CHƯƠNG 3: CHẶNG ĐƯỜNG
GIÀNH ĐỘC LẬP
“Cuộc Cách mạng đã diễn ra trước khi chiến tranh bắt đầu. Cách
mạng đã nằm trong trái tim và khối óc của nhân dân".
Cựu Tổng thống John Adams, 1818
Suốt thế kỷ XVIII, tất cả các thuộc địa ở Bắc
Mỹ của Anh đang trưởng thành tất yếu đều xây dựng một bản sắc riêng. Họ đã lớn
mạnh cả về kinh tế và văn hóa. Gần như tất cả đều trải qua nhiều năm được hưởng
chế độ tự trị. Trong thập niên 1760, tổng số dân của họ đã vượt 1.500.000 người
- tăng sáu lần kể từ năm 1700. Tuy nhiên, mãi đến tận năm 1763, Anh và Mỹ mới
thực sự bắt đầu công khai chia tách sau hơn một thế kỷ rưỡi xây dựng khu định
cư lâu dài đầu tiên ở Jamestown, bang Virginia.
MỘT HỆ THỐNG THUỘC ĐỊA MỚI
Sau cuộc chiến tranh với Pháp, Luân Đôn thấy
cần phải xây dựng một mô hình đế quốc mới mang tính chất tập quyền nhiều hơn,
chia sẻ những chi phí vận hành của đế chế bình đẳng hơn và đảm bảo lợi ích của
cả cộng đồng người Canada gốc Pháp và thổ dân da đỏ ở Bắc Mỹ. Trái lại, tất cả
các thuộc địa vốn từ lâu đã quen được hưởng độc lập giờ đây lại hy vọng được tự
do nhiều hơn chứ không phải ít hơn. Do mối đe dọa từ Pháp đã bị loại bỏ nên họ
cảm thấy ít cần sự hiện diện quá mạnh của người Anh tại đây. Trong khi đó hoàng
gia và Quốc hội thiếu nhạy bén ở bên kia Đại Tây Dương đã tự thấy họ phải cạnh
tranh với những người đi khai hoang vốn đã quen với mô hình tự trị và không
chịu được tình trạng can thiệp.
Việc tổ chức quản lý Canada và thung lũng Ohio
đòi hỏi phải có những chính sách không được làm cho người Pháp và thổ dân da đỏ
xa lánh. Nhưng ở đây Luân Đôn lại đi ngược lại lợi ích cơ bản của các thuộc
địa. Do dân số tăng nhanh và nhu cầu đất đai định cư ngày càng lớn nên các
thuộc địa đã đòi quyền mở rộng cương vực về phía Tây châu thổ sông Mississippi.
Lo sợ sẽ xảy ra hàng loạt các cuộc chiến với
thổ dân da đỏ, Chính phủ Anh khẳng định việc mở rộng đất đai cho các thuộc địa
cần được thực hiện theo từng bước. Việc hạn chế đi lại cũng là một phương cách
bảo đảm sự kiểm soát của Hoàng gia đối với các khu định cư hiện có trước khi
cho phép họ lập những khu định cư mới. Tuyên bố của Hoàng gia vào năm 1763 đã
chuyển tất cả lãnh thổ phía tây nằm giữa dãy Allegheny, bang Florida, sông
Mississippy và Quebec cho thổ dân da đỏ sử dụng. Như vậy, Hoàng gia đã cố bác
bỏ yêu cầu mở rộng cương vực sang phía Tây của 13 thuộc địa và chấm dứt phong
trào khai hoang sang phía Tây. Tuy tuyên bố đó chưa bao giờ được thực thi, song
theo nhiều người đi khai hoang, quy định này lại là một bằng chứng rõ ràng về
thái độ xem thường quyền được chiếm và định cư ở những vùng đất miền Tây của
họ.
Hậu quả nghiêm trọng hơn của quy định này là
chính sách thu ngân sách mới của Chính phủ Anh. Luân Đôn cần có nhiều tiền hơn
để hỗ trợ đế chế ngày càng lớn mạnh của họ, đồng thời họ đang vấp phải sự bất
mãn ngày càng lớn của những người dân nộp thuế trong nước. Vấn đề này chỉ có
thể được giải quyết thông qua những loại thuế mới do Quốc hội áp đặt, song lại
làm tổn hại lợi ích của các chính quyền tự trị của thuộc địa.
Bước đầu tiên là sự thay thế Đạo luật Mật
đường năm 1733, vốn đã đặt ra mức thuế cắt cổ đối với rượu vang và mật đường
nhập khẩu từ mọi khu vực nằm ngoài nước Anh, bằng Đạo luật Đường năm 1764. Đạo
luật này cấm nhập khẩu rượu rum; áp mức thuế tương đối với mật đường nhập từ
tất cả mọi nơi, đánh thuế rượu vang, lụa, cà phê và nhiều mặt hàng xa xỉ khác.
Người ta hy vọng việc giảm thuế mật đường sẽ làm giảm động cơ buôn lậu mật từ
miền Tây ấn thuộc Hà Lan và Pháp để phục vụ các lò cất rượu rum ở vùng New
England. Chính phủ Anh ra sức thực hiện Đạo luật Đường. Các quan chức hải quan
cũng được lệnh tăng cường hiệu quả làm việc. Các tàu chiến của Anh ở vùng lãnh
hải của Hoa Kỳ cũng được lệnh bắt giữ buôn lậu. Nhà vua cũng ban hành các sắc
lệnh cho phép các sỹ quan khám xét những khu vực bị tình nghi.
Cả thuế quan nhập khẩu theo quy định Đạo luật
Đường và các biện pháp thực thi đạo luật này đều khiến các lái buôn ở vùng New
England hoang mang. Họ cho rằng việc chi trả các khoản thuế, thậm chí ở mức
thấp vẫn có thể khiến công việc kinh doanh của họ bị phá sản. Các lái buôn, các
cơ quan lập pháp và các cuộc họp của thị chính đều phản đối đạo luật. Các luật
sư ở thuộc địa đã phản đối với khẩu hiệu "đánh thuế không cần đại
diện" để thuyết phục nhiều người Mỹ rằng họ đang bị chính mẫu quốc áp bức.
Cuối năm 1764, Quốc hội ban hành Đạo luật Tiền
tệ nhằm ngăn chặn các loại tiền giấy kể từ nay được phát hành ở bất kỳ thuộc
địa nào thuộc Hoàng gia không được trở thành đồng tiền hợp pháp. Do các thuộc
địa luôn bị thâm hụt thương mại và thường xuyên thiếu ngoại tệ mạnh, nên biện
pháp này đã gây thêm một gánh nặng nghiêm trọng cho nền kinh tế thuộc địa. Một
đạo luật cũng bị thuộc địa phản đối tương tự là Đạo luật Hậu cần được thông qua
năm 1765 yêu cầu các thuộc địa phải cung cấp thực phẩm và doanh trại cho các
đơn vị quân đội Hoàng gia.
ĐẠO LUẬT THUẾ TEM
Một phương pháp đánh thuế không cần đại diện
đã làm bùng lên sự phản kháng có tổ chức lớn nhất là Đạo luật Thuế tem (Stamp
Act). Đạo luật này quy định tất cả báo chí, biểu ngữ, sách nhỏ, giấy môn bài,
hợp đồng thuê mướn và các loại văn bản pháp luật khác đều bị dán tem để đánh
thuế. Số tiền do hải quan Mỹ thu được sẽ được sử dụng cho phòng thủ, bảo vệ và
duy trì an ninh cho các thuộc địa.
Được áp dụng như nhau đối với tất cả mọi người
bất kể ngành, nghề kinh doanh, Đạo luật Thuế tem đã khiến những nhóm hùng mạnh
và có tiếng nói nhất trong cộng đồng dân cư Mỹ có thái độ thù nghịch: các nhà
báo, luật sư, tăng lữ, lái buôn và các doanh nhân ở cả miền Bắc và miền Nam,
miền Đông và miền Tây. Các lái buôn có thế lực nhất đã tập hợp lực lượng để
phản kháng và lập ra những hiệp hội phi nhập khẩu.
Thương mại với mẫu quốc đã sụt giảm vào mùa hè
năm 1765 vì những nhân vật có uy thế đã tụ hợp thành nhóm những người con của
tự do- những tổ chức bí mật được thành lập để phản đối Đạo luật Thuế tem,
thường là bằng các biện pháp bạo lực. Từ bang Massachusetts tới bang Nam
Carolina, những đám đông buộc những viên chức thuế tội nghiệp phải thôi việc,
đồng thời đập tan những con tem đánh thuế. Phong trào phản kháng của du kích cũng
đã vô hiệu hóa được Đạo luật này.
Được đại biểu Patrick Henry khích lệ, Quốc hội
bang Virginia đã thông qua một loạt nghị quyết vào tháng 5 lên án việc đánh
thuế không cần đại diện là một sự đe dọa đối với các quyền tự do của thuộc địa.
Quốc hội cũng tuyên bố người dân Virginia có mọi quyền như người Anh, và do vậy
chỉ có các đại biểu do họ bầu chọn mới có quyền áp thuế. Hội đồng Lập pháp bang
Massachusetts đã mời tất cả các thuộc địa cử đại biểu tới dự Đại hội Thuế tem ở
New York tổ chức vào tháng 10/1765 để xem xét những lời kêu gọi Hoàng gia và
Quốc hội Anh giảm thuế. 27 đại biểu từ chín thuộc địa nhân cơ hội này đã tranh
thủ dư luận ở thuộc địa. Sau nhiều cuộc tranh cãi, Đại hội đã thông qua một
loạt nghị quyết khẳng định không có loại thuế nào đã từng hay có thể được áp
lên họ, ngoại trừ bởi cơ quan lập pháp của riêng họ và Thuế tem đã thể hiện rõ
ràng xu hướng bãi bỏ mọi quyền và tự do của những người đi khai hoang.
ĐÁNH THUẾ KHÔNG CẦN ĐẠI DIỆN
Câu hỏi được nêu ra như vậy chỉ xoay quanh vấn
đề đại diện. Những người đi khai hoang tin rằng họ sẽ không được đại diện trong
Quốc hội trừ phi họ thực sự bầu ra các Thượng nghị sỹ. Nhưng ý tưởng này trái
ngược với nguyên tắc của người Anh về đại diện thực tế, theo đó mỗi đại biểu
Quốc hội đều đại diện cho lợi ích của cả nước và của cả đế chế - ngay cả khi
khu vực cử tri của vị đại biểu đó chỉ bao gồm một số rất ít chủ sở hữu tài sản.
Lý thuyết này cho rằng tất cả thần dân Anh đều có chung lợi ích như nhau với tư
cách là người sở hữu tài sản khi bầu các đại biểu Quốc hội.
Các nhà lãnh đạo Mỹ lại lập luận rằng họ chỉ
có quan hệ hợp pháp duy nhất với Hoàng gia. Chính nhà vua đã cho phép thiết lập
các thuộc địa bên kia đại dương và chính nhà vua đã cung cấp cho họ bộ máy
chính quyền. Họ khẳng định rằng nhà vua vừa là người trị vì nước Anh vừa trị vì
tất cả các thuộc địa, song họ quả quyết Quốc hội Anh có quyền ban hành các sắc
luật cho thuộc địa thì cơ quan lập pháp của thuộc địa cũng có quyền ban hành
luật pháp cho nước Anh. Tuy nhiên, trên thực tế, cuộc đấu tranh của họ với vua
George đệ Tam cũng quyết liệt không kém so với Quốc hội. Các phe phái câu kết
với Hoàng gia nhìn chung kiểm soát Quốc hội và thể hiện quyết tâm của nhà vua
muốn duy trì chế độ quân chủ hùng mạnh.
Quốc hội Anh bác bỏ lập luận của thuộc địa.
Tuy nhiên, các lái buôn người Anh do đánh giá được tác động của phong trào tẩy
chay ở Mỹ nên đã ủng hộ phong trào đòi hủy bỏ luật. Năm 1766, Quốc hội đã lùi
bước, bãi bỏ Thuế tem và sửa đổi Đạo luật Đường. Tuy nhiên, để xoa dịu những
người ủng hộ chế độ trung ương tập quyền đối với các thuộc địa, Quốc hội thực
hiện các biện pháp nêu trên, đồng thời thông qua Đạo luật Tuyên bố quyền lập
pháp, khẳng định Quốc hội đều có quyền ban hành pháp luật có hiệu lực đối với
tất cả các thuộc địa trong bất luận mọi trường hợp. Các thuộc địa chỉ được tạm
thời miễn thi hành trong trường hợp sắp xảy ra một cuộc khủng hoảng.
CÁC ĐẠO LUẬT TOWNSHEND
Năm 1767 đã chứng kiến hàng loạt các biện pháp
khác chứa đựng những nhân tố gây mâu thuẫn. Charles Townshend, Bộ trưởng Tài
chính Anh đã cố xây dựng một chương trình tài khóa mới sau khi liên tục có sự
phản đối tình trạng sưu cao, thuế nặng ở trong nước. Với ý định giảm thuế cho
người Anh bằng cách thu thuế triệt để hơn vào ngành thương mại của Mỹ, Charles
Townshend đã xiết chặt quản lý thuế quan, đồng thời áp đặt thuế nhập khẩu đối
với các thuộc địa khi nhập các các mặt hàng của Anh như giấy, thủy tinh, chì và
chè. Các Đạo luật Townshend được đưa ra với lập luận cho rằng thuế đánh vào
hàng hóa nhập khẩu của các thuộc địa là hợp pháp nhưng loại thuế trong nước
(như Thuế tem) lại không hợp pháp.
Các Đạo luật Townshend được ban hành để gia
tăng nguồn thu, một phần là để lo cho các quan chức ở thuộc địa và duy trì lực
lượng quân đội Anh tại Mỹ. Trước tình hình đó, luật sư Philadelphia là John
Dickinson trong tác phẩm Những bức thư của một chủ trại xứ Pennsylvania đã lập
luận rằng Quốc hội có quyền kiểm soát thương mại của đế chế nhưng không có
quyền đánh thuế các thuộc địa, cho dù các khoản thuế quan đó đánh vào hàng
trong nước hay nước ngoài.
Tình trạng phản đối việc thông qua các sắc
thuế Townshend ít mang tính bạo lực hơn so với cơn thịnh nộ của dân chúng đối
với Thuế tem. Tuy vậy, nó vẫn mạnh mẽ, đặc biệt ở các thành phố duyên hải miền
Đông. Một lần nữa, các lái buôn lại thỏa thuận không nhập khẩu, đồng thời người
dân buộc phải sử dụng các sản phẩm địa phương. Chẳng hạn, những người đi khai
hoang giờ đây mặc quần áo dệt bằng sợi se tại nhà và dùng những đồ uống khác
thay thế nước chè. Họ sử dụng giấy tự chế, còn nhà cửa thì không cần quét vôi.
Ở Boston, việc thực thi các quy định mới đã châm ngòi cho bạo lực. Khi phòng
thuế tìm cách thu thuế, họ đã bị quần chúng tấn công và đối xử thô bạo. Vì lý
do vi phạm như vậy nên hai trung đoàn từ nước Anh đã được cử tới để bảo vệ nhân
viên thuế vụ.
Sự hiện diện của quân lính Anh ở Boston đã trở
thành nguyên nhân thường xuyên dẫn tới tình trạng rối loạn. Ngày 5/3/1770, mâu
thuẫn giữa dân chúng với binh lính Anh lại bùng nổ thành bạo lực. Việc ném tuyết
vô hại vào binh sỹ Anh lúc đầu giờ đây đã chuyển thành cuộc tấn công của đám
đông hỗn độn. Một kẻ nào đó ra lệnh bắn. Khi khói súng tan đi, ba người dân
Boston nằm chết trên tuyết. Được gọi là vụ thảm sát ở Boston, sự kiện này đã
được mô tả là một bằng chứng về sự tàn nhẫn và bạo ngược của người Anh.
Phải đối mặt với tình trạng phản đối như vậy,
năm 1770, Quốc hội đã quyết định rút lui chiến lược và hủy bỏ tất cả các luật
thuế Townshend, ngoại trừ thuế đánh vào chè - một loại hàng xa xỉ ở thuộc địa
chỉ rất ít người có điều kiện uống. Đối với hầu hết mọi người, quyết định của
Quốc hội Anh chứng tỏ các thuộc địa đã giành được một sự nhượng bộ lớn và phong
trào chống nước Anh phần lớn đã lắng xuống. Lệnh cấm vận của thuộc địa đối với
chè Anh vẫn tiếp tục nhưng không được áp dụng một cách quá cứng nhắc. Đời sống
ngày càng được cải thiện, do vậy phần lớn các nhà lãnh đạo thuộc địa đều sẵn
sàng để tương lai muốn diễn ra như thế nào tùy ý.
SAMUEL ADAMS
Trong suốt ba năm yên lặng, một số ít những
người cấp tiến vẫn ra sức dấy lên cuộc tranh luận. Họ thừa nhận việc trả thuế
đồng nghĩa với việc chấp nhận nguyên tắc Quốc hội Anh cũng có quyền cai trị các
thuộc địa. Họ lo sợ đến một lúc nào đó trong tương lai, nguyên tắc cai trị qua
nghị trường có thể sẽ được áp dụng và làm tổn hại tới tất cả các quyền tự do
của các thuộc địa.
Vị thủ lĩnh tích cực nhất trong số những người
cấp tiến là Samuel Adams ở bang Massachusetts. Ông đã chiến đấu không mệt mỏi
duy nhất chỉ vì một mục đích: độc lập. Kể từ khi tốt nghiệp Đại học Harvard năm
1743, Adams là công chức trải qua nhiều chức vụ - thanh tra các ống khói, nhân
viên thu thuế và người điều khiển các phiên họp ở tòa thị chính. Tuy luôn thất
bại trong kinh doanh nhưng ông là người nhạy bén và rất giỏi về chính trị. Các
cuộc họp của Tòa thị chính New England là mảnh đất dung nạp tài năng của ông.
Adams mong muốn giải phóng con người thoát
khỏi nỗi kinh sợ trước những kẻ đầy quyền uy về xã hội và chính trị, giúp họ
nhận thấy sức mạnh và tầm quan trọng của chính mình và từ đó thôi thúc họ hành
động. Để đạt được những mục tiêu này, ông đã viết báo và đăng đàn tại các cuộc
họp ở tòa thị chính, khởi xướng những nghị quyết kêu gọi người dân xứ thuộc địa
đề cao dân chủ.
Năm 1772, ông thuyết phục cuộc họp của tòa thị
chính Boston bầu ra ủy ban quan hệ thư từ để nêu rõ mọi quyền và nỗi bất bình
của người dân thuộc địa. ủy ban đã phản đối quyết định của người Anh sử dụng
nguồn thu thuế để trả lương cho thẩm phán. Họ lo ngại thu nhập của các thẩm
phán sẽ không còn phụ thuộc vào cơ quan lập pháp nữa, do đó các thẩm phán sẽ
không còn trách nhiệm với cơ quan này. Đây chính là căn nguyên thúc đẩy một
hình thức chính phủ chuyên quyền xuất hiện. ủy ban cũng trao đổi với các thị
trấn khác về vấn đề này và đề nghị họ phúc đáp. Các ủy ban đã được thành lập
gần như ở tất cả các thuộc địa và chính họ đã trở thành nòng cốt của các tổ
chức cách mạng tích cực. Dẫu vậy, Adams vẫn chưa có đủ nhiên liệu thổi bùng lên
đám cháy.
“BỮA TIỆC TRÀ BOSTON"
Tuy nhiên, vào năm 1773, nước Anh đã gây ra
một sự kiện khiến Adams và đồng minh của ông thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng.
Công ty Đông Ấn hùng mạnh lâm vào tình trạng bi đát về tài chính đã cầu viện
Chính phủ Anh cho phép công ty được độc quyền xuất khẩu chè sang thuộc địa.
Chính phủ cũng cho phép Công ty Đông Ấn trực tiếp phân phối chè cho những người
bán lẻ chứ không thông qua các nhà bán buôn thuộc địa. Đến thời điểm đó, hầu
hết số lượng chè tiêu thụ ở Mỹ đều được nhập khẩu trái phép và hoàn toàn không
chịu thuế. Với việc bán chè thông qua các đại lý riêng với giá thấp hơn giá
thông thường, Công ty Đông Ấn đã khiến cho việc buôn lậu trở nên không có lãi
và gây nguy cơ đánh bại tất cả các lái buôn độc lập ở thuộc địa. Không chỉ tức
giận vì thua lỗ trong buôn chè mà còn vì tình trạng độc quyền từ bên ngoài, các
lái buôn thuộc địa đã liên kết với những người cấp tiến để kích động phong trào
giành độc lập.
ở các hải cảng dọc theo Đại Tây Dương, đại lý
của Công ty Đông Ấn bị ép phải từ bỏ công việc. Những lô chè mới chở đến hoặc
bị trả lại nước Anh hoặc phải bốc dỡ vào kho ngay. Tuy nhiên, ở Boston, các
nhân viên đại lý đã chống lại người dân thuộc địa. ỷ lại thế của viên thống sứ,
họ đã chuẩn bị cho cập bến những lô hàng mới chở đến bằng tàu biển bất chấp sự
phản đối. Đêm ngày 16/12/1773, một nhóm người cải trang thành người da đỏ
Mohawk do Samuel Adams chỉ huy đã đột nhập lên ba chiếc tàu Anh đang buông neo
và đổ các kiện chè xuống cảng Boston. Do không tin quyết tâm giữ vững nguyên
tắc của người dân thuộc địa nên họ sợ rằng nếu chè được đem lên bờ, dân khai
hoang cuối cùng có thể lại mua chè và trả thuế.
Vào lúc này, một cuộc khủng hoảng đang đặt ra
với nước Anh. Công ty Đông Ấn đã thực thi theo luật do Quốc hội ban hành. Nếu
việc phá hủy số chè đó không bị trừng phạt thì Quốc hội sẽ tự thừa nhận với thế
giới họ không thể kiểm soát được thuộc địa. Dư luận chính thức ở nước Anh hầu
như đều nhất trí lên án sự kiện Bữa tiệc trà Boston là hành động cố tình hủy
hoại tài sản và ủng hộ các biện pháp hợp pháp buộc dân khai hoang nổi loạn phải
tuân phục.
CÁC ĐẠO LUẬT CƯỠNG BỨC
Quốc hội đã đáp lại bằng các đạo luật mới mà
người dân thuộc địa gọi là các đạo luật cưỡng bức hay độc đoán. Đầu tiên, Đạo
luật Cảng Boston đã đóng cửa cảng Boston cho đến khi số chè đó được bồi thường
đầy đủ. Hành động này đã khiến cả đời sống của cư dân thành phố bị lâm nguy,
bởi lẽ việc ngăn Boston không giao thương bằng đường biển cũng đồng nghĩa với
một thảm họa kinh tế. Các đạo luật khác hạn chế quyền lực của chính quyền địa
phương và cấm tổ chức hầu hết các cuộc họp hội đồng thành phố nếu không được
thống sứ chấp thuận. Đạo luật Hậu cần yêu cầu giới chức địa phương tìm chỗ ăn ở
phù hợp cho binh lính Anh, kể cả nhà dân nếu cần thiết. Thay vì chỉ khuất phục
và cô lập bang Massachusetts theo ý đồ ban đầu của Quốc hội, những đạo luật này
lại tập hợp các thuộc địa khác để giúp đỡ cho bang Massachusetts. Đạo luật
Quebec được thông qua gần như cùng lúc đã mở rộng địa giới phía Nam Quebec đến
tận sông Ohio. Để phù hợp với các quy định trước đó của Pháp, đạo luật này cho
phép xét xử không cần bồi thẩm đoàn, không thiết lập cơ quan lập pháp mang tính
đại diện, đồng thời cho phép Cơ- đốc giáo hưởng quy chế bán chính thức. Phớt lờ
những quy định nêu trong hiến chương trước đây, đạo luật này còn đe dọa chặn
đứng việc mở rộng cương vực sang phía Bắc và Tây Bắc. Đạo luật này cũng thừa
nhận các giáo phái Tin Lành đã xúc phạm Tòa thánh La-MÃ và có vị trí áp đảo ở
tất cả mọi thuộc địa. Tuy không được thông qua như biện pháp trừng phạt, song
Đạo luật Quebec cũng vẫn bị người Mỹ đánh đồng với các đạo luật cưỡng bức khác.
Tất cả các đạo luật đó sau này bị người ta gọi là "Năm đạo luật không thể
dung thứ".
Theo đề nghị của Hội đồng Thị dân Virginia,
đại diện các thuộc địa đã nhóm họp tại Philadelphia ngày 5/9/1774 để xem xét
thực trạng đáng buồn hiện nay của các thuộc địa. Các đại biểu tham dự cuộc họp
này - hay còn gọi Đại hội Lục địa lần thứ nhất - đã được bầu chọn qua đại hội
nhân dân. Duy nhất bang Georgia không cử đại biểu tới dự, song tổng số 55 đại
biểu đã đủ lớn để bảo đảm tính đa dạng quan điểm, đồng thời cũng đủ nhỏ để tổ
chức cuộc tranh luận thực sự và hành động hiệu quả. Sự bất đồng ý kiến trong
các thuộc địa đã gây ra tình huống tiến thoái lưỡng nan thật sự cho các đại
biểu. Một mặt, họ sẽ phải thể hiện sự nhất trí mạnh mẽ để thuyết phục Chính phủ
Anh nhượng bộ, nhưng mặt khác họ phải tránh để lộ bất kỳ tư tưởng cấp tiến hay
tinh thần độc lập vốn có thể sẽ làm những người Mỹ chủ trương ôn hòa hơn cảm
thấy lo sợ.
Một bài diễn văn thận trọng, kèm theo đó là
một cam kết không tuân thủ các đạo luật cưỡng bức, đã kết thúc bằng việc thông
qua một loạt nghị quyết khẳng định người dân thuộc địa có quyền sống, tự do và
sở hữu, và các cơ quan lập pháp địa phương có quyền giải quyết tất cả mọi
trường hợp đánh thuế và chính trị nội bộ. Tuy nhiên, quyết định quan trọng nhất
của Đại hội là việc thành lập “Liên hiệp Lục địa nhằm khôi phục các biện pháp
tẩy chay thương mại. Đại hội cũng xây dựng hệ thống các ủy ban điều tra hải
quan, công bố tên những lái buôn vi phạm cam kết, tịch thu hàng hóa nhập khẩu
của họ, khuyến khích tiết kiệm, phát triển kinh tế và công nghiệp.
Liên hiệp Lục địa ngay lập tức đã đảm nhận vai
trò lãnh đạo ở các thuộc địa, khuyến khích các tổ chức mới ở địa phương xóa bỏ
những quyền hành của hoàng gia còn sót lại. Dưới sự chèo lái của những nhà lãnh
đạo ủng hộ độc lập, họ đã tranh thủ được sự ủng hộ không chỉ của những tầng lớp
nghèo hơn mà cả những người thuộc tầng lớp trí thức (đặc biệt là các luật sư),
hầu hết các chủ đồn điền ở thuộc địa miền Nam và một số lái buôn. Họ lôi kéo
những người còn do dự tham gia phong trào dân túy; trừng phạt những kẻ thù
địch; bắt đầu tích lũy quân nhu phẩm và động viên binh sỹ; và hướng dư luận
thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng.
Nhiều người tuy phản đối việc người Anh xâm
phạm các quyền của mình nhưng lại ủng hộ giải pháp thương thuyết và thỏa hiệp.
Nhóm này gồm các sỹ quan do nhà vua bổ nhiệm, tín đồ Quaker và tín đồ các giáo
phái phản đối sử dụng bạo lực, nhiều lái buôn (đặc biệt ở các thuộc địa miền
Trung), những nông dân bất mãn và những cư dân vùng giáp ranh biên giới các
thuộc địa miền Nam.
Lẽ ra nhà vua đã có thể gây dựng được liên
minh với đông đảo những phần tử ôn hòa, đồng thời cùng với những nhượng bộ đúng
lúc, củng cố được vị thế của họ tới mức đội quân cách mạng sẽ khó có thể đối
phó với lực lượng thù địch. Nhưng vua George đệ Tam đã không có ý định nhượng bộ.
Tháng 9/1774, phớt lờ đơn thỉnh cầu của các tín đồ Quaker ở Philadelphia gửi
tới, ông viết giờ đây ván đã đóng thuyền, các thuộc địa hoặc sẽ phải khuất phục
hoặc họ sẽ chiến thắng. Động thái này đã cô lập phe Bảo hoàng đang rất lo sợ
trước những diễn biến của các sự kiện diễn ra sau khi ban hành các đạo luật
cưỡng bức.
CUỘC CÁCH MẠNG BẮT ĐẦU
Tướng Thomas Gage, một quý tộc người Anh rất
tốt bụng, có vợ là người được sinh ra ở Mỹ, đã chỉ huy một đơn vị đồn trú ở
Boston. Đây là khu vực các hoạt động chính trị đã gần như thay thế vị trí của
thương mại. Nhiệm vụ chính của Gage ở các thuộc địa là đẩy mạnh việc thực thi
các đạo luật cưỡng bức. Khi nhận được tin người dân ở thuộc địa Massachusetts
đang thu gom thuốc súng và binh khí ở thành phố Concord cách đó 32 cây số, Gage
liền gửi một nhóm quân tinh nhuệ đi tịch thu vũ khí.
Sau một đêm hành quân, đội quân người Anh đã
tới làng Lexington ngày 19/4/1775 và nhìn thấy một nhóm gồm 77 du kích đằng
đằng sát khí - gọi như vậy là vì họ luôn sẵn sàng chiến đấu ngay lập tức - hiện
ra trong lớp sương mù ban mai. Những du kích chỉ có ý định phản đối bằng cách
giữ im lặng, nhưng thiếu tá hải quân John Pitcairn, chỉ huy nhóm binh lính Anh
đã hét lên: “Giải tán ngay, lũ bạo loạn đáng nguyền rủa! Đồ chó, cút!".
Đại úy John Parker, người chỉ huy nhóm du kích, ra lệnh cho lính của ông không
được nổ súng trừ phi họ bị bắn trước. Du kích người Mỹ đang rút lui thì ai đó
đã nổ súng, tiếng súng đã khiến quân Anh bắn vào du kích quân. Sau đó lính Anh
tấn công bằng lưỡi lê và để lại trên bãi chiến trường tám xác chết và 10 người
bị thương. Theo cách nói của nhà thơ Ralph Waldo Emerson - tác giả những vần
thơ vẫn thường được trích dẫn thì đó là tiếng súng vọng khắp hành tinh.
Sau đó quân Anh tiếp tục tiến vào Concord.
Người Mỹ đã giấu hầu hết vũ khí, nhưng phá bỏ tất cả những gì còn sót lại.
Trong lúc đó, các lực lượng quân sự của Mỹ ở nông thôn đã được điều động để
quấy rối quân Anh trên đường họ rút về Boston. Trên tất cả mọi nẻo đường, từ
sau những vách đá, triền đồi và những ngôi nhà, du kích quân từ tất cả các
trang trại và ngôi làng ở Middlesex đã chĩa thẳng súng vào những chiếc áo khoác
màu đỏ nhạt của đám binh lính Anh. Đến khi đội quân kiệt sức của Gage lê bước
đến Boston thì họ đã có hơn 250 lính bị chết và bị thương. Phía quân du kích có
93 người hy sinh.
Đại hội Lục địa lần thứ hai đã khai mạc ở
Philadelphia, bang Pennsylvania, ngày 10/5. Đại hội đã bỏ phiếu quyết định tham
chiến, tuyển mộ du kích quân thuộc địa vào lực lượng quân đội lục địa. Đại hội
đã cử Đại tá Geoge Washington ở bang Virginia làm Tổng Tư lệnh ngày 15/6. Chỉ
trong hai ngày, quân Mỹ đã bị tổn thất nặng nề về người tại đồi Bunker ở ngay
ngoại thành Boston. Đại hội cũng ra lệnh cho các đội quân viễn chinh Mỹ hành
quân lên phía Bắc tới Canada trước mùa thu. Sau khi chiếm được Montreal họ đã
thua trong trận đột kích mùa đông vào Quebec và cuối cùng phải rút về New York.
Bất chấp xung đột vũ trang đã nổ ra, một số
đại biểu dự Đại hội Lục địa vẫn phản đối ý tưởng ly khai hoàn toàn khỏi nước
Anh. Vào tháng 7, Đại hội thông qua Lời thỉnh cầu Cành Ôliu (Olive Branch
Petiton), cầu xin nhà vua ngăn chặn mọi hành động thù địch leo thang cho đến
khi đạt được một thỏa thuận nào đó. Vua George bác bỏ; trái lại, ngày 23/8/1775
lại tuyên bố các thuộc địa đang gây ra tình trạng nổi loạn.
Nước Anh hy vọng các thuộc địa miền Nam vẫn
trung thành, một phần là vì họ phải dựa vào chế độ nô lệ. Nhiều người ở các
thuộc địa miền Nam sợ rằng cuộc khởi nghĩa chống lại mẫu quốc có thể cũng sẽ
châm ngòi cho một cuộc khởi nghĩa của nô lệ. Tháng 11/1775, Dunmore, Thống sứ
bang Virginia, đã cố lợi dụng nỗi lo sợ đó bằng cách trao tự do cho tất cả
những nô lệ sẽ chiến đấu vì người Anh. Tuy nhiên, tuyên bố của Dunmore khiến
cho nhiều người Virginia lẽ ra trước đây vẫn là bảo hoàng thì nay lại đứng về phía
quân nổi loạn.
Thống sứ bang Bắc Carolina, Josiah Martin,
cũng kêu gọi người dân Bắc Carolina trung thành với nhà vua. Khi 1500 quân đáp
lại lời kêu gọi của Martin thì họ liền bị quân đội cách mạng đánh bại trước khi
quân đội Anh có thể tới cứu giúp.
Tàu chiến Anh tiếp tục tiến xuống bờ biển
Charleston, bang Nam Carolina và nã pháo vào thành phố vào đầu tháng 6/1776.
Nhưng người dân Nam Carolina đã có thời gian chuẩn bị và họ đã đánh bật được
quân Anh khỏi khu vực đó vào cuối tháng 6. Hai năm sau, những chiếc tàu chiến
Anh vẫn không dám quay trở lại.
LƯƠNG TRI VÀ ĐỘC LẬP
Tháng 1/1776, Thomas Paine, một lý thuyết gia
chính trị và nhà văn cấp tiến từ nước Anh đến Mỹ năm 1774, đã ấn hành cuốn sách
dày 50 trang mang tựa đề “Lương tri". Trong vòng ba tháng, 100.000 bản của
cuốn sách này đã bán hết. Paine đã tấn công tư tưởng quân chủ cha truyền con
nối. Ông nêu rõ một con người trung thực sẽ có giá trị đối với xã hội nhiều hơn
tất cả phường lưu manh vô lại núp bóng triều đình đã từng sống trên cõi đời
này. Ông cũng đưa ra những giải pháp thay thế - hoặc là tiếp tục cam chịu cúi
đầu trước tên vua tàn bạo và một chính phủ mục ruỗng, hoặc là tự do và hạnh
phúc với tư cách là một nền cộng hòa độc lập, tự chủ. Được phổ biến ở khắp các
thuộc địa, “Lương tri" đã tiếp thêm sức mạnh cho quyết tâm ly khai.
Tuy nhiên, nhiệm vụ kêu gọi từng thuộc địa
thông qua tuyên ngôn chính thức vẫn còn đó. Ngày 7/6, Richard Henry Lee người
bang Virginia đã trình bày một nghị quyết tại Đại hội Lục địa lần thứ hai,
tuyên bố rằng những thuộc địa hợp nhất này được, và có quyền phải được trở
thành những quốc gia tự do và độc lập... Ngay lập tức một ủy ban năm người do
Thomas Jefferson người bang Virginia đứng đầu đã được phân công nhiệm vụ soạn
thảo một tuyên ngôn để bỏ phiếu thông qua.
Phần lớn tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập được
thông qua ngày 4/7/1776 của Jefferson không chỉ tuyên bố sự ra đời của một quốc
gia mới mà còn trình bày một triết lý về tự do của con người. Đây chính là động
lực thúc đẩy sự phát triển trên toàn thế giới. Mặc dù bản Tuyên ngôn Độc lập đã
tiếp thu triết lý khai sáng của phong trào Khai sáng ở Anh và Pháp song một văn
kiện quan trọng cũng có một ảnh hưởng đặc biệt to lớn: Chuyên luận thứ hai về
chính phủ của John Locke. John Locke đã tiếp thu những khái niệm về quyền vốn
đã có từ lâu của người Anh và phổ biến chúng thành quyền tự nhiên của toàn nhân
loại. Đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập đã nhắc lại khế ước xã hội của
Locke về cai trị:
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên
rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền
tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu
cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền này, các chính phủ được lập ra
trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của
nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục
tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên
một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực
thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và
hạnh phúc của họ.
Jefferson đã trực tiếp liên hệ những nguyên lý
của Locke với tình hình ở các thuộc địa. Đấu tranh giành độc lập cho nước Mỹ là
đấu tranh để xây dựng một chính phủ theo sự chấp thuận của nhân dân thay thế
cho một chính phủ của một ông vua đã cùng với một số thế lực khác buộc chúng ta
phải tuân theo quyền tài phán xa lạ với hiến pháp của chúng ta và không được
luật pháp của chúng ta công nhận.... Chỉ có một chính phủ dựa trên sự tán thành
của dân chúng mới có thể bảo vệ được mọi quyền tự nhiên - quyền được sống,
quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Như vậy, tranh đấu vì nền độc lập của nước Mỹ
là tranh đấu vì quyền tự nhiên của mỗi con người.
NHỮNG THẤT BẠI VÀ NHỮNG THẮNG LỢI
Mặc dù người Mỹ đã lâm vào thoái trào nghiêm
trọng trong nhiều tháng sau khi tuyên bố độc lập, song tính bền bỉ và lòng kiên
trì của họ cuối cùng đã được đền đáp. Tháng 8/1776, trong trận chiến Long
Island tại New York, Washington trở nên khó có thể trụ vững, và vì vậy ông đã
cùng binh lính rút lui rất khéo léo trên những con thuyền nhỏ từ Brooklyn đến
bờ biển Manhattan. Tướng Anh William Howe đã hai lần chần chừ và để mặc quân Mỹ
bỏ chạy. Tuy nhiên cho đến tháng 11, Howe đã chiếm được Pháo đài Washington trên
đảo Manhattan. Thành phố New York đã nằm trong tầm kiểm soát của quân Anh cho
tới khi chiến tranh kết thúc.
Tháng 12 năm đó, các lực lượng của Washington
đã gần như tan rã vì không có viện binh và cứu trợ như đã hứa hẹn. Một lần nữa,
Howe lại bỏ qua cơ hội đánh bại hoàn toàn quân Mỹ với quyết định chờ đến tận
mùa xuân mới tiếp tục chiến đấu. Đúng ngày Giáng sinh 25/12/1776, Washington đã
vượt sông Delaware phía bắc Trenton, bang New Jersey. Tờ mờ sáng ngày 26/12,
các chiến binh của ông bất ngờ tấn công đơn vị đồn trú của quân Anh ở đó, bắt
sống hơn 900 tù binh. Một tuần sau, ngày 3/1/1777, Washington tấn công quân Anh
ở Princeton, chiếm lại hầu hết lãnh thổ mà quân Anh đã chính thức chiếm đóng.
Những thắng lợi ở Trenton và Princeton đã lấy lại tinh thần phấn chấn của quân
Mỹ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1777, Howe đã đánh bại
quân Mỹ tại Brandywine ở bang Pennsylvania, chiếm Philadelphia và buộc Đại hội
Lục địa phải bỏ chạy. Washington đã phải trải qua một mùa đông lạnh cắt da cắt
thịt năm 1777-1778 ở Thung lũng Forge, bang Pennsylvania, thiếu thực phẩm, quần
áo và quân dụng. Nông dân và lái buôn đã đổi hàng lấy để lấy vàng và bạc từ
người Anh chứ không lấy loại tiền giấy không đáng tin cậy do Đại hội Lục địa và
các bang phát hành.
Thung lũng Forge là điểm thoái trào tồi tệ
nhất đối với quân đội lục địa của Washington, nhưng ở nhiều nơi khác trong năm
1777 đã xuất hiện một bước ngoặt của cuộc chiến. Tướng Anh John Burgoyne,
chuyển quân từ Canada sang phía Nam, đã âm mưu chiếm New York và New England
qua hồ Champlain và sông Hudson. Thật không may, ông có quá nhiều đồ quân trang
nặng nề đến nỗi không thể vượt qua được vùng đầm lầy và rừng rậm. Ngày 6/8, tại
Oriskany, bang New York, một nhóm Bảo hoàng và thổ dân da đỏ dưới sự chỉ huy
của Burgoyne đã đụng độ với lực lượng cơ động của Mỹ đang tìm cách ngăn chặn
bước tiến của họ. Một vài ngày sau tại Bennington, bang Vermont, ngày càng
nhiều binh lính của Burgoyne khi đi tìm đồ quân nhu thiết yếu đã bị các chiến
binh Mỹ đẩy lùi.
Chuyển sang phía Tây lưu vực sông Hudson, đội
quân của Burgoyne đã tiến vào Albany. Những chiến binh Mỹ đã mai phục sẵn. Dưới
sự chỉ huy của Benedict Arnold - người sau này đã phản bội quân Mỹ ở West
Point, bang New York - các chiến binh Mỹ đã hai lần đẩy lùi bước tiến của quân
Anh. Lần này bị tổn thất nặng nề, Burgoyne phải rút về Saratoga, New York nơi
lực lượng hùng hậu hơn nhiều của Mỹ dưới sự chỉ huy của Tướng Horatio Gates đã
bao vây quân Anh. Ngày 17/10/1777, Burgoyne đã đầu hàng toàn bộ - bao gồm sáu
vị tướng, 300 sỹ quan và 5.500 lính.
LIÊN MINH PHÁP-MỸ
Ở Pháp, tinh thần ủng hộ sự nghiệp cách mạng
của người Mỹ ngày càng dâng cao: bản thân giới trí thức Pháp đang khuấy động
phong trào chống chế độ phong kiến và đặc quyền trong xã hội. Tuy nhiên, nhà
vua lại ủng hộ các thuộc địa vì lý do địa chính trị hơn là vì lý do hệ tư
tưởng. Chính phủ Pháp đã rất muốn trả thù Anh ngay sau khi họ bị bại trận năm
1763. Để nêu cao ngọn cờ cách mạng Mỹ, Benjamin Franklin đã được cử sang Paris
năm 1776. Sự thông minh, tài trí và am hiểu của ông đã khiến sự hiện diện của
phái đoàn do Benjamin dẫn đầu thành sự kiện đáng chú ý ở thủ đô của Pháp, đồng
thời những phẩm chất ấy đã đóng vai trò quan trọng trong việc tranh thủ sự ủng
hộ của Pháp.
Pháp bắt đầu viện trợ cho các thuộc địa từ
tháng 5/1776 bằng cách cử 14 tàu chở các quân nhu phẩm sang Mỹ. Trên thực tế,
hầu hết số thuốc súng do quân đội Mỹ sử dụng có nguồn gốc từ Pháp. Sau thất bại
của quân Anh ở Saratoga, Pháp đã thấy có cơ hội làm suy yếu kẻ thù truyền kiếp
và lấy lại thế cân bằng lực lượng vốn đã bị mất đi trong cuộc Chiến tranh Bảy
năm (hay còn gọi cuộc Chiến tranh Pháp và người da đỏ). Ngày 6/2/1778, Mỹ và
Pháp đã ký Hiệp ước Thân thiện và Thương mại, trong đó Pháp công nhận và dành
những ưu đãi thương mại cho Mỹ. Hai nước cũng ký Hiệp ước Liên minh, quy định
rằng nếu Pháp tham chiến thì không nước nào được hạ vũ khí chừng nào tất cả các
thuộc địa Mỹ vẫn chưa giành độc lập, rằng không nước nào được ký kết hòa ước
với Anh nếu không có sự chấp thuận của nước kia, và rằng mỗi nước phải bảo đảm
tài sản của phía bên kia ở Mỹ. Tính đến năm 1949 thì đây là hiệp ước phòng thủ
song phương duy nhất mà Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hoặc các thuộc địa trước đó đã
từng ký kết.
Liên minh Pháp - Mỹ chẳng bao lâu sau đã mở
rộng cuộc xung đột. Tháng 6/1778, tàu chiến Anh đã bắn vào tàu của Pháp và hai
quốc gia đã giao chiến. Năm 1779, do hy vọng giành lại được những phần lãnh thổ
bị nước Anh chiếm trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, Tây Ban Nha đã bắt đầu tham
gia và đứng về phía Pháp trong cuộc xung đột. Tuy nhiên, Tây Ban Nha lại không
là đồng minh của Mỹ. Năm 1780, Anh tuyên chiến với Hà Lan vì đã tiếp tục buôn
bán với Mỹ. Sự gắn kết giữa các cường quốc châu Âu mà đứng đầu là nước Pháp đã
trở thành mối đe dọa nguy hiểm với nước Anh hơn nhiều so với hiểm họa từ các
thuộc địa riêng rẽ ở Mỹ.
QUÂN ANH NAM TIẾN
Sau khi người Pháp đã can dự, quân Anh liền
tăng cường những nỗ lực của họ ở các thuộc địa miền Nam bởi họ vẫn tin rằng
phần lớn dân miền Nam là những người Bảo hoàng. Một cuộc tiến công đã diễn ra
vào cuối năm 1778, bắt đầu bằng việc chiếm giữ Savannah, bang Georgia. Chẳng
bao lâu sau, bộ binh và hải quân Anh cùng tiến về Charleston, bang Nam
Carolina, hải cảng chính ở miền Nam. Họ cũng tìm cách dồn các lực lượng của Mỹ
trên bán đảo Charleston. Ngày 12/5/1780, Tướng Benjamin Lincoln đã dâng nộp
toàn bộ thành phố cùng 5.000 binh sỹ. Đây là thất bại lớn nhất của quân Mỹ
trong chiến tranh.
Nhưng tình thế bị đảo ngược như vậy chỉ khích
lệ tinh thần những phiến quân mà thôi. Binh lính Nam Carolina đã bắt đầu sục
sạo khắp vùng nông thôn và tấn công các đường tiếp viện của quân Anh. Trong
tháng 7, Tướng Mỹ Horatio Gates - trước đây đã từng tập hợp lực lượng dự bị gồm
dân quân chưa được huấn luyện - đã tiến quân tới Camden, bang Nam Carolina để
đối phó với lực lượng của Anh do Tướng Charles Cornwallis chỉ huy. Tuy nhiên,
những binh sỹ chưa từng được huấn luyện đã hoảng sợ và bỏ chạy khi phải đối mặt
với lính chính quy của Anh. Binh lính của Cornwallis đã chạm trán với quân Mỹ
nhiều lần nữa, nhưng trận đánh quan trọng nhất đã diễn ra ở Cowpens, bang Nam
Carolina đầu năm 1781. Chính tại đây, quân Mỹ đã chiến thắng thật vẻ vang trước
quân đội Anh. Sau cuộc truy đuổi đến kiệt sức nhưng không có kết quả qua bang
Nam Carolina, Cornwallis đã hạ quyết tâm chiếm bằng được bang Virginia.
THẮNG LỢI VÀ NỀN ĐỘC LẬP
Tháng 7/1780, vua Pháp Louis XVI đã cử tới Mỹ
đội quân viễn chinh gồm 6.000 người dưới sự chỉ huy của Bá tước Jean de
Rochambeau. Ngoài ra, hạm đội Pháp đã quấy rối việc vận tải biển của Anh và
ngăn cản việc chi viện và các nguồn cung cấp của quân đội Anh ở bang Virginia.
Lực lượng bộ binh và hải quân của Pháp và Mỹ với tổng số 18.000 người có sức
mạnh ngang bằng với binh lực của Cornwallis trong suốt mùa hè và đầu mùa thu.
Cuối cùng, ngày 19/9/1781, sau khi bị mắc bẫy ở Yorktown gần cửa biển Vịnh
Chesapeake, Cornwallis đã phải dâng nộp toàn bộ đội quân gồm 8.000 lính Anh.
Mặc dù thất bại của Cornwallis đã không chấm
dứt chiến tranh ngay lập tức - cuộc chiến tranh còn kéo dài dai dẳng thêm gần
hai năm nữa - song tân chính phủ của Anh đã quyết định hòa đàm ở Paris đầu năm
1782. Đại điện của phía Mỹ là Benjamin Franklin, John Adams và John Jay. Ngày
15/4/1783, Đại hội Lục địa đã thông qua hiệp ước cuối cùng. Hòa ước Paris được
ký ngày 3/9 đã thừa nhận nền độc lập, tự do và chủ quyền của 13 thuộc địa cũ,
nay là các tiểu bang. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mới ra đời có biên giới kéo dài về
phía Tây đến tận lưu vực sông Mississippi, về phía Bắc đến tận Canada và về
phía Nam đến tận Florida - vùng đất đã được trả lại cho Tây Ban Nha. Các thuộc
địa còn non nớt mà Richard Henry Lee từng nói tới hơn bảy năm trước cuối cùng
đã trở thành các tiểu bang tự do và độc lập. Song nhiệm vụ gắn kết các tiểu
bang thành một dân tộc vẫn còn đó.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG MỸ
Cách mạng Mỹ có ý nghĩa quan trọng không chỉ
bó hẹp trong phạm vi biên giới lục địa Bắc Mỹ. Cuộc cách mạng đã thu hút sự chú
ý của chính giới khắp châu Âu. Những nhân vật trứ danh theo chủ nghĩa lý tưởng
như Thaddeus Kosciusko, Friedrich von Steuben, và Marquis de Lafayette đã cùng
nhau khẳng định tư tưởng tự do mà họ hy vọng sẽ được lan tỏa tới các quốc gia
của họ. Thành công của cuộc cách mạng đã tạo chỗ dựa vững chắc cho khái niệm
quyền tự nhiên khắp thế giới phương Tây và càng thể hiện rõ hơn những lời phê
phán của những người theo chủ nghĩa duy lý trong thời kỳ Khai sáng về mô hình
cổ điển dựa trên chế độ quân chủ cha truyền con nối và giáo hội. Trên thực tế,
Cách mạng Mỹ là phát súng báo hiệu cuộc Cách mạng Pháp, nhưng lại không có tính
chất bạo lực và bạo loạn như cuộc Cách mạng Pháp bởi lẽ nó diễn ra ở một xã hội
vốn đã rất tự do.
Những tư tưởng cách mạng đã được thể hiện rõ
ràng nhất qua chiến thắng áp đảo của triết thuyết khế ước xã hội /quyền tự
nhiên của John Locke. Diễn ra thật đúng lúc, tính chất của cuộc cách mạng này
còn bác bỏ thật nhanh chóng tầm quan trọng của đạo Tin Lành phái Can-vanh bất
mãn. Từ những người hành hương đến những tín đồ Thanh giáo đều ủng hộ những lý
tưởng của khế ước xã hội và cộng đồng tự trị. Những học giả ủng hộ triết thuyết
của John Locke và giới tăng lữ Tin Lành đều là lực lượng cổ xúy những tư tưởng
tự do chủ nghĩa vốn đã rất phát triển ở các thuộc địa Bắc Mỹ thuộc Anh.
Các học giả cũng lập luận rằng tư tưởng cộng
hòa cũng đã góp phần làm nên cuộc cách mạng này. Họ cho rằng tư tưởng cộng hòa
không phủ nhận sự tồn tại của quyền tự nhiên mà đặt những quyền này dưới niềm
tin cho rằng cần phải có một nhà nước cộng hòa tự do để duy trì trách nhiệm
cộng đồng và dung dưỡng tính chất tự đào thải trong các nhà lãnh đạo của họ.
Trái lại, việc đề cao quyền cá nhân, thậm chí cả mưu cầu hạnh phúc cá nhân,
dường như là quá ích kỷ. Có một thời tư tưởng cộng hòa đã đe dọa gạt bỏ các
quyền tự nhiên với tư cách là chủ đề lớn của cuộc cách mạng. Tuy vậy, hầu hết
các sử gia ngày nay lại thừa nhận sự khác biệt như vậy đã bị đề cao quá mức.
Hầu hết mọi cá nhân đều nghĩ như vậy trong thế kỷ XVIII và thấy rằng hai tư
tưởng khác nhau này cũng chỉ như hai mặt của một đồng xu trí tuệ mà thôi.
Cách mạng thường gắn liền với những đảo lộn và
bạo lực trong xã hội trên quy mô lớn. Nếu theo những tiêu chí như vậy thì Cách
mạng Mỹ tương đối ôn hòa. Khoảng 100.000 nhân vật bảo hoàng đã rời bỏ Hợp chủng
quốc mới được thành lập. Vài ngàn người thuộc giới tinh túy trước đây đã bị
tịch thu tài sản và trục xuất. Nhiều người khác là dân thường trung thành với nhà
vua. Phần lớn trong số họ đã lưu vong một cách tự nguyện. Cuộc cách mạng không
mở ra và thúc đẩy tự do nhiều hơn ở một xã hội vốn đã tự do. Ở bang New York và
hai bang Carolina, bất động sản lớn của những kẻ bảo hoàng đã bị chia cho nông
dân nghèo. Những giả thuyết của tư tưởng tự do đã trở thành chuẩn mực chính
thống trong văn hóa chính trị Mỹ - cho dù là thể hiện ở việc bãi bỏ giáo hội
Anh, nguyên tắc bầu chọn giới chức hành pháp của tiểu bang và quốc gia, hay
việc phổ biến rộng rãi tư tưởng tự do cá nhân. Song cơ cấu xã hội hầu như không
thay đổi. Cho dù có cách mạng hay không thì hầu hết người dân vẫn được đảm bảo
an toàn trong cuộc sống, quyền tự do và sở hữu của riêng họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét