Ngày
12 tháng mười một năm 1938, "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin, Hồ
Tập Chương bị bắt giam tại nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam. Rốt cuộc "Hà
Nam" là địa phương nào? Nam Thạch Đầu ngục ở đâu? Căn cứ vào "Lịch sử
tổ chức Đảng cộng sản thành phố Quảng Châu" "Hà Nam" ở phía nam
sông Châu, còn nhà giam Nam Thạch Đầu ở phố Nam Thạch Đầu, khu Hải Châu, thành
phố Quảng Châu gọi là "Trại trừng giới". Sự kiện ngày 15 tháng tư năm
1927, Quốc dân đảng mở cuộc càn quét bắt giữ hàng loạt đảng viên cộng sản giam
giữ tại đây. Liên quan đến sự kiện "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa
tin Hồ Tập Chương bị giam tại nhà lao Nam Thạch Đầu, phải chăng có dính dáng đến
việc đồng nhất thân phận Hồ Tập Chương với Hồ Chí Minh, khi Hồ Chí Minh vào
tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938 đột nhiên mất tích ở cơ quan Bát lộ
quân Quế Lâm, Quảng Tây? Hồ Chí Minh bị giam ở Quảng Châu nhưng lại mất
tích ở Quế Lâm nửa tháng đều thuộc tiểu sử Hồ Chí Minh chưa bao giờ được
báo chí đưa tin, lại càng chứng thực Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh. Mối
quan hệ nhân qủa đặc biệt quan trọng này sẽ được trình bày cụ thể ở mục
"Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm" và "Đài Loan nhật nhật tân
báo" trong Thiên IV.
"Hồi
ký Trịnh Siêu Lân": Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Trang
mạng "Bách gia tranh minh", chuyên mục "Lĩnh Nam di dân" có
bài "Dưới Nam Sơn dằng dặc" đã đăng tải một thiên dẫn từ "Hồi ký
Trịnh Siêu Lân" liên quan đến sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Long Châu. Cũng
ở chuyên much này, ngày 16 tháng chín năm 2007, đã đăng một bài viết về Hồ Chí
Minh bị bắt, nội dung như sau: "Tôi đã nhiều lần đọc trên mạng thấy các
bài viết của nữ sĩ Đới Tình dẫn ra hai thiên "Truyện Phó Đại Khánh" của
Trịnh Siêu Lân. Trong đó, Trịnh tiên sinh đã đề cập đến Phó Đại Khánh (thân phụ
của nữ sĩ Đới Tình), vào năm 1931, đã gặp Hồ Chí Minh ở phòng tạm giam Quảng
Châu. Tại đây, Hồ Chí Minh đã nhờ Phó Đại Khánh chuyển tin đến Đảng Cộng sản
Trung Quốc đề nghị giải cứu. Từ những điều tác giả viết, Hồ Chí Minh tại đất
Trung Quốc đã hai lần bị bắt, lần đầu bị cảnh sát Hương Cảng bắt vào năm 1931,
lần sau bị Quốc dân đảng bắt vào tháng tám năm 1942 ở huyện Đức Bảo,Quảng Tây.
Sau khi đọc hai bài viết trên, tôi tiến hành điều tra các nguồn tư liệu tiếng
Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt, nhưng không thấy bất cứ tài liệu
nào nói đến việc Hồ Chí Minh bị bắt giam ở Quảng Châu vào năm 1931. Sau
này, tôi cũng đã hỏi một người rất thông thạo lịch sử Việt Nam là giáo sư Nguyễn
Thế Anh, ông trả lời là chưa bao giờ được nghe chuyện ấy. Lẽ nào các sử gia lại
để sót sự kiện này? Tôi bèn đọc lại "Hồi ký Trịnh Siêu Lân" và tạm thời
đề xuất mấy khả năng có thể xẩy ra như sau:
1 - Căn cứ vào văn bản của Trịnh Siêu Lân, Phó Đại Khánh bị bắt
tại Calcutta, Ấn Độ, giải về Nam Kinh thẩm vấn, giữa đường gặp Hồ Chí Minh ở Quảng
Châu, tức là hành trình Calctta - Quảng Châu - Nam Kinh. Vậy vì sao Phó lại
không đi đường Calcutta - Thượng Hải - Nam Kinh, há chẳng tiện hơn sao? Có lẽ
tuyến Thượng Hải - Quảng Châu và Calcutta, thuyền bè qua lại không nhiều, hoặc
không có. Về mặt tư liệu và chứng cứ, chúng ta có thể phán đoán, giữa Hương Cảng
và Calcutta các phương tiện giao thông rất thuận lợi, hai nơi này lại đều là
thuộc địa Anh Quốc, nên có khả năng Phó và Hồ gặp nhau tại Hương Cảng. Trịnh
lão tiên sinh, khi viết truyện này đã chín mươi tuổi, những vấn đề thuộc về ký ức
rất có thể nhầm lẫn đem Hương Cảng đổi thành Quảng Châu. Rất tiếc tác giả đã
qua đời nên không thể xác minh tường tận. Chỉ có một điểm, thời gian hai người
gặp Hồ Chí Minh bị bắt tại Hương Cảng cũng tương đối gần nhau. Trịnh tiên sinh
nói sự việc xẩy ra vào giữa mùa xuân và mùa hè, mà thời gian chính xác Hồ bị cảnh
sát Hương Cảng bắt vào ngày 6 tháng sáu năm 1931.
2 -
Hương Cảng và Quảng Châu cách nhau hơn trăm dặm, sau khi Hồ Chí Minh
bị bắt ở Hương Cảng, cũng có thể bị giải đến Quảng Châu, vậy vì sao không có bất
cứ tờ báo nào của thực dân Anh đưa tin này? Nếu phán đoàn và suy luận việc này
là không có khả năng, như vậy, sự kiện Hồ Chí Minh từng đến Quảng Châu rồi bị bắt
(hoạc bị tạm giam) sẽ là một chi tiết nhỏ trong tiểu sử Hồ Chí Minh mới được
phát hiện.
Ở phần
trên, chúng ta đã biết đến sự kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu"
của "Lĩnh Nam di dân". "Lĩnh Nam di dân" là chuyên mục của
nhóm người Việt gốc Hoa, đã có những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam hiện đại. Ở
trang web này, đã có nhiều bài nghiên cứu về Hồ Chí Minh rất đáng đọc.
"Lĩnh Nam di dân" đề cập đến sự kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng
Châu" có tham vấn ý kiến giáo sư Nguyễn Thế Anh, là chuyên gia nghiên cứu
lịch sử cận đại Việt Nam. Đối với Hồ Chí Minh, ông cũng có những phát hiện độc
đáo, nhưng lại không hề biết về sự kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng
Châu". Có thể thấy, vào những năm 1929 đến 1932, việc Hồ Tập Chương hoạt động
ở Trung Quốc, được Trung cộng bảo mật khá tốt. Trong "Truyện Phó Đại
Khánh", Trịnh Siêu Lân tiên sinh viết có đoạn Phó Đại Khánh tham gia giải
cứu Hồ Chí Minh. Độc giả có thể đọc trang mạng "Lĩnh Nam di dân" hoặc
tham khảo "Lịch sử và hồi ức" của Trịnh Siêu Lân (Sử sự dữ hồi ức -
Trịnh Siêu Lân vãn niên văn tuyển đệ nhị quyển). Ngoài ra cũng có thể xem thêm
"Quốc tế cộng sản và Trung Quốc", quyển 3, ghi chép các sự kiện
trước sau năm 1930: "Phó Đai Khánh và Hồ Tập Chương nhiệt tình giúp đỡ
nhau cùng tham gia hội nghị Malaysia ở Singapore".
Bí mật "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu"
Liên quan đến bí mật "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng
Châu", gia đình ở Miêu Lật Đài Loan, cả hai lần đều được biết tin. Lần thứ
nhất ước vào khoảng trước sau năm 1932, Hồ Tập Chương gửi tiền nhờ người bạn
chuyển giúp. Người bạn này từ Đại Lục qua Nhật Bản rồi mới trở về Đài Loan,
thông báo với người nhà: " Hồ Tập Chương là công chức trong 'Liên minh mậu
dịch Thái Bình Dương' tại Thượng Hải, vì làm công việc in ấn tài liệu, bị kiểm
tra, niêm phong nhà, có thể bị bắt, nên phải bí mật đến Quảng Châu tránh nạn, sau
đó chuyển dến Quảng Tây, Xiêm La dạy tiếng Nhật và khai khoáng làm kế sinh
nhai". Từ sau năm 1933, vì đã nhiều năm không có tin tức gì, gia dình cho
rằng Hồ Tập Chương đã mất ở quê người.
Lần thứ hai, vào khoảng tháng mười một đến tháng mười hai năm
1938, tờ "Nhật nhật tân báo" bằng tiếng Nhật ở Đài Loan đưa tin
"Hồ Tập Chương, người Đài Loan, được Nhật Bản huấn luyện đặc vụ đưa đến Quảng
Châu công tác, vì thân phận bại lộ, bị bắt giam tại nhà ngục Quảng Châu. Thời kỳ
quân đội Nhật tiến đánh Quảng Châu, ông ta chạy thoát khỏi nhà giam, được giao
nhiệm vụ thông dịch viên cho "Quân lệnh bộ Quảng Đông". Năm ấy , Hồ Tập
Chương có một người em út là Hồ Tập Dưỡng bị quân Nhật trưng binh đưa đến Hạm đội
Hương Cảng làm phiên dịch, đọc "Nhật nhật tân báo" mới biết tin về Hồ
Tập Chương, liền đến Quảng Châu thăm anh. Sau đó Hồ Tập Dưỡng về Đài Loan thông
báo với gia đình tình hình gần đây của Hồ Tập Chương, đồng thời đặc biệt chuyển
lười của anh với gia tộc: "Sắp tới anh ấy sẽ đi Vân Nam chuyển đến Việt
Nam để phát triển tổ chức, nếu không thành công sẽ không về nhà. Gia dình không
cần phải đi tìm".
Từ đấy về sau, Hồ Tập Chương không có bất cứ sự liên lạc nào với
gia đình.
Tiểu
sử giản lược Hồ Tập Chương
1 -
Sinh năm 1901 (Minh Trị thứ 34), tức ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu tại trang Đồng
La, quận Miêu Lật, tỉnh Đài Loan vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan. Cha
là Hồ Dần Lượng, mẹ là Lý Thị, đứng thứ 7 trong số 10 anh chị em. Cụ Hồ Dần Lượng vốn
là tú tài (sinh đồ), mở nhà dạy học kiêm nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người.
Dân địa phương phục tài xưng là "Thánh nhân".
2 -
Từ năm 1906 đến 1910, học với cha. Ngay từ buổi thiếu thời, Hồ Tập Chương đã được
tiếp thụ nền giáo dục Hán học nghiên ngặt, thông thạo thi từ, viết chữ phỏng,
tuy không tinh diệu, nhưng đến việc đọc, viết đều không thành vấn đề. Sau đó
ông còn luyện tập viết chữ cho đến khi có khả năng thư pháp.
3 -
Từ năm 1910 đến 1915, vào học trường phổ thông Đông La, tiếp thụ nền giáo dục mới
của Nhật với 3 năm Hán văn và Nhật văn.
4 -
Từ năm 1916 đến năm 1921, học Khoa Hóa học ứng dụng trường Đại học Công nghiệp
Đài Bắc số 1 cùng với các sinh viên Nhật Bản. Căn cứ vào lời người chú của tác
giả, thì, lúc bấy giờ cả quận Miêu Lật chỉ có một người là Hồ Tập Chương được
tuyển chọn. Năm 1921 đỗ tốt nghiệp cấp ưu tú. Sau năm 1921, Đại học Công nghiệp
Đài Bắc số 1 và số 2 hợp nhất, đổi tên là Đại học Công nghiệp Châu lập Đài Bắc.
Đến năm 1943, số sinh viên là 1545, trong đó, Nhật Bản 1105, như vậy Đài Loan
chỉ có 429. Người Đài Loan lấy lý do chỉ có một nửa sinh viên so với Nhật nên
đã phản đối sự thống trị của đế quốc Nhật, chủ trương giành độc lập cho Đài
Loan.
5 -
Từ năm 1922 đến 1928, Hồ Tập Chương trở về Miêu Lật cùng với huynh trưởng mở xưởng
nấu rượu và khai trương hiệu thuốc. Cùng với rượu và thuốc, Hồ Tập Chương còn kết
hợp với một người bạn sản xuất xì dầu. Ông thường xuyên giao du, tụ tập bạn bè
trao đổi tin tức chống Nhật, học thêm tiếng Anh và đọc các sách báo cộng sản,
có dủ điều kiện hoạt động chống Nhật nhưng chưa tham gia các tổ chức cộng sản.
6 -
Năm 1926, kết hôn với người con gái cùng thôn là Lâm Quế.
7 -
năm 1928, Sinh con gái đầu lòng là Hồ Tố Mai.
8 -
Mùa thu năm 1929, Hồ Tập Chương có người anh thứ ba là Hồ Tập Phỉ cùng với em rể
Lưu Anh Hán và một người bạn ở Trung Lịch, đến bến Cơ Long, xuống tàu Nhật đi
Thượng Hải. Sau chuyến đi, người bạn trở lại Đài Loan thông báo, gia đình mới
biết Hồ Tập Chương đi Thượng Hải tham gia "Tổ chức lao động Thái Bình
Dương" của Quốc tế cộng sản. Trước khi rời Đài Loan, Hồ Tập
Chương đã đốt hết sách báo tài liệu liên quan đến cộng sản khiến người nhà
không hiểu lý do, sau này mới rõ, ông làn thế là để tránh liên lụy đến gia
đình.
9 - Mùa xuân năm 1930, con trai trưởng Hồ Thự Quang ra đời nhưng
không biết mặt cha.Tôi có hỏi về mối quan hệ giưa Hồ Chí Minh với gia đình qua
những thông tin trên báo chí, Hồ Thự Quang vào năm 2005 đã 75 tuổi, bị trúng
gió nhẹ, cặp mắt hơi lệch, nói câu được câu mất: "Lúc còn nhỏ, bác Ba (Hồ
Tập Phỉ) từng nói với tôi: 'Cha cháu làm nghề buôn bán ở Thượng Hải'. Khi tôi
mười lăm, mười sáu, chú Út (Hồ Tập Dưỡng) lại bảo: ' Cha cháu có khả năng là Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam". Chú Thự Quang thở dài nặng nhọc, nói đứt
quãng: "Mấy chục năm nay đã nghe nhiều tin đồn, chẳng biết có dụng ý gì.
Chú muốn hỏi thân mẫu nhưng bà đã qua đời. Từ lúc phụ tử phân ly, mỗi người một
phương, chưa từng gặp mặt, cũng chẳng để lại một dòng lưu bút nào. Được tôn
xưng là 'Cha già Việt Nam', nhưng chú chắc rằng, trong lòng ông lúc nào cũng
thương cảm mà thôi". Nói rồi, ông đứng dậy, nghẹn ngào. Tôi vội vàng đỡ lấy,
an ủi: "Thời tao loạn, tạo hóa trêu ngươi. Từ lúc chính phủ Quốc dân đảng
tiến nhập Đài Loan, ông không thể về, chứ không phải không muốn về. Tiểu thúc
công chẳng đã từng nói, trên hành trình bôn ba, Người lấy tên Hồ Quang làm bí
danh, đó chẳng phải là tình cảm của Người với gia đình sao?"
10 - Trước sau năm1932, những người bạn thay nhau truyền tin về
gia đình là, Hồ Tập Chương làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình
Dương" Thượng Hải, khoảng thời gian giữa mùa hạ và mùa thu năm 1931, vì việc
in ấn tài liệu mà bị bắt tạm giam nhưng đã trốn đến được đến Quảng Châu, sau đó
lại bị bắt ở Quảng Châu, đến khi được giải cứu thì chuyển về vùng biên giới Việt
Trung, Xiêm La hoạt động.
11 - Năm 1932-1933, có tin Hồ Tập Chương đến vùng núi Quảng
Tây khai thác quặng, giám dịnh ngọc quý rồi sau đó sang Xiêm La hoạt động, có
nhờ một người bạn gửi tiền về cho gia đình. Từ năm 1933, sau nhiều năm không nhận
được tin tức, người nhà cho rằng Hồ Tập Chương đã qua đời.
12 - Từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, tờ báo Đài
Loan bằng tiếng Nhật "Nhật nhật tân báo" đưa tin: "Hồ Tập Chương
trốn khỏi nhà giam, bí mật đến quân doanh Nhật ở Quảng Đông làm nhiệm vụ thông
dịch cho quan chỉ huy "Quảng Đông quân lệnh bộ". Như chúng ta đã biết,
Hồ Tập Chương vốn tinh thông nhiều ngoại ngữ như là một vốn quý nên bị các thế
lực tranh thủ lôi kéo không có gì lạ. Đến đây người nhà mới biết tin về ông.
13 - Đầu năm 1939, người em út của Hồ Tập Chương là Hồ Tập Dưỡng,
bị quân Nhật trưng binh đưa đến Hạm đội Hương Cảng làm phiên dịch đã tìm đến Quảng
Châu gặp Hồ Tập Chương. Khi về Đài Loan, ông đã báo tin cho gia đình, đồng thời
chuyển lời dặn của Hồ Tập Chương là: "Anh ấy sắp sửa sang Việt Nam hoạt động,
nếu không thành công sẽ không về nhà, gia đình đừng tìm kiếm".
14 - Đầu năm 1939, Hồ Tập Chương rời quân đội Nhật, gia nhập cơ
quan Bát lộ quân Quế Lâm Quảng Tây thì không gặp lại Hồ Tập Dưỡng nữa, đồng thời
cũng không có bất cứ sự liên lạc nào với gia đình.
15 -
Năm 1946, Ngô Trọc Lưu ở "Đài Bắc Quốc hoa thư tịch", xuất bản 4 cuốn
tiểu thuyết bằng tiếng Nhật, trong đó có cuốn "Hồ Chí Minh" nổi tiếng,
có xen kẽ một số sự kiện Hồ Tập Chương hoạt động ở Thượng Hải, bị bắt giam,
chính là đã truyền đạt ngầm một thông tin tối quan trọng về bí mật Hồ Chí Minh ở
Việt Nam chính là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Sau này, tiểu thuyết "Hồ
Chí Minh" chuyển ngữ sang Trung Văn được đổi tên thành "Đứa con côi
châu Á", bởi lẽ, sau khi quân đội Quốc dân đảng tiến ra Đài Loan, Hồ Tập
Chương không thể trở về quê hương, cuối cùng trở thành "Đứa con côi châu
Á".
Tiểu
sử Nguyễn Ái Quốc
1-
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng năm năm 1890 tại thôn Kim Liên, xã Nam Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Tên hồi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, đến năm
11 tuổi đổi thành Nguyễn Tất Thành. Năm 17 tuổi, lúc ấy ông đang ở Paris đổi
thành Nguyễn Ái Quốc. Cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, là con thứ
3 trong số 4 anh chị em. Cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng được bổ tri huyện, sau
khi bị cách chức chuyển sang làm thầy lang, lưu lạc đến phương Nam, bị bệnh chết
năm 1928.
2 -
từ năm 1900 đến 1904, theo học chữ Hán nhưng không liên tục, thời gian rất ngắn.
3 - Năm 1905 đến 1908, vào học dự bị trường Quốc học Huế, học
Pháp văn, Việt văn, thời gian không quá 4 năm.
4 - Năm 1910 làm giáo viên trường tiểu họ Dục Thanh, giảng dạy
môn thể dục, thời gian khoảng 1 học kỳ.
5 - Năm 1911, khi mới đến Sài Gòn, tạm thời học nghề làm bếp,
sau đó lên tàu Amiral Latouche Trevil xin làm phụ bép. Ngày 6 tháng năm, Nguyễn
Tất Thành theo tàu đến Singapore rồi tiếp tục hành trình sang Pháp, bắt đầu cuộc
đời phiêu bạt hoạt động cách mạng.
6 - Năm 1913, tàu đến Marseille, sau khi bốc hàng, lại tiếp tục
đến Tây Phi rồi đi Bắc Mỹ.
7 - Thời gian từ 1914 đến 1917, tạm trú ở London, ban ngày làm
nghề quét tuyết, buổi tối phụ bếp cho một quán ăn, học tiếng Anh, tham gia tổ
chức Công nhân ngoại kiều phản đối chủ nghĩa thực dân. Sau này, do tàu thủy cần
người làm việc, lại tiếp tục hành trình sang NewYork.
8 - Cuối năm 1917, quay lại Paris, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, kết
giao thân thiết với các nhà cách mạng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường v.v..
9 -
Năm 1919, làm quen với các chính khách Tả khuynh Pháp Marcel Cachin,Paul Vaillant
Couturier, Léon Blum và gia nhập đảng Xã hội Pháp cùng với nhóm Phan Văn Trường,
xuất bản tờ tuần san "Việt Nam hồn". Từ đó tên tuổi Nguyễn Ái Quốc nổi
tiếng ở Pháp, ảnh hưởng trở lại Việt Nam.
10 -
Gửi bản kiến nghị 8 điểm đến Hội nghị hòa bình Versailles, ký tên Nguyễn Ái Quốc,
đã có ảnh hưởng lớn đến cả hai nước Pháp, Việt.
11 -Năm 1920, tham gia Đại hội Tour của đảng Xã hội Pháp, lên án
tội ác của chủ nghĩa tư bản Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Cũng ở Đại hội này,
Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng Cộng sản, trở thành đảng viên sáng lập của đảng Cộng
sản Pháp.
12 - Năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc đảng Cộng sản
Pháp cử hành tại Marseille, tích cực hoạt động tuyên truyền phản đối chủ nghĩa
thực dân Pháp, trở thành chuyên gia về vấn đề "Chủ nghĩa thực dân" của
Đảng Cộng sản Pháp.
13 - Cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp ở
Bắc Phi và Madagasikara đang sống tại Paris thành lập "Hội Liên hiệp
thuộc địa" ((L'Union Intercoloniale) và xuất bản tờ báo "Người cùng
khổ" (Le Paria), phát hành được 38 kỳ.
14
-Tháng sáu năm 1923 rời Paris, tháng bảy đến Mạc Tư Khoa, được phân công làm việc
tại Cục Viễn Đông của Quốc tế cộng sản. Tháng mười, tham gia Đại hội thành lập
"Hội nông dân quốc tế", sau đại hội được bầu vào Đoàn chủ tịch của tổ
chức này. Tháng mười hai, vào học trường Đại học Lao động phương
Đông, tiếp thụ khóa trình huấn luyện 7 tháng về chủ nghĩa Marx-Lenin.
15 -
Tháng sáu năm 1924, tham gia Hội nghị Quốc tế cộng sản lần thứ V, tìm mọi cách
tranh thủ mọi cơ hội lên án đế quốc Pháp xâm lược và chủ nghĩa thực dân. Đảng Cộng
sản Pháp giới thiệu ra tranh cử dân biểu khu vực Paris, mở ra cho Nguyễn Ái Quốc
chỗ đứng trong vai trò vận động các nhà lãnh đạo quốc gia đối với phong trào Cộng
sản.
16 - Tháng mười năm 1924, rời Mạc Tư Khoa đến Vladivostok, từ
đây, xuống tàu về Quảng Châu ngày 11 tháng mười một.
17 - Năm 1925, tại Quảng Châu, tham gia thành lập tổ chức bí mật
"Tâm tâm xã", sau đổi thành "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội", kết nạp 10 thành viên, trở thành nhóm đảng viên dự bị đầu tiên
cho việc thành lập Đảng sau này, là tiếng kèn hiệu đưa Việt Nam vào quỹ đạo
phong trào Cộng sản thế giới. Từ tháng sáu năm 1925 đến tháng năm năm 1930, tuần
san "Thanh niên" bằng tiếng Việt đã phát hành 208 kỳ, phần lớn các
bài xã luận là do Nguyễn Ái Quốc viết.
18 - Năm 1926 tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân đảng lần
thứ II taj+i Quảng Châu, gửi Đại hội một bức thư ngắn gọn bằng tiếng Trung (tôi
nhận thấy, đây là lần thứ nhất và cũng là duy nhất, Nguyễn Ái Quốc công khai viết
bằng tiếng Trung), trình bày Việt Nam bị thực dân Pháp áp bức thống khổ. Trong
Đại hội, Nguyễn Ái Quốc phát biểu bằng tiếng Pháp được Lý Phú Xuân chuyển dịch
sang tiếng Hoa. Được Trung cộng giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc tích cực vận động người
Việt Nam gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội".
19 - Ngày 18 tháng mười năm 1926, tại nhà hàng Thái Bình Dương,
kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng là người giới thiệu
và làm chứng. Borodin và Trương Thái Lôi cũng đến dự hôn lễ.
20 -
Năm 1927, vì có cuộc thanh trừng cộng sản của Quốc dân đảng nên phải bí mật rời
đến Vũ Hán. Tháng bảy, hợp tác Quốc Cộng tan vỡ, rời Vũ Hán đến Mạc Tư
Khoa.
21 -
Tháng mười một năm 1927, được lệnh đến Paris trợ giúp đảng Cộng sản Pháp xây dựng
kế hoạch phát triển có hiệu quả cuộc vận động cách mạng Đông Nam Á. Đầu tháng
mươi hai, được Quốc tế cộng sản cử đến Bruxelles tham dự "Hội nghị Đồng
minh phản đối đế quốc", sau đó qua Thụy Sĩ, Italia và Pháp khảo sát thực tế.
22 -
Cuối tháng sáu năm 1928, đi tàu thủy của hãng vận tải Nhật Bản đến Bagkok
Thailand vào tháng bảy, kiểm tra các tổ chức cách mạng Việt kiều và thành lập
"Xiêm La cách mạng đồng chí hội".
23 - Năm 1929, tìm kiếm phương pháp chữa bệnh đông y để điều trị
lao phổi. Sau này, ông có báo cáo với các đồng chí Việt Nam ở Hương Cảng
là phải tạm thời dừng chân ở Xiêm chữa bệnh một năm, không thể tiếp tục công
tác được.
24 -
Đầu năm 1930, rời Bangkok đến Quảng Châu. Ngày 3 tháng hai, tại Hương Cảng, tiến
hành Đại hội đại biểu toàn quốc Việt Nam cách mạng đảng do Nguyễn Ái Quốc điều
hành. Ba tổ chức cộng sản vốn mâu thuẫn với nhau, hợp nhất thành một đảng lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng mười, chủ trị hội nghị lần thứ nhất Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, lại đổi
thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
25 - Năm 1931, được cử làm đại biểu Quốc tế cộng sản tại Hương
Cảng, phụ trách Cục Nam Dương. Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản bị khám xét.
Ngày 6 tháng sáu, chính quyền Hương Cảng gán cho tội danh là phần tử phá
hoại. Nhà đương cục Pháp tại Việt Nam trước đó cũng đã truy tố các tội danh chống
Pháp và phán quyết tử hình vắng mặt, yêu cầu chính quyền Hương Cảng dẫn độ về
Việt Nam thụ hình. Tại Hương Cảng, luật sư Loseby tìm mọi cách cứu Nguyễn Ái Quốc
và bố trí cho ông đi Singapore.
26 -
Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc bị thêm tội danh nhập cảnh trái phép do cảnh sát
Singapore không cấp thị thực, buộc phải trở lại nhà giam Hương Cảng. Tại đây,
luật sư Loseby cùng với tình báo viên Anh Quốc Paul Draken đã bí mật giải
cứu đưa lên một chiếc thủy phi cơ bay đến bến sông Hoàng Phố, sau đó được các đồng
chí của ông đưa thuyền ra đón về Thượng Hải. Mùa thu năm 1932, từ Thượng Hải
điMạc Tư Khoa, bệnh lao phổi tái phát nguy kịch, đã chết trên đường đi.
(Tác
giả nhận xét: Có thể căn cứ vào những tấm ảnh đã chụp từ 10 đến 20 năm về trước
để phân biệt được Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đối với người
phương Tây nhìn người phương Đông thì hoàn toàn không dễ. Khuôn mặt người ta
qua thời gian có sự biến đổi, nhưng cái tai và nhất là vành tai, trái lại không
dễ biến dạng. Tai và vành tai Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh có không
nhiều những nét khác nhau để chứng minh sự bất đồng. Tấm ảnh Nguyễn Ái Quốc
(trong hồ sơ), phía trên cùng bên phải, William J. Duiker không ghi chú thời
gian. Tác giả Trung Quốc Tào Tấn Kiệt trong tác phẩm "Các lãnh đạo quốc
gia nước ngoài trong chiến tranh chống Nhật tại Trung Quốc", ghi chú ảnh
chụp vào mùa xuân năm 1925 tại Quảng Châu. Tấm ảnh này thường xuyên được lưu
trong hồ sơ Hồ Tập Chương (ảnh 1) cùng thay nhau xuất hiện là có sự liên kết về
diện mạo giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương). Như ảnh (1), (2), ảnh
(1) là Nguyễn Ái Quốc, ảnh (2) là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương).Tôi nhận ra tấm ảnh
Nguyễn Ái Quốc này, cơ bản là ảnh giả, nhất là phía tai trái hiện ra rất rõ.Ý đồ
là, dùng tấm ảnh Hồ Tập Chương chụp năm 1934 tại Mạc Tư Khoa làm ảnh Nguyễn
Ái Quốc để hợp nhất hai người làm một. So sánh một loạt ảnh chụp của Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh, có thể thấy, diện mạo của hai người có nhiều nét khác
nhau.
Phụ lục1
Ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong hồ sơ
Ảnh
chụp trong hồ sơ Nguyễn Ái Quốc
1/ Ảnh chụp năm 1923 tại Pháp trong "Truyện Hồ Chí
Minh" của William J. Duiker.
2/ Ảnh chụp năm 1923 tại Nga Xô trong "Truyện Hồ
Chí Minh" của William J. Duiker.
3/ Ảnh Hồ Chí Minh không rõ xuất xứ và thời gian. Đây
là tấm ảnh nghi vấn trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William
J. Duiker.
4/ Tấm
ảnh này của Nguyễn Ái Quốc được chụp năm 1925 tại Nga Xô
5/ Ảnh
Nguyễn Ái Quốc trong nhà triển lãm ở Việt Nam
Ảnh truyền thần của của Nguyễn Sinh Huy, thân phụ Nguyễn
Ái Quốc.
6/ Tấm
ảnh này chụp năm 1924 tại Liên Xô trong "Những năm tháng mất tích của Hồ
Chí Minh, 1919- 1941" của Sophie Quinn - Judge.
Ảnh
trong hồ sơ Hồ Tập Chương
6/ Ảnh
Hồ Chí Minh năm 1934 tại Mạc Tư Khoa trong "Truyện Hồ Chí
Minh" của William J. Duiker.
9/ Tấm ảnh này do Andred Roth chụp đăng trong "Tân Việt
Nam" năm 1946 tại Việt Bắc.
Phụ
lục 2
"Hồi
ức Trịnh Siêu Lân - Truyện Phó Đại Khánh"
Sau
khi các lưu học sinh theo phái Troskism (Thác phái) từ Mạc Tư Khoa về, lần
lượt tổ chức thành 3 nhóm:
1- Đầu
tháng giêng năm1928, Sử Đường (Thi Thúc Vân), Lương Cán Kiều, Trần Diệc Mưu
thành lập "Trung Quốc đệ nhất Thác phái" (Phái phản đối chủ nghĩa
Bolshevik Lenin tại Trung Quốc).
2 -
Phái Troskism phản đối bí mật của lưu học sinh Trung Quốc tại Liên Xô, sau
khi họ về nước, phia Liên Xô cung cấp danh tính, nên toàn bộ đã bị khai trừ hoặc
tự ly khai Đảng. Vương Văn Nguyên, Lưu Nhân Tĩnh, Ngô Quý Nghiêm, Lê Thái Liên
đều ở trong số đó. Tháng giêng năm 1930, Lưu Nhân Tĩnh, Vương Văn Nguyên thành
lập "Liên minh cộng sản Phái Tả Trung Quốc" - "Thập nguyệt
xã".
3 -
Nhóm Triệu Tế, Lưu Dân, Vương Bình gồm 7 người, sau khi từ Mạc Tư Khoa về,
thành lập tổ chức "Chiến đấu xã".
Trong
nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trần Độc Tú, Doãn Khoan, Bành Thuật Chi, Trịnh
Siêu Lân phát hiện Vương Bình trong nhóm lưu học sinh từ Mạc Tư Khoa về,
chẳng những đã tiếp thu lý thuyết của Léon Troski mà còn mang theo tài liệu
nghiên cứu, đồng thời có ý kiến khác biệt đối với tiến trình cách mạng
Trung Quốc. Từ đó, trong Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hình thành phái Troskism
do Trần Độc Tú cầm đầu. Thật ra, lúc ấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa có một tổ
chức cụ thể mà chỉ tập hợp xung quanh Trần Độc Tú một số thành viên thường
xuyên trao đổi với nhau về những vấn dè chính sách của Đảng mà thôi. Trong tình
hình ấy, nhòm Trần Độc Tú đề nghị gia nhập nhóm "Đối thoại" nhưng nhiều
lần bị cự tuyệt, đến tháng chín năm 1929 thành lập "Đảng Cộng sản Trung Quốc
phái Tả phản đối phái", xuất bản "Người vô sản" được gọi là
"Vô sản giả xã".
Bốn
phái Troskism sau được thống nhất thành một tổ chức. Ngày 1 tháng năm năm 1935,
triển khai Đại hội gồm 17 đại biểu chính thức, 4 đại biểu dự thính, đại diện
cho 482 đảng viên. Tại Đại hội, Trần Độc Tú đọc báo cáo cương lĩnh chính trị của
"Đảng Cộng sản Trung Quốc phái Tả phản đối phái" gồm 5 phần:
1-
Nhiệm vụ thời kỳ quá dộ của Phản đối phái.
2 -
Bài học kinh nghiệm về sự thất bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
3 -
Chính sách của Đảng trong thời kỳ quá độ.
4
-Tiền đồ cách mạng Trung Quốc.
5 -
Nhiệm vụ trước mắt của Phản đối phái.
Cương
lĩnh xác định, xã hội Trung Quốc thành phần tư bản chủ nghĩa chiếm ưu thế so với
tư bản chủ nghĩa xã hội, do đó mà xuất hiện tính chất của cách mạng Trung Quốc
là cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản lãnh đạo nông dân lật đỏ chính
quyền tư sản, "kiến lập giai cấp chuyên chính vô sản'. Trung Quốc phải
hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng dân chủ tư sản rồi mới tiếp tục tiến trình Cách mạng
vô sản, chuyên chính giai cấp. Nhiệm vu trước mắt là, triệt để thực hiện khẩu
hiệu dân chủ theo hướng Cách mạng lần thứ ba (Sau này đề xuất lấy "Tổng
tuyển cử quốc dân hội nghị" làm khẩu hiệu trung tâm đấu tranh đòi dân chủ,
vận động quần chúng ủng hộ cách mạng), lạt đổ chính phủ Quốc dân đảng. Đại hội
thông qua dự thảo cương lĩnh, bầu ủy viên Trung ương, cử 5 người vào Ban Bí thư
do Trần Độc Tú làm Tổng Bí thư, Trịnh Siêu Lân là trưởng ban Tuyên truyền, chủ
nhiệm báo Đảng là Vương Văn Nguyên, trưởng ban Thư ký là Tống Phùng Xuân. Đại hội
biểu quyết thông qua tên đảng là "Đảng cộng Tả phái tả phản đối phái"
còn gọi là " Đảng cộng sản Bolshevik-Lenin Trung Quốc", là một phái
riêng của những người cộng sản Trung Quốc.
Năm 1933, phái Troskism ly khai Đảng Cộng sản, tiến hành cải tổ
đảng theo đương lối riêng. Năm 1935 chuẩn bị thành lập Quốc tế cộng sản mới.
Cũng trong năm này, Đại hội đại biểu phái Troskism tại Thượng Hải quyết định
đổi tên thành "Liên minh Cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc". Từ đó, phái
Troskism Trung Quốc, một lần nữa không coi mình là một phái lệ thuộc Đảng cộng
sản và cũng không cùng là một chính đảng cộng sản chủ nghĩa của Đảng Cộng sản.
Trong một hoàn cảnh đặc biệt, tôi gặp được Phó Đại Khánh. Đó là
thời gian vào giữa mùa hè và mua thu năm 1931. Khi ấy tôi đã bị Đảng Cộng sản
khai trừ, vì hoạt động Troskism, bị Quốc dân đảng bắt giam ở Bộ tư lệnh Cảnh bị
Long Hoa (tác giả nhận định: địa điểm ở gần khuôn viên lăng liệt sĩ Long Hoa,
đường Tào Khê, Thượng Hải), chờ đợi phán quyết. Tôi ở "Nhân tự gian",
nơi có rất nhiều tù chính trị. Một hôm, cai ngục dẫn vào một phạm nhân đến từ
Quảng Châu. Thoạt nhìn, tôi xuýt nữa tôi nhảy dựng lên bởi người này chính là
Phó Đại Khánh. Phó Đại Khánh lướt nhìn hết lượt phạm nhân nhưng đều không nhận
ra ai quen, bỗng trông thấy tôi, vội vàng chạy đến, khẽ bảo: "Có chút việc
muốn báo về Trung ương". Rõ ràng ông không biết tôi đã bị khai trừ, tuy
nhiên lúc này cũng chẳng cần phải nói mình thuộc phái Troskism. Tôi đống ý, ông
ấy bèn nói cho biết.
Nguyên
là Phó Đại Khánh làm báo tiếng Anh ở Calcutta, Ấn Độ. Tờ báo bị đóng cửa, Phó bị
bắt, dẫn độ về Nam Kinh thẩm vấn. Lúc bị giam ở nhà lao Quảng Châu, ông ta có gặp
Hồ Chí Minh. Hồ nhờ ông ta thông báo đến Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
tìm cách giải cứu, vì thế ông ta mới đề nghị tôi giúp đỡ. Vì nghĩa không thể từ
chối, hơn nữa, tôi và Hồ Chí Minh đã từng quen biết nhau, chỉ có điều, làm cách
nào chuyển tin cho Đảng Cộng sản Trung Quốc đây? Tôi suy nghĩ và dự đoán, ở nhà
giam Long Hoa nhất định phải có chi bộ Đảng bí mật, có thể truyền đạt được tin
này. Nhưng tôi lại không biết người phụ trách là ai. Trong số các chính trị phạm
ở "Nhân tự gian", tôi chỉ biết hai người là Trần Vi Nhân
và Quan Hướng Ứng. Đắn đo mãi, cuối cùng tôi tìm gặp Trần Vit Nhân, nói:
"Phạm nhân Phó Đại Khánh bị bắt ở Ấn Độ, vừa được giải đến, sẽ được đưa về
Nam Kinh. Ông ấy có một báo cáo quan trọng với Trung ương, nhờ tôi chuyển đến
ông". Trần Đạt Nhân lập tức đứng lên. Tôi đem lời Phó Đại Khánh nói không
sai một chữ. Nghe xong, Trần Vi Nhân không nói một lời. Tôi hiểu mình đã đạt được
mục đích. Ba ngày sau, Phó Đại Khánh bị giải đi.
THIÊN
III
Những năm tháng
phiêu bạt
Màn
một
Hồ
Chí Minh ở Liên Xô (1933 - 1938)
S
|
au năm 1923, có đến bảy, tám lần Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa. Thời
gian lưu lại thường không quá một năm, duy chỉ có lần từ năm 1933 đến năm 1938
là ở đến 5 năm. Trong 5 năm ấy, phong trào cách mạng Việt Nam chống Pháp vô
cùng sôi nổi, vậy vì sao Hồ Chí Minh lại bị giam lỏng ở Mạc Tư Khoa, dùng
thời gian nhàn rỗi để nghiên cứu chủ nghĩa Marx mà không trở về nước cùng các đồng
chí của mình chỉ đạo quần chúng đấu tranh? Việc này nếu đem so sánh với phong
cách hoạt động tích sực của Nguyễn Ái Quốc thì hoàn toàn khác nhau. Vì sao Hồ
Chí Minh không báo cáo với Quốc tế cộng sản về hoàn cảnh của mình? Kỳ lạ
hơn nữa, trong 5 năm ấy, những ghi chép về Hồ Chí Minh khiến người ta đặt
ra đặt dấu hỏi nghi ngờ về thân phận cũng như các mối quan hệ của ông khá bí hiểm
và phức tạp. Ví như, thời gian nào Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa? Vì sao hói
đầu và bị phán quyết tử hình? Vì sao bị cưỡng chế học tập cải tạo? Vì sao ở Đại
hội VII Quốc tế cộng sản chỉ đóng vai im lặng? Lại vì sao nhẫn nhục chịu đựng
khi mà vợ mình kết hôn với người khác? Năm 1938 rời khỏi Mạc Tư Khoa theo chỉ
thị của ai? Vì sao trên đường ngàn dặm tìm đến Diên An Trung Quốc mà không quay
về Việt Nam? Vô số những điều nghi vấn đặt ra chứng tỏ bên trong ẩn giấu nhiều
bí mật.
Nhiều hồ sơ đã được Quốc tế cộng sản giải mật nhưng không phải
là tất cả. Thành ra, như William J. Duiker nói: "Rõ ràng những tài liệu
quan trọng đã có ở đó nhưng trước sau vẫn không thấy". Đơn cử như trường hợp Hồ
Chí Minh bị phán xử tử hình hiện tại ở đâu? Vì sao "Hồ Chí Minh tự truyện"
hai lần xuất bản lại có năm sinh khác nhau là 1890 và 1893? Hồ sơ lưu của Quốc
tế cộng sản có một phần từ 17 tháng tư năm 1938 viết, bút danh P. C. Lin trong
tự truyện có phải tự truyện của Nguyễn Ái Quốc hay là tự truyện của Hồ Tập
Chương? Vợ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thị Minh Khai vì sao lại tự mình điền vào bản
khai cá nhân đã kết hôn, chồng tên là Lin (Lâm), trong khi ấy, ngay trước mặt
Lin lại làm lễ thành hôn với Lê Hồng Phong? Có quá nhiều những dấu hiệu không
bình thường ấy đã chứng tỏ, những ghi chép về thân phận Hồ Chí Minh có vẻ như
đã bị sửa chữa hoặc thay đổi. Vì sao Quốc tế cộng sản phải làm như vậy?
Căn cứ vào những manh mối qua các ghi chép mơ hồ mà phân tích, chỉ có một khả
năng là, người ta đã cố ý đem Hồ Tập Chương hoán đổi thành Nguyễn Ái Quốc
để đạt mục đích "mượn xác hoàn hồn".
Hồ
Chí Minh đến Mạc Tư Khoa vào thời gian nảo?
Hồ
Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa khi nào? Có nhiều ý kiến khẳng định
là không thể xác định được thời gian cụ thể. William J. Duiker cho rằng vào mùa
xuân năm 1934. Sophie Quinn - Judge căn cứ vào chữ ký "Lin"
trong "Tự truyện" dẫn lời Hồ Chí Minh kể, tháng bảy năm 1934, ông mới
đến Mạc Tư Khoa" nhưng lại tỏ ra nghi ngờ, không có bất cứ tài liệu
nào làm rõ, từ mùa thu năm 1933 đến những tháng đầu năm 1934 ông ở đâu? Cả
William J. Duiker lẫn Sophie Quinn - Judge đều cho rằng, thời gian Hồ Chí
Minh đến Mạc Tư Khoa căn cứ vào lúc Hồ Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc
Tư Khoa chỉ là suy đoán. Tuy nhiên, thời gian Hồ Chí Minh rời Thượng
Hải, bản thân nó vẫn là một câu đố. Riêng quan điểm cá nhân, tôi cho rằng, thời
gian ấy vào cuối năm 1933, muộn lắm cũng không quá mùa hè.
Thời
gian Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa liệu có khó xác minh đến như vậy không?
Vào lúc Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa, phô trương náo nhiệt, được Bí
thư thứ nhất Cục Viễn Đông đón tiếp như nghi thức của bậc anh hùng, khó có thể
làm thủ tục xuất nhập cảnh nếu không có những ghi chép của hải quan về nhân
thân. Những năm ba mươi của thế kỷ XX, Nga Xô đang ở vào thời kỳ đại thanh trừng.
Mọi công dân đều bị giám sát , có thể bị điều tra, bắt giữ hoặc xử tử bất cứ
lúc nào nếu được gán cho tội danh "kẻ thù của nhân dân". Tác phẩm
"Chân dung bạo chúa" của An Đông Lạc Phu. Áo Phí Thân Khoa (2) đã
viết: "Từ năm 1935 đến năm 1940, Liên Xô đã bắt giữ 19 triệu 840 nghìn người,
trong đó có 7 triệu người bị chết". Mạc Tư Khoa là trung tâm cao độ giám
sát, khống chế một cách ráo riết mọi lời nói và hành vi của người dân".
Những
tài liệu ghi chép về thời kỳ Hồ đến Mạc Tư Khoa rất dễ dàng nhận biết, vậy vì
sao Quốc tế cộng sản không có tài liệu khi ông nhập cảnh? Nhất định là phải có
nguyên nhân đặc biệt không thể tiết lộ nên đã giấu kỹ thậm chí tiêu hủy. Lại
như, vào đầu năm 1923, khi Nguyễn Ái Quốc đến Mạc Tư Khoa thì trong truyện có
viết không? Đến năm 1938, nghĩa là 15 năm sau, tuyệt nhiên chẳng có trang nào
ghi chép sự kiện này. Thời gian nào Hồ Chí Minh bị phán xử tử hình? Hồ sơ
điều tra vụ án này hiện ở đâu? Từ rất nhiều những chi tiết bất hợp lý trên, tôi
suy đoán là, các hồ sơ liên quan đều đã bị tiêu hủy.
Căn
cứ vào thời gian Hồ Tập Chương rời Thượng Hải và suy đoán, ông đếnMạc Tư Khoa
vào khoảng từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933.
Sự
thật về sự kiện Hồ Chí Minh bị kết án tử hình
Theo
Sophie Quinn - Judge, vào năm 1992, cùng với Anatoly Voronin là cựu Ủy viên
Trung ương Bộ Quốc tế, nói chuyện về những tư liệu đã được ghi chép: " Hồ
Chí Minh chịu sự điều tra của tổ 3 người gồm Dmitry Manuilsky, Vera Vasilieva
và trùm dặc vụ Trung Quốc Khang Sinh. Dmitry Manuilsky thuộc thành phần trung lập,
trong khi Khang Sinh giữ quan điểm đề nghị xử tử Hồ Chí Minh. VeraVasilieva lấy
lý do phải làm theo trình tự để tránh sai lầm do mình còn thiếu kinh nghiệm, đã
thay Hồ Chí Minh bào chữa. Đến năm 1935, Khang Sinh mới tin Hồ Chí Minh bị bắt
vào năm 1931 nên đã đề nghị khai trừ ông ra khỏi đảng. Tuy nhiên vẫn còn thiếu
một số tài liệu quan trọng có khả năng đã bị Cục An ninh Liên Xô giấu đi, vì thế
chúng ta không thể nào biết được Hồ Chí Minh bị chỉ trích nghiêm trọng đến mức
nào.
Do
nhu cầu chính trị, Hồ Chí Minh đã có những quyết sách nhiều khi vượt
ra ngoài phạm vi quyền hạn, đặc biệt vào giai đoạn những năm 1930. Cũng có khả
năng Hồ Chí Minh ngả theo con đường Lý Lập Tam khiến Khang Sinh nghi ngờ, nhưng
Dmitry Manuilsky và Vera Vasilieva vẫn giữ quan điểm. vì thế, khi biểu quyết
hình thức kỷ luật, trùm đặc vụ Trung Quốc bị thiểu số". Đoạn ghi chép trên
là của Sophie - Quinn Judge trong tác phẩm "Những năm tháng mất tích của Hồ
Chí Minh, 1911-1941", trang 207.
Án tử
hình của Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn không liên quan. Đối tượng
bị điều tra không phải là Nguyễn Ái Quốc. Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa, vào
mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi. Khoảng giữa xuân hè
năm 1933, người từ Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương mà
không phải Nguyễn Ái Quốc. Huống nữa, Quốc tế cộng sản đã cử đại biểu đến
làm lễ truy điệu Nguyễn Ái Quốc, làm sao có thể truy cứu trách nhiệm để xử án một
người đã chết? Án đặc biệt điều tra Hồ Chí Minh, phần quan trọng nhất, có
liên quan đến việc chấp hành công tác được Quốc tế cộng sản giao phó thời
kỳ năm 1930. Đó
Ảnh chụp Nguyễn Ái Quốc vào năm 1934 tại Mạc
Tư Khoa (lấy từ tác phẩm "Tóm tắt về sự nghiệp Hồ Chí Minh", NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội,
2007
là ông đã truyền đạt sai lạc chỉ lệnh về công tác liên lạc giữa Trung
cộng và Việt cộng.
Rất
có khả năng là vào năm 1930, Hồ Chí Minh tham gia Hội nghị "Liên minh
Trung Quốc phản đối chủ nghĩa đế quốc" của Lý Lập Tam và ngả theo đường lối
sai lầm của họ Lý ảnh hưởng đến Việt Nam, làm cho Trần Phú và một số lãnh đạo
cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương bị bắt. Đây là nguyên nhân khiến cho Lý Lập
Tam và Khang Sinh đối với nhau như kẻ thù không đội trời chung, dẫn đến hệ lụy
là Hồ Chí Minh bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí trùm đặc vụ
còn đề xuất mức án tử hình. Trong khi ấy, Khang Sinh và Nguyễn Ái Quốc chưa từng
quen biết nhau, lại không có mâu thuẫn gì trong quan hệ để khép một người đã
qua đời vào trọng tội.
Trong
quá trình điều tra, Hồ Chí Minh bị hói đầu, nhưng tấm ảnh lưu trong hồ sơ so với
ảnh chụp Nguyễn Ái Quốc lại không giống nhau (Hồ Chí Minh bị hói đầu trong tấm ảnh
bên có đóng dấu và chữ ký). Đặc biệt, tại bản báo cáo điều tra về Hồ Chí Minh
năm 1934, ông dã tự điền vào bản khai là sinh năm 1903, so với Nguyễn Ái Quốc
sinh năm 1890 thì chênh nhau 13 năm. Nhân vật vào năm 1934 vào học trường Đại
hoc Lenin, bí danh P.C.Lin là Hồ Chí Minh mà nhân viên điều tra đã viết như
sau: "Ông ta không có gia đình, vợ con, không nghề nghiệp chuyên môn,
không biết bất cứ ai là lãnh đạo, cũng không biết mình có thể làm được công tác
gì". Phần tử bị điều tra này so với Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn trái ngược
nhau. Bất cứ một điều tra viên nào của Quốc tế cộng sản cũng không thể tin
được mình đang điều tra về Nguyễn Ái Quốc. Huống chi, từ năm 1923 đến 1927,
Nguyễn Ái Quốc đã hai lần lưu lại Mạc Tư Khoa, có hồ sơ lưu trữ tại Quốc tế cộng
sản. Thân phận chân chính của Hồ Chí Minh đã bị Quốc tế cộng sản che
giấu nên đã nảy sinh vô số câu hỏi nghi vấn. Từ sự kiện điều tra về án tử hình,
chính là bằng chứng rõ ràng khẳng định Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là
hai người khác nhau. Hồ Chí Minh đã được Vera Vasilieva ra sức bảo vệ may mắn
thoát khỏi kiếp nạn.
Quốc
tế cộng sản đạo diễn vở kịch "Mượn xác hoàn hồn"
Từ
năm 1929 đến 1933, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh phân biệt nhau hoạt động ở
vùng Đông Nam Trung Quốc, Xiêm La và Singapore. Nội dung hoạt động của
họ không giống nhau, chỉ là ghi chép vào hồ sơ duy nhất một danh xưng Hồ Chí
Minh làm lịch sử bị lẫn lộn. Đặc biệt vào năm 1930, hai người cùng tổ chức
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1931, một người bị bắt ở Hương Cảng, một
người bị bắt ở Quảng Châu. Chuyện sờ sờ trước mắt nhưng lại bị Quốc tế cộng
sản cùng với Trung cộng , Việt cộng che giấu quy về cho một Hồ Chí Minh.
Thậm chí, mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi, vậy mà đến
đầu năm 1933 tự nhiên được dựng dậy, sau đó dùng Hồ Tập Chương thay Nguyễn Ái
Quốc, tạo ra một nhà cách mạng mới là Hồ Chí Minh tiếp tục vai diễn trên vũ đài
chính trị. Ai đã ra lệnh cho Hồ Tập Chương thay thế Nguyễn Ái Quốc và đạo diễn
vở kịch "Người chết sống lại"? Ai đã chỉ đạo Hồ Chí Minh tiếp tục diến
xuất trên vũ đài lịch sử và tính toán để lại cho hậu thế một loại hồ sơ chắp
vá, một tiểu sử lắp ghép về Hồ Chí Minh?
Căn
cứ vào trước tác của các nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh, kiên trì tìm kiếm, cuối
cùng tôi cũng phát hiện ra vô số điều bất hợp lý trong lịch trình hoạt động của
Hồ Chí Minh, mới tìm được cái cần tìm trong cả mớ bòng bong tư liệu thật giả lẫn
lộn ấy. Như vén mây thấy mặt trời, tôi nhìn ra chân tướng lịch sử, và phần nào
giải thích được mối quan hệ nhân quả của giai đoạn lịch sử này, đồng thời khâm
phục thủ pháp cao tay của đạo diễn đứng sau sân khấu. Ấy là những
tay tổ của Quốc tế cộng sản, Trung cộng và Việt cộng chóp bu đã phối
hợp nhịp nhàng với nhau, tạo ra một nhân vật Hồ Chí Minh đầy bí hiểm.
Vera
Vasilieva và Hồ Chí Minh
Vera
Vasilieva là người chịu trách nhiệm chính trong ban lãnh đạo Quốc tế cộng
sản về những vấn đề Việt Nam, từ khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng đã
tham gia vào công tác giải cứu. Trên đường đi, không ngờ, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh
qua đời. Vera Vasilieva được cử làm người bào chữa cho Hồ Tập Chương, do vậy mà
phát hiện ra Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương là hai người khác nhau, có hoàn cảnh
khá giống nhau, thân thế, ngoại hình, ngôn ngữ gần nhau, và nhất là thông thạo
nhiều ngoại ngữ. Hai người này từ năm 1929 đến 1931 cùng công tác tại Cục
Viễn Đông Quốc tế cộng sản, cùng được giao những công việc quan trọng, và đặc
biệt là lại cùng bị bắt vào năm 1931.
Tuy vậy, Xung quanh sự kiện Nguyễn Ái Quốc rời Thượng Hải đến
Mạc Tư Khoa, ngoài quan điểm cho rằng ông đã qua đời trên đường đi vì bệnh lao
phổi, còn một ý kiến khác là cuộc trốn chạy thành công, có điều những chứng cứ
đưa ra đều rất khó thuyết phục, trong khi báo chí cộng sản đã đồng loạt đăng
tin nhà cách mạng đã chết, thậm chí đại biểu Quốc tế cộng sản còn đến dự lễ
truy điệu. Từ những hoàn cảnh và điều kiện phức tạp như vậy, Vera Vasilieva nảy
ra ý nghĩ, đề nghị Hồ Tập Chương thay thế vai trò của Nguyễn Ái Quốc, tiếp
tục hoàn thành nhiệm vụ của ông. Hơn thế nữa, Hồ Tập Chương lại biết tiếng Nhật,
có kinh nghiệm đấu tranh chống Nhật, càng phù hợp với nhiệm vụ chống Nhật trước
mắt của Liên Xô.
Vera
Vasilieva bèn xin ý kiến Cục Phương Đông, lên kế hoạch giáo dục 5 năm đào tạo Hồ
Tập Chương thay thế cho Nguyễn Ái Quốc. Việc làm của Vera Vasilieva cùng với
hồ sơ ghi chép của lịch sử dể lại đã chứng minh, Quốc tế cộng sản đã bí mật
chơi trò "phục sinh" cho người đã chết.
Các
tấm ảnh này được lấy trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1911-1941", của Sophie Quinn - Judge ở phần phụ lục.
Bên trái là Vera Vasilieva, bên phải là Hồ Chí Minh. Ảnh chụp tại Mạc
Tư Khoa, Liên Xô, năm 1934.
1- Cuối tháng chín năm 1931, Ban Hồ sơ Quốc tế cộng sản
chuyển cho Vera Vasilieva một bản tin với nội dung: "Sự kiện Nguyễn Ái Quốc
bị đuổi ra khỏi Đông Nam Á đã bị cự tuyệt". Vera Vasilieva vô cùng phấn khởi
vội thông báo với các bạn bè, đồng chí của Nguyễn Ái Quốc về tin này, đồng thời
viết ba bản tin bằng tiếng Nga ký tên Vasilieva.
2 -
Mùa thu năm 1932, báo chí cộng sản lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh
lao phổi cùng với tin nhóm lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa đã tổ chức
tang lễ và Quốc tế cộng sản cử đại biểu đến truy điệu. (tác giả nhận xét: Chủ
nhiệm Ban Việt Nam Vera Vasilieva chắc là sẽ cử một người không quen biết Nguyễn
Ái Quốc đến viếng tang, ít ra bà cũng đã biết việc Nguyễn Ái Quốc bị
bệnh chết).
3 -
Mùa hè năm 1934, Hồ Chí Minh từ Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa, Vera
Vasilieva, Dmitry Manuilsky và trùm đặc vụ Trung cộng Khang Sinh tạo thành
nhóm ba người điều tra, phán xét Hồ Chí Minh. Do được Vera Vasilieva bảo vệ, Hồ
Chí Minh thoát khỏi án tử hình nhưng bị giữ lại Mạc Tư Khoa học tập cải tạo,
một mặt vào học trường Đại học Lenin, mặt khác nghiên cứu về vấn đề dân tộc và
chủ nghĩa thực dân thuộc địa.
4 -
Tháng ba năm 1935, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam họp tại Áo Môn thông qua một Báo cáo chính trị dài 32 trang. Hội nghị đã bầu
bổ sung 13 ủy viên Trung ương do Lê Hồng Phong làm tổng bí thư gồm 8 đại biểu
công nhân, 3 đại biểu trí thức, 1 đại biểu dân tộc thiểu số. (Tác giả nhận xét:
Hồ Chí Minh xếp cuối cùng trong số 13 ủy viên Trung ương tuyệt nhiên không phải
Nguyễn Ái Quốc. Xét về tiểu sử và quá trình hoạt động, thứ bậc của Nguyễn Ái Quốc
xếp quá xa so với Lê Hồng Phong trong danh sách các Ủy viên Trung ương đặt ra một
vấn đề đạo lý. Cho nên phải hiểu người xếp cuối cùng ấy là Hồ Tập Chương, bí
danh P.C.Lin. Bởi vì, lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc đã chết, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai cùng P.C.Lin ở Mạc Tư Khoa tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản.
Đưa P.C.Lin vào danh sách Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn
toàn do Vera Vasilieva chủ trương).
5 -
Tháng tư năm 1935, Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Ban bí thư Cục Phương Đông công
khai khiển trách Hồ Chí Minh, yêu cầu không để Hồ Chí Minh tham gia Hội nghị
VII Quốc tế cộng sản. Tổng bí thư Đảng Cộng sản Xiêm La còn cho biết, trước
năm 1930, Hồ Chí Minh không phải là đảng viên cộng sản. Sau khi đọc văn bản
kiến nghị, Vera Vasilieva trả lời Đảng Cộng sản Việt Nam như sau: "Hồ Chí
Minh đã dành ra 2 năm học tập nghiên cứu, không có thời gian làm công việc
khác, sau khi Hội nghị kết thúc, chúng tôi sẽ có kế hoach đặc biệt giao cho ông
ta". Ít lâu sau, Vera Vasilieva gửi một bức thư cho lãnh đạo Đảng Cộng sản
Trung Quốc nói: "Đối với Nguyễn Ái Quốc, sau hai năm học tập, nhất định sẽ
hiểu được nội dung và mục đích của chương trình đào tạo, vì vậy, không có lý do
gì xử lý kỷ luật ông ta. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ có kế hoạch đặc biệt
sử dụng".
6 - Cuối năm 1935, Hồ Chí Minh trở lại trường Đại học Lenin, năm
1936 chuyển sang Đại học Stalin làm giảng viên bộ môn Đông Nam Á bằng tiếng Việt.
Tháng tư năm 1936, một bản báo cáo đã chỉ rõ, Hồ Chí Minh và Vera Vasilieva hợp
tác xây dựng khóa trình giảng dạy bộ môn Đông Nam Á. Vera Vasilieva nhận xét về
vai trò giảng viên của Hồ Chí Minh như sau: "Được làm việc với ông tôi thật
vinh dự. Ông nghiên cứu về thực trạng xã hội trong nước rất công phu, chỉ có điều
chưa được hệ thống lắm. Ông vốn có nhiều kinh nghiệm hoạt động cách mạng, nhưng
cũng có lúc phạm phải sai lầm như sai lầm của người dân vùng Đông Nam Á.
Chúng tôi sẽ nghiên cứu cải tiến, nâng cao, chắc chắn ông sẽ tiến bộ".
Trước
khi kết thúc năm 1936, Vera Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để
bồi dưỡng cho 10 học viên Đông Nam Á dự khóa huấn luyện 2 tháng. "Chúng
tôi đã quyết định là, có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp Học
viện Mạc Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo khóa học này hay không?".
Nhưng
ghi chép trên đã được lưu giữ tại Hồ sơ Quốc tế cộng sản ở Mạc Tư Khoa. Trong
"Truyện Hồ Chí Minh" của William J. Duiker và "Những
năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", của Sophie Quinn - Judge đều
đã viết rất rõ ràng về sự kiện trên. Việc công khai bí danh P.C.Lin là Hồ Chí
Minh vào năm 1934, chắc chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Quốc tế cộng sản
yêu cầu Hồ Tập Chương lấy bí danh P.C.Lin để tiếp tục nhiệm vụ của
Nguyễn Ái Quốc mà chủ nhiệm đề tài Vera Vasilieva chính là người đạo diễn màn kịch
"mượn xác hoàn hồn", "dời hoa tiếp cây".
Việc
học tập và cải tạo của Hồ Chí Minh
Trong
thiên "Ve sầu thoát xác thật giả kiếp người", tôi đã trình bày kỹ:
"Mùa xuân năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi, khoảng giữa
mùa xuân và mùa hè năm 1933, người từ Hạ Môn đến Thượng Hải rồi đi Mạc Tư
Khoa không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương". Hồ Tập Chương đến Mạc
Tư Khoa, Vera Vasilieva, Dmitry Manuilsky, và trùm đặc vụ Trung cộng Khang
Sinh, lập thành tổ đặc biệt ba người điều ra về ông, chỉ cần sai phạm một điểm
là bị tuyên án tử hình. May mà được Vera Vasilieva bảo vệ, Hồ Tập Chương mới
thoát nạn. Tuy nhiên sau đó ông phải mất gần 5 năm học tập, cải tạo
để sau này thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc. Trong 5 năm học tập cải tạo này,
nhân vì Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương liên quan đến việc chuyển đổi thân phận,
nên hồ sơ của Quốc tế cộng sản không thể ghi chép rõ ràng. Vì thế, chí có
thể căn cứ vào những tài liệu liên quan, ta mới hiểu được trong 5 năm ấy, Hồ Tập
Chương, học tập cải tạo như thế nào.
Trong
"Hồ Chí Minh ở Trung Quốc", trang 81, 82, giáo sư Tưởng Vĩnh Kính có
nói đến: "Từ năm 1933 đến mùa thu năm 1938, Hồ Chí Minh ở Mạc Tư
Khoa, bị bắt buộc học tập cải tạo. Thứ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam Nguyễn Khánh
Toàn nhớ lại: 'Lúc ấy, khôngg khí khủng bố bao trùm, Hồ Chí Minh muốn gặp
gỡ các đảng viên Cộng sản Việt Nam đều phải xin phép nhà đương cục Mạc Tư
Khoa. Nếu trước khi được phép mà tự động gặp nhau thì không được nói chuyện'.
Nguyễn Khánh Toàn kể tiếp: 'Các đồng chí Việt Nam ở Mạc Tư Khoa lúc ấy đều
không biết Hồ Chí Minh đã đến Liên Xô. Có một nữ bí thư trong "Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa", nhân việc gặp một đồng chí phụ
trách "Tổ Việt Nam" nói chuyện, mới biết tin ấy. Nữ đồng chí phụ
trách "Tổ Việt Nam" này cũng là cán bộ Quốc tế cộng sản. (Tác giả
nhận định: đồng chí nữ bí thư chỉ Nguyễn Thị Minh Khai), xem "Chị Minh
Khai", phần 2, mục 13, còn đồng chí nữ cán bộ Quốc tế cộng sản
phụ trách "Tổ Việt Nam", chỉVera Vasilieva). Sau mấy năm, tôi gặp Hồ
Chí Minh trên phố, nhưng do nguyên tắc tổ chức cũng không thể nói chuyện với
nhau. Mãi mấy năm sau nữa, chúng tôi mới chính thức được làm quen với ông. Hồ
Chí Minh một mặt học tập tại Học viện Lenin, mặt khác lại làm việc ở
Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Học viện Lenin
là trường Đảng huấn luyện cán bộ đảng viên các nước. Hồ Chí Minh khi ở học viện
này dùng bí danh bằng tiếng Nga là "Linov", nhưng tại Viện Nghiên cứu
các vấn đề dân tộc và thuộc địa thì lại dùng tên "Lin" lãnh đạo tiểu
tổ Việt Nam học tập. Tố chất học sinh Việt Nam rất kém, trình độ thấp, phần lớn
họ đến từ Pháp, có tiền sử thường là đầy tớ hoặc thủy thủ. Hồ Chí Minh chỉ đạo
nhóm này học tập chẳng khác gì dạy học sinh tiểu học. Mùa thu năm 1934, Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa lại thành lập thêm một tiểu tổ. Tiểu
tổ này do một người mới đến Mạc Tư Khoa là Lê Hồng Phong cùng Nguyễn
Thị Minh Khai và ba đảng viên cộng sản Việt Nam hợp thành. Lê Hồng Phong phụ
trách công tác Đảng, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chỉ đạo học tập. Vì lý do bảo mật,
hai tổ học tập Việt Nam bị cách ly hai địa điểm, không được liên lạc với nhau.
Sau Đại hội đại biểu Quốc tế cộng sản VII, trước mắt Stalin, Hồ Chí
Minh hiển nhiên không có vai trò gì dáng kể. Ông ta chẳng những không phải là Ủy
viên chấp hành Quốc tế cộng sản mà còn mất đi địa vị lãnh đạo Đảng Cộng
sản Việt Nam, thậm chí còn bị coi là phần tử không đáng tin cậy. Bị buộc phải
lưu lại Mạc Tư Khoa học tập cải tạo, Hồ Chí Minh chẳng những không thực
hiện được nguyện vọng của mình mà còn rơi vào hoàn cảnh bị đối xử lạnh nhạt.
Sau khi Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai lần lượt trở về Việt
Nam, Hồ Chí Minh lại theo học "Ban nghiên cứu lịch sử" thuộc "Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa" một năm. Lúc này, phong trào
cách mạng Việt Nam và thế giới đang sôi sục, Hồ Chí Minh làm sao có thể yên tâm
ngồi học tập? Trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 212, William J.
Duiker có dẫn ra hồi ức của một học sinh là Nguyễn Khai Quyền như sau:
"Nguyễn Ái Quốc được chỉ làm giảng viên của 144 học sinh, văn phòng đặt tại
tầng bốn của ngôi nhà thuộc đại lộ Ulyanovsk Mạc Tư Khoa. Có một số thanh niên
trẻ không hài lòng hoặc tỏ ra ngạo mạn, thường chỉ vì một vài việc lặt vặt mà
to tiếng với nhau. Lúc ấy thường là Nguyễn Ái Quốc phải đến hòa giải".
Ngoài ra, ở trang 227 , tác giả cũng nói đến: "Mùa thu năm 1936, tại Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sau khi soạn xong
bài giảng, lại từ Học viện Lenin trở về căn phòng nhỏ của minh trong ngôi nhà
thuộc đường phố Bố Lỗ nạp Nhã(3) (布魯納雅街). Học trình gồm triết học,
lịch sử và Nga văn. Thế nhưng, Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông lại giao cho
ông nghiên cứu về vấn đề nông dân, đồng thời phiên dịch 'Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản' của Karl Marx và 'Bàn về sự ấu trĩ của phái cực tả' của V.I. Lenin sang tiếng
Việt. Trong niên học 1937-1938, Nguyễn Ái Quốc vừa soạn giáo trình, vừa làm việc
tại văn phòng Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông, lại vừa giảng dạy tại lớp, chuẩn bị
cho công trình nghiên cứu về ruộng đất Đông Nam Á".
Sophie Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ
Chí Minh, 1911-1941", trang 217 có nói đến: "Cuối năm 1935, Hồ Chí
Minh trở lại Học viện Lenin, năm 1936 chuyển đến Học viện Stalin phụ trách giảng
dạy bộ môn Đông Nam Á bằng tiếng Việt. Tháng tư năm 1936, một bản báo cáo
chỉ rõ Hồ Chí Minh và Vera Vasilieva hợp tác xây dựng khóa trình giảng dạy
bộ môn Đông Nam Á. Vera Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để bồi
dưỡng cho 10 học viên Đông Nam Á dự khóa huấn luyện 2 tháng. "Chúng tôi đã
quyết định là, có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp Học viện Mạc
Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo khóa học này hay không?". Năm 1937, Học
viện Stalin sắp xếp lại tổ chức, đưa những học sinh nước ngoài về bộ môn "
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa". Hồ Chí Minh thuộc hệ Lịch sử
(kỳ thứ nhất), vừa là giảng viên, vừa là học sinh, tuy nhiên không có biểu hiện
gì là nhiệt tình trong học tập. Thành tích của ông ta đối với các môn "Chủ
nghĩa duy vật biện chứng", "Lịch sử cổ đại" cùng với "Lịch
sử trung đại" đều thuộc loại trung bình, chỉ có "Lịch sử hiện đại"
là xuất sắc. Với tư cách giảng viên, ông chỉ dùng Việt văn để giảng khóa trình
"Nghiên cứu Đông Nam Á".
Trong
tác phẩm "Chị Minh Khai", tác giả Nguyệt Tú đã viết ở trang 73:
"Đồng chí Nguyễn Ái Quốc dùng 'Linov' làm bí danh tại 'Viện nghiên cứu
các vấn đề dân tộc và thuộc địa'. Được sự ủy nhệm của Viện, đồng chí đến Đại học
Phương Đông giảng cho học sinh Việt Nam về lịch sử và tổ chức của Đảng Cộng sản
Liên Xô. Trong nhận thức của chị Minh Khai, đồng chí Nguyễn Ái Quốc phân tích về
quan điểm tư tưởng cộng sản Lenin vô cùng sâu sắc. Minh Khai và 5 học sinh Việt
Nam ở Đại học Phương Đông cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã gửi Cục Phương Đông Quốc
tế cộng sản một lá thư, đề cập đến việc giáo dục cộng sản còn thiếu phần lý luận
của chủ nghĩa Marx - Lenin, khiến cho công tác tuyên truyền của các đảng gặp
nhiều khó khăn, thậm chí còn phạm sai lầm nghiêm trọng. Vì thế việc xuất bản
sách giáo dục lý luận về Đảng Cộng sản dưới nhiều hình thức là điều cấp thiết
phải làm. Đó cũng là điều mà Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai hết sức quan
tâm.
Thành
quả 5 năm học tập cải tạo
Như trên đã nói, từ năm 1933 đến 1938, Hồ Tập Chương học tập
cải tạo ở Mạc Tư Khoa. Quốc tế cộng sản tích cực bồi dưỡng Hồ Tập
Chương thành một đại biểu Việt Nam của Quốc tế cộng sản, tham gia Đảng
Cộng sản Việt Nam, hướng đến cách mạng giai cấp vô sản thế giới, thay thế Nguyễn
Ái Quốc mà không một ai hoài nghi. Hơn thế nữa, Vera Vasilieva đã hết sức đào tạo
ông thành một nhà lý luận kiêm thực tiễn cúa Chủ nghĩa Cộng sản. Trong 5 năm học
tập và rèn luyện này, Hồ Tập Chương, ngoài việc nghiên cứu lý luận của Chủ
nghĩa Cộng sản và lịch sử văn hóa Việt Nam, ông còn tích cực học tập môn tiếng
Pháp và tiếng Việt, nắm rõ từng chi tiết nhỏ nhất trong hồ sơ lý lịch Nguyễn Ái
Quốc. Hồ Chí Minh học Việt văn và Pháp văn đến mức có thể nghe, đọc, viết, nói
thành thạo, thậm chí còn phiên dịch cả "Tuyên ngôn của đảng cộng sản"
và "Luận về sự ấu trĩ của phái cực tả" từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Chỉ cần đọc mấy bài viết ở tập 3 trong "Hồ Chí Minh toàn tập"
dưới đây, độc giả sẽ thấy rõ ràng Hồ Tập Chương đã làm mọi cách để tạo ra dấu vết
Nguyễn Ái Quốc:
1 -
Ngày 12 tháng mười năm 1937, Hồ Tập Chương dùng tên Nguyễn Ái Quốc ký vào một bức
thư viết bằng tiếng Pháp gửi một người bạn Pháp là Marcel Gabriel, tỏ lòng vô
cùng thương tiếc về việc Paul Vaillant Couturier từ trần. Tôi đã tra cứu
văn bản thư tín đối ngoại của Hồ Chí Minh (bao hàm cả Nguyễn Ái Quốc) từ
năm 1921 đến năm 1937, không có bất cứ một bức thư nào gửi Paul Vaillant
Couturier hoạcMarcel Gabriel. Nguyễn Ái Quốc cũng không gửi một bức thư nào
chia buồn với các đồng chí Việt Nam đã hy sinh vì tổ quốc. Trái lại, đột nhiên
vào thời điểm này lại gửi thư tới Marcel Gabriel chia buồn về việc Paul
Vaillant Couturier qua đời, ắt không tránh khỏi người ta nghi ngờ cố ý ngụy tạo. Hồ
Tập Chương có khá nhiều bài viết với dụng ý hai mặt, một là bịa đặt P.C.Lin (Hồ
Tập Chương) thành Nguyễn Ái Quốc, một là Quốc tế cộng sản kiểm tra trình độ
tiếng Pháp của Hồ Tập Chương. Trong bức thư có một đoạn như sau:
"Đồng
chí Marcel Gabriel thân mến! Chúng tôi vô cùng đau đớn được tin đồng chí Paul
Vaillant Couturier từ trần. Đây là một tổn thất lớn đối với Đảng Cộng sản Pháp,
với giai cấp vô sản Pháp và vô sản các nước thuộc địa cùng giai cấp vô sản thế
giới. Vào lúc được tin đồng chí qua đời, lòng tôi vô cùng thương cảm. Đối với
tôi mà nói, Paul Vaillant Couturier là một người đồng chí, một người anh em
thân thiết. Chúng tôi quen biết nhau không thể nào quên tại Đại hội Tour. Đến
năm 1934, chúng tôi cùng nỗ lực nghiên cứu về 'Chủ nghĩa thực dân' mà đồng chí
đặc biệt quan tâm. Đồng chí là đại biểu tổ chức 'Hội nghị hòa bình phản chiến'
và đã đến Viễn Đông, do vậy, chúng tôi gặp nhau tại Trung Quốc. Và lần ấy là một
cơ hội, dồng chí đã giúp tôi thoát khỏi cảnh khốn khổ.
Mùa
hè năm ấy chúng tôi gặp nhau, cùng thảo luận về vấn đề thực dân, đặc biệt là vấn
đề Đông Dương. Giai cấp vô sản các nước thuộc địa mất đi một chiến sĩ, một người
bạn chân chính. Paul Vaillant Couturier đã mất nhưng sự tận tụy công tác, phong
cách mẫu mực và tinh thần dũng cảm, bất khuất mãi mái sống trong lòng chúng ta.
Học tập phẩm cách cao quý của đồng chí, chúng tôi nguyện kiên trì đấu tranh cho
đến khi sự nghiệp cách mạng thanh công. Ngày 12 tháng mười năm 1937, Nguyễn Ái
Quốc".
Ngày
6 tháng sáu năm 1938, cùng lúc dùng cả tên Nguyễn Ái Quốc và P.C.Lin ký vào bức
thư bằng tiếng Pháp gửi một đồng chí Quốc tế cộng sản:
"Đồng chí thân mến! Hôm này là kỷ niệm 7 năm ngày tôi bị cảnh
sát Hương Cảng bắt giữ, nghĩa là dã 8 năm nay tôi không có bất cứ hoạt
động nào. Dịp này viết thư gửi đến đông chí, thỉnh cầu đồng chí giúp đỡ tôi để
có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại. Phân công tôi về địa phương hay giữ tôi ở lại,
mong đồng chí triệt để sử dụng. Đề nghị đồng chí không nên để tôi xa rời tổ chức
Đảng quá lâu. Tôi rất cảm kích nếu đồng chí cho phép được gặp mặt. Mong đồng
chí hãy tiếp kiến một người anh em cộng sản trung thành, tận tụy. Ngày 6 tháng
sau năm 1938, Lin (Nguyễn Ái Quốc).
(Tác
giả nhận xét: Bức thư bằng tiếng Pháp gửi một đồng chí Quốc tế cộng sản chính
là gửi cho Vera Vasilieva. William J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí
Minh", trang 228 có viết: "Hồ Chí Minh thông qua Vera
Vasilieva nhờ giúp đỡ mới rời khỏi đượcMạc Tư Khoa).
"Hồ Chí
Minh toàn tập", văn bản chính thức của nhà nước Việt Nam
Bộ "Hồ
Chí Minh toàn tập" có một số bản in màu đẹp, tôi đã dùng bộ sách 12 tập do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia in năm 2002 để nghiên cứu. "Hồ Chí
Minh toàn tập" gồm những bài viết và nói bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng
Việt và Hán văn trong cuộc đời hoạt động chính trị của ông. Nội dung văn bản ngắn
thì chỉ có vài chục chữ đối với thư chúc mừng, dài thì hàng ngàn vạn chữ đối với
các chuyên khảo như "Binh pháp Tôn Tử", "Chiến tranh du
kích" v.v... Trước tác của Hồ Chí Minh phần lớn là các bài viết đăng báo,
tạp chí, ngoài ra còn có một số lượng không nhỏ thư từ, thơ qua lại giữa bạn bè
với nhau. Tôi đã căn cứ vào thời gian, số bài, đặc trưng ngôn ngữ phân loại, chỉnh
lý. Lấy năm 1932 làm chuẩn để phân định, so sánh những bài viết trước
với bài viết sau, kết quả phát hiện ra hai điểm quan trọng, một là,
tiếp tục khẳng định Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932, và một là, Nguyễn Ái
Quốc không thông thạo Hán văn. Nay, tôi đem những bài viết được đưa vào "Hồ
Chí Minh toàn tập", căn cứ thời gian, sau khi chỉnh lý, kê ra được một bản
dưới đây:
Bảng thống kê các tác phẩm của Hồ Chí
Minh
Năm
|
Số bài
|
Ngữ văn
|
Loại
hình
|
1919
|
7
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 3, thư từ 3, phỏng vấn 1
|
1920
|
2
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 1, bài giảng 1
|
1921
|
14
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 12, thư từ 1, báo cáo 1
|
1922
|
35
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 33, thư từ 2
|
1923
|
35
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 30, bài giảng 2, thư từ
2, phỏng vấn 1
|
1924
|
62
|
Pháp 13, Anh 1, Nga 8
|
Chuyên văn 44, thư từ 12, bài giảng
5, phỏng vấn 1
|
1925
|
24
|
Pháp 13, Anh 9, Nga 2
|
Chuyên văn 13, thư từ 8, bài giảng
2, chuyên khảo 1 (100 trang)
|
1926
|
19
|
Pháp 10, Anh 4, Nga 2, Trung 1
|
Chuyên văn 10, thư từ 8, bài giảng 1
|
1927
|
11
|
Pháp 8, Anh 3
|
Chuyên văn 9, thư từ 2, sách 1
"Đường kách mệnh", 52 trang
|
1928
|
12
|
Pháp 11, Anh 1
|
Chuyên văn 7, thư từ 5
|
1929
|
0
|
Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm La chữa bệnh
|
|
1930
|
18
|
Pháp 5, Anh 11, Việt 1, Nga 1
|
Chuyên văn 6, thư từ 12, trong đó có
4 bài không rõ ngôn ngữ nào, tạm xếp vào tiếng Anh
|
1931
|
9
|
Pháp 3, Anh 5, Việt 1
|
Chuyên văn 3, thư từ 6
|
1932
|
0
|
Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng
sau đó trốn khỏi Hương Cảng
|
|
1933
|
0
|
Hồ Chí Minh lưu vong ở Trung Quốc,
Việt Nam và Xiêm La
|
|
1934
|
0
|
Thời gian Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc
Tư Khoa
|
|
1935
|
Tiếng Pháp 1
|
"Báo cáo"(thời kỳ Hồ Chí
Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa)
|
|
1936
|
0
|
Thời kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc
Tư Khoa
|
|
1937
|
1
|
Tiếng Pháp
|
Thời kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc
Tư Khoa (thư)
|
1938
|
2
|
Tiếng Pháp
|
Thư và báo cáo (8 trang)
|
1939
|
11
|
Pháp 3, Trung 8
|
Chuyên văn 3, thư từ 8 (Thời kỳ Hồ
Chí Minh ở Mạc Tư Khoa)
|
1940
|
12
|
Tiếng Trung 12
|
Chuyên văn 11, thư từ1 (Viết từ TQ gửi
về VN)
|
1941
|
12
|
Trung 3, Việt 9
|
Chuyên văn 10, thơ 2
|
1942
|
19
|
Trung 5, Việt 14
|
Chuyên văn , thơ ( Trung 2, Việt 8),
giảng nghĩa: "Du kích chiến", Thơ: "Nhật ký trong tù" 134
bài
|
1943
|
2
|
Việt văn 2
|
Chuyên văn 1, thư từ 1
|
1944
|
8
|
Trung 2, Việt 6
|
Chuyên văn 3, thư 4 , sách
"Phương pháp chiến tranh du kích", 13 chương
|
1945
|
86
|
Anh 8, Trung 5, Việt 73
|
Sách "Binh pháp Tôn Tử" 13
chương, "Thư Tổng khởi nghĩa", "Tuyên ngôn độc lập",
chuyên văn, thư từ, bài nói chuyện
|
1946
|
175
|
Tiếng Việt 175
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1947
|
164
|
Việt163, Pháp1
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1948
|
108
|
TiếngViệt104, tiếng
Trung 4
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo, thơ chữ Hán 4 (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1949
|
114
|
Tiếng Việt 114
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1950
|
81
|
Việt 79, Trung 2
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo, thơ chữ Hán 2 (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1951
|
120
|
Tiếng Việt 120
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1952
|
116
|
Tiếng Việt 116
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1953
|
79
|
Tiếng Việt 79
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1954
|
96
|
Tiếng Việt 96
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1955
|
73
|
Tiếng Việt 73
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1956
|
86
|
Tiếng Việt 86
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1957
|
99
|
Tiếng Việt 99
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1958
|
98
|
Tiếng Việt 98
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1959
|
150
|
Tiếng Việt 150
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1960
|
109
|
Tiếng Việt 109
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1961
|
85
|
Tiếng Việt 85
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1962
|
78
|
Tiếng Việt 78
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1963
|
71
|
Tiếng Việt 71
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1964
|
64
|
Tiếng Việt 64
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1965
|
86
|
Tiếng Việt 86
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1966
|
83
|
Tiếng Việt 83
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1967
|
65
|
Tiếng Việt 65
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1968
|
60
|
Tiếng Việt 60
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1969
|
36
|
Tiếng Việt 36
|
Thư từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện
báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
Thuyết minh:
* Ngữ văn: Ghi chú Tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng
Nga và tiếng Việt là căn cứ vào "Hồ Chí Minh toàn tập", phần cuối
cùng có chú thích "Tư liệu tiếng Pháp", "tư liệu tiếng
Anh", "tư liệu tiếng Trung". Tác giả dựa vào nơi công bố như
báo, tạp chí, nhà xuất bản, ví dụ: Hà Nội, báo "Độc lập", Nhà xuất bản
Sự thật, xếp vào mục "Tư liệu tiếng Việt".
* Từ năm 1919 đến 1923, bài được công bố trên các báo, tạp chí,
nói chuyện, bài giảng, thư từ, bên dưới đều ghi chú: "Tư liệu đánh máy tiếng
Pháp" hoặc công bố trên báo, tạp chí tiếng Pháp.
* Năm 1924 có 8 bài công bố trên mục "chuyên luận" các
tạp chí tiếng Nga có một bản viết tay bằng tiếng Anh, còn lại đều ghi là
"Tư liệu đánh máy tiếng Pháp" hoặc "Đã công bố trên báo và tạp
chí tiếng Pháp".
* Năm 1925, có một thiên gần trăm trang, chia thành 12 chương tố
cáo và lên án chế độ thực dân Pháp. Từ năm 1925 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc lấy bí
danh là Vương Đạt Nhân, thời kỳ ở Quảng Châu đã xuất bản tờ báo "Thanh
niên" gửi về Việt Nam truyên truyền, ghi chú là chuyển dịch từ bản tiếng
Pháp.
* Đầu năm 1926, có 2 thiên được ghi chú dẫn từ bản thảo của Viện
Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu, trong đó, một thiên là bức thư gửi Đoàn chủ tịch
Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân đảng Trung Quốc, chưa xác định được là tư
liệu bằng ngôn ngữ nào. Ngoài ra, một thiên bản thảo diễn giảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc Quốc dân đảng Trung Quốc lần thứ II có ghi chú: "Tư liệu chữ
Hán. Bộ "Hồ Chí MInh toàn tập" phần trước năm 1932 này, chỉ duy nhất
có 1 tư liệu chữ Hán, tuy nhiên không biết có phải Nguyễn Ái Quốc viết hay
không., tôi rât nghi ngờ.
Cũng trước đó khong lâu, Nguyễn Ái Quốc còn phải học Trung văn từ
Đặng Dĩnh Siêu, vậy mà trong Đại hội lại tự mình diễn giảng thì chắc là nói bằng
tiếng Pháp thông qua tư liệu Trung cộng do Lý Phú Xuân phiên dịch.
Khoảng tháng mười một đến tháng mười hai năm 1926, có 8 bài với
tiêu đề "Sự biến Các Thung của Trung Quốc", miêu tả tình hình Quốc Cộng
hợp tác
* Năm 1927, ở Quảng Châu xuất hiện cuốn sách "Đường kách mệnh"
52 trang, chia thành 16 tiêu đề, theo tư cách của nhà cách mạng bàn đến việc hợp
tác quốc tế. Phần ghi chú không thấy nói đến tư liệu được viết bằng ngôn ngữ
nào, nhưng theo nội dung là gửi về để tuyên truyền cách mạng ở Việt Nam. Tác giả
nghiên cứu , suy đoán thấy văn chương của cuốn sách thuộc dòng báo
"Thanh niên", vốn được viết bằng tiếng Pháp.
* Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc không còn lưu lại bài viết nào. Ngô Đức
Trị nói, sau khi nhận được báo cáo của Nguyễn Ái Quốc : "Ông ta đi Xiêm La
già một năm, không làm được bất cứ việc gì". Từ đó ta có thể thấy, trong
năm ấy Nguyễn Ái Quốc không có một liên lạc nào với Quốc tế cộng sản, chỉ
đến khi "Thanh niên đồng chí hội" cử người đến Xiêm La yêu cầu ông ta
đến Hương Cảng hòa giải việc tranh chấp giữa các đảng phái, đầu năm 1930,
Nguyễn Ái Quốc mới về Quảng Châu để sang Hương Cảng.
* Đầu
năm 1930, viết 5 bài: "Chính cương của đảng", "Sách lược của đảng",
"Chương trình của đảng", "Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam",
"Lời kêu gọi". Những bài này đều không ký tên, cũng không ghi rõ nguồn
gốc văn bản, rất chung chung. (Dẫn từ "Văn kiện của Đảng"). Tác giả
xác định, 5 bài viết trên, tương ứng với thời kỳ Hồ Tập Chương gửi báo cáo lên Quốc
tế cộng sản. Đặc biệt bài "Lời kêu gọi", phần cuối có ghi tên Nguyễn
Ái Quốc, bút tích bằng tiếng Anh, hình như không phù hợp với phong cách văn
chương Nguyễn Ái Quốc. Thông thường, lúc liên lạc hay viết báo cáo Nguyễn Ái Quốc
mới sử dụng tiếng Anh, còn phần lớn đều viết bằng tiếng Pháp. Rất khó có chuyện,
viết bài kêu gọi đồng bào trong nước đấu tranh chống thực dân, đế quốc lại dùng
thứ tiếng nước ngoài trong khi hầu hết nhân dân đều không biết chữ. Lại nói,
"Lời kêu gọi"có một đoạn cường điệu, chứng tỏ "lạy ông tôi ở bụi
này" (nguyên văn "thử địa vô ngân tam bách lượng"): "Tôi là
Nguyễn Ái Quốc, trân trọng ngẩng cao đầu nói với đồng bào thuộc các thành phần
công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên, học sinh bị áp bức! các anh chị em!
các đồng chí!"...là thứ ngôn ngữ chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc sử dụng, đặc
biệt là đoạn mở đầu: "Chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, giải quyết vấn
đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời còn nhận trách
nhiệm chuyển sang cho anh chị em, cho các đồng chí". Cường điệu "chấp
hành chỉ thị", "giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta" v.v...đều
rất không phù hợp với cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc.
Lại
nữa, ngày 28 tháng hai năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho các đồng
chí Liên Xô: "Người An Nam, đặc biệt là người lao động luôn hướng về nước
Nga cách mạng. Phàm là báo chí có liên quan đều bị chế độ hà khắc của thực dân
Pháp cấm đoán, huống hồ, đại bộ phận công nhân và nông dân An nam mù chữ, cho
dù có biết chữ, thì người An nam chỉ đọc được chữ An Nam mà thôi. Chúng ta có
nhiệm vụ là giới thiệu cho mọi người hiểu biết về tổ quốc và giai cấp của nhà
nước Cộng sản này. Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta nên có ké hoạch dùng chữ An
Nam viết một cuốn sách...". Điều đó chứng tỏ khả năng vận dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Ái Quốc khác hẳn với ngôn ngữ của Hồ Chí Minh thay thế ông hoạt động
sau này. Những bài viết từ năm 1930 trở về sau còn lưu lại, phần lớn là do Hồ Tập
Chương chấp bút. Phàm là những ghi chép bằng tiếng Anh, thư gửi Quốc tế cộng
sản đều không phải do Nguyễn Ái Quốc viết. Điều này rất cần sự nỗ lực nghiên cứu,
giám định, phân tích của các nhà chuyên môn có hứng thú với chuyên đề Hồ
Chí Minh.
* Từ đầu năm 1931 đến 24 tháng tư năm 1931 ngừng viết, có 9 bài.
Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng xuất hiện, cùng hoạt động với nhau,
trong đó, phần lớn các bản báo cáo đều do Hồ Tập Chương chấp bút. Có một bức
thư phần cuối chỉ ghi năm mà không có ngày tháng bằng tiếng Anh gửi Quốc tế
cộng sản, theo phán đoán cũng là do Hồ Tập Chương viết.
* Từ
năm 1932 đến năm 1934, không có bất cứ bài viết nào lưu lại. Tháng sáu năm
1931, Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam, năm 1932, mùa thu, chết vì bệnh lao phổi,
trong khi đó, Hồ Tập Chương bị bắt giam từ tháng bảy năm 1931, sau đó thoát được,
đến Mạc Tư Khoa vào khoảng giữa mùa xuân đến mùa hè.
* Năm 1935, chỉ có 1 bức thư còn lưu tại Ủy viên hội Phương Đông
Quốc tế cộng sản, ký tên P.C.Lin bằng tiếng Pháp. Nội dung là,
"P.C.Lin" hoặc "Lin", từ những kinh nghiệm hoạt động có được
ở Hoa Nam Trung Quốc, Việt Nam, Xiêm La và Mã Lai Á, gửi kiến nghị đến các đồng
chí Việt Nam. Cái người có bí danh "Lin" này hẳn là mượn bí danh của
Nguyễn Ái Quốc thời kỳ hoạt động 1930, 1931, gửi báo cáo lên Quốc tế cộng sản.
Nói cách khác, đây chính là Hồ Tập Chương, lấy "Lin" làm bí
danh. Các bản báo cáo bằng tiếng Pháp chính là kết quả nghiệm thu của Quốc
tế cộng sản trong việc hoán đổi Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc
*
Năm 1936 đến 1938, chỉ có 3 bài viết. Năm 1936 không có bài viết nào. Năm 1937,
bức thư gửi Marcel Gabriel tuyệt đối không phải Nguyễn Ái Quốc. Trong mục
"5 năm học tập cải tạo", tôi đã phân tích kỹ, xin được lướt qua. Năm
1938 có 2 bức thư, một viết tại Mạc Tư Khoa, rất ngắn bằng tiếng Pháp, nội
dung báo cáo về thành quả nghiên cứu cá nhân. Chỉ có điều, bức thư này biểu thị
những nét rất khác nhau là, P.C.Lin và Nguyễn Ái Quốc cùng ký tên. Thời gian
vào ngày 6 tháng sáu lại càng phù hợp, trừ việc cùng với Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở
Hương Cảng một ngày ra, lại còn khớp cả với thời gian P.C.Lin chuẩn bị rời khỏi Mạc
Tư Khoa, cũng là ngày thành lập "Mặt trận Việt Minh, ngày viết thư gửi đồng
bào toàn quốc mà Nguyễn Ái Quốc ký tên. Có thể nói, ngày 6 tháng sáu là một
ngày có quá nhiều sự kiện đáng cho ta phải suy nghĩ. Bức thư thứ hai viết năm
1938 bằng chữ Hán vào tháng mười hai, ký tên P.C.Lin tại Quảng Tây, Trung Quốc
"Người Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế nào?" gửi đến Việt
Nam, (đăng tại tạp chí "Tiếng nói của chúng ta"), nội dung là một
thiên bình luận dài "Người Nhật Bản xâm lược Trung Quốc tàn bạo như thé
nào?" và "Tân tứ quân" của Đảng Cộng sản Trung Quốc",
"Bát lộ quân anh dũng chống Nhật". Vào lúc ấy, P.C.Lin tự xưng là người
Trung Quốc.
Năm
1939, có 11 bài viết đều ký tên P.C.Lin. Trừ 3 bài bằng tiếng Pháp gửiMạc Tư
Khoa, 8 bài còn lại đều bằng Trung văn theo hình thức "Thư gửi từ Trung Quốc"
đến Việt Nam đăng trên tạp chí "Tiếng nói của chúng ta" và tập san tiếng
Việt "Dân chúng". Bảy bài viết, trừ 2 bài tố cáo hành vi xâm lược
Trung Quốc tàn bạo của Nhật Bản, 5 bài còn lại thì, một là báo cáo tình hình
kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc, một bài kiểm điểm về hoạt động quân sự của
Việt Nam hai năm gần đây, ba bài giới thiệu về Chủ nghĩa Trosky và phái
Troskism hoạt động tại Trung Quốc. P.C.Lin trong thời gian này, ngoài việc tự
xưng là người Trung Quốc ra, còn lại đều viết bằng tiếng Việt, vậy mà đột nhiên
lại biến thành người thông thạo tiếng Nhật. Tám bài trong trong "Thư gửi từ
Trung Quốc" và các bài viết trong năm 1940 đăng trên "Cứu vong nhật
báo" bao gồm 13 chuyên đề sẽ dược phân tích kỹ ở mục "Hồ Chí Minh ở
Trung Quốc".
*
Năm 1940 có 11 bài, trong dó, 1 bài gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa,
không ký tên, sử dụng lối văn tả rất đặc biệt. Nội dung báo cáo về tình hình Việt
Nam hiện tại như hoàn cảnh địa lý, tài nguyên, dân tộc, kinh tế, quốc phòng,
các đảng phái chính trị, trong đó không ít tư liệu được dẫn từ báo chí Nhật Bản.
Ngoài 11 bài chuyên đề dùng bút danh "Bình Xuyên" viết bằng Trung văn
đăng tải trên "Cứu vong nhật báo", thể hiện quan điểm về thời cuộc và
Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt thái độ phản đối kịch liệt đối với Phát
xít Nhật và đế quốc Pháp xâm lược. Phần lớn văn chương đều sử dụng thủ pháp cường
điệu đề cao mối quan hệ đồng minh Trung -Việt trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
*
Năm 1941, các bài viết đều có những nét đặc biệt. Đó là 2 bài thơ ngắn, một đề
ngày 6 tháng sáu năm 1941, ký tên Nguyễn Ái Quốc, dưới hình thức thư từ nước
ngoài "gửi toàn thể đồng bào". Tiếp đó là 9 bài bằng tiếng Việt đăng
trên báo "Việt Nam độc lập", ngoài ra, chưa thấy các báo
chí Việt Nam lúc ấy đăng các bài bằng tiếng Việt của ông.
*
Năm 1942, các bài viết đều không ký tên, hầu hết đều đăng tải trên "Việt
Nam độc lập", trong đó 2 bài thơ ngắn, 2 bài dưới dạng bút ký, 2 bài giải
nghĩa về chiến tranh du kích. Một điều đặc biệt chú ý là, danh xưng Hồ Chí
Minh bắt đầu được sử dụng từ thời kỳ này, và từ đó về sau, không dùng bí danh nữa.
Cũng trong năm này, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tù, ông đã viết
134 bài thơ chữ Hán lấy tên là "Nhật ký trong tù".
*
Năm 1943, Hồ Chí Minh bị giam trong ngục, trừ việc viết "Nhật ký trong
tù", còn có bài thơ ngắn gửi bạn bè, một bài giới thiệu về
nước Syria làm thế nào để thoát khỏi bàn tay ma quỷ của chủ nghĩa đế quốc, một
bài là "Máu và nước mắt trong giữ gìn tổ quốc độc lập" và bài "Đồng
chí, đồng bào Việt Nam hãy cố gắng". Các bài này đều đăng trên tờ "Đồng
minh báo" của "Việt Nam Cách mạng đồng minh hội" tại Liễu Châu,
Trung Quốc, bút danh Hồ Chí Minh.
*
Năm 1944 có 2 bài được ghi chú là Hán văn, bút danh Hồ Chí Minh đăng ở mục
"chuyên đề" của "Đồng minh báo" Liễu Châu. Ngoài ra
còn có bài "Phương pháp chiến tranh du kích" lấy bút danh "Việt
Minh". Bài "Phương pháp chiến tranh du kích" này, tương ứng vào
thời kỳ năm 1939, Hồ Chí Minh lúc ấy ở Hành Sơn, Hồ Nam, tham gia khóa huấn
luyện cán bộ du kích, giải nghĩa cải biên thành.
*
Năm 1945, trước tháng tám, Việt Nam gọi là "Cách mạng tháng Tám thành
công", Việt Minh suy tôn Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời. Ngày
2 tháng chín năm 1945, tại Ba Đình Hà Nội, ông đọc "Tuyên ngôn độc lập",
từ đó ba chữ "Hồ Chí Minh" nổi tiếng trên toàn thế giới.
* Từ
năm 1946 đến 1969, trong "Hồ Chí Minh toàn tập" đã đưa vào hầu hết
các loại hình tác phẩm của ông, gồm thư tín, chuyên đề, nói chuyện, điện báo
v.v... đều ký tên Hồ Chí Minh, từng đăng tải trên các báo, tạp chí hoặc công bố
trên Đài phát thanh rất rõ ràng. Trong số này, tuy đôi lúc có chen vào một, hai
bài thơ chữ Hán hoặc thư từ bằng tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng chủ yếu vẫn là các
tư liệu tiếng Việt.
Tổng
hợp các tác phẩm của Hồ Chí Minh trong "Hồ Chí Minh toàn tập", có thể
quy về một số đặc điểm sau:
1- Từ
năm 1919 đến 1923, thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, các bài viết đều dùng tiếng
Pháp.
2 - Từ năm 1924 đến 1927, cho dù Nguyễn Ái Quốc đã đến
Quảng Châu , chủ yếu vẫn sử dụng tiếng Pháp để viết bài. Tuy nhiên, cũng có một
bài viết bằng Trung văn, hiện lưu giữ ở Viện bảo tàng Cách mạng Quảng
Châu", có điều không chắc đấy là bút tích của Nguyễn Ái Quốc. Càng kỳ lạ
hơn lá, bài viết gửi về Việt Nam đăng trên tờ báo "Thanh niên" hoặc
cuốn "Đường kách mệnh", Nguyễn Ái Quốc đều dùng tiếng Pháp chứ không
dùng tiếng Việt.
3 -Từ năm 1929 đến 1931, những bài viết còn lại rất ít, hầu hết
đều bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập
Chương) cùng ở Thượng Hải, Hương Cảng, Singapore, Xiêm La hoạt động, mà thời
gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh phổi nghiêm trọng, nên hầu hết các báo cáo, thư
từ gửi Quốc tế cộng sản đều do Hồ Tập Chương viết.
4 - Từ năm 1932 đến năm 1934, không còn bất kỳ bài viết nào lưu
lại. Mùa thu năm 1932, báo chí cộng sản đã đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh
lao phổi. Tin này là chính xác, mà Hồ Tập Chương lúc ấy, cuộc sống vô cùng khó
khăn.
5 - Từ năm 1935 đến 1938, thời kỳ này Hồ Chí Minh ở Mạc Tư
Khoa, hầu như không để lại bất cứ bài viết nào. Người lúc ấy mang bí danh P.
C.Lin có thể xác định được chính là Hồ Tập Chương. Một số bút tích, thư
tín, chứng tỏ lúc ấy Hồ Tập Chương đã biến đổi thân phận, tiếp tục vai trò hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc.
6 - Từ năm 1938 đến năm 1945, đột nhiên dùng Trung văn để viết
những lài trường thiên, chuyên đề, sáng tác thơ, viết thư pháp...càng cho thấy
P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, rất uyên bác văn hóa Hán, có khả năng phân tích
được tình hình quân đội Nhật qua các tư liệu báo chí.
Đại
hội đại biểu Quốc tế cộng sản lần thứ VII
Ngày
25 tháng bảy năm 1935, Hội nghị VII Quốc tế cộng sản khai mạc tại Mạc Tư Khoa,
khai trừ Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Quốc tế cộng sản Lev Kamenev và cựu Bí
thư thứ nhất Ban chấp hành Quốc tế cộng sản Grigori Zinoviev ra khỏi đảng, đồng
thời tiến hành xét xử, cuối cùng cả hai đều bị tử hình.
Mục
tiêu hàng đầu của Hội nghị VII là vạch ra sách lược mới cho phong trào cộng sản
thế giới để đối phó mới những nguy cơ của các thế lực mới đang trỗi dậy. Trước
khi tiến hành hội nghị, tình hình thế giới đối với Liên Xô vô cùng bất lợi.
Quân phiệt Nhật Bản nêu cao chính sách "diệt cộng" đã đem quân đánh
chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, với ý đồ thâm hiểm xâm lăng toàn bộ lục địa
Trung Hoa, thực hiện cái gọi là "Chính sách Đại Đông Á". Chính phủ
Adolf Hitler ở Đức xưng bá chủ châu Âu, lớn tiếng hô hào thành lập "Đế quốc
thứ ba" chống lại chủ nghĩa Marx- Engels. Điện Kremli đã nhìn thấy đảng
Nazi của nước Đức phát xít mỗi ngày một mạnh, cùng với quân đội Nhật Bản hiếu
chiến, lúc nào cũng giương cao ngọn cờ chống cộng. Liên Xô đang đứng trước nguy
cơ đất nước bị xâm chiếm, Stalin quyết định hủy bỏ sách lược của phái
cực tả đã được thông qua tại Hội nghị VI Quốc tế cộng sản năm 1928. Bí thư thứ
nhất Quốc tế cộng sản Grigori Dimitrov chủ trì hội nghị đề xuất cương lĩnh
"Thống nhất chiến tuyến" để các đại biểu thông qua. Quốc tế cộng sản
chuyến sang sách lược toàn thế giới phản đối chủ nghĩa phát xít, cùng với lực
lượng dân chủ, tổ chức thành liên minh thống nhất chống chủ nghĩa phát xít và
quân phiệt Nhật Bản.
Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai cùng Hoàng Văn Nọn là 3 đại biểu chính thức của Đảng
Cộng sản Đông Dương tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Ban tổ chức chỉ đạo,
mỗi đại biểu Việt Nam đều được đọc tham luận. Nguyễn Thị Minh Khai phát biểu về
"Người phụ nữ châu Á bị chế dộ thực dân áp bức". Hoàng Văn Nọn nói về
"Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa thực dân
Pháp", còn trưởng đoàn Lê Hồng Phong có bài "Những thiếu sót của Đảng
Cộng sản Đông Dương những năm qua và nhiệm vụ cấp bách trước mắt". Sau khi
Hội nghi bế mạc, Lê Hồng Phong được bầu là Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Quốc
tế cộng sản.
Hồ
Chí Minh lấy "P.C.Lin" hoặc "Lý Nặc Phu" làm bí danh, lúc ấy
là Bí thư Cục Viễn Đông, đến hội nghị với tư các quan sát viên, không có
quyền phát biểu, chỉ giữ vai trò im lặng, rất không phù hợp với tác phong của một
cán bộ từng đảm nhiệm chức vụ phát ngôn viên dày dạn kinh nghiệm của Quốc tế cộng
sản Đông Nam Á. Việc Lê Hồng Phong trúng cử vào Ban chấp hành Quốc tế cộng sản,
trở thành lãnh tụ mới của Đảng Cộng sản Đông Dương, cùng với tiếng vang của những
bản tham luận tại Hội nghi VII, chắc chắn sẽ tác động đến tâm lý Hồ Chí
Minh, một người gần như bị gạt ra ngoài lề mọi sự kiện chính trị lúc ấy.
Hội
nghi kết thúc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai làm
lễ thành hôn tại Mạc Tư Khoa.
Từ
nghị quyết Hội nghị VII, để hóa giải nguy cơ trước mắt, Quốc tế cộng sản hiệu
triệu giai cấp vô sản thế giới, chuyển sang liên minh với các lực lượng dân chủ,
hợp thành trận tuyến rộng lớn, chống lại chủ nghĩa phát xít ngày càng bành trướng.
Cử hành lễ cưới xong, Lê Hồng Phong về Thượng Hải trước, đến
năm 1936 thì triệu tập Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương truyền
đạt những nhiệm vụ chủ yếu mà Hội nghị VII Quốc tế cộng sản đã đề ra, đồng thời
giải thích sự thay đổi chính sách của Mạc Tư Khoa.
Tôi đã nghiên cứu, thẩm định, Lê Hồng Phong trở về Thượng Hải
với một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là, truyền đạt cho Đảng Cộng sản Trung Quốc
như sau: "Đảng viên cộng sản Hồ Tập Chương, trong 2 năm đã ra sức học tập,
rèn luyện đạt được thành tịch tốt, sau này sẽ thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc,
vì hai đảng anh em ra sức phấn đấu, tuy nhiên, thân phận của Hồ Tập Chương phải
được tuyệt đối giữ bí mật".
Hồ
Chí Minh, P.C.Lin, Lý nặc Phu, với tư cách quan sát viên tham dự Hội nghị
VII Quốc tế cộng sản chỉ lẳng lặng ngồi nghe không nói một lời. Nếu đem đối chiếu
với Hội nghị V Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc ung dung lên diễn đàn, tranh thủ
tối đa hoàn cảnh để phát biểu, thì hai người khác nhau một trời một vực. Nếu
xem Hồ Chí Minh như là Nguyễn Ái Quốc, vậy thì vì sao, trong hội nghị lại
không được phát biểu, hơn thế nữa, lại để cho người vợ yêu dấu của mình là Nguyễn
Thị Minh Khai công nhiên tổ chức hôn lễ với Lê Hồng Phong? Trường hợp
này, chỉ có một khả năng giải thích, người tham gia Hội nghị VII này, không phải
là Nguyễn Ái Quốc mà là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Tập Chương, đến từ
Đài Loan, là phái viên liên lạc của Quốc tế cộng sản. Ông cũng là Hồ
Chí Minh, đã trải qua khóa học tập cải tạo củaQuốc tế cộng sản 5 năm ở Mạc Tư
Khoa
Hồ
Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa
Hồ
Chí Minh phải qua 5 năm học tập cải tạo ở Mạc Tư Khoa, không phải vì nguyện
vọng cá nhân mà là bị cưỡng bách, không biết làm thế nào, đành phải chấp nhận.
Vào lúc Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn sắp trở về Việt Nam đã đến từ biệt Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh chính là giảng viên đã dạy họ ở Mạc Tư Khoa, đã từng
chỉnh sửa, bổ sung các bản tham luận của họ để đọc tại Hội nghịVII Quốc tế cộng
sản. Ông cũng sẽ là đại biểu được phái đến Việt Nam trong thời gian tới. Vào
lúc chia tay, Hồ Chí Minh đã hướng dẫn Hoàng Văn Nọn và Nguyễn
Thị Minh Khai về cách thức liên lac với các đảng phái trong và ngoài nước,
đồng thời truyền đạt chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, giao cho Lê Hồng Phong ba việc
như sau:
1 -
Chính phủ Pháp hiện nay do Mặt trận Bình dân năm giữ, nhất định sẽ dẫn đến thay
đổi cục diện chính trị ở Bán đảo Đông Dương. Các Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương đang ở nước ngoài phải lập tức về nước ngay để chỉ đạo phong trào đấu
tranh của quần chúng, chỉ lưu lại một vài đồng chỉ để duy trì liên lạc.
2 -
Các phần tử Troskism ở các nước và Việt Nam, bản chất là phản động và phản bội,
đảng của chúng ta phải kiên quyết ly khai chúng, không được có bất cứ sự thỏa
hiệp nào.
3
- Nhất định phải tập trung hình thành trận tuyến chống chủ nghĩa
phát xít và phản đối chiến tranh, chỉ có điều, trong khi tổ chức liên minh này,
không được quên lấy lợi ích của giai cấp cần lao làm nhiệm vụ hàng đầu.
Vào lúc mọi người đã rời khỏi Mạc Tư Khoa, hiển nhiên là Hồ
Chí Minh có cảm giác trống văng nhưng không thể làm gì khác. Trong một cuộc trả
lời phỏng vấn vào năm 1935, ông nói chuyện với nhà bào Liên Xô Ilya
Erenburg là, trước mắt chỉ có một hy vọng được trở về tổ quốc. Ngay sau Hội nghị
VII kết thúc, Hồ Chí Minh đã đề nghị được tạm thời về nước, chỉ vì tình
hình nội bộ Đông Nam Á lúc ấy rất phức tạp nên đã bị cự tuyệt. Cho đến
mùa hè năm 1936, ông lại đề nghi được qua Berlin và Pháp trở về Việt Nam,
cuối cùng do nội chiến Tây Ban Nha liên quan đến nước Pháp nên kế hoạch lại bị
hủy bỏ. Năm học 1937 - 1938, ngoài việc soạn thảo, tu sửa một số giáo trình, Hồ
Chí Minh còn làm việc ở Cục Viễn Đông. Hoàn cảnh hiện tại của ông khá là
buồn thảm. Đối với phái hành động thiếu lý luận mà nói, qua thời gian phiên dịch
tác phẩm của các nhà cộng sản chủ nghĩa và thảo luận về hình thái ý thức, nhất
định là một sự thử thách gian nan. Tháng sáu năm 1938, Hội nghi VII Quốc tế cộng
sản đã qua được ba năm, Hồ Chí Minh tuyệt vọng, viết thư gửi một cán bộ
trong ban lãnh đạoQuốc tế cộng sản như sau: "Tôi bị bắt giữ đến nay đã 7
năm, tức là đã 8 năm tôi không được hoạt động. Tôi thỉnh cầu được sự giúp đỡ để
thoát khỏi tình thế đáng buồn này. Đưa xuống địa phương hay giữ lại thì nên sử
dụng khả năng chuyên môn của tôi, chỉ xin đừng để tôi xa rời hoạt động quá
lâu". Vì việc này nên Hồ Chí Minh yêu cầu được gặp người phụ trách của Quốc
tế cộng sản, ông ta rất cần sự đồng tình của Vera Vasilieva. Cuối cùng nguyện vọng
rời Mạc Tư Khoa đã được chấp nhận.
Sau
khi nhận được mật lệnh, ngày 6 tháng sáu, Hồ Chí Minh đáp xe lửa về Trung
Quốc với bí danh "Lin" là "học sinh đã hoàn thành khóa học".
Vì sao Hồ Chí Minh được phóng thích sau nhiều năm bị quản chế ở Liên
Xô dưới danh nghĩa học tập cải tạo? Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nội bộ Mạc
Tư Khoa không muốn để ông ra đi. Thế nhưng, vào thời kỳ những năm 1930, hồ sơ
liên quan đến Hồ Chí Minh còn lại rất ít, cho nên, để biết được
nguyên nhân và động cơ thoát khỏi Mạc Tư Khoa của ông, ta chỉ có thể suy đoán.
Tuy vậy, không thể biết Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ
gì? Chỉ thấy ông ta hầu như đặt nhiều hy vọng vào Cộng sản Trung Quốc tích cực
can thiệp đối với nhà đương cục Mạc Tư Khoa. Hồ Chí Minh báo về
với người phụ trách mới của Mạc Tư Khoa ở Trung Quốc, tiếp đó là giúp đỡ ông thực
hiện nhiệm vụ vận động cách mạng ở Việt Nam.
William
J. Duiker cho rằng, việc Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa năm 1938 là do
Quốc tế cộng sản cho phép, giao phó một mật lệnh, làm xong sẽ báo cáo giải
trình. Vì sao lãnh tụ cách mạng Việt Nam không trực tiếp trở về nước tham gia
chỉ đạo phong trào, mà lại trải qua ngàn dặm xa xôi đến tận căn cứ địa cách mạng
Diên An, Trung Quốc, sau khi bàn mưu tính kế với trùm đặc vụ Khang Sinh mới
cùng Diệp Kiếm Anh về làm việc ở Bát lộ quân Quảng Tây Trung cộng? Tôi có
nhận xét, William J. Duiker giải thích: " Căn cứ vào khoảng thời gian
từ mùa thu năm 1938 đến tháng năm năm 1943, có thể phán đoán những hoạt động của Hồ
Chí Minh tại Trung Quốc, mà chủ yếu là cung cấp tin tức về Mạc Tư
Khoa". Giải thích như thế xem ra có vẻ hợp tình hợp lý nhưng rất không
chính xác. Vì sao Hồ Chí Minh lại phải đi theo Diệp Kiếm Anh một
chặng đường dài đến làm việc ở Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây? Duyên cớ
gì trong thời gian 5 năm, ông chỉ hoạt động ở các tỉnh vùng biên giới Trung Quốc
như Quế, Kiềm, Điền cùng với lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc Chu
Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Khang Sinh, Lý Khắc Nông bàn mưu tính kế? Nội dung những
vấn đề cơ mật là gì? Tôi cho rằng thân phận đích thực của Hồ Chí Minh có liên
quan đến việc Quốc tế cộng sản giao cho ông nhiệm vụ bí mật. Căn cứ vào những
hồ sơ ghi chép về những hoạt động của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, tôi đã thấy
xuất hiện một vài manh mối mới. Kết hợp với những tài liệu lưu trữ trong gia tộc,
tôi đem so sánh, đối chiếu, và, phần nào đã phục hồi được sự thật lịch sử.
Màn
hai
Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1938 -
1945)
Ngàn
dặm xa xôi đến Diên An
Đầu
năm 1938, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa bằng xe lửa xuyên qua vùng lãnh
nguyên phía nam nước Nga, lưu lại Alma-Ata, thủ phủ của nước Cộng hòa
Kazakhstan, sau đó tiếp tục đến vùng biên giới Trung Quốc, nhập vào một đoàn
thương gia, qua Urumchi (Ô Lỗ Mộc Tề) rồi về Lan Châu. Tại Lan Châu, Hồ Chí
Minh gặp được người của Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ tiếp tục hành
trình tới Tây An. Đến Tây An, ông lại được thủ trưởng cơ quan Giải phóng quân
nhân dân Tây An Ngũ Tu Quyền tiếp đón. Hồi ký Ngũ Tu Quyền viết: "Các đồng
chí lãnh đạo cao cấp phân công tôi tiếp đón một nhân vật rất quan trọng. người
châu Á, tuy không biết họ tên nhưng được lệnh phải tiếp đãi chu đáo, sau đó bảo
vệ cẩn thận để ông ta đến Diên An an toàn". Tại Tây An, Hồ Chí Minh đợi
hai ngày, sau đó nhập vào một đoàn xe trâu và xe ngựa, đi lên phía bắc chừng
hơn trăm dặm thì đến sơn khu Diên An. Trên đường đi gặp khá nhiều quân đội Quốc
dân đảng. Hồ Chí Minh cải trang thành người đánh xe đi cùng đoàn dân
phu, vì thế, phần lớn hành trình đều phải đi bộ.
Cuối
tháng mười, Hồ Chí Minh đến nhà khách "Vườn Táo" do đặc vụ Khang
Sinh tiếp đón. Lúc ấy, Khang Sinh là Bộ trưởng Bộ Xã hội, phụ
trách công việc an toàn điều tra, Lý Khắc Nông là Phó bộ trưởng kiêm nhiệm thủ
trưởng Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây. Thật là, ở đời người ta gặp nhau
khó lường. Những tưởng vào khoảng năm 1934, tại Mạc Tư Khoa, Khang Sinh đã
đề xuất mức án xử tử Hồ Chí Minh, vậy mà ngày nay, tại "Vườn Táo",
ông ta lại trở thành khách quý của trùm đặc vụ. Căn cứ vào những bằng chứng có
được, Hồ Chí Minh và Khang Sinh bàn mưu với mật lệnh do Quốc tế cộng sản giao
phó là có liên quan đến, một là, quét sạch chủ nghĩa Trosky và những phần tử
theo chủ nghĩa Trosky, hai là, chấp hành tuyệt đối không được để lộ bí mật cho
người ngoài biết". Trong tập 3 "Hồ Chí Minh toàn tập", có bức
thư Hồ Chí Minh gửi "Tiếng nói của chúng ta" ở Việt Nam (Ngã môn chi
thanh), năm 1939, nội dung đề cập đối với chủ nghĩa Trosky là phải phân định rạch
ròi, có đầy đủ chứng cứ. Nhiệm vụ bí mật có thể liên quan đến thân phận người
Đài Loan của Hồ Chí Minh. Theo quan niệm người đời "chết mà sống",
"nghèo mà quý", vật đổi sao dời, họa phúc sớm chiều, thì rất khó dự
đoán.
Sau khi đến nhà khách "Vườn Táo" một tuần, Hồ Chí Minh
cải trang thành lính cần vụ của Diệp Kiếm Anh trên hành trình dặm trường cát bụi
đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây. Đây là bước đi đầu tiên trong
sự nghiệp vinh quang của Hồ Chí Minh sau này. Thời kỳ Hồ Chí Minh đến
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây không có cách nào tra cứu chính xác. Tài
liệu Trung cộng thì ghi là cuối năm 1938. Căn cứ vào giáo sư Hoàng Tranh trong
bài phỏng vấn Hà Khải Quân ngày 23 tháng chín năm 1982 như sau: "Vào khoảng
cuối năm 1938 đến đầu năm 1939. lúc ấy, tôi và Hồ Chí
Minh, bí danh là Hồ Quang, cùng làm việc tại Tổng bộ Bát lộ quân Quế
Lâm, Quảng Tây , hết giờ lại về ở trong một căn phòng lớn phía tây đường Mạc
Thôn. Nghe giọng nói, tôi biết ông là người Quảng Đông.
Hồ Chí Minh phụ trách công việc vệ sinh kiêm viết báo tân văn,
vì thế cũng là một vị lãnh đạo cơ quan. Ông còn phụ trác biên tập tờ nội san
"Sinh hoạt tảo báo" (Sinh hoạt buổi sáng). Tất nhiên chúng tôi hoàn
toàn không biết thân phận của ông, sau này mới phát hiện ra, Hồ Quang có rất
nhiều nét đặc biệt. Có một lần, tôi phê bình ông ấy một vài vụ việc nho nhỏ, đến
ngày thứ hai, Lý Khắc Nông phụ trách "Bát biện" (Quế Lâm Bát lộ quân
biện sự xứ), tìm gặp hỏi tôi phê bình Hồ Quang về việc gì? Sao lại dám tự tiện
phê bình như vậy? Đến lúc ấy tôi mới biết thân phận Hồ Quang không đơn giản.
Ông là người rất có khí thế".
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm
Cơ
quan Bát lộ quân Quế Lâm đóng tại nhà số 96, đường Trung Sơn Bắc, thành phố Quế
Lâm, tỉnh Quảng Tây, cũng gọi là Cơ quan Tập đoàn quân 18 Quốc dân cách mạng
quân, là một cơ quan bí mật của Cục Phương Nam Trung cộng. Hạ tuần tháng mười một
năm 1938, căn cứ vào chỉ thị của Trung ương, sau khi Chu Ân Lai cùng Quốc dân đảng
Quế Lâm hiệp thương, Lý Khắc Nông lấy tư cách Bí thư trưởng Cục Phương Nam kiêm
chủ nhiệm Cơ quan Bát lộ quân, toàn quyền phụ trách Quế Lâm. Từ tháng mười hai
năm 1938 đến tháng năm năm 1939, Chu Ân Lai đã ba lần đến Quế Lâm tực tiếp chỉ
đạo, giao nhiệm vụ cho Cơ quan Bát lộ quân và lãnh đạo Cục Phương Nam, tích cực
tuyên truyền chủ trương kháng Nhật, đoàn kết các nhân sĩ yêu nước kháng nhật, hợp
thành mặt trận thống nhất, triển khai các hình thức vận động cứu quốc.
Ngày
20 tháng giêng năm 1941, xảy ra sự biến "Miền nam An Huy" (Hoãn Nam sự
biến), ảnh hưởng đến vận mệnh Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, nên buộc phải triệt
hồi rút về Diên An. Thời gian này, Diệp Kiếm Anh, Diệp Đĩnh, Quách Mạt Nhược, Hạ
Diễn cũng đã rút về đây tiếp tục hoạt động.
Từ
cuổi tháng mười hai năm 1938, sau khi Chu Ân Lai đến Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm chỉ đạo công tác, Hồ Chí Minh cũng được bố trí là Phó chủ nhiệm "Cứu
vong thất" kiêm Ủy viên phụ trách vệ sinh và Ủy viên biên tập báo tường.
Lúc ấy, trừ chủ nhiệm Lý Khắc Nông ra, rất ít người biết Hồ Chí Minh là
Ủy viên Đông Phương bộ, Quốc tế cộng sản và thân phận thực của ông. Hồ
Chí Minh là bạn rất thân thiết của Chu Ân Lai, tích cực vận động Diệp Kiếm
Anh phụ trách quân sự và Lý Khắc Nông phụ trách đặc vụ, nên đã thành lập được
"Đảng bộ Hải ngoại" của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động rất có hiệu
quả.
Ban huấn luyện cán bộ chiến
tranh du kích Hành Sơn, Hồ Nam
Tháng hai năm 1939, người chỉ huy quân sự của Đảng Cộng sản
Trung Quốc làDiệp Kiếm Anh chuyển từ Quế Lâm về phía đông bắc khoảng hai
trăm dặm, đến phía nam dãy núi Hành Sơn, thành lập "Trung tâm huấn luyện
cán bộ du kích". Kế hoạch này hình thành từ 25 tháng mười một năm 1938,
khi tại Hành Sơn, triệu tập Hội nghị quân sự, đề xuất "hai giai đoạn kháng
chiến". Hội nghị nhận thấy, chiến tranh du kích có ưu thế hơn chiến tranh
chính quy nên đã quyết định thành lập. Giai đoạn thứ nhất của Ban huấn luyện
cán bộ du kích bắt đầu từ ngày 15 tháng hai năm 1939. Giai đoạn thứ hai từ 20
tháng sáu đến 20 tháng chín năm 1939.
Hồ
Chí Minh sau 6 tháng rời Quế Lâm, lấy bí danh Hồ Quang, tham gia giai đoạn hai
lớp huấn luyện cán bộ du kích. Chương trình huấn luyện đã cung cấp cho Hồ Chí
Minh rất nhiều phương tiện và kiến thức bổ ích. Sau này, khi rời khỏi sơn khu Tĩnh
Tây, Hồ Chí Minh đã sử dụng những kiến thức và kinh nghiệm quý đó, về căn cứ địa
Việt Bắc, mở lớp huấn luyện chiến tranh du kích và lập ra một chi đội giải
phóng quân vũ trang đầu tiên.
Một
mặt tham gia huấn luyện "Du kích ban", mặt khác, Hồ Chí Minh còn đảm
nhiệm công việc điện báo viên điện đài, nghe các thông tin từ đài phát thanh nước
ngoài, đặt trụ sở trong một trang viên phía tây thành Nhạc Dương. Hồi ký của
Ngô Khê Như, một người từng là giáo viên giảng dạy tại "Du kích ban",
viết về Hồ Chí Minh như sau: "Đồng chí Hồ Chí Minh tham gia khóa học Huấn
luyện cán bộ du kích vài tháng, cũng kiêm nhiệm luôn công việc phiên dịch, chức
danh là Trưởng ban thông tin cơ quan Quế Lâm, thường gọi là Ngoại công". Hồi
ký của Lý Bội Quần cũng viết: "Hồ Chí Minh nói chuyện bằng tiếng Quảng
Đông rất giỏi nhưng tiếng phổ thông thì không được lưu loát. Khi ấy, các đồng
chí được Đảng Cộng sản cử đến Ban huấn luyện cán bộ du kích ở Nhạc Dương rất ít
người biết tiếng Quảng Đông, nhưng Hồ Chí Minh chỉ thích nói chuyện với chúng
tôi bằng tiếng phổ thông".
(Tác
giả nhận định, Lý Bội Quần là liên lạc viên giao thông Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm, sau khi khóa "Huấn luyện cán bộ du kích Hành Sơn" kết thúc, Hồ
Chí Minh được đưa đến Long Châu Quảng Tây để liên lạc với người của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Những người chạp, không hoạt bát khó có thể làm liên lạc. Lý Bội Quần
nói "Hồ Chí Minh nói tiếng Quảng Đông rất giỏi" chính là nói tiếng
Khách, bởi Lý Bội Quần cũng là người Khách nên rất thông thạo thứ ngôn ngữ này.
Vào năm 1930, Chu Ân Lai đã biết rõ Hồ Tập Chương là người Khách đến từ Đài
Loan, cho nên, năm 1931, Hồ Tập Chương trốn khỏi Quảng Châu, một người Khách
khác là Đào Chú đã cử một nữ đảng viên Khách Gia đi cùng để bảo vệ. Năm 1932,
vào lúc Hồ Tập Chương đang lẩn trốn ở Long Châu, lại cùng một người Khách Gia
khác là Đặng Tiểu Bình bàn mưu tính kế cho cuộc khởi nghĩa Long Châu. Năm 1938,
lúc từ phía nam Diên An xuống Quế Lâm, Hồ Chí Minh được bố trí làm lính cần vụ
cho một người Khách Gia khác làDiệp Kiếm Anh. Hàng loạt những sự việc trùng hợp
nhau hoàn toàn không đơn giản, bởi lẽ đều là có sự sắp xếp từ trước).
Trong một cuốn sách nhỏ nhan đề "Thông tin về đợt hai Ban
huấn luyện cán bộ du kích quân huấn Bộ Tổng tham mưu, Ủy viên quân sự hội",
có đăng tải công khai hồ sơ Hồ Chí Minh như sau:
Họ tên: Hồ
Quang
Chức vụ: Thiếu
tá, nhân viên Đài tân văn.
Tuổi: 38
Quê quán: Quảng
Đông
Đơn vị: Tập
đoàn quân 18.
Từng làm công tác: Giáo viên trung học, hiệu trưởng trường ngoại
ngữ.
Đảng
bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng
9 năm 1939, sau khi lớp "Huấn luyện cán bộ du kích" kết thúc, Hồ Chí
Minh lại trở về Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm. Tháng mười hai năm 1939, ông được
điều dến Cơ quan Bát lộ quân Quý Dương giúp việc cho đồng chí cấp dưỡng. Mọi
người đều hoan hỷ đón tiếp Hồ Chí Minh. Ông cũng thường dạy mọi người tiếng Nga
và tiếng Anh, vào lúc có tiền thì bỏ ra một ít mua rau quả mời mọi người cùng
ăn.
Đầu
năm 1940, Hồ Chí Minh ở thôn Hồng Nham thuộc Cơ quan Bát lộ quân Trùng Khánh,
đã có vài lần cùng Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh bí mật bàn bạc. Tháng
hai năm 1940, Hồ Chí Minh đến Côn Minh, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đã liên lạc được với Đảng bộ Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng
Cộng sản Đông Dương dưới danh nghĩa Việt Kiều ở Côn Minh đã sớm xây dựng tổ chức,
triển khai hoạt động. Thời kỳ năm 1939, tại Côn Minh đã thành lập được bộ phận
hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, những người lãnh đạo gồm Phùng Chí Kiên,
Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải), Hoàng Văn Hoan (bí danh Lý Quang Hoa). Tháng
năm năm 1940, Hồ Chí Minh cùng nhóm Phùng Chí Kiên tại Vân Nam (tỉnh Điền) đi
xe lửa về Côn Minh. Lúc này, Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt), Võ Nguyên
Giáp (bí danh Dương Hoài Nam) đã từ Việt Nam đến Côn
Minh. Sau khi đến trụ
sở Đảng bộ Hải ngoại, nhóm này được gặp Hồ Chí Minh tại công viên Thúy Hồ. Lúc ấy
họ hoàn toàn không biết Hồ Chí Minh đã đề nghị Đảng Cộng sản Đông Dương thu nhập
Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương hải ngoại, đồng thời cử họ đi Diên An học tập.
Đầu tháng sáu, Cao Hồng Lĩnh dẫn đường đưa Hoàng Văn Hoan và Võ Nguyên Giáp đến
Cơ quan Bát lộ quân Qúy Dương chờ để đi Diên An học tại "Đại học kháng Nhật
Tây Nam" do trùm đặc vụ Khang Sinh chủ trì.
Ngày
27 tháng sáu năm 1940, quân đội Hitler dánh chiếm thủ đô Paris, nước Pháp đầu
hàng. Ngày 22 tháng chín năm 1940, đại tướng Decoux vừa nhậm chức Toàn quyền
Đông Dương, đã thỏa thuận ngầm cho quân đội Nhật vượt qua ải Nam Quan tiến xuống
Hải Phòng. Hồ Chí Minh suy nghĩ, tình hình này sẽ đẩy Việt Nam và Đông Dương đến
một cục diện mới, liền triệu tập Đảng bộ Hải ngoại, đề xuất chuyển địa bàn hoạt
động về vùng biên giới Quảng Tây-Việt Nam, sau đó về nước trực tiếp chỉ đạo đấu
tranh vũ trang. Mọi người đều đồng ý kế hoach này. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Côn
Minh đi Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai, một tháng sau lại trở về Côn Minh.
Thời
gian này, Đảng bộ Hải ngoại nhận được thư của Hồ Học Lãm do Văn phòng ủy viên
quân sự Quế Lâm của tướng Lý Tế Thâm chuyển cho. Trong thư, Hồ Học Lãm nói, Tư
lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu Liễu Châu có một sĩ quan người Việt là Trương Bội
Công, nhận được chỉ lệnh quan trọng của Quốc dân đảng là quân đội Trung Quốc sắp
tiến vào Việt Nam. Để đối phó với sự kiện này, Trương Bội Công đã tiến hành
chiêu mộ nhân sĩ Việt Nam, tổ chức tại biên giới một đội công tác. Hồ Học Lãm
cũng đề nghị các đồng chí ở Đảng bộ Hải ngoại từ Côn Minh sang Quảng Tây để tiện
khống chế Trương Bội Công. Hồ Chí Minh nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi, lập tức
yêu cầu Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan phải nhanh chóng sang Quảng Tây,
đồng thời thông báo đến Quý Dương cho Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tạm thời
không đi Diên An mà trở lại Quảng Tây. Việc tếp theo là chuyển trụ sở Đảng bộ Hải
ngoại về đóng tại Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, coi như trung tâm chỉ huy tác
chiến, thành lập căn cứ địa cách mạng, triển khai phương thức đấu tranh mới.
Tháng
mười năm 1940, Hồ Chí Minh trở lại Quế Lâm. Không lâu sau, Phùng Chí Kiên, Vũ
Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp cũng từ chố Trương Bội Công ở
Liễu Châu về Quế Lâm. Có Hồ Chí Minh tại Cơ quan Bát lộ quân ngầm yểm trợ, Vũ
Anh, Phạm Văn Đồng làm liên lạc, đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương Hải ngoại đã
tổ chức được lực lượng. Trong khi ấy, ở Quế lâm, Hồ Chí Minh thành lập cơ quan
"Việt Nam độc lập đồng minh hội" do Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm, Phạm
Văn Đồng làm Phó chủ nhiệm. Hồ Chí Minh lại bố trí Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng
gặp gỡ Lý Tế Thâm, đồng thời mở tiệc chiêu đãi thư ký của ông ta để cho
"Việt Nam độc lập đồng minh hội" được thành lập từ ngày 8 tháng mười
hai năm 1940. Từ nay, những người cộng sản Việt Nam tại Quế Lâm đã có một tổ chức
hoạt động công khai, hợp pháp.
Như
vậy, mọi hoạt động của "Việt Nam độc lập đồng minh hội", thực tế là
do Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải ngoại chỉ đạo, đồng thời, Hồ Chí Minh còn
thông qua quan hệ với Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm để Hồ Học Lãm, Phạm Văn Đồng
tiếp xúc với giới ký giả tân văn, nhân sĩ văn hóa, với mục đích quảng bá rộng
rãi cho cách mạng Việt Nam. Tiếp sau đó lại thành lập "Trung Việt văn hóa
công tác đồng chí hội' nhằm triển khai các hoạt động của "Việt Nam độc lập
đồng minh", kiên trì dường lối đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng minh
Sau
khi thành lập được "Việt Nam độc lập đồng minh hội" , dưới sự yểm trợ
của Hồ Chí MInh, Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Việt Nam lại tổ chức thành
công "Trung Việt văn hóa công tác đồng chí hội'" để có chỗ dựa, đã
tranh thủ lợi dụng hoàn cảnh, tạo điều kiện tối đa cho các đảng viên Đảng bộ Hải
ngoại hoạt động công khai.
Thời
kỳ này, những người cộng sản Việt Nam lợi dựng sự kiện Pháp Nhật xung đột ở Lạng
Sơn để tổ chức cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Sau đó không lâu, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan chuyển về huyện Tĩnh Tây, thành lập "Việt
Nam dân tộc giải phóng ủy viên hội" vào tháng bảy năm 1940 tại Liễu Châu với
lời phát biểu "Tuyên ngôn thành lập" kêu gọi các dân tộc Việt Nam
vùng lên đấu tranh thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Có được
nguồn kinh phí do Trương Bội Công xin được từ Quốc dân đảng, "Việt Nam dân
tộc giải phóng ủy viên hội" mở lớp huấn luyện cán bộ thanh niên Việt Nam,
làm nòng cốt cho công cuộc giải phóng dân tộc. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh đem
"Việt Nam dân tộc giải phóng ủy viên hội" phân chia làm hai tổ. Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan ở lại Tĩnh Tây, Phùng Chí Kiên, Vũ
Anh, Lê Quảng Ba về Cao Bằng làm cơ sở nòng cốt công tác. Sau khi thành lập cơ
quan tại thôn Bắc Pha thuộc huyện Hà Quảng, Cao Bằng, Hồ Chí Minh lần này cải
tên là Thu Ông, từ Tĩnh Tây về Bắc Pha. Bắc Pha là một thôn nhỏ hẻo lánh vùng
núi cao, cư dân toàn là người Nùng. Đây là lần đầu tiên Hồ Chí Minh đến Việt
Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Nhóm Phạm Văn Đồng lưu lại Tĩnh Tây vẫn sử dụng
mối quan hệ giữa Trương Bội Công và Quốc dân đảng làm chỗ dựa, đến ngày 12
tháng tư năm 1941 thì chính thức thành lập "Việt Nam dân tộc Giải phóng đồng
minh hội".
Đến
lúc này, những tổ chức thành viên do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và chỉ đạo gồm
có Đảng Dân chủ Việt Nam và "Việt Nam độc lập đồng minh hội".
"Việt Nam dân tộc Giải phóng đồng minh hội" thành lập không lâu, Hồ
Chí Minh lại thành lập Cơ quan Trung ương chỉ huy bí mật của Đảng cộng sản Đông
Dương. Ngày 10 tháng năm năm 1941, tại Bắc Pha, triệu tập Hội nghị VIII Đảng
Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh chủ trì. Tham gia Hội nghị gồm có
Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan,
Hoàng Quốc Việt. Hội nghị quyết định thành lập và phát triển căn cứ địa du
kích, thành lập "Mặt trận Việt Minh", lấy "Việt Nam độc lập đồng
minh" làm trung tâm cùng 16 tổ chức "Cứu quốc hội". Ngày 19
tháng năm năm 1941, thành lập "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh",
gọi tắt là "Việt Minh". Hội nghị suy tôn Hồ Chí Minh là Tổng bí thư Đảng,
trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tuy nhiên Hồ Chí Minh kiên quyết từ chối,
đề nghị chuyển chức vụ này cho Trường Chinh, người đã có nhiều năm hoạt động bí
mật trong nước. Cương lĩnh của Việt Minh quy định, mục tiêu phấn đấu trước mắt
của nhân dân Việt Nam là, sau khi lật đổ phát xít Pháp, Nhật, sẽ thành lạp
Chính phủ cách mạng của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời sử dụng cờ
đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Bị bắt
ở Quảng Tây và tập thơ "Nhật ký trong tù"
Sau
khi kết thúc Hội nghị VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và
thành lập "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh", trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, thời gian này, Hồ Chí Minh thường qua lại giữa Bắc Pha và
Tĩnh Tây. Ngày 6 tháng sáu năm 1941, Hồ Chí Minh viết bức thư nhan đề "Thư
hiệu triệu gửi dồng bào Việt Nam", ký tên Nguyễn Ái Quốc, nguyên văn bằng
chữ Hán, qua phương thức "thừ từ nước ngoài gửi về" kêu gọi đồng bào
cả nước đứng lên, thành lập "Hội cứu quốc", đánh đổ đế quốc Nhật,
Pháp xâm lược. Bức thư hiệu triệu này rất nhanh chóng lan truyền đến các đia
phương, cổ vũ mãnh liệt tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, làm cho không
khí cách mạng lan rộng khắp các tỉnh, các giới nhân sĩ tham gia các "Hội cứu
quốc" mỗi ngày một đông.
(Tác
giả nhận định, căn cứ vào lời giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, 16 tổ chức "Hội cứu
quốc" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương bao gồm các đoàn thể: công
nhân, nông dân, quân nhân, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, phụ lão, phật
giáo, thiên chúa giáo, thương nhân v.v... Mặt trận Việt Minh có sức lan tỏa rộng
khắp, ảnh hưởng ngày càng lớn đến quần chúng nhân dân, nguyên nhân cũng bởi
hình tượng Nguyễn Ái Quốc bỗng nhiên sống lại trong lòng nhân dân Việt Nam sau
10 năm vắng bóng vì cái tin ông đã chết do bệnh lao phổi vào mùa thu
năm 1932. Lần đầu tiên cái tên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện công khai trước báo chí
quốc tế.
Hạ
tuần tháng tám năm 1942, được Lê Quảng Ba dẫn đường, Hồ Chí Minh lại mọt lần nữa
rời Bắc Pha sang Trung Quốc. Mục đích sang Trung Quốc của ông lần này là để di
Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai báo cáo tình hình Việt Nam hiên tại và trao đổi về
tình hình thế giới.
(Tác
giả nhận định, Hồ Chí Minh sau khi bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tập "Nhật
ký trong tù" của ông có bài "Tưởng công huấn từ" (Lời dạy của Tưởng
công), đã bị giải thích thành "Lần này đến Trung Quốc để gặp Tưởng Giới Thạch"
là sai lầm. Từ những năm 1929, Chu Ân Lai đã sớm biết Hồ Tập Chương là người
Đài Loan, cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932, và đến năm 1935, Quốc
tế cộng sản dùng Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc. Năm
1938, Hồ Tập Chương đến "Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm", họ Chu đã dành
cho Hồ Quang sự giúp đỡ đặc biệt. Từ năm 1940 đến 1941, Hồ Quang và Chu Ân Lai
nhiều lần gặp nhau tại Trùng Khánh bàn việc cơ mật. Được các Cơ quan Bát lộ
quân Quế Lâm, Quý Châu, Trùng Khánh hết sức yểm trợ, Hồ Quang đã có nhứng sáng
tạo mới làm thay đổi sự nghiệp cách mạng. Về điểm này, chắc Hồ Tập Chương ghi
nhớ rõ từng chi tiết trong lòng, cho nên đã nhiều lần xưng hô với Chu Ân Lai là
"Ân ca". Tình cảm bạn bè giữa hai người còn hơn cả tình đồng chí).
Trước khi đi, Hồ Chí Minh đóng dấu tên mình, ở giữa là ba chữ Hồ
Chí Minh, hai bên phải trái viết các chữ "Tân văn ký giả" và "Việt
Nam Hoa kiều". Danh xưng Hồ Chí Minh này được bắt đầu dùng từ ngày 25
tháng tám khi ông đến Ba Mông Thành, huyện Tĩnh Tây, ở lại nhà người anh em kết
nghĩa Từ Vĩ, vui vẻ đón tết rằm tháng bảy. Sáng sớm ngày 27 tháng tám, Hồ Chí
Minh được một người dân biên giới là Dương Đào dẫn di Trùng Khánh. Vào lúc hai
người đang trên đường đến Túc Vinh, huyện Đức Bảo thì bị đám hương cảnh thuộc Sở
Cảnh sát bắt giữ. Khi hương cảnh Dương Phúc Mậu tra vấn Hồ Chí Minh, đối chiếu
với lai lịch của ông, người này tỏ vẻ hoài nghi, phát hiện ngoài những giấy tờ
chứng minh là hội viên "Phân hội quốc tế phản xâm lược" còn mang theo
thẻ phóng viên "Trung Quốc thanh niên tân văn ký giả", thông tín viên
đặc biệt "Quốc tế tân văn xã" cùng với giấy thông hành quân đội do Tư
lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu cấp. Những giấy tờ này đều được cấp vào năm 1940,
đã hết hạn sử dụng, chứng tỏ lại lịch Hồ Chí Minh rất phức tạp, có khả năng là
gián điệp nên bắt lại, giải đến trụ sở hương, giao cho điều tra viên Mã Hiển
Vinh, sau đó, ông được chuyển đến cơ quan quân sự tối cao Quảng Tây thẩm vấn. Từ
ngày 27 tháng tám bị bắt ở Túc Vinh, Hồ Chí Minh bị giả qua Tĩnh Tây, Nam Ninh,
Liễu Châu, Quế Lâmv.v... tất cả 13 huyện, hương, trấn, tạm giam ở 18 nhà ngục.
Tính ra, Hồ Chí Minh bị giam trong ngục 14 tháng, trong tù, ông dùng Hán văn viết
tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 133 bài. Giáo sư Hoàng Tranh nhận xét:
"Nhật ký trong tù" gồm thơ thất luật (thất ngôn bát cú), thất tuyệt
(thất ngôn tứ tuyệt), ngũ luật (ngũ ngôn) và tạp văn, nội dung phần lớn đều để
thư giãn đầu óc hoặc phản ảnh hiện thực, lúc hứng lên thì ngâm ngợi. Thơ ông
thường xuất khẩu mà thành, không có sự gia công chỉnh sửa nhưng rõ ràng, dễ hiểu.
134 bài thơ (tính gộp cả bài "Mới ra tù tập leo núi") trong tù, không
đơn giản chỉ là thơ, mà là một bộ sử thi tự họa chân dung của một nhà cách mạng.
Mỗi bài thơ trên hành trình đều phản ánh một cách sinh động tư thế ung dung tự
tại, một trí tuệ lớn của nhà cách mạng lão luyện, kiên nghị - hình tượng Hồ Chí
Minh".
Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Việt cộng Trung ương vô cùng hoang
mang, đã nhiều lần điện báo hỏi chính phủ Quốc dân đảng, lại thông qua các hãng
thông tấn REUTERS Anh Quốc, AFP của Pháp và TASS của Liên Xô loan báo
tin tức, tạo dư luận. Họ dùng trăm phương ngàn kế gây áp lực với nhà đương cục
Trung Quốc, yêu cầu phóng thích Hồ Chí Minh, nhưng chính phủ Quốc dân đảng
đều không chấp nhận. Lúc ấy, Chu Ân Lai ở Trùng Khánh biết tin, phải nhờ đến Phùng
Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, còn Tưởng Giới Thạch thì gây áp lực với các địa
phương, đến cuối tháng giêng năm 1943, ra lệnh cho Đệ tứ chiến khu phóng thích
Hồ Chí Minh, giao cho Ban chính trị thẩm tra, xử lý. Hồ Chí Minh từ nhà tù Quế
Lâm đến trại tạm giam quân đội Liễu Châu. "Nhật ký trong tù" có 2 bài
ghi lại sự việc xảy ra lúc ấy. Bài 108, nhan đề"Đến Ban chính trị Đệ tứ
chiến khu":
Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua,
Phạm tội gì đây ? Ta thử hỏi,
Tội trung với nước, với dân à ?
Và
bài: "Nhà giam của Cục chính trị":
Ba thước chiều dài hai thước rộng,
Bốn người chen chúc ở bên trong.
Duỗi chân một tí cũng không thể,
Nhà hẹp mà người lại quá đông.
Ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh từ nhà tạm giam quân đội
dược trả tự do.
Trở lại Bắc Pha, tháng tám khải ca
Ra khỏi ngục không lâu, Hồ Chí Minh được Tư lệnh trưởng Đệ tứ
chiến khu Trương Phát Khuê ngưỡng mộ đề nghị tham gia hoạt động "Việt Nam
cách mạng đồng minh hội" và cử làm Phó chủ tịch (Chủ tịch là Nguyễn Hải Thần).
Tổ chức có sự hiệp trợ của nhân sĩ các đảng phái Việt Nam tại Đệ tứ chiến khu,
được thành lập từ tháng mười năm 1942. Tháng ba năm 1944, "Việt Nam cách mạng
đồng minh hội" khai mạc Hội nghị đại biểu "Hải ngoại cách mạng đoàn
thể", bầu ta ban chấp hành. Tháng sáu năm 1944, Hoàng Văn Hoan sang Liễu
Châu hội kiến với Hồ Chí Minh báo cáo về tình hình cách mạng Việt Nam và những
hoạt động của Việt Minh. Hồ Chí Minh nhân thời cơ khi Hội nghị đại biểu "Hải
ngoại cách mạng đoàn thể" kết thúc, nói với Trương Phát Khuê ý định trở lại
Việt Nam, đồng thời đệ trình ông ta một bản dự thảo tổng quát kế hoạch công tác
là phát triển "Việt Nam cách mạng đồng minh hội", giành độc lạp hoàn
toàn cho Việt Nam. Sau khi Trương Phát Khuê đồng ý, Hồ Chí Minh bèn tổ chức
"Chiến địa công tác tổng đội", chọn được 18 thanh niên ưu tú rời Liễu
Châu vào ngày 9 tháng tám năm 1944 về Bắc Pha.
Ngày
27 tháng chín năm 1940, phát xít Nhật đánh chiếm Lạng Sơn, quân Pháp thua trận
rút lui qua Bắc Sơn về Thái Nguyên. Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn, Lương Văn Chi
lấy danh nghĩa Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi
nghĩa, đánh bại quân pháp, thu vũ khí, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn -
Vũ Nhai. Năm 1943, tại căn cứ Bắc Sơn -Vũ Nhai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh lãnh đạo xây dựng Cao Bằng thành căn vứ địa cách mạng
trung ương. Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Đông
Dươngnghiên cứu, khảo sát tình thế cách mạng, quyết định thành lập "Đội
tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân" vào ngày 22 tháng mười hai năm 1944
do Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng, Hoàng Văn Thái làm chính trị viên, đặt nền
móng cho lực lượng quân đội Cộng sản Việt Nam sau này.
Ngày
4 tháng sáu năm 1945 "Việt Nam cứu quốc quân" và "Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân" hợp nhất thành "Việt Nam giải phóng
quân". Cũng trong tháng tám, chớp được thời cơ quân đội Nhật đầu hàng Đồng
Minh, cao trào cách mạng bùng phát, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái
chỉ huy đội "Việt Nam giải phóng quân" tiến về thủ đô Hà Nội, không mất
một viên đạn, một người lính.
Trung
tuần tháng tám năm 1945, Hồ Chí Minh sau khi được tin Nhật Bản đã chấp nhận
"Tuyên bố Potsdam", từ ngày 13 đến 15 tháng tám năm 1945, tại Tuyên
Quang, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập hội nghị chuẩn bị công tác
vũ trang khởi nghĩa.
Ngày
15 tháng tám, Nhật Bản đầu hàng. Ngày 16 tháng tám, Tổng bộ Việt Minh tổ chức
"Hội nghị toàn quốc" thông qua nghị quyết, tập trung toàn bộ lực lượng,
phát động tổng khởi nghĩa toàn quốc. Sau khi giành được hoàn toàn độc lập, sẽ
thành lập nhà nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", thực hiện cải cách
dân chủ với 10 chính sách lớn, suy tôn Hồ Chí Minh làm chủ tịch, quyết định trước
khi quân đội Đồng Minh tiến nhập lãnh thổ Việt Nam, phải giành được chính quyền
từ tay quân đội Nhật. Ngày 16 tháng
tám, "Việt Nam giải phóng quân" tiến dánh Thái Nguyên, mở đầu
cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày 19 tháng tám năm 1945, Hà Nội khởi nghĩa giành
chính quyền. Ngày 23 tháng tám, tại Trung bộ, Huế khởi nghĩa. Ngày 25 tháng
tám, Sài Gòn khởi nghĩa. Từ 16 đến 28 tháng tám, khởi nghĩa đã nổ ra ở sáu mươi
tỉnh trong cả nước, từ Bắc đến Nam đều thành lập chính quyền mới.
Ngày
27 tháng tám, thành lập Chính phủ Lâm thời "Việt Nam, dân chủ cộng
hòa", đề cử Hồ Chí Minh là chủ tịch. Ngày 30 tháng tám, tại triều đình Huế,
vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Cách mạng tháng Tám toàn quốc thắng lợi, ngày 2
tháng chín năm 1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời, tại Quảng trường
Ba Đình Hà Nội, đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", tuyên bố chấm dứt ách
thống trị tám mươi năm của thực dân Pháp và chế độ chuyên chế nghìn năm phong
kiến, đồng thời tuyên bố nước Việt Nam độc lập và thành lập nhà nước "Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa".
Con
người thật của Hồ Chí Minh
Trong Thiên I "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" tôi đã
dành khá nhiều trang phản biện, chứng minh Nguyễn Ái Quốc đã chết vào mùa thu
năm 1932 do bệnh lao phổi. Ở Thiên II "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người",
tôi cũng chỉ ra từ năm 1929 đến 1933, có hai vị Hồ Chí Minh đồng thời xuất hiện,
một người là Nguyễn Ái Quốc, còn người kia là Hồ Tập Chương. Và Thiên IV, Màn một,
"Hồ Chí Minh ở Liên Xô", tôi cũng đã làm rõ, Hồ Tập Chương tiếp tục
thân phận của Nguyễn Ái Quốc theo phương pháp "dời hoa tiếp cây" là bởi
kế hoạch của Quốc tế cộng sản, đồng thời cũng là âm mưu của lãnh đạo Trung
cộng, Việt cộng và bản thân Hồ Chí Minh phối hợp với nhau. Trong thiên này, tôi
viết, Hồ Chí Minh từ năm 1938 đến 1945, những năm tháng ở Trung Quốc đã từng bước
chứng minh thân phận của ông, chính là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan.
Vì
sao vào tháng mười năm 1938, Hồ Chí Minh đi hàng ngàn dặm đường xa xôi để đến
căn cứ địa Diên An mà không trở về Việt Nam? Tại nhà khách "Vườn Táo"
Diên An, Hồ Chí Minh đã mật đàm những gì với trùm đặc vụ Khang Sinh?
Vì sao lại vội vàng theo Diệp Kiếm Anh về "Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm"? Vì sao đến Quế Lâm lại đột nhiên mất tích nửa tháng? Vậy trong nửa
tháng ấy Hồ Chí Minh ở đâu? Trên đường đi Quế Lâm là biên giới Việt Trung, vậy
vì sao không trực tiếp về Việt Nam mà lại theo dự "Lớp huấn luyện cán bộ
du kích Hành Sơn, Hồ Nam"? Vì sao phải nhiều lần thông qua liên lạc Trung
cộng mới gặp mặt phía Việt cộng? Càng kỳ lạ hơn nữa là, vào những năm 1938,
1939, phần lớn các bài viết của Hồ Chí Minh đều bằng Hán văn, điều mà trước đây
hầu như chưa từng có. Những chuyện này khiến người ta không khỏi nghi ngờ là
trong đó còn che giấu những chuyện bí mật chăng?
Thực ra, thời kỳ từ năm 1938 đến 1945, Hồ Chí Minh ở Trung Quốc,
lãnh đạo cao cấp Trung cộng đã biết rõ về lai lịch của ông, nhưng vì lợi ích tối
cao của Đảng Cộng sản, ngoài việc giúp đỡ Hồ Chí Minh tạo ra một nước Việt Nam
cộng sản độc lập, Trung cộng luôn che giấu thân phận Hồ Chí Minh nhằm mạo dụng
thân phận Nguyễn Ái Quốc. Vì thế, những hồ sơ, tài liệu có liên quan đến lai lịch
Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đều không hợp tình hợp lý, không phản ánh dúng diện
mạo lịch sử, cho dù chúng đã được các học giả nổi tiếng viết thành truyện ký,
tiểu sử, tuy vậy, tất cả đều là những lầm lẫn lớn, hoặc vô tình, hoặc
cố ý, biến Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc, tạo nên một huyền thoại Hồ Chí
Minh lừa dối người đời.
Hồ Chí Minh chấp hành "nhiệm vụ bí mật"
Mùa
thu năm 1938, vào thời điểm Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa, Liên Xô và
chính phủ Quốc dân đảng lại tái lập đồng minh. Từ tháng Tám năm 1937, hai
bên đã lần lượt gặp nhau tại Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh ký hiệp định không
xâm phạm lẫn nhau, đồng thời xúc tiến hợp tác hai đảng Quốc Cộng lần thứ hai đề
chống lại quân đội Nhật xâm nhập Trung Quốc.
Từ
năm 1939 đến 1944, Hồ Chí Minh hoạt động ở vùng tây nam Trung Quốc, rõ ràng là
thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng sản giao phó khuếch trương thanh thế hai đảng
Trung -Việt, thống nhất chiến tuyến chống phát xít Nhật. Lúc này, Liên Xô phải
đối mặt với sự uy hiếp của quân đội Nhật, ngoài việc viện trợ cho chính phủ Tưởng
Giới Thạch 300 đến 450 triệu rúp để thiết lập mặt trận chống phát xít, còn lại
là chuyển giao vũ khí, khí tài quân sự. Đúng vào thời điểm và hoàn cảnh này, Hồ
Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa đến Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của Quốc tế cộng
sản.
Vậy
thì Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ bí mật gì? Không có bất cứ
một nguồn thông tin công khai nào cho biết một cách đầy đủ nhiệm vụ ấy. Sau
này, theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi các "Ủy viên Trung ương hội" và
Quốc tế cộng sản, chẳng ngại "Chỉ thị 7 điểm" hay "8 điểm",
đều không triển khai việc thanh trừng các phần tử Troskism, không khai triển trận
tuyến liên hợp chống phái Trosky giữa Trung cộng và Việt cộng. Vậy mà, một
năm sau, Hồ Chí Minh dựa vào trí nhớ, gửi Quốc tế cộng sản một bản báo cáo
bằng Hán văn: "Khi tôi ở Diên An làm kẻ lữ hành, những ghi chép kẹp giữa bản
chỉ lệnh về công tác chính trị của Quốc tế cộng sản bị mất, cho nên, bắt buộc
phải căn cứ vào trí nhớ để báo cáo công tác".
Có phải Hồ Chí Minh bị mất tài liệu thật hay ông ta chỉ mượn cớ
để tránh né? Tôi thật sự nghi ngờ, chỉ lệnh công tác có hay không có một điều
"Yêu cầu đồng chí Hồ Chí Minh đến Quân khu Quảng Châu của Nhật Bản"?
Mật lệnh này liên quan đến thân phận chân chính Hồ Chí Minh và những hoạt động
của Hồ Chí Minh sau khi ông mất tích tại miền nam nửa tháng.
Sự mất tích nửa tháng kỳ lạ của Hồ Chí Minh
Các tài liệu trong và ngoài nước đều ghi chép rõ, tháng mười năm
1938, Hồ Chí Minh đến Diên An, sau khi nghỉ ngơi 2 tuần lại cùng quân đội Diệp
Kiếm Anh hỏa tốc đến Cơ quan Bát lộ quân Trung công ở Quế Lâm Quảng Tây vào cuối
tháng mười hai cùng năm. Giả thiết trung tuần tháng mười hoặc cuối tháng mười,
Hồ Chí Minh xuất phát từ Diên An, hành trình được dự tính là nửa tháng, thế
nhưng mãi đến cuối tháng mười hai mới đến Cơ quan Bát lộ quân Trung cộng Quế
Lâm. Như vậy, từ đầu tháng mười một đến cuối tháng mười hai, ít ra thời gian
cũng gần nửa tháng, Hồ Chí Minh mất tích một cách thần bí.
Thời gian nửa tháng này, Hồ Chí Minh dến nơi nào, làm những việc
gì, đều chưa thấy được ghi chép trong bất cứ tài liệu nào. Liệu có phải Hồ Chí
Minh thực hiện chỉ lệnh thần bí của Quốc tế cộng sản? Từ Mạc Tư Khoa, Hồ
Chí Minh đi một chặng đường dài vất vả đến Diên An gặp trùm đặc vụ trùm đặc vụ
Khang Sinh bàn mưu tính kế gì? Vội vàng theo Diệp Kiếm Anh đến Cơ quan Bát
lộ quân Quế Lâm Quảng Tây gặp người chủ trì cơ quan đặc vụ Lý Khắc Nông bàn những
chuyện gì? Những cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Lý
Khắc Nông mật bàn những vấn đề gì? Và, trong nửa tháng mất tích Hồ Chí Minh ở
đâu?
"Đài Loan nhật nhật tân báo"
Từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, Hồ Chí Minh đột
nhiên mất tích nửa tháng, trong nửa tháng này, thật kỳ diệu, tôi tìm được trong
"Đài Loan nhật nhật tân báo". Liên kết "Đài Loan Nhật nhật tân
báo" với ngày tháng Hồ Chí Minh mất tích, tôi đã tìm được câu trả lời rõ
ràng. "Đài Loan nhật nhật tân báo" số ra ngày 12 tháng 11 năm 1938 có
bài viết: "Thông dịch viên quân đội Nhật là Hồ Tập Chương, người gốc Đài
Loan, đã trốn khỏi nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam (Quảng Châu). Sau khi tạm trú
tại bản doanh quân đội Nhật Ōta, ông được tuyển vào làm thông dịch cho
quan chỉ huy Nhật Bản Quân khu Quảng Đông Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy(4). (Tác giả
nhận định: thông dịch tức là phiên dịch).
Nhận định hoạt động trong nửa tháng mất tích của Hồ Chí Minh, có
liên quan đến việc Hồ Tập Chương làm thông dịch cho quân đội Nhật ở Quảng
Châu hoàn toàn không phải là võ đoán hoặc tùy ý bịa đặt. Trong tay tôi có những
chứng cứ tương đối sát thực để khẳng định Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương. Từ việc
Hồ Chí Minh tại Liên Xô bị cưỡng chế học tập cải tạo 5 năm, vì sao đến mùa thu
năm 1938, vào lúc quân đội Nhật chiếm đóng Quảng Châu mới đột nhiên để Hồ Chí
Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa? Sau khi vượt ngàn dặm xa xôi trở về Trung Quốc gặp
trùm đặc vụ Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh, Lý Khắc Nông, Chu Ân Lai hội
đàm mật, Hồ Chí Minh lại đến Cơ quan Bát lộ quân Trung cộng Quế Lâm. Đặc biệt
lúc ấy, trên dọc các tuyến đường Quế Lâm, Liễu Châu Quảng Tây, quân đôi các nước
Trung, Nhật, Pháp, Việt đang tranh chấp nhau. Quân cảnh, đặc vụ, gián điệp đủ
loại thường xuyên bắt giữ, tra hỏi những đối tượng khả nghi. Trong khi ấy, một
người không thuộc dường đi lối lại như Hồ Chí Minh làm sao dám công nhiên đi Quế
Lâm? Chuyện này chỉ có một cách giải thích hợp lý là, Hồ Chí Minh thực hiện
"nhiệm vụ bí mật" của Quốc tế cộng sản. Nhiệm vụ này phải tuyệt đối
giữ kín. Một khi bí mật bị bại lộ, thân phận thực của Hồ Chí Minh cũng bại lộ
theo. Vì thế, Quốc tế cộng sản, Trung cộng và Việt cộng luôn tìm cách giấu nhẹm
bí mật này mà cho đến nay vẫn còn là một nghi án nằm trong bóng tối.
Vậy nhiệm vụ bí mật mà Hồ Chí Minh phải thực hiện là gì? Và Quốc
tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh bao nhiêu nhiệm vụ bí mật?
Từ các chứng cứ ta có thể xác định theo hướng sau: Được nhân
viên đặc tình giúp đỡ, Hồ Chí Minh thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu của quân đội
Nhật, tìm hiểu những hoạt động của chúng để báo cáo cho Quốc tế cộng sản. Về sự
kiện này, giáo sư William J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh"
đã viết: "Hồ Chí Minh báo cáo về Mạc Tư Khoa nhưng hoạt động của mình tại
Trung Quốc, đó là nhiệm vụ chính". Quốc tế cộng sản vì sao lại giao nhiệm
vụ này cho Hồ Chí Minh? Căn cứ vào tình hình lúc ấy mà phân tích, kết hợp với bản
tin trên "Đài Loan nhật nhật tân báo", có thể suy đoán như sau:
1 - Tìm hiểu những hoạt động của quân đội Nhật làm tài liệu tham
khảo cho Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Liên Xô. Như bài viết của Hồ Chí
Minh trên tờ "Cứu vong nhật báo" Quảng Tây ngày 18 tháng mười hai năm
1940: "Việt Nam phục quốc quân hoàn thị mại quốc quân", có thể chứng
minh, sau năm 1931, Trần Văn An, từng là Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ Mãn
Châu, sau năm 1938 Quảng Châu thất thủ, ông ta quay về vùng biên giới Quảng
Đông - Việt Nam hoạt động. Cuối tháng chín năm ấy, Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam,
Nguyễn Cường Để, Trần Văn An theo sau quân Nhật về hoạt động tại vùng Lạng
Sơn-Cao Bằng. Trước mắt, quân đội Nhật còn bị Anh, Mỹ, Nga ngăn trở, chưa dám
xâm phạm Việt Nam nhưng vẫn nhòm ngó một cách thèm khát nguồn tài nguyên phong
phú trên lãnh thổ của họ, nên đã tìm cách chiêu mộ Việt gian, mục đích nhiễu loạn
dân tâm, mượn cớ đưa quân vào Việt Nam. Việc này, lẽ nào không phải do Hồ Chí
Minh thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu thu thập thông tin tình báo? (Xem thêm
bài trong "Cứu vong nhật báo", chuyên đề 11 thiên).
2 - Hồ Chí Minh có đủ điều kiện, năng lực chọn một phụ nữ tuyệt
đẹp để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Căn cứ vào "Đài Loan nhật nhật tân
báo", Hồ Tập Chương tuyển chọn những thanh niên ưu tú Đài Loan đến quân đội
Nhật Bản để huấn luyện gián điệp, sau đó phái đến các vùng hậu địch Trung Quốc
để thu lượm thông tin tình báo. Hồ Tập Chương vốn sinh ra ở quận Miêu Lật, châu
Tân Trúc, đã tốt nghiệp Khoa Hóa học, Đại học Công nghiệp Đài Bắc, thầy hướng dẫn
là tiên sinh Tatara. Chỉ huy tối cao quân đội Nhật tại Quân khu Quảng Đông
là Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy (小笠原太尉), những năm trước đã từng
chỉ huy quân đội Nhật ở Đài Loan, với Tatara (Đa Điền La) là chỗ quen biết. Tôi
dẫn ra hai sự kiên trên để chứng minh, Hồ Chí Minh thực hiện mật lệnh không phải
do hai người này tuyển chọn. Khả năng tiếng Nhật của Hồ Chí Minh đã được trang
bị từ trước. Ông hiểu rất rõ tình hình Nhật bản, phân tích thông tin có cơ sở
khoa học, lại ở ngay Bộ chỉ huy Quân khu Quảng Châu, đồng thời được cơ
quan đặc vụ Trung cộng yểm hộ nên mọi công việc tiến hành khá thuận lợi. Như vậy
mới có thể giải thích, vì sao Quốc tế cộng sản chuẩn y cho Hồ Chí Minh rời khỏi
Mạc Tư Khoa, cấp thời cùng Diệp Kiếm Anh đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm cùng
Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh, Chu Ân Lai, Lý Khắc Nông mật đàm. Đây chính là
nguyên nhân khi Hồ Chí Minh đến cơ quan đặc vụ của Lý Khắc nông thì đột nhiên mất
tích nửa tháng, tạo nên những nghi vấn khó giải thích.
Quy nạp từ "Đài Loan nhật nhật tân báo", đặc phái viên
Quảng Châu Tấn Trung ngày 12, 18, 21 tháng mười một và ngày 7 tháng mười hai
năm 1938 tại "Đài Loan nhật nhật tân báo", có những điểm chủ yếu liên
quan đến Hồ Tập Chương như sau:
1 - Hồ Tập Chương tuyển chọn các thanh niên ưu tú từ Đài Bắc,
Tân Trúc, Đài Trung, Đài Nam, Cao Hùng đến học tại "Trung tâm huấn luyện
gián điệp Nhật Bản". Sau khi mãn khóa, vào ngày 8 tháng... năm... được cử
đến các vùng hậu địch của Trung Quốc hoạt động tình báo. Hồ Tập Chương vốn là
người trang Đồng la, quận Miêu Lật, châu Tân Trúc, Đài Loan, tuổi 38, tốt nghiệp
Khoa Hóa học ứng dụng, Đại học Công nghiệp Đài Bắc. Bài đăng kèm một tấm ảnh Hồ
Tập Chương rất mờ.
2 - Vào năm Thiên Hòa thứ năm (1930), Hồ Tập Chương bất chấp
nguy hiểm tính mệnh, từ biệt vợ con đến Quảng Đông thực hiện lý tưởng cúa mình.
Ông từng mở xưởng sản xuất hương chống muỗi, hương sợi và nấu rượu, cũng từng
cư trú ở khu Nam Đường đối ngạn với Quảng Châu làm kỹ sư khai thác, phân tích
và giám định quặng của công ty khai thác quặng Nam Phương thực nghiệp.
3 - Sự kiện "Song thất" bùng nổ, Hồ Tập Chương bị quân
đội Quốc dân đảng bắt với tội danh Hán gian, ông nhận là người Trung Quốc nên
được thả, sau đó có người mật báo, ông là người Nhật nên lại bị bắt tống giam
vào nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam. Lúc ấy, quân đội Nhật bất ngờ đột kích vào
vùng tây nam duyên hải, chiếm đóng Quảng Châu, quân đội Trung Quốc thất bại thảm
hại, Hồ Tập Chương thừa cơ trốn khỏi nhà giam về khu Nam Đường. Nhà giam Nam Thạch
Đầu nhốt hai nghìn tù nhân, phần lớn là những kẻ bị tình nghi gián điệp Nhật,
trước khi quân đội Nhật đột kích dã bị thảm sát.
4 - Khi Hồ Tập Chương thoát khỏi ngục về khu Nam Đường, lại bị
quân đội Nhật của Ota tuần tra phát hiện. Ông ta nói rõ về thân phận mình, liền
được đưa đến Bộ chỉ huy tối cao Quân khu Quảng Đông của tướng Tiểu Lạp Nguyên
Thái Úy làm thông dịch viên. Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy từng đóng quân ở Đài Bắc,
sau sự biến "Song thất" về Nhật, ít lâu sau gia nhập bộ đội
Kawaguchi, được phái sang Quảng Châu. Hồ Tập Chương: "Tôi có một người thầy
giảng dạy ở Đại học Công nghiệp Đài Bắc là ngài Ota. Tôi rời quê hương đã 4, 5
năm, từng bị giam giữ trong nhà tù hơn một năm, có thời kỳ làm việc khai mỏ quặng
ở vùng núi Lưỡng Quảng, hiện tại cuộc sống rất là khó khăn". Phái viên Tân
Trung theo dõi quá trình hoạt động của Hồ Tập Chương, đặc biệt nhấn mạnh:
"Trước mắt Hồ Tập Chương sống trong quân đội. Ông ta chỉ có một mình, nên
trọng dụng, sẽ rất được việc".
Sau khi tin tức trên báo chí Đài Loan truyền đến, Đài Loan tổ chức
đoàn Ủy vấn đến Quảng Châu thăm Hồ Tập Chương. Người anh thứ tư của Hồ Tập
Chương là Hồ Tập Phỉ đã viết thư đặc biệt cảm ơn "Đài Loan nhật nhật tân
báo". "Đài Loan nhật nhật tân báo năm Chiêu Hòa thứ mười ba (1938),
tháng mười một và tháng mười hai có đăng tải 4 bài về Hồ Tập Chương. Dưới đây
là ảnh chụp từ tờ báo đã được cắt ra.
Hồ Tập Chương thoát khỏi nhà giam ngày
12 tháng 11 năm 1938
Nhà giam Nam Thạch Đầu Hà Nam
"Đài Loan nhật nhật tân báo" số ra các ngày từ 19
tháng mười một đến ngày 7 tháng mười hai năm 1938 đã đăng tải các bài có liên
quan đến Hồ Tập Chương ởQuảng Châu từ tháng mười một đến tháng mười hai năm
1938, bị mất tích ở Quế Lâm nửa tháng. Tại thời gian trên, địa điểm trên có mối
liên hệ nhân quả với nhau, phù hợp một cách bất bình thường. Hơn nữa, lại có
"Đài Loan nhật nhật tân báo" với những chứng cứ trực tiếp để khẳng định
Hồ Tập Chương và Hồ Chí Minh chỉ là một người. Trong đó, chứng cứ quan trọng nhất
chính là sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt giữ tại nhà giam tại nhà lao
Nam Thạch Đầu, Hà Nam, và sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt giam ở nhà ngục
Quảng Châu. Hai sự kiện này thực chất chỉ là một.
"Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin Hồ Tập Chương bị
bắt giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam, vậy rốt cuộc, dịa danh Hà Nam là ở
đâu? Căn cứ vào "Lịch sử đảng bộ Đảng Cộng sản thành phố Quảng Châu",
thì Hà Nam chính là bờ phía nam sông Châu, nhà giam Nam Thạch Đầu nằm trên đường
phố Nam Thạch Đầu, thành phố Quảng Châu. Nhà giam Nam Thạch Đầu được thành lập
vào thời kỳ phái phản động Quốc dân đảng thống trị. Đây là Nhà giam lớn duy nhất
Quảng Châu, còn gọi là "Trại trừng giới". Ngày 15 tháng tư năm 1927,
sau cuộc dảo chính phản cách mạng, phái phản động Quốc dân đảng đã bắt một số lớn
phần tử cộng sản và dân chúng đem về giam giữ tại đây, trong đó có những nhân vật
nổi tiếng của Đảng Cộng sản như Lưu Nhĩ Tung, Thẩm Tĩnh Trai, Tống Thời Luân,
Tiêu Sở Nữ, Hùng Hùng, Lý Sâm, Đặng Bồi v. v...
Nói rằng, "khoảng thời gian từ tháng mười một đến tháng mười
hai, Hồ Chí Minh bí mật đến Quảng Châu, trà trộn vào quân đội Nhật", tuy
nhiên đó lại là mưu kế đã được bàn bạc kỹ giữa Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chỉ là vì Hồ Tập Chương bị giam giữ tại nhà ngục Nam Thạch
Đầu, Hà Nam, rốt cuộc sự thực sờ sờ trước mắt, không thể bác bỏ.
Tại
Thiên III "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người", tôi dã dẫn ra một
đoạn "Hồi ký Trịnh Siêu Lân": "Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh ở
nhà giam Quảng Châu gặp Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nhờ Phó Đại Khánh chuyển lời đề
nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách giải cứu". (Xem thêm: "Lịch sử
và hồi ức - Ghi chép cuối đời của Trịnh Siêu Lân", quyển 2 "Truyện
Phó Đại Khánh" trang 506, hoặc tham khảo "Hồi ức Trịnh Siêu
Lân", trích yếu như phụ lục 2). Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh bị giam ở
nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam có gặp Hồ Chí Minh, tự nghĩ là, đây không thể nào
là Nguyễn Ái Quốc, Thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc đang bị giam tại nhà tù
Victorria Hương Cảng, không thể đồng thời lại bị giam ở nhà ngục Nam Thạch Đầu.
Vì thế vị "Hồ Chí Minh" bị giam ở đây nhất dịnh phải là Hồ Tập
Chương. Cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh đều là đảng viên Đảng Cộng sản Trung
Quốc thuộc phái Troskism. Thời kỳ đầu kháng chiến chống Nhật, Phó Đại Khánh bị
hiến binh Nhật sát hại, Trịnh Siêu Lân bị giam trong ngục, hưởng thọ
98 tuổi.
Trước
sau năm 1930, Hồ Tập Chương nhận nhiệm vụ tại "Liên minh mậu dịch Thái
Bình Dương", là liên lạc viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản, do đó đã
sớm có mối quan hệ mật thiết với các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, quen
biết cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh. Hai người này nhất định nhận ra Hồ
Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, chỉ có cái tên khác nhau mà thôi.
Trong bài "Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan", Lương Ích Tân có viết một đoạn "Ẩn trốn tại Quảng Châu, tránh bị
truy bắt" như sau:
"Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc
dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây Tô, đồng thời ra lệnh
cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng
Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi
đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên,
lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn
nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ
Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta". Tiếp đến mục "Lâm Y Lan
lấy tư cách là vợ" đã chăm sóc Hồ Chí Minh trong sinh hoạt thường
ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho ông đặc biệt cảm kích, đã có
lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn
trù trừ. Lâm Y Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình những lời
chân thành, thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói
ra. Không lâu sau, do bị một đồng chí phản bội, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc
chia tay, Hồ Chí Minh ôm lấy Lâm Y Lan, dùng khăn tay lau nước mắt
chonàng : “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi
lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan : “ Tâm sự của tôi đều ở trong
này, sẽ cùng đi với em”.Tiếp đó là "Trong hoạn nạn mới thấy lòng
thành", một lần nữa tác giả kể lại: "Ba ngày sau khi Hồ Chí Minh được
cứu thoát, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi
: “Chí Minh, sao không đợi muội đến đón?”. Theo lời Lương Ích Tân tường
thuật lại, ta sẽ thấy rất rõ, đây là những ghi chép về Hồ Chí Minh thời kỳ đầu
những năm 1930, chính xác là bị Quốc dân đảng Quảng Châu bắt giữ, mà không phải
là Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ. (Xem thêm Thiên V "Khúc
ca buồn về tình yêu và hôn nhân".
Tại "Đài Loan Quốc hoa thư tịch", năm 1946, Ngô Trọc
Lưu xuất bản cuốn "Hồ Chí Minh" bằng tiếng Nhật, sau này, khi dịch
sang Trung văn, lấy tên là "Đứa con côi châu Á". Tại Thiên 3 gồm các
chương "Xuân lành", "Bị giam", "Thoát ngục", tác
giả có chèn lẫn vào một đoạn sử liệu về tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
khi ông ta bí mật đến Quảng Châu. Đọc kỹ những tư liệu này cùng những tư liệu
ghi chép về Hồ Tập Chương người Đài Loan, độc giả sẽ thấy ngay đó là Hồ Chí
Minh ở Việt Nam (Xem bài báo "Hồ Chí Minh của Ngô Trọc Lưu Đài
Loan").
Theo "Đài Loan nhật nhật tân báo", từ năm 1938 và
"Hồ Chí Minh" của Ngô Trọc Lưu tại Đài Loan năm 1946, đều có ghi chép
sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt giữ ở Quảng Châu. Trong bài "Mối tình sống chết
giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" (Hồi ký Trịnh Siêu Lân) viết cũng có sự kiện
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu. Những tư liệu này đều chứng minh Hồ Tập Chương
tức là Hồ Chí Minh, cũng chứng thực về bí mật của dòng họ Hồ Miêu Lật, Đài Loan
mấy đời truyền khẩu cho nhau, nhất định không phải là ngụy tạo cố sự.
Năm 1938, người em út của Hồ Tập Chương là Hồ Tập Dưỡng đã từ
Đài Loan đến Quảng Châu gặp anh. Lúc ấy, Hồ Tập Dưỡng, cũng tốt nghiệp hạng ưu
Đại học Sư phạm Đài Bắc, bị quân đội Nhật trưng dụng đưa đến Quân hạm hải quân
Hương Cảng làm thông dịch. Tình cờ đọc "Đài Loan nhật nhật tân
báo", biết tin về Hồ Tập Chương đã chín năm bặt vô âm tín, vì vậy Hồ Tập
Dưỡng đã đến Quảng Châu gặp anh vào khoảng trung tuần tháng mười hai, báo tin về
người con trai là Hồ Thự Quang. Năm 1939, Hồ Chí Minh lấy bí danh là Hồ Quang
có lẽ là do nhớ đến tình cha con. Đây là lời Hồ Tập Dưỡng sau khi trở về Đài
Loan đã thông báo cho gia đình:
"Tôi phải trải qua vô cùng khó khăn gian khổ, thậm chí còn
xuống cả thuyền hải tặc mới gặp được Hồ Tập Chương". Câu đầu tiên khi gặp
tôi Hồ Tập Chương hỏi: "Tại sao chú tìm được đến đây? Nguy hiểm lắm!".
Sau khi hai anh em nói chuyện với nhau về tình hình gia đình, Hồ Tập Chương bảo:
"Tôi hiện đang làm công tác đặc biệt, có thể nguy hiểm đến tính mạng bất cứ
lúc nào". Rồi anh ấy dặn tôi chuyển lời đến gia đình: "Không được đến
đây tìm tôi nữa, sắp tới tôi sẽ đi Vân Nam sang công tác ở Việt Nam, nếu không
thành công sẽ không về nhà".
"Đài Loan nhật nhật tân báo" và "Những tư liệu về
Nam Nhạc du kích ban"
Có một chứng cứ quan trong nữa để chứng minh Hồ Tập Chương chính
là Hồ Chí Minh. "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin: "Hồ Tập
Chương là người trang Đồng La, quận Miêu Lật, Đài Loan. tuổi 38". Cách đây
không đến nửa năm, Ban huấn luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, Hồ Nam có in cuốn
sách nhỏ nhan đề "Thông tin về đồng môn", ghi danh Hồ Chí Minh, 38 tuổi
là hoàn toàn phù hợp. Nếu so với Nguyễn Ái Quốc 49 tuổi thì khoảng cách chênh lệch
những 11 tuổi, sẽ là sự lầm lẫn lớn. Vào năm 1939, Hồ Chí Minh ở Ban huấn luyện
cán bộ du kích Nam Nhạc, có đầy đủ chứng cứ ghi trong cuốn sách "Thông tin
về đồng môn", đã đưa công khai lý lịch của ông qua phần phụ lục dưới đây:
Tên họ: Hồ
Quang
Chức vụ: Thiếu
tá
Tuổi: 38
Quê quán: Quảng
Đông
Đơn
vi: Tập
đoàn quân 18
Tốt nghiệp trường nào: Lĩnh Nam đại học
Từng làm công tác gì: Giáo
viên trung học, hiểu trưởng trường ngoại ngữ.
Tên họ: Hồ Quang. Hồ Quang chính là bí danh Hồ Chí Minh từ năm
1939 đến 1942 sau khi từ Mạc Tư Khoa về Trung Quốc. Bí danh của Hồ Chí Minh ở
Liên Xô là P.C.Lin (Lin là phiên âm của chữ "Lâm", cũng là họ bên vợ
của Hồ Tập Chương tại Đài Loan Lâm Quế muội. "P.C" thì không rõ có dụng
ý gì, nhưng chữ "Quang" trong "Hồ Quang" thì chính là tên
người con trai duy nhất của ông ở Đài Loan "Hồ Thự Quang". Gia phả họ
Hồ tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan có ghi như sau: Đời thứ 21 dựa vào hàng
chứ "Tập" như Tập Trân, Tập Phỉ, Tập Chương, Tập Dưỡng v.v... Đời thứ
22 dự vào hàng chứ "Quang" như Sùng Quang, Quan Quang, Hoán Quang, Thự
Quang v.v...
Chức vụ: Thiếu tá, nhân viên điện đài tân văn (Tân văn đài thiếu
hiệu đài viên). Hồ Quang đích thực là nhân viên điện đài của Ban huấn luyện cán
bộ du kích Nam Nhạc, Hành Sơn, Hồ Nam, phụ trách thu thập thông tin từ các đài
phát thanh. Tôi rất chú ý đến chi tiết, chưa đầy nửa năm, sau khi theo Diệp Kiếm
Anh làm cần vụ, từ một anh binh nhì, Hồ Quang được thăng lên cấp bậc thiếu ta,
điện đài viên, phụ trách thu lượm tin tức từ các đài phát thanh. Đối chiếu với
Hồ Quang trong "Thông tin về đồng môn", ta sẽ thấy xuất hiện manh mối.
Họ tên người xếp phía trước là Trần Tử Anh, cấp bậc trung tá trưởng đài, tốt
nghiệp Đại học Nhật Bản đế quốc, đơn vị công tác là Tập đoàn quân 18. Người ở
phía dưới là Tưởng Tuyết Ảnh, cấp bậc thượng úy, đài viên, lưu học sinh tại Nhật
Bản, đơn vị công tác là Tập đoàn quân 18. Hồ Quang vốn là đảng viên Đảng Cộng sản
Trung Quốc, phụ thuộc vào Tập đoàn quân 18. Những nhân viên chuyên môn điện đài
thu thập thông tin tình báo từ Nhật Bản đều từng học tại Nhật và thông thạo tiếng
Nhật. Hồ Quang (Hồ Tập Chương) phụ trách công việc này hiển nhiên là rất phù hợp.
Tuy nhiên, ở mục "Quá trình học tập và tốt nghiệp trường nào", Hồ
Quang lại không đăng ký "Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp Đài Bắc". Rõ
ràng, thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, Hồ Tập Chương từng học tiểu học,
trung hoạc rồi Đại học Công nghiệp Đài Bắc, vì thế, trình độ tiếng Nhật và văn
hóa Nhật của ông rất khá.
Tuổi 38: Ngày 11 tháng mười hai năm 1938, "Đài Loan nhật nhật
tân báo" đăng tải bài viết về Hồ Tập Chương nói ông 38 tuổi mà năm sinh
đích thực của Hồ Chí Minh không phải là năm sinh của Nguyễn Ái Quốc. Theo thông
tin chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng
năm năm 1890, đến năm 1939 đã 49 tuổi. Trong khi đó, giai phả họ Hồ Miêu Lật
ghi, Hồ Tập Chương sinh vào giờ Thân, ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu, tức năm
Minh Trị thứ 34, chuyển sang dương lịch là năm 1901, vừa tròn 38 tuổi. Điều này
càng chứng tỏ, Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam không phải là Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật, Đài Loan.
Quê quán gốc Quảng Đông: Quê gốc Nguyễn Ái Quốc là làng Kim
Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Quê gốc của Hồ Quang
(Hồ Tập Chương) ở huyện Trường Lạc, phủ Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc,
vì thế ông mới đăng ký nguyên quán Quảng Đông. Là người Quảng Đông, nói tiếng
Quảng Đông lưu loát, tự nhiên hợp tình hợp lý. Dưới đây là bản phụ lục gia phả
giản lược họ Hồ Miêu Lật do thân phụ Hồ Tập Chương là Hồ Dần Lượng ghi chép:
"Đài Loan nhật nhật tân báo" và "Nhật ký trong
tù"
Hồ Tập Chương tức là Hồ Chí Minh, nếu ta liên kết các sự kiện lại
với nhau. "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin, Hồ Tập Chương tốt
nghiệp Khoa Hóa học ứng dụng, Đại học Công nghiệp Đài Bắc, từng làm kỹ sư giám
định chất lượng khoáng sản trong công ty khai thác và tinh tuyển khoáng thạch
Nam Phương thực nghiệp Quảng Đông tại tỉnh Quảng Tây. Đối với Hồ Tập Chương, việc
khai thác, tinh luyện, giám dịnh khoáng sản chính là chuyên môn của ông. Trong
khi đó, Hồ Chí Minh vào năm 1942 - 1943 bị Quốc dân đảng bắt giam 1 năm 12
ngày. Trong thời gian bị giam giữ, Hồ Chí Minh viết tập thơ "Nhật ký trong
tù", trong đó, bài thứ 28 có nhan đề "Bạn tù nguyên chủ nhiệm L"
viết:
Quốc gia phó thác giữ biên khu
Sao nhãng việc công mải việc tư
Khoáng sản tuồn qua biên giới hết
Nên lò đúc bạc đúc thơ tù.
Giáo sư Hoàng Tranh chú giải bài thơ như sau: "Phía tây nam
biên giới Quảng Tây có nhiều quặng antimoine (cứng và có ánh kim), Hồ Chí Minh
viết bài thơ này để bình luận về một đồng sự đem loại quặng này bán lậu qua
biên giới lấy tiền bỏ túi, chính là hành vi tham ô phá rối kỷ cương của nguyên
chủ nhiệm L.".
"Đài
Loan nhật nhật tân báo" viết: "Hồ Tập Chương từng làm kỹ sư giám định
chất lượng khoáng sản trong công ty khai thác và tinh luyện khoáng thạch
(antimoine) "Nam Phương thực nghiệp Quảng Đông" tại vùng mỏ Quảng
Tây. Việc này rất phù hợp với tập thơ "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí
Minh. "Nguyên chủ nhiệm L." vốn là đồng sự ngày trước, vì bán trộm quặng
antimoine lấy tiền bỏ túi, chẳng may lại gặp Hồ Chí Minh tại nhà ngục Tĩnh Tây
nên rơi vào hoàn cảnh khó xử". Việc này há chẳng gián tiếp chứng thực Hồ Tập
Chương và Hồ Chí Minh cùng là một người sao?
Chấp hành mật lệnh của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh
tìm cách thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, thời gian
khoảng 2 tháng, động cơ không hoàn toàn rõ ràng. Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử
lúc ấy mà nhận xét thì cũng không ngoài việc đánh cắp thông tin tình báo của
quân đội Nhật, phân tích thông tin đối ngoại của Nhật, có thể lôi kéo được quân
đội Nhật, nhờ Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp, triển khai trận tuyến liên hợp
giữa Đảng Cộng sản và quân đội Nhật.
Thế nhưng, vào thời điểm ấy, quân đội Nhật lại ưu tiên giúp đỡ
chính quyền bù nhìn của hoàng thân Cường Để, cho nên Quốc tế cộng sản mới sử dụng
thân phận Hồ Chí Minh với mục đích thân Nhật đã hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên,
tình thế xoay chuyển, khó ai dự đoán chính xác được diễn biến thời cuộc, chính
bởi việc Hồ Chí Minh thâm nhập vào quân đội Nhật Quảng Đông không đạt kết quả
đã bộc lộ lai lịch phức tạp của ông. Việc này có lẽ phù hợp với câu cách ngôn
"Lưới trời tuy thưa mà không lọt ", mặc cho bất cứ sự chối cãi nào.
Hồ Chí Minh có phải là người Trung Quốc?
Hồ Chí Minh là người Trung Quốc hay người Việt Nam? Có không ít
Hoa kiều ở Việt Nam coi Hồ Chí Minh là người Việt Nam bị Trung Quốc hóa. Họ căn
cứ vào lý do Hồ Chí Minh biết nói tiếng Quảng Đông, biết viết chữ Hán, lại biết
làm thơ chữ Hán, từ đó cho rằng tổ tiên ông là người Trung Quốc di cư sang Việt
Nam, vì vậy đương nhiên là người Trung Quốc.
Những nhận định này, về cơ bản đều không giải thích được tiểu sử
của Nguyễn Ái Quốc, bởi họ chịu ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông
chính thống nhà nướcViệt Nam khẳng định Nguyễn Ái Quốc biết nói tiếng Hán và
làm thơ chữ Hán. Từ năm 1938 đến 1945, sau khi Hồ Chí Minh đến Trung Quốc, đã
hoàn toàn biến thành một người khác, hầu như không còn bóng dáng Nguyễn Ái Quốc
. Hồ Chí Minh chưa từng mở miệng nói tiếng Việt, thậm chí tự mình cũng không hiểu
tiếng Việt, trái lại, nói tiếng Quảng Đông rất thành thạo hoặc dùng tiếng phổ
thông nói chuyện với mọi người. Hồ Chí Minh cũng không dùng tiếng Pháp hoặc tiếng
Việt viết văn, trái lại, đều sử dụng Hán ngữ với số lượng lớn trong các bài viết
chuyên đề, chuyên luận, bao hàm cả 134 bài thơ trong tập "Nhật ký trong
tù". Càng kỳ lạ hơn là, Hồ Chí Minh dùng chữ Hán viết thư gửi về Việt Nam,
lại được các báo, tạp chí Việt Nam dịch sang tiếng Việt và tiếng Pháp, rồi phổ
biến khắp các địa phương, tuyên truyền Trung Quốc kháng Nhật cùng những hoạt động
của phái Troskism tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn không dám
thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, chỉ biểu thị thái độ ba phải, tự cho mình là
Hoa kiều. Hồ Chí Minh đã từng gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham gia lớp
huấn luyện cán bộ du kích của quân đội Trung Cộng. Tất cả những thái độ khác
thường, những hành vi không phù hợp đạo lý trên, tác giả chỉ có thể giải thích,
từ năm 1938 đến năm 1945, Hồ Chí Minh hoạt động ở Trung Quốc không
phải là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam. Liên quan đến khả năng nghe, nói, đọc và
viết chữ Hán, tôi đã trình bày trong Thiên V, nhan đề "Chữ Hán, 'Nhật ký
trong tù' và 'Di chúc'”. Ở phần này, thời gian từ năm 1938 đến năm 1945, Hồ Chí
Minh hoạt động tại Trung Quốc, tôi đã đưa ra những tư liệu để so sánh, đối chiếu,
xem xét, vậy rốt cuộc, Hồ Chí Minh là người Trung Quốc hay người Việt Nam?
Bảy bức thư từ Trung Quốc
Từ tháng mười hai năm 1938 đến tháng sáu năm 1939, Hồ Chí Minh lấy
tư cách ký giả Trung Quốc, bí danh P.C.Lin, qua phương thức "Thư từ nước
ngoài", viết bằng chữ Hán (bản thảo viết tay), từ Quảng Tây gửi về Hà Nội:
"Người Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?" (tháng mười
hai năm 1938), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng hai năm 1939),
"Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng ba năm 1939), "Chủ nghĩa anh hùng
của nhân dân Trung Quốc chống Nhật" (tháng tư năm 1939), "Thư gửi từ
Trung Quốc" (tháng tư năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng
năm năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng sáu năm 1939)... trong
đó có một bài "Nhật Bản khai thác Trung Quốc như thế nào?" dài khoảng
hai nghìn chữ. Tạp chí bằng tiếng Pháp "Tiếng nói của chúng ta", số
ra ngày 12 tháng hai năm 1939 có đăng bài viết này nhưng nhan đề đã được đổi
thành "Các hành động tàn bạo của đế quốc Nhật Bản". Tờ báo tiếng Việt
"Dân chúng" kỳ 46, ra ngày 21 tháng giêng năm 1939, kỳ 47, ngày 24
tháng giêng năm 1939 và kỳ 48, ngày 28 tháng giêng năm 1939 dã đăng toàn văn bản
dịch này.
Hồ Chí Minh lấy tư cách ký giả Trung Quốc, bút danh P.C.Lin
thông qua phương thức"Thư gửi từ nước ngoài", gửi 7 bài bằng chữ Hán
đến Việt Nam. Những sự việc bất bình thường này làm các nhà nghiên cứu bắt buộc
phải chú ý. Hồ Chí Minh lấy bí danh P.C.Lin, việc này chứng tỏ, Hồ Quang đã ở
Trung Quốc năm 1939 và P.C.Lin vào đầu năm 1934 ở Mạc Tư Khoa chỉ là một người.
Trong khi ấy, theo hồ sơ lưu trữ tại Mạc Tư Khoa thì, P.C.Lin lại là Nguyễn Ái
Quốc, người Việt Nam, vậy thì tại sao ông ta lại đến Quế Lâm trong vai ký giả
Hoa kiểu? Nguyễn Ái Quốc bỗng nhiên không biết dùng tiếng Việt, chữ Việt để viết
văn mà bắt đầu viết những bài trường thiên đại luận bằng chữ Hán. Không những
thế, phong cách văn chương, nội dung diễn đạt đều khác xa với cách viết của
Nguyễn Ái Quốc trước đây, càng kỳ lạ hơn, khi mà trong nội dung các bài viết,
nhiều lần xuất hiện cụm từ "Tôi là người Trung Quốc", "Tôi không
hiểu tiếng Việt Nam".
Nếu so với thời kỳ năm 1925 - 1926, Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu
viết 88 bài xã luận bằng tiếng Pháp đăng trên báo "Thanh niên" thì có
vẻ như phong cách khác nhau rất xa. Thật sự không thể biết vì sao đột nhiên ông
lại thành thục Hán ngữ như vậy? Trong 7 bài viết, trừ 2 bài lên án hành vi xâm
lược tàn bạo của đến quốc Nhật, 5 bài còn lại dưới hình thức "Thư gửi từ
Trung Quốc", một bài viết về tình hình kháng chiến chống Nhật của nhân dân
Trung Quốc, một bài kiểm điểm quá trình hoạt động quân sự ở Việt Nam, 3 bài giới
thiệu chủ nghĩa Trosky và những hoạt động của phái Troskism ở Trung Quốc. Văn
chương sử dụng kiểu xưng hô là "Bạn bè của chúng tôi" hoặc "Các
bạn thân mến", cuối bài ký tên P.C.Lin. Xin trích lục một đoạn ở thiên thứ
nhất "Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế nào?". Phần đầu, Hồ
Chí Minh viết: "Thân là người Trung Quốc, nếu như tôi nói tôi đã nhìn thấy
tận mắt những hành vi tàn bạo của quân đội Nhật Bản, thì có lẽ người ta sẽ cho
là nói quá lên. Vì vậy, xin trích lời một ký giả ngoại quốc đã viết về các hành
vi bạo ngược của quân đội Nhật Bản. Bài báo này đã được in trong "Ý nghĩa
của chiến tranh, sự bạo hành của quân đội Nhật Bản ở Trung Quốc", để báo
cáo với các bạn. Ngoài ra, tôi còn kèm thêm một số bài đă đăng tải trên những tờ
báo rất có uy tín, trong đó có lời kể của các vị tư lệnh Tân Tứ quân và Bát Lộ
quân nhân dân cách mạng".
"Người Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế
nào?". Từ "khai thác" là theo bản tiếng Việt trong "Hồ Chí
Minh toàn tập" được chuyển từ Hán ngữ. Giáo sư Hoàng Tranh trong tác phẩm
"Hồ Chí Minh ở Quảng Tây" đã trực tiếp đăng lại nguyên văn "Nhật
Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?' mà không lưu ý đến hai từ "khai
thác" và "khai hóa", như vậy không phù hợp với cách dùng từ của
Trung văn. Chẳng những thế, phần nội dung lại chèn thêm những cụm từ "Tư lệnh
Nhật Bản nói", "Tình hình quân đội Nhật Bản chứng tỏ" v.v... Tôi
rất lấy làm lạ, Nguyễn Ái Quốc vào thời gian nào học tiếng Nhật, tiếp xúc với
văn hóa Nhật mà có những bài viết sâu sắc như vậy?
Bảy
bản báo cáo gửi Quốc tế cộng sản
Từ ngày 20 tháng tư năm 1939 đến 12 tháng bảy năm 1940, Hồ Chí
Minh gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa 7 bản báo cáo. Trên đầu các báo cáo đều
xưng là Ủy viên hội Quốc tế cộng sản Phương Đông hoặc Ủy viên chấp hành Quốc tế
cộng sản, cuối bài ký tên P.C.Lin, hoặc phụ thêm cam kết "Tiếng nói của
chúng ta". Có bản viết bằng tiếng Pháp, có bản viết bằng chữ Hán, nội dung
báo cáo về tình thế cách mạng Việt Nam, sự phát triển cũng như hoạt động của
phái Troskism tại Trung Quốc. Trong số này, có một báo cáo đề ngày 12 tháng bảy
năm 1940, dùng tiếng Trung, dài 12 trang, ký tên P.C.Lin, gửi Ủy viên Phương
Đông hội Mạc Tư Khoa mà trước đây, các báo cáo gửi đến Quốc tế cộng sản chưa
bao giờ Nguyễn Ái Quốc dùng Trung văn. Từ nội dung văn bản báo cáo, tôi đã tiến
hành phân tích và nhận thấy, về căn bản, không giống với văn bản của người Việt
Nam viết. Điều đó chứng tỏ P.C.Lin không phải là Nguyễn Ái Quốc. Nội dung bài
viết về Việt Nam hoặc giới thiệu địa lý, nhân văn, tài nguyên, chế độ chính trị
Việt Nam đều dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, đặc biệt có một số danh từ khá
kỳ lạ, ví như "Đảng Cộng sản An Nam đã vượt quá vạn người" (đảng viên
Hoa kiều), có ba cái tên tay sai "Hán gian", truyền đơn cảnh cáo của
"Việt kiều", gọi Tưởng Giới Thạch là "Tưởng công", Tống Tử
Văn là "Tống công", Bạch Sùng Hy là "Bạch công" v.v... tất
cả những từ ngữ đã dùng đều không phải là từ, ngữ thông dụng của người Việt
Nam.
Cũng tương tự như vậy, khi Hồ Chí MInh nói về những vấn đề liên
quan đến phái Troskism ở Trung Quốc, về cơ bản không phải là cách sử dụng giọng
điệu của người Việt Nam. Ví dụ như: "Phái Troskism liên tục phản bội Tổ quốc
chúng ta như thế nào?", "Phái Troskism Liên Xô chẳng những đã bán rẻ
vùng duyên hải Siberie cho đế quốc Nhật mà còn có ý đồ bán cả đất nước Trung Quốc
của chúng ta cho chúng", "Tháng chín năm 1931, chính vào lúc quân đội
Nhật chiếm đóng Mãn Châu, Cục tình báo Nhật ở Thượng Hải bám theo bọn Troskism.
Hai bên đã ký kết hợp đồng với nhau, nội dung như sau: Phái Troskism cam
kết không tiếp tục tuyên truyền cản trở Nhật Bản xâm lược. Cục tình báo Nhật Bản
cam kết, trả cho phái Troskism mỗi tháng ba ngàn dollars để Trần Độc
Tú và đồng bọn hoạt động. Chúng lấy tiền của Nhật xuất bản báo chí, thay Nhật
tuyên truyền cái gọi là "Quân đội Nhật đến Mãn Châu chỉ hy vọng nhanh
chóng giải quyết vấn đề tranh chấp, hoàn toàn không có một chút ý đồ xâm chiếm
Trung Quốc". Cục tình báo Nhật đã thừa nhận, những người Troskism tại
Thượng Hải, mỗi tháng nhận được mười ngàn dollars để hoạt động tại miền trung
và miền nam Trung Quốc. Ở Thiên Tân và Bắc Kinh, phái Troskism nhận
được năm mươi ngàn dollars mỗi tháng làm kinh phí hoạt động ở vùng Hoa Bắc. Mục
đích của họ chỉ là phản đối Bát Lộ quân và các tổ chức yêu nước".
Trong các bức thư, tác giả thường dẫn dụng "Nhật Bản quân
tình cục" (Cục tình báo Nhật Bản), "Nhật Bản mật thám", cùng với
"Nhật Bản nội mạc đích tiêu tức" (Tin tức nội bộ nước Nhật). Ví như:
"Chỉ cần 2 sư đoàn là có thể chinh phục Đông Dương", "Nhật Bản
chi ra mười tỷ yên và hy sinh hoặc chịu thương tật bảy vạn người là cái giá để
chiếm 12 tỉnh của chúng ta", xem ra chuyện này thật kỳ lạ. Nguyễn Ái Quốc
học tiếng Nhật thông thạo từ lúc nào mà có mối quan hệ với "Nhật Bản mật
thám", gọi phiên hiệu quân đội Nhật là "sư doàn", thậm chí, sau
khi nước Pháp đầu hàng phát xít Đức, ông còn bình luận về tương lai của Việt
Nam như sau: "Người Pháp... người Đức... ngưới Anh... người Mỹ... người
Trung Quốc... người Nhật Bản...,chính phủ Pháp giải quyết vấn đề Việt Nam như
thế nào? Dự định giao cho nước Đức? Hoặc là trao trả cho Việt Nam? Chẳng bằng
đem Việt Nam trao cho Nhật Bản là tốt hơn cả. Ngược lại, người Việt Nam có suy
nghĩ như thế nào về Nhật Bản? Bởi vì họ đã vô cùng căm hận nước Pháp mà lại
chưa từng được nghe về việc Nhật Bản cưỡng bức, bạo hành, tàn sát
nhân dân Trung Quốc. Vì thế, một khi họ nhận thấy đất nước vẫn không được đôc lập
tự do, thì bọn giặc lùn này cũng chẳng khác gì giặc Pháp".
Đoạn văn trên đâu có phải là của Nguyễn Ái Quốc viết trong báo
cáo gửi Quốc tế cộng sản. Ngoài ra, còn có những câu "Ở các tỉnh Bắc Kỳ có
một đảng xưng là "Bảo hoàng". Họ ra một tờ báo, các quan lại dựa vào
thế lực hoàng đế để hoạt động". Trung Quốc dưới tiều đại Mãn Thanh có một
tổ chức gọi là "Đảng Bảo hoàng" ra đời nhằm củng cố chính quyền, trong
khi đó , ở Việt Nam xuất hiện phong trào "Cần vương", chắc là chưa từng
nghe tên tổ chức "Đảng Bảo hoàng". Cách dùng từ ngữ kiểu như thế rất
nhiều, không thể liệt kê hết. Cho nên, tôi dám khẳng định, người ký tên P.C.Lin
trong các bản báo cáo tuyệt nhiên không phải là Nguyễn Ái Quốc mà phải là một
người tinh thông Nhật ngữ, đồng thời lại phải uyên thâm Hán văn viết.
Mười một (11) bài viết trong "Cứu vong nhật báo"
Sau khi Quảng Châu thất thủ, tờ "Cứu vong nhật báo"
chuyển về Quế Lâm, Quảng Tây, đến đầu năm 1939 thì xuất bản trở lại do Quách mạt
Nhược làm chủ bút, Hạ Diễn làm tổng biên tập. Các bài viết của Hồ Chí Minh trên
"Cứu vong nhật báo đều ký tên "Bình Xuyên" với 11 bài chuyên đề,
nguyên tác bằng Trung văn, gồm có: "Thiên thượng cố muội" (15 tháng
11 năm 1940), "Ếch đầm và trâu vàng" (24 tháng 11 năm 1940),
"Tiên sinh Roosevelt và trò đùa dai" (27 tháng 11 năm 1940),
"Hai chính phủ Versailles" (29 tháng 11 năm 1940), "Phao
tin" (1 tháng 12 năm 1940), "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt
Nam" (2 tháng 12 năm 1940), "Ca dao An Nam về Trung Quốc kháng chiến"
(4 tháng 12 năm 1940), "Thật giả lẫn lộn" (5 tháng 12 năm 1940),
"Bàn về huyết thống" (8 tháng 12 năm 1940), "Nghĩa Đại Lợi
(Italia) thực bất đại lợi" (16 tháng 12 năm 1940), "Quân Phục quốc Việt
Nam thành quân Bán nước Việt Nam" (18 tháng 12 năm 1940). Đặc điểm của 11
bài chuyên đề là ngôn ngữ phong phú, ngụ ý sâu sắc. Nội dung văn chương đều nói
đến thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai và quan điểm của mình về tình hình
chính trị, đặc biệt là kịch liệt phản đối phát xí Nhật và phát xít Đức. Hầu hết
các bài viết đền nhấn mạnh hai nước Trung - Việt là đồng minh chống chiến
tranh, chống chủ nghĩa phát xít.
Từ 11 bài viết này, chưa cần nói đến nội dung thông tin phản
ánh, chỉ căn cứ vào ngữ pháp câu văn và phong cách diễn đạt, ta cũng dễ dàng nhận
ra, không thể do người Việt Nguyễn Ái Quốc mà phải là một người Trung Quốc có
trình độ hiểu biết khá rõ về Nhật bản viết. Xin dẫn ra 3 ví dụ để chứng minh:
1 - Trong bài "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt
Nam", tác giả dùng ngôi thứ nhất: "Phong trào vận động giải phóng Việt
Nam là quân Đồng Minh Trung Quốc kháng chiến chống Nhật. Trên tinh thần và vật
chất, chúng ta dành cho họ sự cổ động và giúp đỡ. Tôn tiên sinh(5) thường
dạy chúng ta là phải giúp đỡ các nước nhược tiểu, cùng nhau phấn đấu giành lấy
độc lập tự do, vì vây, chúng ta phải thực hiện di huấn ấy".
2 - Tong bài "Ca dao An Nam nói về cuộc kháng chiến của
Trung Quốc", Hồ Chí Minh lấy giọng ký giả Trung Quốc, đưa tin nhân dân Việt
Nam chi viện Trung Quốc kháng chiến. Bài viết có đoạn: "Khi ký giả đến Việt
Nam, ở thành thị cũng như nông thôn, đều lan truyền một bài hát, tuy tôi
không biết tiếng Việt nhưng nghe đến câu "Giúp Tàu là tự giúp
mình" (Niếp tào la tự niếp minh) cũng có thể hiểu được lời ca này đồng
tình với nhân dân Trung Quốc. Sau này ở Hà Nội, tôi đem sự việc trên nói với một
Hoa kiều đang sống ở Việt Nam, ông ta bảo, đại đa số nhân dân Việt Nam đều ủng
hộ Trung Quốc kháng chiến, họ còn cấu mong cho chúng ta chiến thắng. Từ đoạn
văn vừa dẫn, ta có thể biết được, thời kỳ đầu những năm 1940, việc nghe và nói
tiếng Việt đối với Hồ Chí Minh là rất khó khăn. Trong bài viết của mình, Hồ Chí
Minh đã hướng đến độc giả Trung Quốc, giới thiệu việc ông đã chỉnh lý bài ca
dao "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình", xin trích dưới đây để bạn đọc
tham khảo:
Nguyên văn:
Cứu Trung Quốc thị tự cứu tự kỷ
Nhật bản đông phương pháp tây tư(6)
Dã man, hung bạo hựu tàn khốc
Phát động liễu xâm hoa chiến tranh
Trung Quốc nhân dân bị đồ độc
Nhân bị sát liễu gia bị phần
Mãn địa huyết hồng mãn sơn cốt
Phi cơ tạc đạn vô khả miễn
Ngạ hàn tật bệnh nan sinh hoạt
Tha môn gian khổ địa đấu tranh
Bảo vệ dân chủ dữ hòa bình
Tha môn nhu yếu viện trợ giả
Tha môn nhu yếu hữu đồng tình
Nhật quỷ hướng thế giới tiến công
Tha thị nhân loại chi công địch
Việt Nam huynh đệ thư muội a
Khoái khoái khởi lai trợ Trung Quốc
Nỗ lực bang trợ Trung Quốc nhân
Trung Quốc Việt Nam như thần xỉ
Tu tri thần vong tắc xỉ hàn
Cứu Trung Quốc thị tự cứu kỷ.
Tạm dịch:
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Phương đông Nhật Bản nước phát xít
Dã man hung bạo lại tàn khốc
Phát động chiến tran xâm Trung Hoa
Nhân dân Trung Quốc bị thống khổ
Người thì bị giết, nhà bị đốt
Xương chất thành núi, máu ngập đất
Máy bay ném bon không chỗ ẩn
Bệnh tật, đói rét khó sống sót
Nhưng họ vùng lên quyết đấu tranh
Bảo vệ dân chủ và hòa bình
Trung Quốc rất cần sự giúp đỡ
Trung Quốc rất cần tình đồng chí
Quỷ Nhật tấn công cả thế giới
Trung Quốc kháng Nhật vì nhân loại
Việt Nam vỗn dĩ là anh em
mau mau đứng lên giúp Trung Quốc
Hết sức giúp đỡ người Trung Quốc
Trung Quốc, Việt Nam môi với răng
Nên biết môi hở tất răng lạnh
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
3 - Trong bài "Quân Phục quốc Việt Nam thành quân Bán nước
Việt Nam", Hồ Chí Minh bỗng nhiên lại không biết tiếng Nhật hoặc tỏ ra
không hiểu mối quan hệ Việt - Nhật vào thời điểm ấy. Tôi lại xin trích dẫn một
đoạn để chứng minh: Năm 1907, Nhật Bản xét thấy "Hiệp ước Nhật Pháp"
đối với Nhật là rất có lợi, lập tức ra lệnh đuổi tất cả thanh niên Việt Nam về
nước, chỉ còn hoàng thân Cường Để và con nuôi ông ta là Trần Văn An, được thủ tướng
Inukai Tsuyoshi, lấy tư cách cá nhân cho phép ở lại Nhật Bản, với ý đồ, trong
tương lai sẽ đưa ông ta lên làm vua bù nhìn Việt Nam. Sau năm 1931, Trần Văn An
đã từng giữ chức vụ bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Mãn Châu. Năm 1938,
sau khi Quảng Châu thất thủ, Trần Văn An trở về khu vực biên giới Quảng
Đông - Việt Nam. Cuối tháng chín năm ấy, Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam, Nguyễn Cường
Để, Trần Văn An cũng theo về hoạt động ở vùng Lạng Sơn - Cao Bằng. Chúng tôi ở
Trung Quốc rất hiểu lầm về tình hình Việt Nam. Ví dụ như, ngày mồng 5 tháng
này, các báo đều đưa tin, bọn địch ở vùng phụ cận Lạng Sơn chiêu mộ dân chúng,
tổ chức "Phục quốc quân", mỗi người được lĩnh 30 đồng một tháng, cán
bộ các cấp dều do quân địch tuyển chọn, số người đã lên đến hàng vạn. Mục đích
của họ là xúi giucj dân chúng giành chính quyền từ tay thực dân Pháp, sau đó đất
nước sẽ do họ thống trị". Vào ngày mồng 10, các báo đưa tin khác nhau:
"Những ngày gần đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam lại càng sôi sục,
tư lệnh Việt Nam Phục quốc quân Trần Mỗ, mấy ngày trước đã phát động
khởi nghĩa. Dân chúng chuẩn bị lương thực rầm rộ đi theo, trước mắt đã thu hút
được vài vạn người...". Thế là ngày mồng 5 thành lập tổ chức Việt gian
"Phục quốc quân" mà ngày mồng 10 "Phục quốc quân" lại biến
thành đội tiên phong cách mạng dân tộc? "Phục quốc quân" là bộ đội vũ
trang của nhân dân Việt Nam hay đã trở thành tổ chức Việt gian? Rốt cuộc, đó có
phải là lực lượng vũ trang chân chính của nhân dân Việt Nam? Cái người họ Trần
kia thực chất là ai? Ký giả căn cứ vào các thông tin, sau khi tiến hành điều
tra, có thể khẳng định, Trần Mỗ chính là Trần Văn An. Ngụy "Phục quốc
quân" và "Phục quốc quân" là hai hợp làm một, mà cũng là một phần
của hai. Lực lượng vũ trang chân chính của nhân dân Việt Nam chưa ra đời. Trước
mắt tôi xét thấy có mấy điểm như sau:
a - Người Nùng ở Lạng Sơn suy nghĩ đơn thuần, do đã căm thù đến
tận xương tủy đế quốc Pháp, không hiểu rõ lai lịch Trần Văn An, chỉ nghe thấy mấy
tiếng "Phục quốc quân" liền lập tức đi theo. Một khi được biết Trần
Văn An là Việt gian, họ nhất định từ bỏ "Phục quốc quân", tham gia
vào đội ngũ giải phóng dân tộc chân chính.
b - Lúc này, Nhật Bản đang bị Anh, Mỹ, Nga cản trở, chưa dám kéo
quân vào Việt Nam. Chúng hy vọng Việt Nam có nhiều tài nguyên nên tìm cách
chiêu mộ Việt gian, ra sức nhiễu loạn lòng dân, tạo cớ xâm lược Việt Nam.
c - Quân địch không ở Việt Nam nên chúng tìm cách tổ chưc, nuôi
dưỡng lực lượng Việt gian chiêu mộ tại vùng biên giới Quảng Tây, Lạng Sơn, Cao
Bằng. Sự kiện này khiến chúng ta phải thật chú ý.
d - Chúng tôi có nhu cầu cần phân biệt rõ ràng những đoàn thể
chính trị và vũ trang chân chính của Việt Nam, quyết không chấp nhận các tổ chức
hoạt động Việt gian, lại càng không thể chấp nhận những tổ chức hoạt động thổ
phỉ hoặc bị kẻ địch lôi kéo.
(Tác giả nhận định: "Inukai Tsuyoshi" là thủ
tướng Nhật lúc ấy, "uy khấu", "địch quân", "tha
môn" là chỉ quân đội Nhật Bản, các báo là chỉ "Cứu vong nhật
báo" lúc ấy ở Quảng Tây, "Quảng Đông nhật báo", "Tảo đãng
báo" v.v... "ký giả" chỉ Hồ Chí Minh lúc ấy lấy bí
danh Hồ Quang với tư cách Hoa kiều Trung Quốc. Khoảng năm 1940 đến 1941, hoàng
thân Cường Để cũng đến Đài Loan với động cơ không rõ ràng. Thời gian từ tháng
mười một đến tháng mười hai năm 1938, Hồ Tập Chương đến Quảng Đông, thâm nhập
vào Bộ tư lệnh Quân khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, hiển nhiên giai đoạn
lịch sử này có mức độ liên quan tương đối với nhau).
4 - "Thiên thượng cố muội": Thật ra tôi cũng không hiểu
bốn chữ "Thiên thượng cố muội" là như thế nào. Chúng có phải do từ ngữ
Việt Nam chuyển dịch sang chữ Hán hay là nguyên bản chữ Hán? Nội dung "khai
tông minh nghĩa" ("mới bắt đầu đã nêu ý nghĩa chủ yếu", chương I
"Hiếu kinh"): Câu này vốn là tục ngữ Việt Nam tương ứng với câu trong
Hán văn "Thiên công hữu mục" (ông trời có mắt) từ khi nước Pháp bắt đầu
xâm lược Việt Nam, hiện tại nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, há chẳng ứng
nghiệm "ông trời có mắt" sao?
Theo nội dung văn bản mà cân nhắc câu chữ "Thiên thượng cố
muội" nên chuyển đổi thành "Thiên công hữu mục" mới phù hợp với
nội dung tiêu đề. Lẽ nào Hồ Chí Minh lại gửi "Cứu vong nhật báo" bản thảo
chuyên mục nhan đề bằng chữ Việt còn nội dung mới bằng chữ Hán? Căn cứ vào
"Hồ Chí Minh toàn tập", tập III, xuất bản năm 2002, nhan đề bài này
là "ÔÔNG-TRÔI-CO-MAT" thì không thể nào dịch được, mà "Thiên
công hữu mục" lại tương ứng với "Ông trời có mắt" của Việt Nam mới
mới chính xác. Do vậy, tôi cứ băn khoăn, không hiểu lúc ấy Hồ Chí Minh chưa
thông thạo tiếng Việt, hay tiếng Việt chưa thống nhất quy cách ngữ pháp, chưa
tiêu chuẩn hóa hoặc cũng có thể là báo chí xuất bản mắc lỗi?
Chuyện cũ Trang Chu hiểu mộng
(Trang Tử, "Tề vật luận") , kết vĩ, môt truyện ngụ
ngôn lưu truyền "Trang Chu mộng điệp":
"Ngày trước, Trang Chu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, lướt
bay bồng bềnh ngao du khắp nơi, quên mất bản thân mình trước đây là Trang Chu,
bỗng nhiên giấc mơ tan sực tỉnh mới biết rõ mình lại là Trang Chu".
Không thể biết Trang Chu nằm mơ hóa thành bướm hay là bướm nằm
mơ hóa thành Trang Chu ? Rốt cuộc Trang Chu và bướm là có sự phân biệt! Trang Tử
căn cứ vào sự chuyển biến này mà viết truyện (vật hóa). Cái mà Trang Tử gọi là
"vật hóa" là chỉ cái khoảng cách người và vật chuyển hóa. Quốc tế cộng
sản mượn "phách" của Nguyễn Ái Quốc để hóa thành "hồn" Hồ
Chí Minh. Ý đồ đem Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh hợp nhất hồn phách, chết mà lại
sống, đây phải chăng có thể gọi là "vật hóa"? Thời gian Hồ Chí Minh bị
bắt giữ, thẩm vấn ở Quảng Tây, thân phận của ông đã chuyển hóa giống như kết quả
"vật hóa" của Trang Chu, chỉ là thời gian này, Hồ Chí Minh không dám
đột nhiên tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc . Rốt cuộc việc này là như thế nào?
Thông thường, người đời đều nhận biết tác giả "Nhật ký
trong tù" đương nhiên là Hồ Chí Minh, cũng chính là Nguyễn Ái Quốc. Việc
này không có gì phải nghi ngờ. Thế nhưng, lúc ấy, vào hạ tuần tháng giêng năm
1943, Hồ Chí Minh bị giải tới Văn phòng của Ủy viên quân sự hội chính phủ Quốc
dân đảng Quế Lâm để điều tra., vị Ủy viên này tuyệt đối không điều tra lai lịch
Hồ Chí Minh mà lại cho là "hiềm nghi chính trị phạm", chuyển giao cho
Ban chính trị "Đệ tứ chiến khu" Liễu Châu xác minh. Sau đó, ngày 10
tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh được "Đệ tứ chiến khu" Liễu Châu
phóng thích, tiếp tục ở lại Ban chính trị để giám sát. Cuối cùng, Văn phòng Ủy
viên hội Quế Lâm và "Đệ tứ chiến khu" Liễu Châu đã thống nhất phán
quyết như sau: "Hồ Chí Minh bị nghi ngờ hoạt động chính trị chống lại nhà
nước, nhận thấy, ông ta là Hoa kiều tại Việt Nam, là phần tử Đệ tam quốc tế,
nhưng chưa khẳng định Hồ Chí Minh tức là Nguyễn Ái Quốc".
Trong thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhờ Phân hội "Quốc tế chống xâm lược" ở Việt Nam, gửi điện đến viện
trưởng Tôn Khoa và thông tấn xã TASS của Liên Xô đóng tại Trùng Khánh để công bố
thông tin. Đồng thời họ cũng thông qua Chu Ân Lai nhờ Phùng Ngọc Tường và Lý
Nhân Tông giải cứu, tuy vậy cũng không thấy nói đến Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái
Quốc, người Việt Nam. Mãi đến ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh mới được
phóng thích. Sau khi Hồ Chí Minh về Việt Nam, Trung ương Quốc dân đảng, thông
qua "Việt Nam cách mạng đồng minh hội", đến ngày 1 tháng mười năm
1944, mới biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nói cách khác, từ tháng tám năm 1942, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt, đến
23 tháng giêng năm 1944, Trương Phát Khuê gửi thư đến Tưởng Giới Thạch đề nghị
phóng thích, ông ta đều nói quanh co về nhiệm vụ được cử đến Việt Nam công tác.
Đối với Hồ Chí Minh, chính quyền Tưởng Giới Thạch trước sau đều có sự nghi ngờ
về lai lịch không rõ ràng, còn Trương Phát Khuê thì nửa tin nửa ngờ nên mới tạm
trọng dụng.
Từ ngày 9 tháng tám năm 1944 "Kế hoạch đại cương nhập Việt
công tác" được Trương Phát Khuê phê chuẩn cấp kinh phí là 7 vạn 6 ngàn đồng
(nguyên), dẫn đầu gồm 18 cán bộ trở về Việt Nam khai triển nhiệm vụ mới.
Tác giả Vương Tâm Cương viết truyện "Trương Phát Khuê"
trang 225 đã nói rất rõ ràng; "Hồ Chí Minh trở về Việt Nam không lâu, ngày
1 thang mười năm 1944, Trung ương Quốc dân đảng lúc ấy mới biết, Hồ Chí Minh là
Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Cộng sản Việt Nam và Việt Minh". Cũng trang đó,
tác giả viết tiếp: "Trương Phát Khuê gửi công văn đến Tưởng Giới Thạch đề
nghị phóng thích Hồ Chí Minh với lý do "tỷ dư nhiệm vụ":
1- Chúng ta không phản đối những người Cộng sản chủ nghĩa, đặc
biệt là người Quốc tế cộng sản.
2 - Hồ Chí Minh chỉ thừa nhận là cán bộ cách mạng Việt Nam, chưa
từng tham gia Đảng Cộng sản nên không liên quan gì đến Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Qua quá trình điều tra, chỉ thấy bằng chứng xác minh ông ta là phần
tử Đệ tam quốc tế.
3 - Trương Phát Khuê có ấn tượng khá tốt về Hồ Chí Minh, cho rằng,
theo ngôn ngữ văn tự mà suy đoán, đối với "Chủ nghĩa Tam dân" Hồ Chí
Minh, chẳng những hiểu rất rõ về chính sách kháng Nhật, mà còn là người có tư
duy sâu sắc, thái độ ôn hòa, rất xứng dáng là đại biểu của đất nước với hơn 20
triệu dân.
Theo phần trích dẫn trên, thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ ở
Quân ủy hội Quế Lâm và Ban chính trị Đệ tứ chiến khu Liễu Châu, đều không coi Hồ
Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc
cũng chưa nói Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Bản thân Hồ Chí Minh cũng chưa từng
thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Như vậy, trong sự việc này tồn tại rất nhiều
nghi vấn. Lúc ấy Trung cộng và Quốc tế cộng sản đang hợp tác với Quốc dân đảng
chống Nhật, Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo Việt Minh cũng là đối tượng để Quốc dân đảng
tranh thủ cho kế hoạch "Hoa quân nhập Việt".
Hồ Chí Minh chỉ thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc sau khi được
phóng thích, vậy vì sao phải tổn hao tâm trí thông qua "Phân hội quốc tế
chống xâm lược" ở Việt Nam, thông tấn xã Nga Xô TASS và Chu Ân Lai giải cứu?
Sự việc bỏ đường tắt, phù phép đi đường vòng để giải cứu Hồ Chí Minh làm cho
người ta cảm thấy phí công suy nghĩ.
Vì sao Hồ Chí Minh không thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa bắt đầu từ năm 1934, do áp lực của
Quốc tế cộng sản phải sắm vai Nguyễn Ái Quốc. Trước ngày 6 tháng sáu năm 1941
không lâu, ông ta lại ký tên Nguyễn Ái Quốc trong bài báo "Thư hiệu
triệu gửi đồng bào toàn quốc Việt Nam". Thế nhưng, vào ngày 27
tháng tám năm 1942, bị quân cảnh Quốc dân đảng bắt giữ điều tra, Hồ Chí Minh vẫn
không dám nhận tên mình là Nguyễn Ái Quốc, việc này rốt cuộc vì sao?
Tôi phải suy nghĩ rất lâu mới phát hiện ra trò trí trá quỷ thuật
trong thời gian này. Nguyên lai, quân Quốc dân đảng bắt giữ Hồ Chí Minh lúc đầu
không biết ông là người có lai lịch phức tạp cho dù các giấy tờ tùy thân đều đã
quá hạn sử dụng. Tuy nhiên, công an huyện Đức Bảo, Quảng Tây lại nghi ngờ Hồ
Chí Minh là gián điệp, tên thực là Hồ Quang, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đã từng tham gia lớp huấn luyện cán bộ du kích Nam Hành Sơn. Ký giả Hoa Kỳ
Andew Roth, vào năm 1948, trong cuốn sách "Nước Việt Nam mới", trang
89, đã viết rất rõ: "Hồ Chí Minh lấy Trung Quốc làm cơ sở, sau mười năm hoạt
động, đột nhiên vào năm 1943, bị nghi ngờ là gián điệp Nhật nên bị nhà đương cục
Trung Quốc bắt giữ". Cho nên, để điều tra lại lịch, ông ta bị chuyển đến Ủy
viên quân sự hội Quế lâm của chính phủ Tưởng Giới Thạch. Lại căn cứ vào bản báo
cáo điều tra về Cộng sản Việt Nam của chính quyền Quốc dân đảng năm 1941, thì:
"Nhận định là Việt cộng và Trung cộng đã hợp thành một tổ chức",
đồng thời có biểu hiện lợi dụng quân đội Nhật để chống lại Quốc dân đảng, nhân
đó tạo thành sự kiện "Hoãn Nam Tân tứ quân".
Những nhân tố trên mới là nguyên nhân chủ yếu bắt giữ Hồ Chí
Minh. Nhân đó, trong thời gian bị thẩm vấn, Hồ Chí Minh không dám thừa nhận
mình là Hồ Quang, càng không dám thừa nhận bản thân từng bị bắt ở Quảng Châu.
Lúc ấy, Hồ Chí Minh rất sợ bị mất đầu bởi các tin đăng tải trên "Nhật nhật
tân báo" liên quan đến sự kiện "Gián điệp Nhật Bản".
(Tác giả nhận định: Lúc ấy, Thượng Hải, Quảng Châu thuộc khu vực
Nhật Bản chiếm đóng, đều phát hành tờ "Nhật nhật tân báo"). Đương
nhiên Hồ Chí Minh không dám thừa nhận mình là Hồ Quang, sợ bị Trung cộng nghi
ngờ, cũng không dám thừa nhận là Hồ Tập Chương, sợ liên lụy đến tội danh gián
điệp Nhật. Lúc này, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc, tuy cũng chẳng phải là thượng
sách nhưng có thể tránh được sự nguy hiểm một khi chính quyền Quốc dân đảng muốn
lật lại bản án, tránh phải tái nhập nhà tù. Mặt khác, Hồ Chí Minh lại không dám
công nhiên thừa nhận là Nguyễn Ái Quốc, mà chỉ lén lút tung tin vỉa
hè, kệ cho thiên hạ loan truyền như một tin đồn, bởi vì, ông rất lo, nếu tự nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc, đến một ngày nào đó, lai lịch bất minh bị tố giác, chân
tướng sẽ bị vạch trần. Thời gian từ năm 1924 đến 1927, nhân sự kiện hoạt động của
nóm "Tân tâm xã" ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Hải Thần từng
là bạn bè tâm đầu ý hợp. Một câu nói, một việc làm của Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Hải
Thần đều hiểu rõ ràng. Trước mắt, Nguyễn Hải Thần đang là khách của Đệ tứ chiến
khu, nếu Hồ Chí Minh thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc , gặp nhau mặt đối mặt,
nhất định Nguyễn Hải Thần sẽ vạch trần tại chỗ Hồ Chí Minh ngụy trang thân phận.
Cuối năm 1934, Trương Phát Khuê chỉ đạo ban tổ chức trù bị Đại hội
đại biểu toàn quốc "Việt Nam cách mạng đồng minh hội". Ông ta đề nghị
Hồ Chí Minh giữ chức Phó chủ tịch, mà Chủ tịch lúc ấy là Nguyễn Hải Thần. Hồ
Chí Minh và Nguyễn Hải Thần, vì thế, hợp tác làm việc với nhau một thời gian tại
Liễu Châu. Có một ngày, Chủ nhiệm Ban chính trị Hầu Chí Minh mở tiệc chiêu đãi.
Nguyễn Hải Thần, Hoàng Văn Hoan, Lê Hồng Sơn, Hồ Chí Minh được mời dự. Trong tiệc,
Nguyễn Hải Thần cao hứng xuất một vế đối: "Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng
vị đồng chí, chí giai minh"(Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai người dồng chí,
chí đều sáng). Đọc xong, ông hỏi: "Vị nào có thể đối được?" Vào lúc mọi
người còn đang tìm câu chữ chưa biết làm thế nào cho chỉnh thì Hồ Chí Minh
thong thả đọc ngay vế sau: " Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh,
mệnh tất cách"(Ngài cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, việc tất
thành). Nghe xong, Hầu Chí Minh luôn miệng tán thưởng: "Đôii giỏi quá! Đối
giỏi quá!". Nguyễn Hải Thần cũng tâng bốc: "Hồ tiên sinh có tài suy
nghĩ mẫn tiệp, bội phục, bội phục!". Với Nguyễn Ái Quốc trước đây là chiến
hữu thân mật, nay gọi Hồ Chí Minh là "Hồ tiên sinh", đủ để chứng
minh, Nguyễn Hải Thần biết rõ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là
Hồ Chí Minh. Cố nhiên, lúc ấy Hồ Chí Minh đang ở Liễu Châu, làm sao dám nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc.
Tháng mười năm 1944, Trung ương Quốc dân đảng, sau khi Hồ Chí
Minh trở về Việt Nam mới biết ông ta là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt cộng và
Việt Minh. Trương Phát khuê được biết sớm hơn vào đầu năm 1943 khi mà Hồ Chí
Minh bị chuyển giao cho Ban chính trị Đệ tứ chiến khu thẩm tra.
Trung cộng và Việt cộng đều không công khai thừa nhận Hồ Chí
Minh là Nguyễn Ái Quốc nhưng lại lén lút để bí mật này lọt ra ngoài bằng con
đương truyền miệng. Đây chính là thủ đoạn hai mặt, một mặt yêu cầu Hồ Chí Minh
không thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc , nhưng mặt khác lại thông qua những đảng
viên cộng sản như Hoàng Quốc Việt tán phát bí mật Hồ Chí Minh chính là Nguyễn
Ái Quốc. Thời kỳ ẩn mình làm việc dưới trướng của Trương Phát Khuê, hoạt động của
những người cộng sản là rất rõ ràng. Ví như, Bí thư Trung cộng Tả Hồng Đào phục
vụ trong chi đội đặc biệt của Tập đoàn quân thứ 8, thời kỳ năm 1941, thư ký cơ
yếu của Trương Phát Khuê biết tin Hồ Chí Minh bị chuyển từ Quế Lâm đến Ban
chính trị Đệ tứ chiến khu, lập tức liên lạc với những người thân tín của Trương
Phát Khuê là Ngô Trọng Hy, Cao Nhược Ngu, Trương Lệ, Hoàng Trung Cẩn... truyền
đạt tin tức can ngăn: Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, khuyên can
Trương Phát Khuê hủy bỏ lệnh giam lỏng ông ta để "tỷ dư nhiệm vụ"
(dùng vào việc sau này).
Không lâu sau, Chủ nhiệm Ban chính trị Hầu Chí Minh đi họp từ
Trùng Khánh về, thực hiện lệnh phóng thích Hồ Chí Minh. Trương Phát Khuê tự
mình đưa Hồ Chí Minh đến ở tại "Bân Lư" trên đường Diêu Phụ, coi như
thượng khách.
Đoạn văn trên là do Vương Tâm Đồng viết trong "Truyện
Trương Phát Khuê", chương 17, trang 215 và "Ghi chép về Tả Hồng Đào
mười năm trong hang hổ"
Lai lịch Hồ Chí Minh vì sao không bị vạch trần?
Quá trình chuyển hóa thân phận từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Ái Quốc
hoàn toàn không phải mọi việc đều thuận lợi trong một sớm một chiều. Đó là cả một
công việc diễn ra lâu dài, bền bỉ với không ít người tham gia thúc đẩy mới đạt
thành hiệu ứng của màn hý kịch. Xét về mặt thời gian, sau khi Nguyễn Ái Quốc bị
bệnh lao phổi chết vào mùa thu năm 1932, chẳng phải đã có ngay kế hoạch
"mượn xác hoàn hồn" hay "dời hoa tiếp cây".
Năm 1934, Hồ Tập Chương đến Mạc Tư Khoa với bí danh P.C.Lin,
sau khi chịu sự điều tra của tổ chuyên án ba người, Quốc tế cộng sản mới bắt đầu
đề nghị Hồ Tập Chương thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc, lấy tư cách đại biểu Quốc
tế cộng sản tiến hành hoạt động giành độc lập cho Việt Nam. Khoảng thời
gian ấy, sự việc luôn ở trong tình trạng mập mờ, bán tín bán nghi, cho đến
tháng sáu năm 1957, khi về thăm quê hương Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, Hồ Chí
Minh mới chính thức công khai thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Thời gian này,
song thân Nguyễn Ái Quốc đã qua đời từ lâu, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm
mất vào năm 1950 và người chị là Nguyễn Thị Thanh cũng mất vào năm 1954. Ông
Khiêm và bà Thanh, năm 1945 cũng đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, vội vàng nói
chuyện về thời thơ ấu rồi lại trở về quê. Vậy tình hình lúc gặp mặt ra sao, Nói
những chuyện gì, trước sau vẫn còn là một bí mật. Vì thế, vào năm 1957, khi Hồ
Chí Minh về thăm quê hương Nguyễn Ái Quốc, những người trong làng, có thể nói,
không một ai phát hiện ra vị Chủ tịch nước Việt Nam không phải là Nguyễn Ái Quốc.
Huống hồ, các phe cánh đối lập như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng lưu lạc ở
Trung Quốc Đại lục, chết vì bệnh tật chốn tha hương. Hồ Chí Minh đến lúc này với
vượt qua các trở ngại, hoàn thành kế hoạch "dời hoa tiếp cây", thay
thế vai trò Nguyễn Ái Quốc do Quốc tế cộng sản sắp đặt.
Công bằng mà nói, Hồ Chí Minh hoàn thành nhiệm vụ "dời hoa
tiếp cây" tuyệt đối không phải do năng lực cá nhân. Màn ký kịch này là sự
hợp tác diễn xuất tuyệt vời của những nhân vật chóp bu Đảng Cộng sản Việt Nam
mà đạo diễn chính là Vera Vasilieva, phụ trách thiết kế quy hoạch, trong đó, diễn
viên chính là Hồ Chí Minh, chịu trách nhiệm biên tập kịch bản và thượng đài diễn
xuất. Phối hợp diễn xuất là các lãnh đạo cao cấp như Lê Hồng Phong, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan, Nguyên Lương Bằng cùng với lãnh
đạo cao cấp Đảng Cộng sản Trung Quốc Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân,
Thái Sướng, Khang Sinh, Lý Khắc Nông..., phụ trách yểm hộ, bao che lai lịch Hồ
Chí Minh. Họ giấu kỹ lai lịch cùng những chứng cứ liên quan đến Hồ Chí Minh. Họ
dùng các phương thức yểm hộ khác nhau rối ren như tơ nhện để ngụy tạo thông
tin, khiến cho nhất thời có người tỏ ra hoài nghi, thì bất quá cũng như một
cánh hoa trôi giạt trên biển lớn, chỉ cần một đợt sóng trào là mất hút, không để
lại dấu vết.
Năm 1945, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại đã từng
nói: "Chỉ cần chứng minh được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc tôi sẽ lập tức
thoái vị". Không lâu sau, Bảo Đại thoái vị thật, có thể thấy, giới lãnh đạo
Việt Nam che đậy lai lịch Hồ Chí Minh đặc biệt thành công. Một lần nưa, tôi nhấn
mạnh, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932, năm 1942 mới
thấy tên tuổi Hồ Chí Minh xuất hiện. Như vậy, từ trước năm 1932, người ta rất
quen biết Nguyễn Ái Quốc, sau năm 1933, người ta không quen biết Hồ Chí Minh, vậy,
theo lý mà nói, Nguyễn Ái Quốc không phải là Hồ Chí Minh, chỉ có điều, vì sao
Nguyễn Ái Quốc có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với một lãnh đạo nổi tiếng của
Đảng Cộng sản Pháp là Paul Vaillant Couturier và vị luật sư Anh Quốc Frank
Loseby đã từng tham gia giải cứu Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nhà tù Hương Cảng,
đều chưa từng đề cập đến những nghi vấn về thân phận Hồ Chí Minh? Hồ Chí Minh
và những người cộng sản đã dùng những cách gì mà lừa bịp thành công? Chỉ xin dẫn
ra trường hợp Paul Vaillant Couturier và Frank Loseby làm ví dụ.
Vậy thì làm thế nào Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông ngụy tạo cố
sự để che mắt người nước ngoài, khiến họ tin rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc?
tôi xin lấy một tiêu đề trong thiên này là "Những năm tháng phiêu bạt"
để làm lời kết.
Hồ Chí Minh ngụy tạo sự kiện Nguyễn Ái Quốc sống lại
Paul Vaillant Couturier là chuyên gia nước Pháp về "Chủ
nghĩa xã hội", từng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, chủ bút tờ
báo "Nhân đạo". Tháng chín năm 1933, Paul Vaillant Couturier đã đến Thượng
Hải tham gia "Hội nghị thế giới phản đối chiến tranh đế quốc".
Tháng mười hai năm 1920, Nguyễn Ái Quốc có tham gia
"Hội nghị Tour" của Đảng Xã hội Pháp, sau khi Đảng Xã hội bị phân liệt,
đã quen biết Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier là thành đảng
viên cộng sản. Dưới sự chỉ đạo của Marcel Gabriel và Paul Vaillant
Couturier, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động tuyên truyền phản đỗi chủ nghĩa thực
dân, trở thành chuyên gia nghiên cứu về vấn đề thực dân của Đảng Cộng sản Pháp.
Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương), từ đầu đến cuối, chưa bao giờ quen
biết Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier. Mùa thu năm 1937, Paul
Vaillant Couturier qua đời, lúc ấy Hồ Tập Chương đang ở Mạc Tư Khoa, bí
danh P.C.Lin, chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Nguyễn
Ái Quốc, viết một bức thư bằng tiếng Pháp gửi tới Marcel Gabriel tỏ lòng thương
tiếc và chia buồn về việc Paul Vaillant Couturier qua đời. Nói cách khác, Hồ
Chí Minh sau khi Paul Vaillant Couturier chết mới mượn mối quan hệ giữa Nguyễn
Ái Quốc và Paul Vaillant Couturier để liên kết Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
thành một người, dụng ý che mắt thế gian, tái hiện hình ảnh Nguyễn Ái Quốc vẫn
sống trên đời.
Trần Đạt Nhân, vào năm 1963, trong cuốn sách "Vừa đi đường
vừa kể chuyện", và Nguyễn Lương Bằng năm 1965, trong cuốn sách "Tôi
đã mấy lần được gặp Bác Hồ" đều nhắc đến sự kiện năm 1933 Paul Vaillant
Couturier đến Thượng Hải, đồng thời gộp Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh làm
một, ngụy tạo sự kiện Paul Vaillant Couturier gặp Nguyễn Ái Quốc ở
Thượng Hải để tạo điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa. Thời điểm
những cuốn sách này xuất bản, Nguyễn Ái Quốc đã qua đời gần ba mươi năm, Paul
Vaillant Couturier cũng đã mất hai mươi sáu năm.Trần Đạt Nhân là bút
danh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng là Phó chủ tịch nước Việt
Nam, hai người đều đồng lòng, nhất trí chế tạo Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc
mà không bị lật tẩy bởi nhân chứng đã chết, Hồ Chí Minh vẫn đường đường chính
chính tiếp tục sắm vai Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 6 tháng sáu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng
bắt giữ, luật sư Frank Loseby nhận lời biện hộ. Sau chín phiên xử,
Nguyễn Ái Quốc được phóng thích. Vợ chồng Frank Loseby cũng có mặt
trong buổi tiễn đưa Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng. Mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái
Quốc mắc bệnh lao phổi sau đó qua đời. Tất nhiên, luật sư Frank Loseby cũng
biết tin này qua báo chí. Năm 1956, trong đoàn ký giả Anh Quốc thăm Việt Nam,
có một thành viên là đảng viên Cộng sản Anh. Hồ Chí Minh có cuộc gặp gỡ riêng với
ký giả cộng sản này, sau khi được biết ông ta sẽ đến Hương Cảng nên có viết bức
thư gửi luật sư Frank Loseby. Không lâu sau, Hồ Chí Minh lại gửi hai tấm ảnh
chân dung kèm theo bức tranh thêu "Chùa Một cột" và bức tranh sơn mài
tặng vợ chồng luật sư, đồng thời mời hai ông bà thăm Việt Nam.
Mùa xuân năm 1960, tại trụ sở tiếp khách Trung ương Đảng, Hồ Chí
Minh đón tiếp vợ chồng luật sư Frank Loseby và ái nữ của họ là tiểu thư Patricia.
Lúc ấy vợ chồng Loseby dã gần 80, Patricia cũng đã 30, mới gặp Hồ Chí Minh lần
đầu, trong khi Nguyễn Ái Quốc đã qua đời 28 năm. Luật sư nói: "Từ sau năm
1933, tôi có nhận được của Nguyễn Ái Quốc một bức thư đề nghị gửi ảnh cùng địa
chỉ, nhưng trong lòng tôi nghi hoặc, chỉ sợ đây là trò chơi "bịt mắt bắt
dê" của cảnh sát nên không dám trả lời. Không lâu. lại nhận được bức thứ
hai, nội dung giống như bức thứ nhất, tôi vẫn giữ cẩn thận, để nhớ lại hình ảnh
Nguyễn Ái Quốc đã qua đời". Luật sư giải thích nguyên nhân không liên lạc
với Nguyễn Ái Quốc là do không biết Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chủ Tịch. Sau
này vợ chồng Frank Loseby còn mấy lần được mời tham dự hội thảo tại Viện bảo
tàng Cách mạng Việt Nam, băng ghi âm lời phát biểu của ông và những tư liệu quý
do ông tặng vẫn được lưu giữ. Luật sư Loseby còn căn cứ theo kiểu dáng quần áo
Nguyễn Ái Quốc từng mặc năm 1931, đã dùng vải bông gai may một chiếc áo khoác
dài gửi tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Năm 1967, Frank Loseby qua đời, Hồ
Chí Minh gửi một vòng hoa đặc biệt đặt bên linh cữu ân nhân với dòng chữ:
"Hồ Chí Minh đau xót tưởng nhớ luật sư Frank Loseby".
Trở lên trên là những ghi chép có liên quan đến Hồ Chí
Minh và luật sư Frank Loseby được dẫn từ "Hồ Chí Minh, cha già dân tộc Việt
Nam" của cựu Đại sứ Lý Gia Trung, từ trang 226 đến 228, Nguyễn Việt Hồng
chuyển dịch, in trong chuyên mục "Hồ sơ Hương Cảng năm 1931". Từ
những lời kể trên, vợ chồng Frank Loseby đã biết rõ Nguyễn Ái Quốc chết
vào mùa thu năm 1932, vậy mà đến sau năm 1933 lại nhận được thư của Nguyễn Ái
Quốc, vì thế ông cho là cảnh sát chơi trò "bịt mắt bắt dê", không dám
trả lời. Đến năm 1956, một ký giả cộng sản Anh Quốc chuyển tới Frank
Loseby bức thư của Hồ Chí Minh, sau này lại gửi tặng ảnh chân dung, tranh
thêu, tranh sơn mài cùng với lời mời thăm Việt Nam, thậm chí còn cử người đại
diện mậu dịch ở Hương Cảng là Nguyễn Văn Phối và Đỗ Xuân Phong đến thăm gia
dình luật sư.
Tác giả không thể biết nội dung bức thư Hồ Chí Minh nói những
gì, chỉ căn cứ vào những động tác liên hoàn từ năm 1956, có thể phỏng đoán, Hồ
Chí Minh có ý ngầm thông báo cho vợ chồng luật sư Loseby biết là, Hồ Chí Minh
chính là Nguyễn Ái Quốc, tin tức đăng trên các báo về sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết
bởi bệnh lao phổi chỉ là tin tức giả. Lật lại vấn đề, nếu như Nguyễn Ái Quốc
không chết, chân thành báo đáp ơn cứu mạng, vì sao đến mãi năm 1956 mới ba lần
liên lạc với vợ chồng luật sư Frank Loseby, năm 1960 mới chính thức nời
thăm? Thời gian kéo dài những 20 năm, lẽ nào Nguyễn Ái Quốc không có cơ hội đến Hương
Cảng cảm tạ ân nhân? Lại vì sao 28 năm sau, khi mà vợ chồng luật sư đã gần 80 mới
mời đến Việt Nam gặp mặt? Tác giả nhận thấy "Hồ Chí Minh có thể làm bất cứ
việc gì để chờ đợi thời cơ, sau đó chọn dịp thuận lợi nhất mới gặp mặt".
Thử nghĩ, một ông già đã xấp xỉ 80 tuổi, sau 28 năm bặt vô âm tín, đặc biệt là
người Âu Mỹ nhìn người phương Đông, liệu có khả năng phân biệt được thật giả? Hồ
Chí Minh chơi trò bịp bợm chẳng qua là để vợ chồng Losely ghi nhớ "Hồ Chí
Minh là Nguyễn Ái Quốc" mà thôi. Hơn thế nữa, Viện Bảo tàng
Cách mạng Việt Nam lại còn mời vợ chồng Frank Loseby tham dự hội thảo,
lưu lại các tài liệu liên quan và băng ghi âm lời phát biểu cùng chiếc áo khoác
vải bông kiểu dáng năm 1931, làm cho khắp nơi nơi đều hiểu rõ mối quan hệ giữa
Hồ Chí Minh với luật sư Loseby chính là bằng chứng tuyệt vời khẳng định Hồ Chí
Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
THIÊN
IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân
tình ái
Hồ
sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
T
|
rong bài “Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại”, tôi đã nhấn mạnh,
vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi, người
xuất hiện sau này tuyệt đối không phải Nguyễn Ái Quốc mà chính là Hồ
Tập Chương, làm nhiều chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh đặt câu hỏi nghi ngờ.
Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã tham khảo không chỉ một vài tài liệu
mà thực chất đã tiếp cận hàng đống hồ sơ, do đó đã phát hiện ra những điều bất
hợp lý thậm chí mâu thuẫn nhau trong cuộc đời nhân vật lịch sử này. Vấn đề quan
trọng nhất là cần phải khách quan và trung thực trên cơ sở những chứng cứ khoa
học, đồng thời hết sức tránh thái độ cực đoan do thành kiến, nhằm loại trừ những
sai lầm để tìm ra sự thật.
Nghiên cứu hồ sơ hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh chính
là để làm sáng tỏNguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ
Chí Minh , người này không thể là người kia và ngược lại. Hôn nhân , tình
ái của Nguyễn Ái Quốc cần được phân biệt giữa Breiere, Tăng Tuyết
Minh với Nguyễn Thị Minh Khai. Hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh cũng
phải được phân biệt giữa Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Một số cuộc
hôn nhân , tình ái này đã được đề cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của
Willam J.Duiker và “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích, 1919 - 1941” của
Sophie Quinn – Judge, quyển 2, nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với
bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, nguyệt san “Nhân dân
văn trích” (Đại lục) có bài “ Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan”. Về phía Việt Nam có tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, “Việt
duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân” chuyên san có bài “ Thê thiếp và tình nhân của Hồ
Chí Minh”. Nói chung, các tác phẩm trên đều có những phát hiện và trình bày,
phân tích về tình trạng hôn nhân, tình ái của HCM tương đối đúng sự thực. Tuy
nhiên, về phía nhà nước Việt Nam, những người lãnh đạo cao cấp đều ra sức
phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ thừa nhận
mình từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu
tượng tối cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự
thật lịch sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là
hiện thực khách quan, được bạch hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ, không
thể xóa bỏ được vết hằn lịch sử.
Từ sau năm 1933 cho đến lúc qua đời, Hồ Chí Minh không
bao giờ thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia đình, nhưng trước năm 1933, tình trạng
hôn nhân củaNguyễn Ái Quốc lại được công khai rõ ràng. Nhà nước
Cộng sản Việt Nam cường điệu chuyện Hồ Chí Minh vì sự nghiệp độc
lập giải phóng dân tộc mà hy sinh tình cảm cá nhân, bởi vì họ không
muốn và cũng không dám đối mặt với một sự thật chết người, ấy là Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một. Không còn
cách nào khác, các nhà lãnh đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên truyền, đã lợi
dụng những chuyện cường điệu, bịa đặt về thứ tình yêu “đồng chí cộng sản” để nấp
sau tấm màn nhung, điều khiển vở hài kịch “tráo rồng đổi phượng”, “dời hoa
tiếp cây”.
Chuyện hoang đường về đạo đức thánh nhân
Trong nhận thức của một số người, ấn tượng phổ biến về việc ông Hồ
Chí Minhkhông có vợ con là bởi sự nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc nên đã
hy sinh hạnh phúc gia đình. Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế
giới tân văn” ngày 11 tháng bảy năm 2005 như sau : “ Hồ Chí Minh vì sự
nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân, không xây dựng gia đình, không vợ
không con. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vào những năm năm mươi, các
nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng có ý sắp đặt một nữ tthanh niên ưu tú
bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như sinh hoạt. Thế nhưng, khi
người phụ nữ ấy được đưa đến, Hồ Chí Minh lại bảo : “Bác ở đây không có việc
gì, cháu hãy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần Hồ Chí Minh tâm sự
với các nhân viên phục vụ về nguyên nhân mình không xây dựng gia đình : “ Thời
trẻ, Bác bôn ba nước ngoài, đi đến đâu cũng được phụ nữ để ý, chỉ hiềm lúc ấy
Bác đang họat động bí mật, sẽ có ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành
gia thất thì rất khó bảo vệ được bí mật”. Lý Đại sứ viết tiếp : “ Hồ Chí
Minh vì tự do độc lập của nhân dân mà dấn thân cuộc đấu tranh cách mạng
gian khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh phúc cá nhân, cho nên chấp nhận
suốt đời sống độc thân”. Việc không có vợ con của Hồ Chí Minh có
đúng như Lý Gia Trung nhận định là chỉ vì nền độc lập dân tộc hay là còn có lý
do khác quan trọng hơn mà họ cố ý giấu nhẹm sự thật, tạo ra chung quanh một
vòng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?
Căn cứ vào những hồ sơ từ thời thực dân Anh Pháp để lại, mới được
giải mật gần đây, thì Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hôn
nhân tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy
nhiên, nhà nước cộng sản Liên Xô Trung Quốc và Việt Nam cho
đến nay chẳng những không chịu thừa nhận thực trạng hôn nhân của Hồ Chí
Minh mà còn cố ý làm sai lệch các hồ sơ trên. Họ làm vậy mới mục
đích gì? Lần lượt phân tích các hồ sơ qua nội dung đã được bạch hóa, có thể suy
đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt cộng, không dám công bố sự thật hôn nhân Hồ
Chí Minh là bởi họ đã hiểu Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai
người khác nhau. Một khi các chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh công bố trước
thế giới sự thật này thì thân phận Hồ Chí Minh sẽ trở thành một “song bào án”,
hình tượng Hồ Chí Minh bỗng chốc sụp đổ, làm gì còn đủ tư cách
"Cha già dân tộc"!
Những năm ấy Quốc tế cộng sản phải khó khăn lắm mới tạo ra được
vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế hoạch cài cắm một phái viên của mình vào Việt
Namnhằm thực hiện mục đích “nhuộm đỏ” khu vực Đông Nam Á, nay có nguy cơ bị vạch
trần nên tất yếu họ tìm mọi cách bưng bít.
Vào những năm đầu thế kỷ XXI (năm 2000), sự thực về hôn nhân,
tình ái của Hồ Chí Minh còn được Sophie Quinn- Judge trong “Những năm tháng Hồ
Chí Minh mất tích 1919 -1941”, quyển I, ở phần mở đầu, giới thiệu tóm tắt
đã viết : “ Hồ Chí Minh không phải là hòa thượng độc thân, qua thẩm xét, nghiên
cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ chính thức với hai người phụ nữ”. Phần tổng
kết, tác giả nhắc lại : “ Hồ Chí Minh tuyệt đối không phải là một vị thánh của
Chủ nghĩa cộng sản chỉ vì ông ta không có cơ hội chung sống cùng phụ nữ mà
thôi”. Một tác giả người Việt là nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng trong tác phẩm “
Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đã viết :“ Hồ Chí Minh cũng chỉ là một người bình thường.
Ông đã từng trải qua mấy cuộc hôn nhân, có vợ có con, thậm chí có đến mấy bà vợ
cùng nhân tình”. Trong xã hội Việt Nam năm sáu mươi năm về trước, đây
là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đã trót suy tôn ông ta là “nhà
chính trị kiệt xuất”, “Cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng Việt
Nam” nên bắt buộc phải giấu biệt các mối quan hệ hôn nhân, tình ái, vô hình
chung Cộng sản Việt Nam đã biến ông Hồ thành kẻ phụ tình, bất nghĩa, thoái thác
trách nhiệm làm chồng làm cha, một lẽ thường của đạo nhân luân.
Cầu trả về cầu đường trả về
đường
Qua những sự thực lịch sử về tình trạng hôn nhân của Hồ Chí Minh
, cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm kết hợp với so sánh, đối chứng, ta có thể thấy
rõ, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh có những quan hệ hôn nhân, tình ái
vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai người có tình trạng hôn nhân ở hai thời
kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi đồng nhất cùng một thời gian thì chẳng
khác gì câu chuyện dân gian “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, làm biến dạng bản chất
sự việc. Muốn làm rõ việc này cần phải lấy năm 1932 làm mốc phân ranh giới giữa Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Trước năm 1932, thuộc hôn nhân, tình ái của Nguyễn
Ái Quốc với Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị Minh Khai.Từ năm
1933 về sau, thuộc hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc
và Nông Thị Xuân. Đem Nguyễn Ái Quốcghép với Hồ Chí Minh là không thể. Để
loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu thời gian, tìm hiểu
các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ
sơ lưu trữ về Hồ Chí Minh để trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của
người Trung Quốc là “ cầu trả về cầu, đường trả về đường”. Xin độc giả
tham khảo những tư liệu sau đây:
1 – Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc ở trọ tại biệt thự Goblin thủ
đô Paris nước Pháp, làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát
xác nhận cô này là tình nhân của Nguyễn Ái Quốc .
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc quen biết
một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn.
Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Brodin.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc mang theo
từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta
tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến
của các đồng chí đến từ Sài Gòn và Đông Kinh.
4 –
Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ VII Quốc tế cộng sản.
Thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh đã qua đời, Nguyễn Thị Minh Khai
với tư cách là vợ của Nguyễn Ái Quốc , khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong
tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên P.C. Lin. Hội nghị kết
thúc, Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục
kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương.
5- Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh trở lại căn cứ địa cách mạng Việt
Bắc. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo về Việt Nam có một phụ nữ là Đỗ
Thị Lạc, mọi người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, Hồ Chí
Minh và Đỗ Thị Lạc sống chung với nhau một thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng,quê Hòa An, Cao Bằng
là Nông Thị Xuân được cử làm y tá bên cạnh Hồ Chí Minh . Hai người sống chung với
nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ
rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận
làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của Hồ Chí Minh viếng thăm Hà Nội,
ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông
là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về Trung Quốc báo
cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy
không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại cách mạng văn hóa” nên đề nghị của ông
Hồ tạm thời bị xếp lại.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere
Breiere và Bourdon
Breiere có phải là người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc hay
không, việc này xác minh không khó. Qua quá trình thẩm xét, các hồ sơ liên quan
đến Nguyễn Ái Quốcđều cho thấy, Breiere đúng là người tình đầu tiên của ông.
Mối quan hệ tình ái này, cả trong tác phẩm của William J. Duiker và
Nguyễn Thế Anh đều không được đề cập đến, bởi các nhà nghiên cứu quan niệm,
chuyện yêu đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả tạo, thậm chí còn bị tô vẽ
phóng đại với mục đích chính trị.
Người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là một phụ
nữ Pháp tên Breiere, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý đã bị lẫn lộn với mối tình của
nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai. Việc làm này rõ ràng có ý đồ tạo ra
một giả tượng đồng nhất Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư
Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định
người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là cô Bourdon, còn William J.
Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại ghi người tình đầu tiên của Nguyễn
Ái Quốc là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch
sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu
lịch sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người tình của Nguyễn Ái
Quốcthời kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ là một người. William J. Duiker dẫn
theo tài liệu thời kỳ đầu còn Nguyễn Thế Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết
thúc của mối tình này nên mới có sự bất đồng.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong “Con đường chính trị của Hồ
Chí Minh ” có ghi chép về mối tình đầu của HCM như sau : “ Năm 1923, HCM từng
bị thất tình với một cô gái người Pháp là Bourdon. Cô này đã trách móc Hồ vì việc
Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ mình. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm
1923, Hồ Chí Minh gửi cho Bourdon có thể biết được mối quan hệ tình
ái của họ trong thời gian ấy : “Nhận được thư của em làm anh vô cùng sung sướng.
Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm ảnh đẹp. Anh tạm gửi lại em hai tấm,
còn giữ lại ba tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em cho phép
anh in tráng hai bộ, một bộ gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm tình đồng chí
của chúng ta”. Sau đó hai người còn thư từ qua lại với nhau một thời gian nữa,
hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1923 gửi
cho Bourdon, Hồ Chí Minh viết : “ Vừa nhận được thư cô, xin cô hãy giữ
gìn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc thư, tôi rất
sửng sốt, không sao hiểu được ý tứ của những lời nói ấy. Nếu cô nghĩ rằng tôi
làm việc ấy, xin mời cô hãy đến quán ăn, ta sẽ làm rõ sự thật”. (Tác giả nhận định,
thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc làm việc tại một hiệu ảnh , còn cô
Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một lá thư do
Cục Bảo an Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm hồ sơ Pháp quốc hải ngoại
(SLOTFOM), hàng thứ 2, hòm số 4), William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”,
chương 2, trang 76, viết : “ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc quyết định gia
nhập Đảng Cộng sản Pháp, việc này đã tạo ra sự căng thẳng với nhóm
người cùng ngụ trong biệt thự Globin. Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến
và hành động của anh ta có mùi vị súng đạn. Thời kỳ Hội nghị Versailles, Nguyễn
Ái Quốc có kể với người đồng hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng
quan điểm với mình vì cô cho rằng anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách
trên, trang 593 (chú giải số 49), có ghi : “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của
Trung tâm viễn chinh quân bảo hộ, tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze
viết như sau : “Người bạn gái là Breiere, cảnh sát tin là nhân tình của Nguyễn
Ái Quốc”.
Mối tình đầu giữa Nguyễn Ái Quốc và Breiere là tình
yêu chân chính của những người tuổi trẻ. Nó thường bị lợi dụng gắn kết với mối
tình giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, cố ý gây lẫn lộn,
làm mối tình đầu thất bại này mang phong vị lãng mạn, tạo ra một
hình ảnh Hồ Chí Minh thánh nhân, đạo đức “ đất nước chưa độc lập thống
nhất , Hồ Chí Minh không thể xây dựng gia đình riêng”. Theo các đề mục
ở phần sau của tác phẩm “ Hồ Chí Minh vì sao không lấy vợ?” và “Tình
yêu vượt qua Hồng Hà, truyện tình Hồ Chí Minh”, hai thiên này rất không đúng sự
thực, chứng tỏ vòng hào quang chung quanh Hồ Chí Minh chỉ là thần
thoại giả tạo.
Nghi án ái tình giả tạo
HCM vì sao suốt đời không lấy vợ?, tờ “Nhân dân nhật báo” Trung
Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày 16 tháng 9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết :
“Năm 20 tuổi Hồ Chí Minh lên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp, bắt đầu
tìm thấy chân lý ở chủ nghĩa Marx – Lenin. Trên đường đi, ông làm quen với một
cô gái xinh đẹp người Việt, dáng mảnh mai, tính tình nhu thuận. Họ nhanh chóng
có tình cảm với nhau. Khi Hồ Chí Minh tham gia “Phong trào vận
động giải phóng dân tộc Việt Nam” thì người bạn gái yêu thương bị kẻ thù giết hại
một cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội trịnh trọng tuyên bố :” Một khiViệt Nam chưa
giải phóng, đất nước chưa thống nhất thì đời này, kiếp này tôi nhất định không
thành gia thất”. Từ Đại lục, “Phúc Kiến kiều báo” có đăng tải bài : “Tình yêu
vượt qua Hồng Hà, chuyện tình Hồ Chí Minh” với nội dung như sau : “Năm 20 tuổi, Hồ
Chí Minh rời quê hương Nghệ An ra đi trên một chiếc tàu thủy đến nước
Pháp tìm chân lý qua nghĩa Marx- Lenin để giải phóng dân tộc. Hai tháng lênh
đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp,
tính tình nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên cao thượng, phong cách tao nhã,
làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến thân cho lý tưởng quốc gia độc lập,
dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, Hồ
Chí Minh đi Liên Xô học tập. Một thời gian sau người yêu của ông
cũng được cử qua đường Liên Xô về nước truyền bá ngọn lửa cách mạng. Cặp tình
nhân níu áo, rơi lệ từ biệt nhau. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở
về Quảng Châu Trung Quốc vận động thành lập Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội và “Hội liện hiệp các dân tộc Á Đông bị áp bức”. Đúng
vào lúc Hồ Chí Minh toàn tâm toàn ý hoạt động cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt thì một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát hại
một cách thảm khốc. Hồ Chí Minh đau đớn tưởng như không thể sống được nữa. Một
ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội trịnh trọng tuyên bố : “ Việt Nam chưa giải phóng, đời này, kiếp
này, tôi quyết không thành gia thất”.
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu đổi
tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh đến trụ sở “Hội
Phụ nữ vận động diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy
ở chỗ rẽ cầu thang. khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt
nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn,
khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng : “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây
tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có
tình ý với Tăng Tuyết Minh nên Thái Sướng vui vẻ giới thiệu nhân thân
cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối
cho cuộc nhân duyên này.
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu,
nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà
buôn, đã từng kinh doanh ở Honolulu (nước Mỹ), cả nhà theo
đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến
năm 1917, Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang
tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, Tăng Tuyết
Minh vào học trường Nữ hộ sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được hiệu trưởng
Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân Quảng
Châu. Lúc ấy, Tăng Tuyết Minh vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng
Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng
sáng lập tổ chức “Phụ nữ vận động diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, Tăng
Tuyết Minh thường đến trụ sở Hội Phụ vận nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động,
kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.
Tăng Tuyết Minh có người anh thứ hai Tăng Cẩm Tương là bạn
cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên
đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy
khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết
nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng mười năm
1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng
kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ
trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến
chúc mừng.
Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp
khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ Tăng Tuyết
Minh là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo
chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy Tăng Tuyết Minh có
những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa
gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời
khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của
mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia
tay chưa đầy một năm.
Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày
12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện "Trung Sơn Hạm" triệt
để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên Cộng sản, tạo
thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước
tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc tế cộng sản, theo
đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để đi Mạc
Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.
Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ,
tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản, thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị
nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách
báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái Tăng
Tuyết Minh nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sự biện hộ để em rể thắng
kiện trước tòa. Tăng Tuyết Minhtheo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ
chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt
nước mắt ra về.
Năm 1958, Viện Vệ sinh y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với
phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo, trước đây Tăng
Tuyết Minh và Nguyễn Ái Quốc có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh
động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, Tăng Tuyết
Minh chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân
có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự,
hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên
chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền
gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của Hồ
Chia Minh thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết
Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện
này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị
Trung - Việt, sự việc mới lắng xuống.
Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn
còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một
thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh,
trải qua sóng gió Cách mạng văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm
1991 thì qua đời ở tuổi 86.
Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường
gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là
tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm
1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn
nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà
kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh
tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh
quý và bức thư ngày trước viết cho Hồ Chí Minh mà bà gửi tôi giữ hộ.
Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng bà cô Mười
lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa cố vấn M. Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật
kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại.
Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng
Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu văn sử thành phố Vũ
Hán, Ủy viên Chính hiệp thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng
kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô Tăng Tuyết Minh, cho
dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu
sống độc thân, và lãnh tụ Hồ Chí Minh , chiến sĩ đấu tranh không mệt
mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng
mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một
lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết
Minh
Viết về hôn nhân và tình ái của Hồ Chí Minh, có thể điểm đến
các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng
4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết),
Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu”, năm
2001, kỳ 1, William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả
hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc "Hồ
sơ Pháp quốc hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 –
1927).
Phần thứ nhất, chương 4, trang 143 “Long đích truyền nhân” ( Người
nối dòng rồng), nội dung như sau : “Mùa xuân, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc dừng
lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các
thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất
tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc dân đảng
cánh tả (là đảng viênĐảng Cộng sản Trung Quốc) Liêu Trọng Khải v.v…Đến lúc ấy,
chẳng những Nguyễn Ái Quốc đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà
còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia
đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu
với Nguyễn Ái Quốc một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai
người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng
nghiệp vẫn không tán thành. Nguyễn Ái Quốc bất chấp mọi phản đối, quyết
định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự
của M. Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 “ Xích sắc Nghệ Tĩnh” ( Màu
đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết” Tình yêu giữa Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn
Ái Quốckhông phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn
lễ cử hành chính thức. Từ tháng 4 năm 1927, tuy Nguyễn Ái Quốc đã rời Trung
Quốc, vẫn còn chưa chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là , vào năm 1930, Tăng
Tuyết Minh ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ
giữa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của Nguyễn Ái Quốc là
Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo an : “ Tăng
Tuyết Minh chê Nguyễn Ái Quốcnhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết
hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi Nguyễn Ái Quốc rời
Quảng Châu có gửi cho Tăng Tuyết Minh một bức thư : "Hai ta
phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm
chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng,
xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ
hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh chấm dứt,
vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi
người đồng hương là Nguyễn Thị Minh Khai, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông
tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học
lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan
hệ Trung Việt và Hồ Chí Minh . Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng,
ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12,
tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người
vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh
Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, năm 1925 bắt đầu có
quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ
Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc
Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình
nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức
tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản VN bưng
bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J.
Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết,
một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo an Pháp
như sau : “Tăng Tuyết Minh chêNguyễn Ái Quốc nhiều tuổi, không phù hợp
với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất
không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh
tử luyến) và tấm lòng trung trinh của Tăng Tuyết Minhvới Nguyễn Ái Quốc,
bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với
William J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại nguyệt san “Vũ
Hán văn sử tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời
khẳng định tình cảm của bà cô Tăng Tuyết Minh đối với Nguyễn Ái
Quốc trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng
đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn
Ái Quốc vàTăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng
luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết : " Ngày
19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn hối báo” thấy in ảnh
chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và chủ tịch Mao Trạch Đông kèm
theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy
bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về
trong giấc ngủ hàng đêm chính là chủ tịchHồ Chí Minh . Tuy nhiên mọi cố gắng
của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minhđều không có kết quả.
Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết : “Tháng 5
năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân dân nhật báo” mới biết người chồng
xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh , chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại
Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, Tăng
Tuyết Minh lại đề nghị với nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho sang
Hà Nội gặp Hồ Chí Minh nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự
tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc của
năm 1926 vàHồ Chí Minh của năm 1950 là cùng một người. Trung Cộng và Việt
Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của Hồ Chí Minh nên không dám dể Tăng
Tuyết Minh gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng
Dĩnh Siêu biết rõ Hồ Chí Minhnăm 1950 không phải là Nguyễn Ái Quốc (Lý
Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ Tăng Tuyết Minh đau
khổ mà không làm gì được.
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép
Trong “ Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng
Tuyết Minh” có đoạn: “ Năm 1958, Viện Vệ sinh y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh
phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo
trước đây Tăng Tuyết Minh vàHồ Chí Minh có quan hệ hôn nhân mờ
ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, Tăng
Tuyết Minh chỉ nói: người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn
nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của
đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản
gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng
liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh củaHồ
Chí Minh thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết
Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện
này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội
vụ mới được dẹp yên”.
liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn
còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?
Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn
viết : “ Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu
cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần
sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ
là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì
sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội,
bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào
Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh.
Khi ấy Tổng lý Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô
cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị để
biểu quyết về sự kiện đặc biệt này”.
Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người
vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại
phóng”, sự kiện hôn nhân của Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Ái Quốc bị
hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính Nguyễn Ái Quốc bị biến thành Hồ
Chí Minh theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia’ hay “hồn Trương Ba da hàng
thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm
của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc Hồ Chí Minh nhờ Đảng
Cộng sản Trung Quốc nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng
Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác
nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không
giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có
Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, M. Borodin, Trung Cộng và Quốc tế cộng sản chứng
kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào
Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên BCT Cộng đảng Việt
Nam biết rõ.
Có thể khẳng định, bất cứ ai , nếu không biết rõ, sẽ không dám tự
tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư
cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình
bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.
Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già – Tấm ảnh chân dung
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần
cuối kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết
Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp
năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc treo
trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh Nguyễn Ái
Quốc chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo
sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung Nguyễn
Ái Quốc và tấm chân dung Tăng Tuyết Minh để trong hộp gương gần
như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh : “Hồ Chí Minh
nói với bạn bè lànsuốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn
cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, Hồ Chí Minh bảo mình
chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi
nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối
William J. Duiker luôn cho rằng Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh chỉ
là một người nên mới có chuyện nghi ngờ Hồ Chí Minh suốt đời chưa từng
thắt cravate. Khẳng định Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không
phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của
ông ta?
Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ
sơ, bất kể là Hồ Chí Minh chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước
đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung
Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp…đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục
thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenin
hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình
thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây chính là kiểu sinh hoạt rất đặc
biệt của Hồ Chí Minh .
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất
hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc Nguyễn Ái Quốc 17 tuổi, rời nhà
vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động
cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung
Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, Nguyễn Ái
Quốc vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn
lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp
và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết : "Con gái
Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn - Judge, Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực
kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài
hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn
lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh
chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.
Khói lửa chiến tranh chứng kiến
tình yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai
Tự
khúc bi ca ái tình
Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai vào năm 1930 -1931 trước sau cộng lại không đầy một năm, vì
hai người từ biệt nhau đến Hương Cảng thì bị cảnh sát bắt giam, kết thúc giai
đoạn hôn nhân ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân tuy không dài nhưng lịch sử đã ghi lại rất
rõ ràng, trong khói lửa chiến tranh, tình cảm của đôi lứa thật chân thành. Năm
1932, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời là sự thực, còn Nguyễn Thị
Minh Khai, đến năm 1935 cải giá, kết hôn với Lê HồngPhong cùng là sự thật.
Sự việc này vốn dĩ rất bình thường nếu như không có bàn tayQuốc tế cộng sản thao
túng, bí mật đạo diễn màn kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, cùng giới chóp bu
Trung cộng và Việt cộng, tạo ra chung quanh Hồ Chí Minh vòng
hào quang, biến ông thành một vị thánh, phỉ báng mối tình đẹp đẽ của Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.
Hồ sơ hôn nhân của
Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duiker viết về quan hệ hôn nhân,
tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh” viết : “ Hồ sơ về
tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai gồm
ba phần. Tư liệu của ba phần này đều dẫn từ “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ”
thuộc “Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại”, hòm số 367 và “ Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến
Việt Nam” của Daniel Hách Mai Lý (7) do NXB Galimard, Paris
ấn hành, năm 1990.
Phần thứ nhất
Tại chương 6 “Màu đỏ Nghệ Tĩnh”, trang 85 viết : “ Tháng 10 năm
1930, tại nhà trọ “Nhất Đống”, phố Khai Di, Cửu Long, Hương Cảng, khai mạc Hội
nghị Trung ương , Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Quốc tế cộng sản được
cử làm Chủ tịch ĐCSVN. Cùng dự còn có một nữ đảng viên trẻ tuổi, mắt sáng, da
ngăm ngăm, được ủy nhiệm làm trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn
Thị Minh Khai”
Phần thứ hai
Cũng tại chương 6, trang 198-199, tác giả viết : “ Nguyễn
Ái Quốc tại Hương Cảng chờ tin tức. Từ khi Nguyễn Thị Minh Khai làm
trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc, hai người đã nảy sinh tình cảm. Minh Khai tuổi
trẻ, ngoại hình hấp dẫn đã làm Nguyễn Ái Quốc mê đắm. Tình yêu của Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai đến khá nhanh chóng. Vào mùa
xuân năm 1932, hai người đã báo cáo với Cục Viễn Đông đề nghị được kết hôn. Đại
biểu Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens đã gửi thư
thông báo choNguyễn Ái Quốc vào tháng tư. Tuy nhiên, không lâu sau, Nguyễn
Thị Minh Khai, vì bị tình nghi có liên can đến hoạt động phiến loạn, bị cảnh
sát Hương Cảng bắt chuyển về Quảng Châu tống giam vào nhà tù Quốc dân đảng.
Phần thứ ba
Tại chương 7 “ Đứng trước những biến động”, trang 224- 225, viết
: “25 thángbảy năm 1935, khai mạc Hội nghị Quốc tế cộng sản lần
thứ VII tại Mạc Tư Khoa,Đảng Cộng sản Đông Dương cử ba đại biểu
là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn (Nông)
tham gia hội nghị. Ban tổ chức yêu cầu cả ba đại biểu đều đọc tham luận. Nguyễn
Ái Quốc lúc ấy là Bí thư Cục Viễn Đông, đến Hội nghị với tư cách quan sát
viên, không được phép phát biểu, như một diễn viên phụ, đóng vai trò bàng quan.
Trước
khi Hội nghi khai mạc mấy tháng, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương có
gửi cho Bí thư thứ nhất Đông Phương cục một bức thư, kèm theo bản báo cáo mật,
nội dung đề cập đến “Nguyễn Ái Quốc phu nhân”, một đại biểu tham gia Hội nghị.
Lời văn ám chỉ Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, năm 1932,
tại Hương Cảng, trước khi bị cảnh sát bắt đã từng là vợ chồng. Có lẽ như tác giả Liên
XôKobenov trong cuốn “Quoc’s wife” (Vợ của Quốc), từng suy đoán, trên đường
sang Mạc Tư khoa, Nguyễn Thị Minh Khai ái mộ phong độ anh tuấn của Lê
Hồng Phong rồi nảy sinh tình yêu chăng? Có khả năng, vào mùa xuân năm
1931, sau khi chia tay vớiNguyễn Ái Quốc rồi bị bắt, đến lúc ấy đã qua 4
năm, tình cảm hai người không còn đằm thắm như trước. Cho dù sự thực thế nào,
thì sau khi Hội nghị VII bế mạc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai đã kết hôn tại Mạc Tư Khoa.
Thời gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai sống
với nhau, có thể nói, nhân thân của Nguyễn Ái Quốc tồn tại nhiều vấn
đề khó lý giải. Trở lại một số năm trước, ông chưa từng nói với các đồng chí về
mối quan hệ này. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Hà Nội lại ra sức phủ nhận hai người
đã từng có quan hệ vợ chồng. Cũng không loại trừ trường hợp, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai chưa kịp cử hành hôn lễ chính thức mà chỉ có sự chứng kiến của
một số ít đồng sự làm cơ sở pháp lý. Nguyễn Ái Quốc cùng một lúc mất
cả vợ lẫn quyền lãnh đạo, phải chăng, như một nhà quan sát từng nói “hai lần
tủi nhục”.
2/ Sophie Quinn - Judge viết về quan hệ hôn nhân, tình ái của
Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
Trong tác phẩm “Những năm tháng mất tích của Hồ Chí
Minh 1919 - 1941”, tài liệu mà Sophie Quinn - Judge dùng để thuật lại quan
hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai gồm
hai phần. Phần một, dẫn từ hồ sơ số 367 của “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ”
thuộc “Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại”, ngày 12 tháng hai năm 1931 do
Victor viết gửi về. Phần hai, dẫn từ “Lịch sử hiện đại Liên Xô” của “Trung tâm
nghiên cứu và lưu trữ” 495/154/688, trang 14, từ các ngày 14,15,17 tháng 12 năm
1934 và ngày 31 tháng 3 năm 1935 của Cục Hải ngoại gửi về Mạc Tư Khoa.
Phần một, chương 5 “Cao trào cách mạng”, trang 182, viết :“ Mùa
đông năm 1930, Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Cục Viễn Đông kế hoạch kết
hôn. Ngày 12 tháng 1, Cục Viễn Đông gửi văn bản trả lời, nội dung là Nguyễn
Ái Quốc phải thông báo thời gian chính xác trước hai tháng. Vì thư hồi đáp
không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện
hôn sự của Hồ Chí Minh . Sang tháng hai, Hồ Chí Minh bàn với Nguyễn
Thị Minh Khai, đầu năm mới, chuẩn bị đón khách từ Sài Gòn và Đông
Kinh đến thăm.
Phần hai, chương 6, có tiêu đề “ Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc
Tư Khoa?” (trang 202- 203), viết: “Ngày 8 tháng mười hai năm 1930, ba
đại biểu củaĐảng Cộng sản Đông Dương đến Mạc Tư Khoa. Những người
này phân biệt rõ rệt với các thành viên của Cục Hải ngoại, là Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Hà
Huy Tập gửi thư choQuốc tế cộng sản , nói Nguyễn Thị Minh Khai là
vợ Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thị Minh Khai sau khi đến Mạc Tư Khoa,
điền vào tờ khai cá nhân, ở mục hôn nhân là đã có chồng tên là P.C.Lin, chính
là một trong những bí danh của Hồ Chí Minh. Về điểm này có thể nói, thời
gian quan hệ vợ chồng đằm thắm của hai người chỉ như hạt sương mai trên ngọn cỏ.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh chưa bao giờ được những người cộng sản chính thức
công nhận đã từng có vợ. Nguyễn Thị Minh Khai ở Mạc Tư Khoa thường
dùng bí danh Phan Lan.
3/ Tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, ngày kỷ niệm
Quốc tế phụ nữ năm 2005, nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh ấn hành có liên quan đến chuyện tình ái và hôn nhân, viết như sau:
- Vào một tháng của năm 1930, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tham
gia giảng dạy tại khóa Huấn luyện chính trị. Hôm ấy là một ngày mưa bão, khắp
các đường phố, cây cổ thụ bị bão đánh bật tung gốc. Nguyễn Thị Minh Khai trong
nhóm học viên nhòm qua ra sổ, nói : “Hôm nay có khả năng đồng chí Lý Thụy không
đến được”. Nhưng chỉ một lúc sau đã thấy đồng chí bước vào, tay cầm ô, áo quần
ướt sũng nước. Đồng chí ấy đã lên lớp đứng giờ. Minh Khai nhìn thân thể gầy yếu
của Lý Thụy, trong lòng vô cùng lo lắng.
- Ngày 29 tháng 4 năm 1932, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt,
ba năm liền giam trong ngục, không nhận được bất cứ tin tức nào. Minh Khai nhớ
lại những ngày sau khi bị bắt ở Hương Cảng, từ nhà giam, chị định gửi
cho các đồng chí mảnh giấy nhắn tin, nhưng rồi lại nghĩ, liệu có được chuyển đến
tay người nhận hay không? Chắc là không thể được nên đã thu lại mảnh giấy mà chỉ
gửi lời nhắn. Cách đấy không lâu, ngày 6 tháng sáu năm 1932, đồng chí Nguyễn
Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Cửu Long. Cô nghĩ đến người lãnh đạo chủ
chốt của cách mạng Việt Nam phải đối diện với hiểm nguy, lòng
đau như cắt.
- Nguyễn Thị Minh Khai và các đồng chí trong đoàn đại
biểu tham gia Hội nghịVII Quốc tế cộng sản , từ đoàn trưởng Lê Hồng Phong đến Hoàng
Văn Nọn, đều không ai có đủ quần áo ấm. Minh Khai tranh thủ thời gian, cố gắng
đan cho Hoàng Văn Nọn chiếc áo len cộc tay và Lê Hồng Phong chiếc
khăn quàng cổ. Hoàng Văn Nọntham gia rất nhiệt tình vào lễ thành hôn giản
dị nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng chí của Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai. Sau này, trong hồi ký của mình,Hoàng Văn Nọn kể về hôn lễ của
Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai : “ Lúc trở về nhà,
nhìn thấy mâm cơm chiều có nhiều món ăn hơn so với ngày thường, tôi hỏi : “ Hôm
nay Minh Khai làm cô dâu nên chiêu đãi anh em phải không?”.Minh Khai đỏ mặt không
nói gì, chỉ lắc đầu cười. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, Hà Huy Tập đứng lên trịnh
trọng tuyên bố: " Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng
tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.
Sự thật về quan hệ hôn nhân
giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duker viết : “ Năm 1931, Nguyễn Ái
Quốc và Nguyễn Thị Minh Khaibắt đầu yêu nhau, sau đó đề nghị Cục Viễn
Đông cho phép kết hôn.
2/ Sophie Quinn - Judge viết : “Mùa đông năm 1930, Nguyễn
Ái Quốc báo cáo Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Cục Viễn Đông có thư trả lời
nhưng vì thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có
thể suy đoán là chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh. Trong vòng hai tháng, Hồ
Chí Minh bàn với vị hôn thê, sau năm mới sẽ đón khách từ Sài
Gòn và Đông Kinh đến thăm.
3/ Nhà văn Nguyệt Tú, trong “Chị Minh Khai” viết: “Hoàng
Văn Nọn kể lại: “Tham dự lễ cưới đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng
chí của Lê Hồng Phong vàNguyễn Thị Minh Khai, anh Hà Huy Tập trịnh trọng
tuyên bố: “Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu
chú rể sống đến đầu bạc răng long”.
Tổng hợp các ghi chép trên, có thể thấy, báo cáo của Nguyễn
Ái Quốc về việc kết hôn với Nguyễn Thị Minh Khai vào mùa đông
năm 1930 với Cục Viễn Đông và hôn lễ được cử hành tại Hương Cảng vào mùa xuân
năm 1931 là có thực. Nguyệt Tú dẫn lại hồi ức của Hoàng Văn Nọn đã bất
ngờ làm rõ việc Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình ẩn giấu sự thực hôn nhân giữa Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai. Bản ý của Hoàng Văn Nọn cho
rằng, năm 1931, hôn lễ của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh
Khai là sự thực, còn việc Lê Hồng Phong kết hôn với Nguyễn
Thị Minh Khai tại Mạc Tư Khoa chỉ là lễ cưới giả. Những người chủ trương ẩn
giấu sự kiện hôn nhânNguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai không
ngờ đến mấy dòng ghi chú phần cuối: “Vương huynh” chỉ Lê Hồng Phong, “Duy
tỉ” chỉ Nguyễn Thị Minh Khai đã vô tình làm lộ tẩy chân tướng. Khảo cứu
kỹ lưỡng nhiều lần các từ “Vương huynh” và “Duy tỉ” có thể thấy, “Vương huynh”
chỉ “lão Vương” hoặc “đồng chí Vương”, “Duy Tỉ” là “Chị Duy” hoặc “A Duy”, bí
danh của Nguyễn Thị Minh Khai. Danh xưng “Vương huynh “ và “Duy Tỉ” được
dùng vào những năm 1924 đến 1931 lúc Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị
Minh Khai công tác tại Quảng Châu, Hương Cảng. Trong khi ấy, Lê Hồng Phongdùng
biệt danh Litvinov, Tuệ An, Gia Chính, Hạ Dương v.v… nhưng chưa bao giờ dùng
“Vương huynh” làm bí danh ( gần đây, khi bí mật trên bại lộ, những người viết
tiểu sử Lê Hồng Phong đã thêm cho ông bí danh “Vương…” để phản bác những
ý kiến đối lập, nhằm hợp lý hóa thân phận Hồ Chí Minh và Lê Hồng Phong.
Xin tham khảo mục “Lê Hồng Phong” trên từ điển mở Wikipedia). Điều này làm
cho người ta không khỏi nghi ngờ. Hà Huy Tập vào năm 1935, không có
khả năng xuất hiện tại Mạc Tư Khoa trong hôn lễ Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai. Tháng 6 năm 1934, Hà Huy Tập giữ chức Tổng Bí
thư, sau khi chủ trì Hội nghị Áo Môn, đến năm 1938 bị bắt, năm 1942 bị xử tử và
chưa bao giờ đến Mạc Tư Khoa, làm sao có thể chủ trì hôn lễ của Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai? Điều này chứng tỏ, Cộng đảng cao cấp Việt Nam cố tình
che giấu sự thật hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh
Khai.
Hôn ước của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duiker viết : “Ngày 25 tháng 5 năm 1935, khai mạc
Hội nghị lần thứVII Quốc tế cộng sản tại Mạc Tư Khoa, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai vàHoàng Văn Nọn là đại biểu chính thức của Đảng Cộng
sản Đông Dương . Hội nghị kết thúc, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai ở lại Mạc Tư Khoa, không lâu sau, hai người đến Phòng đăng
ký giá thú làm thủ tục kết hôn.
2/ Nhà văn Nguyệt Tú viết :
- Sau khi Hội nghị VII Quốc tế cộng sản kết
thúc, Lê Hồng Phong từ biệtNguyễn Thị Minh Khai trở về Việt Nam công
tác tại Xứ ủy Nam Kỳ, lấy bí danh là Lý, với tư cách đại biểu Trung ương. Lê Hồng Phong và
đồng chí Quang ở cùng một nơi. Hai người phụ trách phong trào vận động công
nhân, cùng ở trong một gian phòng bình dân khu chợ Sắt Tây, ít lâu sau lại chuyển
đến Ngã Sáu. Đồng chí Quang rất thông cảm với Minh Khai, ngẫu nhiên được gặp chồng
mà chỉ bàn bạc công việc, rất khó để cùng ăn với nhau một bữa cơm. Phòng của Lê
Hồng Phong chỉ đủ kê chiếc giường bạt, ban ngày gấp lại, tối đến mới
mở ra để ngủ.
- Tết
Nguyên đán năm 1940, Minh Khai ở chợ Tân Thành, gần đường McMahon( tác giả
dự đoán đây là tỉnh Tân Tri, thuộc Nam Kỳ) trong nhà hộ sinh Hồng Phúc nổi tiếng.
Tại đây Nguyễn Thị Minh Khai sinh hạ bé gái. Đứa bé ra đời được 5
ngày thìNguyễn Thị Minh Khai đặt tên cho con là Nguyễn Thị Hồng Minh,
chính là tên của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai ghép
lại. Ngày 30 tháng bảy năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị cảnh
sát Pháp bắt giam tại nhà tù Phú Mỹ. Nguyễn Thị Minh Khai bao giờ
cũng mặc bộ đồ trắng đến phòng hỏi cung. Ngày 28 tháng tám năm 1941, Nguyễn
Thị Minh Khai bị dẫn ra pháp trường Phúc Môn Bình Lăng Cương xử tử. Lê HồngPhong nhận
được tin vợ thọ nạn, một năm sau, vào một ngày tháng chín năm 1942, bị
tra tấn dã man cũng chết ở nhà tù Côn Đảo.
Theo ghi chép ở trên, quan hệ hôn nhân của Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai là chính xác. Năm 1935, sau Hội nghị VII Quốc tế cộng
sản , hai người đã đăng ký kết hôn, tết năm 1940, Minh Khai sinh con gái Hồng
Minh, năm 1941 bị thực dân Pháp xử bắn. Lê Hồng Phong chết ở nhà tù
Côn Đảo năm 1942.
Lê
Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai
Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc
Năm 1934, bí danh P.C.Lin (hoặc P.C.Lâm) của Hồ Chí Minh chắc
chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Tại chương 2 “Màn kịch tráo rồng đổi
phượng”, ở mục 3 “Ve sầu thoát xác, thật giả nhân sinh”, tôi đã dẫn những
chứng cứ về việc Nguyễn Ái Quốcbị lao phổi đã chết vào mùa thu năm 1932,
còn Hồ Chí Minh, từ Hạ Môn qua Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là một người
khác. Nói rõ hơn, khoảng thời gian từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933, người đến Mạc
Tư Khoa mang bí danh Linov hoặc P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, không phải Nguyễn
Ái Quốc. Quốc tế cộng sản đã cử người thay thế Nguyễn Ái
Quốc dùng bí danh thay cho thân phận ông ta. Trong khi ấy, Ban
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình đề cao mối tình Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai, giấu kín và ra sức phủ nhận quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái
Quốc vàNguyễn Thị Minh Khai, dẫn đến hệ quả là, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai và bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh , ba người
nhưng lại có bốn thân phận trong quan hệ hôn nhân, làm cho tình hình trở nên vô
cùng phức tạp. Điều này khiến cho các tác giả viết truyện ký về Hồ Chí
Minh, mỗi người đều tự tìm ra những nhầm lẫn trong sử liệu để giải thích về các
mối quan hệ hôn nhân đầy nghi vấn của họ.
1/ Năm 1934, sau khi đến Mạc Tư Khoa, Nguyễn Thị
Minh Khai phải điền vào tờ khai nhân thân là đã có chồng tên P.C.Lin. Nếu Nguyễn
Thị Minh Khai biết bí danh của Nguyễn Ái Quốc là P.C.Lin thì làm
sao lại có thể công khai kết hôn với Lê Hồng Phong để làm mất mặt Nguyễn
Ái Quốc? Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng mang bí danh
P.C.Lin, vậy vì sao, năm 1935, khi cùng đến Mạc Tư Khoa dự Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản , Nguyễn Thị Minh Khai lại coi Nguyễn Ái Quốc gần
như người xa lạ? Việc này nhất định không hợp tình hợp lý. Chỉ có một cách giải
thích là Quốc tế cộng sản đã chơi trò bỡn cợt “dời hoa tiếp cây” (di
hoa tiếp mộc), giấu nhẹm mối tình cao đẹp, trong sáng của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai mà đề cao cuộc hôn nhân giữa Lê Hồng Phong với Nguyễn
Thị Minh Khai.
2/ Nguyễn Ái Quốc với chức danh Bí thư Cục Viễn Đông,
tham dự Hội nghị 7Quốc Tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được
quyền phát biểu, chỉ lẳng lặng ngồi một bên nhìn thế sự. Rõ ràng là, trong thời
gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai có quan hệ
thân mật, người ta đã dự liệu sẵn một kế hoạch nào đó.Nguyễn Ái Quốc cùng
một lúc bị tước quyền lãnh đạo Đảng và mất vợ. Chuyện đúng sai khoan hãy bàn,
nhưng khi nghe một nhà phân tích nhận định ông “ bị hai lần tủi nhục”
thì bản thân người đọc cũng thấy bất bình.
Lời bàn:
Nguyễn Ái Quốc , bí danh P.C.Lin, đến Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được phát biểu, từ đầu đến cuối
chỉ lẳng lặng ngồi nghe các đồng chí của mình đăng đàn, trái ngược hẳn với Hội
nghị lần thứ V. Khi ấy,Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Quốc tế cộng
sản, vận động các nguyên thủ quốc gia, một mình thượng đài, ra sức tranh thủ diễn
đàn phát biểu chính kiến, thật là có sự khác nhau giữa hai người. Như trên đã
nói, hiện tượng rất không bình thường trên chỉ có thể giải thích hợp lý nhất
là, người tham dự Hội nghị VII QTCS năm 1935 không phải Nguyễn
Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương mang bí danh P.C.Lin.
3/ Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh P.C.Lin trong thời gian
làm việc tại Viện nghiên cứu “Các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Thời gian ấy, Nguyễn
Thị Minh Khai và năm học viên đang học trong trường Đại học Phương Đông.
Trong những ngày diễn ra Hội nghị VII Quốc tế cộng sản , Nguyễn
Ái Quốc đã tận tình giúp đỡ sửa chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị
(bằng tiếng Nga), góp phần làm cho Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương hoàn
thành nhiệm vụ một cách xuất sắc khiến Lê Hồng Phongvà Nguyễn Thị
Minh Khai thật sự cảm động.
Sau khi tổ chức hôn lễ, công việc của Lê Hồng Phong vô
cùng bận rộn, một trong số đó là lập kế hoạch trù bị cho Đại hội Thanh niên cộng
sản quốc tế làn thứ VI, đồng thời đề cử Nguyễn Thị Minh Khai tham
gia với tư cách đại biểu của phụ nữ củaĐảng Cộng sản Đông Dương. Nguyễn Ái
Quốc được mời làm đại biểu dự thính. Ngày bế mạc, Đại hội tuyên
bố, Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức trở thành một chi bộ của Quốc
tế cộng sản. Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Quốc
tế cộng sản . Trong buổi liên hoan giữa Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp
và Đoàn đại biêu Đảng Cộng sản Đông Dương , Nguyễn Thị Minh Khai và
Lê Hồng Phong cùng song ca một bài do Lê Hồng Phong viết nhạc, Nguyễn
Thị Minh Khai đặt lời. ( Nguyệt Tú - “Chị Minh Khai”, trang 76,
82,83, 89 và 90).
Lời bàn:
Cuốn sách “Chị Minh Khai” của Nguyệt Tú luôn luôn ẩn giấu mối
quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, đồng
thời tô vẽ mối tình giữa Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai.
Tuy nhiên sự thực lịch sử không giống như lời kể trên. Chuyện rắc rối ở đây là,
từ Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong (P.C.Lin) đếnNguyễn Thị Minh
Khai, ba người lại có đến bốn thân phận công khai hoạt động.Nguyễn Thị Minh
Khai và Lê Hồng Phong biểu hiện mối tình nồng thắm, với Nguyễn
Ái Quốc (P.C.Lin), hai người kính trọng như khách, xem ra rất hợp lý. Rốt
cuộc, P.C.Lin này chính là Hồ Tập Chương cùng Nguyễn Thị Minh Khai đến
Mạc Tư Khoa xem như mới quen biết nhau nên tỏ thái độ kính trọng là hợp lẽ. Với Nguyễn
Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh Khai ngoài tình đồng chí còn là tình nghĩa vợ
chồng cao đẹp, một người cộng sản như Nguyễn Thị Minh Khai không thể
cầm tay Lê Hồng Phong cùng vui vẻ song ca ngay trước mặt
ông chồng đáng kính, bởi hành vi ấy chính là làm nhụcNguyễn Ái Quốc…
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư
Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ
vào ghi chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí
Minh và Lâm Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Cộng đảng
Trung Quốc” năm 2004, đăng trên nguyệt san “Nhân dân văn trích”, kỳ 12, dài khoảng
ba ngàn ba trăm chữ, là bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện
tình ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng
đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Nội
dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng
người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách
khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với
Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ý đồ
tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc , đồng nhất
hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế,
Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ
Chí Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(….. ), trang 554- 555, có những
chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đã công bố. Từ đó có thể khẳng định,
mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan là có thực.
Mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Từ những năm ba mươi của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ
Chí Minhcông tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đã bố trí một thiếu nữ
là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta.
Không lâu sau, hai người có tình ý với nhau, nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy
sóng gió, nên cuối cùng mói quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. Lâm Y
Lan hoài niệm về mối tình xưa, nhớ thương Hồ Chí Minh, lâu ngày không biết
còn sống hay đã chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. Hồ Chí
Minh biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thể. Lúc hấp hối ông
có nhắc đến tên Lâm Y Lan.
Lời đầu
Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết rơi không ngừng. Hồ Chí Minh ở
một ga xe bên sườn núi ngoại thành, dầm mình trong cái lạnh khốc liệt của tiết
trời băng giá, nước mặt lã chã rơi thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người
bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh Linh vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải
là sự thật, mắt trừng trừng nhìn vào dòng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ
một. Không sai, thư viết rất rõ ràng, Nguyễn Thanh Linh đã bị ngộ hại tại Việt
Nam.
Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị sát hại
Hồ Chí Minh và Nguyễn Thanh Linh bắt đầu quen
nhau vào mùa xuân năm 1930. Năm ấy Hồ Chí Minh đang bôn ba hải ngoại
tìm chân lý cách mạng, trên đường về Việt Nam ngẫu nhiên gặp Nguyễn
Thanh Linh . Nguyễn Thanh Linh chẳng để ý đến việc gia đình phản đối, kiên quyết
hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá ngọn lửa cách mạng,
trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của Hồ Chí Minh. Tại Việt
Nam, Nguyễn Thanh Linh vận động giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân ,
đế quốc áp bức bóc lột, trở thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ Hồ
Chí Minh sang Liên Xô học tập kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội
khai báo, Nguyễn Thanh Linh chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những
dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu.
Cuối năm ấy, trong cuộc họp Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của
lưu học sinhViệt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố trước mọi người: "Đồng
chí Thanh Linh đã hy sinh anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng
ta. Dòng máu đỏ của đồng chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải
phóng dân tộc. Tôi tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt Nam chưa
được giải phóng thì đời này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đình”. Hồ Chí
Minh không thể ngờ, câu nói trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau
này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng lên tâm lý, không thể chống đỡ làm ông
đau khổ cho đến lúc qua đời.
Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu
Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc dân đảng bao
vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các địa
phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng
không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước
đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì
khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương
thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy
Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ
Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta. Khi ấy Hồ Chí Minh trở về
nhà trọ thu xếp hành lý tìm đến nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô
gái đứng trước mình có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của
mình đã bị địch xử tử năm nào. Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối
phương mà chỉ hỏi: “Ông là HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là
Lâm Y Lan”. HCM biết mình nhận lầm người, vội nói : " Xin lỗi cô
Lâm, tôi lầm”.
Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh
Sau đó, Hồ Chí Minh từ từ kể lại mối tình mười năm với
Nguyễn Thanh Linh gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. Lâm Y Lan
nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như mình lâm vào cảnh ngộ ấy, trong lòng vô cùng
cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với Hồ Chí Minh hiện
tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụQuốc dân đảng có mặt khắp nơi, không có
việc gì chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại Lâm Y Lan phải bảo vệ Hồ
Chí Minh an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo : “ Các bạn nên nhớ,
đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu
quân” mà không quản lý đấy nhé”, làm Lâm Y Lan, vốn là một tiểu thư chưa chồng,
hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, Lâm Y Lan chăm sóc Hồ Chí Minh trong
sinh hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho Hồ Chí Minh đặc
biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi
nên trong lòng vẫn trù trừ. Lâm Y Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình
những lời chân thành, thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không
tiện nói ra. Lúc chia tay, Hồ Chí Minh ôm lấy Lâm Y Lan, dùng khăn
tay lau nước mắt cho cô : “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm
yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan: “Tâm sự của tôi đều ở trong
này, sẽ cùng đi với em”.
Trong hoạn nạn thấy sự chân thành
Ba ngày sau khi Hồ Chí Minh được cứu thoát, Lâm Y Lan
nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi muội
đến đón?”. HCM nói: “ Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi Hồ
Chí Minh đưa cho Lâm Y Lan một nhành hoa lan: “Xin tặng muội, chúc mọi sự
vui vẻ”. Thấy Lâm Y Lan có vẻ bối rối, Hồ Chí Minh lại nói: “ Muội đã
đọc nhật ký chưa? Lòng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. Lâm Y
Lan nhận hoa, không nén được tình cảm, ngã vào lòng Hồ Chí Minh.
Những năm năm mươi của thế kỷ XX, Trung Quốc đại lục
đã được giải phóng, lúc này Lâm Y Lan là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng
Đông . Hồ Chí Minh trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng chưa
hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư thứ
nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy Lâm Y Lan vẫn sống cô đơn đã đứng ra làm mối
vài đám nhưng lần nào cũng bị cô khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu
tâm trạng Lâm Y Lan, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy
không bọc được lửa, hơn nữa, việc này cũng chẳng có gì là bí mật. Nói thật đi,
người ấy là ai?” Lâm Y Lan thong thả bảo: "Hồ Chí Minh”. Đào Chú nghe
xong thất kinh, mãi một lúc sau mới hỏi lại: “ Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt
Nam Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải không?”. Lâm Y Lan gật đầu :“ Hồ
Chí Minh nói là tôi hãy đợi ông ấy”. Nghe xong, Đào Chú tự trách mình :”
Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho cô, nào ngờ dẫn đến chuyện
hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”
Không di lưỡng địa tương tư
Lâm Y Lan vẻ mặt rạng rỡ hạnh phúc, cười khẽ: “Việc này không thể
trách đồng chí. Tôi và Hồ Chí Minh hai người đã dốc lòng cùng nhau, hồng
nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, tình cảm của hai người đã
là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng tình nhược thị trường cửu thời,
hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng tình yêu qua thời gian đã được
thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đã rõ chuyện, chỉ đợi xem tình huống
phía Việt Nam. Mối nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám
chắc. Ông hiểu rõ mình gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây
nên bi kịch di hận ngàn thu.
Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp
cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí
thư Tỉnh ủy Quảng ĐôngĐào Chú, Lâm Y Lan và những ủy viên Thường vụ khác về
Bắc Kinh. Lâm Y Lan nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. Hồ Chí Minh kết
thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông
nhìn thấy Lâm Y Lan vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời.
Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc
phi cơ khởi trình, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại Hồ Chí
Minh , nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật
ký, xin gửi lại anh”.
Ủy thác Đào Chú làm mối
Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông
già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là Hồ Chí Minh và Đào
Chú (xem ảnh phía dưới). Lúc ấy Hồ Chí Minh thần sắc có vẻ khác thường,
trịnh trọng nói với Đào Chú: “ Trung Quốc có câu ‘ Lúc trẻ là vợ chồng,
về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp
cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón
Lâm Y Lan sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”.
Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của Hồ
Chí Minh đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị
lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.
Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ
Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng,
chính là chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng
nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.
Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy
viên Bộ Chính trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng
không nói. Cuối cùng Hồ Chí Minh đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ
rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định
việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”.
Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói: “Thưa
Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hãy
hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng nói 'Việt
Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình'. Câu nói
ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp
thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín 'cha già dân tộc' của
Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe Xã hội
chủ nghĩacũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn
vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép Hồ Chí Minh, nhưng vì ở cương vị
Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.
Thiểu số phục tùng đa số
Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc
riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng
đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang
hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi
người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê
Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống,
thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình
là, Hồ Chí Minh không nổi trận lôi đình , trái lại, ông chỉ cười nhạt
rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.
Bi kịch tình yêu kết thúc
Tại bệnh viện Quảng Châu, Lâm Y Lan trông ngóng Hồ Chí Minh nhưng
chỉ nhận được bức thư vài dòng ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên
không thể tái hợp. Muội đã nghe nói đến tình yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy
không được ở bên nhau nhưng tâm hồn hai ta mãi mãi dung hòa nhất thể”. Lâm Y
Lan cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ, nhìn theo lá thư vờn bay theo gió, hai dòng
lệ lã chã tuôn rơi. Sau đó Lâm Y Lan viết thư hồi đáp Hồ Chí Minh, trong
thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị “ Trên trời
xin làm chim chắp cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành. Trời cao đất dày rồi
cũng tận, tình này vĩnh viễn mãi không nguôi” ( Tại thiên nguyện vi tỷ dực
điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi; thiên trường địa cửu hữu tận thời, thử
tình miên miên vô tuyệt kỳ). Bà chuyển chữ “hận” cải thành chữ “tình” để chứng
tỏ tấm lòng thủy chung như nhất của mình đối với Hồ Chí Minh. Bức thư bất
đắc dĩ của Hồ Chí Minh là một đòn nặng nề đánh vào tinh thần Lâm Y
Lan khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 thì qua đời. Hồ Chí
Minhnghe tin người yêu mất thì vô cùng ân hận và thương cảm. Sau đấy một năm,
vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, Hồ Chí Minh bỗng nhiên thở
dài, lúc hấp hối ông đã gọi tên Lâm Y Lan.
Trở lên là câu chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan. Chuyện ly này là do Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối tình nồng cháy
của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”.
Sự thật về mối tình của Lâm Y Lan
Trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 554-555, William J.Duiker viết
“Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, Hồ Chí Minh có nhờ ông làm mối
cho một phụ nữ trẻ, người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung
Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với
lãnh đạo Bắc Việt thương thảo việc này nhưng cuối cùng không có kết quả.
William J. Duiker viết đoạn này, nếu đem đối chiếu với các bài “Mối tình nồng
cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”, “Ủy thác Đào Chú Làm mối”, “Hội
nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam” v.v…thì các chương mục gần như có nội
dung thống nhất. Chi tiết Hồ Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác thành với một
người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc báo chí dã đưa
tin. William J.Duiker viết tại chương này (Chú thích 54trang 668) chỉ
rõ nguồn gốc là "Câu đố về Chu Đào" của tác giả Quách
Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học quân sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô, 1995). Trong
phần chú giải phụ thêm, William J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng
văn hóa cho đến lúc trước khi bị thanh toán là lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông, bà
và HCM trước đây từng rất thân thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự
kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa hạ năm 1966”.
Trong bài viết “Mối tình nồng cháy giữa Hồ Chí Minh và
Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu”, có đoạn: “ Năm
1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu
trừ Hồng quân khu Giang TâyTô, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương
truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ
Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác,
ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị
đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh
ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng
viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho
ông ta”. Ở mục: “Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh” và “ Trong
hoạn nạn thấy sự chân thành” đều có viết: “ Không lâu sau, do một kẻ phản bội
khai báo, Hồ Chí Minh bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”.
Những phần ghi chép trên nói rõ là, vào đầu năm 1930, Hồ
Chí Minh đúng là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu
Lân” về sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu vào năm
1931, đồng thời so sánh với bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật Đài Loan bị
bắt ở Quảng Châu, giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu trên “Đài Loan nhật nhật tân
báo” thì thấy rất rõ ràng, nhân vật nam chính trong bài “ Mối tình nồng cháy giữa Hồ
Chí Minh và Lâm Y Lan” chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật Đài Loan
(Xem lại Thiên II “Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên
IV“Những năm tháng phiêu bạt” (Phiêu bạt lưu lãng đích tuế nguyệt) đăng tải
trên “Đài Loan nhật nhật tân báo”.
Theo nhận định của William J. Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú
làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là
xác thực. Nhìn lại cuộc đời hoạt động chính trị thăng trầm của Đào Chú cũng có
thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và Lâm Y Lan là một người. Đào Chú lãnh đạo Tỉnh
ủy Quảng Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm 1966, từng là “phong cương
đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện,
Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau
Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính trị, có thể nói vận
số vô cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng
Văn hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “Bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng
vệ binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức
tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ
phóng ra biên giới Tây Nam.
Theo nội dung các bài “ Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam” và “Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là,
Cộng đảng Việt Nam đã sử dụng câu nói “ Một ngày đất nước chưa độc lập,
tôi quyết không kết hôn” làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ý nguyện xây dựng gia
đình của Hồ Chí Minh.
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc
Căn cứ vào “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của
“Lĩnh Nam di dân”, thìHồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ
khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai,
Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc tác giả
viết: “ Sau khi ra tù, Hồ Chí Minh được tướng Trương Phát
Khuê và tướng Tiêu Văn tín nhiệm, được bổ sung làm Ủy viên dự
khuyết Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, hoạt động rất có uy tín. Không
lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh mang
theo mười tám người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn
luyện cán bộ. Một trong mười tám người theo Hồ Chí Minh trở về là Đỗ
Thị Lạc, người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”.
Nhân thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu
Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên Ban Huấn luyện quân sự. Trở về Cao Bằng,
Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ Chí Minh sống chung với nhau một thời
gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử gia Trần
Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ
Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với
nhau ở Khuê Nam, Hồ Chí Minh dấn thân vào cao trào cách mạng, không
bao giờ còn trở lại với Đỗ Thị Lạc nữa”.
Căn cứ vào các tư liệu đã tra cứu được, vào thời kỳ Hồ Chí
Minh đem theo mười tám cán bộ về Việt Bắc thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là
có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang
194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh được
phóng thích tại Liễu Châu, rất được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê
tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Hồ Chí
Minh đề nghị với Trương Phát Khuê ý định về Việt Nam hoạt động,
đồng thời chuyển giao cho ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được
khởi thảo với bốn mục tiêu lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, Hồ Chí Minh tự
tuyển chọn mười tám thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc
huấn luyện nhiệm vụ cách mạng. Danh tính của mười tám người như sau : Dương Văn
Lộc, Lê Nguyên, Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành,
Hoàng Kim Vận, Hoàng Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê
Văn Tiền, Nông Văn Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu
Chí ( đều thuộc Tổng đội công tác chiến địa) và Đỗ Thị Lạc ( thuộc Đội công tác
chính trị biên giới). Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây
nhân dân xuất bản xã phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến
1944, dưới chân núi Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban huấn luyện cán bộ mở lớp học,
HCM thường đến giảng bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại
thị trấn Bắc Môn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết
tại Liễu Châu, mai táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất
và quê quán bằng Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan,
danh tính ba lần chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.
Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin Đỗ Thị Lạc đã có một người con
gái với Hồ Chí Minh nên có thể xem chuyện này là có thật”. Căn cứ
vào “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh có đoạn ghi
chép về “Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc.
Chuyện như sau: “Tháng 8 năm 1962, Hồ Chí Minh đến Trung Quốc, ở
lại một thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm” ở Vân Nam.
Đoàn Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng chủ tịch Hồ
Chí Minh tham quan. Bên cạnh Hồ Chí Minh, Đỗ tiểu thư đã có những
giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, Hồ Chí Minhđã từng quen biết
Đỗ Lệ Hoa . Đó là năm 1961, Hồ Chí Minh cùng Đoàn đại biểuĐảng Lao động
Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân Đường Bắc
Kinh, Đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng
cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Hồ Chí Minh đặc
biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. Hồ
Chí Minh cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa rất lâu như muốn lưu giữ
mãi hình ảnh của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa được
thông báo, Hồ Chí Minh mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham quan thắng
cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi, không biết Hồ
Chí Minh giờ đây thế nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ
Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa đến nhà khách Thạch Lâm, Hồ Chí Minh đã
chờ sẵn ở cửa trước, vừa nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi:
“Tiểu thư Lệ Hoa, hoan nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc
Kinh không?”. Đỗ Lệ Hoa phấn khởi nói: “Nhớ, Nhớ ạ”, rồi trân trọng
trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho Hồ Chí Minh”.
Từ việc ĐTL chết, độ tuổi của ĐLH, ĐLH đứng giữa MTĐ và HCM chụp
ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc biệt giữa ĐLH và HCM ở khu nghỉ
mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói ĐLH không phải là người tình của HCM.
Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân
Trần Quốc Hoàn vì vì có công trong việc trấn áp các phần tử phản
cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công an. Năm
1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về
Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo
vệ sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, Nông Thị
Xuân sinh với Hồ Chí Minh một bé trai. Đứa bé được bí mật
gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của Hồ Chí Minh là Vũ
Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện Nông Thị
Xuân bị tai nạn ô tô chết bên đường chân Dốc Chèm. Không lâu
sau, hai người em họ của cô Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất
ít người biết chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong
hai thiếu nữ, đã viết thư gửi lên Quốc hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm
Nông Thị Xuân rồi sát hại cô bằng một vụ tai nạn được công an dàn dựng.
Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em họ của Nông Thị Xuân tố
cáo tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện
này bị ỉm đi và cũng không có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng
ra thụ lý vụ án trên. Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại hội III, y còn
được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, những tin tức về vụ giết người
bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam biết
rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng, bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần
Quốc Hoàn ) vốn xuất thân từ dân đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám
ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy phản bạn. Hồ Chí Minh có biết hay không
sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới là
“chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ
xinh đẹp, vô tội.
Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân được
William J. Duiker ghi chép tại chương 9 “ Giữa hai lần chiến dịch”, trang
505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến
660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ
Vũ Đình Huỳnh, từng là thư ký riêng cho Hồ Chí Minhthời kỳ 1946-1955).
Nguyên văn bản tố cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị
Vàng đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa thu, tháng tám, năm
1997, trang 8-11.
Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “ Lĩnh
Nam di dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữa Hồ Chí Minh và
Nông Thị Xuân: “Ngày 20 thángbảy năm 1954, sau Hiệp định Genève, Hồ
Chí Minh trở về Hà Nội đảm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Năm 1955, Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc
thành phần gia đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho Hồ
Chí Minh. Cô gái là Nông Thị Xuân , dân tộc Nùng ( một chi nhánh của người
Tráng Quảng Tây Trung Quốc, Việt Nam gọi là Nùng), nhà ở thôn Hà
Ma, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã
65, Nông Thị Xuân mới gần 22. Ít lâu sau, hai cô khác, một tên Vàng,
một tên Nguyệt là con người cậu Nông Thị Xuân cũng được chọn đưa về Hà Nội.
Ba cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ
giữa Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân không bị tiết lộ, mỗi lần cô Xuân đến
Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn cho xe đến đón”.
Những câu chuyện “Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc”, “ Hồ Chí Minh và
Nông Thị Xuân”, cùng “Chuyện tình ái và những người con sinh ra
trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí
Minh và Nguyễn Ái Quốc , vẫn còn là những bí mật, chưa có câu trả
lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân , thời gian ghi chép, địa điểm, nội
dung, nguồn gốc tin tức…sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại thì rất nhiều
bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác định chân tướng.
Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh
Khảo cứu về hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan hệ phức tạp, phải nói rất
khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên , cần phải tin chắc một điều, Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, cho nên chuyện
hôn nhân và tình ái của họ cũng khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu
manh mối qua các nguồn tư liệu, ( người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng
chứng cứ mới tìm ra được sự thật trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về
quan hệ hôn nhân, tình ái của nhân vật đặc biệt này.
Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn
Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn
Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữaHồ Chí Minh với Đỗ
Thị Lạc, Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân , Hồ Chí Minh và Lâm
Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết luận, quan hệ tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng
Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng
Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều hình thành trong đấu tranh
cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt nguồn từ khói lửa
chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm, càng không nhất
thiết có thái độ bôi nhọ.
Tình ái giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí
Minh và Nông Thị Xuân , Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm
chứa những nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng
thời phản đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ
chân thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật
huyền thoại Hồ Chí Minh.
Mùa hè năm 1959, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Hội Bộ
Chính trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ Chí Minh đến thăm Trung
Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 tháng mười, Lưu Thiếu Kỳ cùng
Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh Siêu,
Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều
bạn bè cũ đến thăm, chợt cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách
quý thế này, hôm nay tôi phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu
Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng Châu, biết tin Chu Ân lai vừa được bổ nhiệm
là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người
chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi vào trong nhà : “Tiểu Siêu, mang đường ra
đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai
hy”, từ một chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nướcViệt Nam, tất cả dường
như chỉ mới hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ Chí Minh, ánh mắt tươi
rói, cười bảo: “Pha cà phê”.
Chiều ngày 12 tháng tám, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng
Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn
ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử
quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ,
ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư
Sơn thêm ít ngày.
- Được thôi, sau này Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang
Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.
- Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! – Thái
Sướng nói giọng đầy ẩn ý.
- Đương nhiên, tôi biết, vì thế , tôi sẽ mời một số đồng bào…
- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch cùng phu nhân đến thôi.
Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:
- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không
được thì phải đền đấy.
- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn một người vợ cách mạng, chẳng nên
bắt đền chị Đặng.
Các bà khách chẳng giữ ý tứ gì, nói năng thoải mái, cười khanh
khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt
Nam và Trung Quốc quan tâm đến tình trạng hôn nhân của ông không
ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập chí, đất nước chưa độc
lập, thì chưa thành gia thất chăng?
Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ cười đùa :
- Lần sau Chủ tịch đến đây chị em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.
Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào trong:
- Mời mang kẹo ra đây chiêu đãi khách quý
- Loại kẹo này chúng tôi không ăn.
- Vậy xin mời các phu nhân dùng cà phê.
- Cà phê cũng không uống.
Hồ Chí Minh cười :
- Vậy tôi đọc một bài thơ được không?
- Không yêu cầu Chủ tịch làm thơ. – Các vị khách đều biết Hồ
Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.
Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc biệt, ông nhẹ
nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam được
thành lập tại Côn Minh, để cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc
một bài bài để các nữ đồng chí nghe:
Tam tứ niên lai vọng đoạn trường
Niệm lang lưu lạc tại tha hương
Đồng tâm kết phát thùy thiếp kiên
Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện
Quốc hận gia sầu lang vật vong
Gia thường tỏa sự thiếp toàn đương
Đãi lang diệt địch quy lai nhật
Huề thủ đoàn viên lạc điền trang.
Tạm dịch nghĩa:
Ba bốn năm nay trông ngóng đến đứt ruột
Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người
Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống vai thiếp
Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt chàng
Nợ nước thù nhà chàng không quên
Công việc ở nhà thiếp gánh vác
Đợi ngày chàng diệt địch trở về
Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh điền viên.
Các phu nhân chăm chú nghe Hồ Chí Minh đọc từng câu
thơ với tâm trạng vô cùng xúc động. Ông biểu thị tình cảm sau sắc qua từng ngữ
điệu, khiến các vị khách, sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt
Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người
chồng mẫu mực, hết lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn
tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn
và Vương Giá Tường phải bật cười”.
Bài viết trên là căn cứ vào “Hồ sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương,
chương 4 “ Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân dân xuất bản xã ấn hành
tháng năm năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc biệt nghi ngờ Thái
Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng dĩnh
Siêu và Thái Sướng cười giữa một đoạn đường núi được Han Suyin chụp, Trương
Liên Khang dịch trong cuốn “ Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”, trang 314. “Hồ
sơ Lư Sơn, Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minh đứng
giữa, bên phải cầm tay Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ
ra rất thân mật (xem ảnh dưới). Tôi không tin việc Hồ Chí Minh, với tư
cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của Chu Ân Lai bằng
cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà còn vui vẻ mỉm
cười. Lại nữa, Hồ Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu nhân “Việt Namthống
nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn
ý: “Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối
đáp có tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả
tình cảm đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng lại
là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ khách đề
nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người viết không
tin là giữa Hồ Chí Minh và các phu nhân có bất kỳ mối quan hệ tình cảm
mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt thự 394 hôm ấy,
có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước
bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy, qua những lời nói khá tình cảm của Hồ Chí
Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm tác giả Bùi Tín hiểu lầm là hai người
đã từng yêu nhau.
Trở lại năm 1926, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh chính
thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng từng là người
làm mối và chủ trì. Năm 1958, xẩy ra vụ “Tăng Tuyết Minh hôn nhân xung đột song
bào án kiện” (Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của Tăng Tuyết Minh”, Thái Sướng
phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió. Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì
muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân
Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu,
Thái Sướng biết rất rõNguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không
phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ
hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ
Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng
và biểu đồng tình.
Ngày 16 tháng bảy năm 1947, Hồ Chí Minh trả
lời phỏng vấn một tờ báo nước ngoài: “Đã hỏi đến chuyện hôn nhân và tương lai,
xin hãy để tôi tự nhiên trả lời. Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam
chính là gia đình tôi, các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt
Nam chính là chị em tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu
tranh để Việt Nam độc lập, thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn
thành, tôi sẽ cáo lão hồi hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi
sông, trồng cây, viết sách”.
Đoạn trả lời phỏng vấn trên được dẫn từ “Hồ Chí Minh văn tập”, tập
V, trang 171, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, làm tôi suy nghĩ mãi.
Trừ đoạn nói là không gia đình, không vợ con, Hồ Chí Minh sau khi
hoàn thành nguyện vọng không thấy ông cáo lão về quê, bởi suy cho cùng, nếu thực
hiện lời hứa ấy thì ông về quê nào?
Vào thời kỳ trước năm 1947, Hồ Chí Minh chưa từng công
khai quê quán hoặc thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn tích cực
tranh thủ nước Mỹ, yêu cầu viện trợ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập.
Trong thâm tâm Hồ Chí Minh, phải chăng, ông đợi sau khi Việt Nam độc
lập, Đài Loan được ủy thác cho quân Đồng minh quản lý cũng giành độc lập, như
thế, ông có thể đàng hoàng trở về quê hương, thực hiện lời hứa với người em Hồ
Tập Dưỡng “Không thành công không về quê hương”.Tuy nhiên, trời chẳng chiều người,
chỉ một năm sau, quân đội Quốc dân đảng tiến nhập Đài Loan, thế là Hồ Chí
Minh chẳng bao giờ có thể trở về cố hương, đúng như lời Ngô Trọc Lưu nói,
ông Hồ là “đứa con côi châu Á”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét