Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.
Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.
Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào.
Phần XV:
Đoạn Kết Một Chuyện Tình
Khoảng
hai tuần lễ sau khi Phượng đến thăm tôi hôm ấy thì tôi nhận được bức thư nàng gửi
vào. Đây là bức thư thứ hai mà tôi nhận được qua ngã thăm nuôi nhờ
các chị đem dùm.
Nàng viết
cho tôi nhiều thư và thường khi đến thăm thì Phượng đưa luôn cho tôi đọc
cho tiện việc sổ sách, chỉ có hai lần đặc biệt này là nàng gửi đi mà thôi.Tôi
còn nhớ rất rõ bức thứ thứ nhất đã làm cho tôi vừa cảm động vừa biết ơn nàng đã
cho tôi hay nhiều tin tức bên ngoài.
Lá thư đó
viết trên hơn hai trang giấy học trò, trong thư có đoạn:
"Sàigòn
ngày...tháng...
Anh
yêu,
Chữ em
không được đẹp anh ráng đọc nghe. Em về đến Sàigòn là lao vào kiếm tiền nhưng vẫn
luôn nhớ anh. Tối nay nằm viết thư cho anh bên ngọn đèn dầu vì khu vực Quận Tám
của em trong kế hoạch cúp điện.
Thời gian
ở bên anh tuy ngắn ngủi nhưng để lại trong em một tình cảm khó mà quên được có
thể rằng vì anh và em đồng cảnh ngộ là những người đang cô đơn và thiếu tình
yêu.
Khi mới gập
anh nghe anh nói người vợ không còn đến thăm anh nữa thì trong lòng em tự dưng
bồi hồi thương cảm và bỗng dưng muốn thay thế người ấy để đem lại cho anh niềm
vui không biết có được không.
Những trường
hợp như anh nhiều lắm, anh đừng buồn vì không phải chỉ rơi vào mình anh. Em
nghĩ rằng những gì thiệt thòi nhất vẫn là những người như anh, sau cuộc chiến
còn ở lại và phải vào trong tù chịu bao nhiêu là tủi nhục mà gia đình còn tan vỡ.
Bên ngoài
thiên hạ vẫn sống, có người còn nhớ đến các anh nhưng có lẽ nhiều nhất vẫn là
gia đình.
Vũ trường
bây giờ được phép mở cửa và những người có tiền, đa số là của chế độ mới này
thì bắt đầu ăn chơi thâu đêm suốt sáng.
Hôm nọ,
các bạn em tình cờ rủ nên em có vào một vũ trường tại đây và em theo họ vào đây
cho biết. Có nhiều người mời nhưng em không nhẩy bản nào cả vì em đang nghĩ đến
anh, đến hai cảnh đời trái ngược.
Thật vô
lý quá khi em thì ngồi ở đây thảnh thơi ấm cúng trong ánh đèn mầu mờ mờ bên cạnh
những người chỉ biết một chữ là ăn chơi nhẩy nhót trong khi anh và các bạn anh,
những người tù cuối cùng, thì vẫn còn đang phải lao động khổ sai trong trại
giam sau mười lăm năm rồi. Niềm vui cho các anh chỉ là những giờ phút bên nhau
đùa vui hút điếu thuốc dưới gốc cây Buông hay chờ gia đình lên thăm?
Lúc nghĩ tới điều phi lý này, em không cầm được nước mắt nhưng dấu không
cho bạn em thấy.
Anh ráng
giữ sức khoe nha, em sẽ lên thăm anh ngày gần đây.
Thôi em
đi ngủ
Hôn anh /
Em của anh/ Phượng"
Tôi tần
ngần nhìn lá thư mới nhận. Chắc phải có chuyện gì cần thiết lắm thì nàng mới
lại biên thư để gửi các chị cầm tay chuyển cho tôi. Tôi xé góc phong bì ra và
những dòng chữ như nhẩy múa trước mắt:
"Sàigòn
ngày...tháng...
Anh
yêu,
Khi anh
nhận lá thư này thì có nghĩa là em sẽ không thể lên thăm anh được nữa. Anh có
nhớ lá thư anh giới thiệu em về gia đình để cho em có thể thay cho gia đình lên
thăm anh không?
Em có đến
thăm thì Mẹ anh và hai người em út của anh vừa được đi đoàn tụ theo ODP sau 11
năm chờ đợi nhờ người anh HQ Thiếu Tá của anh bảo lãnh. Em có gập người anh thứ
hai của anh và các em gái của anh đưa lá thư này thì anh ấy nói để gia
đình bàn tính lại và sẽ liên lạc với em sau.
Một tuần
lễ sau thì em được thư của người anh của anh nói là cám ơn em nhưng gia đình vẫn
muốn đảm trách công việc thăm nuôi cho anh.
Em viết
vài hàng vì hôm lên thăm anh lần cuối nhìn anh em nghẹn lời không nói được.
Sàigòn
thay đổi nhiều và lòng người cũng nhiều thay đổi nhưng bây giờ người dân mới biết
cái giá trị của cuộc sống cũ như thế nào sau bao năm dưới chế độ mới này.
Anh ráng
giữ gìn sức khỏe vì em tin rằng ngày anh về trong niềm vui rộn ràng sẽ
không còn xa.
Em của
anh/ Hôn anh/ Phượng"
Tôi là
con người mảnh khảnh sức khỏe không nhiều nhưng sức mạnh về tinh thần rất vững
vàng nhất là sau khi sống với thầy Tâm đã dậy dỗ tôi cả năm năm trời bao nhiêu
về đạo Phật cho nên tôi ít khi để cho cảnh trí bên ngoài tác động đến mình
nhưng khi đọc xong lá thư của Phượng tôi thấy như sự vững vàng ấy đang lung lay
và trời đất như thể quay cuồng.
Một sự thật
mà không bao giờ tôi nghĩ đến là gia đình nhất là ông anh thứ hai lại can thiệp
vào chuyện tình cảm của tôi. Ông ấy cũng đã từng đi tù ba năm dù không nhiều
nhưng cũng phải hiểu là tình cảm trong tù cần thế nào chứ một khi người vợ
đã bỏ ra đi?
Tôi không
muốn Phượng vì lòng thương tôi mỗi lần lên lại tốn kém một ít cho nên mới giới
thiệu nàng về gia đình.
Không ngờ!
Quả thật trong đời không bao giờ chúng ta học được chữ ngờ. Một sự thật quá phũ
phàng đến với tôi và tội nghiệp cho Phượng nữa.
Trong bao
nhiêu năm qua gia đình là nguồn sống chính về thăm nuôi cho tôi nhưng nay nếu
có thêm Phượng thì càng đỡ cho gia đình chứ nhất là khi mà đại gia đình tôi
đang lần lượt ra đi theo chương trình đoàn tụ ODP.
Tại sao
ông anh tôi lại không tán thành hay nghi ngờ gì thiện chí của Phượng thì tôi
không thể hiểu được.
Mấy người
bạn thân của tôi như Thụy, Trân, Nhơn, anh Hầu, bầu Ngọc, anh Hùng, đều đến
hỏi thăm tôi nhưng tôi dấu lá thư đi và chỉ thuật lại vắn tắt những gì đã xẩy
ra, và các bạn tôi thẩy đều nói là không đồng ý và rất bất
mãn với sự quyết định can thiệp như vậy của ông anh thứ hai của tôi vào chuyện
này.
Dầu sao
tôi vẫn đang ở trong tù và đang phải nhờ vào gia đình nên không làm gì khác hơn
là viết thư về lần nữa cho ông anh và các em để giải thích là tôi rất cần Phượng
trong lúc này; và viết thư an ủi Phượng ráng chờ tôi giải tỏa vần đề hiểu lầm
đó.
Những buổi
chiều đi bộ trong sân trước cửa buồng, tôi thường hay trao đổi với các người bạn
tù này để ngõ hầu tìm ra một phương thức nào cho ông anh này hiểu được nhưng vẫn
chưa tìm ra được kế sách gì trong khi tôi thường là người sáng suốt và nhanh
trí mà cũng chịu thua.
Một tháng
sau, Phượng vẫn không thấy lên thăm tôi như mọi tháng trong khi đó thì vợ chồng
em gái kế tôi lên để chào tôi vì đã qua được cuộc phỏng vấn của phái đoàn Mỹ
trước khi hai vợ chồng lên máy bay qua Hoa Kỳ.
Lần nay
lên thăm có hai đứa cháu gái con anh Cả tôi từ Bình Dương nữa. Cu Thắng nhỏ nhất
thì ở nhà với Mẹ cháu, hai cháu Thoa và Thảo thì đến trại để chào tôi vì rất là
may mắn vợ con của anh Cả tôi đã được phái đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn chấp thuận cho
đi theo "diện" H.O tỵ nạn dù là anh cả tôi đi tù về và mất tại nhà.
Ai cũng
nói là anh Cả tôi linh thiêng nên phù hộ cho vợ con anh ra đi định
cư thật là tốt đẹp.
Một vài
gia đình bạn tôi rơi vào trường hợp tương tự là người cha được tha về
một thời gian rồi mất ngoài trại giam cũng hỏi tôi để giúp cho họ, nhưng chính
tôi cũng không hiểu sao vợ con anh Cả tôi lại đi theo chương trình H.O được nữa.
Hôm đó
tôi được ở lại ngoài khu nhà tranh với vợ chồng cô em gái và mấy đứa cháu. Cậu
em rể có dịp trổ tài nấu nướng một bữa nhưng tôi ăn không ngon miệng chút nào
vì hình ảnh của Phượng cứ lởn vởn trong đầu tôi như một bài toán mà tôi chưa
tìm ra lời giải đáp.
Tôi có hỏi
tại sao gia đình lại cản trở việc Phượng đến thăm tôi thì hai vợ chồng đều nói
tất cả là ý kiến ông anh thứ hai hết. Thế là lại đi vào bế tắc vì chả hiểu sao
từ ngày tôi di chuyển vào Nam thì ông anh thứ hai này chưa hề đến trại
thăm tôi lần nào.
Sau bữa
ăn chiều thì tôi đi thả bộ với hai đứa cháu gái dọc theo con suối để qua thăm mấy
anh bạn có vợ đến và cũng ở lại đêm đó.
Em tôi có
đem theo cây đàn ghi ta nên tôi định rủ mấy vợ chồng bạn qua chơi làm văn nghệ
bỏ túi cho đỡ buồn thì tình cờ tôi đi ngang qua chiếc ghế đá mà lần trước tôi
và Phượng ngồi với nhau rât lâu lần cuối bên bờ suối này. Tôi bảo hai cháu dừng
lại một chút rồi ngồi xuống chiếc ghế đá, hai đứa ngồi hai bên nắm lấy tay chú.
Tôi mường
tượng như tiếng nói của Phượng như còn văng vẳng đâu đây, những sợi tóc lòa xòa
bay qua vai tôi hôm nào, bất giác tôi buông tiếng thở dài. Hai đứa cháu nhìn
tôi rồi nói:
-"Chú
chắc cũng sắp được tha về rồi chú à! Chú đừng buồn nữa."
-"Cháu
qua đó sẽ gửi nhiều ảnh đẹp về cho chú nha!"
Tôi nắm lấy
hai tay hai đứa cháu đứng dậy cố gượng vui:
-"Ừ
qua đó nhớ gửi hình về cho chú nhưng phải cố học cho thật giỏi nhe!"
Hai đứa
cùng dạ và tung tăng chạy trước, tôi lững thững theo sau những bước chân vô hồn
trên con đường tình của tôi và Phượng.
Phượng
ơi! Em có biết giờ này anh đang nghĩ đến em không?
Bao giờ
anh về thì anh sẽ ghé lại nhà thăm em ngay
Nhưng giờ
này thì em đâu rồi? Để lại cho anh nhiều trống vắng và niềm thương nhớ khôn
nguôi.
Các căn
nhà tranh có người ở thì giờ đều đã lên đèn, một ánh sáng vàng vọt chiếu hắt ra
con đường phía trước.
Bên kia
chiếc cầu là căng tin nơi tôi và Phượng đã nhiều lần ngồi uống nước với nhau để
chờ xe đò, xa hơn nữa là con đường lộ liên tỉnh chạy xuôi về Sàigòn nơi có người
con gái tên Phượng mà tôi đang thầm thương nhớ.
Phần
XVI: Về Miền Nắng Ấm
(Lời Tác Giả: "Về miền nắng ấm" là bài viết bổ túc cho "Chuyến tầu
xuôi phương Nam" cùng một tác giả trong hồi ký NNTCC nhằm vinh danh những
người tù chính trị chế độ cũ trong tập trung "cải tạo".
Họ là những
người trước kia từng đối mặt với quân thù ngoài trận tuyến và giờ đây vẫn phải
chịu sự trừng phạt tàn khốc trong trại giam, đối đầu hàng ngày với kẻ thù, và
nhiều người đã gục ngã trong âm thầm và lặng lẽ.")
Đoàn xe
buýt chở tù vào đến ga Nam Định thì trời vừa tối và họ chỉ định cho chúng tôi một
góc tường nhà ga làm nơi tạm thời nghỉ ngơi trước khi có lệnh lên tầu hỏa.
Chúng tôi
người đứng dựa vào bức tường hay dựa vào nhau, không ai dám trải tờ báo ngồi xuống
đất bởi chung quanh đó không có một chỗ nào tương đố sạch sẽ một chút, toàn những
đất đen lẫn những miếng gạch vỡ và ẩm thấp.
Một vài
người dân trong những bộ quần áo nghèo nàn ăn mặc thật giống nhau đi bộ gần đấy
hay đạp xe vội qua nhìn chúng tôi có vẻ hơi thắc mắc bởi vì tụi tôi bấy giờ đều
ăn mặc các bộ quần áo dân sự do gia đình gửi vào nhưng lại bị còng tay cứ hai
người một cái còng số tám.
Quả thật tôi không thể ngờ rằng cuộc đời nhiều lúc đắng cay và nghịch lý như
hoàn cảnh của tôi.
Năm một
chín sáu lăm, tôi là một học sinh Chu Văn An mang trong người mảnh bằng Tú Tài
II với nhiều mộng ước vào đời, nhưng đúng mười năm sau đó là Định Mệnh đau
thương khi miền Nam sụp đổ và tôi lại quay về đúng ngôi trường thân yêu ấy
trong thân phận người tù chờ xe đến để chở vào trại tập trung "cải tạo".
Không gì
đau lòng hơn hôm nay nữa khi tôi ghé lại nhà ga Nam Định, nơi chôn nhau cắt rốn
của mình trong tư thế một tù nhân chuyển trại. Cứ ngỡ rằng nếu có một ngày nào
về thăm quê hương Nam Định của tôi thì đó phải là một ngày trong vinh quang.
Khi trời
đã về khuya, các gian hàng trong khu nhà ga đã lên từ lâu, thứ đèn bóng tròn hắt
ra một thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt không đủ chiếu dù chỉ là một khoảng sân ga
thì chúng tôi được lệnh lên tầu.
Từng hai
người một bước lên con tầu cũng cũ kỹ như cái ga Nam Định, có lẽ đã nhiều chục
năm vẫn mang một bộ mặt không thay đổi đó.
Bấy giờ
là vào tháng Năm năm một chín tám tám, các tù nhân chính trị chế độ cũ còn bị
giam giữ tại miền Bắc chỉ còn lại đúng chín mươi người trong số hàng trăm ngàn
tù nhân bị di chuyển vội vã bằng mọi phương tiện từ Nam ra Bắc mười hai năm trước.
Cộng với một tù hình sự nghe nói có người chú là Thiếu Tướng VC nên được ưu đãi
cho vào Nam tiếp tục thụ án.
Chúng tôi
chiếm hai toa đầu tiên và các cán bộ và cán binh đi áp tải thì một toa nữa thứ
ba để ngăn cách chúng tôi với dân chúng hay những người buôn bán bị dồn xuống
các toa tầu phía sau.
Cứ hai
người ngồi một ghế băng bằng gỗ thì khá rộng rãi nhưng nếu nhét bốn người thì
không lọt nên chúng tôi ngồi thành hai cặp đối điện nhau.
Tôi và
anh hai Hầu may mắn ngồi thuận theo hướng tầu chạy nên nhìn được nhiều cảnh vật
bên ngoài. Cổ tay phải tôi khóa với tay trái anh Hầu cho nên tôi ngồi bên cạnh
cửa sổ bên trái toa tầu và anh Hầu cạnh lối đi.
Tôi để cây đàn ghi ta và giỏ mây đựng các thứ cần thiết lên trên giá gỗ cho rộng
chỗ và vừa ngồi xuống chưa bao lâu thì con tầu bắt đầu chuyển bánh một cách nặng
nhọc rời nhà ga.
Gió bên
ngoài thổi vào trong toa mát rượi như xua đi bao mệt nhọc trong ngày di chuyển
từ trại Ba Sao Nam Hà đến đây và bây giờ đang ở trên con tầu xuôi về Nam.
Quả thật đây là giấc mơ bất ngờ mà bao nhiêu năm nay chúng tôi chờ đợi vì ít ra
nếu không được thả ra khỏi trại thì cho về Nam cũng dễ thở hơn, cũng như án tù
của mình được giảm đi một phần rồi.
Chúng tôi
đang xa rời dần xứ Bắc theo tiếng máy tầu xình xịch chạy trên đường ray làm tôi
chợt nhớ đến anh Hiến, Đại Úy Biệt Động Quân tác giả bài hát "Chuyến Tầu
Xuôi Phương Nam" mà tôi rất thích:
"Chuyến
tầu xuôi phương Nam, xin từ giã từng đoạn đường ... Mái trường Phan Chu Trinh
em còn nhớ lời hẹn hò, bao giọng nói lời hỏi chào, dòng kỷ niệm quấn quít bên
nhau...Mãi mãi vườn xưa xanh tươi, môi hồng thắm lại nụ cười, phố phường sống dậy
tình người, Mẹ già ngồi bếp cũ năm xưa, qua một thời dĩ vãng thương
đau..."
Người tù
và nhạc sĩ BĐQ tài hoa ấy vẫn mơ về một ngày mà đất Mẹ sẽ có lại được những nụ
cười thương yêu, những khuôn mặt rạng rỡ, có lại được tình người nồng thắm
trong một không gian đầm ấm của hạnh phúc ngày xưa, và tất cả những đau thương
do chiến tranh và tù đầy đổ xuống quê hương tang tóc sẽ chỉ còn là dĩ vãng.
Nhưng niềm
mơ ước ấy đã không thể trở thành hiện thực vì những người tù vẫn còn bị
giam giữ không có ngày tháng, người dân vẫn còn bị đọa đầy; và khi tôi nghe tin
anh sau một thời gian thả về đi vượt biên đã bị mất tích.
Nếu đúng
vậy thì anh đã có thể trở về cái ngày xưa ấy khi còn giòng máu nóng trong người
và cầm súng trên tay cùng các đồng đội đi săn lùng diệt địch.
Anh hai Hầu
ngồi bên cạnh tôi đã ngủ từ lúc nào, anh thật là hiền hậu vô tư và thật là dễ
ngủ dù là trong tư thế ngồi và đôi khi xe chạy qua những quãng đường không được
êm lắm. Tôi rất mến anh vì tính tình đôn hậu giản dị của người miền Nam nên coi
anh như người anh và ăn chung với nhau kể từ ngày thầy Tâm, thầy tôi và các vị
trong Nha Tuyên Úy được thả về.
Anh thường
nhìn tôi cười cười :
-"Mỗi
lần anh nghe Đại thuyết trình về tin tức thời sự, về sự can thiệp của Mỹ và các
hội đoàn cho anh em mình sớm được trả tự do thì anh lại lên tinh thần."
Tôi nhìn
lối đi qua toa bên cạnh nơi chứa số còn lại của anh em tù nhân trong đó có các
ông Tướng và nhớ đến những lúc tôi đánh liều vượt tường qua khu giam các Tướng
để thuyết trình theo sự yêu cầu - vì sống trong đó các anh không có nhiều tin tức
như tụi tôi ở ngoài này.
Hơn nữa,
tin tức về các cuộc thương thuyết giữa Hoa Kỳ và Hà Nội để sớm thả các tù nhân
này ra khỏi trại giam vẫn là những đề tài nóng bỏng nhất mà mọi người đều muốn
biết vì tin tức ấy đã nhen nhóm lên trong chúng tôi một ánh lửa hy vọng.
Một điểm
nữa là các tù nhân còn lại sau mười ba năm trong trại giam thì đa số đều thuộc
các thành phần mà họ gọi là có nhiều "nợ máu với nhân dân và nguy hiểm cho
chế độ" như tình báo, an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt và những thành
phần này sẽ còn bị giữ trong các trại rất lâu, không có thời gian tính, nếu
không có sự can thiệp từ bên ngoài từ phía chính quyền Mỹ và các hội đoàn tại hải
ngoại.
Bởi vậy
đó là lý do tại sao chúng tôi phải săn lùng các tin tức liên quan đến
các tù nhân chính trị để biết chắc được rằng thế giới bên ngoài vẫn còn nhớ
tới mình.
Anh Hầu
đang ngủ gật gù và bỗng dưng chúi xuống đất, may mà tôi dùng tay trái chụp được
vai của anh níu lại kịp lúc. Anh tỉnh dậy:
-"Chuyện
gì đó Đại?"
-"Anh
ngủ gục. Không được rồi tôi chẳng có thể ngồi canh anh như thế này suốt đêm được
rất nguy hiểm. Bây giờ anh nằm xuống sàn tầu đi rồi gần sáng tôi đổi chỗ cho
anh lên ghế nằm chứ ngủ ngồi không xong rồi."
Bên ngoài
trời tối đen không còn nhìn thấy gì nữa vì tầu đang đi qua một vùng hoang vu
không có người ở, không một ánh đèn, chỉ thấy những vì sao long lanh xa tít
trên trời như cũng lấp lánh chung vui với chúng tôi trên chuyến tầu xuôi về Nam
hôm nay.
Đây là đất
nước mình đây ư! quê hương của mình đây ư! nhưng tại sao chúng tôi lại vẫn còn
bị giam giữ và đầy đọa ngay trên quê hương mình khi cuộc chiến tranh khốc liệt,
kéo dài hai thập niên với bao nhiêu triệu người chết, đã tàn rồi từ mười ba năm
trước?
Hầu hết
các bạn tôi đều đang say ngủ và toa tầu thật yên lặng, thỉnh thoảng mới có một
vài cán binh chạy lên xuống xem chừng chúng tôi mà thôi rồi lại trở về toa của
họ.
Ánh đèn
vàng nhỏ trên nóc toa tỏa ra một ánh sáng mờ mờ theo tiếng xình xịch của bánh
xe lửa lại càng làm thêm buồn ngủ, nhưng không hiểu sao dù rất mệt mỏi nhưng tôi
vẫn chưa ngủ được.
Có thể vì
hôm nay là một cái ngày gì rất đặc biệt trong quãng đời tù tội của chúng tôi,
những người tù cuối cùng đang rời xa dần đất Bắc.
Tất cả là
chín mươi người, con số thật là bé nhỏ, những người trước kia từ các trại khác
nhau trên miền Bắc về tụ hội tại Nam Hà, và bây giờ đây năm một chín tám tám,
chín mười người còn lại ấy vẫn còn sống và đang ngồi trên chuyến tầu
này xuôi Nam, sau mười ba năm giam cầm và lưu đầy.
Nếu nói
đây là một sự thành công kỳ diệu của sức người đã vượt qua được những thử thách
của thời gian thì phải cảm ơn Ông Trời đã sinh ra con người, tuy bằng xương bằng
thịt nhưng trong gian nan nguy khốn, đã có được một sức chịu đựng bền bỉ
ngoài sức tưởng tượng.
Những người
tù cuối cùng này còn sống sót và còn minh mẫn, chính là nhờ vào sức chịu đựng
phi thường của họ, chính là nhờ Ơn Trên vẫn che chở cho họ, và cũng chính nhờ
gia đình trong đó người vợ với tấm lòng son sắt, đã không quản
ngại khó nhọc đi thăm chồng suốt bao nhiêu năm trường.
Viễn ảnh đang
trở về miền nắng ấm có lẽ cũng làm cho tôi thao thức không ngủ được chăng.
Trên trời ông Trăng vừa ra khỏi được cụm mây để tỏa xuống trần gian một làn
ánh sáng yếu ớt cho đêm bớt tăm tối.
Có thể một
tương lai tốt đẹp hơn đang chờ chúng tôi trong miền Nam nhiều tình người
hơn, gần gũi với gia đình hơn, và gần với Sàigòn hơn.
Hai chữ
Sàigòn gây cho tôi một cảm giác xao xuyến mà đã bao nhiêu năm rồi tôi đã cố
chôn chặt nó trong lòng để cố quên nó đi, nhất là những đêm Đông giá buốt, bởi
vì mỗi khi nghĩ đến Sài gòn thì cả môt vùng trời kỷ niệm sống dậy
và nó dằn vặt tôi trong nỗi nhớ khôn nguôi.
Hai chữ đó như
nhắc nhở tôi về một thời gian có vẻ như xa xưa lắm rồi tôi đã có những năm
tháng yên vui hạnh phúc bên những người thân yêu, bên Mẹ, anh em, bên vợ bên
con, bên bạn bè, rồi bỗng dưng tất cả sụp đổ tan tành và thân tôi bỗng nhiên
thành tù tội ngay trên quê hương mình.
Rồi tôi bắt
đầu làm quen với lao động để “cải tạo” tại trại Long Thành và rồi đột ngột chuyển
trại ra Miền Bắc trong một đêm không trăng sao và ở lại ngoài đó mười hai năm.
Cuối cùng
thì giờ này tôi đang bỏ lại sau lưng cả một quãng đời tù đầy cơ cực trên xứ Bắc.
Bỏ lại mười
hai mùa Hè nóng như nung người, những đêm trong buồng giam ngộp thở hơi người,
chúng tôi ngồi tại chỗ nằm chỉ mặc cái quần đùi mà mồ hôi nhỏ từng giọt cho đến
khi mệt lả đi thì mới ngủ thiếp được.
Hoặc phải
tìm ít nước thấm ướt cái mùng rồi chui vào ngay khi còn ít hơi mát để tìm giấc
ngủ, khổ nhất lúc đó là phải chui vào trong mùng bởi không thể ngủ bên ngoài vì
từng đàn muỗi sẽ đến hỏi thăm sức khỏe ngay. Ban ngày thì lao động khổ sai ban
đêm thì chống chỏi từng giờ với cái nóng ghê gớm của mùa Hè.Cái nóng ghê gớm
đến nỗi mà một anh bạn thân tôi là cò Lạt đã phải than rằng chỉ cầu Trời
cho một cơn mưa chứ chẳng còn cầu ngày về nữa.
Bỏ lại
sau lưng mười hai mùa Đông mưa phùn gió Bấc, những làn gió lạnh buốt như quất
vào da thịt người tù như thấm vào tận xương tủy, nhiều lúc như không còn cảm
giác ở hai bàn tay.
Những buổi
sáng thức dậy khi trời còn đầy sương trắng đục, mây mù giăng mắc khắp núi rừng
chung quanh, cảnh vật như mờ mờ ảo ảo có lẽ không phải trên trần thế, mà người
tù vẫn phải thức dậy chuẩn bị cho một ngày lao động mới.
Nói về
mùa Đông, tự dưng tôi nhớ đến một người tù trẻ tuổi cũng rất đặc biệt, anh
chỉ là Thiếu Úy nhưng không hiểu sao cũng bị đưa ra Bắc trong tình trạng gần
như đã mất trí nhớ.
Anh tự
xưng là Nguyễn Huệ, ban đầu tôi tưởng tên anh là Huệ thật nhưng sau đó các bạn
cho biết là anh tự nhận như vậy. Anh thường quanh quẩn trong trại, đúng ra
loanh quanh trong buồng giam mà thôi, nhiều lúc nói những gì nghe không hiểu và
lại mỉm cười một mình. Tôi đoán rằng anh đã trải qua một giai đoạn nào khủng
khiếp lắm trong đời, có thể là sau khi bị bắt, bị tra tấn hay ngược đãi, hoặc
vì tình cảnh gia đình nên đã mất trí luôn.
Có điều rất
lạ lùng là trong mùa Đông xứ Bắc lạnh căm căm như vậy, ngay cả những ngày buốt
giá vì nhiệt độ hạ thấp đột ngột bởi những đợt khí lạnh từ bên đất Tầu thổi
xuống thì anh vẫn phong phanh bộ quần áo tù và để đầu trần mà vẫn bình thường.
Có anh trong buồng thấy vậy bèn cho anh cái áo len để mặc nhưng cũng chỉ một
hai ngày rồi lại thấy anh bỏ cái áo len đâu mất.
Như thế
suốt mùa Đông mà anh không hề bệnh tật gì trong khi tôi mặc mấy lớp áo kể cả áo
len và trên đầu còn trùm một cái mũ nỉ nữa mà vẫn thấy khí lạnh nó thấm vào tận
da thịt.
Lúc đó
tôi mới thấy cái kỳ diệu của cơ thể con người mà ông Trời đã cho chúng ta, có
thể vì hệ thống thần kinh của anh đã bị tổn thương cho nên không còn cảm nhận
được cái lạnh khủng khiếp đó của những ngày mùa Đông? Nhưng điều làm cho tôi ngạc
nhiên là anh không hề bị bệnh tật gì hay tỏ ra giá lạnh vì ăn mặc như vậy suốt
mấy tháng trời mùa Đông.
Có thời
gian khi anh mua được một miếng thịt tươi, như các anh em khác thì nấu nướng
lên rồi ăn nhưng anh lại đem chôn nó xuống đất. Tôi có hỏi anh là chôn để làm
gì thì anh nói là để dành cho mùa Đông.
Một bác nữa
ở cùng chung buồng giam với tôi, bác Hưởng cũng cùng đợt chuyển ra Bắc với anh
Thiếu Úy tự xưng là "Nguyễn Huệ". Bác tuy lớn tuổi nhưng rất là tỉnh
táo sáng suốt tuy rằng móm mém vì các răng cỏ đều rụng hết. Bác được
anh em đều rất thương mến vì tính tình hòa nhã và hiền hậu, có anh gọi bác rất
thân thương là Tía nữa.
Tôi còn
nhớ rất rõ hình dáng còm cõi, da sạm nắng và cái lưng hơi gù cùng tướng đi còn
nhanh nhẹn của bác. Bác Hưởng luôn vui cười với mọi người và hay kể những chuyện
về miền quê hương của bác ở miệt Tiền Giang với đủ loại trái cây và các món ăn
ngon ít nơi nào có được.
Tôi không
có dịp về thăm Tiền Giang và Hậu Giang nên nghe bác kể một cách thích thú say
mê, và đôi lúc cảm thấy hối hận vì trước kia chỉ biết lao vào làm việc mà
quên cả đi thăm các thắng cảnh của quê hương mình nhưng bây giờ ân hận thì cũng
đã muộn.
Giờ thì
đã mất hết rồi và nếu có còn có dịp nào chăng nữa sau này mà đi du lịch thì những
danh lam đó cũng không thể nào còn đẹp như xưa và cũng không còn cái không khí
của ngày xưa nữa.
Có hôm
nào hứng chí thì bác Hưởng lấy đôi đũa ra gõ nhịp nhịp rồi ngồi ca mấy câu vọng
cổ, ca xong thì bác có vẻ hài lòng lắm và quay qua nhìn chúng tôi hỏi là tụi
bay thấy tao ca có hay không rồi lại nhịp nhịp chiếc đũa.
Một buổi
chiều Đông nhưng trời đã tối xuống rất nhanh, tôi thấy bác tự
dưng chạy ra sân rồi la hét điên cuồng lên và chửi lung tung, than Trời xong lại
trách Đất. Anh em vội kéo bác vào trong buồng nhưng bác vẫn nhìn ra ngoài cổng
trại mà chửi cho đến khi khan cả tiếng không nói được nữa thì mới thôi.
Một vài
ngày sau, buổi tôi bác đi ngủ như thường lệ nhưng sáng hôm sau thì bác đã không
còn tỉnh dậy nữa.
Người tù
đó đã tìm được sự bình yên nơi không còn thù hận, có thể bây giờ thì bác đã được
thong dong trở về thăm miệt quê Tiền Giang yêu thương nhiều trái cây và thức ăn
ngon của bác.
Một anh
nghĩa quân nữa không hiểu mắc vào tội gì mà cũng bị đưa ra Bắc giam giữ. Anh rất
hiền lành ít nói nhưng vài năm sau anh dần dần bị lãng trí và cũng ra đi bất ngờ
trong một ngày đầu Đông không biết vì lý do gì.
Hay như
anh Thiếu Tá Cảnh Sát nằm cạnh tôi một sáng ngủ dậy đang nằm nhai miếng bánh bột
hấp bằng đầu ngón tay cái, là khẩu phần ăn cho người tù để sửa soạn lao động khổ
sai trong bốn tiếng đồng hồ thì tự dưng miếng bánh vuột khỏi tay rơi xuống sàn
nằm và anh đã ra đi nhẹ nhàng như một ngọn đèn hết dầu.
Anh bị bệnh
phù thủng nặng hai chân đã sưng vù lên và được ở lại buồng một thời gian để nghỉ
ngơi, nhưng vì thiếu dinh dưỡng và thuốc men nên bệnh trở nặng và sức cũng
không còn, nên đã chết đi y như ngọn đèn cạn dầu từ từ lụi tàn và tắt
đi một cách tự nhiên.
Mạng người
tù trong môi trường ấy không có một chút giá trị nào đối với họ, kẻ đã chiến thắng.
Xin cầu
nguyện cho tất cả các anh em tù nhân đã nằm xuống sớm về được miền Vĩnh Hằng -
nơi không còn đói rét và đọa đầy thân xác.
Tôi đang
bỏ lại sau lưng cả một quãng đời cơ cực với bao hiểm nguy, tôi cố quên đi hết
và bỏ lại đàng sau lưng những nhục nhằn của một kiếp người lầm than.
Chúng tôi
đã mất mát quá nhiều nhưng cũng học được những bài học đắt giá và nhờ Ơn Trên
mà chúng tôi đã xoay chuyển được tình thế trở nên thuận lợi hơn trong những
năm gần đây.
Chúng tôi
biết sống hơn để có thể tồn tại, niềm tin rằng mình sẽ có ngày về càng lúc càng
được củng cố vững chắc nhất là khi về Nam Hà được một hai năm sau thì anh Toan,
nghị sĩ, đã cho tôi biết về những bài thơ Đường thật là tuyệt tác và có ý nghĩa
của cụ Phan mà anh em thường gọi cụ là Thánh Tùng La.
Cụ Phan
chính là nhà ái quốc Phan Đình Phùng đã hiển Thánh và Ngài đã giáng cơ xuống,
theo lòng thành cầu khẩn của một số anh em muốn biết số phận của mình ra sao,
và Ngài dã cho những người tù từng bài thơ một, phác thảo ra một tương lai
còn nhiều hứa hẹn.
Các bài
thơ này đã được chuyền tay nhau đọc và chép lại và đã làm cho tinh thần người
tù lên cao và niềm hy vọng tưởng như lụi tàn nay bừng cháy lại.
Xin thành
kính đội ơn Thánh Tùng La đã ban những bài thơ như rồng bay phượng múa ấy để
nhóm lại ngọn lửa hy vọng trong khi nhiều người tù đã trở nên bi quan và yếm thế
tại trại Nam Hà.
Lúc này,
ngồi trên toa xe này xuôi về Nam thì tôi đã trở thành một con người có bản lãnh
và nghị lực khác hẳn so với mười hai năm trước lúc còn ngơ ngác trước ngưỡng
cửa dẫn vào địa ngục của trại giam trong chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc.
Bởi vì
tôi đã học được bao nhiêu là kinh nghiệm sống và tác phong quân tử từ những người
bạn thân trong đó có các anh trong tổ Điện, học được từ thái độ bình thản
chấp nhận cái chết đến từng ngày của ông Xuân viện trưởng, từ sự hy sinh tận tụy
của anh Trung những ngày tháng cuối chăm sóc bên cạnh ông Xuân, từ sự trầm tĩnh
của anh Đồng Tuy và nhiều nữa.
Tôi
còn học được những điều quí báu về tôn giáo, về số phận con người, về Định
Mệnh, qua Thượng Tọa Thích Thanh Long, qua thầy Tâm người thầy
hiền hậu của tôi, thầy Khuê, thầy Thạnh, thầy Tùng,v.v. qua Mục Sư Kỳ, Mục sư Lộc,
và quí vị Linh Mục.
Nhiều lúc
so sánh tôi thấy cuộc đời tôi có một nét rất giống như câu chuyện ngày xưa tôi
rất thích là "Bá Tước Monte Cristo" khi có cơ duyên trong tù đã
gập được vị thầy, một Minh Sư đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của mình sau này.
Trong
truyện thì nhân vật Edmond Dantes đã bị hàm oan khi đang chuẩn bị lễ cưới thì
bị bắt và bị lưu đầy đến một trại biệt giam trên đỉnh núi cao -nơi chỉ
có đi mà không có về.
Nhờ cơ
duyên Edmond đã gập được vị linh mục và là một nhà thông thái cũng bị
biệt giam trong đó và chính nhờ gập được vị thầy này mà Edmond đã tôi
luyện trở nên một con người văn võ toàn tài và vị linh mục còn
tiết lộ bí mật của kho tàng cho Edmond nữa.
Lại nhờ
vào may mắn lúc vị linh mục này qua đời phù hộ cho mà Edmond đã
thoát ra khỏi chốn biệt giam trở về và ân đền oán trả.
Tôi cũng
có cơ duyên sống với Thầy Tâm và được thầy dậy dỗ bảo ban mọi việc, nhất là về
căn bản đạo Phật, nhờ đó mà tôi mới có nghị lực chống chỏi với bao phong ba bão
táp như muốn nhận chìm mình xuống.
Nếu không
gập được người thầy như thầy Tâm, thầy Thích Thanh Long thì chắc là tôi đã nằm
lại trong bốn bức tường nhà tù.
Tôi có một
điểm khác với Edmond là khi ra khỏi tù thì tôi không tìm được kho tàng như
Edmond Dantes và tôi cũng chỉ trả ơn chứ không trả oán.
Nhìn ra
vùng tối trước mặt với những hàng cây sậm đen, những con đường đất,
những mái nhà tranh mờ mờ đang ngủ yên, những thửa ruộng thấp
thoáng ánh nước trong đêm hòa trong tiếng xình xịch của bánh xe lửa, mắt
tôi chợt nhòa đi khi nghĩ về những người tù hiền lành đã không còn nữa trong
đó có vị viện trưởng viện đại học Cần Thơ Nguyễn Duy Xuân mà tôi vô
cùng kính mến.
Họ đã phải
nằm lại miền Bắc lạnh lẽo ấy chứ không có được cái may mắn như chúng tôi hôm
nay đang theo con tầu cũ kỹ này xuôi về phương Nam nhiều nắng ấm.
Vĩnh biệt
xứ Bắc, xin chào mười hai năm lưu đầy, xin chào những con người mà tôi đã gập
ngoài đó và xin giữ mãi trong lòng không bao giờ quên các kỷ niệm đau
thương xen lẫn những nụ cười của những người tù mà tôi quen.
Những tiếng
xình xịch đơn điệu của con tầu trong đêm khuya lặng lẽ như đưa dòng tư tưởng
tôi về với những người thân thương.
Nghĩ đến
gia đình tự dưng hình ảnh hai đứa con hiện lên trong trí nhớ, có lẽ giờ này
chúng lớn lắm rồi vì ngày tôi ra đi thì con gái chưa đầy năm tuổi và con trai
chưa đầy bốn, bây giờ...bây giờ thì chúng đã mười tám và mười bẩy tuổi rồi, chắc
khi gập lại tôi không thể nhận ra con tôi nữa.
Những làn
gió mát hiu hiu thổi vào khung cửa ru tôi ngủ lúc nào không biết. Tôi
chợt mơ thấy mình trở về mái nhà xưa nơi tôi đã sống hơn mười lăm năm trên
con đường Trương Minh Giảng, Sàigòn thân thương, chợt nghe đâu đây tiếng
cười rộn rã của hai đứa con nhưng chẳng thấy chúng đâu, rồi lại nghe thấy
tiếng cười xen lẫn nước mắt của Mẹ già tóc nay đã phai mầu vì bao
nhiêu năm tháng thương nhớ đứa con trong tù.
Tôi đã đi
vào một giấc ngủ thật sâu lắng và êm đềm cho đến khi ánh nắng ban mai rọi chiếu
vào toa tầu qua khung cửa sổ làm tôi tỉnh giấc thì trời đã sáng từ lúc nào và tầu
đang đi vào địa phận miền Trung.
Miền
Trung, nhất là các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh, miền đất cằn lên sỏi đá và thiên tai
bão lụt quanh năm vốn đã nghèo nay lại còn xơ xác hơn với những mái nhà tranh
vách đất xiêu vẹo, những con trâu gầy gò, những con bò ốm giơ xương và những
con người bừa thay trâu cầy thật là khốn khổ.
Đâu đâu
cũng nhìn thấy những khuôn mặt xanh xao thiếu ăn trong những bộ quần áo lam lũ
làm chúng tôi tuy trong thân phận tù đầy không khỏi bồi hồi xúc động và thương
thay cho dân mình.
Mỗi khi tầu
ghé tới ga nào thì mấy tay cán binh đi theo canh giữ chúng tôi trên tầu thường
hay hỏi anh em chúng tôi cần gì không họ mua dùm cho.
Mấy tay
cán binh này và mấy tay Thiếu Úy nữa đi theo trên tầu, chúng tôi đếu quen mặt
vì thường xuyên vào trại uống cà phê, trà lá. Họ biết chúng tôi nên đi theo
canh giữ cũng dễ chịu.
Tôi mấy
năm sau thì bao tử và ruột bị yếu nên rất cần nước nóng và một tay cán binh hay
cầm cái phích nước của tôi và lại chạy bay xuống mua dùm nước sôi.
Có lần tầu
đã chạy rồi mà chưa thấy anh ta đâu thì bất ngờ y xuất hiện và hớt hơ hớt hãi
chạy theo và nhẩy lên được toa tầu thì văng mất cả nắp cái phích nước của tôi.
Mỗi lần như thế thì tôi lại cho anh ta ít tiền để uống cà phê nhờ vậy mà tôi có
nước sôi mà pha trà hay cà phê hay làm gói mì ăn sáng cho tôi và anh Hầu.
Cho nên
chúng tôi suốt ba ngày đêm trên tầu cũng ăn uống tạm đủ.
Mấy tay
cán binh này rất thích thú được anh em chúng tôi nhờ vả vì cả hai bên đều có lợi,
nhưng chính họ cũng muốn tỏ sự thiện cảm đối với anh em chúng tôi như thể sự hận
thù của họ đối với chúng tôi đã đi vào quá khứ và bây giờ là tình người với
nhau.
Một điểm
nữa đã đưa họ lại gần với chúng tôi chính là văn nghệ với các bản nhạc xưa đã
làm họ say mê, những buổi văn nghệ các tối thứ Bẩy tại buồng giam mà họ ghé đến
bên ngoài để cùng tham dự.
Đây cũng
là một giai đoạn đáng ghi nhớ đánh dấu một thời điểm rất quan trọng là chúng
tôi đã xoay chuyển được tình thế, từ lúc mới vào tù họ coi như các cặn bã rác
rưởi trong xã hội và chà đạp lên nhân phẩm của người tù chính trị, cho đến ngày
nay thì họ nhìn chúng tôi với con mắt nể trọng xen lẫn mến phục.
Trước
ngày rời trại Nam Hà để lên xe lửa vào Nam, tay Thượng Tá trưởng trại trong một
buổi nói chuyện cũng nói rằng "Chúng tôi không có khả năng để giáo dục
cải tạo các anh và tôi còn bảo các cán bộ của tôi hãy vào trong trại mà thực
tế học tập ở các anh nữa."
Vừa rời
khỏi miền Trung chưa bao xa để vượt qua con sông Bến Hải vào địa phận trong Nam
thì thấy rõ ràng cảnh vật đổi khác nhanh chóng với nhà cửa ruộng vườn xanh tươi
hơn, con người cũng bớt lam lũ hơn và khí hậu như mát dịu hẳn đi.
Con tầu
đi qua ba miền tuy cùng trong một đất nước nhưng tôi cảm nhận ngay được sự khác
biệt của cái nghèo, sự chịu đựng và sự khổ cực của con người sống trên xứ Bắc
và tại miền Trung so với sự trù phú của miền Nam cho nên dù là phải sống trong
chế độ Cộng Sản thì người miền Nam vẫn có thể bươn chải mà tồn tại được dễ dàng
hơn người Bắc và người Trung.
Trời đã xế
chiều và con tầu chợt dừng lại để chờ đổi đầu máy mới. Khi xe đang tạm thời dừng
lại chờ vào trạm, viên Thượng Úy phụ trách chuyến di chuyển nầy tưởng rằng đã đến
sân ga nên ra lệnh cho các người tù xuống xe.
Sự bất cẩn
của tên Thượng Úy nầy suýt nữa đã gây ra thương vong cho anh em tù nhân trong
đó có tôi.
Bởi vì cứ
hai người thì còng tay lại với nhau cái còng số 8, và anh Hai Hầu vừa bước chân
xuống sân và tôi còn đang trên các bực thang thì bất ngờ tàu chuyển bánh, trong
tư thế người trên kẻ dưới và anh Hầu hoàn toàn không biết là tầu đã chuyển bánh
nên kéo tôi xuống trong khi tôi đang ghì trở lại.
Tôi thì
tay trái cầm cây đàn guitar, tay phải còng với anh Hầu nhưng vẫn nắm lấy cái giỏ
xách đựng thuốc men vật dụng cần thiết và bộ ấm trả bằng sứ và chưa biết phải
làm sao thì tên Thiếu Úy đứng dưới sân ga và cạnh cửa toa tàu la lên một tiếng:
-"Anh
Đại đưa cho tôi cây đàn!". Trong một tích tắc động hồ như có ông bà xui
khiến, tôi ném cây đàn về phía tên Thiếu Úy, tay phải buông cái giỏ ra và nhảy
một cái qua hai bực thang xuống lòng sân ga trong khi toa tàu chạy vụt qua phía
sau lưng.
Tôi cảm
thấy hơi lạnh chạy dọc theo xương sống. Chỉ một tích tắc không nhảy xuống kịp
thì hoặc anh Hầu hay tôi sẽ bị té xuống và rớt vào đường rầy xe lửa.
Lúc đó
tôi nghĩ là ông bà linh thiêng đã phù hộ cho tôi, nhưng sau này khi vào Hàm Tân
gập gia đình thì mới biết ông anh Cả vừa mất vài tháng trước khi tôi lên tầu
vào Nam.
Tôi cứ
suy nghĩ mãi về vụ thoát chết trong gang tấc đó và tin là chính anh tôi đã nhập
vào tay Thiếu Úy mà cứu tôi kịp thời, bởi tay Thiếu Úy này là một trong những
tay cán bộ vẫn thường ra vào trại trà lá với chúng tôi và rất thích nghe chúng
tôi hát những bản nhạc của chế độ cũ.
Chỉ tích
tắc đồng hồ thôi nếu tôi không nhẩy kịp ra khỏi toa tầu thì hoặc tôi hay anh Hầu
đã nằm dưới bánh xe lửa.
Tôi lững
thững đi theo đoàn người vào sân ga và chưa kịp hoàn hồn thì lại được lệnh leo
lên cái tòa tàu mà suýt nữa tôi mất mạng vì nó để xuôi vào Nam.
Đến chiều
tối ngày thứ nhì thì chúng tôi vào tới thành phố Huế nhưng tầm nhìn bị che
khuất bởi bóng đêm vừa xuống và vì họ kéo rèm che hết các cửa sổ lại vì sợ dân
chúng thấy chúng tôi trên tầu.
Tôi chỉ
nhìn loáng thoáng thấy một cái sân ga vắng lặng như đang yên ngủ và vài hàng
quán còn le lói ánh đèn nhưng đều đã đóng cửa.
Khi tầu
đang chạy trên phần đất miền Bắc tôi không có nhiều cảm xúc ngoại trừ sự thương
cảm cho cái nghèo cùng cực của người dân với hình ảnh tôi không bao giờ quên được
của người đàn bà bụng chửa đã vượt mặt mà vẫn còn ráng chầm chậm gánh gạch vào
lò hay những thửa ruộng khô cằn cỗi , nhưng không hiểu sao từ khi tầu bắt đầu
chạy vào địa phận miền Nam thì tim tôi như đập nhanh hơn có thể vì như đang trở
về quê hương của mình, như đang tới gần hơn gia đình mình.
Chợt một
cậu soát vé còn rất trẻ lững thững đi lại phía tôi và anh Hầu rồi hỏi chuyện
làm quen:
-"Hình
như các bác các chú các anh từ miền Bắc chuyển trại vào trong Nam?"
Tôi nhìn
cậu ta gật đầu
-"Ba
của cháu trước kia làm cho Bưu Điện Sàigòn cho nên không phải đi "học tập
cải tạo". Các bác đã ở tù mười mấy năm rồi nhưng trông còn rất khí
phách."
Tôi cảm động
vì hai chữ khí phách mà cậu ta đã dùng và thấy cậu ta có vẻ như không
phải là người của họ nên tôi mời cậu điếu thuốc lá, một cái lắc đầu cám ơn
và cậu ta lại lững thững đi xuống các toa dưới sau khi gật đầu chào anh em tôi.
Đó cũng
là những kỷ niệm nhỏ nhưng khó quên bởi vì điều này chứng tỏ người dân miền Nam
vẫn chưa quên những người chế độ cũ và vẫn còn dành phần nào cảm
tình cho chúng tôi những người tù.
Suốt thời
gian hai đêm ba ngày trên tầu thì tất cả các hàng quà bánh buôn bán trên xe lửa
đều bị ngăn cấm không được vào bên trong hai toa có chở tù chính trị.
Khi tầu dừng
lại ở ga nào thì các cán binh thường được lệnh canh gác tại các cửa
lên xuống và nếu có các người dân buôn bán nào không biết ôm rổ bánh hay
thúng khoai sắn mà chen lên hai toa này để bán hàng thì đều bị đẩy xuống ngay.
Ngoài ra
sự canh giữ chỉ nghiêm ngặt nhất có lẽ là tại nhà ga Diêu Trì. Tại
các ga khác như Nha Trang hay tại Huế thì các cửa sổ được lệnh kéo rèm xuống hết
và các cán binh cũng đứng loanh quanh cạnh hai lối đi lên xuống tầu mà
thôi.
Nhưng tại
ga Diêu Trì thì sự việc xẩy ra hoàn toàn khác hẳn vì khi dân chúng nghe tin tù
chính trị về đến miền Nam thì từ trong cổng làng họ kéo nhau ra đông nghẹt rồi
ùa lại vây quanh hai toa này và vẫy tay chào chúng tôi rất là thân thương.
Tôi nhìn
về phía cổng làng thì thấy một đội võ trang đã án ngữ bên ngoài, đóng cổng
xong rồi khóa nó lại bên ngoài cho nên một số dân làng ở bên trong cũng muốn ra
chỗ xe lửa đang đậu để xem tù chính trị trở về nhưng vẫn không ra được vì cổng
đã khóa trái.
Bất chợt
có một em bé gái chỉ khoảng mười hai tuổi dáng gầy gò đã bất chấp lính gác chen
vào được toa nơi tôi đang ngồi, bỏ thúng bánh lá xuống chỉ cho chúng tôi thấy rồi
thoăn thoắt chạy vụt xuống xe và biến mất vào trong đám đông.
Ban đầu
tôi tưởng là em muốn bán hàng nhưng khi nhìn em vụt chạy xuống tầu thì
tôi mới hiểu ra là em muốn tặng thúng bánh đó cho chúng tôi.
Chúng tôi
không kịp cám ơn em và cũng không kịp đứng dậy để trả lại em thúng bánh hay đưa
cho em ít tiền nữa vì sự việc xẩy ra quá nhanh không ngờ.
Lòng tôi
chợt dâng lên một niềm xúc động mãnh liệt khi mắt tôi dõi theo
bóng em lẫn vào trong đám đông. Chúng tôi đều nhìn nhau không ai nói được
lời gì
Ngay đám
cán binh đứng gần đó cũng trở tay không kịp, cho nên sau khi em bé gái đó
chạy xuống sân ga rồi thì có một toán cán bộ xộc vào trong toa tôi đang ngồi và
ra lệnh cho các cán binh cầm súng làm thành một hàng rào bên ngoài hai toa
này và đẩy dân chúng ra xa con tầu không cho lại gần nữa.
Những
hình ảnh ấy, những khuôn mặt dân chúng xáp lại gần toa tầu để nhìn thấy những
người tù cho rõ hơn, hình ảnh của em bé gái đi chân đất mặc chiếc quần đen và
cái áo nâu đã bạc mầu với cặp mắt ngơ ngác nhìn chúng tôi - em là ai mà đã
dám lại bỏ cả thúng bánh lá, tiền kiếm được của cả một ngày buôn bán - trên toa
tầu cho những người tù là một nghĩa cử thật quí báu và là những kỷ niệm
mà tôi không bao giờ quên được trong đời.
Hồi nhỏ
tôi có đọc một cuốn sách rất nổi tiếng là cuốn "Tấm Lòng Cao Thượng"
bản dịch của Hà Mai Anh và tôi liên tưởng ngay đến bé gái thôn quê mộc mạc
và nghèo nàn này với thúng bánh lá cho những người tù mà em chưa hề quen biết,
mới chính là tấm lòng cao thượng.
Tôi cứ
bâng khuâng suy nghĩ mãi không biết tối nay khi em về nhà thì nói với cha mẹ ra
sao về thúng bánh lá ấy em đã tặng cho các bác các chú tù chính trị trên đường
chuyển trại?
Thúng
bánh ấy dù là của người dân tặng cho tù nhưng dĩ nhiên họ không phát cho chúng
tôi, và tay Thượng Úy trưởng toán cán bộ giải giao tù đã ra lệnh tịch thu đem về
toa của họ.
Thời gian
những năm sau này tuy họ đã thả lỏng bớt không quá khắt khe trong trại
giam nhưng chúng tôi vẫn bị cấm không được liên lạc với dân chúng.
Lúc ấy
dân chúng vẫn còn bao quanh toa tầu và hò reo chỉ chỏ về phía chúng tôi, anh Bửu
Uy cũng ngồi gần, bước lại cạnh tôi bên cửa sổ với một anh nữa và giơ chiếc
còng lên cho dân chúng thấy.
Tôi cũng
đứng dậy và kéo tay anh hai Hầu với cánh tay đang còng lên vẫy vẫy để chào
những người dân của Diêu Trì đã dành cho chúng tôi một tấm lòng thật là hiếm
có.
Trong
lòng tôi không khỏi dâng lên một chút ấm áp và một cảm xúc khó tả
khi nhìn đồng bào mình bao vây con tầu và đám cán binh đang vất vả để ngăn
cản họ lại gần.
Mười hai
năm trước thì tôi bị xích tay bằng sợi lòi tói với anh bạn đồng nghiệp là anh Sửu
ra đi vội vã trong đêm tối, còn bây giờ mười hai năm sau thì còng tay với anh Hầu
xuôi Nam nhưng trong tư thế đôi chút tự hào.
Chuyến tầu
tôi xuôi phương Nam lần nay thực khác hẳn với các chuyến tầu chở tù từ Nam ra Bắc
một năm sau ngày mất miền Nam.
Khi ấy,
các người tù bị nhét vào các toa chở súc vật đến kẹt cứng không còn có chỗ ngồi
chứ đừng nói là chỗ nằm và không khí ẩm thấp hôi hám đến ngộp thở đã làm một số
tù nhân ngất xỉu và chết vì thiếu dưỡng khí.
Chưa kể
trên đường tầu chạy qua các làng mạc thì dân chúng đã được đạo diễn nên liệng gạch
đá lên tầu kèm theo những lời chửi rủa và nhiều người tù đã bị thương hay thiệt
mạng vì những cục đá oán thù đó.
Bây giờ
thì tình hình đã hoàn toàn đổi khác dù là chúng tôi vẫn trong thân tù tội nhưng
đang trở về miền Nam trong sự đường hoàng của một con người bởi vì lòng
dân đã chuyển.
Qua hai
đêm trên tầu và bắt đầu ngày thứ ba khi tầu chạy qua các tỉnh phía nam Trung phần
thì tôi thấy quả thật miền Nam được thiên nhiên ưu đãi hơn hẳn miền Bắc chưa kể
các bãi biển đẹp như trong tranh với các hàng dừa nghiêng nghiêng trên bãi cát
trắng phau dọc theo Cà Ná, Mũi Né của Phan Rang, Phan Thiết.
Tôi hít
vào những hơi thật sâu cho gió biển lùa vào trong lồng ngực vì ít khi có dịp đi
qua bãi biển Cà Ná quá đẹp này nhưng tiếc thay là không dừng chân xuống được.
Có những
bãi biển vắng tanh không một bóng người chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào theo những đợt
lăn tăn xô nhau vào bờ và chạy dài mãi đến mãi tuốt tận đàng xa xa, và tôi
có cảm giác các bãi biển này rất tinh khiết như chưa hề có bước chân người đặt
tới bao giờ.
Chợt có
hai tay cán binh bước về phía tôi và nói với anh Bửu Uy:
-"Mấy
anh có đàn đây hát vài bản đi. Chúng tôi rất thích bài Chủ Nhật Tươi Hồng
(Beautiful Sunday).
Tôi mỉm
cười giơ cổ tay đang còng lên. Hai tay này sốt sắng:
-"Để
tôi sẽ chạy lại ngay và mở khóa cho hai anh."
Tôi lại mỉm
cười và lắc đầu. Trong hoàn cảnh này đâu có hứng thú gì mà ca hát.
Tôi có đọc
nhiều thư của các bạn được thả về trước viết vào nói là trên chuyến tầu về Nam
rất là vui và họ đã hát hò suốt dọc đường và các hành khách trên xe đều tán thưởng
và tặng thêm các bánh trái nữa. Nhưng trong hoàn cảnh bây giờ chúng tôi vẫn còn
trong tình trạng mất tự do và trong đầu tôi còn bao nhiêu là phân vân cho bước
đường sắp đến.
Sau hai
đêm và ba ngày thì cuối cùng thì đoàn tầu cũng đến được nơi dừng chân. Với một
đoạn đường hơn ngàn cây số mà phải mất đến ba ngày trời mới bò tới đích thì
đủ biết con tầu này thuộc loại già nua như thế nào. Tôi tính vận tốc trung bình
của nó không hơn vận tốc của xe đạp là bao nhiêu. Có thể nó đã từ thời Pháp để
lại và tu sửa tân trang chút ít rồi đưa vào hoạt động.
Vừa bước
chân xuống sân ga thì tôi thấy một dẫy xe đang chờ và chỉ biết một điều là mình
đang ở trong miền Nam.
Chúng tôi
lại lục tục leo lên và các xe này chay bon bon trên đường nhựa mà
tôi đoán là Quốc lộ số Một để đến nơi nào chúng tôi
cũng không biết.
Tôi ngồi
dựa vào lưng ghế, tay phải vẫn còng vào tay trái anh hai Hầu và nhắm mắt lại
tìm giấc ngủ, đến đâu thì tính đến đó, con người ta đều có số mệnh lo nhiều
cũng chẳng được.
Đoàn xe rời
quốc lộ và chạy vào con đường đất đá một đoạn khá xa rồi mới rẽ vào môt con đường
lát toàn đá vụn, hai bên đường là những hàng cây cao vút như muốn che rợp cả bầu
trời, nhưng nhìn xuyên qua những hàng cây ấy thì thấy phía sau là cả một khu rừng
toàn lá Buông.
Khoảng nửa
tiếng chạy trên con đường lát đá với hai hàng cây cao vút đó thì chúng tôi đến
khu vực trại giam.
Chúng
tôi đã đến trại Hàm Tân trong tỉnh Bình Thuận- là điểm dừng chân cho
những người tù cuối cùng sau ba ngày di chuyển từ Bắc vào Nam.
Phần
XVII: Sợi Dây Ngũ Sắc
(LTG: Phần
XVII này là bài viết thêm cho bài "Yêu Người Dương Thế" để nói
rõ hơn về một câu chuyện tình liêu trai có thật và đầy lãng mạn. Đây là một câu
chuyện thật kỳ lạ và bí ẩn mà khoa học ngày nay cũng chưa có thể giải thích được.
Quí vị
nào chưa đọc rất nên xem và suy ngẫm về Cõi Dương và Cõi Âm. Một chi tiết nữa
là TG đã đổi tên nhân vật chính.)
Thật khó
mà diễn tả cho hết được cái vẻ đẹp của mùa Thu trên đất Bắc, nó mong manh
như sương khói, yểu điệu như nàng thục nữ ngồi ngắm bóng mình bên hồ
Sen, nó bàng bạc như quyện vào từng chiếc là vàng rơi rơi bay bay theo từng
cơn gió chiều nhè nhẹ đìu hiu trên con đường làng quê nghèo và mộc mạc.
Bởi thế
mà mùa Thu đã tạo nên bao nhiêu nguồn cảm hứng cho bao nhiêu là văn sĩ
và thi nhân và bao nhiêu là áng thơ tuyệt tác cùng những truyện tình
lãng mạn đã làm cho lòng chúng ta không khỏi thổn thức mỗi độ Thu về.
Đúng vậy
mùa Thu đã về rồi đó, riêng đối với những người tù thì mùa Thu là một mùa không
phải là đẹp nhất trong năm nhưng là một khoảng thời gian mà thời tiết mát mẻ dễ
chịu nhất sau ba tháng Hè nóng như nung người trong lò lửa.
Đây cũng
là thời gian mà anh em chúng tôi lấy lại được một phần sức khỏe để dự trữ và
chuẩn bị chống đỡ lại sự tấn công đáng sợ của cái lạnh kinh người khi
mùa Đông lại đến.
Thời gian
này chúng tôi thích nhất vì như được tắm mình trong một vùng không gian
bao la mát rượi xen lẫn ít cái se se lạnh báo hiệu của một mùa Đông nữa sắp tới.
Ban đêm cũng chỉ cần đắp cái chăn ngang bụng và dễ đi vào giấc ngủ sau một ngày
mệt nhọc.
Mùa Xuân
cũng đem đến cho người tù một khoảng thời gian ấm áp sau những đêm Đông lạnh
giá, nhưng có lẽ không có mùa nào trong năm lại gây nhiều nhung nhớ sâu đậm
như mùa Thu nơi xứ Bắc, nhất là khi khoác trên người bộ áo tù nhưng mắt thì vẫn
dõi theo những cụm mây trôi dần trôi dần về phía chân trời vô định.
Chúng tôi
đang chia ra thành từng toán nhỏ năm bẩy người để cùng đạp đất và sau đó khi đất
sét đã nhuyễn thì sang mai từng lớp đất sét một cho tới khi nó chồng lên thành
từng khối bánh.
Những tảng
đất sét như cứng đầu nên vẫn chưa chịu mềm đi dưới những đôi chân trần của
những người tù. Tôi vào cùng nhóm với các anh cấp đại úy như anh Trung pháo
binh, anh Thế, Cảnh, Tâm, Châu vừa đạp đất vừa kể lại chuyện ngày xưa để giết
thời gian và cũng để quên đi cái hiện tại nhọc nhằn.
Mỗi người
một câu, chuyện trò rôm rả và chúng tôi như tìm được những nụ cười hiếm
hoi lẫn trong những giọt mồ hôi vất vả, dù là trời đã sang Thu. Tôi nhìn các
anh và chợt có ý kiến là mỗi người sẽ kể về mình một câu chuyện tình.
Mỗi ngày
một người được làm "máy" tức là đóng vai máy quay phim "chiếu"
lại một khúc phim tình nào đó mà mình từng đóng vai chính.
Thế là
tôi được nghe những câu chuyện tình thật đẹp hay thật ngộ nghĩnh của các bạn
mình và được dịp thả hồn mình đi mơ mộng theo từng tình tiết của câu chuyện hay
bật ra những tràng cười thoải mái về những sự ngây ngô của mình khi mới bước
chân vào tình yêu của thời sinh viên mới lớn lên tại Sài Gòn hay trong quân
ngũ.
Qua đi gần
hết một vòng thì người cuối là anh Trung, dáng anh nhỏ người da ngăm đen, tính
tình thật hiền lành và dễ mến của người miền Nam, nhưng cười rất có
duyên và cách kể chuyện của anh thì lại hấp dẫn nhất trong nhóm.
Anh Trung
nhìn tụi tôi rồi nói hơi tếu một chút:
-"Tui
chẳng có chuyện gì để kể hết à! Đi lính rôi quen bà xã rồi lấy nhau vậy thôi, hổng
có gì nữa để kể, vậy là hết."
Dĩ nhiên
là mọi người đều không chịu một câu chuyện quá ngắn và có vẻ chạy làng như
vậy cho nên anh Trung đề nghị là để đền bù, anh sẽ kể một câu chuyện có thật
nhưng rất kỳ lạ và đầy bí ẩn của một người bạn của anh vừa mới xẩy ra trước khi
anh chuyển trại về đây, mà chính anh cũng không biết đoạn kết của câu chuyện
tình này sẽ ra sao nữa.
Giọng anh
trầm trầm hẳn xuống và ngay lập tức tụi tôi bị cuốn hút vào câu truyện đầy tính
liêu trai này.
Buổi sáng
hôm ấy sương mù dày đặc trắng xóa cả bầu trời và hình như mây mù từ những nơi
khác trong lòng thung lũng đều kéo nhau tụ cả về đây. Những ngọn núi chung
quanh trại giam khu vực Hoàng Liên Sơn này cũng chỉ ẩn hiện mờ mờ trong một mầu
trắng đục.
Cách xa
chỉ năm thước cũng không nhìn thấy được mặt người. Cảnh vật nhạt
nhòa trong sương khói như làm cho bầu không khí thêm phần ảm đạm và làm
tăng thêm cái rét căm căm của mùa Đông miền Bắc. Cái lạnh thì xuyên thấu qua từng
chiếc áo rằn ri mầu hoa rừng, qua luôn lớp áo lót bên trong và thấm vào từng sớ
thịt của những sĩ quan tù binh - người tù chính trị chế độ cũ.
Vì sương
mù và sở dĩ nếu xuất trại ra lao động có thể tù dễ trốn trại chonên tất cả
chúng tôi được lệnh ở lại trong trại sáng hôm đó.
Chẳng ai
bảo ai chúng tôi đều vào buồng, leo lên chỗ nằm ngả lưng xuống nghỉ
ngơi cho khỏe hoặc nấu ít trà nóng uống cho đỡ lạnh. Mỗi khi mà được nghỉ
lao động là đều có lý do nếu không vì sương mù như hôm nay thì hoặc là mưa quá
lớn, hay có thể là chuẩn bị di chuyển trại giam, hay là cái gì nữa không
đoán trước được.
Bởi vậy
người tù lúc nào cũng phải chuẩn bị tinh thần cho những gì xấu nhất có thể xẩy
tới cho mình bất kỳ lúc nào, tuy trong lòng luôn cầu nguyện những gì tốt đẹp nhất
sẽ đến.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau bỗng có hàng loạt bộ đội vào sân trại và ra lệnh
cho tất cả tù nhân đem hết tư trang ra ngoài sân để khám xét. Cái điều khó chịu
ấy cứ sáu tháng lại tái diễn một lần và họ lựa đúng vào những dịp tù được nghỉ
lao động để khám xét mục đích là không cho chúng tôi được nhiều thời gian riêng
cho mình và đưa chúng tôi vào tình thế luôn bị động.
Mục đích
của khám xét là để xem tù nhân có tàng trữ những gì trái với nội quy của trại
không như vật nhọn, muối, tiền mặt, kinh sách tôn giáo, "nhạc vàng",
quần áo chưa đóng dấu "cải tạo"?
Trung và các bạn trong buồng lần lượt khuân hết các ba lô hay túi xách, các thứ
linh tinh và chiếc chiếu cá nhân ra ngoài sân.
Mỗi lần
như vậy thì Trung nhận thấy mình lại mất đi một vài thứ, lúc thì cái muỗng bằng
bạc dùng để ăn cơm, lúc thì con dao cùn dùng để cạo râu, v.v.. Còn thì những thứ
thực sự có giá trị như đồng hồ, nhẫn vàng, tiền mặt thì ngay từ lúc đầu bước
chân vào trại giam thì họ đã tịch thu dưới danh nghĩa là trại "quản
lý" dùm cho các anh khi nào được tha về sẽ trả lại.
Và mỗi lần như vậy là đám cán binh và đám bộ đội trực trại lại khám thật kỹ từng
người một, từ cái lai quần đến ve áo trên người cho đến chăn mền quần áo, từng
chỗ nằm của mỗi người và vết nứt trên tường.
Trung khoanh tay đứng nhìn một cách hờ hững vì anh chẳng còn gì để chúng nó tịch
thu nữa mà phải lo nghĩ, và bên cạnh anh các bạn cũng từ từ cuốn chiếc chiếu lại
đem vào buồng giam.
Chợt anh
nhìn thấy Tuấn, người bạn bên cạnh anh đang bị tên trực trại hạch hỏi về chiếc
dây chuyền kết bằng những sợi chỉ lấp lánh ngũ sắc bện với nhau rất đẹp mà
anh đang đeo trên cổ.
Tuấn cố
giải thích là kỷ vật của gia đình nhưng tên bộ đội còn trẻ măng vẫn không nghe
và vẫn tịch thu sợi dây chuyền ngũ sắc ấy của anh. Có thể rằng mỗi đợt kiểm tra
như thế này xong thì bọn chúng phải tìm nộp cho cấp trên một số tang vật bất cứ
thứ gì của người tù để lập công cho nên chúng cố tịch thu càng nhiều càng
tốt.
Ngày hôm
sau trên đường đi lao động vào rừng đốn gỗ cho trại Trung thấy Tuấn lộ vẻ đăm
chiêu và lo lắng không yên nên anh hỏi:
-"Sao thấy cậu có vẻ lo lắng chuyện gì thì phải?"
-"Ừ!
Đêm qua mình lại nằm mơ thấy bà xã của mình, bà ấy khóc quá nói là mấy năm nay
đi tìm kiếm mình khắp nơi mà không gặp."
-"Ủa!
mình tưởng là cậu còn độc thân chứ? Nhưng như vậy cũng là vui rồi, không gặp được
người thực ở ngoài đời thì gặp người trong mộng cũng là vui và an ủi rồi còn
gì?"
-"Không
phải vậy đâu! Mình vẫn còn độc thân nhưng mà bà ấy là bà xã trong mộng của mình
mà thôi nhưng mà câu chuyện dài lắm để mình kể cho cậu nghe..."
Thế rồi
Tuấn từ từ kể lại cho Trung nghe về cuộc đời và mối tình kỳ lạ của mình ngày
còn trong quân ngũ.
Thời gian
ấy vào khoảng năm 1971 sau cuộc tổng tấn công của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
qua Campuchia phá hủy hầu hết các căn cứ hậu cần của Việt Cộng và quân Bắc Việt
tại Kompong Cham, Kompong Sap, Kratie, đơn vị của Tuấn tháp tùng sư đoàn trở về
vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam trong chiến thắng oai hùng và Tuấn được
thăng cấp Trung Úy.
Sau đó
đơn vị của Tuấn được lệnh đi hành quân tảo thanh diệt địch và tạm thời trú đóng
bên cạnh một giòng sông nước trong vắt với hàng dừa xanh thật là thơ mộng.
Rồi một hôm, một biến cố đã xảy ra trong một ngày định mệnh đã làm đảo lộn hết
cả cuộc đời binh nghiệp của anh.
Hôm đó,
Tuấn theo đơn vị dừng lại đóng quân trong một làng nhỏ nằm ven sông thì binh
lính dưới quyền báo tin là có một xác thiếu nữ trôi sông vừa dạt vào bờ. Tuấn vội
chạy ra xem thì thấy một thiếu nữ tuổi chừng mười tám hai mươi trong chiếc áo
dài màu trắng nữ sinh tuyệt đẹp, làn tóc thề lòa xòa che mất một phần của khuôn
mặt trái xoan, nằm mấp mé bờ sông, nàng chết mà như đang trong giấc ngủ và có vẻ
đẹp quí phái của con người tỉnh thành chứ không phải thôn dã.
Anh bèn
ra lệnh cho binh sỹ khiêng nàng lên bờ và cho lính vào trong làng hỏi thăm
xem có ai biết tông tích ra sao để báo tin cho gia đình nạn nhân đem về mai
táng. Anh buột miệng khen một câu:
"Người đẹp như vậy mà chết uổng quá! Giá mà còn sống lấy mình thì thật là
đẹp đôi."
Thế rồi
không biết có phải vào giờ linh hay là nàng sống khôn chết thiêng hay sao mà
ngay tối hôm đó Tuấn nằm mơ thấy nàng hiện về và hai người bắt đầu quen nhau.
Kể từ hôm
đó, hễ đặt lưng nằm xuống là Tuấn lại thấy nàng hiện ra ngay trong giấc mộng
trong suốt chặng đường hành quân của anh hay là khi về phép y như một đôi tình
nhân vừa quen nhau trong một khung cảnh hệt như thương xá Tax và hàng quán
phố phường trên đường Lê Lợi tại Sàigòn vậy. Giấc mơ này nói tiếp giấc mơ kia y
như những chương trong một cuốn tiểu thuyết lồng trong một mối tình lãng mạn.
Từ đó anh
đặt tên cho nàng là Mộng Điệp và anh mơ thấy mình mặc quân phục về phép Sàigòn
và tình cờ gặp nàng và làm quen trên đường nàng đi học về trong tà áo nữ sinh
tha thướt. Ai đi ngang qua cũng trầm trồ là hai người thật đẹp đôi.
Những
ngày sau đó, anh lái xe gắn máy đến trường đón nàng tan học vềvà hai người chở
nhau đi chơi, đi xem xi nê, ăn uống và chở nàng về nhà của mẹ nàng bên cầu Thị
Nghè.
Tình yêu
nảy nở lúc nào không hay giữa trai tài gái sắc, hai người trao nhau nụ hôn đầu
tiên trong vườn Bách Thảo và bàn tính chuyện hôn nhân. Anh rất mừng là mẹ nàng
cũng tán thành và tác hợp cho đôi lứa.
Anh bèn xin đơn vị nghỉ phép nói là về thăm gia đình nhưng chính là về để tổ chức
đám cưới với Mộng Điệp. Đám cưới thật là vui với đầy đủ lễ nghi đón dâu và đãi
tiệc tại nhà hàng và có cả xác pháo hồng và áo cưới cho cô dâu e thẹn về nhà chồng.
Lúc đó tại thị xã nơi đơn vị Tuấn đóng quân, các cô bán hàng mỹ phẩm và quần áo
phụ nữ thường rất ngạc nhiên khi thấy Trung Úy Tuấn thường đến cửa hiệu của họ
và mua những quần áo kể cả đồ lót cho phụ nữ và đồ trang sức nữa. Ở cái thị xã
nhỏ như vậy thì ai cũng biết chàng Trung Úy đẹp trai anh hùng này vẫn còn độc
thân nhưng mỗi khi các cô hỏi chàng mua tặng cho ai thì Tuấn chỉ cười lắc đầu
chứ không trả lời cô nào cả.
Cuộc sống
hạnh phúc của vợ chồng Tuấn và Mộng Điệp kéo dài thật là êm đêm trong những giấc
mộng nối tiếp nhau suốt một năm trời như vậy trong từng giấc ngủ cho đến một
hôm
Một nhân
vật huyền bí khác lại xuất hiện và lại làm thay đổi hẳn đời sống của chàng sỹ
quan trẻ.
Thế rồi
chiến trận lan tràn khắp nơi trên quê hương miền Nam và Tuấn bị cuốn hút vào cuộc
chiến không có thì giờ để nghĩ đến một chuyện gì khác nữa ngoài những cuộc hành
quân liên miên diệt trừ Cộng Phỉ. Nhìn những xóm làng nằm trong vùng "xôi
đậu" với những xác người dân lành vô tội bị Việt Cộng thiêu rụi vì đã
không theo chúng, hay những cây cầu đoạn đường bị VC phá hoại mà Tuấn không khỏi
uất hận bọn Cộng Nô và bùi ngùi cho đất nước đau thương của mình.
Một hôm hành quân qua một vùng "xôi đậu" là những xóm làng mà ban
ngày thì do Quốc Gia kiểm soát và ban đêm thì VC mò về và khuấy rối và bắt dân
của xóm làng nghèo nàn này phải đóng góp gạo thóc gia súc cho chúng anh mới biết
là Cộng Sản tuyên truyền rằng dân chúng đừng có theo Quốc Gia vì xe tăng của họ
toàn là giấy các tông và máy bay trực thăng cũng vậy.
Anh bèn gọi dân làng lại và cho họ đích thân đến cạnh một chiếc xe tăng tháp
tùng cuộc hành quân để họ được tự tay mình sờ mó và đập tay vào xe tăng xem có
phải bằng các tông hay không thì dân làng mới tin. Từ đó thì dân chúng
trong làng ngả hẳn về phe Quốc Gia và mỗi khi có VC mò về là họ thông báo ngay
cho các lực lượng đồn trú tại địa phương.
Một ngày thật đặc biệt trong đời Tuấn, sau một cuộc hành quân lùng và diệt địch
thật là vất vả và gian nguy trong vùng sình lầy của đồng bằng Cửu Long, đơn vị
của Tuấn di chuyển ngang qua một ngôi làng rất là nhỏ có lẽ chỉ vài chục nóc
nhà tranh thì anh thấy một cụ già chống gậy đang đứng trước cái ngõ dẫn vào
ngôi làng như đang chờ đợi ai. Khi anh đi tới đâu ngõ thì bất ngờ cụ chống gậy
bước ra và nói với các binh sĩ là muốn gặp anh.
Tuấn bèn cho đại đội dừng quân lại và phát cho dân làng một số thực phẩm khô và
đồ hộp Quân Tiếp Vụ mà đơn vị anh mang theo để đi theo bà cụ vào trong làng.
Vừa bước
chân vào ngôi nhà tranh của bà cụ thì Tuấn rất là sửng sốt vì hình như bà cụ đã
biết anh từ trước. Cụ bà tuy đã luống tuổi nhưng trông còn tinh anh và nhanh nhẹn,
cụ nói rất là từ tốn rằng tối hôm qua cụ nằm mộng thấy một ông già râu tóc bạc
phơ báo tin cho cụ ngày hôm nay phải đón anh sẽ hành quân qua làng này để chữa
bệnh cho anh.
Bà cụ nói
rằng anh đang bị ám khí rất là nặng và nếu không chữa trị kịp thời thì không thể
cứu được tính mạng. Vì anh thường hay làm những điều phước thiện giúp đỡ binh
lính và dân chúng cho nên cụ được lệnh là phải cứu giúp anh. Mới đầu thì Tuấn
không hiểu nhưng sau thì anh chợt nhớ ra người vợ Mộng Điệp của mình và kể cho
bà cụ nghe từ đầu đến cuối câu chuyện.
Bà cụ trầm ngâm một lúc và nói rằng rất may mà anh gặp được cụ và cụ có thể chữa
bệnh ma ám cho anh được vì cụ cao tay hơn con ma đang ám ảnh anh suốt hơn năm
qua.
Lúc này
thì Tuấn mới hiểu rằng tại sao sức khỏe của anh bị sa sút và damặt thì xanh hẳn
đi như người bị mất máu mà trước kia anh cứ nghĩ là vì các cuộc hành quân gian khổ.
Hóa ra là cuộc tình giống như những truyện trong Liêu Trai Chí Dị mà anh đã đọc
hồi xưa đã tàn phá sức khỏe của anh trông thấy.
Bà cụ bèn lấy một chén nước sắc bằng những lá rừng và làm phép trên đó, để lên
một cái bàn thờ nhỏ trong nhà thắp một nén nhang xong và bảo anh uống chén nước
đó. Xong rồi, cụ cho anh một cái sợi dây chuyền bện bằng những sợi chỉ ngũ sắc
rất đẹp và bảo anh là luôn luôn phải đeo trên cổ không được xa rời thì cái người
vợ ma kia sẽ không còn hại anh được nữa.
Và cái điều lạ lùng là kể từ ngày ấy khi anh đeo sợi dây chuyền ngũ sắc
trên cổ thì anh không còn gặp lại người vợ trong mộng nữa, không những thế hình
như sợi dây chuyền này cũng che chở và đem may mắn cho anh trước lằn tên mũi đạn
của quân thù.
Thời gian thấm thoát trôi qua cho đến một hôm anh chợt nhớ đến vị ân nhân của
mình khi hành quân gần ngôi làng cũ và ghé vào thăm bà cụ ngày trước đã cứu mạng
cho anh.
Khi gặp lại thì cụ rất là vui mừng y như người mẹ gặp lại đứa con còn an lành
sau những ngày tháng hành quân gian khổ.
Cụ bèn kể
cho anh nghe một câu chuyện và anh cũng không tin vào tai mình nữa. Khi đó khoảng
vài tuần trước, cụ có đi qua chợ phiên của làng bên và bất thình lình có một
người đàn bà mặt mày đỏ gay lên và xông lại xỉa xói chỉ tay lung tung vào mặt cụ
và còn xấn xổ tính hành hung cụ nữa, và bảo rằng cụ đã cướp người chồng của chị
ta. Cụ đã biết người phụ nữ bị ma nhập đó là ai rồi nên cụ bèn rút cái cây roi
mây trong giỏ ra và bảo chị ta không được hỗn nếu không thì cụ sẽ bắt bỏ vào
trong cái giỏ này. Nghe thấy vậy, người đàn bà kia chợt thụt lui lại, không còn
la hét và cúi đầu cum cúp rảo bước đi mất ra khỏi chợ.
Cụ hỏi
anh có biết người phụ nữ đó là ai không và nói ngay với anh rằng chính cái người
vợ trong mộng của anh đã nhập vào người đàn bà đó để làm dữ với cụ vì cụ đã
làm phép cho anh không còn bị ma ám nữa.
Những năm tháng sau đó, khói lửa bốc lên khắp nơi và người Sàigòn bắt đầu làm
quen với những địa danh như Tống Lê Chân, Khe Sanh, Mùa Hè Đỏ Lửa tại Quảng Trị,
Đông Hà, An Lộc Tử Thủ, Đại Lộ Kinh Hoàng với pháo kích của VC và quân Bắc Việt
dọc theo Quốc Lộ 1 đã tàn sát hàng chục ngàn thường dân vô tội và gia
đình của họ khi di tản từ miền Trung vào miền Nam lánh nạn.
Đơn vị của Tuấn đã liên tiếp chiến thắng lẫy lừng đem lại niềm hãnh diện cho
Trung Đoàn và được Trung Đoàn khao quân và tưởng thưởng nhiều huy chương cao
quí của quân đội.
Một điều
bất hạnh cho người Quốc Gia là đồng minh Hoa Kỳ đã quyết định bỏ rơi họ đơn độc
chiến đấu trong tình trạng thiếu súng đạn nhiên liệu trước một kẻ thù hung hãn
và khát máu đang được yểm trợ đắc lực bởi Nga Sô, Trung Cộng và khối Đông Âu.
Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa một quân đội anh hùng đã vì thế mà mất đi dần ưu thế trên chiến
trường và lui dần vào thế thụ động và phòng thủ. Chiến đấu cơ không còn đủ xăng
nhớt để hoàn thành những phi vụ và pháo binh cũng không còn đạn pháo để yểm trợ
cho quân bạn như xưa nữa và điều gì phải đến đã đến.
Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, Miền Nam sụp đổ và rơi vào tay Cộng Sản và Tuấn cũng
như hàng triệu quân dân cán chính khác của chế độ VNCH sa chân vào chốn lao tù.
Sau những
lần chuyển trại trên đất Bắc, tình cờ Tuấn gặp lại người bạn thân năm xưa cũng
sư đoàn là Trung Úy Trung pháo binh. Tuấn ngừng lại một chút rồi tâm sự:"
Kể từ ngày họ tịch thu sợi dây chuyền ngũ sắc của mình thì ngay ngày hôm sau
lên rừng đốn củi tự dưng mình thấy buồn ngủ ríu cả mắt lại và ngồi tựa gốc cây
ngủ lúc nào không hay. Chỉ một lát sau thì thấy ngay người vợ trong mộng hiện
ra và nàng khóc lóc ôm lấy mình và nói rằng mấy năm nay nàng đã đi tìm mình khắp
nơi mà không gặp và điều bất ngờ nàng nói rằng đã có một đứa con hai tuổi với
mình và ôm con sống trong cô đơn suốt mấy năm nay."
Trung nhìn sững bạn anh, nếu không phải là người bạn thân đích thực kể cho nghe
thì chắc anh sẽ không tin là câu chuyện này là có thực của một người cõi âm đã
đem lòng yêu thương một người trên dương thế là bạn của anh và đã lặn lội từ
Nam ra Bắc để ôm con đi tìm chồng.
Cuộc đời vẫn luôn xoay vần và Trung những tưởng là mình sẽ chết và chôn vùi
trong xó rừng miền Bắc nhưng vì quân Bắc Việt tấn công qua Campuchia và Trung Cộng
đánh qua sáu tỉnh miền Bắc nên anh và những bạn tù được di chuyển từ Hoàng Liên
Sơn về các trại giam khác ở miền trung du vào năm 1978.
Nhưng Trung và Tuấn sau lần chuyển trại thì bị tách ra về hai nơi khác nhau và
không còn gặp lại nhau nữa.
Những năm
sau nầy Trung không được tin tức gì nữa về Tuấn và khôngbiết bạn mình lưu lạc
phương nào và có được trả tự do chưa hay đã vì mất sợi dây chuyền hộ mạng nên
cũng đã chết theo người vợ cõi âm nặng lòng với mối tình yêu người dương thế?
Trung kể
chuyện một cách say sưa và tình tiết suốt hai ngày mới xong. Khi anh kết thúc rồi
tôi vẫn còn ngẩn ngơ và bàng hoàng vì một mối tình liêu trai đầy lãng mạn xen lẫn
nét huyền bí của bà cụ đã cho Tuấn sợi dây ngũ sắc và giải bệnh ma ám cho anh.
Năm 1983,
anh Trung cùng một số lớn tù nhân được di chuyển vào trong Nam và tôi cùng với
số tù nhân còn lại trong đó có các thầy và các vị mục sư, linh mục di chuyển về
trại Ba Sao Nam Hà.
Từ đó tôi
mất liên lạc với anh Trung pháo binh và không biết khi vào trong Nam anh có gập
lại nhân vật chính trong truyện hay không, nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được
câu chuyện đầy kỳ bí và huyền hoặc của sợi dây ngũ sắc này.
Anh Hùng
Sư Đoàn 5
Hồi Ký của:
Phạm G. Đại
(Lời Tác
Giả: Nhân dịp kỷ niệm 35 năm mất miền Nam vào tay Cộng Sản, "Anh hùng
Sư Đoàn 5" là một bút ký nêu lên tinh thần anh dũng, hào hùng, can trường,
bất khuất, và hy sinh vô bờ bến của người chiến sỹ Quốc Gia nói riêng và của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung. Tác phẩm này cũng như một nén hương kính
dâng lên tất cả những anh hùng tử sĩ quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.)
Năm một
chín sáu ba là một năm xáo trộn về chính trị, tại Mỹ thì Tổng Thống John. F.
Kennedy bị ám sát, tại miền Nam thì phong trào chống lại chế độ "gia đình
trị" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên đến cao điểm đưa đến sự thảm sát hai
ông Diệm và Nhu.
Nguồn dư luận lúc đó cho rằng người Mỹ muốn đem quân vào Miền Nam nhưng hai ông
Diệm Nhu đã không tán đồng nên đã bị dẹp qua một bên giống như họ dẹp TT
Kennedy bên kia trời Âu vậy.
Có một điều mà chúng ta phải thừa nhận rằng dưới chế độ của TT Ngô Đình Diệm,
dù là mới phôi thai, nhưng từ năm một chín năm tư thì người Quốc Gia đã tập
trung lại được trong miền Nam để thành lập một tiền đồn chống Cộng vững vàng
cho vùng Đông Nam Châu Á và chính vì cái vị thế chiến lược đó của miền Nam mà
người Mỹ đã nhẩy vào giúp chúng ta xây dựng cái tiền đồn chống Cộng này.
Từ đó lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu tung bay ngạo nghễ khắp
miền Nam và trên thế giới.
Miền Nam, đất lành chim đậu, với thiên thời địa lợi và nhân hòa, đã là nơi khai
sinh ra vùng trời Tự Do cho người Việt Quốc Gia, sau khi Hiệp Định Geneve chia
đôi hai miền Nam Bắc qua con sông Bến Hải. Những bài hát những câu hò ca ngợi Tự
Do và Tình Yêu quê hương thủa đó như Nắng Đẹp Miền Nam, Trăng Thanh Bình, Giã Gạo
Đêm Trăng, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, "Nhà Bè nước chẩy chia hai, ai về Gia Định
Đồng Nai thì về", "Ai vô Nam, ngớ ngẩn vì muôn câu hò..." v.v.,
đã nói lên niềm khát vọng cho hòa bình và xây dựng đất nước của người dân Việt
sau bao nhiêu năm dài chinh chiến.
Nhưng không ai ngờ rằng một cuộc chiến thảm khốc nhất đang được khối Cộng sản
Nga - Tầu giao cho Cộng Sản Việt Nam vụt đổ ập xuống quê hương miền Nam.
Những tin tức hàng ngày về Việt Cộng (VC) và quân Bắc Việt (BV) đốt làng phá
xóm, giật cầu đắp mìn trên lộ, giết hại dân lành làm cho người dân bắt đầu cảm
nhận được cường độ của chiến tranh đang gia tăng nhất là tại vùng nông thôn.
Lúc đó cả ba anh trai của tôi đều đang trong quân trường, anh cả khóa 20 Võ Bị
Quốc Gia Đà Lạt, anh hai trong Quân Y, anh ba đang thụ huấn khóa 13 Sĩ Quan Hải
Quân Nha Trang. Tôi thì đang theo học Tú Tài I trường trung học Chu Văn An,
Sàigòn.
Cô ruột
tôi , nhà chỉ cách nhà Mẹ tôi một con hẻm đường Trương Minh Giảng, còn đông con
hơn nữa và bẩy cậu em họ của tôi đều lần lượt giã từ bút nghiên để theo nghiệp
đao cung khi quốc gia nguy biến. Chỉ trừ cậu út là được miễn thi hành nghĩa vụ
quân dịch.
Khi còn nhỏ tại đường Cầu Đất, Hải Phòng, anh Quang lớn của tôi đã tỏ ra có
năng khiếu về quân sự. Khi ông Nội đúc cho những thằng lính và xe jeep bằng chì
thì anh đã bầy chúng ra làm quân hai bên đánh nhau; có lẽ đó cũng là điềm báo
trước là anh sẽ chọn binh nghiệp sau này.
Hai năm sau, anh ra trường Võ Bị Đà Lạt với cấp bậc Thiếu Úy hiện dịch và được
thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh (BB) tại Lai Khê, Bình Dương. Chưa đầy hai
năm sau anh được thăng chức Trung Úy và với những chiến tích nổi bật, anh được
đề cử làm đại đội trưởng đại đội trinh sát của trung đoàn 7.
Anh bắt đầu áp dụng các lý thuyết học trong quân trường với kinh nghiệm thực tế
để rèn luyện những sĩ quan và binh sĩ của đại đội trở thành những chiến sĩ gan
dạ và am hiểu trận địa, và đại đội đã thắng trận liên tục đem về vinh dự cho cả
Sư Đoàn.
Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của trung đoàn 7, Sư đoàn 5 BB trong khi xung
phong vào Ấp đã bị thiệt hại và phải rút lui ra để tải thương binh về hậu cứ vì
lợi thế nghiêng về phía địch.
Bộ tham mưu trung đoàn bèn quyết định đưa đứa con cưng của mình vào trận và đại
đội trinh sát được trực thăng vận đến ngay cánh đồng lúa trước mặt một khu đồng
trống dẫn vào Ấp.
Tuy ở cấp đại đội nhưng đại đội trinh sát của trung đoàn được trang bị hỏa lực
mạnh nhất cùng với vũ khí tối tân nhất bấy giờ với quân số luôn đầy đủ và có ưu
điểm là cơ động rất nhanh tạo sự bất ngờ cho địch quân nhiều lúc trở tay không
kịp.
Khi anh vừa đáp xuống trực thăng thì anh đã thấy ngay lý do tại sao địch với cấp
số chưa tới đại đội mà đã đẩy lui được cả một tiểu đoàn. Đó chính là địch đã dựa
lưng vào mật khu Dương Minh Châu phía sau và chỉ có một con đường duy nhất dẫn
vào Ấp qua khu đồng trống đó.
Nhìn thấy ven lộ có một cái miếu, anh bảo binh sĩ dưới quyền trong tư thế sẵn
sàng và chờ anh một lát, rồi lấy ra từ trong ba lô ba nén nhang và vào trong miếu
thắp lên và cầu nguyện Thổ Thần Thổ Địa che chở cho những người lính Quốc Gia
đang tiễu trừ Cộng phỉ. Khi bước ra khỏi miếu, anh ra lệnh cho các trung đội
dàn đội hình và ra lệnh xung phong. Anh và các sĩ quan đều chạy trên tuyến đầu
và nã súng vào những nơi nghi ngờ Cộng quân đang cố thủ.
Từ trong Ấp, đạn bắn ra như mưa và khoảng cách chỉ hai trăm thước vào Ấp mà dài
như cả cây số. Thế rồi đạn từ trong Ấp đột nhiên yếu dần đi và khi đại đội vào
hẳn được trong Ấp thì thấy nồi niêu soong chảo của địch còn nguyên với nồi cơm
còn bốc khói chưa kịp ăn.
Lúc bấy giờ anh mới được binh lính trình báo là đại đội đã vượt qua một bãi mìn
VC gài nhưng không có một trái nào nổ cả. Có lẽ đó là lý do mà quân địch quá
khiếp vía cho là đoàn quân này có lẽ từ trên Trời xuống chắc mà phải đánh bàì
"chém vè" bỏ cả bữa cơm chiều vừa nấu chín. Tiểu đoàn vừa qua cũng vì
bãi mìn này mà phải rút lui và nhường trận địa lại cho đại đội trinh sát.
Tổng kết lại phía đại đội chỉ có năm binh lính bị thương và đã được trực thăng
đến bốc ngay về hậu cứ và không có một tử vong nào. Những viên đạn của địch
cũng đan chéo qua mũ sắt và áo trận của anh nhưng không một viên nào trúng người.
Từ đó anh còn nổi tiếng là một cấp chỉ huy không sát quân và binh lính dưới quyền
lại càng thêm tin tưởng vào cấp chỉ huy của mình, và đại đội lại càng lập nên
nhiều chiến công hiển hách hơn nữa.
Có một lần đại đội được bốc và thẩy vào mật khu của địch để phá hủy căn cứ của
một tiểu đoàn địch. Khi vừa chạm chân xuống đất thì anh có linh tính như là
mình đang trong tình thế cực kỳ lâm nguy vì tin tình báo đã không chính xác và
đại đội của anh đã bị phục kích bởi không phải một tiểu đoàn mà có lẽ quân số
và hỏa lực của địch phải là cấp trung đoàn.
Địch đã được lệnh từ Trung Ương để xoá sổ đại đội trinh sát ưu tú của trung
đoàn 7 này bởi vì tuy ở cấp đại đội nhưng với một chiến thuật hành quân chớp
nhoáng đã gây cho địch quân những tổn thất nặng nề và là cái gai mà chúng cần
phải nhổ.
Dù đang trong vạn phần hiểm nguy nhưng anh vẫn bình tĩnh chỉ huy các trung đội
liên lạc với nhau và tìm đường rút ra ngay khỏi mật khu. Những khẩu đại liên,
trung liên, súng cối và tiểu liên của địch thi nhau nã vào những người chiến sĩ
trinh sát đang thất thế nằm ép dưới các gốc cây. Anh bèn ra lệnh cho các trung
đội liều chết đột phá vòng vây và cho truyền tin thông báo ngay về sư đoàn xin
không quân và pháo binh yểm trợ.
Lúc đó mới thấy sự gan dạ, dũng cảm và thiện chiến của người lính trinh sát. Họ
vừa chạy băng băng ra khỏi khu rừng vừa bắn trả lại địch quân bất kể sống chết
trong khi pháo binh bắt đầu rót vào ngay sau lưng họ, và súng đủ loại của địch
thì đang nổ rát ngay bên tai.
Vừa ra thoát khỏi vòng vây của địch, anh bèn kiểm lại quân số thì rất mừng
trong bụng vì chỉ có bốn tử vong và khoảng một chục thương tích khá nặng nhưng
đồng đội đã di tản ra được vùng an toàn, thật như là một phép lạ vì anh ước
tính là tổn thất có thể hơn nửa đại đội sẽ phải nằm lại vĩnh viễn trong khu rừng
đó. Bản thân anh thì áo trận rách nhiều chỗ vì cây rừng và lỗ chỗ vết đạn nhưng
anh và cả bốn Thiếu Úy trung đội trưởng đều bình an.
Trong số bốn tử vong có một hạ sỹ cận vệ của anh và một người lính gốc Hoa tên
là Tý mà anh rất thương.
Khi về Sàigòn nghỉ phép ngắn hạn và áo còn vương bụi đường, anh đã cùng hai cận
vệ đến tận nhà từng người lính đã hy sinh trong trận phục kích để thăm viếng
gia đình và ủy lạo.
Gần căn cứ Lai Khê có một ngôi đền nên anh đã thu xếp để cùng với các sĩ quan đại
đội đến cúng cho những người lính anh hùng vừa nằm xuống.
Một hôm một chuyện thật lạ lùng xẩy ra khi anh đang trong doanh trại của đại đội.
Bất ngờ có hai lính gác cổng dẫn vào một lính trinh sát có vẻ như say rượu, anh
nhìn ra thì đó là binh nhất tên Sơn. Khi nhìn thấy anh thì Sơn phân bua:
-"Em
nói là cho em vào gập Trung Úy nhưng tụi gác cổng này không cho vào lại còn nói
là còn nói là mày say rượu vào gập ổng cho mấy củ bây giờ. Em có bảo cho tụi
nó biết là em không phải Sơn mà là thằng Tý."
-"Mày
ẩu vậy hả, ổng bây giờ là đại úy sao mày cứ kêu Trung Úy?"
Lấy làm lạ,
anh bèn ra lệnh cho mấy người lính buông Sơn ra để xem hắn nói chuyện gì.
Anh và
các lính gác cổng và cả mấy sĩ quan trinh sát đang ngồi trong văn phòng với anh
đều hết sức ngạc nhiên khi biết là Tý người lính đã hy sinh trong trận phục
kích đang nhập vào Sơn là tên bạn thân của hắn để về thăm vị chỉ huy của mình:
-"Trung Úy biết không, em vì vắn số nên ra đi hôm đó và rất cám ơn Trung
Úy đã đến nhà báo tin cho gia đình em ở Chợ Lớn. Em tên thật không phải là Tý
cho nên các thứ đồ ăn trái cây mà Trung Úy đem ra ngôi đền cúng cho em thì
không phải tên em nên em không nhận được và mấy ông trong đền ăn hết. Hôm nay,
em xin được một chút thời gian để đến đây cám ơn Trung Úy. Thôi! em phải đi
đây, cái ông Thần giữ cửa đang thúc em đi đây. Trung Úy nói mấy người này giữ
dùm cho em đi nhe."
Anh vốn theo đạo Phật và tin vào thuyết luân hồi nên anh tin là hồn của binh nhất
Tý đã nhập vào Sơn để vào đây. Anh bèn ra lệnh cho mấy lính gác mạnh khoẻ ghì
chặt lấy Sơn. Chỉ thấy thoáng một cái, mấy người lính như bị một sức mạnh nào
làm cho bật tung ra mấy phía, còn anh chàng Sơn thì như người vừa ngủ dậy và
đang ngơ ngác và sợ hãi không biết mình tội gì mà bị điệu lên văn phòng của đại
đội trưởng.
Sau Tết Mậu Thân thì anh được đặc cách lên nắm tiểu đoàn và tạm biệt những người
lính thân thương của trinh sát.
Năm một chín bẩy mươi, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) chính thức mở đợt tấn
công qua Căm Bốt để phá hủy các căn cứ hậu cần của VC và BV. Các căn cứ này nhận
được các vũ khí đạn dược, xăng dầu, v.v., là do đường tiếp tế của chúng từ
ngoài Bắc chạy qua bên Lào dọc theo đường mòn Trường Sơn kéo dài xuống tới Miên
để xâm nhập vào miền Nam.
Người Sàigòn bắt đầu làm quen với những địa danh Kratie, Kompong Cham trên báo
chí hàng ngày nhưng vẫn không đo lường được một cuộc chiến khốc liệt đang diễn
ra trên xứ Chùa Tháp.
Sư Đoàn 5 bộ binh trong đó có tiểu đoàn do Đại Úy Quang làm tiểu đoàn trưởng
cùng với các binh chủng ưu tú và các sư đoàn bạn hùng dũng tiến vào Campuchia -
nơi mà Cộng Sản đã lợi dụng sự trung lập của đất nước này làm căn cứ địa để tấn
công vào mạng sườn phía Tây của miền Nam.
Đây là một chiến dịch vĩ đại nhất để tận diệt VC và quân BV ngay trong hang ổ của
chúng bên Campuchia. Sư đoàn 5 Bộ Binh đã chiến đấu một cách oai hùng và tiểu
đoàn do Đại Úy Quang chỉ huy đã hành quân liên miên không ngừng nghỉ hàng tháng
trời cho đến kiệt sức. Có những người lính đã không còn cầm nổi cây súng và tiểu
đoàn trưởng nhiều lúc đã phải xách súng dùm cho binh lính của mình.
Phần thưởng xứng đáng nhất chính là thành quả rực rỡ của chiến dịch với các khu
hậu cần của địch bị phá hủy và san bằng; và ý định của địch nhằm tấn công vào
các tỉnh miền Nam đã bị đổ vỡ. Địch đã phải đợi đến hai năm sau thì chúng mới mở
được trận tấn công vào một quận lỵ nhỏ bé là An Lộc, tỉnh Bình Long.
Sau chiến thắng vang dội tại Campuchia, Đại Úy Quang được thăng lên Thiếu Tá. Tổng
Thống Thiệu đã nhiệt liệt khen ngợi tất cả những đơn vị đã tham gia vào chiến dịch
tại Campuchia.
Tổng Thống ban khen, trao tặng huy chương, và phần thưởng đặc biệt là một tuần
nghỉ phép tại Đài Loan cho các sĩ quan và binh sĩ ưu tú của chiến dịch.
Thiếu Tá Quang có tên trong những sĩ quan đó nhưng anh đã đề nghị lên cấp trên
dành vinh dự đó cho một binh lính trong tiểu đoàn đã lập được nhiều công trận
nhất trước sự ngạc nhiên và thán phục của cả tiểu đoàn.
Nhưng sự thử lửa được xem như một cuộc đại chiến thư hùng giữa ba sư đoàn BV và
Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã diễn ra
ngay tại An Lộc hai năm sau đó, một lần nữa đã đem lại vinh quang sáng chói cho
QLVNCH nói chung và Sư đoàn 5 BB trong đó có tiểu đoàn của Thiếu Tá Quang nói
riêng.
Thế giới thường nhắc đến trận Điện Biên Phủ với 55 ngày quân Pháp bị Việt Minh
bao vây và cuối cùng là sự đầu hàng của Pháp đưa đến việc đất nước bị chia cắt
ra làm hai, nhưng với An Lộc thì cường độ cuộc chiến còn ác liệt gấp nhiều lần
hơn trận Điện Biên.
Địch quân đã "hạ quyết tâm" để san bằng An Lộc bằng mọi giá rồi tiến
chiếm tỉnh Bình Long trên đường thẳng tấn công vào Sàigòn.
Chính vì thế mà trong gần 100 ngày - tức là gấp đôi thời gian của trận Điện
Biên - bao vây An Lộc, mỗi ngày địch quân pháo hàng chục ngàn quả vào các đơn vị
tử thủ của QLVNCH trong thị trấn An Lộc, một thị trấn nhỏ bé với chu vi mỗi chiều
khoảng một cây số.
Chúng vẫn
áp dụng chiến thuật cổ điển là "tiền pháo hậu xung" nhưng những đợt tấn
công của chúng đều bị đẩy lui và chúng bị thiệt hại nặng và tinh thần binh lính
của BV đã bắt đầu giao động trước sức kháng cự mãnh liệt của lực lượng tử thủ.
Để thực hiện cho được chỉ thị san bằng An Lộc và dâng chiến công lên cho quan
thầy Nga-Tầu Cộng, các binh lính BV đã buộc phải cố thủ trên các cây chung
quanh thị trấn và chân của họ đều bị xích vào thân cây để không chạy trốn được;
các pháo thủ thì bị xích vào trong xe tăng của họ; và bất kỳ bộ đội BV nào mà
tháo chạy thì sẽ bị chính cấp trên của họ "xử lý" ngay tại chỗ.
Những đợt pháo ngày đêm nã vào thị trấn ròng rã ba tháng trời đã hầu như san bằng
thị trấn và không còn một căn nhà nào cũng như không còn một ngọn cây nào đứng
vững nổi. Những người sống sót thẩy đều nằm sâu hay núp dưới giao thông hào hay
hầm trú ẩn.
Những giây phút nào mà địch quân im tiếng súng và ngưng pháo kích thì mọi người
đều cảm thấy một sự im lặng kỳ lạ khó tả.
Thiếu Tá Quang, một cố vấn Mỹ, 15 người lính Sư đoàn 5, và một con chó trú ẩn
trong một cái hầm kích thước không hơn 9 mét vuông. Sau này khi thoát chết trở
về, anh nghĩ rằng anh rất may mắn có lẽ nhờ vào sự linh thiêng của pho tượng Phật
ngọc thạch mà anh đã bỏ vào ba lô khi dân chúng trong vùng chạy trốn đạn pháo
kích đã bỏ rơi trên đường.
Thế nhưng
âm mưu xoá sổ An Lộc của địch quân đã thảm bại và chúng đã chuốc lấy thất bại
cay đắng khi các lực lượng tiếp viện của QLVNCH từ ngoài đánh chọc thủng vòng vây
của chúng và lực lượng tử thủ từ trong đánh chúng bật ra.
Tướng chỉ huy trận tử thủ An Lộc là Lê Văn Hưng và QLVNCH đã chiến thắng vẻ
vang, và một cô giáo đã viết ra hai câu thơ bất hủ: "An Lộc địa sử lưu chiến
tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân."
Trong suốt
ba tháng anh tôi tử thủ tại An Lộc, đêm nào Mẹ tôi cũng ra ban công khấn vái
hay đi lễ các Đền, Chùa cho anh tôi và các binh sĩ tử thủ được bình an.
Khi anh về đến Saìgòn người đầu tiên anh ôm chầm lấy là Mẹ: -"Mẹ ơi! con
đã trở về bình an".
Vì anh là con trưởng nên sau trận An Lộc Mẹ tôi quyết định là anh phải lập gia
đình dù cuộc đời tác chiến còn nhiều gian nguy.
Anh vâng lời Mẹ và kết hôn với một người con gái miệt vườn Lái Thiêu, người mà
sau chuyến lên căn cứ Lai Khê để tham dự buổi khao quân của đại đội trinh sát
đã đem lòng thương yêu người sĩ quan trẻ tuổi khóa 20 Võ Bị Đà Lạt ấy.
Sau trận An Lộc, anh vẫn tiếp tục nắm tiểu đoàn và theo đuổi con đường binh
nghiệp tác chiến của mình và lập nhiều chiến công hiển hách khác cho Sư Đoàn 5
Bộ Binh.
Đến ngày 30 tháng Tư năm một chín bẩy lăm khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng
thì anh mới tập trung tiểu đoàn lại và nói những người lính đã cùng anh vào
sinh ra tử hãy về quê để săn sóc gia đình.
Anh bị bắt sau đó và đưa đi tập trung "cải tạo" tám năm. Khi ra khỏi
trại giam, anh về quê sống với vợ con được ba năm thì ra đi một cách đột ngột
vì bệnh tai biến mạch máu não trong lúc đang ôm thằng con út trong giấc ngủ
trưa tại miệt vườn Lái Thiêu. Một giấc ngủ bình yên của một người trai đã hoàn
thành xong nhiệm vụ của mình khi đất nước miền Nam đang trong thời binh lửa.
Vợ con anh đều đã được qua Mỹ định cư, hiện nay người vợ sinh sống tại New
Hampshire, con gái lớn của anh là Thoa, một Đại Úy Không Quân Hoa Kỳ đang theo
học Doctor of Pharmacy tại Florida. Cháu gái thứ hai là Thảo, tốt nghiệp bằng
Master và đang làm việc tại San Francisco, cháu út là Thắng tốt nghiệp
Mechanical engineer tại New York.
Anh là một người con hiếu thảo, một người anh đạo đức, một người cha gương mẫu,
và là một thanh niên yêu quê hương đất nước mình và đã nghe theo tiếng gọi của
núi sông, cùng với các chàng trai khác trong miền Nam anh dũng đứng lên chống lại
cuộc xâm lăng tàn bạo của Cộng nô từ Bắc xâm nhập vào miền Nam.
Dù là miền Nam đã không may mất vào tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 và dù lịch sử
đã sang trang, nhưng những chiến công oai hùng của anh, của Sư Đoàn 5 BB, của
các đơn vị tinh nhuệ của các binh chủng của QLVNCH và của tất cả các dân quân
cán chính chế độ VNCH sẽ không bao giờ phai mờ trong lịch sử dân tộc.
Phạm G. Đại
Viết xong tại California nhân ngày giỗ anh Phạm Gia Quang,
Khoá 20 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
Đông Tàn
Xuân Lại Đến
Tùy Bút của
Phạm G. Đại
Những năm
tháng chúng ta còn ở trong nước tại Miền Nam thì chỉ có hai mùa mưa và nắng.
Mưa Sàigòn thì có lúc như trút nước hay như tại Miền Trung và Huế của miền sông
Hương núi Ngự thì dai dẳng có khi vài tuần lễ ngập cả đường phố. Sống tại
Sàigòn ngày xưa, Sàigòn, với cái tên mỹ miều là Hòn Ngọc Viễn Đông, có lẽ vì nằm
tại một vị thế thật là chiến lược và cũng thật là thơ mộng uốn mình bên bờ Thái
Bình Dương, thì chỉ cảm nhận được cái nóng cháy da và cái mưa ẩm ướt của miền đất
hai mùa mà thôi. Miền Bắc thì tuy chưa rõ hẳn bốn mùa nhưng khi mùa Thu đến thì
chúng ta đã thấy những tàng cây lá héo úa dần rồi từng đợt lá vàng lả tả rơi
bay bay trong gió và không khí bắt đầu se se lạnh.
Đó là mùa
mà những thi sĩ đã cho chúng ta biết bao nhiêu là những thi phẩm, những ca
khúc, những áng văn tuyệt tác mà nhạc sỹ Văn Cao cũng thừa nhận rằng mùa Thu
chính là mùa gây cho ông nhiều cảm xúc nhất để viết nên những bản tình ca bất hủ
như Thiên Thai, Suối Mơ.
Thu qua
thì Đông tới, và dù rằng chưa phải nằm trong vùng ôn đới nhưng cái lạnh căm căm
của Miền Bắc cũng đủ làm cho chúng ta phải co ro trong những cơn mưa phùn gió bấc
làm chúng ta nhớ lại Tự lực Văn Đoàn với những nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam nói lên những cảnh đời nghèo khó tại Miền Bắc dưới thời Pháp thuộc nhưng
con người vẫn biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau và tình yêu như những vì sao
sáng trong "Gánh Hàng Hoa", "Anh Phải Sống", với hình ảnh sống
động của hai chị em đi nhặt lá bàng rơi trong giá rét mà vẫn "Lạy Trời cho
gió nổi lên" thật khó mà phai mờ trong ký ức của tôi ngày còn bé.
Khi đặt chân lên miền nắng ấm của California trong chương trình định cư cho các
gia đình tỵ nạn, và nhìn về những cảnh tuyết rơi phủ một lớp dầy lên cây cối và
thành phố ngập mình trong giông bão của những tiểu bang miền Đông Hoa Kỳ, tôi mới
thấy được cái sức sống vô cùng mãnh liệt của dân tộc Việt Nam vươn lên trên những
khắc nghiệt của thời tiết, thiên tai và sự bần hàn mà chiến tranh suốt nhiều thập
niên đã gây ra trên quê hương mình.
Dù đã trải qua bao nhiêu là mùa Đông trên vùng đất tạm dung này và những mùa
Đông trong cuộc đời nhưng tôi vẫn không sao quên được hai mùa Đông đáng ghi nhớ
nhất trong đời.
Đó là mùa Đông sau cùng trong trại tập trung cải tạo vào năm một chín chín mốt
và những người tù cuối cùng vẫn chưa biết rằng qua Xuân thì họ sẽ được thả ra về.
Nhịp độ lao động vẫn căng thẳng và một hôm chúng tôi được lệnh ngày mai sẽ đi
khai quang một vùng đồi núi vẫn còn đầy bom mìn cách trại không xa.
Tối hôm đó nhiều người thao thức vì nghĩ đến ngày mai không biết sẽ ra sao?
Không lẽ ở tù đã mười sáu năm rồi mà chết một cách âm thầm và lặng lẽ như vậy;
hay "Anh sẽ trở về trên đôi nạng gỗ"?
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi quyết định báo cho tay trật tự để anh ta báo lại
cho trực trại là chúng tôi không đi lao động nếu lên ngọn đồi còn bom mìn đó. Nửa
tiếng đồng hồ chờ đợi mà thấy dài như một ngày vì không biết tụi nó sẽ "xử
lý" mình ra sao?
Thế rồi Trời nhủ lòng thương những con người đã quá nhiều khổ đau này và một đội
tù hình sự trẻ đã được điều động để thay thế cho đội tù chính trị và chúng tôi
lại vác cuốc đi cầy ở một khu rừng thưa gần ven lộ.
Trong giờ "giải lao", anh Dậu, Trung tá Biệt Động Quân, và là một người
bạn thân mà tôi coi như một người anh, đã hứng chí rủ tôi lẻn ra ngoài lộ kiếm
tiệm cà phê ngắm thiên hạ xem sao. Từ chỗ đứng cuốc đất, tôi đã nhìn thấy cái
tiệm cà phê đó rồi nên bảo với một tên bạn thân khác là tôi và anh Dậu vào rừng
đi vệ sinh, rồi biến lẹ xuống chân đồi và ung dung vào quán mua hai ly cà phê
ngồi nhâm nhi, nghe nhạc Trịnh Công Sơn và những bản nhạc xưa mà lòng mình như
lắng đọng lại. Saigòn giờ này em ở đâu, những con đường năm xưa Nguyễn Huệ, Lê
Lợi, dạo phố Bô Na xe pháo dập dìu ngày xưa nay đâu rồi?
Hai anh em như trong một thoáng giây quên đi những nỗi nhọc nhằn của đời người
và nhanh chóng trả tiền cô hàng cà phê và leo lên dốc để nhập vào đội. Vẫn chưa
ai "phát hiện"được gì. Có lẽ ông Thần may mắn đang ở phía chúng tôi.
Mùa Đông thứ hai ghi sâu kỷ niệm trong tôi là năm đầu tiên khi tôi được thả về
Sàigòn năm sau đó. Lúc đó vào tháng Mười âm lịch, tôi lên chùa Thới Hòa trên đường
Quang Trung thuộc quận Gò Vấp, SàiGòn, vừa để thăm thầy của tôi là Hòa Thượng
trụ trì và cũng để theo đoàn xe đò xuôi về Châu Đốc trong một chuyến hành hương
ba ngày. Thầy Tâm cũng đi trong chuyến đó để hướng dẫn, và khi đến địa phận tỉnh
Châu Đốc thì thấy bất cứ một ngôi chùa nào cũng đều ghé vào lễ Phật và gom tiền
lại ít nhiều để cúng dường. Thầy nói rằng chuyến đi này công đức nhiều lắm và mọi
người hầu như quên cả mỏi mêt.
Tôi nhớ có một ngôi chùa hình như Thiên Vân Tự thật là lạ lùng bởi vì từ dưới
chân núi bắt đầu leo lên những bực thang đá, cứ một trăm bực thang lại có một
gian nhà nhỏ có băng đá để nghỉ chân.
Tôi không nhớ là đã qua được bao nhiêu gian nhà nhỏ như vậy thì bắt đầu thấy
mình đang đi xuyên qua những vùng mây trắng và chung quanh mình là những núi đồi
và mây mù và nghe thoang thoảng tiếng chim hót văng vẳng đâu đây.
Con đường với hàng mấy ngàn bực thang bằng đá trắng cứ dẫn chúng tôi leo mãi; hỏi
ra mới biết con đường này được gọi là...đường lên Trời.
Thế rồi Thầy ra hiệu cho mọi người dừng lại và chỉ con suối trong vắt đang chảy
róc rách lượn quanh những bực thang và nói rằng đây là Suối Tẩy Trần.
Tương truyền rằng những ai lên được tới đây cũng như đã lên được tiên cảnh và rửa
mặt và hai bàn tay tại đây thì sẽ gột rửa được bụi hồng trần. Mỗi bực thang đá
đều được tạc rộng vừa đủ cho hai người cùng sánh bước và có lan can hai bên để
vịn tay đã nói lên bao nhiêu là công phu của vị sư nào đã trụ trì ngôi chùa ở đỉnh
núi quanh năm mây mù bao phủ tuốt trên kia. Vì Trời đã ngả bóng chiều cho nên
Thầy bảo mọi người nghỉ ngơi tại lưng chừng núi để chuẩn bị leo xuống và về thị
xã Châu Đốc.
Tôi cứ tiếc mãi là đã không lên được đến đỉnh núi để vào chùa lễ Phật và tham
kiến vị sư trụ trì. Có lẽ nhân duyên chỉ đến đó mà thôi. Tuy nhiên tôi cũng rất
lấy làm khoan khoái trong lòng vì đã được rửa mặt và hai bàn tay nơi con suối
trong vắt đượm mầu linh thiêng ấy.
Trong chuyến hành hương năm đó, tôi có cơ duyên được đến lễ bái tại Đền Bà Chúa
Xứ Thánh Mẫu, núi Sam, Châu Đốc; và tận mắt nhìn thấy tượng của Bà được tạc bằng
đá xanh mà những đệ tử của Bà mỗi năm từ Sàigòn xuống cầu xin đều nói rằng tượng
của Bà mỗi năm mỗi lớn ra. Buổi tối hôm đó chúng tôi được xe đò chở đến chùa
Châu Viên để cư ngụ. Sư Ông là thầy của Thầy Tâm là vị sư trụ trì trước kia tại
chùa Châu Viên nửa thế kỷ trước và sau đó đã bị Việt Minh sát hại.
Sau cơn mưa thì Trời lại sáng hay sau những ngày ảm đạm của mùa Đông thì cây cối
lại đâm chồi nẩy lộc và mùa Xuân lại mang đến những luồng gió trong lành.
Cuộc đời con người ta cũng vậy đều xoay vần theo Tạo Hóa. Thu qua, Đông tàn,
Xuân lại tới. Qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai hay cùng thì tất biến mà biến thì
tất thông.
Cuộc đời
tôi cũng giống như hàng ngàn cuộc đời trôi nổi của người trai đất Việt. Lìa xa
nơi chôn nhau cắt rốn năm một chín năm tư để di cư vào miền Nam, rồi rời bỏ
Sàigòn bao nhiêu là năm lúc tuổi còn xanh để vào chốn tăm tối.
Khi trở lại
Sàigòn thì trên đầu tóc đã hai mầu. Rồi mùa Xuân đã trở về với những người con
đất Việt khi đặt chân được lên vùng đất hồi sinh này và bầu trời Tự Do đã rộng
mở trước mắt họ.
Sáng nay
tôi thức dậy rất sớm, có lẽ vì nghe tiếng chim hót líu lo trên cành bên ngoài cửa
sổ. Những con chim này đã vắng bóng rất lâu trong mùa Đông, có thể nó đã bay về
vùng ấm áp hơn tương tự như những bầy chim Én của ngôi Nhà Thờ tại
San Juan Capistrano mà bài bát cùng tên tôi đã một thời yêu thích qua giọng ca
trầm ấm của Pat Boone. ..."When the swallows come back to Capistrano, it’s
the time I pray that you come back to me…"
Bây giờ chúng những con chim Én đó đã trở lại bên ngoài song cửa nhà
tôi như nhắc nhở mọi người rằng mùa Xuân đến rồi đó và hãy thương yêu nhau đi
khi mùa Đông giá lạnh đang tan dần.
Viết xong cuối mùa Đông tại California
Phạm G. Đại
Đông Y
- Tây Y
Đông Y
thì đã có tự lâu đời rồi trên đất nước Việt Nam chúng ta, còn Tây Y mới manh
nha vào giữa thế kỷ thứ mười chín khi năm một chín năm tám tầu chiến của Thực
Dân Pháp ghé vào khu vực cảng Đà Nẵng mở màn cho việc xâm chiếm Việt Nam làm
thuộc địa.
Từ đó Tây
Y đã đem lại nhiều điều vừa mới mẻ vừa kỳ diệu trong việc chữa trị cho
chúng ta và một số căn bệnh trước kia cho là nan y như Lao, Phong, Cổ, Lại,
v.v. vào thời đại của chúng ta đã không còn là nan y nữa.
Ông cụ
thân sinh ra tôi theo Tây học và rất ưa chuộng nền văn minh Pháp quốc và đọc
toàn là sách báo và dùng hàng hóa của Pháp, cái gì cũng "còm măng" từ
Tây về, và xây cái nhà mới cũng theo kiểu tây phương. Vào thời gian đầu thập
niên năm mươi thì đó là cả một sự mới mẻ và tân tiến.
Ông Nội tội
lại là một ông nhà nho, một thầy thuốc Đông Y suốt bốn mùa lúc nào cũng khăn
đóng áo dài và đi đâu thì tay cũng vung vẩy cây dù, nắng hay mưa cũng vậy. Tôi
rất thích mỗi khi được ông cõng trên vai đến cửa hiệu thuốc Đông y của ông trên
phố Cầu Đất để nghe ông giã thuốc tiếng kêu leng keng hay được ăn những quả ô
mai thật là ngon hay ngậm những miếng cam thảo thật là ngọt.
Tôi yêu
thương Bố tôi từ khi còn nhỏ một phần vì kính phục sự học cao hiểu rộng của
ông, một phần vì nhờ Bố tôi mà tôi và các anh trai của tôi đã được sự giáo dục
mới theo Tây phương và được đi học tại trường Saint Joseph, một trường đạo và
tư thục nổi tiếng tại Hải Phòng.
Bố tôi
thường dậy cho chúng tôi những điều thường thức hàng ngày như trước khi ăn thì
phải rửa tay sà phòng và trước khi đi ngủ thì phải rửa mặt và tay chân mà tôi vẫn
còn ghi nhớ đến bây giờ.
Ông Nội
tôi thì ngược lại, cụ chống đối kịch liệt việc Mẹ tôi thường cho chúng tôi tắm
rửa hàng ngày và cho rằng tắm nhiều là mang bệnh vào người, bởi thế Mẹ tôi gọi
ông là Xuân Thu nhị kỳ mới tắm một lần.
Chúng tôi
gọi ông Nội là Ông Nghị vì ông có một thời đã làm nghị viên thành phố nhưng ông
đã làm cho tôi rất là ngạc nhiên về sự sáng chế thần kỳ của ông về các loại đồ
chơi trẻ em. Tôi vẫn chưa hiểu làm sao mà ông đã đúc được những thằng lính vác
súng bằng thiếc, những xe jeep có bánh xe đẩy thì chạy được, toa xe lửa chạy
trên đường ray, chiếc tầu thủy bằng sắt chạy được trên chậu nước nếu gắn một miếng
sà phòng nhỏ dưới đáy tầu, và cái lồng đèn kéo quân cho rằm tháng Tám Trung Thu
thì tuyệt đẹp mỗi khi thắp một ngọn nến bên trong thì nó từ từ quay và hiện lên
hình những kiệu, những võng, những quân lính chay vòng vòng thật là vui.
Ông Nội
tôi có bốn anh em, Ông là anh cả, kế đến là ông Đốc. Gọi là ông Đốc vì ông là
bác sỹ, lúc đó vào thập niên bốn mươi số lượng bác sỹ còn rất là ít ỏi. Hai anh
em, anh thì Đông Y còn em lại là Tây Y, nhưng với cả hai ông, tôi đều đem lòng
kính trọng vì cả hai ông đều giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của mình và đều có
lòng nhân ái, là điều cần thiết nhất của những người trong ngành Y.
Ông Đốc
vì cuộc hôn nhân không được như ý, đã xin chuyển về làm việc ở mạn ngược trong
tỉnh Yên Bái trong lúc cuộc chiến tranh Nhật Pháp đang diễn ra trên đất nước Việt
Nam. Trong thời gian này, ông mở thêm phòng mạch tại nhà và khám bệnh miễn phí
cho rất nhiều người thuộc dân tộc thiểu số như người Nùng, Mường, Tày, Thái, Thổ,
vì họ quá nghèo; và những bệnh nhân này thường đem biếu ông, ân nhân của họ, những
con gà và những thứ hoa mầu mà họ trồng được. Tiếng lành đồn xa cho nên dân
chúng ở những vùng xa xôi cũng lục tục kéo đến nhờ ông chữa bệnh rất nhiều.
Trong số những gia đình bệnh nhân này có một cô con gái rất là duyên dáng và lịch
lãm người dân tộc Thổ mà sau này đã xe duyên kết tóc với ông và thành bà
Đốc. Một cuộc tình thật đẹp và lãng mạn lồng trong khung cảnh chiến tranh tàn
khốc bom đạn khắp nơi của miền thượng du Bắc Việt.
Cuộc đời
của ông Đốc có rất nhiều kỳ tích nhưng câu chuyện mà tôi nhớ nhiều nhất là về một
anh bệnh nhân người dân tộc Mường.
Anh bệnh
nhân Kra Tưng người dân tộc Mường này đã bị lao phổi qua thời kỳ thứ ba, cho
nên sau một thời gian điều trị ông Đốc đã bảo anh nên về quê an dưỡng để có thể
chết tại quê nhà của anh, vì ông biết là không thể chữa được nữa rồi.
Thế rồi
khoảng gần một năm sau, anh chàng Kra Tưng này đột ngột xuất hiện khỏe mạnh và
đem một số quà cáp đến phòng mạch để biếu ông Đốc ân nhân của anh ta. Ông rất
là ngạc nhiên bèn gọi anh vào để khám bệnh lại và cho chụp quang tuyến thì lạ
lùng thay hai lá phổi của anh Kra Tưng này như mọc ra hai lá phổi mới và không
còn một dấu vết gì của bệnh lao phổi năm trước. Ông gạn hỏi mãi thì anh ta mới
nói thực là khi về quê để nằm chờ chết thì có một người bạn thân hành nghề Đông
Y đến thăm thấy vậy mới bảo anh chờ một chút rồi vào rừng hái một nắm lá, sắc
lên cho anh uống. Anh cứ uống ngày này qua ngày kia và càng uống thì thấy trong
người càng khỏe ra và da dẻ bắt đầu hồng hào trở lại. Một hôm người bạn đến
thăm và bảo cho anh biết là anh đã hoàn toàn bình phục và có thể ngưng uống loại
thuốc này; anh sực nhớ đến ông Đốc là an nhân của anh nên chuẩn bị quà cáp và
áo quần tươm tất để ghé thăm ông bác sỹ.
Ông có hỏi
anh đó là loại lá gì và tên mà người dân tộc gọi nó là gì thì anh không biết.
Ông rất là mừng rỡ vì anh đã khỏi một căn bệnh nan y thật lạ kỳ và bảo anh cố gắng
trở về tìm người bạn đó và xin ít lá cho ông để có thể cứu giúp nhiều bệnh nhân
khác sau này.
Nhưng ông
chờ mãi và anh Kra Tưng không bao giờ trở lại.
Ông Nội
tôi thì thường hay chữa bệnh cho chúng tôi những khi đau ốm, nhất là những bệnh
cảm thử, cảm hàn, lên đậu mùa, hay sởi thì ông trị rất là hay, hơn cả là thuốc
tây nữa. Ông nói rằng phải dùng thuốc ta thì mới trục được hết cái gốc của bệnh
cảm và sởi hay đậu mùa chứ thuốc tây không làm được. Nếu không trục được hết nó
ra thì sau này có thể gây ra những biến chứng không tốt.
Anh thứ hai
của tôi trong thời gian chiến tranh Nhật Pháp, có thể vì gia đình Ba mẹ tôi cứ
phải tản cư liên miên để tránh bom đạn cả hai phía cho nên thiếu dinh dưỡng và
bị bệnh cam tẩu mã. Tôi chẳng biết là bệnh gì nhưng hai hàm răng của anh đều bị
lung lay và ông nói nếu không chữa thì sẽ không còn chiếc răng nào nữa. Chỉ thấy
ông hòa chế ra một thứ thuốc gì hơi đặc như cao rồi đắp vào hai hàm răng cho
anh tôi; và chỉ vài ngày sau thì anh tôi lại ăn uống được như thường, thật là lạ
lùng.
Gia đình
họ Phạm của tôi, hay nói đúng hơn là của ông Nội tôi, có một thứ thuốc gia truyền
hiệu quả như thần là cao dán. Cũng ông anh thứ hai của tôi một hôm chạy chơi
trong vùng tản cư thì bị ngã và một chiếc đinh sắt rỉ đâm vào dưới đầu gối sau
đó bị mưng mủ và ăn sâu vào bên trong.
Thuốc tây
thời đó rất là khan hiếm nên ông Nội lại đưa cho thứ cao gia truyền này và sau
khi lấy sạch các mủ ra thì trét cao đầy vào và kỳ lạ thay chỗ bị thương đó thịt
cứ dần dần đùn lên và anh tôi lại chạy chơi bình thường.
Họ hàng
xa gần đều xin mỗi nhà một hũ cao này để dành vì trong thời gian tản cư rất nhiều
người bị bệnh lở tay chân, hay bị căn bệnh ghê gớm là sâu quảng rất đau đớn vì
nó cứ ăn sâu vào trong tay chân hay thân người mình. Cao này đều trị sạch hết
những bệnh đó và công dụng đúng là như thần.
Sau này
khi di cư vào Nam và khi gia đình đang sống tại Nha Trang, lúc đó tôi đang học
lớp Nhất trường Nam thì Ba tôi quyết định nấu một nồi cao này.
Tôi chỉ
biết rằng nguyên liệu chính là tóc và sáp và một số món thuốc ta và khi nấu thì
nó tỏa ra một mùi khét không thể chịu nổi. Không ngờ đó là nồi cao cuối cùng vì
sau khi Ba tôi mất thì Mẹ tôi quá bận rộn buôn bán trả nợ nần và tụi tôi còn
quá nhỏ không để ý nữa cho nên toa thuốc cao gia truyền này đã bị thất lạc khi
gia đình di chuyển vào Sàigòn.
Trong thời
gian lưu đầy tại các trại giam miền Bắc tôi có duyên gặp được hai người thầy
thuốc và châm cứu người Tầu thật là giỏi. Cả hai đều bị bắt tại vùng biên giới
Việt - Trung vì nghi tội làm gián điệp. Một phần cũng nhờ ông Tướng Lê Văn
Thân, người đã được ông thầy Tầu truyền lại nghề châm cứu. Khi tiếp xúc với hai
ông thầy Tầu này thì thấy họ rất là hòa nhã và tỏ ra rất là có thiện cảm với
anh em tù chính trị tụi tôi và tôi lại nhận ra được một điều cụ thể là người
dân Việt cũng như dân Trung Hoa cũng đều là nạn nhân của một chế độ Cộng Sản vô
nhân đạo mà thôi chứ bản thân họ cũng là con người có tình cảm và lương tri.
Qua Tướng
Thân chúng tôi bí mật tổ chức một cuộc khám, chẩn, và chữa bệnh cho các anh em
tù nhân chính trị tại một buồng giam và mời hai ông thầy Tầu này qua. Trước
kia, nói thật tôi cũng không tin tưởng lắm vào việc chẩn mạch hay châm cứu dù
là ông Nội tôi là thầy thuốc rất giỏi nhưng sau buổi khám chữa bệnh này quan niệm
của tôi đã hoàn toàn thay đổi vì không tin vào chính mắt của mình nữa.
Hai ông,
một trẻ khoảng chừng ba mươi tuổi chuyên về chẩn mạch và kê toa thuốc tụi tôi gọi
là ông Sinh, một ông khoảng gần sáu mươi nhưng vẫn còn rất khỏe mạnh gọi là ông
Wong chuyên về châm cứu và là thông ngôn luôn cho ông trẻ vì ông này chỉ nói được
tiếng Tầu.
Lần lượt
các bạn tôi từng người một được bắt mạch và những ai cần được chữa trị thì đứng
qua một bên để chờ châm cứu. Ông Sinh chỉ cần bắt mạch và đôi khi cần thiết mới
khám cổ họng và nói từng căn bệnh trong người của từng người một. Tụi tôi ai cũng
thầm phục cái tài bắt mạch của ông. Anh Lạc bạn tôi, Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt,
nói nhỏ vào tai tôi là anh sẽ vào khám bệnh dù là chẳng có bệnh gì hết và nếu
cha này mà nói anh có bệnh gì là ba xạo. Thế rồi khi đi ra anh chàng Lạc này hết
sức ngạc nhiên và nói với tôi rằng hắn giỏi thật và bảo anh ráng giữ sức khỏe
chứ không có bệnh tật gì hết. Anh Hiểu, người về từ tầu Việt Nam Thương Tín thì
bị trĩ khá nặng nhưng không rõ ông Sinh có chẩn bệnh được không? Tôi đứng bên cạnh
Hiểu thì thấy sau khi bắt mạch xong, khám cổ họng xong thì ông Sinh có vẻ bối rối
nói một tràng tiếng Tầu, ông Wong cũng không thông ngôn được cho nên xin một miếng
giấy và ông Sinh khi vẽ xong căn bệnh của Hoàng Hiểu thì ai cũng cười ồ
lên.
Ông Wong
nói là không chữa hết được nhưng sẽ thuyên giảm nhiều bằng châm cứu cho anh Hiểu
và ông lấy ra một cái kim bằng bạc lể dọc hai bên lưng rồi lấy ra những sợi
trăng trắng giống như sợi chỉ bọc mỡ đặc.
Quả thật
sau đó anh Hiểu bớt hẳn căn bệnh trĩ đã từng gây cho anh bao nhiêu là đau khổ.
Anh Bửu Uy thì bao tử đau kinh niên và ông Wong nói sẽ nâng bao tử lên một chút
thì sẽ đỡ nhiều vì không có thuốc uống. Ngay trước mắt tôi, ông dùng hai
cây kim bạc dài khoảng mười lăm centimet và thọc chéo và ngập sâu
vào bụng anh Uy; sau đó bệnh bao tử của anh Uy thuyên giảm thấy rõ. Ông mục sư
Lộc không tin và ông Wong nói là với châm cứu có thể làm cho nhãn lực mình sáng
lên hay mờ đi, ông Lộc xung phong làm thí nghiệm. Chỉ thấy ông Wong ấn chiếc
kim bạc vào một huyệt đạo sau vành tai trái rồi xoay nó qua bên trái thì ngay tức
khắc mắt bên trái của ông Lộc mờ đi và xoay về bên phải thì lại sáng rõ trở lại.
Ông Lộc đi ra khỏi phòng còn ngoái lại nói với tôi là cái ông châm cứu này
nó quả là giỏi thật.
Thấy ông
tướng Thân có vẻ say mê môn châm cứu cho nên ông Wong đã truyền nghề lại cho
ông Thân nhưng không rõ ông tướng Thân đã học được bao nhiêu phần cho đến ngày
chúng tôi phải chuyển trại.
Cho đến
bây giờ tôi vẫn tin rằng ông Trời sinh ra bao nhiêu là căn bệnh thì đều có các
loại thuốc để chữa hết chỉ có điều là chúng ta không biết mà thôi. Các phương
thuốc ấy có thể nằm ngay trong các loài thảo mộc, các loại rễ cây, trái cây
trong thiên nhiên ở trong rừng hay ngay trước mắt trong vườn nhà mình.
Chỉ tiếc
một điều là con người đầu tư quá nhiều vào chiến tranh để tàn phá lẫn nhau và
tàn phá môi trường sống của họ.
Nếu trí
tuệ con người và tài nguyên của các quốc gia trên thế giới được sử dụng vào
nghiên cứu và khảo cứu khoa học và y tế để chữa trị các bệnh tật và giúp tăng
cường tuổi thọ và sức khỏe cho con người thì không căn bệnh gì mà chúng ta
không chữa trị được và thế giới này sẽ là một Thiên Đàng thu nhỏ lại.
Cơn Gió
Heo May
Lời Tác
Giả: Nhân kỷ niệm ngày 30 tháng Tư năm nay, Cơn Gió Heo May sẽ đưa chúng ta trở
lại một nhà tù nổi tiếng tại miền Bắc - trại Ba Sao Nam Hà - và một mối tình nhẹ
như làn gió thoảng trong một buổi chiều cuối Thu; cùng với sự đổi thay mầu nhiệm
về cách đối xử của dân chúng miền Bắc với các tù nhân chính trị chế độ cũ.
Lúc còn
sinh sống tại miền Nam nhất là tại Sàigòn thì ít khi nào chúng ta thấy được cái
khí hậu mát lạnh của mùa Thu hay cái giá rét của mùa Đông bởi Sàigòn chỉ có hai
mùa mưa nắng.
Những khi nào có dịp lên Đà Lạt thì chúng ta mới hưởng được cái không khí mát mẻ
của xứ sương mù, tuy nhiên gió heo may hay nắng hanh vàng của những chiều cuối
Thu vẫn còn là một thực tế xa lạ đối với người Sàigòn và người dân miền Nam.
Phải chờ một năm sau khi Sàigòn đã sụp đổ thì chúng tôi mới biết được những gì
mà trước đây chỉ đọc trong tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn về cái nóng đến kinh
người của mùa Hè và cái giá lạnh đến hãi hùng của mùa Đông miền Bắc.
Bên cạnh cái mùa Thu thật đẹp thật thơ mộng như trong tranh vẽ với lá vàng rơi
rơi lác đác, là hình ảnh mờ ảo của ngọn gió heo may hiu hiu thổi cho lá vàng
bay bay trong một vùng không gian một mầu xám với những tia nắng yếu ớt còn sót
lại trên những ngọn cây.
Đối với các nhạc sỹ, các nhà văn và thi sĩ thì đó là chất liệu cho nguồn cảm hứng
để sáng tác, nhưng với những người tù thì đó là lúc mà tâm hồn họ như khép lại
và chợt quay về với quá khứ, một quá khứ êm đềm yêu dấu và sâu kín của một
Sàigòn nay đã không còn nữa. Một mùa Thu, tôi cũng không còn nhớ chính xác là
năm nào, chỉ còn nhớ vào khoảng năm thứ mười một trên vùng đất Bắc lưu đầy tại
trại Ba Sao Nam Hà - mà một cơn gió heo may như một lá cây sắc cạnh đã cứa vào
lòng tôi một kỷ niệm khó phai mờ.
Lúc đó tôi được đưa về đội văn nghệ cũng toàn là anh em tù nhân chính trị chế độ
cũ để làm những công tác tạp dịch cho trại.
Kể ra thì cũng được một chút an nhàn và lao động cũng bớt căng thẳng hơn các đội
khác. Lao động thì chẳng thiếu thứ gì, từ khuân vác dọn dẹp các kho hàng, làm sạch
cỏ và trang trí cho doanh trại, hay cân đo đong đếm các bao bột mì, xong việc
thì mặt mũi tên nào cũng phủ đầy bột trắng xoá như Tây.
Nhưng hai việc mang nhiều ý nghĩa nhất vẫn là đi an táng các anh em đã nằm xuống
và ra Phủ Lý lãnh các gói bưu phẩm mà gia đình từ trong Nam gửi ra, những gói
bưu phẩm với thuốc men vật dụng thực phẩm khô là nguồn tiếp tế của gia đình đã
cứu sống nhiều mạng người.
Về nghĩa vụ an táng thì những tù nhân hình sự họ tự lo về phía của họ, chúng
tôi chỉ có bổn phận với những anh em tù chính trị chế độ cũ mà thôi.
Mỗi lần như thế thì phía hình sự họ giúp cho việc khuân vác và chúng tôi chỉ
mang các cuốc chim để bửa đá và xẻng để xúc đất, và đi theo họ với hai cán bộ của
trại hướng dẫn vào trong thung - là vùng đồi và đất bằng có thể trồng trọt được
và bao quanh bởi các dẫy núi cao - để đào đất chôn cất trên ngọn đồi nghĩa
trang của trại là xong.
Những nấm mồ tuy đơn sơ nhưng được đắp cao và vun rất kỹ vì sợ bò hay thú rừng
ra đào bới. Mỗi lầ xong việc, chúng tôi đều kín đáo cầu nguyện cho các bạn mình
đã nằm xuống bây giờ được an giấc nghìn thu, các bạn sẽ không còn bị đầy ải về
cả thể xác lẫn tinh thần, mỗi sáng sẽ không còn phải nghe tiếng kẻng trại đánh
thức dậy cho một ngày lao động mới "vinh quang", và sẽ không còn phải
kéo dài lê thê cuộc sống tù tội không biết đến bao giờ.
Các bạn đã trả xong cái nợ với Tổ Quốc khi mà đất nước miền Nam đã tiêu tan và
đang chìm đắm trong đau thương.
Có một lần khi đang cuốc đất lên trên ngọn đồi đó thì tôi đã trông thấy một cảnh
tượng nói lên sức phi thường của con người.
Tụi tôi đều dừng tay cuốc tay xẻng lại và nhìn sang ngọn núi bên cạnh. Phải gọi
là ngọn núi mới đúng vì nó cao ước chừng cũng hơn năm trăm thước và dốc thoai
thoải, trên ngọn núi đó một bóng người nhỏ như một cây kim nhưng chúng tôi nhận
ra được là một người phụ nữ chít khăn mỏ quạ trong chiếc áo dài mầu sậm và đang
gồng gánh một gánh hàng gì đó leo dốc từ bên kia quả núi và từ từ hiện lên ở đỉnh
núi nổi bật trên nền trời xanh thẳm và từ từ gánh gánh hàng đó xuống núi phía
bên này có lẽ trên đường ra chợ.
Tôi thật là khâm phục người phụ nữ đó, vì với chúng tôi dù chỉ đi hai tay không
cũng chưa chắc đã leo nổi cái dốc núi bên kia để lại leo xuống cái dốc bên này
trên một ngọn núi cao như vậy.
Một lúc sau thì bóng người phụ nữ đó từ từ biến mất sau rừng cây trên dốc núi một
cách âm thầm nhưng đã để lại trong tôi một cảm nghĩ phi thường về sức chịu đựng
dẻo dai và tài giỏi của con người mà đó lại là một người chân yếu tay mềm để vượt
qua trở ngại của thiên nhiên.
Sau này
thì tôi mới biết là mình lầm to vì trong cái xã hội chủ nghĩa luôn hô to khẩu
hiệu tại mọi nơi ở miền Bắc để đề cao người phụ nữ thì chính là cái xã hội mà
người đàn bà đã phải gồng gánh những công việc cực nhọc nhất thay cho đàn ông
trong mọi ngành nghề. Người phụ nữ miền Bắc đã được rèn luyện từ lâu rồi để chu
toàn công việc "Ba Đảm Đang" nghĩa là ôm lấy hết các việc nhà và việc
ngoài đời để cho Đảng và Nhà Nước trưng thu hết các phái đàn ông và thanh niên
rồi gửi họ vào miền Nam "giải phóng" và "chống Mỹ cứu nước".
Nhìn hình ảnh người phụ nữ vượt núi đó, câu ca dao ngày xưa - "đường đi
không khó vì ngăn sông cách núi" - quả là đúng.
Trong những năm cuối còn ở tại trại Ba Sao, một điều may mắn là sự đối xử của
trại và khu gia binh của họ với anh em chúng tôi cũng đã hoàn toàn khác hẳn,
không còn nhìn nhau hằn học như quân thù nữa như lúc mới ra miền Bắc, mà rất
thông cảm và còn đôi phần kính trọng.
Tất cả đều do chúng tôi đã nhận oán mà trả lại ơn bằng cách cứu giúp thuốc men
khi con cái họ đau ốm, cho họ ít tiền hay quà cáp trên đường về quê nghỉ phép.
Những lúc họ rảnh rỗi thường hay thích vào trong trại chơi hút điếu thuốc lào
ba số tám của miền Nam, uống ly cà phê hay chung trà móc câu là loại trà nụ và
tâm sự đủ chuyện gia đình, cơ quan cho chúng tôi nghe; và thường cười nói rằng
ra khỏi cổng trại này là họ phải kín đáo không dám truyện trò như trong này
đâu.
Có những lần lao động gần khu vực nhà bếp của cơ quan, tôi rất ngạc nhiên khi
có nhiều chị nuôi trong bếp kể cả vài cán bộ nữ thường hay ra hỏi thăm xem
chúng tôi lao động có mệt không và tỏ vẻ thương cảm.
Có những cán binh nói rằng buổi sáng họ không có khẩu phần ăn như các cấp trên
của họ và bụng đói nhưng vẫn gánh được hàng trăm gánh nước và nhìn cấp trên của
họ đang đứng trong mát ăn quả chuối với cặp mắt hận thù.
Từ đó tôi lại càng thấy rõ hơn là dân chúng và các cấp dưới cũng chỉ là nạn
nhân của một bộ máy tuyên truyền không lồ của Đảng và Nhà Nước họ mà thôi.
Trại Ba Sao Nam Hà nằm sâu vào bên trong những vùng núi non trùng điệp của dẫy
núi đá vôi và chỉ liên lạc với thế giới bên ngoài bằng một con đường đất đá độc
đạo chạy ngoằn ngoèo bọc quanh chân núi ra tới thị xã Phủ Lý.
Con đường này đi ngang qua khu thăm nuôi, qua những khu gia binh và một ít nhà
dân còn toàn là cảnh đường mòn và núi rừng.
Có những chỗ nó xuống dốc rất nguy hiểm và những nơi leo dốc tới bốn mươi lăm độ
là những thử thách gay go cho những chuyến vận chuyển hàng từ Bưu Điện thị xã về
trại.
Chuyến đi ra từ trại thì rất là nhàn nhã vì đi xuống dốc từ vùng đồi núi ra đồng
bằng nhưng chuyến tải hàng về mới là cả một vấn đề vì phải đẩy lên dốc những xe
đầy những bưu kiện quà tiếp tế của gia đình. Có một con dốc dựng đứng lên tới bốn
mươi lăm độ nhìn lên cũng đủ thấy ớn lạnh, đi bộ lên cái dốc đó là đủ mệt rồi
chứ đừng nói đến phải đẩy một cái xe chất đầy hàng nặng khoảng vài tạ gạo. Bao
giờ lên được tới nửa con dốc là anh em chúng tôi phải lấy các cục đá chèn lại
hai bánh xe để nghỉ ngơi lấy sức đẩy nữa.
Tôi vốn sức khoẻ kém cho nên chỉ khi nào thiếu ngươì thì anh đội trưởng mới cho
đi theo và mỗi chuyến chở hàng về là cả một công trình và mạo hiểm vì phải tìm
cách dấu tiền mặt và phải dấu cả một đống thư từ anh em nhờ chuyển ra khu thăm
nuôi. Những lần tên trực trại vẫy tay cho đi qua là trong bụng mừng thầm, còn hắn
kêu đứng laị khám xét trước khi cho xuất trại thì rất dễ vào nhà kỷ luật.
Mỗi lần đi ngang qua khu thăm nuôi và biết có gia đình một người bạn đang ở đó
thì chúng tôi lấy cớ xin vào xin thuốc lá để ném vội đống thư cho thân nhân bạn
mình nhờ về Sàigòn gửi hộ và đem ra mấy điếu ba số năm để ém miệng hai tên cán
binh đi áp tải vì chúng đều rất mê thuốc lá ngoại.
Phương tiện để vận chuyển chỉ là những chiếc xe "cải tiến", họ gọi là
cải tiến và có vẻ hãnh diện về chiếc xe hai bánh và hai càng này lắm, nhưng cải
tiến nghiã là trước kia thì bò kéo còn bây giờ là ... người kéo. Nó chỉ có khác
một điểm là hai bánh xe gỗ có ổ bi ở giữa và một lốp xe bằng cao su cho chạy êm
hơn chút thôi.
Khi ra đến thị xã và đi ngang một trụ sở, nhìn lên khẩu hiệu đắp trên tường bên
ngoài văn phòng chúng tôi nhìn nhau bấm bụng nhịn cười vì hàng chữ "Không
có gì qúy hơn Độc Lập Tự Do" không rõ vì năm tháng hay kẻ nào chơi xỏ đã
rơi mất ba chữ ở giữa thành ra "Không có...Độc Lập Tự Do".
Mang tiếng là thị xã thật sự ra chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ và nghèo nàn, toàn những
đường đất ngoại trừ con đường chính là trải nhựa, lèo tèo độ chục hàng quán, và
các hiệu bán phở hay cơm. Một cái chợ chồm hổm được tụ họp trên bãi đất trống của
một nhóm bốn năm chục các bà bên cạnh là các thúng và mẹt với đủ thứ rau cải
trái cây địa phương và vài sạp bán thịt cá.
Tuy vậy với chúng tôi cái chợ này là điều cực kỳ cần thiết mỗi lần ra lấy hàng
để mua những thứ mà trong trại không có.
Riết rồi các bà bán hàng cũng quen mặt tụi tôi và mỗi lần thấy lại kêu lên:
"các anh ấy trong trại đến rồi kìa", và bao giờ cũng dành cho bọn tôi
những bó rau thật tươi những miếng thịt ngon và giá hạ hơn. Biết dân chúng còn
nhiều thiếu thốn nên anh em chúng tôi bảo nhau đem cho họ ít thuốc men như thuốc
ho, aspirin, lọ dầu, cái quần, cái áo, v.v., và không ngờ những món quà nho nhỏ
đó đã làm cho cả khu chợ chồm hổm đó đón tiếp chúng tôi như thượng khách.
Một anh trong nhóm đã được giao nhiệm vụ chiêu đãi hai tên cán binh để bọn tôi
được ít thời gian đi mua vội vã những món hàng mà anh em trong trại nhờ mua dùm
hay ngồi nhâm nhi chung trà nóng.
Tôi thường chọn một cái quán hơi khuất sau tàng cây đa vì bà chủ quán là người
Hà Nội trước kia và bà thường dành cho anh em chúng tôi một cảm tình đặc biệt.
Bà cũng có một cô cháu gái rất xinh xắn và đảm đang tên là cô Thái mà vài anh
em trẻ tuổi trong đội của tôi cũng tỏ vẻ săn đón như đỡ lấy giỏ hàng hay dựng lại
dùm chiếc xe đạp mỗi khi cô lấy hàng về tới quán.
Những lúc ấy tôi thấy bà cười rất tươi và nói là chúng tôi có phong thái lịch
lãm của người Châu Âu chứ đàn ông con trai ở đây họ chỉ đứng trơ mắt ra mà nhìn
thôi. Bấy giờ tôi mới thấy được cái nhọc nhằn vất vả và chịu đựng của người phụ
nữ trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, và tại sao họ cứ hô hào bình
đẳng nam nữ ngõ hầu xô đẩy người phụ nữ vào những công việc nặng nhọc phải gánh
vác thay cho phái nam.
Quán hàng với mái tranh hai gian, gian trong làm phòng ngủ và gian ngoài làm
hàng quán với lỏng chỏng dăm ba lọ thủy tinh đựng vài cái bánh, kẹo lạc, phong
thuốc lào, vài gói thuốc lá Sapa, vài nải chuối hay ít lạc rang và ấm trà, vậy
mà nuôi sống được cả một gia đình hai bác cháu.
Tôi thường ít khi được đi theo toán ra Bưu điện cho nên lần nào gập tôi bà chủ
quán cũng hỏi là sao kỳ rồi lấy hàng không thấy anh, và em Thái nó hỏi thăm anh
đó trưóc cặp mắt vừa thán phục vừa ngạc nhiên của thằng bạn thân tôi nhưng thật
tình mà nói thì tôi cũng như nó đâu có thì giờ nào mà nói chuyện riêng với cô
hàng quán này bao giờ. Có thể qua những lần nói chuyện bên chung trà nóng tại
quán hàng, bà đã cô cháu có nụ cười rất xinh kia đã dành cho tôi cảm tình nhiều
hơn chăng tôi cũng không biết nữa.
Có một lần vì tôi không có nhiều nhu cầu mua các thứ ở chợ nên ngồi chơi tại
quán lâu hơn trong lúc các bạn tôi đã vù biến mất thì bà chủ quán hỏi tôi đủ thứ
chuyện và mời tôi Chủ Nhật lại chơi và ăn cơm gia đình. Tôi vừa mừng lại vừa buồn
cười trong bụng.
Mừng vì thái độ của người dân tại thị xã này với những người tù chính trị chúng
tôi đã hoàn toàn thay đổi từ xa lánh dè bỉu lúc ban đầu đến có thiện cảm và
trân trọng vì nhìn thấy chúng tôi không phải là thứ ăn gan người và bán nước
như bộ máy tuyên truyền nhà nước họ vẫn rêu rao. Buồn cười là vì những năm sau
này chúng tôi được gia đình tiếp tế nên ăn mặc có phần tươm tất hơn trong các bộ
"xi-vin" chứ không còn phải mặc quần áo tù nữa, bởi vậy bà chủ quán
quên mất thân phận tù tội mất tự do của chúng tôi đang trong bốn bức tường mà mời
ra dùng cơm ngày Chủ Nhật.
Lúc đó, cô cháu đứng ngay sau lưng bà và lấy tay giật giật lưng áo của bà ra hiệu
đừng nói nữa nhưng bà thì cứ hỏi tôi hết câu này đến câu khác. Trên chiếc quầy
tôi thấy có một bình bông hoa Hải Đường thật đẹp và tươi chắc mới hái ngoài sau
vườn, và bất ngờ bà rút một cành hoa ra đưa cho tôi: -Anh vào nói chuyện với
em nó một chút rồi hãy về.
Sự việc xẩy ra quá nhanh ngoài dự tính của tôi nhưng đến nước này thì không lùi
được nữa, tôi bèn cầm nhánh Hải Đường bước vào phía sau quầy đưa cho Thái cành
hoa: -Anh về nhe Thái. Rồi chào bà chủ quán và chạy nhanh ra phía chợ
để nhập vào toán ra Bưu Điện lãnh hàng về cho kịp.
Bẵng đi một thời gian tôi không có dịp được ra thị xã lấy quà tại Bưu Điện nữa
và cũng quên dần đi bà chủ quán tốt bụng thì một buổi chiều tên bạn thân chạy vào
buồng nói với tôi rằng tay cán binh gác cổng muốn gập.
Tôi cứ đinh ninh rằng hắn hoặc là xin thuốc lá, cà phê hay là học thêm một hai
câu Anh Văn vì lúc đó có nhiều cán binh vào trại xin học Anh Văn với mấy anh bạn
tôi nhưng ra đến cái cổng sắt và nhìn ra vọng gác bên ngoài thì tim tôi chợt đập
mạnh khi thấy Thái đứng đó tự bao giờ. Nàng nhìn tôi sững sờ và tôi chưa biết
phải làm sao thì nàng chạy lại bên ngoài cánh cửa song sắt và thì thầm: -Em
có xin phép vào thăm anh nhưng họ không cho. Sao không thấy anh ra lấy hàng Bưu
Điện nữa? và nàng dúi vào tay tôi gói trà, thứ mà tôi vẫn thích uống tại
quán của nàng. -Anh cứ lấy đi, tay gác cổng nó quen bác em không sao đâu. Tôi
đứng lặng người mấy giây đồng hồ nhìn gói trà nằm ép trong tay tôi và tay nàng
và cặp mắt nhìn như cầu khẩn của nàng rồi trả lại gói trà: -Anh rất cám ơn
Thái, tấm lòng của em không bao giờ anh quên được nhất là trong hoàn cảnh này.
Nhờ gia đình tụi anh dạo này cũng không còn thiếu thốn nhiều nữa. Em hãy về đi
và cám ơn bác dùm anh vì thân phận của anh không biết ngày nào ra được.
Tôi vội quay mặt đi không dám nhìn vào cặp mắt hoe đỏ của nàng cho tới khi bóng
dáng nhỏ bé của nàng khuất dần sau hàng cây dẫn ra con đường độc đạo.
Trời đang vào cuối Thu se se lạnh và những chiếc lá vàng đang rơi nhè nhẹ trong
gió đàng sau cái bóng mờ dần đi của Thái.
Tôi thấy hai vai nàng hơi rung lên không biết vì sương chiều đang xuống dần hay
nàng đang khóc thương cho những chàng trai miền Nam đang sa cơ trong trại giam
miền Bắc?
Một cơn gió heo may tự đâu thổi đến từ phiá hàng cây ngoài lộ lùa vào cổng trại
thổi qua tóc tôi mát lạnh y như là Thái còn muốn nói với tôi điều gì nữa đây mà
giây phút ngắn ngủi gập nhau vừa qua như giấc chiêm bao đã không thổ lộ hết được?
Hai tay nắm lấy song sắt của cánh cổng trại giam đến tê dại đi thì tôi mới trở
về hiện thực và bước vào buồng với đầu óc còn đang quay cuồng. Thằng bạn thân
chạy lại hỏi tôi đủ thứ, tôi nhìn bạn mình thật lâu rồi chỉ nói được một câu
cám ơn ngắn ngủi, nhưng tự trong đáy lòng thì tôi muốn nói với nó rằng giá mà
nó đừng gọi tôi ra gập Thái thì tốt hơn để cho lòng tôi không bị xúc động mãnh
liệt như bây giờ.
Tối hôm đó tôi lại thêm một đêm mất ngủ và ngồi uống trà với mấy thằng bạn thân
mà tâm hồn tựa như ở nơi đâu.
Từ đó về sau tôi không còn có dịp ra Phủ Lý nữa để có dịp cám ơn bà chủ quán tốt
bụng với cô cháu gái dễ thương và nụ cười thật xinh. Năm sau, khi lên chuyến xe
lửa xuôi về miền Nam, tôi gập lại tên cán binh trực vọng gác chiều hôm đó áp tải
đi theo tầu và biết rằng Thái đã lập gia đình với một anh tài xế xe vận tải
nhưng không có hạnh phúc. Anh ta nói rằng anh cũng thương cô ta rất nhiều nhưng
bà bác nhất định không bao giờ gả cô cháu cho gia đình công an hay bộ đội và
nói rằng hình như Thái thương một người nào đó nhưng không có duyên phận với
nhau.
Tôi có biết nhiều trường hợp của một số bạn tù cùng trại cũng có những mối tình
rất là thơ mộng với những cô thôn nữ quanh vùng khi gập gỡ nhau trong những lúc
đốn củi trên rừng - nhưng dễ có mấy ai thấy được cơn gió heo may nào đã làm
lòng ta tan nát?
Viết xong tháng Tư 2010 Và riêng tặng cho một người con gái tên Thái ngày
xưa ấy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét