Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

HỒI KÝ BAO NỖI TANG THƯƠNG CỦA TÂM NGUYÊN TRÍ LỰC - KỲ 1

Cầu Trường Tiền - HUẾ
1    2    3    4    5    6   7
Chân thành tri ân và ngưỡng mộ   những tù nhân chính trị, tôn giáo, tù nhân lương tâm; những người đã và  đang chịu muôn vàn thống khổ trong  cảnh  lao ngục bởi bạo  quyền cộng  sản gian ác độc tài. 

Thành kính đốt nén tâm hương để  tưởng  niệm  những  hương  hồn  bất  hạnh đã mãi mãi ra đi!
 

Mục Lục


                                                                    Trang

    Lời giới thiệu                                                 7

    Thay lời tựa                                                 19

1. Mái chùa xưa                                               25
2. Chinh chiến và sự chia lìa                              30
3. Ngày hội ngộ và những hệ lụy của nhà sư       39
4. Vị pháp vong thân                                        43
5. Sự đàn áp bởi bạo quyền cộng sản                 48
6. Nhà sư viên tịch                                           54
7. Cuộc tuyệt thực và lễ trao chúc thư                62
8. Phục hoạt Giáo hội                                       75
9. Cảnh lao lung                                               79
10. Lá rách đùm lá nát                                      90     
11. Trước vành móng ngựa                              100
12. Trại giam Z30A Xuân Lộc                           112
13. Kiếp lao ngục đọa đày                               118
14. Án lệnh quản thúc                                     124
15. Trở về quê cũ                                           134
16. Cuộc đàn áp nước lũ                                  140
17. Lánh nạn tại xứ Chùa Tháp                         145
18. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn     154
19. Được hưởng quy chế tỵ nạn                       164
20. Những mối âu lo                                       171
21. Mật vụ cộng sản bắt cóc                            174
22. Bị cưỡng bức hồi hương                             183
23. Biệt tăm                                                   189
24. Dã tâm cộng sản                                       200
25. Đàm phán vi bị can                                  206
26. Trò hề xét xử                                            218
27. Bến bờ tự do                                            224


Phụ lục

Cuộc điều trần tại Quốc hội châu Âu về 
tình trạng nhân quyền tại Cam Bốt, Lào
và Việt Nam                                                   230

Thảm trạng nghiệt ngã của người Việt
tỵ nạn tại Cam Bt                                          251

Suy nghĩ từ vụ án cứu lụt giúp dân                   266

Xin đừng lãng quên Lê Trí Tuệ                         280


Lời giới thiệu


     Khi được tin ông Trí Lực đi qua Thụy Điển tị nạn chánh trị, người bạn của tôi ở Sài Gòn ân cần nhắn tin nhờ tôi lúc nào có cơ hội tìm hỏi thăm sức khỏe và đời sống mới của ông Trí  Lực. Anh chỉ biết ông Trí Lực đi tị nạn ở Thụy Điển vì trước khi đi, ông Trí Lực ghé qua thăm anh bạn của tôi lần cuối, căn dặn sẽ không liên lạc nhau để tránh cho người ở lại những phiền phức vô ích.

     Nhớ lời bạn dặn, tôi điện thoại cho ông Võ Văn Ái nhiều lần, có lẽ chẳng may, nhằm những lúc ông đi vắng. [ … ]. Một hôm, tôi may mắn gặp được bà Ỷ Lan qua điện thoại. Quả nhiên tôi được bà Ỷ Lan trả lời bà không biết địa chỉ, chỉ biết ông Trí Lực tị nạn ở Thụy Điển mà thôi. Tôi hỏi thêm vậy ông Ái có biết không ? Bà quả quyết ông Ái cũng không biết . [ … ]
    
     Vẫn tiếp tục hỏi thăm về ông Trí Lực, một hôm tôi được một người bạn làm việc ở đài Á châu Tự do giới thiệu cho tôi ông Phạm Trần Anh, hội trưởng Hội cựu tù nhân chánh trị và tôn giáo Việt Nam ở Huê Kỳ. Ông Phạm Trần Anh đã sốt sắng cho tôi đầy đủ địa chỉ của ông Trí Lực ở Thụy Điển. Tôi vội liên lạc và nhận được thư trả lời của ông Trí Lực. Lập tức, tôi báo tin với cả địa chỉ điện thư của ông Trí Lực cho người bạn ở Sài Gòn. Từ đây, tôi quen biết ông Trí Lực và thỉnh thoảng thư từ qua lại.

     Sau đó ít lâu, một hôm ông Trí Lực ngỏ ý muốn tôi đọc hồi ký Bao nỗi tang thươngcủa ông viết xong đầu xuân Ất Dậu tại Thụy Điển với gợi ý, nếu có thể được, cho phổ biến để giúp ông bày tỏ nỗi lòng đối với thầy Đôn Hậu và các thầy đồng viện.

     Vâng lời ông, tôi gởi đến vài báo quen và hồi ký của ông được đăng tải hằng ngày và hằng kỳ.

     Nhiều độc giả đọc xong, ngỏ ý muốn có được tập hồi ký giữ trong tủ sách gia đình. Tác giả sốt sắng đồng ý cho in và phổ biến dưới dạng ấn tống, hoàn toàn không bán.

     Đó là cơ duyên có tập Bao nỗi tang thương đang trong tay quí bạn.
     Một lòng với Ân Sư

     Qua tập hồi ký, tác giả ghi lại những kỷ niệm của thời gian dài ông sống bên cạnh Huề thượng Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ, với lòng thương nhớ không nguôi từ lúc Huề thượng bị Việt cộng Hà Nội tổ chức bắt cóc dẫn đi ra Hà Nội. Ông quả quyết Huề thượng Đôn Hậu trước sau vẫn là kẻ chơn tu, đạo hạnh viên mãn. Theo ông, Huề thượng Đôn Hậu sở dĩ đã phải đi theo Việt cộng Hà Nội vì không thể làm gì khác hơn được trong hoàn cảnh bản thân bị khống chế, trong lúc đó nhiều đệ tử và phần lớn Phật tử của ngài đang nằm trong vòng kiểm soát của giặc . Hơn nữa, kẻ tu hành không thể không chấp nhận nghiệp quả của thân tứ đại đang mang.

     Sau 30-04-1975, được trở về chùa Linh Mụ, Huề thượng đã nhiều lần cự tuyệt những đề nghị một số việc làm của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm phục vụ chánh quyền. Trước khi viên tịch, Huề thượng căn dặn tổ chức tang lễ của ngài trong vòng nghi lễ tôn giáo đơn giản, từ chối nghi lễ của nhà cầm quyền có tính cách tuyên truyền chánh trị. Và các vị đệ tử của ngài đã vâng lời thực hiện nghiêm chỉnh di chúc. Từ chối ông Nguyễn Hữu Thọ làm trưởng ban tang lễ và đọc điếu văn, từ chối huy chương của Hà Nội...

     Về tác giả, bản thân là kẻ tu hành, tác giả cũng đã nhiều lần vào tù ra khám, bị công an làm thầy chùa trù dập, không có chùa nương tựa, không có hộ khẩu của một người dân bình thường của xã hội xã hội chủ nghĩa. Bị lâm vào thế cùng đường, ông Trí Lực trốn được qua Miên, bị công an mật vụ Hà Nội ở Nam Vang rình bắt cóc sau khi ông được qui chế tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Ông bị công an đẩy lên xe bịt bùng chở thẳng về Tây Ninh, đưa ra tòa án nhân dân xét xử về tội “Trốn ra nước ngoài nhằm mục đích chống lại chánh quyền nhân dân”.

     Nhờ hải ngoại tố cáo Hà Nội vi phạm Công ước Quốc tế, và mặt khác, Hà Nội sợ ông khai trước tòa có báo chí và công chúng theo dõi mà biết những điều đình mờ ám của chánh quyền với ông, như chánh quyền đề nghị ông phủ nhận những lời của ông khai trong hồ sơ tị nạn, ông nên ở lại Việt Nam, … chánh quyền sẽ cấp cho ông một ngôi chùa lớn, khang trang, với đầy đủ bổng lộc và quyền uy . Ông từ chối tất cả. Thế là ông chọn ở tù . Ông chỉ bị xử 20 tháng tù ở. Ra tù, ông được Thụy Điển nhận làm người tị nạn cộng sản theo hồ sơ đã thiết lập ở Nam Vang tháng 6 năm 2002.

     Bao nỗi tang thương không riêng gì là những tháng năm đầy gian truân, khốn khổ của Huề thượng Đôn Hậu, mà cũng là thực tế cuộc sống của ông Trí Lực từ sau 30-04-1975 nữa. Phải chăng hai kẻ tu hành cùng mang chung một nghiệp chướng thế gian?

     Dư luận về Huề thượng Đôn Hậu

     Sau 30-04-1975, Huề thượng Đôn Hậu làm chánh thư ký Viện Tăng Thống. Tại tang lễ, ngày 02-05-1992, Huề thượng Nhật Liên quì gối trình chúc thư của Huề thượng Đôn Hậu và ấn dấu Lưỡng viện cho Huề thượng Huyền Quang. Trong chúc thư, Huề Thượng Đôn Hậu ủy nhiệm Huề thượng Huyền Quang điều hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt cho tới khi nào có đủ điều kiện thuận lợi tổ chức được Đại hội VIII. Năm 1977, Đại hội VII đề cử Huề thượng Đôn Hậu làm chánh thư ký Viện Tăng Thống. Khi đệ II Tăng Thống, Huề thượng Giác Nhiên viên tịch, chiếu theo Hiến chương, Huề thượng Đôn Hậu kiêm nhiệm xử lý Viện Tăng Thống.

     Cho tới ngày viên tịch, Huề thượng Đôn Hậu là một vị tiền nhiệm của Huề thượng Huyền Quang và Quảng Độ, hai vị kế nghiệp lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhứt ngày nay.

     Qua vài bài báo đăng tải đây đó trong thời gian qua, Huề thượng Đôn Hậu bị phê phán là đã đi theo Việt cộng. Gần đây, quyển sách Biến động miền Trung của ông Liên Thành xuất hiện tiếp theo vài bài báo viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn của ông cáo buộc Huề thượng Đôn Hậu theo Việt cộng gay gắt hơn. Ông Liên Thành, với tư cách thiếu tá cảnh sát đặc biệt Huế,  trưng dẫn nhiều “ bằng chứng theo hồ sơ cảnh sát đặc biệt ” để củng cố quan điểm của ông. Những dẫn chứng của ông Liên Thành đầy đủ chi tiết như lý lịch cá nhân đương sự, ngày giờ, địa điểm hoạt động, những quan hệ với người khác... Theo tiết lộ của những nguồn thông tin này, thì hầu như tất cả thầy chùa gốc miền Trung đều hoạt động cho Việt cộng trong thời gian qua.

     Quyển sách Biến động miền Trung của ông Liên Thành được một bộ phận độc giả ở hải ngoại nhiệt liệt hưởng ứng đã làm thỏa mãn tác giả về mặt thành công tuy viết sách vốn không phải là khả năng sở hữu của ông Liên Thành từ trước giờ như chính tàc giả nhiều lần thừa nhận trong các buổi giới thiệu sách.

     Trong những dư luận phản bác, chúng tôi để ý bài trả lời của ông Nguyễn Đắc Xuân, với tư cách một Việt cộng đảng viên do chính ông xác nhận, người cùng thế hệ với ông Liên Thành và có mặt cùng thời điểm và tại chỗ, về những điều ông Liên Thành viết về ông ấy, cũng với “ hồ sơ cảnh sát đặc biệt ”, chi tiết cụ thể về thời gian, địa điểm và sự việc. Nhưng theo ông Nguyễn Đắc Xuân, với dẫn chứng nhân chứng sống còn ở hải ngoại, thì những chi tiết của ông Liên Thành viết về ông lại không đúng sự thật phải làm cho chúng ta suy nghĩ lại về những lời của ông Liên Thành tố cáo các vị tu sĩ Phật giáo trong sách Biến động miền Trung. Tại sao cho tới ngày nay, bỗng nhiên ông Liên Thành viết sách, nhắc lại giai đoạn nhiễu nhương ấy và cực lực tố cáo các chức sắc Phật giáo miền Trung?

     Vậy những điều khác ông Liên Thành nói thiếu “ hồ sơ cảnh sát đặc biệt ” liệu có đủ giá trị thuyết phục không? Mà hồ sơ của ông Liên Thành là hồ sơ nào ? Hồ sơ thiệt của cảnh sát mà ông Liên Thành mang theo được lúc chạy ? Hay thứ hồ sơ mà ông Liên Thànhkín đáo có được lúc gần đây?
    
     Trước đây, ông Lữ Giang ở Californie, Huê kỳ, viết quyển sách “ Đằng sau những cuộc thánh chiến ” công kích tu sĩ Phật giáo đi theo Việt cộng . Cái tựa ” Thánh chiến ” gợi lại những cuộc chiến tranh tôn giáo ở Âu châu của Công giáo La-mã đã khiêu khích sự tò mò của độc giả tìm đọc để cho biết ở Việt Nam cũng có thánh chiến nữa? Nên nhớ suốt dòng lịch sử, các hệ tư tưởng Lão, Nho hay Phật giáo lần lượt tới Việt Nam đều hòa nhập vào nhau nhuần nhuyễn trở thành văn hóa dân tộc. Kịp đến Thiên Chúa giáo sau này, vào thế kỷ XVI đã có mặt giáo sĩ truyền đạo, tới Việt Nam tuy trong hoàn cảnh lịch sử gay cấn, vẫn trở thành một đóng góp hài hòa bổ sung cho dòng văn hóa Việt Nam thêm phong phú. Tức ở Việt Nam hoàn toàn chưa bao giờ có xảy ra những xung đột mang tính cách hay màu sắc tôn giáo. Vả lại, trong lịch sử mấy ngàn năm của  Phật giáo chưa hế có thánh chiến, tuy Phật giáo cũng có nhiều hệ phái.

     Thế mà có những người gốc thẩm phán như ông Lữ Giang, vội quên đi thiên chức thẩm phán của mình, đã dám nghĩ ra “ Những cuộc thánh chiến ở Việt Nam ” sặc mùi La-mã thời Trung cổ? Khi viết lấy được những điều quái đản này, hẳn ông Lữ Giang nuôi dưỡng những hậu ý gì thầm kín?

     Về ông Lữ Giang,  một nhà báo kỳ cựu, người Bắc, lớn tuổi, tín đồ Thiên Chúa giáo, ở Los Angeles nói với chúng tôi sách của ông Lữ Giang được tái bản tới lần thứ 5. Sách loại này bán chạy có làm chúng ta ngạc nhiên không?

     Việt cộng luôn luôn dứt khoát không đội trời chung với tôn giáo khi tôn giáo không bị họ khống chế. Tìm cách ám hại, bức bách tôn giáo vốn là chánh sách xuyên suốt về tôn giáo của đảng Cộng sản Hà Nội từ xưa nay. Tuy nhiên, cũng không hẳn thiếu những trường hợp việt cộng Hà Nội tìm cách thỏa hiệp với thế lực tôn giáo khi quyền lợi của đôi bên được thỏa mãn mặc tình cho quyền lợi đất nước Việt Nam bị tổn hại về lâu về dài. Chúng ta đừng vội quên chánh quyền nào cũng chỉ là giai đoạn. Riêng chế độ cộng sản Hà Nội ngày nay đang chờ đi hết chu trình tồn tại của nó.

     Hoàn cảnh lịch sử chánh trị Việt Nam từ sau 1954 vô cùng phức tạp, do các cường quốc với thế đồng minh gây áp lực theo quyền lợi của họ. Phía Việt Nam thiếu người lãnh đạo. Chỉ có người của thời cuộc được đưa lên nắm chánh quyền.     

     Những mâu thuẫn địa phương, di sản của dòng lịch sử lập quốc trên một địa lý dài mà hẹp, những tranh chấp phe cánh, não trạng người cầm quyền hẹp hòi do quá khứ phục vụ quan trường, vận dụng ảnh hưởng tôn giáo cho mục tiêu chánh trị cầm quyền…, tất cả đã di hại cho đến tận ngày nay, đã không tránh khỏi làm mờ nhạt đi những nỗ lực tranh đấu khôi phục đất nước của những người Việt Nam ái quốc lương thiện, mà Biến động miền Trung là một hiện tượng cuối mùa.
        
     Chúng tôi xin quả quyết Phật giáo không có thời mạt pháp. Chỉ có con người đánh mất đi con người thiệt của mình, cái tự tánh. Khi con người thiệt bị đánh mất, thì Phật, Chúa cũng không còn. Con Phật (Phật tử) trở thành “ con của ma ”. Con của Chúa trở thành con của Sa-tăng thôi.

     Và về mặt xã hội, có điều may mắn là chưa có ai thấy thầy chùa đi làm cộng sản, mà chỉ có cộng sản lãnh nhiệm vụ đi làm thầy chùa để phá đạo, hủy diệt lòng tin tôn giáo để phục vụ cộng sản.

     Mời bạn đọc mở sách ra để lần bước theo dõi, chia sẻ với tác giả Trí Lực những nỗi tang thương của chính tác giả và đồng thời của ân sư của ông.
                                                                                           Kính bút
                                                                                 Nguyễn Văn Trần

[ … ] Ấn bản này có lược bỏ vài chữ ở đây, với sự đồng ý của người giới thiệu .

Thay lời tựa

     Đã gần bốn mươi năm trôi qua dưới chế độ cộng sản độc tài toàn trị, kể từ khi bộ đội miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam vào năm 1975, chính quyền cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc lên toàn dân Việt, chưa có một ngày nào dân chúng hai miền Nam Bắc được hít thở bầu không khí tự do. Hẳn chúng ta còn nhớ, hàng trăm hàng nghìn nhà tù lớn nhỏ do chính quyền cộng sản lập ra để giam hãm và cưỡng bức lao động khổ sai các viên chức dân sự và quân sự của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, với tên gọi là trại tập trung cải tạo.

     Từ cấp quận, đến cấp tỉnh hoặc thành phố đều có trại giam, số lượng không biết bao nhiêu mà tính. Ngoài ra, còn có rất nhiều trại giam trực thuộc bộ Công an, tất cả đều đặt dưới sự quản lý của cục V26. Có bao nhiêu tù nhân bị giam giữ cải tạo sau tháng tư đen 1975? Khi ký giả Jean Claude Labbe của tuần báo Paris Match - số ra ngày 22.09.1978 - hỏi ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng về số lượng tù cải tạo, ông Đồng không ngần ngại trả lời rằng, chính phủ chúng tôi đã trả tự do cho hơn một triệu người được trở về với gia đình họ!!

     Ngày 25 tháng 1 năm 2006, Quốc hội châu Âu tại Strasbourg đã thông qua Nghị quyết 1481 lên án tội ác chống lại loài người của các chính thể cộng sản Liên Xô và các quốc gia khác như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên… Tội ác chà đạp quyền con người một cách có hệ thống của chủ nghĩa cộng sản cần phải đem ra xét xử tại tòa án quốc tế.

     Đức Phật chỉ dạy nguyên lý vô thường, vũ trụ vạn vt trên thế gian chỉ là hư ảo. Kiếp nhân sinh mong manh tụ tán và hoàn cảnh đổi thay khác nào dâu bể. Bể dâu là nghĩa của hai chữ tang thương, nói trọn câu là tang điền thương hải, thửa ruộng dâu bỗng chốc hóa thành biển xanh.

     Bao nỗi tang thương là tập hồi ký ghi lại trung thực những sự biến tại ngôi chùa Thiên Mụ cố đô Huế, là nơi tôi xuất gia tu học từ thuở nhỏ, cho đến khoảng thời gian phục hoạt Giáo hội, sau tang lễ bổn sư chúng tôi là trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch năm 1992. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã chư tôn Giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, điển hình là Hòa thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong trại giam ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn;  hai vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị đưa  đi quản thúc lưu đày qua bao tháng năm dằng dặc.

     Sau khi mãn hạn tù vì những hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bản thân tôi vẫn bị cộng quyền tiếp tục đàn áp vô cùng nghiệt ngã, các quyền sống căn bản của một con người hầu như mất trắng, bao nỗi thăng trầm vinh nhục đè nặng lên kiếp sống đọa đày! Không còn sự chọn lựa nào khác, tôi đã bạch lên chư Tăng làm lễ xả giới đàng hoàng và đành chọn con đường lánh nạn cộng sản. Thế nhưng, bạo quyền cộng sản nào có nương tay, chúng ra lệnh cho đám công an mật vụ đang hoạt động tình báo tại xứ Chùa Tháp tổ chức bắt cóc tôi giữa phố chợ đông người, mặc dầu tôi đã được Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc bảo vệ quyền tỵ nạn chính trị. Toán mật vụ áp giải tôi trở lại biên giới Việt Miên qua cửa khẩu Mộc Bài, rồi giao cho đám công an đứng chờ sẵn. Chính quyền cộng sản tiếp tục giam cầm tôi một cách nghiêm ngặt tại trại giam B34, Sài Gòn. Suốt hơn cả năm trời bặt vô âm tín, khác nào bóng chim tăm cá, người thân và bạn bè của tôi chẳng hề hay biết, rằng tôi còn sống hay là đã chết. Cao ủy Nhân quyền Liên Hip Quc, các tổ chức nhân quyền và chính phủ thuộc cộng đồng các quốc gia dân chủ không ngừng lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả lời về vụ bắc cóc phi pháp này. Thế nhưng nhục nhã làm sao, cả một thể thống quốc gia bịp bợm chối cãi, rằng họ không hề hay biết gì về vụ việc mất tích này.

     Khi giáo sư Võ Văn Ái - giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc Tế - lên tiếng báo động và cáo buộc cơ quan mật vụ cộng sản Việt nam bắt cóc tôi tại Nam Vang đêm 25 tháng 7 năm 2002, thì người phát ngôn bộ Ngoại giao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tại Hà Nội - bà Phan Thúy Thanh - bác bỏ bản tin và trả lời với các hãng thông tấn báo chí quốc tế, rằng đây là sự vu khống bỉ ổi. Cuối cùng, trước nhiều áp lực, cộng quyền đành phải thừa nhận và đưa tôi ra xét xử với một bản án hai mươi tháng tù với tội danh ”Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân”.

     Ấn bản Bao nỗi tang thương lần đầu tiên hân hạnh được nhóm Thiện Ý tại Pháp quc ấn hành và kính biếu đến quý độc giả xa gần. Vừa qua, trong dịp Hội Phật tử người Việt tỵ nạn tại Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức Đại lễ Vu Lan thắng hội - Phật lịch 2555 - tôi được duyên lành sang tham dự và góp phần cầu nguyện. Ngoài lễ kỳ siêu pháp giới đa sinh phụ mẫu, trong dịp này, quý Phật tử ở Đức quốc đã không quên công ơn của các bậc anh hùng tử sĩ, vị quốc vong thân, các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong các trận hải chiến ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đạo tràng thành tâm cầu nguyện siêu độ liệt vị anh linh. Hiện nay Trung Quốc đã xâm chiếm hai quần đảo này, mà cụ thể là, tập đoàn độc tài toàn trị cộng sản tại Hà Nội đã bán đứng đt lin và bin đảo cho quan thầy Bắc Kinh.

     Phật sự trong mùa Vu Lan báo hiếu tại Đức quốc viên mãn trong niềm hỷ lạc của quý đạo hữu Phật tử . Nhiều vị thân hu có nhã ý muốn tái bản tập hồi ký Bao nỗi tang thương, đó là khi duyên đ ấn bản lần thứ hai đưc tr thành hiện thực và trân trọng kính biếu quý đc giả.

     Về nội dung, so với bản in đầu tiên, lần này chúng tôi có viết thêm lời tựa, sửa chữa vài ý văn và bổ sung một số hình ảnh được lấy từ nguồn trên mạng lưới điện toán toàn cầu. 

     Tác giả kính nguyện hồi hướng công đức và chân thành cảm ơn quý vị thân hữu trong nhóm Thiện Ý, Hội Phật tử người Việt quốc gia tỵ nạn tại Cộng hòa Liên bang Đức, quý vị thân hữu trong cộng đồng người Việt quốc gia tỵ nạn tại châu Âu, châu Úc và Hoa Kỳ, cùng quý thiện tín đạo hu gn xa, đã hoan hỷ phát tâm đóng góp tịnh tài, cũng như đem hết đạo tình hổ trợ để hoàn thành ấn phẩm này.

     S hiểu biết v nhng giai đoạn lịch s của đt nưc, ngưi viết chng khác nào ly ống dòm tri. Thiển nghĩ, thiên hi ký cũng chỉ là lời quê dông dài góp nht, thuật lại lắm nỗi thăng trầm hay sự đổi thay chớp nhoáng tựa hồ bức tranh vân cẩu, hoặc như cảnh bãi biển nương dâu.  Kính trông mong chư vị cao minh thức giả hoan hỷ lượng thứ và sẵn sàng chỉ bày cho những điều còn thiếu sót, ngõ hầu làm sáng tỏ lịch sử. Nếu đưc như thế, thật hân hạnh lắm thay!

Thụy Điển, bui tàn thu 2011

   Tác giả cẩn chí      
 1

Mái chùa xưa

     Hơn bốn trăm năm lịch sử, kể từ khi Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, dựng lập chùa Thiên Mụ vào năm 1601, ngôi cổ tự này đã trải qua bao cuộc bể dâu, sao dời vật đổi.

Chùa Thiên Mụ bên dòng sông Hương
     Hòa thượng Thích Ðôn Hậu nối dòng pháp Lâm Tế đời thứ bốn mươi hai, pháp danh Trừng Nguyên, pháp tự Giác Thanh, ôn[1]  là đệ tử của Tổ sư húy Thanh Ninh, tự Tâm Tịnh, khai sơn Tổ đình Tây Thiên, cố đô Huế. Là một vị Tăng xuất chúng trong chốn thiền môn, ôn được Giáo hội đương thời bổ nhiệm trú trì quốc tự Linh Mụ vào khoảng năm 1945, thời điểm mà đất nước Việt Nam bước qua giai đoạn lịch sử cực kỳ đen tối - Việt Minh cướp chính quyền. Chẳng bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại Việt Nam, Việt Minh rút lên chiến khu Việt Bắc, tiếp tục chín năm kháng chiến chống Pháp. Ðến năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, dòng sông Hiền Lương ở vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền Nam Bắc, chế độ cộng sản cai trị miền Bắc, chính thể đệ nhất cộng hòa ở miền Nam.

     Ôn đảm nhiệm trụ trì quốc tự Linh Mụ trong cảnh hoang tàn, bởi một thời đây là chiến địa. Năm 1947, thực dân Pháp càn quét vùng này, chúng tình nghi ôn hoạt động cho Việt Minh nên đã bắt ôn cùng với hai người nữa rồi chuẩn bị hành quyết. Quân lính Pháp buộc người này đào huyệt chôn người kia, vụt chốc hai người ngã gục. Ðến lượt ôn là người sau cùng, họng súng của chúng chực chờ nhả đạn, hầu kết liễu oan uổng mạng sống của một nhà sư.
 
Hòa thượng Thích Đôn Hậu
(1905-1992)

     May thay! Giữa lúc tính mạng của ôn như nghìn cân treo sợi tóc, thì đức Từ Cung[2] được tin cấp báo, lập tức can thiệp với tòa Khâm sứ Pháp tại Huế, yêu cầu ngưng ngay cuộc hành hình thầy Ðôn Hậu. Chính phủ Pháp đành phải nhượng bộ, bởi lẽ họ cũng chẳng có bằng cớ gì để chứng minh rằng, ôn hoạt động cho Việt Minh. Thế là, cây cỏ đồi Hà Khê dường như bừng sống dậy, nước Bình Hồ không thể nào nhuốm máu oan khiên! Thoát đại nạn trong đường tơ kẻ tóc, ôn Linh Mụ xem đức Từ Cung chẳng khác nào một vị cứu tinh cao cả, ân nghĩa sâu nặng ấy, ôn luôn luôn canh cánh bên lòng. Sau này, thỉnh thoảng ôn đến cung An Ðịnh để thăm hỏi sức khỏe của bà, hai vị hàn huyên tâm đắc.
 
Đoan Huy Hoàng Thái Hậu
(1887-1980)
Còn nhớ hôm nào, sau buổi giảng kinh Di Ðà sớ sao cho Tăng Ni tại Phật học đường Báo Quốc, nghe tin đức Từ Cung tạ thế, ôn xúc động trước tin buồn đột ngột. Hôm ấy, mưa gió dầm dề, nước sông Hương tràn bờ, dòng nước lũ chảy xiết từ ngọn nguồn xuôi về cửa biển Thuận An, thôn Kim Long và Xuân Hòa nằm dọc ven sông ngập chìm trong dòng nước bạc. Khi ấy, ôn bảo tôi đi đò ngược dòng theo đường Kim Long lên Linh Mụ để lấy một ít thuốc men và đồ dùng rồi trở về chùa Báo Quốc. Ôn ở lại đây để ngày mai cùng Hòa thượng Thích Thanh Trí đến cung An Ðịnh làm lễ phúng điếu và tiễn đưa linh cữu Hoàng Thái Hậu đến nơi an nghỉ cuối cùng. 

 2

Chinh chiến và sự chia lìa


Chứng tích tội ác cộng sản – Oan hồn xứ Huế
 trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968

      Hẳn người dân xứ Huế không ai là không kinh hoàng mỗi khi hồi tưởng thảm cảnh Tết Mậu Thân (1968). Quân cộng sản miền Bắc chiếm giữ cố đô gần một tháng trời. Binh lửa ngút ngàn, cảnh vật tang thương! Và còn biết bao người bị chôn sống một cách thê thảm, nhiều nhất là ở vùng Bãi Dâu, Gia Hội.


Tội ác cộng sản-Thảm sát Tết Mậu Thân 1968

     Ngày ngày có những người vợ đi kiếm xác chồng, những đứa con tìm nhận xác cha. Than ôi! Nỗi oán hờn chất ngất, lời lẽ nào kể sao cho xiết; niềm đau thương tràn ngập, bút mực nào viết lên cho tận! Sau khi cố đô Huế được bình định trở lại, hàng trăm thi thể bị trói gô được khai quật từ các hầm hố, rồi đưa về an trí tại trường trung học Gia Hội. Giáo hội tỉnh nhà công cử Thượng tọa Thích Chơn Thức tại Tổ đình Tường Vân và ban kinh sư làm lễ siêu độ vong linh và chẩn tế cô hồn. Mấy hôm sau, dân chúng cố đô ngậm ngùi tiễn đưa những quan tài không ai thừa nhận đến nơi an nghỉ nghìn thu tại nghĩa trang Ba Ðồn.
Ngậm ngùi tiễn biệt bao oan hồn bất hạnh
 Khoảng năm 1976, công trình đào thủy lợi nam sông Hương của chính quyền cộng sản đã xóa sổ nghĩa trang này, địa danh Ba Ðồn chìm vào quên lãng. Không còn cảnh hằng năm các đoàn thể Phật tử đến nơi đây thắp hương tưởng niệm và lập đàn chay siêu độ hồn oan, ngõ hầu an ủi phần nào các vong linh bất hạnh, làm ấm lòng kẻ quá vãng chốn tuyền đài. Giờ đây, nghĩa trang Ba Ðồn, nơi an táng những người bị chôn sống vào đầu xuân Mậu Thân không còn nữa, đảng Cộng sản đương quyền đã cố tình xóa đi vết tích của một thời huynh đệ tương tàn, bởi nơi đây như là một chứng tích lịch sử về tội ác chiến tranh, một thảm cảnh đau thương trong cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, giữa chủ nghĩa cộng sản và chính thể dân chủ tự do.

     Thấm thoát đã gần bốn mươi năm trôi qua, chiến cuộc mùa xuân Mậu Thân hãy còn làm cho người dân xứ Huế bàng hoàng mà cứ ngỡ như mới xảy ra hôm nào!

     Ngày mồng hai Tết Nguyên đán xuân Mậu Thân, chiến sự bắt đầu nổ ra ác liệt, dân chúng ở các vùng lân cận như An Ninh Hạ, An Ninh Thượng, Trúc Lâm, An Bình, Long Hồ… nườm nượp tản cư đến chùa Linh Mụ. Ngôi Ðại hùng bảo điện rộng năm gian hai chái không đủ cho mọi người trú ẩn; tam quan, nhà Hộ pháp, nhà bia, lầu chuông trống ở phía trước đầy ắp những người; phía sau là điện Ðịa Tạng, Quán Âm cũng không còn chỗ trống. Không những khi xảy ra chiến sự mọi người mới tìm chốn nương thân ở cảnh chùa, mà còn năm nào bão lụt lớn, dân chúng cũng tìm đến Linh Mụ để lánh nạn, bởi địa thế ngôi chùa tọa lạc trên ngọn đồi cao.

     Vào đầu xuân năm ấy, tiết trời xứ Huế rét mướt, cảnh cơ hàn đè nặng lên cuộc sống người dân thời ly loạn. Ôn Linh Mụ san sẻ cho mọi người từng lon gạo, nắm rau, khoai sắn trong vườn chùa đã nhổ sạch mà chẳng đủ lót dạ cho đàn trẻ con nheo nhóc. Lúc ấy, quân cộng sản miền Bắc đang kiểm soát vùng này, chúng cử người đến gặp ôn, buộc phải mở cửa tháp Phước Duyên cho chúng treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trên tầng thứ bảy. Hầu như ôn lường trước được hậu quả thảm khốc, nên mặc dù họ yêu sách năm lần bảy lượt, nhưng ôn vẫn một mực chối từ.

Phước Duyên bảo tháp

      Ôn nêu lý do rằng, hiện giờ trong chùa đang có hàng trăm đồng bào đến tá túc, nếu máy bay quân đội đồng minh phát hiện cờ địch quân trên ngọn tháp, thì nơi đây không làm sao tránh khỏi những trận mưa bom. Chùa tan nát không nói làm gì, nhưng hãy còn bao nhiêu mạng sống dân lành vô tội.

     Ôn viện lẽ nhà chùa không cất giữ chìa khóa tháp, các ông muốn mở cửa tháp thì cứ việc liên hệ với văn phòng Giáo hội tại chùa Từ Ðàm. Ôn nhất mực chối từ, thế là bộ đội cộng sản không sao thuyết phục được tấm lòng vị tha độ lượng của bậc cao Tăng.
 

     Vào đêm 19 tháng giêng năm ấy, mưa phùn lạnh buốt thấu xương, chứng bệnh dạ dày mãn tính của ôn tái phát, lại thêm cơn hen suyễn hành suốt đêm ngày. Liêu phòng bên trái ngôi chính điện chùa Linh Mụ tuy đã đóng kín các cửa để ngăn chặn những cơn gió lùa, thế nhưng không làm sao dứt được những cơn ho ngất từng hồi, lại thêm chứng xuất huyết dạ dày đang hành hạ thân tứ đại của ôn. Mọi người trong chùa thay phiên nhau chăm sóc ôn tận tình.

     Hoàng hôn phủ xuống vạn vật, từng tiếng chuông ngân hòa lẫn với tiếng đại bác trong đêm dội về thành phố, làm tăng thêm nỗi buồn man mác trong lòng người. Ðêm dần khuya, bỗng nhiên bên ngoài liêu phòng có tiếng gõ cửa, ôn bèn hỏi:

     - Ai đó? Có việc gì giữa đêm hôm khuya khoắt thế này?

     Bên ngoài, một giọng nói người miền Bắc vọng vào:

     - Bẩm cụ, chúng cháu là bộ đội giải phóng, nay xin vào gặp cụ Ðôn Hậu.

     Không có cách nào từ chối, ôn ra hiệu cho chú Tâm Kiến đốt đèn rồi ra mở cửa. Vài người mặc trang phục bộ đội cộng sản miền Bắc lần lượt bước vào phòng, vai mang súng AK. Sau khi mời ngồi, ôn cất tiếng hỏi:

     - Các ông cần gặp tôi có chuyện gì?

     - Bẩm cụ, chúng cháu vâng lệnh ban chỉ huy vùng mới giải phóng, đến mời cụ đêm nay xuống đình làng Xuân Hòa để họp.

     - Họp hành gì thì để sáng mai hẵng tính, tôi đang bị xuất huyết dạ dày và lên cơn suyễn nên không thể nào đi được.

     - Bẩm cụ, xin cụ gắng sức đi một chốc rồi về ạ.

     Ôn nhất định từ chối, các người ấy bèn từ giã ra về. Khoảng nửa giờ sau, toán bộ đội quay trở lại dường như đông hơn, họ gõ cửa đòi vào. Ôn tiếp họ và vẫn dùng lời lẽ chối từ giống như lần trước. Một người trong số ấy hình như là cấp chỉ huy dùng lời lẽ thuyết phục ôn, rằng họ chỉ mời ôn về đình làng Xuân Hòa để họp bàn việc dân một chốc, rồi sẽ tiễn ôn trở về chùa ngay. Cuối cùng, không thể nào trái ý họ, ôn đành miễn cưỡng choàng áo ấm vào người, rồi bảo chú Tâm Kiến đi theo và không quên nhắc chú ấy soạn một ít thuốc men.

     Ngoài cửa, dưới giàn hoa lý, có mấy người khác đứng chờ và đã chuẩn bị chiếc võng có đòn gánh. Họ mời ôn nằm lên võng, phủ kín tấm vải dù che mưa. Ðoàn người lặng lẽ gánh ôn ra hướng cửa tả chùa Linh Mụ rồi mất hút trong bóng đêm.

     Trời vẫn mưa lâm thâm, cơn gió lùa thấm lạnh. Xa xa, vài đóm hỏa châu lập lòe trong màn đêm u tịch, ánh lửa từ từ hắt xuống dòng Hương rồi vụt tắt. Tiếng súng đì đùng từ phía làng Nguyệt Biều bên kia sông vọng lại, hòa lẫn tiếng côn trùng rả rích canh thâu. Ðâu đây xao xác tiếng gà gáy đầu báo hiệu giờ gióng đại hồng chung sắp đến.

     Thời gian lặng lẽ trôi giữa dòng đời bất tận…


[1]           Từ đây trở xuống, tôi dùng chữ ôn tức là Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, trú trì chùa Linh Mụ, Huế. Ðây là từ xưng hô rất mực tôn kính của Tăng Ni và Phật tử xứ Huế để bạch với các bậc Hòa thượng, hoặc các vị trưởng lão tôn túc.
[2]           Ðức Từ Cung: Tức Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Ðại.

1    2    3    4    5    6   7

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét