nhà giáo dục, những nhà lãnh đạo nhân dân và đại diện của
nền văn hóa đô thị miền Đông. Việc ấn hành sách báo và các hội giáo dục đã góp
phần đẩy mạnh truyền bá đạo Cơ- đốc. Nổi bật nhất trong số các hội này là Hội Thánh
kinh Hoa Kỳ thành lập năm 1816. Lòng hăng say hoạt động xã hội vốn được kích
thích bởi phong trào phục hưng tôn giáo đã góp phần mở đường cho các nhóm bãi
nô, Hội Khuyến khích Thanh tịnh và những nỗ lực cải tạo nhà tù, đồng thời chăm
sóc người tàn tật và người thiểu năng trí tuệ.
Miền Tây New York, từ Hồ Ontario đến dãy núi
Adirondack đã là nơi hoạt động của nhiều cuộc phục hưng tôn giáo trước đây -
hay còn gọi là phong trào Rực cháy khắp quận. Chính tại nơi đây có một nhân vật
nổi tiếng, Charles Grandison Finney, luật sư đã trải qua lễ hiển linh và chuẩn
bị giảng Phúc âm. Phong trào thúc đẩy lòng mộ đạo của ông đã được chuẩn bị chu
đáo, thu hút được đông đảo quần chúng và quảng bá rất rộng. Finney đã giảng đạo
ở khu vực Rực cháy khắp quận suốt thập niên 1820 và đầu thập niên 1830 trước
khi chuyển tới bang Ohio vào năm 1835 làm giảng viên thần học tại Đại học
Oberlin. Sau này ông trở thành hiệu trưởng của trường.
Hai giáo phái khác ở Mỹ là Mormons (các Thánh
ngày nay) và Seventh Day Adventists (giáo phái Tin vào lần xuất hiện thứ hai
của Chúa), cùng khởi đầu ở miền đất rực cháy này.
Ở khu vực Appalachian, phong trào phục hưng
tôn giáo có những nét đặc điểm giống Cơn giác ngộ vĩ đại của thế kỷ trước.
Nhưng tại đây, trung tâm của phong trào phục hưng là những cuộc gặp gỡ trong
lều - một nghi lễ tôn giáo kéo dài nhiều ngày cho nhóm tín đồ phải lưu lại nơi
hành lễ vì quá xa nhà. Những người tiên phong ở vùng thưa thớt dân cư đã tìm
đến những buổi hành lễ trong lều làm nơi trốn tránh cuộc sống đơn côi nơi biên
ải. Niềm hân hoan từ việc tham gia buổi lễ phục hưng tôn giáo cùng với hàng
trăm và có lẽ hàng nghìn người đã thôi thúc họ vui ca, nhảy múa, hò hét thâu
suốt các buổi lễ.
Phong trào phục hưng tôn giáo nhanh chóng lan
khắp các bang Kentucky, Tennesssee và miền Nam bang Ohio, trong đó người hưởng
lợi chủ yếu là tín đồ Giám lý và Baptist. Mỗi giáo phái đều có tài sản giúp họ
trở nên hưng thịnh ở miền biên ải. Các tín đồ Giám lý có bộ máy tổ chức rất
hiệu quả, chủ yếu dựa vào các mục sư - hay còn gọi là những kỵ sỹ kinh lý - tìm
đến những con người sinh sống ở khu vực biên giới xa xôi. Các kỵ sỹ kinh lý đến
với dân thường để giúp đỡ họ gây dựng quan hệ với các gia đình sống ven biên
giới. Họ hy vọng sẽ cải biến những con người này thành những tín đồ. Những người
thuộc Giáo phái Baptist không có tổ chức giáo hội chính thức. Những người giảng
đạo kiêm chủ trang trại của họ đqược tôn vinh là "những người nhận được
lời hiệu triệu của Chúa Trời". Họ học kinh thánh và lập nhà thờ nơi sau
này chính họ sẽ được thụ phong. Những ứng viên mục sư khác cũng xuất phát từ
các nhà thờ này, giúp giáo phái Baptist thiết lập được sự hiện diện xa hơn vào
miền đất hoang sơ. Sử dụng những phương pháp như vậy, giáo phái Baptist đã đóng
vai trò chủ đạo ở khắp các bang giáp biên giới và hầu hết miền Nam.
Cơn giác ngộ vĩ đại lần hai đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới lịch sử nước Mỹ. Sức mạnh của các tín đồ Baptist và Giám lý đã gia
tăng đáng kể so với những giáo phái chủ đạo khác thời thuộc địa - Anh giáo,
Giáo hội Trưởng lão và những người theo giáo đoàn. Sự khác biệt ngày càng lớn
trong nội bộ giáo hội Tin Lành Hoa Kỳ đã phản ảnh sự lớn mạnh và đa dạng của
một dân tộc đang vươn dậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét