Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.
Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.
Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào
Phần
XVIII: Người Tù Bất Khuất
(Kính
dâng lên anh linh của anh Cả chúng tôi là Phạm Gia Quang, khóa 20 Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt và dâng lên anh linh của em họ tôi Trung Úy Công Binh Kiến Tạo Tạ Mạnh
Cường, người tù bất khuất.)
Đất nước
chúng ta trải qua bốn ngàn năm văn hiến đã thành tựu trong việc gầy dựng
lên một quốc gia hùng mạnh và đầy sức sống mãnh liệt cũng như trong công cuộc
giữ nước đã bảo vệ được đất đai của tổ tiên chống lại không biết bao nhiêu lần
ngoại xâm từ phương Bắc.
Chúng ta
đã có những triều đại lẫy lừng như Đinh, Lê, Lý, Trần với những nền văn minh rực
rỡ và mỗi khi tổ quốc lâm nguy thì lại xuất hiện nhiều anh hùng hào kiệt để giải
nguy và cứu nước.
Bình Định
Vương Lê Lợi với mười năm nằm gai nếm mật để đánh đuổi quân Minh và phục hồi
giang san lấy lại Thăng Long thành.
Vua Quang
Trung Nguyễn Huệ với chiến thuật chuyển quân thần tốc đã đại phá quân Thanh chiếm
lại kinh đô trong hào quang ngời sáng.
Vua nhà
Trần với quốc sư Trần Thủ Độ, với danh tướng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn,
đã ba lần bẻ gẫy mộng xâm lăng của quân Mông Cổ làm rạng danh đất Việt và làm
quân thù thất kinh hồn vía.
Lý Thường
Kiệt đã xuất quân chinh phạt Tống và chiếm ba Quận phía Nam Trung Hoa viết nên
trang sử vàng cho dân Việt.
Nhưng qua
thế kỷ Hai Mươi thì vận nước bắt đầu suy vong và ngày 20-7-1954, Hiệp Định
Genève đã chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam Bắc qua vĩ tuyến 17 và hàng triệu
người đã phải bỏ lại quê hương đất Bắc sau lưng mà di cư vào miền Nam lánh nạn
Cộng Sản.
Một chế độ
Tự Do đã dần dần hình thành một cách vững mạnh trong miền Nam và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa cũng dần dà trưởng thành trong khói lửa của chiến tranh vì Miền
Bắc theo chế độ Xã Hội chủ Nghĩa, đã theo mệnh lệnh của Cộng Sản Quốc Tế Nga –
Tầu, lại xua quân qua vùng Phi Quân Sự để tấn công miền Nam, vi phạm trắng trợn
Hiệp Định Genève vừa ký kết.
Khi
ấy trong miền Nam đang vui hưởng cảnh thanh bình và an lạc nhưng các chàng
trai, các thanh niên đã lần lượt phải giã từ bút nghiên lên đường nhập ngũ theo
tiếng gọi của núi sông để bảo vệ nền Tự Do cho miền Nam chống lại họa Cộng Sản
muốn nhuộm đỏ cả giải đất hình chữ “S”.
Họ đã trở thành những người lính, những sĩ quan tài giỏi thao lược và trở thành
những anh hùng lưu danh muôn thủa trong các binh chủng của QLVNCH, nối gót cha
ông và nối gót tiền nhân, đi trên khắp các nẻo đường của đất nước để bảo vệ quê
hương chống họa xâm lăng từ phương Bắc.
Hầu như gia đình nào cũng có con em nhập ngũ trong những năm đầu của thập niên
sáu mươi tại Sài Gòn và khắp các tỉnh miền Nam.
Gia đình tôi có chín anh em không kể “con bé dại”, Mẹ tôi vẫn gọi đứa em
gái vắn số của tôi như vậy khi nó mất đi mới có vài tháng tại Hải Phòng
lúc đó tôi nhớ còn ở đường Cát Dài chưa dọn về Cầu Đất.
Tôi tuy sanh đẻ tại Nam Định nhưng trong ký ức không còn nhớ gì về thành phố
nơi chôn nhau cắt rốn này của mình, bởi mới sanh ra thì Ba Mẹ tôi đã đi tản cư
liên miên ra khỏi Nam Định vì các thành phố lớn đều là mục tiêu cho các cuộc tấn
công và phá hoại của Việt Minh và giao tranh của Pháp-Nhật tại Đông Dương. Người
dân lành chỉ còn biết trốn chạy lúc thì trốn Việt Minh, lúc thì trốn quân phiệt
Nhật để qua vùng Pháp kiểm soát, lúc thì trốn các cuộc giao tranh giữa Pháp -
Việt Minh, thật vô vàn cơ cực.
Thành phố Hải Phòng là nơi thiếu thời của tôi và ba ông anh lớn và là nơi mà
tôi còn ghi lại được nhiều kỷ niệm, nhất là những năm tháng theo học tại trường
Dòng Saint Joseph. Hai đứa em út thì sanh trong Nam nhưng ba em gái tôi sanh tại
miền Bắc lúc đó cũng quá nhỏ nên tôi không nhớ tụi nó nhiều hay có nhiều kỷ niệm
như với ba ông anh trai.
Bốn anh em trai lớn trong gia đình tôi mà Ba Mẹ đặt tên Quang, Minh, Chính, Đại,
thực tế thì tính tình lại không giống nhau và có những cuộc đời cũng khác nhau
dù là cùng một cha một mẹ.
Ông anh Cả thì hiền lành và đạo đức nhưng có khuynh hướng thiên về quân sự ngay
từ nhỏ khi thích bầy binh bố trận với các tên lính bồng súng và các xe jeep bằng
thiếc mà Ông Nội tôi đúc cho và anh cũng rất say mê họa các hình võ tướng ngày
xưa như vua Quang Trung, Lê Lợi , Trần Hưng Đạo với áo mão gươm đai.
Ông thứ Hai thì tinh khôn trước tuổi và có lẽ lấy hết sự khôn lanh của ông anh
đầu, có lẽ vậy mà sau này khi di cư vô Nam mới hai mươi tuổi đã lấy vợ và sống
tự lập từ khi vừa xong hai cái Tú Tài ở Trung Học Võ Tánh, Nha Trang.
Ông thứ Ba thì trầm tĩnh hơn, khôn ngoan và chín chắn hơn trong bốn anh
em, có vẻ như già trước tuổi mà hồi bé tôi vẫn gọi anh là “ông cụ
non”. Cũng không ngờ là “ông cụ non” ấy sau này lại là thủ khoa của khóa 13 sĩ
Quan Hải Quân Nha Trang.
Khi anh đậu thủ khoa thì một số người ngạc nhiên bởi lẽ trong khóa 13 có một
anh là cháu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên ai cũng nghĩ rằng anh này, vì con
ông cháu cha, sẽ là thủ khoa. Nhưng xét lại điểm thì anh Ba tôi hơn anh kia đến
27 điểm, quá xa để có thể thay đổi thứ bậc được và đây cũng là một điệm son của
chế độ VNCH chúng ta, khác hẳn chế độ Cộng Sản mọi việc đều do chỉ định theo
giai cấp và đảng tịch chứ không do tài cán.
Còn tôi khi di cư vào Nam mới lên chín tuổi và tính vốn hiền và nhút nhát từ nhỏ
nên bảo sao làm vậy là yên thân và được Ba Mẹ khen ngoan chứ không hay bị la rầy
vì nghịch ngợm như ông anh thứ Hai.
Ba Mẹ tôi cứ nói là ông anh thứ Hai lanh quá nên lấy hết cái khôn ngoan của ông
anh Cả rồi nhưng không ngờ khi lớn lên thì ông anh Cả lại nổi danh hơn nhiều so
với ông thứ Hai dù là cả hai anh em đều là sĩ quan phục vụ cho Sư Đoàn 5 Bộ
Binh đóng tại Lai Khê, Bình Dương.
Khi chúng tôi lớn lên thì vận mệnh đất nước nổi trôi lại đưa bốn anh em tôi đi
theo bốn con đường khác nhau, ngay sau khi mỗi người vừa đỗ xong bằng Tú Tài
toàn phần.
Anh Cả sau một thời gian vài năm đi dậy học các trường tư thục tại Sài Gòn thì
tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 20 và trong thời gian thụ huấn
anh có biệt hiệu là “Quang Râu” vì có bộ râu quai nón đẹp rất là con nhà võ.
Anh tôi đã theo chân cậu em họ là Tạ Mạnh Huy đang theo học khóa trước là khóa
19.
Ông thứ Hai vào ngành Quân Y và thuyên chuyển về Sư đoàn 5 Bộ Binh tại Bình
Dương để lo về y tế cho các thương bệnh binh hay cùng hành quân với tiểu đoàn.
Một vài người lính của anh tôi về phép Sài Gòn ghé lại nhà chơi thường cười nói
với Mẹ tôi là ông Trung Úy Minh, tên anh Hai tôi, bây giờ “ngon” rồi chứ lúc đầu
ông ấy thấy máu là muốn xỉu à, vậy thì làm sao mà cấp cứu thương binh?
Ông thứ Ba vào khóa 13 sĩ quan Hải Quân Nha Trang và vui với những chuyến hải
hành lấy biển khơi làm nhà, ít có dịp lên “Bờ”.
Có một thời gian anh tôi phục vụ trong đoàn Biệt Hải phối hợp với toán người
Nhái oai hùng của HQVN để thi hành những hải vụ nguy hiểm tại vùng Phi Quân Sự
làm cho Mẹ tôi nhiều khi cũng ăn ngủ không yên, nhưng làm sao được vì người
trai trong thời loạn ly lúc đó thì chỉ có một chí hướng duy nhất là chống lại sự
xâm lăng của đám vô thần cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt để giữ vững miền Nam bằng
mọi giá.
Anh Ba tôi những khi từ Nha Trang về phép Sài Gòn và khi ngồi ăn trong không
khí ấm cúng của gia đình vừa nhấm nháp các món ăn mà Mẹ và các em gái tôi nấu,
thường hay kể về người Nhái HQVN với giọng nể phục.
Anh kể về
những trận đánh hầu như huyền thoại, về các cuộc hành quân chớp nhoáng rồi rút
lui của toán Biệt Kích người Nhái này mà ít khi nói về đoàn Biệt Hải của anh,
nhưng tôi ngầm hiểu rằng anh tôi cũng là những sĩ quan đã tham dự trong các trận
chiến âm thầm nhưng vô cùng hiểm nguy với cái chết và cái sống chỉ cách nhau
gang tấc đó nữa nhưng anh không kể ra vì sợ Mẹ lại lo buồn.
Vì từ khi Ba tôi mất thì Mẹ tôi đã ở vậy nuôi con lúc mà cậu em út của tôi mới
lên một, và tất cả tình thương thì Mẹ đã hết dành cho chúng tôi dù là hầu
như các con đều đã lớn. Ngược lại thì anh em chúng tôi cũng dồn tình yêu
thương dành cho Mẹ và luôn làm vừa lòng cũng như tránh làm gì cho Mẹ phải lo
nghĩ.
Các anh tôi nhất là anh Cả và anh Ba luôn hiếu thảo, mỗi tháng lãnh lương xong
là anh Cả cho vài người lính về phép để ghé nhà đưa hầu như toàn bộ số lương
cho Mẹ tôi. Anh Ba thì trong thời gian huấn luyện tại trường sĩ quan Hải Quân
Nha Trang lãnh lương Trung sĩ một ngàn ba một tháng thì chỉ giữ lại đúng một
trăm đồng bỏ túi và trừ các khoản chi phí thì gửi hết phần còn lại về cho Mẹ.
Tháng nào tôi cũng đạp xe lóc cóc ra Bưu Điện Sài gòn để lãnh tiền lương anh gửi
về và những dịp Tết, Trung Thu thì lại lóc cóc đạp xe ra Bưu Điện để gửi bánh
trái ra Nha Trang cho anh.
Nhưng có điều tôi ít ngờ tới là cuộc đời tôi và anh Cả tôi lại có những thời
gian gắn bó bên nhau trong những năm tháng lưu đầy nơi đất Bắc sau khi mất miền
Nam.
Tôi lớn lên trong thành phố Sài Gòn hoa lệ. Sài Gòn là thủ đô miền Nam nhưng với
tôi Sài Gòn là tất cả, là thời niên thiếu, là thời hoa niên học trò tại trường
Trần Lục, Tân Định, là Chu Văn An trong Chợ Lớn, là nơi tôi đã trưởng thành
trên con đườngTrương Minh Giảng thân thương với rạp hát Văn Lang gần bên, trường
Lê Bảo Tịnh trước cửa, là nhà cô ruột tôi với các cậu em họ trong ngõ hẻm bên cạnh,
và quá nhiều kỷ niệm.
Trước khi thi Tú Tài, tôi cũng theo anh Cả đi dậy kèm các trẻ em tư gia để kiếm
thêm giúp cho Mẹ. Cho đến lúc đỗ Tú Tài toàn phần xong thì một hôm, tôi tình cờ
đọc một tin trên báo Chính Luận, cái tin tức mà đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời
sinh viên của tôi.
Đó là Không Quân Hoa Kỳ trong căn cứ Tân Sơn Nhất của KQVN tại Sài
Gòn đang cần tuyển nhân viên. Vì muốn giúp cho Mẹ nhiều hơn là đồng lương ít ỏi
của kèm trẻ tại tư gia nên tôi tham dự thi tuyển và được tuyển dụng về Phân Đội
Sáu của Đệ Thất Không Đòan, một đơn vị quân báo của không quân Hoa Kỳ.
Tôi bắt đầu bước vào ngành tình báo lúc nào không hay nhưng tôi lại cảm thấy rất
thích thú với vịêc làm mới mẻ này của mình vì hai lẽ. Thứ nhất, tôi sẽ giúp cho
gia đình vững vàng hơn với số lương tháng đưa về cho Mẹ nhiều hơn, vì sau khi
Ba tôi mất thì Mẹ nói là còn nợ nần nhiều với chi phí cho nhà thương Grall bao
nhiêu tháng trước kia. Thứ hai là tôi có dịp góp mặt trực tiếp vào công cuộc chống
lại họa xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và diệt trừ lũ Cộng phỉ VC đang
ngày đêm đốt phá xóm làng giết hại dân lành.
Trước đó khi nghĩ đến ba anh trai tôi đang xông pha ngoài chiến trận mà mình
thì cứ mãi trong học đường làm nhiều lúc tôi cũng không yên trong thâm tâm và
mang mặc cảm tội lỗi với cuộc sống quá yên bình tại Sài Gòn.
Nhất là có lần tôi đã đến tham dự buổi khao quân của anh Cả tôi lúc đó là Trung
Úy, đại đội trưởng đại đội Trinh Sát của Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 BB ở Lai Khê về
các chiến công lẫy lừng của đại đội Trinh Sát. Những chiến công thì nhiều nhưng
nổi bật có thể kể đến trận Ấp Ba, trong đó đại đội đã quét sạch được VC ra khỏi
Ấp mà đơn vị không bị một tổn thất nào trong khi tiểu đoàn bạn đã không thể vào
nổi mà còn khiêng ra ngoài gần chục lính bị thương; và chuyến nhẩy trực thăng vận
xuống mật khu VC phá hủy một căn cư “hậu cần” của địch.
Tôi đã thấy Trung Đoàn Trưởng lúc đó là Trung Tá Lê Nguyên Vỹ lên micro biểu
dương chiến công của đại đội Trinh Sát trực thuộc trung đoàn này, gắn huy
chương cho các sĩ quan binh sĩ Trinh Sát có nhiều công trận và anh tôi được Anh
Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
Tôi có dịp nói chuyện với các sĩ quan trẻ tuổi trong đại đội trinh sát và thấy
họ thật dễ mến hiền hòa nhưng lại rất dũng cảm hoàn thành được nhiều cuộc hành
quân gian khổ mà Trung Đòan giao cho.
Mỗi Trung Đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ có một đại đội Trinh Sát được trang bị
với toàn những vũ khí tối tân và được xem như đơn vị tác chiến cơ động với hỏa
lực mạnh nhất, thiện chiến nhất và là “con cưng” của Trung Đoàn. Đơn vị
Trinh Sát này luôn trong tình trạng ứng chiến và nhận lệnh thẳng từ Ban Chỉ Huy
của Trung Đoàn và thường được giao cho những nhiệm vụ khó khăn mà tiểu đoàn bạn
không thể thực hiện được.
Vì thế mà anh Cả tôi ít khi thấy về phép mà mỗi tháng chỉ cho hai người lính về
Sài Gòn thăm gia đình họ rồi nhân tiện đem tiền lương của anh về cho Mẹ tôi mà
thôi. Riết rồi anh Cả tôi không những nổi tiếng trong Trung Đoàn là một cấp chỉ
huy không sát quân mà còn là một người con rất hiếu thảo.
Mẹ tôi mỗi tháng khi thấy chiếc xe jeep quân đội ngừng trước cửa hàng, lúc đó Mẹ
tôi đã chuyển qua bán quần áo trẻ em, trên đường Trương Minh Giảng thì lại phập
phồng lo sợ cho đến khi hai người lính nói là ông đại đội trưởng gửi lương
tháng về cho Mẹ.
Thời gian đó, tôi thấy một niềm tự hào không những về anh mình mà về cả đại đội
trinh sát thiện chiến của anh, về Trung Đoàn 7 BB, về Sư Đoàn 5 BB và cả về
QLVNCH nữa đang trải rộng những hành quân ngày đêm ra trên khắp bốn vùng chiến
thuật trong công cuộc tiễu trừ Cộng phỉ này ra khỏi miền Nam.
Bởi thế nên tôi đã quyết định dấn thân và và lao mình vào làm việc với hơn năm
năm trời cho Phân Đội Sáu của không quân HK.
Tôi bay đi về từ Sài Gòn ra Đà Nẵng thường xuyên để cùng phối hợp với các đơn vị
quân báo VN của Quân Đoàn I. Những khi ở Sài Gòn thì tôi cùng Phân Đội này ghé
lại làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè để phối hợp thêm tin tức về những
hoạt động của VC trong vùng của Ba Chiến Thuật.
Trong thời gian này tuy tôi dồn hết nỗ lực vào làm việc cho Phân Đội Sáu nhưng
vẫn không quên việc học vấn nên cố theo học ban Cử Nhân Anh Văn tại Đại Học Văn
Khoa Sài Gòn dù gập rất nhiều khó khăn vì không thể đến trường thường xuyên.
Số tôi luôn có quí nhân phù trợ hay sao cho nên có một anh bạn thân thời học
chung trường Chu Văn An là Nguyễn Đình Phương đã lấy dùm “cua” cho tôi đầy đủ
và năm đó không hiểu có sao may mắn chiếu vào hay không mà tôi đậu luôn
hai chứng chỉ Văn Minh VN khóa I và đậu Văn Chương Văn Minh Mỹ khóa II.
Có một kỷ niệm mà tôi không quên được là khi tôi vừa xong một chuyến công tác
ra Đà Nẵng, khi bay về Sài Gòn thì ngày hôm sau phải vào vấn đáp cho chứng chỉ
Văn Chương Văn Minh Mỹ.
Hai giáo sư theo như sinh viên thì thầm thì đều khó như nhau. GS Diệm thì nhớ mặt
các SV thường xuyên tới lớp và GS người Mỹ thì “quay” SV tối tăm mặt mũi lại về
các tiêu thuyết phải đọc trong chương trình.
Một SV lên trước tôi là người mà không hề vắng mặt thì lại bị thầy Diệm hỏi là
sao tôi không thấy anh đến lớp bao giờ và bị đánh trượt oan mạng. Khi tôi có
tên lên kế tiếp thì chắc mẩm là sẽ ăn một quả trứng to tướng vì tôi chẳng hề đến
lớp thầy bao giờ nhưng thật lạ lùng là thầy hỏi thẳng vào cuốn tiểu thuyết The
Scarlet Letter như vậy là tôi trúng tủ vì học quyển này rất kỹ.
Đến khi qua phòng bên vào vấn đáp với GS Mỹ thì chính ông này lại hỏi là tôi có
thường đến lớp hay không mới lạ chứ? Tôi bèn trình bầy sự thật là vì chiến
tranh đang lan rộng và tôi đang phục vụ cho Phân Đội Sáu, một đơn vị Quân Báo của
Đệ Thất Không Đoàn HK, nên không thể có mặt được thường xuyên. Nhưng nếu mà GS
thông cảm cho tôi 10 điểm thì tôi sẽ chắc chắn đậu chứng chỉ này và tôi hứa sẽ
thu xếp thời gian để có mặt tại giảng đường nhiều hơn.
Chả hiểu ông bà phù hộ hay sao mà ông GS Mỹ này cho tôi đúng 10 điểm như yêu cầu.
Quả là học tài thi phận. Mẹ tôi có dịp lại khen tôi trước mặt các bà bạn của Mẹ
hay với các chị đang giúp may vá trong nhà là tôi học giỏi vì vừa đi làm vừa đi
học nữa mà được như vậy. Riêng tôi khi gập mấy cô bạn của các em gái tôi thì có
vẻ hơi làm cao một tí.
Thế rồi chiến sự bùng nổ ra khắp bốn vùng chiến thuật. Sau hai lần VC mở cuộc tổng
tấn công Tết Mậu Thân 1968 thì tôi cảm thấy người Mỹ hình như đang muốn rút bớt
quân số của họ đang tham chiến tại miền Nam về nước.
Một hôm trong năm 1969, các người bạn Mỹ trong Phân Đội Sáu nói với tôi là họ
đang chuẩn bị rời VN và muốn giới thiệu tôi qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn.
Tôi đến Tòa Đại sứ Mỹ nộp đơn để tham dự một kỳ thi và trúng tuyển vào làm cho
họ nhưng cũng có duyên nghiệp với ngành tình báo hay sao, cho nên từ Tòa Đại Sứ
họ chuyển chúng tôi gồm 27 nhân viên qua yểm trợ cho Phủ Tổng Thống, nhưng nhiệm
sở thực tế lại là Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo (PĐUTƯTB) trực thuộc Phủ Tổng
Thống.
Chính vì thế mà sau khi miền Nam sụp đổ, tôi thường hay bị giam chung với các
người tù thuộc các ngành ANQĐ, CSĐB hay PĐUTƯTB, hay Quân Báo.
Trong chế
độ VNCH trước kia của chúng ta, có rất nhiều các quân dân cán chính tài giỏi và
anh hùng, không những khi đối mặt với quân thù ngoài trận tuyến nhưng ngay cả
khi họ sa vào trong ngục tù, và lưu đầy, họ cũng âm thầm chịu đựng một cách can
trường mọi sự trả thù tàn nhẫn và phi nhân bản mà kẻ thù dành cho họ.
Thời gian lưu đầy ở ngoài Bắc có một dịp tôi được gập những người Biệt Kích nhẩy
toán ra Bắc thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các anh đều sống rất kỷ luật, vẫn
tôn trọng cấp bậc quân đội, và buồng giam đều giữ sạch sẽ ngăn nắp. Khi ngồi
tâm sự với nhau, các anh cũng nói tới cái niềm đau không thể diễn tả được khi
nghe tìn Sài Gòn đâ mất ngày 30-4-1975.
Lần đầu tiên, nhiều anh đã không còn cầm được nước mắt vì chính trong thâm tâm
các anh cũng như đồng bào miền Bắc đều trông đợi một ngày nào đó QLVNCH trong
Nam sẽ ra giải phóng miền Bắc và các anh sẽ thoát cảnh tù đầy rồi trở về mái
nhà xưa; nhưng tất cả đã hoàn toàn sụp đổ một cách chua cay và đen tối.
Khi nước mất thì nhà tan, ngoài anh Ba tôi được cử đi tu học một khóa HQ tại
Rhode Island, HK và gia đình vợ con anh qua cơ quan D.A.O đã đi thoát được trước
ngày Sài Gòn sụp đổ thì ba anh em tôi còn lại đều vào tù.
Bên gia đình cô Hanh là em út của Ba tôi với tám trai bốn gái thì bẩy con trai
đã trong quân đội và năm người đi “cải tạo” sau ngày 30-4, chỉ trừ một cậu
là hạ sỹ quan, và một cậu nữa giải ngũ thì tránh được cảnh ngục tù, còn cậu út
thì được miễn dịch.
Nhà Mẹ tôi thì ngoài mặt đường Trương Minh Giảng, nhà cô tôi thì trong hẻm
nhưng chỉ cách nhau vài trăm thước nên bốn anh em trai chúng tôi rất thân với
các cậu em họ dù là vài anh lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều. Trong những năm của
thập niên sáu mươi thì hai gia đình từ từ vắng người dần bởi các anh tôi và các
em họ tôi đều đã lần lượt nhập ngũ vào Thủ Đức hay Đà Lạt.
Mẹ tôi vẫn nói là cô ruột tôi rất là can đảm vì một lúc mất đến bốn người con
trai sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Anh Hải là anh lớn thì sau hai năm “cải tạo” đã trốn được ra khỏi trại giam ở
trong Nam và trốn vào rừng nhưng mất tích và không nghe tin tức gì từ đó. Điều
lạ lùng là một thời gian cả chục năm sau, có lần tôi lại nằm mơ thấy anh y như
lúc anh còn sống, và anh dắt tôi vào trong một khu rừng rồi chỉ vào một gốc cây
rồi nói với tôi rằng: “Đại ơi! Tôi ở chỗ này này”. Gốc cây ấy to như gốc
cổ thụ và phát ra nhiều ánh sáng vàng nhạt trong khi những thân cây khác ở
chung quanh thì mờ mờ trong bóng tối làm cho tôi tin rằng anh đã mất tại gốc
cây này và đã hiển linh.
Khi tỉnh dậy tôi nhớ giấc mộng đó như in và thông báo cho gia đình bên cô tôi
biết mà làm ma chay cho anh bởi lẽ cô tôi nhất định tin rằng anh đã trốn được
qua Thái Lan dù là hơn mười năm đã trôi qua không hề có một chút tin tức nào về
anh.
Anh thứ tư là Trường và thứ sáu là Linh thì mất tích và chết trên biển trên đường
đi tìm Tự Do sau khi ra khỏi trại giam vài năm.
Anh Trường chết trong tình trạng rất là tội nghiệp vì khi ra tù thì anh nguyện
ăn chay trường cho nên khi con thuyền lênh đênh trên biển nhiều ngày và hết
lương thực, mọi người vớt được cá và sống sót nhưng anh nhất định không chịu ăn
cá và nhịn đói - anh là người duy nhất thiệt mạng trên chuyến tầu đó.
Nhưng câu chuyện về anh Cường là con thứ ba của cô ruột tôi mới là câu chuyện
bi thương và hùng tráng nhất của một người tù bất khuất đã có những hành động
phi thường làm cho kẻ thù phải khiếp đảm.
Anh Cường, Tạ Mạnh Cường từ nhỏ đã ưa thích võ nghệ nên được cô chú tôi cho đi
học võ cùng với người em là Tạ Mạnh Trường tại võ đường của Tổ Sư Lộc người
sáng lập ra môn phái Vovinam ở Hà Nội.
Tôi nhớ lúc đó tôi mới năm tuổi cùng ba ông anh tôi được Ba Mẹ cho lên chơi Hà
Nội ở nhà cô tôi ba tháng Hè. Anh Cường đã huấn luyện võ cho chúng tôi với thế
tập đầu tiên là lộn mèo qua lưng một người khác trước khi có thể tập tự mình
tung người lên trên không và lộn một vòng. Các anh thì đều tập được nhưng tôi
có lẽ còn quá nhỏ và không có năng khiếu võ thuật hay sao mà lộn hoài không
xong. Lúc ấy anh Cường thường nhìn tôi mỉm cười lộ chiếc răng vàng ra và cho
tôi miễn tập làm cho tôi vô cùng khoái chí vì “ông thầy”không phạt mình.
Anh kể rằng Tổ Sư Lộc võ nghệ uyên thâm không biết đâu mà lường và là người mà
lần đầu tiên trong đời anh thấy Tổ Sư chỉ ngồi tại bàn giấy và nghe tiếng gió
mà tránh hết các đòn tấn công của học trò đứng chung quanh.
Anh Cường khi di cư vào Nam thì đã lên đẳng cấp Võ Sư và tôi đã có dịp hân hạnh
được xem anh và phái đoàn Vovinam biểu diễn tài nghệ tại rạp Thống Nhất lúc đó
tên là rạp Norodome tại Sài Gòn vào khoảng năm 1956. Đặc biệt của môn phái
Vovinam là biểu diễn không có nệm tapis như Nhu Đạo hay các môn võ khác mà quật
nhau thẳng trên sàn gỗ và dao sử dụng là con dao thiệt.
Dưới khán giả cũng có nhiều môn phái bạn ngồi xem và tôi cũng như tất cả
khán giả đều vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt khi anh Cường biểu diễn cú chặt bằng
cạnh bàn tay đánh rơi con dao của một võ sinh khác đóng vai kẻ cướp tấn công
anh và màn anh tung người nhẩy qua một võ sinh để dùng hai chân cặp cổ quật một
võ sinh khác.
V
õ sinh bị chặt rớt con dao thì cổ tay vẫn còn đau ê ẩm vì anh Cường biểu diễn
thật, và võ sinh bị cặp cổ thì dù đã lộn người theo thế quật nhưng sau đó vẫn
còn hãi sợ vì chút nữa thì bị trặc cổ.
Tôi thấy vị Võ sư trưởng môn phái Nhu Đạo và nhiều người của môn
phái bạn và trong đó có chú bé con là tôi cũng đứng lên vỗ tay hoan hô mấy màn
biểu diễn của anh Cường.
Vì hai nhà ở gần nhau nên tôi thường chạy qua nhà cô tôi chơi.
Có lần tôi vừa qua thì thấy cô em họ tôi đang nấp sau cánh cửa, tay cầm
cái gáo bằng nhựa định hù anh mình. Khi anh Cường vừa bước chân qua cánh cửa
thì cô ta đập cái gáo vào đầu anh Cường để rỡn chơi thôi nhưng phản xạ tự
nhiên, anh vung tay lên chém và cái gáo bay tuốt ra sân, còn cô em họ tôi thì mất
cả hồn vía ôm mặt khóc hu hu làm tôi không nhịn được cười.
Anh giòng giỏi con nhà võ vì chú ruột của anh có một gánh xiếc lưu diễn khắp miền
Bắc qua nhiều tỉnh thành và từ vùng trung du lên cả mạn ngược, thời gian trước
năm 1954. Đi đến đâu thì gánh xiếc này cũng đều gặt hái thành công. Gánh xịêc họ
Tạ này nổi danh vì ông chú của anh là một người võ nghệ cao cường thường tay
không chế ngự được con cọp và điều khiển nó theo ý mình.
Anh như vậy là nối giõi con đường võ nghệ theo chân ông chú chứ Ba của anh thì
võ vẽ chẳng biết một tí gì lại rất là hiền lành và chỉ chuyên về buôn bán.
Tuy hai anh em đều theo học cùng lúc với Tổ Sư Nguyễn Lộc nhưng anh Cường tài
nghệ giỏi hơn người em cho nên khi vào trong Nam một thời gian sau thì anh Cường
được mời làm huấn luyện viên cho Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn.
Tôi nhớ có một lần tụi tôi cũng năm sáu người ra quán Mai Hương góc đường Lê Lợi
và Công Lý ngồi ăn kem và nhìn ông đi qua bà đi lại cho vui.
Khi ấy, quán này có một toán cao bồi hay đóng đô tại đây và quấy nhiễu các
khách hàng mà chủ quán cũng không dám ho he gì vì sợ chúng phá quán. Bọn chúng
đông cũng khoảng chục mạng, tay nào tay nấy ăn mặc quần áo theo kiểu chim cò
đúng là dân chơi cao bồi thứ thiệt, và hôm đó không biết chúng ngứa mắt ra sao
mà tính qua bàn chúng tôi cà khịa.
Anh Cường vẫn thản nhiên như không, vẫn cười nói với chúng tôi và chỉ ngoái lại
bàn phía sau nói với tên đầu đảng cao bồi này anh là Huấn Luyện Viên võ thuật
cho Cảnh Sát và muốn hơn thua thì đến Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát.
Nghe đến đó thì chúng lấm lét rồi từ từ dông hết làm cho tôi vừa phục anh vừa
khoái chí nữa vì “ông thầy” đã cho bọn chúng một bài học nhưng không cần phải
ra tay. Cũng từ đó thì đám cao bồi này dời “đô” đi nơi khác không còn thấy tại
quán kem Mai Hương nữa.
Tôi hồi nhỏ ở Hải Phòng thì theo học tại trường Dòng St. Joseph, không biết
có phải vì kỷ luật và giáo dục tại trường này rất chặt chẽ hay không mà tính
tôi vốn nhút nhát lại càng thêm hay sợ hãi và thiếu tự tin. Chính vì thế mà hồi
mới di cư vào Sài Gòn, đi đâu có anh Cường hay các em họ con cô tôi thì tôi rất
là yên tâm và tụi tôi thân với nhau nhất vì toàn là con trai và mang tiếng là
em họ nhưng các anh ấy đều lớn tuổi hơn tôi nhưng vẫn thân mật gọi tôi bằng
"anh" theo đúng lễ giáo ngày xưa.
Bên bác Phán là chị ruột Ba tôi thì ở Hải Dương và gia đình bác lại toàn con
gái hay các anh thì quá lớn không thèm chơi với bọn tôi cho nên bốn anh em
chúng tôi từ Hải Phòng thường được Ba mẹ mua vé máy bay mỗi dịp Hè để đến thăm
cô tôi tại Hà Nội nhiều hơn là xuống Hải Dương. Những lúc như vậy thì có cơ hội
tập hợp hết cả lũ con trai với nhau hơn chục đứa và tha hồ nghịch phá bởi cô
tôi rất dễ tính và lại hay chiều con cháu.
Thế rồi Hiệp Định Genève di cư vào Nam, bốn anh em trai tôi lại có dịp ở chung
một thời gian với các cậu em họ trong nhà cô tôi tại Bến Chương Dương cho đến
khi cô tôi dọn về Trương Minh Giảng thì chúng tôi mới tách ra nhưng vẫn giữ
tình anh em rất là thân thiết.
Rồi lớn lên, mỗi người vào quân ngũ và bay đi bốn phương trời cho đến ngày mất
miền Nam thì tôi, anh Cả tôi và anh Huy là con trai thứ năm của cô tôi bị đưa
ra miền Bắc.
Anh Cường, Trường và anh Linh vì là Trung Úy Công Binh và văn phòng nên bị giam
giữ tại Suối Máu trong miền Nam. Ít năm sau thì anh Linh và anh Trường được thả
về nhưng anh Cường vẫn bị giữ lại dù anh chỉ là Công Binh Kiến Tạo xây dựng cầu
đường mà thôi.
Lý do giản dị vì anh là cái gai trong mắt của bọn cán bộ trại bởi tính tình
cương trực của anh hay bênh vực đồng đội nên anh bị ghép vào tội chống đối
"cải tạo và lao động".
Những khi họ đọc lệnh thi hành kỷ luật với người tù nào mà anh thấy bất công là
anh đứng lên phản đối, đòi lại sự công bằng.
Sau đó họ di chuyển anh về một trại trong vùng Tống Lê Chân gần biên giới Việt-Miên
và anh bị giam trong thùng "connex" sau lần bênh vực một người bạn
tù.
"Connex" là một loại thùng lớn bằng tôn dầy của quân đội Mỹ trước
kia dùng để chứa các kiện hàng di chuyển theo đường biển cho quân đội Hoa
Kỳ trong miền Nam.
Cái nắng khủng khiếp của vùng rừng núi nhất là vào giữa trưa như hun đốt anh
trong hỏa lò cộng với sự bỏ đói và bỏ khát là một hình thức tra tấn tàn bạo của
trại giam mục đích để tiêu diệt ý chí và dũng khí của anh, nhưng anh vẫn
không đầu hàng để được thả ra khỏi "connex" sớm hơn.
Các bạn anh bên ngoài đã khôn khéo mua chuộc được mấy tay nhà bếp nên anh
đã được cho ăn khá hơn với miếng thịt hay miếng cá nằm dưới ít khoai sắn và họ
đã chuyển vào cho anh được cái đinh bù loong mười phân.
Chính cái
đinh này đã cứu anh sống sót sau hai tuần giam trong "connex". Mỗi
khi họ cho ít nước hay phần ăn ngày một lần thì khi họ đóng cánh cửa thì anh lại
nhét cái đinh này vào khe cửa, nhờ thế mà những trưa Hè nắng như đổ lửa và
anh sắp ngạt thở trong cái thùng bít bùng này thì anh bò lại gần khe cửa và ghé
mũi sát vào cái khe hở nhỏ xíu đó mà hít được ít hơi mát từ bên ngoài.
Sau hai tuần lễ hành hình trong thùng "connex" anh được khiêng ra
ngoài nhưng quả là họa vô đơn chí vì chỉ một thời gian ngắn sau đó thì trực trại
kêu anh ra "làm việc" vì anh vẫn nhất định không chịu ký tên vào biên
bản nhận "tội" như họ đã viết sẵn.
Các anh em trong buồng đều bảo anh là không nên ra, mỗi người một câu:
-"Cậu cáo ốm ở lại trong buồng thì tụi nó làm gì được?"
-"Giăng mùng lên chui vào ngủ là xong, kệ nó."
-"Mình cảm thấy lành ít dữ nhiều đó nha, nên cẩn thận."
Cáo ốm ở lại trong buồng thì anh không thể làm được vì như thế là tỏ ra sợ
chúng nó, anh vốn là con nhà võ, hơn nữa lại là võ sư không thể để mất danh dự
của môn phái, nên anh không chịu cáo ốm như vậy vả lại anh nói trước sau
gì cũng phải đối mặt với họ một lần:
-"Các cậu cứ để tôi ra xem chúng giở trò gì? Mình trong tay nó mà,
hôm nay không ra gập chúng thì ngày mai cũng phải gập thôi."
Anh từ từ đi ra ngoài cổng trại chiều hôm đó trong sự lo âu của các bạn tù cũng
là các sĩ quan chế độ cũ.
Khi anh ra đến nơi thì thấy tay Thượng Úy chính trị viên đã ngồi sẵn tại bàn với
các cán bộ trực trại. Tên Thượng Úy mặt lạnh như tiền đưa tờ giấy cho anh ký nhận
"tôi trạng".
Anh bình tĩnh đưa lại tờ giấy:
-"Tôi không hiểu tôi mắc vào tội gì?"
Tên Thượng Úy đập bàn như hét lên:
-"Anh còn ngoan cố hả, không ký thì bỏ tù cho rũ xương ra."
Hắn hầm hầm đứng lên và bước ra khỏi phòng trực trại.
Anh chuẩn
bị bước ra cửa để vào trại thì mấy tay cán bộ như có dàn cảnh trước đã ngăn anh
lại:
-"Chúng tôi còn cần "làm việc" với anh chưa xong.
Anh cảm
thấy một cái gì không ổn nhưng đã quá trễ để rút lui và chờ xem chúng giở thủ
đoạn gì.
Tay cán bộ vừa dứt lời thì các cửa sổ được đóng kín lại chỉ chừa có cửa ra
vào là còn mở và từ ngoài bất ngờ hàng chục cán binh mang theo gậy gộc và
thanh sắt xông vào phòng. Lúc đó mấy tay trực trại mới chịu bước ra
ngoài.
Bấy giờ anh mới hiểu rõ dã tâm của bọn chúng kêu anh ra ngoài này "làm việc"
là như vậy.
Anh nhìn quanh, căn phòng khá hẹp và anh lui dần vế phía góc phòng. Nếu ở bên
ngoài thì với một lũ tép riu này chỉ cần học trò của anh cũng đủ dậy cho chúng
một bài học nhưng mấy năm nay lao động khổ sai và ăn uống kham khổ đã làm anh mất
đi rất nhiều sức lực nên không biết sao đây.
Dù sao thì cũng phải cho chúng biết thế nào là một Võ Sư được chân truyền. Anh
ngầm lấy sức vận nội công lên hai cánh tay và đôi chân thủ thế.
Hầu như đã được chỉ thị trước, bọn cán binh đều không nói một lời vung các gậy
và các thanh sắt lên xông vào tấn công anh túi bụi, nhưng vì anh đã lui vào góc
phòng nên chỉ hai ba đứa có thể tấn công một lúc vì chúng sợ loạn đả vào nhau.
Thế rồi anh ra chiêu nhanh như gió và chỉ một loáng trước những con mắt kinh
hãi của đám cán binh, các vũ khí của chúng đều rơi gọn nhẹ xuống đất. Đứa thì
ôm cổ tay nhăn nhó, đứa thì ôm chân la bài hải và lùi dần ra phía cửa. Anh tính
vọt ra cửa thì đột nhiên hai họng súng đen ngòm lên đạn hướng về phía anh, thì
ra chúng đã tính trước là sẽ phải dùng đến súng tiểu liên để đối phó với anh.
Anh đứng lại tại chỗ và hai tay khoanh trước ngực chờ đợi. Chúng tiến lại gần
và trói hai tay anh vào thanh sắt cửa sổ và trói hai chân lại với nhau. Xong
đâu đấy rồi thì bọn cán binh, vốn đã được nhồi nhét những tuyên truyền xuyên tạc
mọi thứ xấu xa về các sĩ quan "Ngụy" cho nên đều nhẩy vào dùng
các thanh sắt quất anh không thương tiếc.
Than ôi! Người Võ Sư hào hùng ngày nào của võ đường Vovinam, người tù anh hùng
đã bảo vệ cho bao nhiêu bạn mình trước bạo quyền của trại giam "tập trung
cải tạo" của chế độ Cộng Sản, người sĩ quan hiền hòa vẫn xây dựng bao
nhiêu đường xá cầu cống cho dân làng miền Nam ngày trước, người tù bất khuất ấy
bây giờ đã ngất xỉu đi trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác.
Mắt anh mờ dần đi và anh thấy lấp lánh đâu đó là những giọt nước mắt của Mẹ già
tóc đã bạc phơ chỉ sau mấy năm Sài Gòn đã đổi tên và rồi anh không còn biết gì
nữa.
Khi anh tỉnh
dậy có lẽ vài ngày sau đó thì thấy những cặp mắt âu lo của các bạn tù trong buồng
giam.
-"Ê! Cường tỉnh dậy rồi nè."
-"Lấy ít cháo loãng thôi."
Một anh bạn đến gần:
-"Ráng ăn ít cháo đi rồi uống thang thuốc này. Mình mới vào rừng hái ít lá
cây nấu lên uống để xổ máu bầm ra."
-"Cậu là võ sư chứ người thường thì chết rồi. Chúng dã man hèn hạ quá.
Loài thú chứ không phải loài người!"
Anh bị gẫy hết hai bên xương sườn, một chân bị dập, một bên vai xương bị nát. Rất
may là các vết thương trên đầu không nặng sau trận đòn thù đó.
Tình hình trong trại mấy ngày sau đó cực kỳ căng thẳng, khi các anh đi lao động
chúng đều đem súng theo hườm sẵn và được lệnh sẽ bắn ngay nếu có nổi loạn.
Anh bèn bảo các bạn thân của mình chuyển lời nói với các buồng chung quanh là
án binh bất động vì anh không muốn vì anh mà nhiều anh em khác phải hy sinh.
Anh đã là một biểu tượng oai hùng nhất trong con mắt của những người tù đồng cảnh
ngộ nên lời nói của anh đã được nghe theo và đã tránh được một cảnh tắm máu vì
anh em đều sôi sục căm hờn.
Từ ngày đó anh không còn khả năng đi ra ngoài lao động, không còn những giây
phút vào rừng sâu kiếm củi, nghe được tiếng chim hót ban mai hay hưởng cái hơi
mát lạnh của núi rừng khi chiều buông xuống. Anh chỉ có thể khó khăn lắm mới lê
từng bước một tập đi trong buồng giam.
Năm sau, các bạn anh vì là cấp Úy nên cũng từ từ được thả ra nhưng anh là cấp
Úy sau cùng ra khỏi trại giam đó.
Anh trở về
gia đình trong căn hẻm Trương Minh Giảng gần nhà Mẹ anh và được thuốc thang chạy
chữa nhưng vì lục phủ ngũ tạng đều bị chấn thương cho nên một thời gian ngắn
sau anh qua đời trong sự thương tiếc của gia đình và bạn bè khắp nơi.
Anh mất đi lúc mới ngoài bốn mươi tuổi để lại người vợ còn trẻ và mấy đứa con
còn nhỏ dại. Cô tôi vừa khô nước mắt khóc hai đứa con đi vượt biên mất tích lại
mang thêm một cái tang nữa. Mẹ tôi ở gần bên cạnh cũng chỉ biết qua nhà an ủi
cô tôi mà thôi vì chính Mẹ tôi trong lòng cũng ngày đêm lo sợ cho tôi và anh Cả
tôi lúc đó đang bị giam lưu đầy ngoài Bắc.
Đám ma anh Cường được tổ chức đơn sơ nhưng rất đông người tham dự kể cả gia
đình họ hàng và nhất là gia đình các bạn tù của anh cũng đến thắp nén
nhang để tưởng niệm người anh hùng yểu tử, vị võ sư vì bảo vệ bạn tù, vì bảo vệ
Chính Nghĩa mà vong thân.
Hình bóng của anh vẫn sống mãi trong tâm khảm của mọi người. Anh là một sĩ quan
Công Binh Kiến Tạo tận tụy với nghề nghiệp được đơn vị thương yêu, anh sống gần
gũi với dân chúng và bảo vệ họ tại những cùng thôn xóm làng mạc xa xôi.
Anh là một người chồng gương mẫu, một "ông thầy võ" mà tôi
kính phục khi tôi còn thơ ấu, một võ sư mà bao nhiêu võ sinh dưới quyền nể
trọng nhưng trên hết anh là một người tù bất khuất, một anh hùng bất tử.
Khi tôi được thả về, nghe tin anh mất thật là bàng hoàng và xúc động bởi tuổi
thơ của tôi đã nhiều kỷ niệm gắn bó với các em họ con cô ruột tôi từ lúc còn ở
Hải Phòng và Hà Nội và ngay tại Sài Gòn trong thời thanh niên. Tôi vẫn không
quên được những bài học vỡ lòng về Vovinam mà anh dậy cho bốn anh em chúng tôi
trên sân gác thượng của nhà cô tôi ở Hà Nội.
Chùa Linh Giác đường Lý Thái Tổ là nơi mà gia đình để ảnh của các anh con cô
tôi đã mất và cũng để ảnh của anh Quang, anh Cả tôi nữa.
Tôi đã đến ngôi chùa nhỏ ấy nhiều lần để thắp nén nhang dâng lên anh Cả
tôi , dâng lên các anh Hải, Trường, Linh và nhất là anh Cường với bao niềm ngậm
ngùi rằng thế hệ chúng tôi đã cống hiến hết cho công cuộc bảo vệ chính nghĩa, bảo
vệ miền Nam chống lại Cộng Sản xâm lăng trong hai thập niên, và mất hết những
năm tháng đẹp nhất của đời người trong tù.
Không biết rồi mai này con cháu mình có còn nhớ rằng ngày xưa đã có những bậc
anh hùng bất tử ghi lại bao chiến công oanh liệt không kém gì tiền nhân trong
quân sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Và trong lịch sử của "trại giam tập
trung cải tạo" của chế độ Cộng Sản vô thần tại Việt Nam đã có những
người tù bất khuất mà võ sư Vovinam Tạ Mạnh Cường là một?
Một vị sư
- Một đóa sen Hồng
Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại
miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức
nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa
ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng
xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những
tù nhân chính trị chế độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày
thì lao động khổ sai đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn
độn như khoai hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ
trong cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá đóng
hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi thì giấc ngủ
chập chờn mới đến.
Cái nóng kinh người đã kéo dài cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé
chăn trâu mà Trung và các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui
vào các bụi cây trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu
nước trầm trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn
khổ trong trại.
Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít
ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy
một vị sư già đang ngồi ngoài sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ
và mặt ngước nhìn thẳng lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như
thế và sau đó chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm
nay cũng thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng
không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức
khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với
anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục năm rồi
cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về nữa.
Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào
những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp
nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa
cam lồ của Trời ban xuống như thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày.
Các buồng giam không ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những
giây phút mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.
Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như
còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt
hiểu và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa
đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của
QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất chúng đã làm cho kẻ thù
phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm chiếu, hai bộ quần áo
tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi người và nằm một dãy với các Đại Đức
Tuyên Úy khác.
Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo
võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng
nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà
làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không nghiêm giữ được giới răn mà hiểu
lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.
Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài
Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào
các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm mọi người đều kính
trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản trước
đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản bước chân vào trại giam.
Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị
sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này
ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”,
và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng
phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc
Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động
cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì
thường được gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa
Thích Thanh Long là người đã bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở
về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ trêu
để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn cảnh đặc
biệt này của đất nước.
Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy
nói:
“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông cứ tiếp
tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong quân đội và tôi
sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi
đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.
Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt
xứ lưu đày.
Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này,
người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất
cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.
Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại
trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia Pháp đã từng
giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù
nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm dưới thung lũng và bao vây
chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại
Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử tội hình sự cướp của giết người mà đã được
nhà nước “khoan hồng” tha cho tội chết.
Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai,
thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy
núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại
từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao
động hay đi trở về trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà
chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những
người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ gia đình
trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây với gia đình
trong Nam. Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy Long có 15 cục đường móng
trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng
thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng.
Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm
khác thì mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng
đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy phân phát
đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị
sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.
Thầy cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần
những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với
mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy
trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội
lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho
Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra
làm việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng
đùng nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:
“Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù
rục xương ra không?”.
Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
“Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể
thôi!”.
Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách
thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ
thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì
hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và
đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:
“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết
những người tù chính trị chế độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.
Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước
khi có một đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi
cung có tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi
là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được khoan hồng.
Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng
có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn
gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng được. Chúng đành chào thua và chỉ vài
tháng sau thì thầy có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả
các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.
Thầy ở tù mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những
trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc. Về miền Nam, thầy trở
lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự,
cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ
trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười
hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phát hiền lành.
Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà
thầy góp công xây dựng lên và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy
viên tịch vài năm sau đó.
Ngày Trở
Về
Trại Hàm
Tân Z-30D, tỉnh Bình Thuận, miền Nam Việt Nam, vào một ngày cuối tháng Tư năm
1992.
Trại giam này nằm giữa khu rừng chập chùng toàn lá buông, dân chúng thường gọi
tắt là khu rừng lá. Nó được dựng lên từ sức lao động khổ sai của những tù nhân
sau ngày mất Miền Nam, và là nơi giam giữ cả tù hình sự nam lẫn nữ và tù nhân
chính trị chế độ cũ cũng như những thành phần được gán cho danh xưng là
"âm mưu lật đổ chế độ".
Ðây là một trại giam khá lạ lùng và có lẽ độc nhất vô nhị. Lạ lùng bởi lẽ nó đã
thay hình đổi dạng rất nhanh trong thập niên tám mươi từ khi có trưởng trại mới
là Thiếu Tá Nhu. Sau nhiều năm sắt máu, trại khổ sai này hò hét lao động hàng đầu,
nhưng đã "phát huy sáng kiến" làm tiền kiểu kinh tế thị trường. Việc
thăm nuôi đã từ từ mở rộng để cho tù nhân có thêm đồ và tiền tiếp tế. Việc khai
thác lâm sản có kế hoạch qui mô nên đã làm giầu nhanh chóng cho cả trại và túi
tiền của Thiếu Tá Nhu.
Gọi ông ta bằng tỷ phú thì cũng chưa đúng với sự giầu có của ông ta trên xương
máu của tù nhân. Sân trại tù được biến thành nơi làm ăn, để móc tiền tiếp tế của
tù nhân, bằng mà chiếu phim video thu tiền ở hội trường hàng đêm.
Sân trại sau bữa cơm chiều, người ta thường thấy nhiều cặp nam nữ tù hình sự cặp
đôi đi rảo bước bên nhau hay ngồi tâm tình trên ghế đá trong những bộ quần áo
thời trang đủ kiểu rất ư là tình tứ, dắt nhau ra mua vé và hẹn hò nhau gập lại
buổi tối cùng xem phim chiếu trên hội trường.
Mỗi buổi chiều thì tất cả đều phải tập họp vào buồng giam, tối đến những ai có
mua vé xem phim thì được mở cửa cho ra tập trung thành hai đội nam, nữ và dẫn
lên hội trường. Căng tin được mở rộng thành quán nước và nhà hàng thu nhỏ. Phim
video chưởng, võ hiệp, tình cảm Ðài Loan, Hồng Kông được thuê về chiếu cho toàn
trại xem một cách thoải mái, nhưng phải bỏ tiền ra mua cũng đem lại cho ông ta
bộn bạc.
Bên cạnh những tù nhân nam nữ can tội hình sự đủ loại, là một khu dành riêng
cho các tù nhân chính trị chế độ cũ. Hàng chục ngàn tù nhân chế độ cũ đã trải
qua những năm tháng lao động khổ sai trại trại Z-30D này. Cho đến tháng Tư năm
1992, tất cả chỉ còn lại đúng 20 người sau cùng được dồn vào Ðội 23.
Buổi sáng hôm ấy, họ ngồi chờ đợi một cách bình thản ở trong hai căn phòng dành
cho tù chính trị chế độ cũ đang bị tập trung cải tạo, phòng trên dành cho bốn
ông tướng Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Tâhn Thân và Lê Minh Ðảo, phòng duới
dành cho số còn lại.
Tất cả
hai mươi người bao gồm bốn tướng, bốn đại tá ANQÐ, Quân Báo, bốn trung tá Cảnh
Sát Ðặc Biệt và ANQÐ, hai thiếu tá CSÐB và ANQÐ, nhân viên Phủ Ðặc Ủy TƯTB, một
hồi chánh viên, một trinh sát tỉnh đội, và một người về từ tầu Việt Nam Thương
Tín. Họ đã bị giam giữ qua năm thứ mười bảy kể từ ngày Saigòn sụp đổ.
Họ đang
chờ đợi bởi vì ngày hôm nay là một ngày khác thường, các bạn Hoàng và chàng
trong đội 23 đang chờ xuất trại đi lao động như mỗi buổi sáng, thì được lệnh
vào trong tại và chờ lệnh mới.
Người ngồi đánh cờ tướng, người nấu nước pha trà để nhâm nhi trong lúc chờ đợi,
hay nằm đọc lại tờ báo cũ. Cái xấu nhất có thể xảy đến là chuyển trại về một
nơi xấu hơn hoặc cho một viên đạn, nhưng qui luật của trại giam Hoàng đã đi qua
thường là di chuyển về ban đêm, không đi ban ngày bao giờ. Vậy thì cái gì đây sắp
xảy ra?
Từ căn phòng trên vẳng xuống tiếng sáo của tướng Thân lúc trầm lúc bổng. Hoàng
mỉm cười, thời gian trong tù, ông tướng này đã học được hai nghề, một là châm cứu
từ một ông thầy người Tầu có tài châm cứu xuất chúng, bị bắt và bị gán cho tội
gián điệp ở biên giới Việt Trung, và thứ hai là tài thổi sáo
Thế rồi tất cả 16 người, trừ bốn ông Tướng, bao gồm cả các anh đang ở ngoài
trông coi các lô, lán của trại, hay đang đi chăn bò, cắt cỏ đều được triệu hồi
vào hết bên trong hội trường. Mười sáu người ngồi lọt thỏm trên hàng ghế đầu
trong cái hội trường rộng mênh mông có thể chứa đến ngàn người.
Và cái gì khó tin nhất đã xảy ra, 16 người trong đó có Hoàng được đọc tên thả
ra khỏi trại, và năm ngày sau thì bốn vị tướng cũng giã từ cuộc đời tù tội và
đóng lại cánh cửa tù sau lưng. Hầu như một cơn chấn động vừa chạy qua mọi người,
họ nhìn nhau không biết có nên tin hay không? Hai chữ Tự Do hình như không còn
hiện hữu kể từ này họ bị lưu đầy biệt xứ ra Bắc một năm sau ngày mất miền Nam.
Thế rồi chiếc xe đò của ông Tô, chiếc xe vẫn thường chuyên chở hàng thuốc men
và thực phẩm tiếp tế của các gia đình từ Saigòn hay các tỉnh gởi lên cho tù
nhân được gọi vào để chở những người tù cuối cùng này về Saigòn.
Vai khoác chiếc ba lô mà anh đem theo từ ngày đầu bước vào cơn bão lửa tập
trung, anh từ từ theo các bạn đi ra con đường cái để chờ xe đò đến đón.
Ngồi trên xe đò mà hồn anh như để tận đâu đâu, chiếc xe bon bon lăn bánh trên
quốc lộ số một xuôi về nam. Bây giờ, ngồi cạnh cái cửa sổ trên xe đò, Hoàng mới
tin là mình còn sống, và cũng không thể giải thích được tại sao mình còn sống
sót được sau bao nhiêu là tàn phá của những năm tháng qua. Nhìn qua cửa sổ những
hàng cây bên đường như chạy thụt lùi lại phía sau và gió mát lùa vào trong xe
như đưa anh trở về quá khứ, mắt Hoàng mờ dần mờ dần với ký ức, một cơn ác mộng
triền miên, trong khảnh khắc như một cuộn phim bừng sống lại...
Những họng súng AK, CKC chĩa vào người chàng và các bạn, những ánh đèn pin lóa
mắt, tất cả 40 người được đựng dậy trong đêm, đọc tên xác nhận từng người rồi đứng
ra thành một nhóm từ một căn nhà tạm giam tại trại Long Thành, tỉnh Ðồng Nai
năm 1976. Ðó là ngày mà chàng cũng như hàng vạn những quân công cán chính chế độ
VNCH như Hoàng đã cùng lúc bị chuyển trại từ khắp nơi trong miền Nam ra Bắc, bắt
đầu bước vào cảnh lưu đầy biệt xứ.
Những năm tháng dài thăm thẳm, quần áo không đủ che thân, đói rét lạnh cắt vào
da thịt của mùa Ðông mưa phùn gió bấc nơi xứ Bắc. Những mùa Hè nóng đến nung
người suốt ngày lẫn đêm, cái nóng gay gắt và hầm hập làm người lúc nào cũng như
bị say nắng. Những bệnh tật, kiệt sức đã cướp đi hàng ngàn nhân mạng, những cái
chết thật dễ dàng và vô lý.
Rồi mười hai năm lưu đầy qua hết trại giam này đến trại giam khác, và sau cùng
tập trung về trại Ba Sao Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. Sau bao nhiêu đợt thả, lúc
nhiều lúc ít nhưng có lẽ tên chàng đã bị lãng quên.
Thế rồi những tin tức dồn dập về phái đoàn do cựu đại tướng John Vessey cầm đầu
đề cử bởi Tổng Thống Reagan để thương thuyết với Hà Nội đã đi đến thành công
đem đến cho các trại tập trung một luồng sinh khí, và họ đã như sống lại từ những
cây khô.
Năm 1988, sau hai đợt thả lớn nhất, chín mươi người trong đó có Hoàng còn sót lại
tại trại. Ba Sao Nam Hà đã được lệnh di chuyển bằng xe lửa từ ga Nam Ðịnh xuôi
về phương Nam.
Khi vào đến khu vực rừng lá Hàm Tân trại Z-30D đầu tháng năm 1988, số người từ
miền Bắc vào nhập với số anh em còn lại trong Nam tổng cộng còn lại một trăm
năm mươi bốn người trong đó có Hoàng, trong số hàng triệu người bị cải tạo ngắn
hạn đến tập trung không có bản án từ ngày Saigòn bị đổi tên. Và trại từ từ thả
những người còn lại ra một cách nhỏ giọt làm nhiều đợt trong suốt bốn năm cho đến
tháng Tư năm 1992 thì vỏn vẹn chỉ còn lại hai mươi người tù cuối cùng trong đó
cũng có Hoàng.
Giòng tư tưởng của chàng chợt bị ngưng đọng lại khi chiếc xe đò tự dưng khựng lại
giữa đường. Tiếng người tài xế kêu mọi người xuống xe và phụ giúp đẩy xe vào lề
đường để sửa chữa làm chàng choàng tỉnh dậy. Nghe người tài xế phân bua một
cách hài hước với mọi ngưới làm Hoàng cũng bật cười:"Tại các ông ấy đấy chứ,
hôm nay trở về làm xe tui chết máy chứ xe này bà con thấy có hư máy bao giờ
đâu. Ái chà, tù gì mà tới mười bảy năm, lâu dữ à nha, chắc tại học bài không
thuộc chứ gì!"
Hỏi thăm thì biết mình đã về đến Biên Hòa, tim chàng tự dưng đập mạnh khi nghĩ
chỉ một tiếng đồng hồ nữa là có mặt tại Saigòn. Saigòn hai tiếng này đã làm tim
chàng đau nhói bao nhiêu lần mỗi khi nghĩ tới trong suốt bao nhiêu năm trường bị
giam giữ giữa bốn bức tường. Tiếng bác tài hối mọi người lên xe vì máy đã sửa
xong:
-"Lên
xe đi các bà con ơi! Còn một tiếng nữa là về đến thành phố rồi" như nhắc Hoàng
chợt nhớ tới câu chuyện "Khi Người Tù Trở Về" có lẽ nếu anh nhớ không
lầm là tác phẩm của nhà đại văn hào Pháp André Malreaux.
Câu chuyện về nhóm tù binh Pháp được trả tự do sau Thế Chiến, khi Ðức bại trận.
Có một viên sĩ quan trẻ khoe với các bạn tù về người vợ tuyệt vời của mình và
mơ tưởng đến lúc trở về nhà sum họp hạnh phúc như xưa, nhưng trong lòng anh thì
vẫn không chắc rằng vợ mình còn chờ đợi hay không?
Khi về tới
ngôi nhà cũ, anh ta không vào thẳng nhà mà đi quanh nhà kín đáo quan sát và chờ
bữa cơm chiều xem vợ mình có sống với ai không. Núp sau bụi cây sau nhà, anh thấy
vợ mình gầy hơn xưa nhưng đang rất vui tươi lăng xăng bầy hai phần ăn với hai
chiếc muỗng, hai chiếc nĩa, thì hai giòng nước mắt tuôn ra và lủi thủi đi mất.
Trong khi người vợ được tin chồng mình sẽ trở về trong ngày nên nấu món soup đặc
biệt cho chồng nhưng chờ mãi mà không bao giờ thấy người chồng trở về nữa.
Nghĩ tới gia đình, người vợ đã bao năm bặt tin và hai đứa con, lòng Hoàng bồi hồi
xúc động. Ngày mà chàng giã từ gia đình ra đi không hẹn ngày trở lại, chúng mới
đứa hai đứa ba tuổi, nay đã thành thanh niên và thiếu nữ rồi. Ngày chàng ra đi
còn trong lứa tuổi hai mươi, bây giờ trở về đã trong lứa tuổi tứ tuần. Tuổi đẹp
nhất của người đàn ông để lập nên sự nghiệp đã bị vùi dập trong tập trung cải tạo.
Thời gian quả là lạnh lùng và không có trái tim.
Khi về tới Saigòn năm 1992 và tạm trú ở đây, Hoàng mới được biết là có một danh
sách đặc biệt bao gồm hơn một trăm người tù sau cùng đã được thành lập gọi là
thành phần Z-05 và được ra đi nhanh chóng trong những đợt của chương trình H.O.
Chỉ trong vòng một năm sau, Hoàng và gia đình các bạn chàng đã được ra đi tái định
cư tại Hoa Kỳ. Hiện nay, những người tù cuối cùng xuyên qua mười bảy năm cải tạo
tập trung và còn sống sót trở về năm ấy đang cư ngụ tại những tiểu bang trên đất
Mỹ như New York, Virginia, Washington, Texas, Oregon; nhưng nhiều nhất vẫn là tại
Quận Cam, California.
(Ghi Chú:
Bài này đã được đăng trên Việt Báo tại Orange County, Nam Cali vào cuối tháng
Tư năm 2002. Bút hiệu của tôi lúc đó là Đăng Tâm.)
Những
Ngày Giáp Tết
Những
ngày cuối năm vẫn là những ngày có đủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ như mọi ngày
nhưng sao thấy có cái gì thật là đặc biệt. Hình như trên trời dưới đất và trong
không gian vạn vật đang giao hòa với nhau để chuyển biến dần sang năm mới. Con
người cũng bận rộn chuẩn bị đón Giao Thừa và Năm Mới, người lớn thì lo cúng giỗ
Ông Bà, đưa Ông Táo đi và đón Ông Táo và đón Ông Bà trở về trẻ con thì háo hức
chờ Mùng Một Tết được lì xì và quần áo mới. Những gia đình khá giả thì đây là dịp
để vui hưởng những ngày Xuân và những gia đình khó khăn thì đang chật vật với
những khoản chi tiêu làm sao cho qua được những ngày Tết.
Tôi đã qua được mười tám cái Tết trên đất Mỹ, cũng chờ đón Giao Thừa, cũng chúc
Tết Mẹ tôi và gia đình các em, các cháu ngày Mùng Một, cùng đi lễ Chùa, lễ Đền,
hái lộc đầu năm nhưng sao vẫn không thấy được cái không khí ngày Tết của những
năm tôi còn bé tại thành phố Hải Phòng trước khi di cư năm Năm Mươi Tư hay trước
năm Bảy Mươi Lăm tại Miền Nam.
Tôi còn
nhớ lúc nhỏ năm bảy tuổi là lúc mà Bố Mẹ tôi là một thương gia giầu có vào hạng
nhất nhì của thành phố Hải Phòng và căn nhà mà tôi ở thì rộng lớn như một dinh
thự trên một mẫu tây đất và phải dùng đến đúng một trăm ngọn đèn neon và đèn
bóng tròn mới đủ thắp sáng hết căn nhà.
Căn phòng
mà bốn anh em trai chúng tôi ngủ thì tường toàn là dát những bông hoa giấy và
những chấm mầu đỏ mà Mẹ tôi nói là Ba tôi đã "com măng" từ bên Pháp
qua.
Mỗi khi Tết gần đến là lòng tôi lại có một cảm giác háo hức chờ xem những sinh
hoạt của những ngày cuối năm.
Vì Bố tôi là Trưởng Tộc và lại giầu có nữa nên những ngày này thì các cô chú
tôi và cả những bà chị họ của tôi đều đến nhà và lăng xăng chạy qua lại trên
nhà dưới bếp để xắt thịt lợn tươi ra, lớp thì khô thịt, lớp thì làm thịt đông,
lớp thì để gói bánh chưng theo sự sắp xếp của Mẹ tôi.
Mỗi cái Tết
như vậy thì Mẹ tôi cần phải mua một con lợn thật là béo về thì mới đủ để mà gói
bánh chưng và làm các món cho ngày Tết và cũng để chia phần cho tất cả những
gia đình đến phụ giúp trong những ngày cuối năm nay. Tôi còn nhớ ông Cộng mà
chúng tôi coi như là người Bõ già của gia đình là người đắc lực nhất trong mọi
chuẩn bị cho một ngày Tết hoàn hảo của mỗi năm.
Bõ Cộng
cũng là người rất là hiền lành nhưng mà giống hệt Ông Nội của tôi là mỗi năm chỉ
tắm đúng hai lần Xuân Thu nhị kỳ mà thôi. Ông Nội tôi là thầy thuốc Bắc thật là
tài giỏi lúc bấy giờ và mỗi khi mà bọn tôi có đứa nào bị ốm đau hay cảm hàn gì
đó thì Mẹ tôi lại nhờ đến Cụ và đó là lúc mà Cụ lên lớp Mẹ tôi là mày cứ cho
chúng nó tắm nhiều vào rồi thì đau ốm lại làm khổ Ông.
Tôi thích nhất là những ngày cuối năm, có lúc được Ông cho đến hiệu thuốc Bắc của
ông, cho ngồi trên cái quầy và chờ Ông sửa soạn các thứ để đóng cửa mấy ngày Tết
thì tôi được dịp nhấm nháp những quả ô mai cam thảo thật là ngon và được Ông
cho những đồ chơi mà ông tự tay làm lấy như Lồng Đèn Kéo Quân, hay những thằng
lính bằng thiếc bồng súng chào hay những chiếc xe Jeep con con mà Ông tự đúc lấy.
Trên lầu nhà tôi ở trên đường Cầu Đất ấy có một cái sân thượng to thật là to phải
đến bốn trăm mét vuông là nơi mà mọi sinh hoạt chuẩn bị cho ngày Tết đều diễn
ra ở đây. Tôi thường ngồi xổm bên cạnh Mẹ tôi để xem gói bánh chưng.
Mẹ tôi
nói gì tôi cũng không hiểu nào là phải nấu đậu xanh ra sao, cắt những miếng thịt
vừa nạc vừa mỡ ra sao, nào là phải gói cho thật chặt tay vào thì bánh chưng mới
để lâu được để chỉ dẫn cho các cô tôi và các bà chị họ. Tôi thấy ai cũng đều
vâng dạ và có vẻ như rất là kính trọng Mẹ tôi như là một vị tổng chỉ huy vậy.
Đến ban đêm mà luộc bánh chưng thì dù là thật buồn ngủ bốn anh em tôi cũng được
đánh thức dậy để ngồi cạnh bên bếp lửa và cái thùng phuy thật là to chứa hàng
trăm cái bánh chưng trong đó đang ùng ục sôi và thích thú nhất là lúc Bõ Cộng gắp
lấy từng cái bánh ra thì tôi cố tìm xem cái bánh gói riêng cho tôi bé xíu ở đâu
để cất riêng vào phòng của mình để suốt mấy ngày Tết nhất định chỉ để ngắm nhìn
chứ không ăn nó.
Bánh chưng
đậu và bánh chưng đường mà mẹ tôi nấu thì thật là tuyệt, tất cả họ hàng đều
khen vì không thể tìm mua tại các cửa hiệu được lý đó giản dị là từ lá chuối đến
nhân đậu thịt và đường đều là những thứ hảo hạng và tuyển chọn cả.
Rồi ngày hai mươi chín là mọi việc đều xong xuôi và hoàn tất, Mẹ tôi rất là cẩn
thận và ân cần phân chia mọi thứ từ nồi thì Đông cho đến thịt kho tầu, bánh mứt
tết và nhất là bánh chưng cho từng người và từng gia đình một. Bõ Cộng cũng nhận
một phần kèm theo một số tiền mà mẹ tôi thưởng cho để đem về quê ăn Tết.
Và ngày ba mươi thì căn nhà tôi tự dưng vắng hẳn đi chỉ còn mấy chị giúp việc
và các bà vú em đi theo Mẹ tôi quét dọn lại nhà cửa và chuẩn bị cúng Giao Thừa.
Đến bây giờ tôi mới thấy cái gia đình Việt Nam ngày xưa nó khác với gia đình
ngày nay ở chỗ là một cái gì như là tình người rất là đằm thắm giữa Mẹ tôi và
các chị giúp việc và nhất là các bà vú nuôi chúng tôi họ cứ y như là những người
thân thích và ruột thịt của mình vậy. Lúc đó ba đứa em gái của tôi đều rất còn
nhỏ và mỗi lần các bà vú xin phép Mẹ tôi để về thăm quê là tôi lại thấy cảm
giác như thiếu vắng người thân vậy và mong các chị sớm về lại nhà với những món
quà đơn sơ từ quê đem lên.
Vì Bố tôi học Tú Tài Pháp nên mọi thứ ông đều chuộng theo mốt của Tây khác hẳn
với Ông Nội tôi lại là thầy lang và suốt năm cứ khăn đóng áo dài. Bốn anh em
trai của tôi đều được ăn mặc rất là chỉnh tề và giống y hệt nhau chỉ khác có
kích thước quần áo mà thôi để đứng sắp hàng một loạt chúc Tết Bố mẹ tôi ngày
Mùng Một và chờ được mừng tuổi. Bốn anh em tôi đều được cho đi học trường Saint
Joseph tại Hải Phòng là một trường Dòng nổi tiếng và những năm tháng học tại
trường này và nếp sống Tây phương của Bố tôi vẫn còn ảnh hưởng đến tôi cho đến
sau ngày di cư vào miền Nam năm Năm Mươi Tư và những năm sau này tiếp xúc với
nhiều cố vấn Mỹ và văn hóa của người Mỹ nữa.
Thế rồi
chiến tranh bùng nổ và gia đình tôi cũng như hàng triệu gia đình khác phải di
cư vào Nam lánh nạn Cộng Sản.
Những cái Tết trong miền Nam có những hương vị đậm đà của nó nhưng tôi vẫn
không quên được những ngày Tết khi còn bé.
Chiến cuộc vẫn tiếp tục lan rộng tại miền Nam và những ngày Tết sau đó là những
ngày Xuân chiến chinh và các anh tôi lần lượt tòng quân vào sỹ quan Hải Quân
Nha Trang, Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và tôi sau đó phục vụ cho Không Lực Thứ Bẩy của
Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất và những ngày Xuân tại Sàigòn đều đượm mùi thuốc súng với
những bài hát đón Xuân gửi ra tiền tuyến trên Radio và trên truyền hình, dù là
Saigon rất còn xa với những chiến trường của Quân Đoàn III.
Năm nay Xuân lại đến trên mảnh đất tạm dung chan hòa ánh nắng của miền Nam
Cali. Hai ngày nữa là Giao Thừa.
Một năm nữa lại sắp qua đi, một năm mới lại sắp đến với
những ước
vọng mới và niềm hy vọng rằng cái Mới sẽ tốt
đẹp hơn
cái Cũ và cứ thế cuộc đời vần xoay.
Mấy ngày qua miền nam Cali như chìm trong mưa lũ và
bão tố.
Hai hôm nay trời đã nắng lên và thời tiết tốt trở lại
và những
chợ Hoa tại vùng Little Sàigòn thuộc Quận
Cam như
đang hồi sinh và chợ Tết Xuân của Sinh Viên
với chủ đề
"Xuân Yêu thương" sẽ khai mạc vào ngày mai
hai mươi
chín Tết và kéo dài đến hết ngày Mùng Một.
Nhìn lại những mùa Xuân đã qua trong cuộc đời mình
như một cuốn phim quay chầm chậm lại và như thấy lại
hình bóng của tôi từ lúc còn bé đến khi trưởng thành
trong khói lửa chiến tranh, những năm tháng trong hỏa
ngục tù đầy và những năm tháng trên quê hương thứ hai
này như cũng mờ dần đi trong những bước thăng trầm
của đất nước Việt Nam.
Viết xong ngày Hai Mươi Tám Tết năm Canh Dần
Sài Gòn
Mùa Thu Kỷ Niệm
Chúng ta
những người Sài thành đã từng sống trong thành phố Hòn Ngọc Viễn Đông này thì đều
thấy một điều là miền Nam nước Việt trong vùng Nhiệt Đới thì chỉ có hai mùa mưa
nắng, hết mưa thì đến nắng chứ không có cảm nhận được khí hậu bốn mùa như các
vùng Ôn Đới khác.
Tuy nhiên khi mà mùa hè chấm dứt theo tờ lịch treo trên tường thì mức độ nóng
cũng có giảm dần đi một phần bởi vì trời đã sang Thu dù là trên lý thuyết.
Tôi có nhiếu kỷ niệm về những mùa Thu khi còn sống với Mẹ và các em. Đó là thời
gian khoảng những năm đầu thập niên một chín sáu mươi khi mà cả ba người anh
trai của tôi lần lượt nhập ngũ vì tình hình chiến sự đang leo thang và thanh
niên nhất là trong thành phố bấy giờ đang nao nức tòng quân để bảo vệ quê
hương.
Sài Gòn dù đã sang Thu nhưng những năm ấy đường phố và nhà nhà đều mang một sắc
thái đặc biệt của một thành phố trong thời chinh chiến với những người lính
trong quân phục trên khắp ngả đường đất nước.
Lúc đó tôi vừa học xong Đệ Tứ và vừa đỗ Trung Học Đệ Nhất Cấp tại trường Trần Lục
ở Tân Định; và chuẩn bị vào Đệ Tam Chu văn An.
Là học sinh Đệ Nhị Cấp cũng có cái oai của nó bởi vì tôi là anh lớn nhất còn tại
nhà để phụ giúp Mẹ tôi buôn bán, chỉ thêm bài vở cho các em và đôi lúc còn được
các bạn học của mấy cô em gái tôi bên trường Lê Bảo Tịnh nhờ vả chuyện này chuyện
kia nữa, cho nên dù là gia đình cũng còn túng thiếu nhiều nhất là sau khi Ba
tôi qua đời nhưng trong cái gia đình nhỏ bé đó gồm mẹ tôi, tôi, bốn cô em gái
và cậu út mới biết đi chưa biết chạy thì tôi và các em tôi đều rất là an phận
và vui tươi chẳng thấy gì là suy nghĩ vì cuộc sống thật là giản dị đó.
Mỗi sáng là Mẹ tôi dậy sớm để bắt đầu một ngày mới mở cửa hàng buôn bán tạp hóa
trên con đường Trương Minh Giảng thân thương, đối diện với ngôi trường Lê
Bảo Tịnh, con đường mà tôi đã ở trên mười lăm năm trời với bao là kỷ niệm.
Nhưng sáng nào cũng vậy Mẹ tôi không quên làm một chảo đầy cơm chiên và một đĩa
dưa muối cùng chén nước mắm cho các con ăn cho no rồi đi học. Sáng nào cũng vậy
365 ngày không bao giờ thay đổi vì nhà nghèo không thể mua quà sáng cho cả lũ
con như vậy được.
Mẹ tôi
nói ăn cơm cho chắc bụng vậy mà sáng nào tôi cũng tận tình xơi hai bát đầy
không bao giờ chán, trước khi đạp xe đạp lóc cóc đến trường Chu Văn An tuốt
trong Chợ Lớn.
Thời gian đó với tôi sao thật là đẹp thật là nhiều bạn dù là tôi lớn lên
và trưởng thành trong hoàn cảnh thiếu thốn không quần áo để se sua, cả các em
gái tôi cũng vậy thật là ngoan bao giờ cũng yêu thương Mẹ và không hề đòi hỏi
gì.
Mỗi năm chỉ có hai bộ quần áo mới Mẹ may cho là vào dịp Tết Nguyên Đán mà thôi,
còn quanh năm có gì mặc nấy, miễn là lành lặn sạch sẽ là được rồi. Mẹ tôi đôi
lúc cũng khuyến khích chúng tôi là nghèo mà học giỏi mới tài chứ giầu có thì
còn nói chuyện gì nữa.
Có lúc tôi kể cho Mẹ nghe là ôi còn học giỏi hơn nhiều thằng bạn nhà giầu nữa
thì Mẹ lại lên giọng:
-"Thấy chưa! Mẹ đã bảo mà. Các con học giỏi là giống Ba con còn thông minh
biết tính toán là...giống Mẹ."
Anh em tôi thường nhìn nhau cười thầm vì thấy Mẹ lúc nào cũng tự hào về mình,
nhưng những lúc về đêm trước khi đi ngủ tôi thường thấy Mẹ ra ban công thắp nén
hương vài Trời Đất và cầu nguyện cho các anh tôi được bình yên vô sự thì tôi lại
thương Mẹ thật nhiều và xót thương cho quê hương mình quá lầm than. Những lúc
các anh tôi về phép để chiếc mũ sĩ quan trên bàn thì tôi lấy thử đội lên đầu ra
gương ngắm xem sao thì Mẹ lại bảo:
-"Chảng cần phải đội thử con ạ, mấy năm nữa vào trường sĩ quan Thủ Đức thì
tha hồ mà đội."
Tôi có nhiều kỷ niệm về mùa Thu là bởi vì mỗi năm chúng tôi nhất là các cô con
gái thường trông đến mùa Thu và đến rằm Trung Thu để phá cỗ rất là vui và hào hứng.
Cỗ mà Mẹ tôi chỉ cho chúng tôi bầy ra chỉ ba ngày trước rằm Trung Thu và phải
chờ đến đúng tối ngày rằm mới hội họp đầy đủ hết con cháu thì mới được phá cỗ.
Đến bây
giờ các em tôi còn nhắc đến kỷ niệm đó vì làm xong cỗ thì rất là công phu mà
phá cỗ thì chỉ mươi lăm giây đồng hồ là có thể phá tan hoang chẳng còn gì.
Thời gian đó thì cô ruột tôi làm bánh Trung thu tại nhà và các em họ tôi đem đi
bỏ mối tại các cửa hiệu. Thế là có lý do để chay qua nhà cô tôi trong hẻm 359
cách nhà tôi hơn trăm thước.
Cô tôi cho phép chúng tôi tha hồ lựa các khuôn gỗ nhỏ có tay cầm hình con heo,
hình bánh vuông hay hình mặt Trăng để nhào bột thành bánh dẻo và nhồi vào các
khuôn rồi đập ra thành sản phẩm.
Tôi thường chỉ huy các em để tụi nó làm nhiều bánh dẻo đủ các loại hình theo ý
thích nhưng riêng tôi thì nhào bột để làm một cái bánh dẻo mặt Trăng thật lớn cả
kí lô để làm giải thưởng cho tối hôm rằm phá cỗ. Xong rồi mua các lồng đèn
Trung Thu và hàng chục cây mía nữa là đủ.
Gian
ngoài mặt đường thì là mặt hàng còn gian nhà giữa rất rộng làm phòng ăn được sử
dụng luôn làm nơi bầy cỗ.
Cái bàn hình chữ nhật chiều dài gần hai mét và chiều ngang tám tấc được
sử dụng làm nơi bầy cỗ. Mía được róc hết vỏ và cắt ra thành những đoạn dài ngắn
bằng nhanh rồi xây mía lên thành hai cái tháp nhọn lớn y như Kim Tự Tháp vậy
hai bên và phần còn lại là trang trí sao cho thật là hấp dẫn với các bánh dẻo
con con đủ hình thể xen với các bánh nướng nhỏ mà cô ruột tôi cho chúng tôi nữa
để bầy cỗ xung quanh cái bánh Mặt Trăng lớn nằm giữa và bánh kẹo lồng đèn treo
chung quanh. Trong con mắt của tụi nhỏ gia đình tôi vàtụi nhỏ bên cô tôi thì
đây là cái cỗ Trung Thu lý tưởng và đứa nào cũng nhắm sẵn một món để tối hôm rằm
đúng tám giớ thì Mẹ tôi mới cho phá cỗ.
Mấy ngày hôm đó chúng tôi cứ đi ra đi vào ngắm bàn cỗ để tính tối hôm đó sẽ
nhào vô giựt món gì. Các cô cậu em họ tôi cũng rảo qua nhìn ngắm nhưng tôi nói
là chỉ được nhìn thôi cấm táy máy.
Chắc chẳng có bút mực nào tả được hết cái nét hân hoan của tụi nhỏ em tôi và
bên cô tôi tối hôm phá cỗ.
Sau khi chiều tắm rửa và ăn tối xong thì các em họ tôi chạy qua nhà tôi hợp
cùng với đám em gái tôi. Mê tôi bảo tôi ra đóng cửa hàng xong thì vào nhà trong
thắp sáng hết các lồng đèn lên và bánh Trung Thu mà cô tôi biếu Mẹ tôi ăn còn
bao nhiêu thì bỏ hết lên mâm cỗ.
Giờ phút nghiêm trọng đã đến và tôi nhìn thấy trên mỗi khuôn mặt trẻ thơ trong
những ánh mắt ấy một niềm vui sướng khôn tả trong hồi hộp chờ lệnh của tôi đếm
một hai ba là cả chục đứa con nít có mà choai choai có đều nhẩy vào mâm cỗ và
giựt lấy chiến lợi phẩm. Chỉ nháy mắt sau là mâm cỗ chẳng còn gì đáng kể, có những
đứa em bé hơn nên không giành giựt được các con giống bánh dẻo hay bánh nướng với
các chị thì khóc như ri.
Tôi cũng
lấy được một mớ trên tay rồi nên quay lại cho các cô bé này và thế là lại
gạt nước mắt cười tươi như hoa và mọi người đều vui và hể hả.
Năm nào cũng vậy cứ vào dịp Trung Thu là gia đình tôi lại tổ chức bầy mâm
cỗ cho các em tôi và mấy em họ bên cô tôi vui ngày Tết cho nhi đồng -
mà người lớn cũng hưởng vui lây - để cho Mẹ tôi vui và để cho Mẹ quên đi
ba anh trai tôi đang xông pha nơi chiến trận.
Đến bây giờ đã gần bốn chục năm qua rồi mà các em gái tôi còn nhắc đến niềm vui
lúc phá cỗ ngày rằm Trung Thu.
Anh thứ Ba tôi hiện đang cư ngụ ở Diamond Bar thỉnh thoảng lại hỏi xem bây giờ
có còn bầy mâm cỗ cho tụi nhỏ phá cỗ như thời mình còn ở đường Trương Minh Giảng
hay không.
Em gái tôi chỉ cười và lắc đầu có lẽ vì bên này đủ thứ lo toan cho nên không
còn để ý đến những phong tục tập quán ngày xưa nữa hay có thể vì các tập tục đó
đang dần rơi vào quên lãng.
Viết xong
Tết Trung Thu năm Canh Dần
Sài Gòn
Ngày Tháng Cuối
Thế là
sau năm năm làm việc với Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất, Sàigòn,
tôi lại chuyển qua một nhiệm sở mới là Toà Đại Sứ Mỹ cũng tại thủ đô Sàigòn. Những
tay sĩ quan và hạ sĩ quan trẻ của đơn vị gọi là Phân Đội Alpha của Đệ Thất
Không Đoàn là những người lính thật là vui vẻ cởi mở và rất là thân thiện mà
tôi không bao giờ quên được nhất là sau bao nhiêu chuyến công tác, bao nhiêu
chuyến bay trên vận tải cơ khổng lồ Hercules C-130 ra Vùng I và Vùng II Chiến
Thuật.
Thời gian
vẫn không ngừng trôi và con người cũng phải thích ứng với không gian mới. Tôi
được điều về Đoàn Liên Lạc Hoa Kỳ để yểm trợ một Phụ Bộ thuộc Phủ Tổng Thống. Nội
dung công việc cũng không có gì thay đổi nhiều, cũng vẫn là tóm tắt và tổng kết
những tin tức về quân sự mà hai bên Việt Mỹ đã thâu lượm được để tường trình
lên cấp trên.
Nhờ vào thời gian làm việc cho Không Quân Mỹ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mà tôi ý thức
được rằng người Mỹ nắm rất vững về những tình hình biến chuyển trên chiến trường,
tương quan lực lượng đôi bên và cũng biết rất rõ về đối phương tức là Cộng quân
Bắc Việt và đám Việt Cộng trong Nam; và Hoa Kỳ có một sức mạnh quân sự phải nói
là khủng khiếp thừa sức đè bẹp Cộng quân bất cứ lúc nào.
Chính vì thế mà niềm tin của tôi vào đồng minh Hoa Kỳ đã từ từ thuyên giảm một
cách rõ rệt khi thấy người Mỹ khoanh tay để cho Cộng Sản tràn vào các đô thị kể
cả Sàigòn và Chợ Lớn ngày Tết Mậu Thân. Họ cũng chấp nhận những sự di tản chiến
thuật rút khỏi tỉnh Phước Long, rồi sau nầy khỏi Kông Tum Plei Ku, Vùng II để xẩy
ra Đại Lộ Kinh Hoàng là dịp cho Cộng quân pháo kích giết hại hơn hai chục ngàn
dân lành dọc theo Quốc Lộ này. Họ đã đem B-52 ra Miền bắc để rải thảm 12 ngày
đêm kể cả thủ đô của Công Sản là Hà Nội và phong tỏa cảng Hải Phòng nhưng lại
ngừng ngay cuộc ném bom đó khi Hà Nội đồng ý quay trở lại bàn đàm phán.
Hiệp Định Paris được ký kết một cách đơn phương giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt dù rằng
phía VNCH chúng ta cực lực phản đối. Hoa Kỳ vẫn ký để đơn phương rút quân kể cả
các cố vấn ra khỏi Miền Nam trong khi họ biết chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ vi phạm
hiệp định và vẫn bám chặt vào các căn cứ địa của nó tại Miền Nam. Những năm
'60, khi họ đến với chúng ta trên danh nghĩa Đồng Minh thì họ cam kết với chúng
ta để chống lại sự bành trướng của Cộng Sản trong vùng Đông Nam Á. Khi họ muốn
rút đi những năm đầu của thập niên '70, thì họ lại ký kết với kẻ thù chứ không
cần đến ý kiến và chữ ký của chúng ta nữa. Hiệp Định Paris chính là con dao mà
đồng minh Hoa Kỳ đã ngầm đưa cho Cộng Sản Việt Nam và quan thầy của chúng để
thanh toán chế độ VNCH chúng ta nhanh chóng hơn.
Quả thật là làm đối thủ của Hoa Kỳ dễ hơn rất nhiều so với làm đồng minh của họ
bởi vì hầu như người Mỹ kể cả Tổng Thống của họ nhiều khi công khai hoá luôn cả
những kế hoạch mà họ dự tính.
Sau khi ký kết được như ý muốn Hiệp Định Paris thì đồng minh Hoa Kỳ lại thi
hành một chiến thuật cắt giảm viện trợ cả về quân sự lẫn kinh tế trong chiến lược
bỏ rơi đồng minh VNCH đơn độc chiến đấu trong tình trạng thiếu súng ống đạn dược
và nhiên liệu để chống lại cả một khối Cộng Sản Quốc Tế đầy gian manh và hiểm độc
đang yểm trợ mạnh mẽ cho Cộng Sản Bắc việt và đám VC trong Nam "đánh cho đến
người Việt Nam cuối cùng".
Trong lịch sử loài người tự cổ chí kim có lẽ không có một cuộc chiến đấu nào
can trường anh dũng và oai hùng hơn cuộc chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà - chiến đấu trong đơn độc nhưng với một chính nghĩa sáng ngời và một lòng
quả cảm vô biên đến viên đạn và hơi thở cuối cùng.
Một mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam chống lại cả một khối Cộng Sản bao gồm Nga
Sô, Trung Cộng, Khối CS Đông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba và CS Việt Nam, dù rằng Mỹ và đồng
minh đã bỏ mình ra đi - chứ không chịu đầu hàng giặc phiến Cộng cõng rắn Trung
Cộng và Nga Sô vào cắn gà nhà.
Thế rồi cái gì phải đến đã xảy ra, Miền Nam bị lui dần vào thế bị động dù rằng
tinh thần quân dân cán chính vẫn vững vàng nhưng súng thì thiếu đạn dược và chiến
đấu cơ thiếu nhiên liệu thì không thể chống lại được quân xâm lược Cộng Sản đã
càng lúc càng mạnh hơn kể từ khi Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh khác như Úc,
Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn, v.v., lần lượt rút lui khỏi Miền Nam ngay
sau khi Hiệp Định Paris ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973.
Qua đầu năm 1975 thì tình hình càng lúc càng tồi tệ hơn và VNCH lúc đó giống y
như vị anh hùng Samson, trong truyện phim Samson & Dalilah, mắt đã không
còn nhìn thấy gì và với bộ tóc đã bị cắt ngắn, tượng trưng cho sức mạnh không
còn nữa của Samson, và tay chân thì bị xiềng xích, đang bị một bọn người lùn khả
ố đang dùng những chiếc kìm sắt dứt ra từng miếng thịt trên thân thể của mình.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì Miền Nam mà trái tim là Sàigòn trút hơi thở cuối
cùng.
Trong thời gian bị tập trung trong trại giam ở Miền Bắc tôi có một dịp may được
chuyền tay đọc một tạp chí Reader's Digest là cuốn nguyệt san mà tôi thích nhất
trước kia, trong đó có một bài viết mà tôi không sao quên được của một vị luật
sư người Cu Ba về sự thất bại của cuộc đổ bộ tại Vịnh Con Heo. Sau khi cuộc đổ
bộ thất bại và chế độ Fidel Castro đang khủng bố, đàn áp và trả thù tàn bạo những
người Cách Mạng Cu Ba Tự Do thì vị luật sư này đã trốn thoát được qua Hoa Kỳ và
ông ta thề rằng nếu phải bỏ ra hai mươi năm để tìm hiểu tại sao cuộc đổ bộ hoàn
hảo như vậy để tái chiếm lại Cu Ba và lật đổ chế độ của Fidel Castro mà cuối
cùng lại thất bại thì ông ta cũng phải đi tìm.
Cuộc đổ bộ này đã được tập dượt và coi như là toàn hảo với sự yểm trợ của không
quân Mỹ để làm cỏ những chiếc máy bay cũ kỹ của Cu Ba trong lúc lực lượng Cách
Mạng Cu Ba lưu vong đang đổ bộ lên Vịnh Con Heo để tiến vào tái chiếm Cu Ba.
Câu trả lời mà ông ta tim ra được là kế hoạch đã được chu toàn vào thời gian cuối
của nhiệm kỳ Tổng Thống Eisenhower; nhưng lúc thi hành thì giờ phút chót TT
John Kennedy đã ra lệnh hủy bỏ toàn bộ kế hoạch và không quân Mỹ đã không xuất
hiện như mong đợi, và kết quả là lực lượng đổ bộ nằm phơi mình trên bãi biển
cho từng đoàn máy bay của Fidel Castro đến dội bom và oanh kích. Cuộc nổi dậy
và tái chiếm Cu Ba bị dập tắt trong uất hận và ngậm ngùi. Chúng ta có thể hình
dung ra được sự trả thù tàn bạo của Fidel Castro đối với những chiến sỹ Cu Ba Tự
Do còn sống sót sau lần đổ bộ ấy như thế nào rồi.
Đầu tháng Tư năm 1975, tình hình rất là xáo trộn bất lợi cho chế độ VNCH vì Hoa
Kỳ đã để lộ rõ cho cả đồng minh VNCH và cả kẻ thù là CS Bắc Việt thấy rằng Mỹ
đang di tản nhân viên Sứ Quán của họ ra khỏi Miền Nam. Văn Phòng Tùy Viên Quân
Sự (Defense Attache's Office: D.A.O) được lệnh di tản trước.
Tôi vào họp với các cố vấn Mỹ thuộc Toà Đại Sứ vào đầu tháng Tư thì nhận được
chỉ thị rằng tất cả những nhân viên nào mà không thiết yếu (non-essential) thì
sẽ được ưu tiên di tản trước với gia đình của họ, và những nhân viên nào thiết
yếu (essential) thì phải ở lại để yểm trợ cho các Phủ Bộ, các cơ quan, Bộ Tư lệnh
Cảnh Sát, v.v. của VNCH đến giờ phút cuối cùng.
Tôi và một số bạn đồng nghiệp được lệnh ở lại và được các cố vấn cam kết là sẽ
có trực thăng đến tận nhà để đón chúng tôi vào giờ phút cuối cùng của Sàigòn.
Lần lượt một số bạn đồng nghiệp của tôi đã ra đi theo gia đình làm việc cho cơ
quan D.A.O. và chúng tôi vẫn ở lại.
Đến ngày 27 tháng Tư năm 1975 tôi được triệu tập vào Tòa Đại Sứ họp một lần nữa
và không ngờ rằng đó là lần họp cuối cùng khi các cố vấn Mỹ tuyên bố rằng bây
giờ thì về nhà để chờ đợi di tản vì mọi công việc thường nhật đã không còn cần
thiết nữa và tình hình không còn cứu vãn được.
Tôi ra về trong lòng nặng trĩu vì người anh Cả của tôi lúc đó là Thiếu Tá Tiểu
Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã mất tích. Chỉ có độc nhất một gia đình người
anh thứ ba là Thiếu Tá Hải Quân nhờ đi du học tại Rhode Island đầu năm 1975 nên
đã may mắn đoàn tụ được trên đất Mỹ với vợ con đi theo cơ quan D.A.O di tản qua
được giữa tháng Tư.
Vì gia đình tôi lúc đó cư ngụ tại vùng ngoại ô của Sàigòn, nên tôi đưa vợ và
hai đứa con nhỏ lên bên Nội tại Quận Ba một thời gian xem sao vì ngày 28 một
tên phi công nội tuyến VC đã dội bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất và kế hoạch
di tản bằng đường hàng không đã phải hủy bỏ.
Tối ngày 29 tháng Tư, tôi quyết định cho vợ con vào Tòa Đại Sứ chứ không ngồi
chờ đợi nữa. Sau khi giã từ Mẹ và các em, tôi lái chiếc xe kiểu Taxi đã được sửa
lại làm xe nhà đến cổng sau của Toà Đại Sứ thì thấy thiên hạ đen nghịt và nhốn
nháo đầy những người nhưng chiếc cổng sắt đã đóng và trên bức tường bao quanh
khu vực thì Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang gườm súng không cho ai ra hay vào nếu
không có lệnh. Họ chỉ nhận những người nào trình ra được thẻ của Toà Đại Sứ thì
mới nhấc những người đó vào bên trong mà thôi.
Tôi đưa vợ con đến sát chân tường và tuy có thẻ nhân viên tòa đại sứ trong túi
nhưng không biết rằng có thuyết phục được các tay lính TQLC này cho vợ con tôi
đi theo hay không.
Nếu tôi vào được bên trong mà vợ con bị bỏ rơi lại thì có thể sẽ bị VC trả thù,
ý nghĩ đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi một lúc rồi đột nhiên trong một giây tôi
quyết định, một quyết định đã làm thay đổi hẳn cả một đời người.
Tôi quyết định ở lại cũng vợ con và đưa vợ con tôi về lại nhà bên Nội.
Khi Mẹ tôi nhìn thấy tôi thì chỉ hỏi được một câu là tại sao con không đi? Tôi
trả lời rằng tôi không thể ra đi một mình được trong khi Mẹ và tất cả gia đình
đều ở lại và ông anh Cả thì chưa có tin tức gì. Lúc đó thì ông anh thứ Hai của
tôi nghe tin đồn ở đâu không biết thì tỏ ra lạc quan và nói rằng thế nào cũng
có chính phủ Liên Hiệp và chắc mình không sao đâu. Ông ấy là người may mắn nhất
vì sau đó đi "cải tạo" chưa đến ba cuốn lịch nhờ làm việc cho ngành
Quân Y.
Tối hôm đó tôi ngủ không được và chỉ có một điều an hận là mình mới 29 và chết
quá trẻ.
Sáng ngày hôm sau 30 tháng Tư lúc khoảng 10 giờ thì đài phát thanh loan báo lệnh
đầu hàng của Tổng Thống mới lên là Dương Văn Minh. Tôi nghe như một phát súng nổ
bên tai vậy, bèn lên trên lầu của nhà Mẹ tôi trên đường Trương Minh Giảng để
thu xếp quần áo trở về nhà trong Phú Lâm.
Một lúc sau thì nghe thấy tiếng xe tăng chạy một cách nặng nề vào trong thành
phố, tôi đẩy nhẹ cửa sổ ra nhìn xuống đường thì thấy hai ba chiếc tăng T-54
đang lăn bánh từ hướng Ngã Ba Ông Tạ chạy qua nhà Mẹ tôi về hướng chiếc cầu và
tôi thấy như toàn thể bầu trời đang sụp đổ trước mặt mình.
Chiều hôm đó thì tôi lái xe đưa vợ con về lại căn nhà cũ. Tôi đã mua sẵn một hộp
thuốc ngủ loại mạnh và định cùng với cả gia đình quyên sinh chứ không thể sống
nổi với Cộng Sản được. Nhưng nhìn hai đứa con đang say ngủ ngây thơ vô tội,
lòng tôi chùng xuống, tôi lại bỏ ý nghĩ đó và quyết định là sẽ ở nhà và chờ họ
đến bắt mình rồi phó mặc cho số mệnh.
Mấy ngày sau, một chiếc xe díp chạy vào trong sân nhà tôi, với ba tay mặc sắc
phục như của công an trong đó có một tay có vẻ là tên chỉ huy, ngừng trước nhà
và hỏi tìm tôi. Họ đưa tôi đến một căn nhà ba từng tại ngã Ba Ông Tạ bên ngoài
là Tiệm Thợ May nhưng không ngờ trên lầu trước kia là VC nằm vùng trong đó. Sau
ba ngày thẩm vẫn liên tục, tên chỉ huy tự giới thiệu là Trung Tá có lẽ thuộc cơ
quan Phản Gián từ Miền bắc vào vì nói giọng Bắc bảo tôi về sửa soạn để đi
"tập trung cải tạo". Lúc đó tôi vẫn chưa để ý đến hai chữ "tập
trung". Sau này tôi mới thấu hiểu được cách dùng chữ của VC vì ở tù tập
trung có nghĩa là bị giam giữ không hạn định và không có án lệnh. Thế rồi lệnh
của Ủy ban Quân Quản ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị một tháng đi "học tập
cải tạo", "để thành công dân tốt", để được hưởng "chính
sách khoan hồng nhân đạo" của Đảng và Nhà Nước.
Những người đi "cải tạo" mười ngày thì kéo dài ra vài năm. Những người
đi một tháng thì trở thành sáu tháng, vài năm, mười năm, mười lăm năm; và hai
mươi người cuối cùng thì bị giam giữ đến năm thứ mười bẩy.
"Hãy nhìn những gì Cộng Sản làm đừng nghe những gì Cộng Sản nói", câu
nói ấy chưa bao giờ đúng và đầy ý nghĩa như vậy.
Khi tôi bước chân vào chốn ngục tù thì hai đứa con gái và con trai của tôi mới
lên bốn và lên năm, lúc tôi trở về thì chúng đã bước vào lứa tuổi đôi
mươi.
Bây giờ cả hai cháu đều đã có gia đình riêng và mỗi khi có dịp gặp lại con
gái và con trai của tôi trên San Jose hay khi hai cháu xuống đây
thăm tôi, tôi lại nghĩ rằng có lẽ tôi đã quyết định đúng vào cái buổi tối đêm
29 tháng Tư năm ấy tại cổng sau của Toà Đại Sứ Mỹ Sàigòn.
Con người ta quả là có số mệnh dù là đôi lúc số mệnh quá nghiệt ngã với mình.
Viết xong ngày Rằm Thượng Nguyên năm Canh Dần
Tại Sao
Phải Chống Cộng?
Vấn đề là
có nên đặt câu hỏi như: nên chống Cộng hay không? hay là nên về VN làm ăn buôn
bán với Cộng Sản (CS)hay không? Hay là nên thỏa hiệp với CS hay không để
"xây dựng đất nước"? Hay là nên đầu hàng CS hay không vì nó đã chiến
thắng rồi? Mà vấn đề then chốt là chúng ta PHẢI chống Cộng với chữ PHẢI được in
hoa.
-Về VN để buôn bán làm ăn với CS thì chỉ từ chết tới bị thương mà thôi (trừ phi
có họ hàng thân thích với những tên lãnh đạo đầu sỏ tại Hà Nội hay Sàigòn).
Không phải Việt Kiều về bị lãnh đạn mà cả những công ty ngoai quốc cũng than Trời
vì VN bây giờ là luật rừng và không có nguyên tắc nào cả. Cứ nhìn vào rừng xe cộ
chạy náo loạn cả lên ngày đêm và lúc nào cũng tắc nghẽn tai Saigon mấy tiếng đồng
hồ vào giờ cao điểm thì sẽ hình dung ra được bộ máy hành chánh thiếu năng lực của
CS như thế nào.
-Còn về VN để thỏa hiệp với CS và"xây dựng đất nước" thì những Viết
Kiều này đã đi đúng theo hướng vạch sẵn của CS trong nghị quyết 36 để lùa những
con mồi này về VN làm theo chỉ thị của nó và làm lợi cho chế độ CS. Còn những kế
hoạch nào dù có làm lợi cho người dân đến đâu mà không thích hợp với đường lối
của chế độ CS hiện hữu thi chúng thẳng tay gạt bỏ ngay vì người quyết định là
chế độ CS hiện nay chứ không phải là những Việt Kiều có "tâm huyết"
có tiền bạc và có kiến thức. -Có người con đòi đối thoại với CS về hiện tình đất
nước về hiểm họa Trung Cộng, thực là nực cười vì chính họ không hiểu một chút
gì về chế độ CS cả. CS không bao giờ muốn đối thoại trên căn bản ngang hàng và
ngay thẳng; chính vì thế mà chúng thủ tiêu bao nhiêu là nhà chí sĩ cách mạng
yêu nước của VN Quốc Dân Đảng, các vị lãnh đạo tôn giáo thời đấu tranh chống
Pháp, HCM bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp,v.v.
-Trừ phi những Việt Kiều này về van xin CS, đâm vào sau lưng những chiến sỹ
VNCH bằng lời nói và hành động để được chút cơm thừa canh cặn mà CS nó bố thí
cho.
-Còn đầu hàng CS? Đã có một số Việt Kiều đã quy phục và đầu hàng chúng rồi để
kiếm lợi nhuận như 75 người từ Mỹ về dự Hội nghị tháng 11 năm ngoái tại Hà Nội.
May mắn thay con số này quả là ít ỏi nếu so sánh với ba triệu đồng bào VN tại hải
ngoại. Một điều chúng ta nên nhắc nhau để ghi nhớ là ngày 30 tháng Từ năm 1975,
khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng theo ý định của Hoa Kỳ thi chỉ có Ông DV
Minh (là người đã do Hoa Kỳ dựng lên để nhanh chóng dâng Miền Nam cho CS để Mỹ
rảnh tay làm ăn với Trung Cộng) và chính phủ Hoa Kỳ lúc bây giờ và phong trào
phản chiến ở Mỹ là đầu hàng mà thôi. QLVNCH không đầu hàng, dân quân cán chính
và người dân VNCH không đầu hàng. Ngày quốc tang đó Sàigòn sụp đổ nhưng chúng
ta chỉ thất trận chứ chưa thua trận. Sàigòn đã mất và đã bị đổi tên nhưng trận
chiến chưa chấm dứt mà sau năm 1975 đã bước qua một trang sử mới oai hùng của dân
tộc với hàng triệu người vượt biển tìm Tự Do; hàng triệu người bị đầy đọa trả
thù trong những trại tập trung một hai chục năm nhưng vẫn kiên gan chịu đựng;
những ngọn lửa đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ đang bừng cháy khắp nơi từ Bắc xuống
Nam; trong khi chế độ CS tự chứng tỏ sự ươn hèn và yếu kém của chúng khi dâng đất
đai và biển cả của Cha Ông cho Trung Cộng.
-Năm 1989, như một phép lạ, chế độ CS đã biến mất tại Châu Âu và một phần Châu
Á do chính những đảng viên và dân chúng trong lòng chế đó đó đứng lên làm cách
mạng.
-Ngày tàn của chế độ Cộng Sản tại Việt nam, Lào, Campuchia, Bắc Hàn Cu Ba và cả
Trung cộng nữa cũng chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
-Còn tại sao chúng ta PHẢI chống Cộng? Đặt câu hỏi là đã tự trả lời được rồi.
Chính vì chế độ đó là một chế độ phi nhân bản, chỉ dùng người dân làm công cụ để
cho chúng cướp chính quyền rồi quay lại cướp chính đất đai, tài sản, ruộng vườn,
và ngay cả tính mạng của những người dân đã từng cưu mang chúng nó. Như Cách Mạng
Ruộng Đất 1956 tại Miền Bắc, Lê Duẩn, Trương Chính và HCM đã ra lệnh đấu tố
ngay người đã từng dấu diếm chúng, nuôi nấng chúng trong thời kỳ chống Pháp. Cộng
Sản chúng không có tổ quốc, không có gia đình, không tôn giáo, không bạn bè,
ngay cả giữa chúng nó với nhau (như Stalin đã từng thủ tiêu hàng trăm, hàng
ngàn những đồng chí của hắn ngày trước, không cần lý do chính đáng, để reo rắc
khủng bố sợ hãi và bắt các cấp dưới phải thần phục hắn không điều kiện).
Một chế đó đã biến đất nước thành sa đọa suy đổi về đạo đức, nghèo nàn lạc hậu
về kinh tế, xuất cảng phụ nữ và trẻ em như một món hàng xuất khẩu.
Một chế độ quỳ phục dưới chân những tên Tầu Ô Trung Cộng, dâng đất đai biển cả
cho chúng thì chế độ đó có xứng đáng cho chúng ta thỏa hiệp, làm ăn buôn bán, đối
thoại hay đầu hàng? Đương nhiên chúng ta phải chống lại chúng cho đến cùng cho
đến khi chúng không còn tồn tại trên trái đất này nữa thì trận chiến lúc đó mới
chấm dứt.
-Nhưng chúng ta phải chống Cộng như thế nào cho hữu hiệu? Nếu không hiểu được sự
thâm độc của chế độ CS thì chúng ta chỉ đánh vào chúng như đánh vào không khí
hoặc vô tình còn làm cho chúng nó mạnh thêm lên nữa. Muốn cho Cộng Sản mau bị
tiêu diệt thì chúng ta mọi người đều:
*Phải đoàn kết một lòng như hội nghị Zien Hồng đời nhà Trần năm xưa. Đứng lên
trên cá nhân và quyền lợi để đoàn kết.
*Thông tin, tố cáo tội ác của Cộng Sản để càng lúc càng cô lập chúng lại trên
thế giới và kéo về phía Quốc Gia tất cả những người có lập trương chống Cộng
(những nhà văn, đảng viên, quân đội của CS nhưng đã tỉnh ngộ và quay sang chống
lại chế đó đó). Chúng ta không nên chỉ trích họ là những đảng viên trước kia
hay đã sống trong chế độ CS và xa lánh họ bởi vì những người này như Dương Thu
Hương, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Tín, cựu Tr Tướng Trần Độ, Tướng Đồng Sĩ Nguyên,
LS Lê Thị Công Nhân, Đoàn Khải Thanh Thủy, LS Đài, BS Ng Đan Quế, Phan Thanh
Nghiêm, và nhóm 8406, LM Nguyễn Văn Lý, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, v v. chính
là những người đã và sẽ đấu tranh có hiệu quả nhất và làm cho Cộng Sản run sợ
nhiều nhất, nhiều hơn là chúng lo sợ chúng ta tại hải ngoại chống đối lại
chúng.
*Tránh có những hành động lời nói nào có thể làm lợi cho Cộng Sản như quyên góp
tiền bạc cho chúng(qua những kinh tài CS dấu mặt); tuyên bố những câu đâm sau
lưng chế độ VNCH hay chiến sỹ QLVNCH ngày trước để lấy lòng bọn lãnh đạo mà làm
ăn trót lọt tại VN; đem tiền USD về VN ăn chơi vung vít. Nếu chúng ta còn cha mẹ
già yếu phải chu cấp và thăm nom thì việc gửi tiền về cho bố mẹ tại VN hay về
thăm be mẹ khi hấp hối là điều nên làm của một người con có hiếu với đấng sinh
thành và điều đó cũng không thể làm suy giảm tinh thần chống Cộng của chúng ta
được. Nên tránh những lời nói nặng nề có thể làm phương hại đến sự đoàn kết của
cộng đồng chúng ta tại hải ngoại về việc làm phước thiện hay về VN có lý do
chính đáng.
***Trên đây chỉ là một vài ý kiến đóng góp xây dựng bởi vì học vấn thì bao la,
kiến thức thì rộng như biển cả, kinh nghiệm thì như núi non trùng trùng điệp điệp
nên không ai có thể hiểu hết được ngọn nguồn của mọi vấn đề, nhưng nhiều người
cùng hợp lực thì sẽ tìm ra được Chân Lý.
Tâm Linh
Có Thật Hay Không?
Có nhiều
người không tôn giáo hay có tôn giáo đi nữa vẫn chưa hoàn toàn tin vào hiện tượng
tâm linh. Tôi có dịp nói chuyện với nhiều bạn bè và đoàn thể, nhiều lớp học tại
đại học UCI chẳng hạn thì được khuyến khích là nên viết thành sách để những độc
giả có thể tìm hiểu nghiên cứu thêm. Một anh bạn rất thân với tôi lúc còn học
Trần Lục và Chu Văn An là Đặng Trần Đắc khoảng 10 năm trước cùng vợ con từ Pháp
qua thăm thành phố ty nạn của người Việt tại hải ngoại là Little Sàigòn, sau
khi nghe tôi trình bày những sự kiện và những câu chuyện khác nhau về tâm linh,
đã nói rằng tại nước Pháp bây giờ người ta cũng nghiên cứu rất nhiều về vấn đề
này và khuyên tôi nên phổ biến sâu rộng.
Những câu chuyện thực mà tôi thâu thập được, thấu hiểu được, và được thuật lại
thì rất là nhiều trong thời gian tôi bị tập trung và lưu đầy biệt xứ tại Miền Bắc
Việt Nam. Chữ biệt xứ này là từ ngữ mà các tù nhân chính trị thường dùng, như
trong một lần thẩm vấn một cán bộ từ Hà Nội vào hỏi là anh nghĩ thế nào về chế
độ khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với các anh. Đại úy Quang, Quân
Báo, mà tụi tôi thường gọi là Quang Sừng vì anh cùng anh Quát là những nghệ
nhân rất khéo tay đã tạc được những bức tượng Phật, tượng Chúa và những chiếc
lược rất đẹp từ sừng trâu, đã trả lời rằng:" Tôi thì ít học nhưng trong chế
độ cũ VNCH chúng tôi, nếu bị tù không có án năm thì gọi là chung thân, nếu tù
mà còn phải lao động thì gọi là khổ sai, nếu bị đưa đi khỏi quê hương mình đang
sinh sống thì là lưu đầy biệt xứ". Tới đó thì tên thẩm vấn viên có vẻ lúng
túng và xoay qua câu hỏi khác.
Trở lại với thời gian bị giam giữ tại Miền Bắc, tôi có một thời gian nhiều năm ở
cùng trại với anh Sáng mà tôi coi như một người anh; đại tá Chu Văn Sáng thuộc
ANQ Đ. Qua anh Sáng mà tôi mới biết được về huyền thoại của một nhân
vật rất là nổi tiếng trước năm 1975 tại Sàigòn và cả Miền Bắc nữa trước năm
1954 là cụ Diễn và những mẩu chuyện mà tôi vẫn còn nhớ mãi đến bây giờ.
Một hôm buổi sáng Chủ Nhật tôi qua bên buồng giam của anh Sáng thì tình cờ thấy
anh đang cúng rất đơn sơ tại bức tường cửa sổ trên đầu nằm của anh và được biết
là năm nào anh cũng cúng cụ Diễn, là người thầy và cũng thân thiết như trong
gia đình của anh. Anh Sáng cũng rất là mến tôi, lúc đầu như là một ủng hộ viên
cho anh trong những lần tranh tài cờ tướng giữa các cao thủ với nhau và bao giờ
thì anh cũng thắng. Tôi là người rất thích môn cờ tướng nên thường không bao giờ
bỏ qua những trận tỉ thí của anh và từ đó hai anh em quên thân với nhau. Có một
lần một anh bạn xứ Quảng nghe tiếng nên qua đấu với anh Sáng vài ván rồi ngỏ lời
thách đầu ba ván để xem thực tài của anh Sáng ra sao. Sau vài lần từ chối anh
Sang nhìn tôi nheo mắt lại cười và nhận lời. Lẽ dĩ nhiên là anh thắng trận đó.
Anh có cái hay khi đánh cờ là không bao giờ để cho đối thủ bị thua không còn mảnh
giáp nào, mà luôn giữ thế cờ ngang ngửa và phút chót mới dồn đối thủ vào thế
bí. Có lẽ để tưởng thưởng cho tôi một ủng hộ viên gà nhà của anh nên những lúc rảnh
rồi anh hay tâm sự cùng tôi về những thăng trầm trong cuộc đời của anh đều được
cụ Diễn cho biết để phòng bị trước.
Cụ Diễn là một trong bốn người Việt Nam, trong đó có một người cháu thuộc dòng
dõi của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng nhau sang Tầu để học về Tử Vi Tướng
Số.
Khi sang đến bên Tầu thì ba người kia được ông thầy Tầu nhận vào và chỉ dậy tận
tình. Riêng cụ Diễn thì ông thầy Tầu chỉ dậy qua sơ sơ mà thôi. Một hôm cụ Diễn
mới thắc mắc hỏi thì ông thầy Tầu nói rằng ông ta và cụ Diễn không có duyên thầy
trò và môn mà cụ Diễn sẽ học không phải là Tử Vi Tướng Mạo mà là về Địa Lý và
mô tả rất kỹ tướng mạo của người thầy mà sau này sẽ chỉ dậy cho cụ Diễn về môn
Địa Lý đó. Cụ Diễn có hỏi là bao giờ thì gập được người thầy này thì ông thầy Tầu
chỉ cười mà không nói.
Sau một thời gian tu học xong thì cả bốn người trở về Việt Nam. Tuy không giỏi
bằng ba người kia nhưng cụ Diễn lại may mắn nổi tiếng hơn trong khoa Tử Vi, và
được nhiều quan chức thời Pháp lúc bấy giờ vời đến nhà.
Trong số đó có một vị thuộc gia đình giàu có tri phủ trước kia muốn cụ xem cho
cô con gái. Cô gái tên là Kiều và rất là tự kiêu nên nằm trên giường mà đưa tay
cho thầy xem. Dựa trên lá số cụ Diễn khuyên cô Kiều ngày tháng đó không nên ra
đường mặc áo mầu hoàng yến vì sẽ gặp nạn. Vốn kiêu căng và được nuông chiều nên
cô gái không nghe lời và cố tình mặc cái áo màu hoàng yến để đi dạo trên đường
phố.
Bất ngờ có một xe "lục xì" là xe của "phú lít" Pháp bắt các
cô gái giang hồ đang chạy trên đường thì có bóng một người nữ từ trên xe nhào
xuống đường mặc áo màu hoàng yến và chạy vụt vào trong cái ngõ hẻm bên cạnh. Mấy
phú lít đi hộ tống bèn nhẩy hết xuống đường và chạy lại bắt cô Kiều này vì tưởng
lầm là cô gái vừa mới trốn khỏi xe. Mặc cho cô kêu oan và giải thích, cô bị lôi
lên xe đem về bót giam giữ. Tối hôm đó quá ư là xấu hổ, cô đã rạch cổ tay để
quyên sinh nhưng may mắn có một anh y tá đã trông thấy và vào cứu kịp thời. Cô
gái sau đó không dám về nhà bố mẹ nữa và lấy anh y tá làm chồng. Sau năm 1954
hai vợ chồng di cư vào Nam và mỗi năm dịp lễ Tết lại đến nhà thăm cụ Diễn.
Sau khi xem cho cô con gái kia xong thì cụ được viên quan tri phủ trước kia đưa
đi ra vườn ngắm cây cảnh. Khi cụ đi ngang qua một anh tuổi trung niên người Tầu
đang chăm sóc các cây cảnh thì chợt cụ Diễn dừng lại và nhìn anh nầy chằm chặp.
Tướng mạo của người này giống y hệt người thầy Địa Lý mà cụ được mô tả khi còn ở
bên Tầu. Đây đúng là người thầy đó rồi. Cụ bèn quay lại và hỏi thăm thì anh người
Tầu kia một mực nói rằng anh ta không biết gì hết.
Cụ bên kể hết tất cả hành trình mình đi du học bên Tầu thế nào và ông thầy Tử
Vi đã nói về người thầy của cụ ra sao và xin anh làm vườn này chỉ dậy cho cụ về
môn Địa Lý. Lúc đầu anh ta khăng khăng từ chối và nói là cụ Diễn đã nhìn lầm
người rồi.
Nhưng cụ Diễn vẫn kiên nhẫn chờ đợi và cuối cùng thì anh người Tầu này nhận lời.
Từ đó cụ Diễn đã học được môn Địa Lý và sau này có nhiều dịp để thi thố tài
năng của mình.
Khi cụ Diễn lần đầu tiên gặp ông Nguyễn Văn Thiệu lúc đó mới là Thiếu Úy thì cụ
đã nhìn thấy tướng mạo rất tốt của ông Thiệu và nói rằng ông Thiệu nên rèn luyện
về đạo đức tinh thần để sau này giữ trọng trách quốc gia. Đến khi ông Thiệu lên
làm Tổng Thống thì có vời cụ Diễn vào dinh Độc Lập. Cụ có nói chuyện lại với
anh Sáng rằng cụ đã về quê của Ông Thiệu tại Phan Rang để xem Địa Lý và thấy có
một rặng núi không cao lắm nhưng nằm như hình một con rồng đất ứng vào điềm ông
Thiệu lên làm Tổng Thống nhưng cụ đã đo từ đầu dãy núi đến cuối thì phước lộc của
ông Thiệu chỉ gói trọn trong 10 năm mà thôi. Anh Sáng và cụ Diễn đều là đệ tử của
Đức Thánh Mẫu mà dân gian văn thờ phượng: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ
Mẹ" Giỗ Cha là giỗ Đức Thánh Trần và giỗ Mẹ chính là giỗ Đức Thánh Mẫu. Có
lẽ vì vậy mà cụ Diễn đã có một cái giác quan thứ Sáu rất nhạy bén về môn Tử Vi
và Địa Lý.
Có một lần vào khoảng đầu năm một chín bảy mươi, cụ nói với anh Sáng đưa cụ tới
một địa điểm trong một tỉnh của xứ Quảng ở Miền Trung và khi xe jeep đang chạy
trên quốc lộ thì cụ bảo dừng lại và chống gậy đi lên một ngọn đồi gần đó và quan
sát rất là kỹ rồi lấy cây gậy chọc xuống vùng đất cát trên đồi và nói với anh
Sáng rằng sau nầy thủ đô của nước chúng ta sẽ nằm tại đây vì đây là linh địa.
Cụ cũng nói xa gần cho anh Sáng biết là sắp có một sự thay đổi lớn và đến khi
Sàigòn sụp đổ thì anh Sáng mới hiểu ra được lời nói của cụ. Có thể vì cụ đã tiết
lộ thiên cơ quá nhiều cho nên có một thời gian hai mắt của cụ đều bị mờ và luôn
chẩy nước mắt rất là khó chịu. Cụ có một số những bác sĩ quen làm việc trong Tổng
Y Viện Công Hòa và có khám mắt cho cụ nhưng thấy hai mắt đều bình thường và
không tìm ra được căn bệnh gì cả.
Cụ đã đi khám các bác sỹ nhãn khoa khác và tất cả cũng đều kết luận giống nhau.
Cụ nói với anh Sáng rằng có lẽ Mẫu đã quở phạt cụ. Một hôm anh Sáng va cụ đang
đi dạo trên một đường phố Sàigòn và khi đi ngang qua một ngôi Đền thì thấy
trong đó đang làm lễ thì đột nhiên có một người chạy ra nói mời cụ vào bên
trong.
Anh Sáng thấy một người nữ đang giống như cầu cơ và lên đồng xong thì đưa cho cụ
một chén nước trà và bảo uống đi. Điều lạ lùng là sau khi cụ uống chung trà đó
xong thì hai mắt từ từ trở lại bình thường và không còn xốn xang và chẩy nước mắt
nữa.
Câu chuyện thứ hai mà tôi vẫn còn nhớ là anh Chín, đại tá không quân , đã tâm sự
khi hai anh em cũng lao động chung trong một khu vực sản xuất tại Miền Bắc. Anh
nói với tôi rằng anh từ trước không tin vào bói bài tây cho đến khi anh gặp một
người bạn của em trai của anh tại Sàigòn vào dịp Tết năm một chin bẩy lăm.
Cậu này đã cúng bộ bài tây trên bàn thờ xong rồi xem cho anh một quẻ và nói rằng
trước mặt của anh chẳng thấy gì ngoài những mây mù chập chùng bao phủ hết bầu
trời và xa tít tận cuối chân trời mới thấy ló ra một chút ít ánh sáng mà thôi.
Cậu ta nói rằng chưa bao giờ thấy một quẻ bói quá xấu như vậy cả. Điều này ứng
với việc mất Sàigòn tháng Tư năm đó và anh Chín cùng với hàng triệu người khác
đã đi vào con đường tù tội và lưu đày. Ba năm trước, cậu ta cũng xem cho anh và
nói rằng anh có thể bị tai nạn máy bay nhưng nếu anh sanh con trai thì sẽ giải
được cái nạn đó. Vài tháng sau trong một phi vu tại Pleiku, trực thăng của anh
bị rớt xuống một vùng đầm lầy và như là một phép lạ anh may mắn chỉ bị xây sát
và không thương tích gì nặng. Khi anh được đưa về bệnh viện tại hậu cứ thì được
tin là vợ anh vừa sanh thằng con trai.
Câu chuyện thứ ba mà tôi sẽ kể hầu quí vị sau đây khá ly kì và nhiều tình tiết
liên quan đến một vị sư, một người thầy và cũng là dưỡng phụ của tôi, đó là thầy
Tâm, cố hòa thượng Thích Thiện Chánh.
Trong những năm tháng khổ cực tù đầy thầy trò sống bên nhau tại Miền Bắc, thầy
đã chỉ dậy cho tôi không những các điều căn bản của đạo Phật mà còn hun đúc cho
tôi một sức chịu đựng phi thường để vượt qua bao gian nguy thử thách mà sống
còn.
Thầy còn có cái tài về chế biến thức ăn rất là thần tình. Một anh làm trong nhà
bếp cho thầy một lô những hạt trái khổ qua. Thường thì người ta vứt đi vì không
làm được cái gì cả nhưng thầy thì phơi khô xong, rang nó lên, bóc vỏ ra, xắt nhỏ
và trộn với ít rau sống thành một món ăn sà lách thật lạ miệng. Về tâm linh mà
nói, có thể thầy đã tu hành từ lúc còn nhỏ hay nhờ vào ngồi thiền mà thấy biết
được nhiều chuyện quá khứ vị lai.
Một buổi tối hai thầy trò đang ngồi cạnh bên cửa sổ buồng giam thì thầy chỉ lên
một ngọn núi gần đó và bảo tôi rằng có một ông Thần một chân đang chống gậy đứng
trên đỉnh núi nhìn về phía trại giam; và ông Thần Độc Cước ấy đã cứu giúp cho
anh em tù nhân chính trị rất nhiều vì chúng ta có Chính Nghĩa và biết thờ phượng
Trời Phật.Tôi chẳng nhìn thấy gì cả ngoại trừ những áng sương mù đang bao phủ
quanh chóp núi. Thầy nói rằng trại giam ở gần chùa Hương Tích nơi thờ Phật Bà
Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn cho nên các anh em tù nhân chính trị cũng được ánh
sáng linh thiêng của Ngài cứu độ cho nên những thương vong tai nạn cũng giảm bớt.
Một hôm vào ngày mười sau ta, thầy bảo tôi chuẩn bị gạo muối để nấu cháo cúng
những người Âm là những anh em đã chết trong trại giam này vì tối hôm qua thầy
nằm mơ thấy họ kéo đến rất là đông, mỗi người trùm một cái chăn mền mầu đỏ -là
loại mền Trung Quốc phát cho tù nhân- và nói rằng tôi đã làm phước nhiều cho
người sống sao không làm phước cho người chết? Quả thật là những lần Mẹ tôi và
gia đình gửi quà qua đường bưu điện hay đến thăm đem cho tôi những thuốc men,
quần áo, thức ăn khô, thì Mẹ tôi thường gửi nhiều hơn một chút để tôi có thể
san sẻ với các bạn tù mà chưa có gia đình tiếp tế kịp. Từ đó, mỗi tháng vào
ngày mười sáu thì hai thầy trò lại nấu một nồi cháo để cúng những người đã khuất
mặt. Sau này khi thầy Tâm đã được tha về cùng các quí thầy, linh mục và mục sư
khác vào tháng chín năm một chín tám mươi bảy thì dù là còn lại một mình, tôi vẫn
cố gắng nấu cháo để cúng cho họ mỗi mười sáu ta cho đến khi chuyển trại theo
con tàu xuôi vào Miền Nam năm sau thì tôi không còn phương tiện để cúng cho họ
nữa.
Cũng nhờ vào sự hỗ trợ và khuyến khích của thầy mà tôi đã hoàn tất được một việc
mà tưởng như không bao giờ làm được, đó là chép lại hai bộ kinh rất là công đức
của nhà Phật là Kinh Pháp Hoa và Kinh Địa Tạng sau bao nhiêu tháng trời ngồi
chép lại bất cứ khi nào có chút thì giờ rảnh rỗi. Khi tôi chép xong thì thầy lấy
hai bộ kinh để lên bệ cửa sổ và thắp nén nhang khấn vái.
Thầy lúc nào cũng hòa nhã và vui vẻ với mọi người cho nên có rất nhiều Phật tử
đến thăm thầy và trò truyện mỗi ngày Chủ Nhật được thong thả một chút. Những
người mà tôi thấy rất quí mến thầy là Tướng Mạch Văn Trường, Ông Xoàn, Trung Tá
Cảnh Sát đặc biệt, đại tá Tồn, v.v.
Một hôm tôi thấy thầy vội vã cũng Thượng Tọa Thích Thanh Long qua khu bên kia
trại giam. Khi gặp lại thầy tối hôm đó tôi mới được biết là thầy qua làm lễ lúc
đại tá Tồn đang hấp hối. Thầy ôm anh Tồn trong cánh tay và niệm Phật. Anh Tồn
có nhắn với thầy là sau này gặp các con của anh thì bảo chúng nó phải trả thù
cho anh.
Thầy thương anh quá nước mắt ràn rụa nhưng thầy bảo anh là thầy đã ghi nhớ rồi
nhưng anh phải niệm Phật để lòng lắng đọng lại thì mới ra đi thanh thản được,
còn nếu lòng anh còn quá nhiều oán hận thì sẽ không siêu thoát được.
Anh nghe lời thầy và nhắm mắt ra đi trong lặng lẽ. Thầy bảo với tôi rằng khi
anh ra đi thì Đức Thánh Mẫu đã đến đón anh vì góc buồng giam tự dưng sáng rực hẳn
lên.
Con người
ta có những dịp may mà ta có thể gọi là cơ duyên. Những cơ duyên đó có thể thay
đổi hẳn cuộc đời một con người theo hướng tốt. Đó là cơ duyên mà tôi đã được gập
thầy Tâm vì nếu không có thầy chỉ dậy thì có lẽ tôi đã không thể chịu đựng nổi
những năm tháng sau cùng và có lẽ đã nằm lại trên ngọn đồi nghĩa trang của trại
giam đâu đó tại Miền Bắc rồi.
Một hôm, có một số tù nhân chính trị được chuyển đến nơi tôi đang bị giam giữ
và tình cờ thầy Tâm và một số đại đức Phật giáo được "biên chế" vào
cùng buồng với tôi. Một buổi tối nhìn thấy thầy đang cạo gió và lể để chữa bệnh
cho cac anh em bị ốm đau và tìm bông gòn. Tôi bèn đem hộp bông gòn mà gia đình
vừa gửi đến đưa cho thầy để thầy cứu chữa cho các anh em. Không ngờ đó là cái
cơ duyên đưa tôi đến với thầy. Thầy bảo với tôi rằng tôi là một trong số bốn
người đệ tử của thầy mà Ơn Trên đã bảo thầy về đây để cứu độ. Sau này, khi thầy
đã được ra về và tôi còn lại trong số chín mười người cuối cùng tại Miền Bắc,
và bốn năm sau thì là một trong số hai mươi người tù cuối cùng tại trại Z-30D
Hàm Tân trong Miền Nam thì tôi mới thấy lời nói của thầy là đúng. Tôi vẫn nhớ
như in lời thầy dậy bảo tôi là cái gì tốt mình cũng nhận cái gì xấu xảy đến với
mình thì mình cũng nhận nó và từ từ rồi nó sẽ qua đi, vì đó là cái nghiệp không
ai gánh chịu cho mình ngoài chính bản thân mình.
Những lúc lao động cực khổ quá hay nhưng khi thấy sức mình như đã cạn kiệt rồi
vì thời tiết khắc nghiệt của khu trại giam tôi lại nhớ đến lời của thầy và thấy
như có một hơi nóng nào giúp cho mình hồi sinh lại. Tôi chỉ có một điều ân hận
là khi tôi đã qua được định cư tại Hoa Kỳ này được năm năm thì bất ngờ được
hung tin là thầy đã vãn sanh miền Cực Lạc mà không kịp về thăm thầy lần cuối.
Khi thầy được tha về, thầy đã từ chối không ra đi theo chương trình H.O mà ở lại
Sàigòn để tu bổ lại ngôi chùa Thới Hòa thân yêu mà thầy đã xây dựng lên trước
kia. Khi tôi được ra đi định cư tại Hoa Kỳ, thầy đã ra tận sân bay tiễn đưa
tôi, thầy ôm lấy tôi và viết lên trên ngực áo tôi một chữ Nhẫn và bảo tôi rằng
cuộc sống bên đó tuy trong xứ Tự Do nhưng cũng còn nhiều thử thách nên lúc nào
cũng phải Nhẫn.
Thái Độ
Chính Trị
Tiếng Việt
chúng ta không những khúc chiết, súc tích mà còn rất là phong phú nữa. Chúng ta
cũng rất là may mắn vì đất nước Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, lọt thỏm
vào trong những quốc gia toàn viết những chữ nếu không hình tượng như Trung Hoa
hay Nhật Bản, Đại Hàn, thì cũng ngoằn ngoèo như Cambodia, Laos, Thailand, v.v.;
vậy mà chúng ta lại viết theo mẫu tự La tinh A,B,C, của phương Tây.
Trong mọi ngôn từ mới đầu thoạt nhìn tưởng như tương tự nhưng ngẫm nghĩ lại thì
thấy các chữ đó như có chứa đựng một sự sâu lắng trong chữ nghĩa của nó và thảy
đều khác nhau. Tôi xin đan cử vài thí dụ như:
LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ:
Minh xác cái chỗ đứng của mình, như chúng ta chống Cộng Sản chẳng hạn.
KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ:
Khi đã có lập trường chống Cộng rồi thì chúng ta có thể ngả theo đảng Cộng Hoà
hay đảng Dẫn Chú, hay đứng độc lập.
ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ:
Những bước tiến tới hay con đường để thực hiện cái lập trường của mình.
THÁI ĐỘ
CHÍNH TRỊ:
Có lẽ đây
là từ ngữ mà tôi thích nhất để bày tỏ cái phản ứng của mình như lời tuyên bố của
hòa thượng Thích Quảng Độ chẳng hạn.
Cộng Sản vặn vẹo Ngài là tại sao tu hành mà còn làm chính trị. Hòa thượng trả lời
một cách dõng dạc rằng người tu hành không làm chính trị nhưng phải có thái độ
chính trị.
Đó là phải biết yêu cái Thiện và ghét cái Ác, yêu cái Đẹp ghét cái Xấu, yêu cái
Lành ghét cái Dữ, yêu cái Dân Chủ và ghét cái Độc Tài Đảng Trị.
Có một số người ngoại quốc và một số người Việt nữa đã hỏi tôi rằng tại
sao đã trên ba thập niên rồi mà các anh vẫn còn chống Cộng Sản và chúng ta chống
Cộng Sản liệu có đi đến đâu hay không vì trước kia có Mỹ và Đồng Minh giúp đỡ
mà QLVNCH cũng đâu tiêu diệt được Cộng Sản đâu?
Tôi đã trả lời họ rằng, cái thứ nhất phải chống Cộng vì nó là tượng trưng cho
cái Ác, cái Dữ, cái Xấu, cái Độc Tài Đảng Trị đang áp đặt trên quê hương Việt
Nam.
Cái thứ hai, trước năm 1975, chúng tôi chỉ thất trận vì Mỹ đã bắt tay được với
Trung Cộng và bỏ rơi miền Nam và cắt viện trợ trong đó có vũ khí đạn dược xăng
dầu cho QLVNCH - chứ QLVNCH chúng tôi lúc đó được coi như là một quân đội
hùng mạnh và thiện chiến vào hàng đầu thế giới.
Tích Cực
Triệt Để
Tích cực
triệt để chống Cộng là chữ mà tôi thấy thích hợp nhất đã tìm thấy để sửa lại
chữ chống Cộng quá khích mà một tác giả trong một bài viết đã
dùng sai thành ra nghĩa tiêu cực.
Trong hoàn
cảnh rất là tế nhị của chúng ta hiện nay tại hải ngọai một mặt
VC tung ra Nghị Quyết 36 để làm suy giảm tiềm năng của chúng ta, một mặt Hoa Kỳ
đang xáp lại gần Cộng Sản VN vì quyền lợi trong khu vực Biển Đông thì
người Việt chúng ta tại hải ngoại nên làm gì?
Có người nói rằng rất bận làm ăn hay đi làm OT nhiều, hay lo cho gia đình con
cái hết ngày giờ,v.v. nên không có thì giờ chống Cộng và ai chống thì tôi hoan
nghênh vậy thôi.
Theo tôi bất cứ một ai tại hải ngoại hay trong nước đều có thể chống Cộng theo
vị trí của mình dù là khiêm tốn và mỗi người một tay một lời nói thì
bọn Cộng Sản sẽ phải lui dần và phải tôn trọng Tự Do Nhân Quyền và tôn trọng
người dân VN nhiều hơn. Có nhiều hình thức chống Cộng khác nhau tuy cùng một cứu
cánh:
-Chống Cộng quyết liệt bằng vũ lực:
*Theo tôi giải pháp về quân sự để lật đổ chế độ Cộng Sản hiện hữu tại VN này hiện
nay là không tưởng vì CSVN được cả Trung cộng đứng đằng sau và HK từ bên này
support thì không cách gì dùng vũ lực lật đổ nó được (như lực lượng Hoàng Cơ
Minh, Trần Văn Bá, Võ Đại Tôn trước kia).
*Nhưng nếu
chúng ta không làm được thì tham gia các cuộc biểu tình chống Cộng, viết
các bài báo chống Cộng dựa trên kinh nghiệm của mình.
-Phổ Biến
Thông Tin Chống Cộng:
*Nếu
chúng ta không có thì giờ đi tham gia vào đoàn biểu tình, không có thì giờ viết
lách, thì chúng ta tại những nơi làm việc, buôn bán hay họp mặt bạn bè
thân hữu gia đình, chúng ta cần phải nói lên tiếng nói không chấp nhận Cộng
Sản trên quê hương VN - giải thích cho mọi người hiểu sự tàn ác của CS để
đả phá âm mưu tung ra chiêu bài hỏa mù "Hòa Hợp hòa Giải" để chiêu dụ
người Quốc Gia về với bọn chúng.
*Thí dụ
như giải thích cho nhiều cơ quan HK biết lá cờ của chúng ta là Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ/không
phải Cờ Máu và tại sao bây giờ chúng ta vẫn phải chống Cộng.
-Không Hợp
Tác với Cộng Sản:
*Nếu
chúng ta không đi biểu tình, không viết lách được, không muốn lên tiếng nói chống
Cộng trong các buổi họp mặt hay nơi làm việc, thì chúng ta cũng sẽ
không làm gì có tính cách làm lợi cho CS và hợp tác với CSVN kể cả
CS quốc tế, như không về VN kinh doanh với CS, xây dựng cơ sở thương
mại, kỹ thuật, đem vốn đầu tư về VN cho Cộng Sản, hay không tiếp tay cho các luận
điệu tuyên truyền của CS tại hải ngoại.
*Nếu
chúng ta không chống Cộng được một cách tích cực và triệt để thì vẫn có thể chống
Cộng một cách thầm lặng nhưng vẫn hữu hiệu bằng nhiều khía cạnh như hạn chế về
VN hay gửi tiền về VN trừ những trường hợp thật cần thiết.
*Dậy dỗ
con cái về những cái hay đẹp của Văn hóa VN, tiếng Việt, cuộc sống Tự Do từ
ngàn xưa do Cha Ông để lại, biết kính trong các giá trị VN, kính trọng các bậc
anh hùng dân tộc từ đó biết ghét bỏ cái chủ nghĩa xã hội quái thai mà HCMinh đã
du nhập vào VN và đang phá hoại đất nước VN đưa quê hương VN trở lại thời lạc hậu
Đồ Đá, đang dâng biển dâng đất của Cha Ông cho bọn Tầu Ô Tầu Phù Trung Cộng.
(Vì CSVN đang cố lái xu hướng của thanh niên VN trong nước và hải ngoại vào làm
ra nhiều tiền để ăn chơi, sống theo sở thích cá nhân. Không để ý đến chính trị
hay không care bất cứ gì khác - đây là điều mà bọn cầm quyền CSVN rất là vỗ tay
reo mừng vì nó rất mong các thành phần trí thức và giầu có cứ lo ăn chơi làm giầu
để yên cho nó ngồi trên ngai vàng tha hồ cai trị dân theo luật rừng của nó.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét