CHƯƠNG 8: TĂNG TRƯỞNG VÀ CẢI CÁCH
“Nền văn minh nhân loại phụ thuộc vào chính sự bất khả xâm phạm
của tài sản"
Nhà công nghiệp, nhà từ thiện Andrew Carnegie, 1889
Nhà công nghiệp, nhà từ thiện Andrew Carnegie, 1889
Giữa hai cuộc chiến lớn - Nội chiến và Chiến
tranh Thế giới Thứ nhất - Hoa Kỳ đã phát triển và trưởng thành. Trong giai đoạn
chưa tới 50 năm, Hoa Kỳ đã chuyển từ một nước cộng hòa nông nghiệp thành một
nước công nghiệp. Biên giới dần biến mất. Các nhà máy lớn và xưởng luyện thép,
các tuyến đường sắt xuyên lục địa, các thành phố sầm uất, các khu nông nghiệp
rộng lớn xuất hiện khắp đất nước. Với đà tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng như
vậy nên đã kéo theo một loạt vấn đề. Xét trên bình diện cả nước, một số ít
doanh nghiệp đã chi phối toàn bộ các ngành công nghiệp theo phương thức hoặc là
kết hợp với các doanh nghiệp khác hoặc là tự độc quyền. Điều kiện làm việc
thường rất tệ. Các thành phố phát triển nhanh nên không cung cấp đủ nhà ở cho
cư dân hay không thể quản lý được dân số tăng lên quá nhanh.
CÔNG NGHỆ VÀ THAY ĐỔI
Một nhà văn đã viết: “Cuộc Nội chiến đã tạo ra
một vết thương lớn trong lịch sử nước Mỹ; cuộc chiến này đã tạo ra một cú sốc
gây ra những thay đổi lớn đã bắt đầu diễn ra từ 20 hay 30 năm trước đó. Nhu cầu
phục vụ chiến tranh đã kích thích mạnh mẽ sản xuất, thúc đẩy quá trình kinh tế
dựa trên việc khai thác sử dụng quặng sắt, động cơ hơi nước, năng lượng điện và
phát triển khoa học và phát minh sáng chế. Trong những năm trước 1860 có 36.000
bằng phát minh sáng chế đã được cấp; trong 30 năm tiếp theo có 440.000 bằng
phát minh sáng chế được cấp và vào 25 năm đầu tiên của thế kỷ XX thì số bằng
phát minh sáng chế được cấp lên tới con số xấp xỉ một triệu.
Ngay từ năm 1844, Samuel F. B. Morse đã hoàn
thiện công nghệ điện tín; ngay sau đó các vùng xa xôi hẻo lánh của nước Mỹ đã
được kết nối với nhau bởi các cột điện và dây điện. Vào năm 1876, Alexander
Graham Bell đã trình diễn công cụ điện thoại; chỉ trong vòng nửa thế kỷ, 16
triệu máy điện thoại đã khiến cuộc sống kinh tế xã hội của nước Mỹ diễn ra
nhanh hơn. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đã được đẩy nhanh nhờ phát minh
ra máy chữ vào năm 1867, máy tính năm 1888 và máy đếm tiền năm 1897. Máy in sắp
chữ li -nô được phát minh năm 1886 và máy in quay, máy gấp giấy đã giúp ta in
được 240.000 tờ báo tám trang chỉ trong một tiếng đồng hồ. Chiếc đèn chiếu sáng
của Thomas Edison đã thực sự chiếu sáng hàng triệu gia đình. Máy quay đĩa được
Edison hoàn thiện và Edison đã kết hợp với George Eastman cùng nhau phát triển
ngành điện ảnh. Những phát minh kiểu này và các ứng dụng khoa học khác đã khiến
năng suất lao động được đẩy lên một mức cao mới ở hầu hết các lĩnh vực.
Đồng thời, ngành công nghiệp cơ bản của Mỹ -
ngành sắt thép - cũng tiến bộ và được bảo hộ bởi mức thuế quan cao. Ngành luyện
kim chuyển về phía Tây khi các nhà địa chất phát hiện ra các mỏ quặng mới, đặc
biệt là mỏ ở dãy núi Mesabi rộng lớn nằm ở đầu nguồn hồ Superior đã trở thành
một trong những mỏ lớn nhất thế giới. Do giá thành khai thác rẻ và dễ dàng, đặc
biệt là không có lẫn tạp chất nên quặng ở Mesabi được sản xuất thành thép chất
lượng tuyệt hảo với chi phí bằng một phần mười so với chi phí thông thường
trước đó.
CARNEGIE VÀ KỶ NGUYÊN CỦA THÉP
Andrew Carnegie là người đã tạo ra phần lớn
những tiến bộ trong việc sản xuất thép. Carnegie tới Mỹ từ Ai-len khi còn là
một cậu bé 12 tuổi và đã đi lên từ một cậu bé nhặt suốt chỉ ở một nhà máy bông,
sau đó chuyển sang làm nhân viên điện tín và nhân viên ngành Đường sắt bang
Pennsylvania. Trước khi 30 tuổi ông đã có những vụ đầu tư khôn ngoan và có tầm
nhìn xa và từ năm 1865 trở đi ông chỉ tập trung đầu tư vào ngành quặng sắt. Chỉ
trong vài năm, ông đã thành lập hay có cổ tức trong các công ty sản xuất cầu sắt,
đường ray xe lửa và đầu máy. Mười năm sau, ông xây dựng xưởng thép lớn nhất
nước Mỹ trên bờ sông Monongahela tại bang Pennsylvania. Ông không chỉ kiểm soát
các nhà máy thép mới mà còn kiểm soát cả các mỏ than đá và quặng than, quặng
sắt ở vùng hồ Superior, một đội tàu hơi nước trên vùng Hồ Lớn, một thành phố
cảng ở hồ Erie và hệ thống đường sắt. Doanh nghiệp của ông liên minh với hàng
chục doanh nghiệp khác làm chủ các tuyến đường sắt và đường thủy. Chưa bao giờ
người ta lại thấy ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh như vậy ở Hoa Kỳ.
Mặc dù Carnegie kiểm soát ngành công nghiệp
trong một thời gian dài, ông chưa bao giờ hoàn toàn độc quyền về tài nguyên
thiên nhiên, giao thông, nhà máy công nghiệp trong ngành sản xuất thép. Trong
thập niên 1890, các công ty mới ra đời đã thách thức vị trí độc tôn của ông.
Ông đã bị thuyết phục sáp nhập các công ty của ông vào một công ty mới và công
ty mới này nắm giữ hầu hết sản lượng sắt thép của cả nước Mỹ.
CÁC TẬP ĐOÀN VÀ THÀNH PHỐ
Tập đoàn Thép Hoa Kỳ, kết quả của việc sáp
nhập năm 1901, cho thấy một quá trình kép dài trong 30 năm: sự kết hợp các công
ty công nghiệp độc lập thành các nghiệp đoàn hay các công ty tập trung. Bắt đầu
từ khi Nội chiến nổ ra, xu hướng này phát triển mạnh mẽ từ sau thập niên 1870
khi các doanh nhân bắt đầu lo rằng hiện tượng sản xuất dư thừa sẽ dẫn tới giảm
giá và giảm lợi nhuận. Họ nhận thấy rằng nếu họ kiểm soát được cả sản xuất lẫn
thị trường thì họ có thể hợp nhất được các công ty đang cạnh tranh với nhau vào
làm một. Các tập đoàn hay tờ -rớt được hình thành để đạt được mục tiêu trên.
Các tập đoàn, với nguồn dự trữ vốn dồi dào và
cho phép các công ty tồn tại lâu dài và có tính độc lập cao, hấp dẫn các nhà
đầu tư về cả lợi nhuận ước tính và giới hạn trách nhiệm trong trường hợp công
ty phá sản. Trên thực tế các tờ -rớt là sự kết hợp các tập đoàn mà cổ đông của
mỗi tập đoàn lại giao cổ phần cho các ủy viên quản trị quản lý (“Tờ-rớt với tư
cách là phương pháp kết hợp các tập đoàn nhanh chóng tạo tiền đề cho việc thành
lập công ty mẹ, nhưng thuật ngữ này lại không tồn tại được). Tờ-rớt tạo ra sự
kết hợp trên quy mô lớn, tập trung kiểm soát và điều hành, dùng chung các bằng
phát minh sáng chế. Nguồn vốn lớn của tờ-rớt khiến cho nó có khả năng mở rộng
và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài và có sức mạnh đàm phán với các nghiệp
đoàn lao động lúc này đã bắt đầu được tổ chức hoạt động có hiệu quả. Các tờ-rớt
cũng có thể yêu cầu được hưởng các điều kiện ưu đãi từ ngành đường sắt và gây
tác động tới chính trị.
Công ty dầu khí Standard do John D. Rockeffeller
góp vốn thành lập là một trong những tập đoàn sớm nhất và hùng mạnh nhất, và
sau đó thì hàng loạt các tập đoàn khác được nhanh chóng thành lập trong các
ngành dầu hạt bông, chì, đường, thuốc lá sợi và cao su. Ngay sau đó các doanh
nhân năng nổ bắt đầu định hình các lĩnh vực công nghiệp của riêng mình. Bốn
công ty thịt hộp lớn, trong đó lớn nhất là Philip Armour và Gustavus Swift, đã
lập ra tờ -rớt thịt bò. Cyrus McCormick đã tạo lập ưu thế trong ngành kinh
doanh máy gặt đập. Một cuộc điều tra năm 1904 đã cho thấy hơn 5.000 công ty độc
lập trước đó đã tập hợp thành khoảng 300 tờ-rớt công nghiệp.
Xu hướng hợp nhất lan sang cả những lĩnh vực
khác, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông và thông tin liên lạc. Hãng Western
Union, chiếm ưu thế trong ngành điện tín, hợp nhất cùng Bell Telephone System
và sau đó là cùng với Công ty Điện thoại và Điện tín Hoa Kỳ. Trong thập niên
1860, Cornelius Vanderbilt đã hợp nhất 13 công ty đường sắt riêng rẽ thành một
công ty có 800 km đường sắt nối liền New York với Buffalo. Trong thập niên tiếp
theo, ông đã kiểm soát các tuyến đường sắt đi Chicago ở bang Illinois và Detroit
ở bang Michigan và thành lập công ty Đường sắt Trung tâm New York. Ngay sau đó
các tuyến đường sắt chính của Mỹ được tổ chức thành các tuyến và hệ thống chính
do một số ít người quản lý.
Trong trật tự công nghiệp mới này, thành phố
là trung tâm đầu não quy tụ tất cả các nguồn lực kinh tế năng động nhất của Mỹ:
tích tụ tư bản dồi dào, doanh nghiệp, tổ chức tài chính, sân ga, các nhà máy,
đội quân lao động chân tay và trí óc. Các làng mạc thu hút người dân từ các
vùng nông thôn và từ bên kia bờ đại dương tới và trở thành các thị trấn, và các
thị trấn bỗng chốc trở thành thành phố. Vào năm 1830, cứ 15 người Mỹ thì có một
người sống tại các cộng đồng có từ 8.000 cư dân trở lên; vào năm 1860 tỷ lệ này
đã tăng lên một trên sáu người và vào năm 1890 thì tỷ lệ này là ba trên mười.
Vào năm 1860 chưa có thành phố nào có số dân đạt một triệu người; nhưng 30 năm
sau thì dân số New York là 1,5 triệu; thành phố Chicago bang Illinois và thành
phố Philadelphia bang Pennsylvania có dân số hơn một triệu người. Trong ba thập
niên này thì dân số của Philadelphia và Baltimore bang Maryland tăng gấp đôi;
dân số thành phố Kansas bang Missouri và Detroit bang Michigan tăng gấp bốn
lần; Cleveland bang Ohio tăng sáu lần và Chicago tăng mười lần.
Thành phố Minneapolis bang Minesota, Omaha
bang Nebraska và nhiều nơi tương tự - khi Nội chiến nổ ra thì vẫn còn là những
thôn làng nhỏ bé - đã có số dân tăng thêm khoảng 50% hoặc hơn.
ĐƯỜNG SẮT, LUẬT LỆ VÀ THUẾ QUAN
Đường sắt đặc biệt quan trọng khi mở rộng lãnh
thổ quốc gia và việc xây dựng đường sắt thường bị chỉ trích. Ngành đường sắt
ngày càng đưa ra mức phí vận chuyển rẻ hơn cho những người gửi hàng với số
lượng lớn thông qua việc giảm bớt một phần cước phí, và vì vậy những người gửi
hàng với số lượng ít bị chịu thiệt. Mức cước phí cũng thường không tính tương
ứng theo khoảng cách; cạnh tranh khiến cho mức phí chuyên chở giữa các thành
phố có nhiều hãng đường sắt hoạt động bị giảm xuống. Mức cước phí giữa những
địa điểm chỉ có một hãng đường sắt hoạt động thường ở mức cao. Vì vậy gửi hàng
từ Chicago đến New York với khoảng cách 1.280 km có chi phí thấp hơn so với
việc gửi hàng từ Chicago đến những nơi cách Chicago vài trăm kilomet. Ngoài ra,
để tránh tình trạng cạnh tranh thì các công ty đường sắt đôi khi chia (đi
chung) việc vận chuyển theo các kế hoạch đã được sắp xếp từ trước và số doanh
thu từ hoạt động này sẽ được đưa vào một quỹ chung để chia sau.
Sự tức giận của dân chúng đối với việc này đã
khiến chính quyền bang phải đưa ra quy định, nhưng vấn đề này mang tính chất
quốc gia. Những người gửi hàng yêu cầu phải có hành động của phía Quốc hội. Vào
năm 1887, Tổng thống Grover Cleveland đã ký Đạo luật Thương mại Liên bang
nghiêm cấm việc thu thêm cước phí, đi chung, giảm giá cước và phân biệt mức
cước. Đạo luật này lập ra ủy ban Thương mại Liên bang (ICC) để theo dõi việc
tuân thủ quy định của đạo luật nhưng ủy ban này lại hầu như không được trao
quyền cưỡng chế. Trong những thập niên đầu tiên kể từ khi ra đời, hiển nhiên là
tất cả các nỗ lực của ICC nhằm điều tiết và cắt giảm mức cước đã không được đưa
ra xem xét tại tòa.
Tổng thống Cleveland cũng phản đối thuế quan
bảo hộ đánh vào hàng hóa nước ngoài vốn thường được coi là chính sách quốc gia
vĩnh viễn dưới thời các tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa, những người chi phối
chính trị của giai đoạn này. Cleveland, một đảng viên Dân chủ bảo thủ, coi bảo
hộ thuế quan là một loại trợ cấp phi pháp dành cho các doanh nghiệp lớn, cho
phép các tờ-rớt quyền ép giá gây bất lợi cho người thường dân Mỹ. Thể hiện
quyền lợi của phe miền Nam, Đảng Dân chủ đã quay lại với chính sách thời trước
Nội chiến là phản đối bảo hộ và chủ trương chỉ đánh thuế vào doanh thu.
Cleveland chiến thắng sít sao trong cuộc bầu
cử năm 1884 và đã không thành công trong việc cải cách thuế quan trong nhiệm kỳ
đầu của mình. Ông đưa vấn đề này ra làm chủ đề chính cho chiến dịch tái tranh
cử của mình nhưng ứng cử viên Đảng Cộng hòa Benjamin Harrison, một người ủng hộ
chủ nghĩa bảo hộ, đã giành chiến thắng trong một cuộc đua sát nút. Năm 1890,
Chính quyền Tổng thống Harrison đã thực hiện được lời hứa tranh cử khi thông
qua được luật thuế quan McKinley, luật thuế tăng thêm thuế suất nhập khẩu vốn
đã rất cao. Bị chỉ trích là làm cho giá bán lẻ tăng lên quá cao, luật thuế
McKinley đã khiến cho bất bình lan rộng và dẫn đến sự thất bại của Đảng Cộng
hòa trong cuộc bầu cử năm 1890, mở đường cho việc quay trở lại chức vụ tổng
thống của Cleveland trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1892.
Trong giai đoạn này, ác cảm của công chúng đối
với các tờ -rớt ngày càng tăng. Các tập đoàn khổng lồ bị những cuộc tấn công
mãnh liệt của các nhà cải cách như Henry George và Edward Bellamy trong thập
niên 1880. Đạo luật Chống độc quyền mang tên Sherman được thông qua năm 1890
cấm tất cả những sự kết hợp nhằm ngăn cản thương mại giữa các bang và đưa ra
một số biện pháp cưỡng chế với chế tài nghiêm khắc. ẩn sau những quy định chung
chung, đạo luật này hầu như không có tác dụng ngay sau khi được thông qua.
Nhưng một thập niên sau Tổng thống Theodore Roosevelt đã áp dụng đạo luật này
một cách mạnh mẽ.
CÁCH MẠNG TRONG NÔNG NGHIỆP
Cho dù đạt được những thành tựu lớn trong công
nghiệp nhưng nông nghiệp của Mỹ vẫn là ngành có lực lượng lao động chủ yếu.
Cuộc cách mạng trong nông nghiệp - đồng thời diễn ra với cách mạng công nghiệp
sau cuộc Nội chiến - đã chuyển lao động chân tay sang lao động máy móc và từ
sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Từ 1860
đến 1910, số lượng nông trang ở Mỹ tăng gấp ba lần, từ hai triệu lên sáu triệu
nông trang trong khi diện tích canh tác tăng lên hơn hai lần, từ 160 triệu
hec-ta lên 352 triệu hec-ta.
Từ 1860 đến 1890, việc sản xuất các mặt hàng
nguyên liệu cơ bản như lúa mỳ, ngô, bông vượt xa những con số trước đó của Hoa
Kỳ. Trong cùng thời kỳ này dân số Hoa Kỳ tăng lên gấp đôi với tốc độ tăng nhanh
nhất là ở các thành phố. Nhưng nông dân Mỹ đã trồng đủ ngũ cốc và bông, nuôi đủ
bò và lợn, cắt lông cừu đủ làm len không những cho công nhân Mỹ mà còn tạo ra
một lượng dư thừa lớn chưa từng có.
Thành quả rực rỡ này là do một vài yếu tố. Một
trong những yếu tố đó là sự mở rộng về phía Tây. Yếu tố nữa là cuộc cách mạng
công nghệ. Vào đầu thế kỷ XIX, với liềm cắt bằng tay thì nông dân chỉ mong cắt
được một phần năm hec-ta lúa mỳ một ngày. 30 năm sau, với hái có khung gạt
người nông dân có thể cắt bốn phần năm hec-ta một ngày. Vào năm 1840, Cyrus
McCormich thể hiện một điều kỳ diệu khi cắt từ hai đến hai hec-ta rưỡi một ngày
với chiếc máy gặt mà ông đã mất gần 10 năm nghiên cứu chế tạo. Ông tiến về phía
tây tới những thị trấn mới trên thảo nguyên của Chicago. Tại đây ông thành lập
nhà máy và tới năm 1860 thì ông đã bán được 250.000 chiếc máy gặt.
Những máy móc nông nghiệp khác cũng đạt được
những thành công nhanh chóng: máy tự động buộc, máy đập, máy gặt đập hay máy
kết hợp tất cả các chức năng. Máy trồng cây, cắt cây, máy xay xát, máy bóc vỏ
xuất hiện và đồng thời cũng xuất hiện máy tách kem, máy bón phân, máy trồng
khoai tây, máy sấy cỏ, lò ấp trứng gia cầm và hàng loạt các phát minh khác nữa.
Không kém phần quan trọng so với máy móc trong
cách mạng nông nghiệp là khoa học nông nghiệp. Vào năm 1862, Đạo luật Cấp đất
cho các trường Đại học mang tên Morill đã giao đất công cho từng bang để thành
lập các trường đại học công nghiệp và nông nghiệp. Các trường này vừa là cơ sở
giáo dục vừa là các trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Sau đó Quốc hội
phân bổ ngân sách cho việc thành lập các cơ sở thí nghiệm nông nghiệp trên khắp
cả nước và giao ngân sách trực tiếp cho Bộ Nông nghiệp để tài trợ cho các mục
đích nghiên cứu. Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học trên khắp nước Mỹ tham gia
rất nhiều các dự án nông nghiệp.
Một trong số các nhà khoa học này, Mark
Carleton, chuyển từ Bộ Nông nghiệp sang Nga. Ở Nga, ông đã tìm ra và xuất khẩu
về quê nhà loại lúa mỳ mùa đông chịu hạn và chống được bệnh gỉ sắt và hiện giờ
giống lúa mỳ này chiếm tới hơn một nửa sản lượng lúa mỳ của Mỹ. Một nhà khoa
học khác, Marion Dorset, đã khống chế được bệnh tả của lợn và một nhà khoa học
khác, George Mohler, đã giúp chống lại bệnh lở mồm long móng. Từ Bắc Phi, một
nhà nghiên cứu đã mang về giống ngô Kaffir; từ Turkestan, một nhà nghiên cứu
khác nhập khẩu về loại cỏ linh lăng hoa vàng. Luther Burback ở bang California
sản xuất ra rất nhiều loại rau hoa quả mới; ở bang Winconsin, Stephen Babcock
đã phát minh ra cách kiểm tra để xác định hàm lượng mỡ bơ trong sữa; tại Học
viện Tuskegee ở bang Alabama, nhà khoa học Mỹ gốc Phi George Washington Carver
tìm ra hàng trăm cách sử dụng hạt lạc, khoai lang và hạt đậu.
Ở những mức độ khác nhau, sự phát triển
của khoa học nông nghiệp và kỹ thuật đã ảnh hưởng đến nông dân trên khắp thế
giới, năng suất tăng lên, số người sản xuất ít đi, tạo ra làn sóng di cư lên
thành phố. Hơn nữa, đường sắt và tàu hơi nước bắt đầu khiến cho các thị trường
khu vực hòa nhập thành một thị trường chung cho cả thế giới với giá cả được cập
nhật liên tục giữa hai bờ Đại Tây Dương thông qua cáp và dây điện. Tin tốt cho
người tiêu dùng thành thị, giá nông sản giảm sút đe dọa cuộc sống của nhiều
nông dân Mỹ và gây ra một làn sóng bất bình của nông dân.
MIỀN NAM BỊ CHIA RẼ
Sau công cuộc Tái thiết, các nhà lãnh đạo miền
Nam đã cố gắng thu hút phát triển công nghiệp. Các bang đã đưa ra nhiều khuyến
khích lớn và giá nhân công rẻ để các nhà đầu tư phát triển ngành thép, gỗ,
thuốc lá sợi và dệt may. Tuy nhiên cho đến đầu thế kỷ XX thì tỷ trọng công nghiệp
của miền Nam so với tỷ trọng công nghiệp của cả nước vẫn giữ ở mức như năm
1860. Ngoài ra, cái giá phải trả cho xu thế công nghiệp hóa này rất cao: Bệnh
tật và lao động trẻ em là hiện tượng phổ biến ở các thị trấn có nhà máy. Ba
mươi năm sau Nội chiến, miền Nam vẫn còn nghèo, chủ yếu là sống nhờ nông nghiệp
và bị phụ thuộc về kinh tế. Hơn nữa, quan hệ chủng tộc ở miền Nam không chỉ
phản ánh di sản của chế độ nô lệ mà còn phản ánh một vấn đề đang nổi lên như là
chủ đề trọng tâm của lịch sử Hoa Kỳ - quyết tâm duy trì sự ưu việt của người da
trắng bằng mọi giá.
Những người da trắng miền Nam không chịu khoan
nhượng tìm nhiều cách thâu tóm quyền quản lý chính quyền bang để duy trì sự
thống trị của người da trắng. Một số phán quyết của Tòa án Tối cao cũng đã ủng
hộ những nỗ lực này bằng cách tán thành những quan điểm truyền thống của miền
Nam về việc phân chia hợp lý quyền lực của chính quyền bang và liên bang.
Năm 1873 Tòa án Tối cao thấy rằng Điều bổ sung
sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp (quyền công dân không thể bị tước đoạt) không trao
đặc ân hay miễn trách nào nhằm bảo vệ người Mỹ gốc Phi trước quyền lực của
bang. Hơn nữa, năm 1883 Tòa án Tối cao đã phán quyết rằng Điều bổ sung sửa đổi
thứ 14 không bảo vệ được cá nhân trước những hành động phân biệt đối xử của chính
quyền bang. Và trong vụ án Plessy kiện Ferguson (năm 1896), Tòa án Tối cao thấy
rằng không gian công cộng tách biệt nhưng ngang bằng dành cho người Mỹ gốc Phi
như chỗ trên tàu hỏa và trong nhà hàng không vi phạm quyền của họ. Ngay lập tức
nguyên tắc phân biệt chủng tộc được tiến hành rộng rãi ở khắp mọi lĩnh vực cuộc
sống ở miền Nam từ tàu hỏa cho tới nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, trường học.
Ngoài ra, bất cứ lĩnh vực cuộc sống nào mà không được phân biệt theo luật thì
sẽ bị phân biệt theo phong tục và thông lệ. Tiếp theo là việc tước bớt quyền
bầu cử. Những vụ hành hình người da đen do bọn du côn tiến hành liên tiếp xảy
ra đã càng nhấn mạnh thêm quyết tâm của miền Nam nô dịch hóa nhóm dân Mỹ gốc
Phi.
Đối mặt với những sự phân biệt tràn lan, nhiều
người Mỹ gốc Phi đã đi theo Booker T. Washington, người tư vấn cho họ tập trung
vào những mục tiêu kinh tế khiêm tốn và chấp nhận tạm thời tình trạng phân biệt
trong xã hội. Những người da đen khác dưới sự lãnh đạo của nhà trí thức gốc Phi
W.E.B Du Bois lại muốn đấu tranh chống lại nạn phân biệt thông qua hành động
chính trị. Nhưng với việc cả hai chính đảng lớn nhất đều không quan tâm tới vấn
đề này và học thuyết khoa học thời đó thường cũng chấp nhận sự thấp kém của
người da đen nên yêu cầu đòi bình đẳng về sắc tộc đã ít nhận được sự ủng hộ.
BIÊN GIỚI CUỐI CÙNG
Năm 1865, đường biên giới nhìn chung là theo
giới hạn phía tây của các bang tiếp giáp với sông Mississippi nhưng phình ra
bên ngoài về phía đông các bang Texas, Kansas và Nebraska. Sau đó, biên giới chạy
lên phía bắc và phía nam tới gần 1.600 km, bao trùm cả các dãy núi lớn, nhiều
dãy núi giàu các loại khoáng sản như bạc, vàng và kim loại khác. Về phía tây,
các đồng bằng và sa mạc trải dài cho tới tận các khu rừng ven biển Thái Bình
Dương. Ngoài những quận có người định cư ở California và những vùng định cư xa
xôi nằm rải rác thì khu vực đất liền rộng lớn là nơi cư trú của thổ dân da đỏ:
trong số đó có các bộ lạc vùng đồng bằng Great Plains - Sioux và Blackfoot,
Pawnee và Cheyenne - và các nền văn hóa Anh- điêng của miền Tây Nam, trong đó
bao gồm các bộ lạc Apache, Navao và Hopi.
Chỉ 25 năm sau, gần như tất cả vùng đất này
đều đã được chia thành các bang và vùng lãnh thổ. Thợ mỏ đã đi đến khắp các khu
vực miền núi, đào hầm sâu vào lòng đất, thành lập ra các cộng đồng nhỏ ở bang
Nevada, Montana và Colorado. Các chủ trang trại gia súc tận dụng các đồng cỏ
lớn đã làm chủ một vùng đất rộng lớn trải từ Texas cho đến thượng nguồn sông
Missouri. Những người chăn cừu đã tìm ra đường đến các thung lũng và triền núi.
Nông dân cày cấy trên các cánh đồng và xóa nhòa khoảng cách giữa phía Đông và
phía Tây. Cho tới năm 1890 thì đường biên giới đã không còn nữa.
Công cuộc định cư được khích lệ bằng Đạo luật
cấp đất cho người di cư năm 1862. Đạo luật này cấp miễn phí 64 hec-ta trang
trại cho các công dân cư ngụ và cải tạo mảnh đất đó. Thật tiếc cho những người
đáng nhẽ ra đã trở thành nông dân bởi phần lớn diện tích vùng Great Plains lại
phù hợp hơn cho việc chăn nuôi gia súc chứ không phải là cho việc trồng trọt và
cho tới năm 1880 thì gần 22.440.000 hec-ta đất miễn phí đã thuộc về người chăn
nuôi gia súc hay các hãng đường sắt.
Năm 1862 Quốc hội cũng bỏ phiếu thông qua
tuyên bố về việc thành lập Liên minh Đường sắt Thái Bình Dương. Tuyến đường này
sẽ tiến về phía tây từ Council Bluffs bang Iowa, sử dụng chủ yếu lao động là
cựu chiến binh và dân Ai-len nhập cư. Cùng lúc, công ty Đường sắt Trung tâm
Thái Bình Dương cũng bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt tiến về phía đông từ
Sacramento bang California, chủ yếu sử dụng lao động Trung Quốc nhập cư. Cả
nước Mỹ hồi hộp chờ hai tuyến đường sắt ngày càng xích lại gần nhau và cuối
cùng vào ngày 10/5/1869 thì hai tuyến đường này đã gặp nhau ở Promontory Point
bang Utah. Hành trình gian khổ kéo dài nhiều tháng giữa hai bờ đại dương giờ
đây đã giảm xuống còn sáu ngày. Hệ thống đường sắt lục địa phát triển mạnh và cho
tới năm 1884 đã có bốn tuyến đường sắt lớn nối trung tâm vùng Thung lũng
Mississippi với Thái Bình Dương.
Cuộc di dân ồ ạt lần đầu tiên tới miền Viễn
Tây đã kéo người dân tới các khu vực miền núi nơi phát hiện ra vàng ở bang
California năm 1848, ở bang Colorado và Nevada 10 năm sau đó, ở bang Montana và
Wyoming vào thập niên 1860 và vùng Black Hills ở miền quê bang Dakota trong
thập niên 1870. Thợ mỏ đã khai phá vùng nông thôn, thành lập nên các cộng đồng
và đặt nền tảng cho việc định cư lâu dài. Tuy nhiên, cuối cùng thì mặc dù một
vài cộng đồng tiếp tục tập trung toàn bộ vào công việc khai mỏ, nhưng của cải
thực sự của các bang Montana, Colorado, Wyoming, Idaho và California lại được
tìm thấy ở đồng cỏ và đất đai. Việc chăn nuôi gia súc, một thời gian dài là
ngành quan trọng ở Texas, đã phát triển mạnh sau Nội chiến khi những con người
dám nghĩ dám làm bắt đầu xua đàn gia súc sừng dài lên phía bắc đi qua khu vực
đất công. Vừa đi vừa nuôi, đàn gia súc của họ khi tới điểm chuyên chở gia súc
bằng tàu hỏa ở Kansas đã lớn hơn và béo hơn nhiều so với khi bắt đầu lên đường.
Việc lùa đàn gia súc này hàng năm đã trở thành một sự kiện thường xuyên; đường
đi của đàn gia súc lên phía bắc đã thành một vệt dài hàng trăm kilômét.
Tiếp theo, nhiều trang trại nuôi gia súc rộng
lớn đã xuất hiện ở các bang Colorado, Wyoming, Kansas, Nebraska và lãnh thổ
Dakota. Các thành phố phía tây đã phát triển thành các trung tâm giết mổ gia
súc lấy thịt. Chăn nuôi gia súc phát triển mạnh nhất vào giữa thập niên 1880.
Vào thời điểm đó, không xa các trang trại chăn nuôi là các xe ngựa có mui của
nông dân mang theo gia đình họ cùng ngựa kéo, bò, lợn. Theo Đạo luật cấp đất
cho người di cư, họ đóng cọc xí đất và rào mảnh đất của họ bằng dây thép gai,
một phát minh mới. Chủ trang trại nuôi gia súc bị hất cẳng khỏi mảnh đất mà họ
đã đến ở mà không có giấy tờ công nhận về mặt pháp lý.
Chăn nuôi và lùa gia súc đã tạo ra cho thần
thoại của Mỹ thần tượng cuối cùng của nền văn hóa biên giới - văn hóa cao bồi.
Thực chất của cuộc sống cao bồi là cuộc sống vượt qua nhiều cam khổ. Theo mô tả
của các nhà văn như Zane Grey và theo diễn xuất của các diễn viên điện ảnh như
John Wayne, cao bồi là những nhân vật thần thoại khỏe mạnh, những con người
hành động mạnh mẽ và táo bạo. Cho đến tận cuối thế kỷ XX thì chúng ta mới bắt
đầu xây dựng lại hình tượng cao bồi. Các chuyên gia lịch sử và các nhà làm phim
bắt đầu mô tả miền Tây hoang dã như là một nơi bẩn thỉu, nơi sinh sống của
những con người mang cá tính thiên về thể hiện những điều xấu xa chứ không phải
những điều tốt đẹp trong bản chất con người.
CẢNH TUYỆT VỌNG CỦA THỔ DÂN DA ĐỎ
Cũng như ở phía Đông, việc các thợ mỏ, người
chăn nuôi gia súc và người định cư tiến ra các đồng cỏ và núi non đã dẫn đến
xung đột ngày càng gia tăng với thổ dân da đỏ ở phía Tây. Nhiều bộ lạc thổ dân
da đỏ - từ Utes thuộc vùng Great Basin cho tới Nez Perces thuộc vùng Idaho - đã
thi thoảng chiến đấu chống lại người da trắng. Nhưng bộ lạc Sioux ở vùng Đồng
bằng phía bắc và bộ lạc Apache ở vùng Tây Nam là những bộ lạc chống lại việc
tiến ra vùng biên giới mạnh mẽ nhất. Được lãnh đạo bởi những thủ lĩnh giàu tiềm
lực như Red Cloud và Crazy Horse, bộ lạc Sioux đặc biệt tinh nhuệ với việc
chiến đấu trên lưng ngựa đang phi ở tốc độ cao. Bộ lạc Apache cũng giỏi tương
đương và rất khó tìm thấy họ khi họ chiến đấu trên sa mạc và trong hẻm núi.
Xung đột với người da đỏ vùng đồng bằng trở
nên tồi tệ hơn sau sự kiện người Dakota (một nhánh của người Sioux) giết năm
người da trắng, tuyên chiến với Chính phủ Hoa Kỳ do những bất đồng từ lâu. Các
cuộc nổi loạn và tấn công vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ Nội chiến. Năm 1876
cuộc chiến nghiêm trọng cuối cùng với người Sioux nổ ra khi dòng người đào vàng
đổ xô đến Black Hills ở Dakota. Quân đội có nhiệm vụ ngăn không cho thợ mỏ đến
khu vực săn bắn của người Sioux nhưng lại không làm gì để bảo vệ đất đai của
người Sinoux. Tuy nhiên khi được lệnh hành động chống lại các nhóm người Sioux
đi săn trên phạm vi quy định của hiệp định thì quân đội lại thực hiện quá nhanh
và mạnh.
Năm 1876, sau một vài lần chạm trán lẻ tẻ, Đại
tá George Custer dẫn đầu một phân đội kỵ binh giao chiến với lực lượng tinh nhệ
đông đảo của bộ lạc Sioux và đồng minh của họ trên bờ sông Little Bighorn.
Custer và binh lính dưới quyền đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tuy nhiên chẳng bao
lâu sau, sự nổi loạn của người Mỹ da đỏ đã bị đàn áp. Sau đó, vào năm 1890, một
lễ nghi nhảy múa kỳ quái tại vùng đất dành riêng cho người Sioux phía Bắc ở
Wounded Knee bang Nam Dakota đã biến thành một cuộc nổi dậy và cuộc chiến cuối
cùng đầy bi thương này đã kết thúc với gần 300 người Sioux cả nam, nữ, trẻ em
bị giết chết.
Những từ trước đó rất lâu thì lối sống của
người Mỹ da đỏ vùng Plains đã bị hủy hoại do sự bành trướng của người da trắng,
của các tuyến xe lửa, của việc giết mổ trâu bò, hầu hết đều bị tàn sát trong
thập niên sau năm 1870 do những người định cư đã săn bắn bừa bãi.
Những cuộc giao tranh với bộ lạc Apache tại
miền Tây Nam kéo dài cho đến tận khi Geronimo, thủ lĩnh quan trọng cuối cùng
của bộ lạc, bị bắt vào năm 1886.
Chính sách của Chính phủ cho tới tận thời
Chính quyền Tổng thống Monroe là đưa người Mỹ da đỏ ra khỏi biên giới của người
da trắng. Những rõ ràng là vùng đất riêng của người da đỏ ngày càng bị thu hẹp
và trở nên đông đúc. Một số người Mỹ bắt đầu phản đối cách cư xử của chính phủ
đối với thổ dân da đỏ. Chẳng hạn như Helen Hunt Jackson, một người miền Đông
đến sinh sống tại miền Tây đã viết cuốn Một thế kỷ nhục nhã (năm 1881) kể lại
cảnh khốn khổ của người da đỏ và khơi dậy lương tâm của cả nước Mỹ. Hầu hết các
nhà cải cách đều cho rằng thổ dân da đỏ cần được đồng hóa vào nền văn hóa lớn.
Chính phủ liên bang thậm chí đã xây dựng một trường học ở Carlisle bang
Pennsylvania với nỗ lực áp đặt giá trị và niềm tin của người da trắng đối với
thanh niên thổ dân da đỏ (Chính tại ngôi trường này Jim Thorpe, người thường
được coi là vận động viên giỏi nhất mà Mỹ từng có, đã trở nên nổi tiếng trong
đầu thế kỷ XX).
Vào năm 1887 Đạo luật Dawes (Luật phân đất) đã
thay đổi chính sách của Chính phủ đối với thổ dân da đỏ, luật này cho phép tổng
thống chia đất của các bộ lạc và chia nhỏ 65 hec -ta đất cho người chủ của mỗi
gia đình. Việc phân đất này được tiến hành với sự ủy thác của chính phủ trong
suốt 25 năm và sau khoảng thời gian này người chủ mảnh đất sẽ có đầy đủ tư cách
và quyền công dân. Tuy nhiên những mảnh đất không được phân chia cho người da
đỏ sẽ được bán cho người định cư. Chính sách này tuy có dụng ý tốt những lại
gây ra bất hạnh do chính sách này cho phép việc chiếm đoạt thêm đất của thổ dân
da đỏ. Ngoài ra, sự can thiệp của chính sách này vào mô hình tổ chức xã hội của
các bộ lạc đã đẩy nhanh sự băng hoại nền văn hóa truyền thống của họ. Năm 1934,
chính sách của Chính phủ Mỹ được thay đổi lại một lần nữa với việc ban hành Đạo
luật Tái tổ chức người da đỏ nhằm duy trì lối sống bộ lạc và cộng đồng tại
những vùng đất dành riêng cho người da đỏ.
ĐẾ QUỐC NƯỚC ĐÔI
Những thập niên cuối thế kỷ XIX là giai đoạn
bành trướng đế quốc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quá trình đế quốc hóa tại Hoa Kỳ
không diễn ra như ở các nước châu Âu đối địch khác, bởi lịch sử đấu tranh chống
các đế quốc châu Âu của Hoa Kỳ và bởi cả sự phát triển độc nhất vô nhị của nền
dân chủ tại đây.
Nguồn gốc dẫn đến sự bành trướng của Hoa Kỳ
cuối thế kỷ XIX là do nhiều lý do. Xét tình hình quốc tế, đây là giai đoạn mà
chủ nghĩa đế quốc phát triển điên cuồng. Các thế lực châu Âu xâu xé châu Phi
và, cùng với Nhật Bản, cạnh tranh lẫn nhau nhằm giành quyền lực chính trị và
thương mại tại châu Á. Rất nhiều người Mỹ, trong đó có các nhân vật đầy thế lực
như Theodore Roosevelt, Henry Cabot Lodge và Elihu Root nhận thấy rằng, để đảm
bảo quyền lợi của chính mình, nước Mỹ cũng cần phải giành lấy cho mình những
lợi ích kinh tế. Quan điểm này được tiếp sức bởi các cuộc vận động hành lang
mạnh mẽ của lực lượng hải quân, theo đó mạng lưới các cảng biển và đội tàu của
Mỹ được mở rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc
gia. Nhìn chung, học thuyết bành trướng do định mệnh, trước đây thường được
viện dẫn tới nhằm biện minh cho công cuộc bành trướng lục địa của Mỹ nay lại
được khẳng định lại với tuyên bố rằng nước Mỹ có quyền và nghĩa vụ mở rộng ảnh
hưởng cũng như nền văn minh của mình ra Bán cầu Tây và vùng biển Caribê cũng
như các nước bên kia Thái Bình Dương.
Cũng trong thời gian đó, các tiếng nói chống
chủ nghĩa đế quốc từ nhiều liên minh của những thành viên Đảng Dân chủ ở phía
Bắc và các thành viên Cộng hòa cấp tiến vẫn vang lên không ngừng và mạnh mẽ.
Điều này khiến cho công cuộc bành trướng của đế quốc Mỹ diễn ra chậm chạp và
mang tính nước đôi. Các chính quyền mang tư tưởng thực dân thường quan tâm
nhiều hơn đến vấn đề kinh tế và thương mại hơn là đến quyền lực chính trị.
Phi vụ làm ăn mạo hiểm đầu tiên của nước Mỹ
vượt ra khỏi lãnh thổ là vụ mua lại Alaska, vùng đất dân cư thưa thớt và là nơi
cư ngụ của người Inuit và các nhóm dân bản địa khác, từ Nga vào năm 1867. Lúc
đó, hầu hết dân Mỹ đều thờ ở hoặc phẫn nộ trước hành động này của Ngoại trưởng
William Seward và Alaska bị những người chỉ trích William gọi là hành động điên
rồ của Seward và cái hộp băng của Seward. Thế nhưng 30 năm sau khi người ta
phát hiện có vàng trên sông Klondike của Alaska, hàng ngàn người Mỹ đã đổ xô về
phương bắc và rất nhiều người trong số họ đã định cư vĩnh viễn tại Alaska. Khi
Alaska trở thành bang thứ 49 của Hoa Kỳ vào năm 1959, nó đã thế chỗ của Texas
với vị trí là bang có diện tích lớn nhất trong liên bang.
Trận chiến Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898 đã đánh dấu
một bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ. Sau trận chiến này, Hoa Kỳ nắm hoàn toàn
quyền kiểm soát các đảo trong vùng biển Caribê và Thái Bình Dương.
Cho đến trước những năm 1890, Cuba và Puerto
Rico là hai thuộc địa duy nhất còn sót lại tại Tân Thế giới của đế quốc Tây Ban
Nha vốn đã có thời hùng mạnh; trong khi đó quần đảo Phillipines là trung tâm
quyền lực của Tây Ban Nha tại vùng biển Thái Bình Dương. Cuộc chiến nổ ra do ba
nguyên nhân chính: thái độ phản đối rộng khắp đối với chính sách cai trị độc đoán
của Tây Ban Nha tại Cuba; sự cảm thông đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của
những người Cuba; và một tinh thần tự tôn dân tộc được thổi bùng lên một phần
bởi giới báo chí với những bài viết gây xúc cảm mạnh và đầy tính dân tộc.
Đến năm 1895, sự phản kháng ngày một mạnh mẽ
của những người Cuba đã biến thành một cuộc chiến tranh du kích giành độc lập.
Hầu hết người Mỹ lúc bấy giờ đồng cảm với người dân Cuba nhưng tổng thống
Cleveland vẫn cương quyết giữ thái độ trung lập. Tuy nhiên, ba năm sau, vào thời
Tổng thống William McKinley, chiến hạm Maine của Mỹ được phái tới Havana trong
một chuyến ghé thăm xã giao nhằm mục đích thể hiện mối quan tâm của nước Mỹ
trước các cuộc đàn áp đẫm máu của Tây Ban Nha, đã nổ tung trong bến cảng. Hơn
250 người thiệt mạng. Có thể chiến hạm Maine bị phá hủy do một vụ nổ tai nạn
bên trong con tàu nhưng hầu hết người Mỹ cho rằng người Tây Ban Nha phải chịu
trách nhiệm về con tàu. Sự phẫn nộ, được đổ thêm dầu vào lửa bởi các bài báo
giật gân, đã lan khắp nước Mỹ. Lúc đầu Tổng thống McKinley cố duy trì hòa bình
nhưng sau đó vài tháng, tin rằng trì hoãn thêm cũng là vô ích, vị tổng thống
này đã tuyên bố can thiệp vũ trang vào Cuba.
Cuộc chiến với Tây Ban Nha diễn ra vô cùng
nhanh gọn và chóng vánh. Trong suốt bốn tháng diễn ra chiến tranh, quân Mỹ
không hề thua một trận nào. Một tuần sau khi tuyên bố tình trạng chiến tranh,
Thiếu tướng hải quân George Dewey, lúc đó đang chỉ huy hạm đội Asiatic Squadron
gồm sáu chiến hạm tại Hồng Kông đã tiến tới Phillipines. Giáp mặt với toàn bộ đội
tàu của Tây Ban Nha tại Vịnh Manila, hạm đội của George đã phá hủy toàn bộ đội
tàu này mà không hề thiệt mạng một người nào.
Trong khi đó, tại Cuba, quân đội Mỹ đã tiến
vào Santiago và tấn công cảng này sau một loạt trận thắng chớp nhoáng. Bốn tàu
chiến Tây Ban Nha rời Vịnh Santiago để chặn hạm đội của Mỹ và bị tiêu diệt gọn.
Từ Boston tới San Francisco, tiếng còi vang và
những lá cờ tung bay khi tin Santiago thất thủ bay về. Các tờ báo phái phóng
viên tới Cuba và Phillipines nơi những người anh hùng mới của dân tộc được vang
danh. Trong số các vị anh hùng đó nổi bật nhất là Thiếu tướng hải quân Dewey và
Đại tá Theodore Roosevelt, người đã từ chức trợ lý bộ trưởng hải quân để chỉ
huy trung đoàn tình nguyện Rough Riders của mình tại Cuba. Tây Ban Nha nhanh
chóng yêu cầu chấm dứt chiến tranh. Hiệp định hòa bình được ký kết ngày
10/12/1898, theo đó Cuba thuộc quyền kiểm soát tạm thời của Mỹ trước khi quốc
đảo này giành độc lập. Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng nhượng lại Puerto Rico và
Guam thay cho các đền bù thiệt hại do chiến tranh và nhượng lại cho Mỹ quần đảo
Phillipines để đổi lấy 20 triệu đô-la.
Nước Mỹ vẫn tuyên bố rằng các chính sách của
mình khuyến khích các lãnh thổ mới theo hướng tự trị dân chủ, một hệ thống
chính trị mà chưa một quốc gia nào trong số các lãnh thổ này từng trải qua.
Trên thực tế, nước Mỹ đã đóng vai trò của một nước thực dân. Nó vẫn duy trì
quyền kiểm soát về mặt hành chính đối với Puerto Rico và Guam, chỉ trao cho
Cuba nền độc lập trên danh nghĩa và đàn áp dã man phong trào độc lập có vũ
trang tại Phillipines (Phillipines giành quyền bầu cử cả hai viện lập pháp của
mình vào năm 1916. Năm 1939, liên hiệp Phillipines với quyền tự trị lớn được
thành lập. Năm 1946, sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, quần đảo này giành được
nền độc lập thực sự).
Can thiệp của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương
không chỉ giới hạn ở quần đảo Phillipines. Trong năm diễn ra cuộc chiến Tây Ban
Nha-Mỹ, nước Mỹ còn bắt đầu đặt quan hệ với quần đảo Hawaii. Trước kia, các mối
liên lạc với Hawaii chủ yếu là qua các nhà truyền giáo và các thương gia. Tuy
nhiên, sau năm 1865, các nhà đầu tư Mỹ bắt đầu khai thác các nguồn tài nguyên
trên đảo - chủ yếu là mía và dứa.
Khi chính phủ của Hoàng hậu Liliuokalani bày
tỏ thái độ muốn chấm dứt mọi ảnh hưởng nước ngoài vào năm 1893, các thương gia
Mỹ đã liên kết cùng một số người Hawaii có thế lực nhằm lật đổ bà ta. Được
khích lệ bởi Đại sứ Mỹ tại Hawaii và lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại đây,
chính quyền mới đề nghị sáp nhập Hawaii vào Mỹ. Tổng thống Cleveland, lúc đó
mới bắt đầu nhiệm kỳ hai đã bác bỏ đề nghị này. Hawaii trở thành một lãnh thổ
độc lập trên danh nghĩa cho đến cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ, khi đó với
sự hậu thuẫn của Tổng thống McKinley, Quốc hội đã phê chuẩn hiệp định sáp nhập.
Năm 1959, Hawaii trở thành bang thứ 50 của Mỹ.
Ở một góc độ nào đó, đặc biệt là trong
trường hợp của Hawaii, các lợi ích kinh tế đóng vai trò lớn trong việc bành
trướng của Hoa Kỳ nhưng đối với các nhà lập pháp đầy thế lực như Roosevelt,
Thượng nghị sỹ Henry Cabot Lodge, và Ngoại trưởng John Hay và đối với các nhà
chiến lược nhiều ảnh hưởng như Đô đốc Alfred Thayer Mahan, mục đích chính là vị
trí địa lý. Đối với họ, lợi ích lớn nhất của việc chiếm được Hawaii chính là
Trân châu Cảng (Pearl Harbor) nơi sẽ là căn cứ hải quân chiến lược của Mỹ tại
trung tâm Thái Bình Dương. Quần đảo Phillipines và Guam cũng là nơi đặt hai cơ
sở khác tại Thái Bình Dương - Wake Island, Midway và American Samoa. Puerto
Rico là bàn đạp quan trọng tại khu vực Caribê nơi đang có vị trí ngày càng quan
trọng khi Mỹ đang toan tính về một kênh đào của khu vực Trung Mỹ.
Chính sách thực dân của Mỹ có xu hướng nghiêng
về khuyến khích chế độ tự trị dân chủ. Cũng giống như đã thực hiện với
Phillipines vào năm 1917, Quốc hội Mỹ cho người dân Puerto Rico bầu cử tất cả
các nhà lập pháp của họ. Một đạo luật tương tự đã biến hòn đảo này chính thức
trở thành lãnh thổ của Mỹ và mọi người dân Puerto Rico được hưởng quyền công dân
của Mỹ. Năm 1950, Quốc hội trao cho Puerto Rico toàn quyền quyết định tương lai
của mình. Năm 1952, dân Puerto Rico đã bỏ phiếu chống cả việc biến hòn đảo này
thành một bang của Mỹ lẫn việc giành quyền độc lập hoàn toàn cho quốc đảo này.
Thay vào đó, họ chọn hình thức liên hiệp. Hình thức này đã tồn tại suốt từ đó
đến giờ bất chấp nỗ lực của phong trào lớn tiếng đòi ly khai. Rất đông người
Puerto Rico đã tới nước Mỹ nơi họ được quyền nhập cư và được hưởng mọi quyền
lợi chính trị và công dân như bất kỳ công dân Mỹ nào.
CON KÊNH ĐÀO VÀ CÁC NƯỚC CHÂU MỸ
Sau cuộc chiến với Tây Ban Nha, nước Mỹ lại
bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng một kênh đào bắc ngang eo biển Panama, nối
liền hai đại dương. Lợi ích của một con kênh như vậy đối với việc chuyên chở
hàng hóa trên biển đã được nhiều quốc gia thương mại lớn nhận ra; người Pháp đã
đào con kênh từ cuối thế kỷ XIX nhưng phải bỏ cuộc vì không giải quyết nổi các
thách thức về kỹ thuật. Là một thế lực tại vùng biển Caribê và Thái Bình Dương,
nước Mỹ thấy ở con kênh đào không chỉ lợi ích về kinh tế mà nó còn là phương
tiện giúp chuyên chở tàu chiến từ đại dương này sang đại dương khác nhanh hơn.
Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ đó, nước
Panama ngày nay chỉ là một tỉnh ở phía bắc của Colombia. Khi chính quyền
Colombia năm 1903 từ chối phê chuẩn hiệp định cho Mỹ quyền xây và quản lý con
kênh, một nhóm người Panama với sự giúp đỡ của Lính thủy đánh bộ Mỹ đã nổi dậy
và tuyên bố độc lập cho Panama. Ngay lập tức quốc gia mới ly khai này được Tổng
thống Theodore Roosevelt công nhận. Theo điều khoản của hiệp định được ký vào
tháng 11 năm đó, Panama trao cho Mỹ quyền thuê vĩnh viễn dải đất rộng 16 km
(Khu vực kênh đào Panama) nằm giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương để được
nhận 10 triệu đô-la và khoản lệ phí 250.000 đô-la mỗi năm. Colombia cũng nhận
được 25 triệu đô-la như một phần tiền đền bù. 75 năm sau, Panama và Mỹ đã ký
kết một hiệp định mới. Hiệp định này thừa nhận chủ quyền của Panama tại Vùng
Kênh đào và cam kết chuyển giao kênh đào này trở lại cho Panama vào ngày 31/12/1999.
Việc xây dựng xong Kênh đào Panama năm 1914 do
Đại tá George W. Goethals chỉ đạo là một thành tựu lớn trong ngành cơ khí. Việc
đẩy lùi cùng lúc bệnh sốt rét và sốt vàng da khi đó cũng góp phần giúp công
trình được hoàn thành và đồng thời đã trở thành một trong những chiến công vang
dội nhất trong phòng chữa bệnh trong thế kỷ XX.
Tại các khu vực khác của châu Mỹ La-tinh, Mỹ
cũng liên tục có những hành động can thiệp. Trong khoảng thời gian giữa năm
1900 và 1920, Mỹ đã tiến hành sáu vụ can thiệp dai dẳng tại sáu nước ở phía Tây
Bán cầu - trong đó nổi bật là Haiti, Cộng hòa Dominica và Nicaragua. Washington
đã đưa ra hàng loạt các lời biện minh cho các hành động can thiệp này như: để
thiết lập ổn định chính trị và chính phủ dân chủ, để tạo môi trường đầu tư
thuận lợi cho Mỹ (thường được gọi là chính sách ngoại giao đô-la), để duy trì
tuyến đường biển nối với Kênh đào Panama và thậm chí là để tránh cho các nước
châu Âu khỏi việc đòi nợ bằng vũ lực. Năm 1867, Mỹ đã ép Pháp phải rút quân đội
ra khỏi Mexico. Tuy nhiên, nửa thế kỷ sau, trong một phần của chiến dịch sai
lầm nhằm đàn áp cuộc nổi dậy của người Mexico và ngăn chặn các cuộc đột kích
vào lãnh thổ của Mỹ, Tổng thống Woodrow Wilson đã cử 11.000 quân tới vùng phía
bắc của Mexico trong một nỗ lực không thành nhằm vây bắt thủ lĩnh nổi loạn
Francisco Pancho Villa.
Với vai trò là nước mạnh nhất và tự do nhất
Tây Bán cầu, nước Mỹ cũng đóng vai trò thiết lập cơ sở thể chế cho sự hợp tác
giữa các quốc gia Mỹ La-tinh. Năm 1889, Ngoại trưởng James G. Blaine đưa ra sáng
kiến rằng 21 quốc gia độc lập ở Tây Bán cầu sẽ tham gia vào một tổ chức có
nhiệm vụ giải quyết các bất đồng bằng các biện pháp hòa bình và thúc đẩy hơn
nữa hợp tác kinh tế. Kết quả là Liên minh Pan-Mỹ đã ra đời năm 1890 và là tiền
thân của tổ chức Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) ngày nay.
Chính quyền sau này của Herbert Hoover
(1929-33) và Franklin D. Roosevelt (1933-45) bác bỏ quyền can thiệp của Mỹ ở
châu Mỹ La-tinh. Đặc biệt, Chính sách láng giềng tốt của Roosevelt năm 1930 dù
không thể xóa hết các căng thẳng giữa Mỹ và châu Mỹ La-tinh đã giúp giảm bớt
thái độ thù địch với các hành động can thiệp và đơn phương trước đây của Mỹ.
HOA KỲ VÀ CHÂU Á
Mới giành được vị trí tại Phillipines và đã
vững vàng tại Hawaii vào thời điểm chuyển giao của thế kỷ, nước Mỹ rất kỳ vọng
vào mối quan hệ thương mại bùng nổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản và các
nước châu Âu đã tạo lập vị trí vững chắc tại thị trường này với các căn cứ hải
quân, các vùng lãnh thổ cho thuê, các đặc quyền thương mại và đặc quyền đầu tư
vào các ngành xây dựng đường sắt và khai mỏ.
Trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chủ nghĩa
lý tưởng tồn tại song song cùng khát vọng cạnh tranh cùng các thế lực châu Âu
tại khu vực Viễn Đông. Vì vậy mà Chính phủ Mỹ luôn yêu cầu, như một vấn đề
nguyên tắc, sự bình đẳng trong các đặc quyền thương mại cho tất cả các quốc
gia. Tháng 9/1899, Ngoại trưởng John Hay tuyên bố ủng hộ chính sách Mở cửa cho
tất cả các quốc gia có mặt tại Trung Quốc - tức là, sự bình đẳng trong các cơ
hội kinh doanh (bao gồm thuế, thuế hải quan và cước phí đường sắt công bằng)
tại các khu vực do châu Âu quản lý. Dù có những nội dung lý tưởng, Chính sách
Mở cửa, về bản chất, là một công cụ quản lý tận dụng được các ưu thế của chủ
nghĩa thực dân trong khi vẫn tránh được các thất bại thường gặp trong việc thực
hiện. Chính sách này cũng chỉ đạt được thành công vừa phải.
Với cuộc nổi loạn của Nghĩa hòa đoàn năm 1900,
Trung Quốc bắt đầu phản kháng lại với các thế lực nước ngoài. Trong tháng 6,
nghĩa quân chiếm được Bắc Kinh và tấn công các tòa công sứ nước ngoài ở đây.
Ngoại trưởng Hay nhanh chóng thông báo cho cả phía châu Âu và Nhật Bản rằng
nước Mỹ sẽ phản kháng lại bất kỳ hành động nào đi ngược lại các quyền quản lý
hành chính hay quyền về lãnh thổ của người Trung Quốc và khẳng định lại Chính sách
Mở cửa. Khi cuộc nổi loạn bị dập tắt, Hay đã bảo vệ Trung Quốc khỏi những khoản
bồi thường khổng lồ. Chủ yếu là vì lợi ích của Trung Quốc mà Anh, Đức và các
thế lực thực dân yếu hơn đã chính thức công nhận Chính sách Mở cửa và nền độc
lập của Trung Quốc. Trên thực tế, họ đã củng cố lại những địa vị độc tôn của
mình tại quốc gia này.
Một vài năm sau đó, Tổng thống Theodore
Roosevelt làm trung gian hòa giải cho cuộc chiến tranh bế tắc giữa Nga và Nhật
năm 1904-1905. Xét về nhiều phương diện, cuộc chiến này là cuộc tranh giành ảnh
hưởng và quyền lực tại tỉnh MÃn Châu phía bắc của Trung Quốc. Roosevelt hy vọng
rằng việc dàn xếp của mình có thể đem lại cơ hội mở cửa cho các công ty Mỹ
nhưng kẻ thù trước đây và các thế lực đế quốc khác đã thành công trong việc đẩy
Mỹ ra khỏi Trung Quốc. Ở đây cũng giống như ở các nơi khác, nước Mỹ không sẵn
lòng để triển khai quân đội chỉ để phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc về kinh tế.
Tuy nhiên ít ra thì Roosevelt cũng có thể hài lòng với Giải Nobel Hòa bình
(1906). Ngoài ra, mặc dù Nhật Bản cũng đã nhận được nhiều lợi ích, nhưng mối
quan hệ giữa Mỹ và quốc đảo đầy kiêu hãnh và quyết đoán này đã trải qua nhiều
phút sóng gió trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.
J.P. MORGAN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TÀI CHÍNH
Nền công nghiệp của Mỹ phát triển không chỉ
nhờ vào các nhà công nghiệp vĩ đại. Một nền công nghiệp lớn đòi hỏi một lượng
vốn lớn; sự phát triển kinh tế vượt bậc cần tới các nhà đầu tư nước ngoài. John
Pierpont (J.P) Morgan là nhà tài chính vĩ đại nhất của Mỹ đã thỏa mãn cả hai
điều kiện trên.
Trong suốt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
Morgan làm chủ ngân hàng đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ. Ngân hàng này làm môi giới
giữa các công ty chứng khoán Mỹ với các nhà đầu tư giàu có trong nước và ngoài
nước. Do các nhà đầu tư nước ngoài cần được đảm bảo rằng các khoản đầu tư của
họ luôn được đại diện bởi một đồng tiền ổn định, Morgan đã rất quan tâm đến vấn
đề gắn đồng đô-la với giá trị bằng vàng của nó. Trong khi nước Mỹ chưa có một
ngân hàng trung ương, ngân hàng của ông, trên thực tế, đã thực hiện nhiệm vụ
của một ngân hàng trung ương.
Kể từ những năm 1880 đến đầu thế kỷ XX, Morgan
và công ty của ông không chỉ quản lý các công ty chứng khoán bảo lãnh cho nhiều
vụ sáp nhập công ty quan trọng, mà nó còn khởi xướng khá nhiều vụ sáp nhập đó.
Ngoạn mục nhất là vụ sáp nhập Tập đoàn Thép của Mỹ từ công ty Thép Carnegie với
nhiều công ty khác. Giá trị cổ phiếu và trái phiếu mà tập đoàn này bán ra cho
các nhà đầu tư đã đạt mức chưa từng có trong lịch sử trước đó là 1,4 tỷ đô-la.
Morgan đạo diễn và thu những khoản lợi nhuận
khổng lồ từ các vụ sáp nhập. Đóng vai trò là ngân hàng chủ đạo của các dự án
đường sắt, ông đã thành công trong việc ngăn chặn sự cạnh tranh giữa các công
ty. Các nỗ lực tổ chức của ông đã mang lại sự ổn định cho nền công nghiệp Mỹ
qua việc chấm dứt các cuộc chiến tranh giá cả và mang phần thua thiệt đến cho
nông dân và các nhà sản xuất nhỏ, những người coi ông như kẻ thù. Trong năm
1901, khi ông thành lập Công ty Chứng khoán phía Bắc để quản lý các công trình đường
sắt quan trọng, Tổng thống Theodore Roosevelt đã thông qua Đạo luật Chống độc
quyền Sherman nhằm ngăn chặn vụ sáp nhập này.
Với vai trò không chính thức của một ngân hàng
trung ương, ngân hàng của Morgan đi tiên phong trong việc giữ giá đồng đô-la trong
suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế giữa những năm 1890 bằng việc chào bán số
lượng lớn trái phiếu chính phủ nhằm gây quỹ cho kho dự trữ vàng của Kho bạc nhà
nước. Đồng thời, công ty của ông cũng đứng ra bảo lãnh ngắn hạn dự trữ vàng của
quốc gia. Năm 1907, ông dẫn đầu cộng đồng tài chính New York trong việc ngăn
chặn nguy cơ phá sản hàng loạt của các công ty. Trong quá trình này, công ty
của chính ông đã mua lại được một công ty thép độc lập lớn, sau này được sáp
nhập với Công ty Thép của Mỹ và đích thân Tổng thống Roosevelt đã thông qua vụ
sáp nhập này nhằm tránh một cuộc khủng hoảng tồi tệ.
Vào thời điểm đó, quyền lực của Morgan lớn đến
mức hầu hết dân Mỹ bỗng quay ra nghi ngờ và không ưa ông. Với một chút cường
điệu, nhiều nhà cải cách đã miêu tả ông là giám đốc của tờ -rớt tài chính đã
kiểm soát toàn bộ nước Mỹ. Vào lúc ông qua đời năm 1913, nước Mỹ đang trong quá
trình hoàn tất việc thiết lập một ngân hàng trung ương, Cục Dự trữ Liên bang,
thực hiện các nhiệm vụ mà trước đây ông vẫn đảm nhiệm một cách không chính
thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét