Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI

Đồng tính luyến ái, gọi tắt là đồng tính, là thuật ngữ chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu, tình dục hoặc việc yêu đươnghay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Với vai trò là mộtthiên hướng tình dục, đồng tính luyến ái là một mô hình bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, và/hoặc hấp dẫn tình dục một cách chủ yếu hoặc duy nhất đối với người cùng giới tính. Đồng tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này.
Đồng tính luyến ái cùng với dị tính luyến ái và song tính luyến ái, là ba dạng chủ yếu của thiên hướng tình dục con người, thuộc thang liên tục dị tính - đồng tính (Thang Kinsey). Đồng tính luyến ái bản chất là một biến thể bình thường và tích cực của tính dục con người, không phải là một "bệnh" hay sự lệch lạc tâm lý, và không phải là nguyên nhân gây ra các hiệu ứng tâm lý tiêu cực.
Nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ đã đang sống trong mối quan hệ gắn kết, mặc dù chỉ các hình thức điều tra dân số mới và thuận lợi chính trị tạo điều kiện cho việc bộc lộ, công khai xu hướng tình dục bản thân của họ và thực hiện các điều tra nghiên cứu về họ. Những mối quan hệ này là tương đương với các mối quan hệ tình dục khác giới trên các khía cạnh tâm lý thiết yếu.

Đồng tính luyến ái đã từng được ngưỡng mộ cũng như lên án trong suốt quá trình phát triển nhân loại được lịch sử ghi lại, tùy thuộc vào hình thức của nó và nền văn hóa mà nó diễn ra. Từ cuối thế kỷ 19 đã có một phong trào trên phạm vi toàn cầu theo xu hướng tăng khả năng bộc lộ, công khai thiên hướng tình dục bản thân ở người đồng tính, công nhận pháp lý các quyền lợi hợp pháp cho những người đồng tính, trong đó có quyền kết hôn và các hình thức kết hợp dân sự, quyền nhận con nuôi và làm cha mẹ ở người đồng tính, các quyền liên quan đến việc làm, phục vụ trong quân đội, tiếp cận bình đẳng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sự ra đời của luật chống bắt nạt để bảo vệ trẻ vị thành niên đồng tính.
Hành vi đồng tính cũng rất phổ biến trong thế giới tự nhiên, được quan sát và ghi nhận ở khoảng 1.500 loài động vật.

Tên gọi.

"Đồng tính luyến ái" là một từ Hán Việt, viết bằng chữ Hán là "同性戀愛", dịch sát nghĩa từng chữ là "yêu người cùng giới tính"

Trong tiếng Việt người đồng tính luyến ái nam thường được gọi là "người đồng tính nam" hoặc "gay" /ɣaj/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "gay" /ɡeɪ/, "bê đê" /ɓe ɗe/, "pê đê" /pe ɗe/ (bắt nguồn từ tiếng Pháp "pédé" /pede/), người đồng tính luyến ái nữ thường được gọi là "người đồng tính nữ" hoặc "lét" /lɛt/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "lesbian" /ˈlezbiən/, thường được viết phỏng theo tiếng Anh là "les" dù phát âm khác với tiếng Anh).
"Bóng lộ" là người đồng tính nam ăn mặc, cử chỉ như phụ nữ. "Gay kín" là người đồng tính nam có nam tính, và mọi người khó phát hiện là gay.

Lịch sử.

Thái độ xã hội đối với quan hệ đồng giới thay đổi theo thời gian và nơi chốn bao gồm từ việc mong muốn tất cả nam giới có quan hệ cùng giới hoặc chấp nhận hòa hợp tự nhiên cho đến xem như một tội lỗi nhẹ, chịu sự cấm đoán của luật pháp hay thậm chí là tử hình. Trong một cuộc sưu tập các tài liệu lịch sử và dân tộc học của các nền văn hóa thời kỳ Trước Công nghiệp, "có 41% trong số 42 nền văn hóa phản đối mạnh mẽ, 21% chấp nhận hoặc phớt lờ và 12% không có khái niệm. Trong số 70 dân tộc, 59% không có hoặc hiếm có sự xuất hiện của đồng tính luyến ái; tại 41% còn lại, đồng tính có xảy ra hoặc không phổ biến." 

Trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, luật pháp và nhà thờ quy định kê gian là một tội lỗi chống lại thần thánh hoặc tự nhiên. Tuy nhiên, sự lên án tình dục hậu môn của nam và nam có từ tư tưởng Kitô giáo. Sự lên án này cũng thường thấy ở Hy Lạp cổ đại, cụm từ "không tự nhiên" có thể có từ triết gia Plato.

Những cụm từ như đồng tính luyến ái hoặc song tính luyến ái từng được dùng bởi nhiều nhân vật lịch sử như Socrates, Lord Byron, Edward II và Hadrian. Vài học giả, chẳng hạn như Michel Foucault, coi đây là sự giải thích sai về mặt niên đại, dựa trên quan niệm tình dục đương đại cho thời đại của những nhân vật này mặc dù nhiều học giả khác đã không thừa nhận quan điểm của những học giả trên.

Về sự tự nhiên của đồng tính luyến ái và sự biểu hiện trong lịch sử, có hai quan điểm trái ngược nhau đại diện bởi cách tiếp cận kiến tạo luận (constructionist) và bản chất luận(essentialist). Nhìn chung, chủ nghĩa kiến tạo luận xã hội xem xét rằng nhiều đặc tính của một nhóm xã hội nào đó, chứ không phải là bản chất tự nhiên của chính cá nhân, đã dẫn đến "sự kiến tạo xã hội". Trong khi đó, chủ nghĩa bản chất luận bảo vệ sự tồn tại của bản chất thực sự. Bản chất đó xác định biểu hiện của một cá nhân và những thứ học được từ xã hội mang tính thứ yếu. David M. Halperin dành một chương: Đồng tính luyến ái: sự kiến tạo văn hóa trong tác phẩm Một trăm năm đồng tính luyến ái cho chủ đề này. Ông nói rằng chủ nghĩa bản chất luận áp dụng vào phân loại tình dục nói lên rằng những thuật ngữ đồng tính hay dị tính chỉ nhưng đặc tính cá nhân thuộc về bản chất, không thay đổi được về mặt văn hóa. Ngược lại, chủ nghĩa kiến tạo cho rằng những thuật ngữ này là tên của những quá trình xã hội. Halperin nghiên về lập luận thứ hai vì ông coi tình dục, bao gồm đồng tính, từng được biển hiện dưới nhiều hình thức khác nhau một cách cơ bản trong những xã hội khác nhau ngày nay. Tuy nhiên ông, trích dẫn Esteven Epstein, so sánh sự tranh luận giữa bản chất luận và kiến tạo luận với tự nhiên đối chọi nuôi dưỡng (nature versus nurture)

Bởi vì thiên hướng tình dục là phức tạp và đa chiều, một số học giả và các nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong các nhà nghiên cứu đồng tính trước đây, đã lập luận rằng đồng tính luyến ái là một kết quả của lịch sử và xã hội. Năm 1976, nhà triết học và sử học Michel Foucault cho rằng đồng tính luyến ái là một thứ không tồn tại ở châu Âu trong thế kỷ 18, khi mà tình dục đồng giới còn là một hành vi tội phạm (xem Kê gian). Ông viết: "Thiên hướng Tình dục' về bản chất là một "sáng chế" của các nhà nước hiện đại, cuộc cách mạng công nghiệp, và chủ nghĩa tư bản."

Châu Á và Nam Thái Bình Dương
Đồng tính luyến ái ở Nhật Bản, được biết đến dưới dạng chúng đạo hay nam sắc (những từ bị ảnh hưởng từ văn chương Trung Hoa), được ghi nhận từ hơn một ngàn năm và từng là một phần trong đời sống Phật giáo và truyền thống samurai. Văn hóa tình yêu đồng giới làm truyền thống hội họa và văn chương mô tả những mối quan hệ đó được nâng cao. Tại Thái Lan, Kathoey hay "trai nữ" (cô chàng) là một phần trong xã hội trong nhiều thế kỷ và quốc vương Thái Lan cũng có các "cung phi" là nam cũng như nữ. Kathoey có thể nữ tính hoặc là biến trai làng (transvestism). Thái Lan chưa từng có luật cấm đồng tính luyến ái hoặc hành vi đồng tính, nhưng cũng không công nhận quan hệ giữa họ.

Tại Trung Đông, nhiều nhà thơ Hồi giáo (hầu hết là Sufi) tại các nước Ả Rập và Ba Tư trong thời trung cổ đã viết thơ ca tụng những cậu bé đem rượu cho họ trong các quán rượu và ngủ chung giường với họ. Tại Trung Á, trên Đường tơ lụa, nơi giao điểm giữa hai nền văn hóa đông-tây, đã nảy ra một văn hóa đồng tính luyến ái. Trong đó có người bacchá, thường là người tiếp đãi viên đồng thời làm nghề mại dâm thanh niên phái nam ăn mặc lộng lẫy và có trang điểm. Những người bachá hát và múa những bài hát khiêu dâm cho khán giả. Họ được huấn luyện từ còn nhỏ và làm việc cho đến khi râu mọc.

Trong xã hội Melanesia, đặc biệt ở Papua New Guinea, quan hệ cùng giới là một nét văn hóa cho đến giữa thế kỷ trước. Người Etoro và người Marind-anim còn coi dị tính luyến ái là tội lỗi và tôn vinh đồng tính luyến ái. Trong truyền thống Melanesia, một cậu bé chưa dậy thì sẽ được bắt cặp với một thiếu niên, người này sẽ trở thành tư vấn thụ tinh cho cậu bé (đường miệng hay hậu môn tùy thuộc vào bộ tộc) trong vài năm để làm cho cậu bé đó dậy thì. Tuy nhiên, nhiều xã hội Melanesia trở nên căm ghét quan hệ cùng giới khi các nhà truyền giáo châu Âu đến truyền giáo.

Châu Âu.

Người đàn ông La mã và một thiếu niên trên giường vào giữa thế kỷ 1. Tìm thấy gần Jerusalem.

Những tài liệu Tây phương lâu đời nhất (trong hình thức mỹ thuật, văn học, và truyền thuyết) về mối quan hệ đồng tính được tìm thấy từ thời cổHy Lạp, nơi các mối quan hệ đồng tính được xã hội tạo nên, được thành lập qua thời gian từ thành phố này đến thành phố khác. Lệ này, một hệ thống của những quan hệ giữa một người đàn ông lớn tuổi và một thanh niên đang trưởng thành, được xem là có giá trị dạy dỗ, đồng thời để kiềm chế mức độ gia tăng dân số, đôi khi bị xem là làm mất trật tự. Plato đã ca ngợi những lợi ích của việc này trong các tác phẩm ban đầu, nhưng trong các tác phẩm sau này ông đã đề nghị ngăn cấm nó.

Trong Kinh Thánh có mô tả về Thành phố Sodome, nơi mà nhiều cư dân nam có hành vi tình dục đồng giới. Thành phố này đã bị thiêu hủy bởi trận mưa lửa từ trên trời do Thượng Đế giáng xuống để trừng trị sự thác loạn của cư dân nơi đây. Từ Sodome cũng trở thành thông dụng để chỉ việc quan hệ tình dục đồng giới của nam tại phương Tây. Trong thời Phục Hưng, những thành phố ở miền bắc nước Ý, đặc biệt là Firenzevà Venezia nổi tiếng về đồng tính, được một phần khá lớn dân số nam tuân theo và được tạo theo kiểu mẫu ở Hy Lạp và La Mã (Ruggiero, 1985; Rocke, 1996). Tuy nhiên, trong khi một phần khá lớn dân số nam theo tục lệ này, những nhà chức trách vẫn khởi tố, phạt và bắt nhiều người.

Vị vua lừng danh Friedrich II Đại Đế, tức "Friedrich Độc đáo", trị vì nước Phổ từ năm 1740 cho đến năm 1786, cũng bị nghi vấn đồng tính luyến ái. Có người đương thời nói ông hoang dâm với các triều thần. Nhiều quan lại trong triều đình Phổ lúc đó hay đem sự loạn dâm đồng tính ra làm chủ đề đùa cợt.

Châu Mỹ

Trong xã hội thổ dân Bắc Mỹ, hình thức đồng tính luyến ái phổ biến nhất là những người được xem là có hai linh hồn. Những người này được hầu hết các bộ lạc công nhận và đặt tên cho vai trò này. Thường những người có hai linh hồn được công nhận lúc còn nhỏ, được cha mẹ cho lựa chọn để theo con đường này. Nếu đứa bé nhận vai trò, nó sẽ được dạy dỗ về các nhiệm vụ của mình, theo các phong tục của giới tính mà nó đã chọn. Những người này thường làm thầy pháp nhưng được xem là có nhiều quyền phép hơn các thầy pháp thường. Trong lĩnh vực tình dục, họ sẽ có quan hệ với những người khác phái.

Hiện đại

Lá cờ cầu vồng, mộtbiểu tượng của cộng đồngLGBT, trong đó có người đồng tính, trong lễ Phục sinh của người đồng tính ở Gemeinde Werneuchen, Đức, tháng 4 năm 2006.

Từ năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Trong vài ba thập kỉ nay, tại các nước Tây phương có sự hình thành của một "nền văn hóa đồng tính". Tuy nhiên, cũng có nhiều người đồng tính không tham gia trong cộng đồng đó. Sau khi bị chính quyền Đức quốc xã cố ý tiêu diệt trong Đệ nhị thế chiến, những người đồng tính đã giành được nhiều quyền, đặc biệt là tại các nước Tây phương.

Những nỗ lực nhằm giải phóng đồng tính luyến ái được cho là bắt đầu từ thập niên 1860 và từ giữa thập niên 1950, sự đòi hỏi công nhận quyền cho người đồng tính và song tính luyến ái ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, chứng ghê sợ đồng tính luyến ái vẫn tồn tại, đặc biệt là nó làm cho nhiều người gặp nhiều khó khăn trong xã hội đôi khi dẫn đến tự tử. Một số quốc gia gần đây đã cho phép người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi. Sự xuất hiện của HIV/AIDS từ giữa thập niên 1980 là một trong những vấn đề mà người đồng tính phải đương đầu trong thời gian gần đây.

Trong lĩnh vực tôn giáo, một số nhóm tôn giáo cũng bắt đầu tỏ ra cởi mở với người đồng tính. Một giáo phái Do Thái giáo đã bắt đầu mở dịch vụ làm lễ kết hôn cho người đồng tính, trong khi nhóm Anh giáo đã nhận một mục sư đồng tính. Một số ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như Cher, Madonna,Lady Gaga,Christina Aguilera, Cyndi Lauper,... đã đưa chủ đề người đồng tính vào những bài hát, video âm nhạc, những màn biểu diễn của mình để bày tỏ sự ủng hộ của họ với giới đồng tính luyến ái. Chính nhạc disco có nguồn gốc từ sự liên kết ban đầu với lối sống của một bộ phận giới đồng tính luyến ái nam ởThành phố New và sau đó được phát triển trên nền tảng nhạc đại chúng da đen trong những năm của thập niên 1970.

Cơ sở khoa học

Chưa có sự thống nhất tuyệt đối giữa các nhà khoa học về nguyên nhân tại sao hình thành và phát triển một thiên hướng tình dục đặc biệt ở một người. Nhiều nhà khoa học thống nhất rằng các yếu tố tự nhiên và nuôi dưỡng, một sự kết hợp của di truyền, nội tiết tố giai đoạn thai nhi và môi trường xã hội là các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành thiên hướng tình dục. Không có bằng chứng cho thấy kinh nghiệm giáo dục của cha mẹ thời thơ ấu có vai trò trong việc hình thành thiên hướng tình dục đồng tính.

Khi nói đến tình dục đồng giới, tác động từ môi trường gia đình, xã hội, giáo dục có những vai trò khác nhau trong việc hình thành đồng tính. Năm 2010, nghiên cứu của trường Queen Mary và Viện Nghiên cứu Karolinska ở Stockholm đã theo dõi 3.826 cặp song sinh cùng trứng và nhận thấy: dù có bộ gien giống hệt nhau, tỷ lệ số cặp song sinh cùng là đồng tính khi trưởng thành là rất thấp. Cụ thể, ở nam giới, gien di truyền chiếm 34-39%, môi trường chia sẻ là 0%, và môi trường sống riêng biệt của cá nhân chiếm 61-66% trong việc hình thành đồng tính. Ước tính tương ứng ở phụ nữ là 18-19% do yếu tố di truyền, 16-17% do môi trường chia sẻ, và 64-66% do môi trường sống riêng của cá nhân đã hình thành nên đồng tính nữ. Dù khoảng tin cậy khá rộng, kết quả này cho thấy di truyền và ảnh hưởng của gia đình chiếm tỷ lệ nhỏ tới trung bình, trong khi môi trường sống không chia sẻ (xã hội và sinh học) có tác động từ trung bình tới lớn trong việc hình thành người đồng tính

Trong khi một số người giữ quan điểm cho rằng tình dục đồng tính là phi tự nhiên hoặc rối loạn tâm lý hay do lệch lạc giới tính, nghiên cứu cho thấy đây là một ví dụ của một biến thể tự nhiên và bình thường ở tình dục loài người và không phải là nguồn gốc của những trạng thái tâm lý tiêu cực. Hầu hết mọi người đều trải nghiệm rất ít hoặc không có vai trò trong việc lựa chọn thiên hướng tình dục của bản thân mình, và cũng không có bằng chứng rằng việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ, can thiệp tâm lý có thể thay đổi được khuynh hướng tính dục của con người.

Tất cả các tổ chức y tế chuyên nghiệp lớn nhất đều đã đi đến khẳng định đồng tính luyến ái không phải là một bệnh hay rối loạn tâm thần. Năm 1973, Hội đồng Quản trị của Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) - tổ chức nghiên cứu về lĩnh vực tâm thần học lớn nhất thế giới đã loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Hành động này được thực hiện sau khi xem xét các tài liệu khoa học và tư vấn của chuyên gia trong lĩnh vực này, các chuyên gia thấy rằng đồng tính luyến ái không đáp ứng các tiêu chuẩn để được coi là một bệnh tâm thần. Có giai đoạn đồng tính luyến ái từng được coi là kết quả của những tác động, biến cố, khó khăn từ môi trường gia đình, xã hội hay gặp lỗi trong phát triển tâm lý. Tuy nhiên, những nhận định trên được xác định là đã dựa trên những thông tin sai lệch và định kiến.

Trong "Nghị quyết về Giới tính và tình dục học đa dạng ở trẻ em và thanh thiếu niên học đường" được thông qua tháng 4/2014, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association) - tổ chức nghiên cứu về tâm lý học lớn nhất thế giới và Hiệp hội quốc gia các nhà tâm lý học (the National Association of School Psychologists) đã khẳng định:

“Con người có sự thể hiện đa dạng trong thiên hướng tình dục, bản sắc giới tính và biểu hiện giới tính. Đồng tính luyến ái, sự hấp dẫn cảm xúc, tình yêu và tình dục đồng giới là một biến thể bình thường và tích cực của tính dục con người. Đồng thời, lĩnh vực tâm lý có vai trò và nhiệm vụ thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của bản sắc cá nhân, bao gồm: thiên hướng tình dục, biểu hiện giới tính và bản sắc giới tính của tất cả các cá nhân”

Tổ chức Y tế thế giới WHO đã loại bỏ đồng tính luyến ái trong danh mục bệnh từ ngày 17 tháng 5 năm 1990. Ngày 17 tháng 5 hàng năm đã được chọn là "Ngày quốc tế chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới (Tiếng Anh: International Day Against Homophobia and Transphobia, viết tắt: IDAHO.

Tâm lý học về đồng tính luyến ái

Bài chi tiết: Tâm lý học về đồng tính luyến ái

Đồng tính luyến ái bắt đầu được nghiên cứu từ cuối thế kỷ 19. Nhà phân tâm học nổi tiếng Sigmund Freud tin rằng con người khi mới sinh ra đều là song tính, nhưng trong quá trình lớn lên, sự tác động từ văn hóa xã hội và các sự kiện trong cuộc đời khiến đa số con người sẽ chỉ yêu người khác giới. Một trong những nguyên nhân của đồng tính, theo Sigmund Freud, chính là việc phải nếm trải những mối tình khác giới đau buồn khiến ham muốn yêu đương chuyển sang đối tượng cùng giới. Một nguyên nhân khác mà ông chủ trương bao gồm chứng tự yêu bản thân, việc yêu người cùng giới tính chính là biểu hiện mở rộng của tâm lý tự yêu chính mình.

Tâm lý học là một trong những môn khoa học đầu tiên nghiên cứu một hướng đồng tính luyến ái là một lĩnh vực độc lập. Những nỗ lực đầu tiên để phân loại đồng tính luyến ái là một bệnh đã được thực hiện bởi những nhà tình dục học non trẻ Châu Âu biến trong những năm cuối thế kỷ 19. Năm 1886, Nhà tình dục học Richard von Krafft-Ebing đã xếp chung đồng tính luyến ái cùng với 200 trường hợp nghiên cứu khác của hành vi tình dục lệch lạc. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ 19, một quan điểm khác nhau bắt đầu chiếm ưu thế trong y khoa và tâm thần, đánh giá hành vi như chỉ định của một loại người có khuynh hướng tình dục gàng và tương đối ổn định. Trong những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các mô hình bệnh lý của đồng tính luyến ái được coi là tiêu chuẩn.

Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ và Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội:

Năm 1952, khi Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ công bố đầu tiên hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DMS), tình dục đồng giới đã được liệt kê như là một rối loạn. Tuy nhiên, ngay lập tức phân loại bắt đầu phải chịu sự giám sát đặc biệt trong các nghiên cứu sau đó, được tài trợ bởi Viện Sức khỏe Tâm thần. Các nghiên cứu thực nghiêm đã liên tục thất bại trong việc đưa ra bất kỳ cơ sở thực nghiệm khoa học nào để chứng minh đồng tính luyến ái là một rối loạn hay bất thường mà không phải là một thiên hướng tình dục bình thường và khỏe mạnh. Từ kết quả tích lũy từ các nghiên cứu, các chuyên gia về y học, sức khỏe tâm thần, khoa học hành vi và xã hội đã đi đến kết luận rằng không chính xác để phân loại đồng tính luyến ái là một rối loạn tâm thần.

Để ghi nhận những kết quả nghiên cứu khoa học, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ loại bỏ đồng tính luyến ái từ DSM vào năm 1973, và tuyên bố rằng "Bản chất của đồng tính luyến ái không bao hàm sự suy yếu về mặt nhận thức, sự ổn định, độ tin cậy, khả năng trong các mối quan hệ xã hội hoặc ngành nghề nói chung[46]." Sau khi xem xét kỹ các dữ liệu khoa học, các Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ đã thông qua các tuyên bố tương tự vào năm 1975, và kêu gọi tất cả các chuyên gia sức khỏe tâm thần đi đầu trong việc loại bỏ sự kỳ thị của bệnh tâm thần từ lâu đã được mặc định với đồng tính luyến ái [48]. Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội cũng đã thông qua một chính sách tương tự. Các chuyên gia sức khỏe tâm thần và các nhà nghiên cứu từ lâu đã nhận ra rằng, đồng tính luyến ái không gây bất kỳ trở ngại nào để tạo lập một cuộc sống hạnh phúc, khỏe mạnh và hiệu quả, và phần lớn những người đồng tính nam và nữ tham gia tốt một cách đầy đủ vào các mối quan hệ cá nhân và đời sống xã hội

Sự đồng thuận lâu dài của nghiên cứu và lâm sàng cho thấy rằng đồng tính, sự hấp dẫn cảm xúc, tình yêu, tình dục và hành vi này là biến thể bình thường và tích cực của tính dục con người. Hiện nay có một lượng lớn các bằng chứng nghiên cứu chỉ ra rằng việc đồng tính hoặc song tính tương thích với sức khỏe tâm thần bình thường và điều chỉnh xã hội.Hệ thống tiêu chuẩn phân loại, thống kê quốc tế về bệnh và vấn đề sức khỏe liên quan năm 1977 của Tổ chức Y tế thế giới (gọi tắt là ICD-9) thì đồng tính luyến ái được liệt kê như là một bệnh tâm thần, nhưng nó đã được gỡ bỏ từ ICD-10, được thông qua bởi Hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 43 vào ngày 17 tháng 5 năm 1990. Hiệp hội Tâm thần Trung Quốc cũng loại bỏ đồng tính luyến ái của mình trong phân loại rối loạn tâm thần vào năm 2001 sau 5 năm nghiên cứu của hiệp hội. Tuy vậy, những hành vi phân biệt đối xử trong xã hội và từ chối bởi gia đình bạn bè và những người khác, chẳng hạn như từ người sử dụng lao động khiến cho nhiều người LGB trải nghiệm lớn hơn tỷ lệ dự kiến của những khó khăn về sức khỏe tâm thần. Mặc dù đã có yêu sách của các nhóm chính trị bảo thủ ở Mỹ rằng tỷ lệ bệnh cao hơn những khó khăn về sức khỏe tâm thần cũng như cho rằng đồng tính luyến ái chính nó là một rối loạn tâm thần, thì không có bằng chứng gì để chứng minh cho những tuyên bố như vậy."

Nội dung và quan điểm của bài hoặc đoạn này có thể thể hiện một tầm nhìn chưa mang tính toàn cầu.

Xin cải thiện bài này hoặc thảo luận về vấn đề này tại trang thảo luận.

Nhận thực giới tính và nhận thực tính dục

Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) đã loại đồng tính luyến ái khỏi danh sách các bệnh sau một cuộc bỏ phiếu năm 1973, với 58% phiếu thuận và 42% phiếu chống (chưa kể phiếu trắng). Ảnh hưởng bởi các quyết định này, năm 1975, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association) cũng đưa ra kết luận tương tự và đến năm 1990 là Tổ chức y khoa thế giới. Tuy nhiên, đến nay vẫn có những tổ chức và nhà tâm lý học phản đối những quyết định này. Họ cho rằng quyết định đó là do áp lực chính trị dữ dội từ các tổ chức ủng hộ đồng tính chứ không phải vì các bằng chứng khoa học vững chắc. (xem các tranh luận tại Tâm lý học về đồng tính luyến ái)

Các nhà tâm lý học phản đối cho rằng: không có bất kỳ bằng chứng khoa học hợp lệ nào để chứng minh đồng tính luyến ái không phải là một vấn đề tâm thần, trong khi quyết định này đã "xóa bỏ không chỉ hàng trăm báo cáo nghiên cứu tâm thần và phân tâm học; mà cả một số nghiên cứu toàn diện bởi nhóm các bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học uy tín trong hơn 70 năm trước đó". Việc các biện pháp trị liệu không có tác dụng, sự không lây lan... không thể lấy làm lý do để loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh (ví dụ: Hội chứng Downcũng là không lây và hiện không thể chữa). Thực tế, tài liệu của APA cũng ghi nhận rằng với nhiều người, thiên hướng tình dục không phải là bẩm sinh, bất biến mà còn có sựảnh hưởng từ môi trường. Nhiều người đã xuất bản sách nói về sự tự từ bỏ thiên hướng đồng tính sau khi trị liệu tâm lý. Truyền thông đại chúng cũng góp sức lan truyền sự thiếu sót về khoa học đó khi không đăng tải những nghiên cứu dạng như vậy, trong khi lại loan tải những thông tin mà các tổ chức ủng hộ đồng tính đưa ra vì dễ bán chạy hơn.

Hiệp hội Tâm thần Trung Quốc thì không xếp đồng tính luyến ái trong phân loại rối loạn tâm thần vào năm 2001 sau 5 năm nghiên cứu, tuy nhiên nó được coi là một trong các tác nhân gây ra các chứng bệnh tâm thần khác, và quy trình điều trị đồng tính được quy định cụ thể (dù các cở sở điều trị đồng tính rất hiếm ở Trung Quốc)

Tiến sĩ Stanton L. Jones, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wheaton, nói rằng ông có Bảng tổng hợp ý kiến giữa các chuyên gia về điều này: "Tôi sẽ không coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh giống như tâm thần phân liệt hay rối loạn ám ảnh. Nhưng cũng không thể xem nó là một "lối sống bình thường" giống như kiểu sống nội tâm hoặc sống hướng ngoại." 

Các yếu tố hình thành

Xem thêm: Thiên hướng tình dục

Có nhiều giả thuyết về các yếu tố hình thành nên thiên hướng tình dục đồng tính, trong đó bao gồm:

Kiểu gen (bẩm sinh).: Nhiều người nghĩ đồng tính là bẩm sinh và do gen quyết định. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Peter Bearman và Hannah Bruckner, từ Đại học Columbia và Đại học Yale, khi nghiên cứu dữ liệu từ Trung tâm Y tế quốc gia vị thành niên, cho biết xác suất cả 2 người trong cặp song sinh đều là đồng tính chỉ là 6,7% với nam và 5,3% với nữ. Họ kết luận: kiểu gen chỉ là một trong những nguồn gốc của đồng tính luyến ái, những nguyên nhân khác như ảnh hưởng từ văn hóa, xã hội và gia đình với trẻ em đóng vai trò quan trọng hơn

Môi trường sống và sự dạy dỗ.

Sự tương quan với môi trường sống: đồng tính luyến ái có tương quan với sự đô thị hóa của nơi đối tượng ở lúc 14 tuổi (độ tuổi bắt đầu dậy thì và có sự định hình về hấp dẫn giới tính). Sự tương quan ở nam cao hơn ở nữ. Mức độ thị hóa càng cao thì tỷ lệ đồng tính càng có xu hướng tăng, nguyên nhân vì ở các thành phố lớn có các chuẩn mực đạo đức lỏng lẻo hơn, lối sống cá nhân cao hơn cũng như có nhiều tác động văn hóa-xã hội khó kiểm soát, khiến vị thành niên tại đó dễ có thiên hướng đồng tính hơn.

Yếu tố gia đình: sự thiếu bảo bọc của người cha và sự gắn bó quá mật thiết với người mẹ là nhân tố chính hình thành đồng tính ở nam giới. Đối với nữ, việc có mẹ qua đời ở tuổi vị thành niên, là con út hay con gái duy nhất trong gia đình cũng làm tăng khả năng đồng tính. Những người có cha mẹ ly hôn hoặc mất sớm sẽ có xu hướng đồng tính cao hơn những người có cha mẹ hạnh phúc
Chấn thương tâm lý: Việc bị chấn thương tâm lý do bị lạm dụng tình dục cũng là một yếu tố. Một nghiên cứu trong Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ phát hiện ra rằng "vị thành niên bị lạm dụng tình dục, đặc biệt là nam giới, có khả năng tự nhận mình là người đồng tính hay song tính cao gấp 7 lần so với những người không bị lạm dụng" Một nghiên cứu khác cho thấy rằng "46% nam đồng tính so với 7% của nam dị tính báo cáo rằng đã bị lạm dụng tình dục. Con số này tương ứng là 20% trong số đồng tính nữ so với 1% ở nữ dị tính".
Ảnh hưởng từ văn hóa xã hội: Khuôn mẫu tình dục của mỗi cá nhân là một sản phẩm của văn hóa xã hội. Những xã hội có xu hướng chấp nhận đồng tính thì sẽ có nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn. Tại Mỹ, đã có sự gia tăng số phụ nữ cảm thấy thu hút đồng tính. Nhà nghiên cứu Binnie Klein cho rằng "rõ ràng là một sự thay đổi trong xu hướng tình dục trong tâm trí nhiều người hơn hơn bao giờ hết, và có nhiều cơ hội hơn - và sự chấp nhận - để vượt qua làn ranh (về giới tính)" Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), cho biết: cùng với phong trào ủng hộ đồng tính lên cao, từ năm 1994, số đồng tính nam (ở Mỹ) đã tăng 18%, và số lượng đồng tính nữ còn tăng tới 157%. Điều này cho thấy những yếu tố văn hóa có tác động mạnh mẽ trong việc khuyến khích các hành vi đồng tính, và ít nhất là gián tiếp, làm suy yếu toàn bộ lý thuyết về việc "đồng tính là bẩm sinh".

Số lượng anh trai của đối tượng (đối với người đồng tính nam). Theo nhiều nhiên cứu, có thêm một người anh trai sẽ tăng khả năng là đồng tính lên 28%–48%. Hiệu ứng anh trai chiếm khoảng 1/7 trong số người đồng tính nam.[80] Không có sự tương quan giữa số chị gái và sự đồng tính của một người nữ.

Hoócmôn trong giai đoạn bào thai. Các chuyên gia của Viện Toán và Tổng hợp sinh học quốc gia (Mỹ) cho rằng đồng tính luyến ái có liên hệ với "ngoại tố di truyền học", gọi là epi-mark. Epi-mark về giới tính được sản sinh trong giai đoạn đầu bào thai, nhằm bảo vệ giới tính không bị testosterone ảnh hưởng, ngăn bào thai nữ phát triển theo hướng nam tính và ngược lại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, những epi-mark đó được truyền từ cha sang con gái hoặc từ mẹ sang con trai, gây hiệu ứng đảo nghịch về sự hấp dẫn giới tính.
Sự lo âu của người mẹ khi mang thai.
Tổng hợp của các yếu tố trên.

Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics) khẳng định rằng "Thiên hướng tình dục được quyết định bởi sự tổng hợp của kiểu gen, hoocmon và ảnh hưởng môi trường". Nhiều tranh cãi tiếp tục dựa trên các yếu tố sinh học và/hoặc tâm lí như kiểu gen và sự hoạt động của một số hoocmon ở bào thai. Sigmund Freud và các nhà tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố, trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến sĩ tâm lý học nổi tiếng người Tây Ban Nha là Enrique Rojas thì cho rằng: 95% nguyên nhân dẫn tới đồng tính là do các yếu tố môi trường như sự thiếu vắng quan tâm của người cha, người mẹ hung dữ hoặc bị lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu.

Nhà nghiên cứu Lisa Diamond, khi xem xét các nghiên cứu về xác định tình dục đồng tính và song tính của nữ, nói rằng nghiên cứu tìm thấy "sự thay đổi và tính linh động trong tình dục đồng giới, nó mâu thuẫn với mô hình thông thường cho rằng khuynh hướng tình dục là cố định và bẩm sinh" Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các hành vi không phù hợp với giới tính ở trẻ em là chỉ báo lớn nhất của tình dục đồng giới ở tuổi trưởng thành Dary Bem cho thấy rằng một số trẻ em khi chứng kiến hành vi tình dục đồng tính có thể gợi lên kích thích sinh lý, mà sau này sẽ được chuyển thành kích thích tình dục. Peter Bearman cho rằng những phát hiện của ông ủng hộ giả thuyết rằng hành vi giới tính trong thời thơ ấu và thiếu niên sẽ góp phần hình thành quan hệ đồng tính ở tuổi trưởng thành. Ngoài những tác động cá nhân, cấu trúc xã hội và những ảnh hưởng từ văn hóa xã hội cũng góp phần tạo ra sự thu hút đồng tính. Tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về đồng tính năm 2014, Alan Sanders, tuyên bố rằng "những đặc điểm phức tạp của khuynh hướng tình dục (bao gồm đồng tính) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ cả di truyền lẫn ảnh hưởng từ môi trường sống. Nhà nghiên cứu McConaghy (năm 2006) cho thấy không có mối quan hệ giữa mức độ xúc cảm đồng tính với hành vi đồng tính luyến ái, dẫn ông đến kết luận rằng ảnh hưởng của thứ tự sinh về mức độ xúc cảm đồng tính không phải do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.

Hai nhà nghiên cứu Bearman và Bruckner (năm 2002) đã nghiên cứu 289 cặp song sinh giống hệt nhau (song sinh cùng trứng) và 495 cặp cặp song sinh khác trứng và tìm thấy rằng chỉ có 7,7% cặp song sinh cùng trứng nam và 5,3% cặp song sinh cùng trứng nữ đều là đồng tính, một kết quả giúp họ đưa ra kết luận "không có cơ sở cho thấy ảnh hưởng của di truyền là độc lập với ảnh hưởng từ bối cảnh xã hội (đối với việc hình thành đồng tính luyến ái)."

Năm 2010, nghiên cứu của trường Queen Mary và Viện Nghiên cứu Karolinska ở Stockholm đã theo dõi 3.826 cặp song sinh cùng trứng và nhận thấy: dù có bộ gen giống hệt nhau, tỷ lệ số cặp song sinh cùng là đồng tính khi trưởng thành là rất thấp. Nghiên cứu kết luận: môi trường sống không chia sẻ là yếu tố đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành đồng tính luyến ái, trong khi yếu tố bẩm sinh chỉ có vai trò nhỏ tới trung bình. Cụ thể, ảnh hưởng từ di truyền chiếm 34-39%, ảnh hưởng từ môi trường sống không chia sẻ lên mỗi cá nhân (đã loại bỏ các yếu tố môi trường chia sẻ) chiếm 61-66% trong việc hình thành đồng tính nam, tỷ lệ tương ứng đối với đồng tính nữ là 18% và 80%

Tỷ lệ đồng tính trên dân số

Đối với những nhà nghiên cứu, việc xác định tỷ lệ người đồng tính và tỉ lệ người từng trải nghiệm tình dục đồng giới một cách đáng tin cậy là điều khó khăn vì nhiều lý do khác nhau, cũng như không rõ tỷ lệ này có khác nhau ở các nhóm dân tộc riêng biệt hay không. Nếu phân chia theo giới thì tỷ lệ nam đồng tính cao hơn khoảng 2 lần so với nữ đồng tính.

Ở các nước phương Tây hiện đại, theo nhiều ước tính, 1% đến 5% dân số phương Tây là đồng tính, và 2% đến 10% đã từng trải nghiệm vài dạng hành vi tình dục đồng giới trong cuộc đời. Trong một nghiên cứu 2006 ở Úc, có 20% số người trả lời từng có cảm giác về tình dục đồng giới, nhưng chỉ có 2% tự nhận là đồng tính (tức là có cảm giác yêu đương với người đồng giới).[cần dẫn nguồn] Thống kê quy mô nhất là ở Canada: khảo sát 121.300 người trên 18 tuổi, có 1,43% tự nhận mình là đồng tính hoặc song tính. 

Còn tại châu Á, có ít khảo sát về vấn đề này hơn. Tại Trung Quốc, một ước tính cho biết có khoảng 2,25 triệu đồng tính nam, chiếm khoảng 0,17% dân số. Tại Việt Nam, nghiên cứu do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số. Tại Indonesia, Bộ sức khỏe ước tính có khoảng 55.000 đồng tính nam trên cả nước (chiếm 0,025% dân số). Có thể thấy số người đồng tính ở châu Á thấp hơn rất nhiều so với Châu Âu, điều này có thể giải thích bởi yếu tố bối cảnh gia đình, văn hóa và xã hội ở châu Á ít tạo điều kiện cho việc hình thành thiên hướng đồng tính ở thanh thiếu niên (xem thêm tại Tính linh động của Thiên hướng tình dục).

Tính cố định hoặc linh động của thiên hướng tình dục.

Nhiều người cho rằng thiên hướng tình dục là không thể thay đổi giống như màu tóc, vân tay... Nhưng thực ra, thiên hướng tình dục (bao gồm đồng tính, dị tính hoặc song tính) không phải là cố định, nó có thể thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (APA) tuyên bố rằng "một số người tin rằng thiên hướng tình dục là bẩm sinh và cố định; Tuy nhiên, thực tế khuynh hướng tình dục luôn phát triển trong suốt cả một đời người". Trong một tuyên bố phát hành cùng với Tổ chức y tế Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ cho rằng "những người khác nhau nhận ra tại các điểm khác nhau trong cuộc đời rằng họ là dị tính, đồng tính nam, đồng tính nữ, hay song tính". Một báo cáo từ Trung tâm Y tế và sức khỏe tâm thần cho biết: "Đối với một số người, thiên hướng tình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời họ. Đối với những người khác, thiên hướng tình dục có thể là linh động và thay đổi theo thời gian". Nghiên cứu của Lisa Diamond về "Song tính nữ từ tuổi vị thành niên đến tuổi trưởng thành" cho thấy rằng có "tính lưu động đáng kể trong thiên hướng song tính, hoặc không rõ ràng, và đồng tính nữ tại thời điểm khảo sát, về hành vi và bản sắc".

Những nghiên cứu trên cho thấy: Tính cố định hoặc linh động của thiên hướng tình dục phụ thuộc vào từng cá nhân. Đối với nhiều người, thiên hướng tình dục là cố định và không thay đổi. Nhưng với nhiều người khác, điều này lại không phải là bẩm sinh mà nó có thể biến đổi theo thời gian, có thể từ dị tính sang đồng tính hoặc ngược lại. Sự biến đổi diễn ra như thế nào phụ thuộc vào yếu tố cá nhân và yếu tố môi trường (sự tác động của văn hóa xã hội, tôn giáo, gia đình, bạn bè...). Tiến sĩ Neil Whitehead và vợ ông là Briar, hai thành viên của tổ chức ủng hộ liệu pháp chuyển đổi NARTH, thông qua việc tổng kết nhều thống kê khác nhau, ghi nhận tuyên bố của van den Aardweg rằng: trong 2/3 những trường hợp mà ông điều trị, thiên hướng đồng tính đã biến mất hoặc chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện. 

Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng: nhiều người đã tự phủ định khuynh hướng đồng tính khi nó manh nha xuất hiện trong tâm trí họ nhằm tránh phải xung đột với các giá trị xã hội và tôn giáo. Sau khi xem xét các nghiên cứu, Judith Glassgold, chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ phụ trách về tâm lý tình dục, cho biết một số người có sự tự phủ định khuynh hướng đồng tính và "không có bằng chứng rõ ràng về tác hại (của sự tự phủ định này)" 

Năm 2006, Tiến sĩ Jeffrey Satinover cho biết: đã tồn tại các bằng chứng vững chắc dịch tễ học, được xác nhận và khẳng định rộng rãi, rằng đồng tính luyến ái thể hiện thường xuyên nhất ở tuổi vị thành niên. Đối với một số vị thành niên, khuynh hướng đồng tính sẽ duy trì mãi về sau, nhưng với số còn lại, nó sẽ giảm một cách tự nhiên theo sự trưởng thành, và cuối cùng sẽ biến mất, trừ khi nó được "hỗ trợ và khuyến khích". Ông cũng ghi nhận rằng các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển giới tính của những người trẻ tuổi là bối cảnh xã hội và gia đình. Do đó, nếu xã hội ngày càng dung nạp hoặc cổ vũ cho đồng tính luyến ái thì sẽ "dẫn đến số lượng ngày càng gia tăng của những người tự nhận mình là đồng tính". Lập luận này của Satinover được ông trích dẫn nhiều số liệu thống kê để chứng minh.

Nghiên cứu khácai? ở Canada năm 2004 cho biết: với những người thuộc nhóm trên 65 tuổi, tỷ lệ tự nhận mình là đồng tính hoặc song tính là 0,37%, thấp hơn gần 6 lần so với tỷ lệ 1,96% ở nhóm 18-34 tuổi.[cần dẫn nguồn] Nghiên cứu 7.500 người ở Úc năm 2003 cho thấy: ở độ tuổi 20-24, tỷ lệ đồng tính nam là 2,8% và đồng tính nữ là 4,6%, nhưng đến độ tuổi 50-54, tỷ lệ tương ứng đã tụt xuống còn 1,9% và 1%. Nghiên cứu về thanh niên trong độ tuổi 21-26 ở New Zealand cho thấy: 1,9% nam giới từ đồng tính trở thành bình thường, trong khi 1% từ bình thường trở thành đồng tính (con số tương ứng ở nữ là 9,5% và 1,3%); hấp dẫn đồng tính là không ổn định ở tuổi dậy thì, đặc biệt là ở nữ; tỷ lệ đồng tính nữ ở New Zealand cao hơn nhiều so với Anh và Mỹ (2 nước có thái độ xã hội khắt khe với đồng tính hơn so với New Zealand). Những quan sát này, cùng với sự thay đổi về giáo dục, phù hợp với một vai trò tác động to lớn của môi trường xã hội tạo nên người đồng tính

Các vấn đề tâm lý và lối sống

Trong khi theo quan điểm của nhiều người, những hành vi đồng tính là ‘không tự nhiên’ và ‘không bình thường’,[36] những nghiên cứu chỉ ra rằng đồng tính luyến ái là một ví dụ cho thấy sự đa dạng của tình dục loài người và nó không phải là nguyên nhân dẫn tới ảnh hưởng tâm lí xấu. Từ cuối những năm 1990, nhiều nghiên cứu ngẫu nhiênai? đã buộc các nhà tâm lý trị liệu xác nhận rằng đồng tính và song tính luyến ái đi kèm với tỷ lệ gia tăng của bệnh tâm thần, nhưng họ nhanh chóng chỉ ra rằng đó là kết quả của sự phân biệt đối xử, thành kiến và kỳ thị.

Tuy nhiên, Luật sư Mathew D. Staver, chủ tịch tổ chức chống đồng tính Liberty Counsel, trong sách "Same Sex Marriage: Putting Every Household At Risk" nói rằng có nhiều nghiên cứu trong những năm gần đây đã lập luận chống lại quan niệm này, và cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy bản chất của người đồng tính và song tính luôn có liên kết với sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh tâm thần, bất kể dù họ không bị kỳ thị. Ông Mathew D. Staver còn dẫn báo cáo trong Tạp chí sức khỏe tâm thần Havard, cho biết tỷ lệ người đồng tính Hà Lan gặp phải vấn đề tâm lý vẫn cao hơn rất nhiều mức trung bình, dù Hà Lan là nước đặc biệt cởi mở với đồng tính và hôn nhân đồng tính ở đây là hợp pháp. 

Theo nghiên cứu công bố năm 1997 của Paul Van de Ven và cộng sự trên 256 người đồng tính cao tuổi (trên 49 tuổi), phần lớn ở Úc và New Zealand, về số lượng đối tác tình dục cho thấy: 21,6% có từ 100 đến 500 bạn tình, chỉ 2,7% có duy nhất 1 bạn tình, các nhóm khác (gồm 2-10, 11-20, 21-50, 51-100, 501-1.000 và trên 1.000 bạn tình) chiếm tỉ lệ dao động từ 10,2-15,7%. Khoảng 45% đã có quan hệ tình dục với từ 2 tới 10 bạn tình trong vòng 6 tháng gần nhất. Khảo sát năm 1991 ở New York của Meyer-Balburg H. Exner và cộng sự trên 121 nam đồng tính có HIV và 81 nam đồng tính không có HIV cho kết quả: mỗi đồng tính nam có HIV, là nhóm có nhiều hành vi nguy cơ nhất, có trung bình 308 đối tác tình dục trong suốt cuộc đời, trong khi con số này của đồng tính nam không có HIV, nhóm có hành vi nguy cơ ít hơn, là 143. Đối với đồng tính nữ cũng tương tự, nhiều người có quan hệ tình dục với cả nam lẫn nữ. Tỷ lệ đồng tính nữ đã có hơn 50 bạn tình nam giới cao hơn gấp 4 lần so với phụ nữ bình thường..

Khảo sát tại Mỹ cho thấy: 32% người đồng tính nghiện rượu, tỷ lệ lạm dụng thuốc của người đồng tính là khoảng 28-35%, so với tỷ lệ 10-12% trong dân số nói chung. Một nghiên cứu năm 2012 của Trung tâm tiến bộ Hoa Kỳ (tổ chức chuyên nghiên cứu chính sách công cộng) cho biết: 25% người đồng tính và chuyển giới nghiện rượu so với mức 5-10% của toàn nước Mỹ, đồng tính nam có tỷ lệ nghiện thuốc lá cao hơn 2 lần, tỷ lệ dùng chất kích thích gấp 12 lần, dùng cần sa gấp 3,5 lần và heroin gấp 9,5 lần so với nhóm nam giới còn lại.[cần dẫn nguồn] Các nghiên cứu phát hiện ra rằng người đồng tính ở Đan Mạch - nơi rất khoan dung với đồng tính - có tuổi thọ trung bình chỉ là 51 đối với nam và 56 với nữ, trong khi tuổi trung bình của người Đan Mạch là 74 với nam và 78 với nữ. Ở Na Uy, đồng tính có tuổi thọ trung bình thấp hơn 25 tuổi so với trung bình cả nước. 

Theo tiến sĩ Richard Fitzgibbons thuộc tổ chức thúc đẩy sức khỏe hôn nhân Institute for Marital Healing (Viện Chữa trị Hôn Nhân) thì ông quan sát thấy có bằng chứng rằng đồng tính luyến ái tự nó là một biểu hiện của một rối loạn tâm lý. Fitzgibbons cho rằng chứng rối loạn này được đi kèm với một loạt các vấn đề sức khỏe tâm thần, bao gồm cả "trầm cảm nặng, ý định tự sát, rối loạn lo âu, lạm dụng chất kích thích, rối loạn hành vi, lòng tự trọng thấp ở nam giới và quan hệ tình dục bừa bãi, không có khả năng duy trì các mối quan hệ đã cam kết". Tiến sĩ Neil Whitehead cho biết: "Các nghiên cứu gần đây cho thấy người đồng tính có nguy cơ bị các vấn đề tâm thần lớn hơn đáng kể so với người dị tính... tỷ lệ tự tử, trầm cảm, chứng háu ăn, rối loạn nhân cách chống xã hội, và lạm dụng chất kích thích cao hơn. Các nghiên cứu được thực hiện tại Hà Lan cho thấy rất nhiều chứng tâm thần ở những người đồng tính, dù đây là đất nước mà sự khoan dung với đồng tính lớn hơn ở hầu hết các nước khác. Sự kỳ thị xã hội lớn hơn tại Hoa Kỳ đã không dẫn đến mức độ cao hơn của các vấn đề tâm thần." Ông khẳng định: "Lý do phù hợp nhất chính là đồng tính luyến ái - tự bản thân nó, trong hình thức cực đoan nhất của nó, chính là sự rối loạn tâm lý". Vì vậy theo các nhà nghiên cứu này, trong tương lai, sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi buộc phải ghi nhận việc điều trị tâm lý đối với người đồng tính và song tính. Theo Tiến sĩ Neil Whitehead thì trong tương lai, các nghiên cứu sâu hơn và không bị chính trị can thiệp có thể sẽ đưa đồng tính trở lại danh sách các chứng bệnh tâm thần. 

Quan hệ tình cảm

Bài chi tiết: Quan hệ đồng giới

Mỗi người đồng tính có thể thể hiện tình dục của họ bằng cách này hay cách khác, và cũng có thể không có hành vi nào thể hiện ra. Một số chủ yếu quan hệ tình dục với người cùng giới, một số chủ yếu với người khác giới, cả hai giới hoặc kiêng tình dục. Nghiên cứu cho thấy nhiều người đồng tính mong muốn có mối quan hệ bền vững và một phần trong số họ cũng đã thực hiện được. Một kết quả thống kê cho thấy 40% đến 60% đồng tính nam và 45% đến 80% đồng tính nữ hiện đang có một quan hệ tình cảm. Có những nghiên cứu cho thấy các cặp đồng tính và các cặp dị tính là tương đương nhau về mặt toại nguyện và sự gắn kết nhiều hay ít trong quan hệ tình cảm. Nghiên cứu cho thấy đặc điểm tuổi tác và giới tính có liên quan nhiều đến sự toại nguyện và sự gắn kết hơn là thiên hướng tình dục; người đồng tính và người dị tính có chung những mong muốn và lý tưởng trong tình cảm.

Tuy nhiên thống kê cũng cho thấy chỉ có 18-28% cặp đồng tính nam và 8-21% cặp đồng tính nữ ở Hoa Kỳ đã sống với nhau được 10 năm trở lên. Khảo sát ở Na Uy và Thụy Điển cho thấy: các cặp đồng tính nam có tỷ lệ ly hôn cao hơn 50%, với đồng tính nữ cao hơn 167% so với các cặp vợ chồng nam-nữ thông thường. Đại học Chicago và nhà xã hội học Edward Laumann lập luận rằng "cư dân đồng tính điển hình trong thành phố dành hầu hết cuộc sống trong các mối quan hệ tình cảm mang tính "giao dịch", hoặc chỉ duy trì được quan hệ ngắn hơn sáu tháng".

Một nghiên cứu về đồng tính nam ở Hà Lan được công bố trong tạp chí AIDS phát hiện ra rằng "thời gian có quan hệ ổn định" với mỗi bạn tình chỉ là 1 năm rưỡi, và mỗi đồng tính nam có trung bình 8 đối tác tình dục mỗi năm. Đối với đồng tính nữ, nhiều người có quan hệ tình dục với cả nam giới. Tỷ lệ đồng tính nữ đã có hơn 50 bạn tình nam giới cao hơn gấp 4 lần so với phụ nữ bình thường. Như vậy quan hệ giữa các cặp đồng tính kém bền vững hơn nhiều các cặp dị tính, trong khi số bạn tình lại nhiều hơn hẳn. Lý do được đưa ra là họ ít có ràng buộc, chẳng hạn như không có hôn thú và con cái, bên cạnh đó là do lối sống thích tìm kiếm nhiều bạn tình mới của họ. Trong nghiên cứu của Michael Pollack, ông thấy rằng "ít khi mối quan hệ đồng tính kéo dài hơn hai năm, nhiều đàn ông đồng tính cho biết họ đã có hàng trăm bạn tình"

Các tổ chức ủng hộ đồng tính vẫn tuyên truyền rằng tình yêu đồng tính không có gì khác biệt so với tình yêu nam-nữ, tuy nhiên thực tế lại rất khác. Chính bản thân "văn hóa đồng tính" luôn thôi thúc người đồng tính liên tục tìm kiếm các bạn tình mới, thay vì tôn trọng chế độ một vợ một chồng như các cặp dị tính.[140] Andrew Sullivan, một tác giả nổi tiếng về đồng tính, cho biết các cặp đồng tính có các tiêu chuẩn đạo đức rất khác biệt so với thông thường. Một trong số đó là "sự tồn tại các bạn tình ngoài hôn nhân", họ luôn muốn tìm nhiều bạn tình riêng dù vẫn đang chung sống với nhau. Các cặp đồng tính không xem đó là hành vi ngoại tình mà lại coi đó là điều cần thiết trong lối sống của họ.

Một khảo sát của Tạp chí Nghiên cứu Giới tính cho thấy: chỉ có 2,7% số người đồng tính lớn tuổi là chung thủy với duy nhất 1 bạn tình trong suốt cuộc đời của họ, so với tỷ lệ trên 80% ở những người bình thường. Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Giới tính, Paul Van de Ven khảo sát 2.583 nam đồng tính lớn tuổi và thấy rằng "số lượng bạn tình phổ biến (của nam đồng tính) là 101-500. Ngoài ra, 10,2% đến 15,7% đã có từ 501 đến 1.000 bạn tình. 10,2% đến 15,7% cho biết đã có hơn 1.000 bạn tình.

Nghiên cứu của Sondra E. Solomon và Esther D. Rothblum cho biết: khi được hỏi về thái độ đối với việc quan hệ tình dục với người khác ngoài bạn tình, 40,3% nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) đã từng thảo luận và chấp nhận điều đó trong vài hoàn cảnh, so với chỉ 3,5% ở nam giới đã kết hôn với nữ; số nam đồng tính phản đối là 50,4% so với 78,6% ở nam giới kết hôn với nữ. Có 58,3% nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) có quan hệ tình dục ngoài bạn tình, so với 15,2% ở nam kết hôn với nữ.

Nhà nghiên cứu Brad Hayton cung cấp cái nhìn sâu sắc thái độ của nhiều người đồng tính đối với cam kết hôn nhân:

Người đồng tính có niềm tin rằng mối quan hệ hôn nhân chỉ là tạm thời và chủ yếu là vì bản năng tình dục. Quan hệ tình dục giữa họ chủ yếu vì niềm vui chứ không phải vì sự sinh sản. Và họ tin rằng nguyên tắc một vợ một chồng trong hôn nhân không phải là tiêu chuẩn và cũng không cần được khuyến khích.


Khả năng thay đổi

Xem thêm: Liệu pháp chuyển đổi

Vài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện quy tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Các tổ chức này thường có quan hệ mật thiết với các nhóm tôn giáo. Năm 2009, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, sau khi xem xét 83 cuộc nghiên cứu về các liệu pháp chuyển đổi được thực hiện từ năm 1960, đã tuyên bố không có bằng chứng cho thấy nỗ lực thay đổi thiên hướng tình dục sẽ đưa lại kết quả, và cho biết một số nghiên cứu cho thấy các nỗ lực này có thể sẽ gây hại, dẫn đến sầu muộn và các ý tưởng tự tử. Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời và họ tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người. Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì lo ngại có tác hại nào đó. Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học tại Hoa Kỳ bị tranh cãi nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép. Năm 2012, tiểu bang California ở Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cấm áp dụng liệu pháp chuyển đổi đối với vị thành niên.

Tuy nhiên, các nhà ủng hộ liệu pháp trị liệu thì cho rằng họ đã đạt thành công trong nhiều trường hợp. Theo báo cáo của Jeffrey Satinover, ông đạt được tỉ lệ 50-70% thành công trong việc thay đổi khuynh hướng tình dục từ đồng tính trở thành bình thường. Các nghiên cứu tương tự đã khiến một số chuyên gia thừa nhận rằng khuynh hướng tình dục không phải là bất biến và việc thay đổi nó là có thể. Nhiều người đồng tính (dù không phải là tất cả) có thể thay đổi khuynh hướng tình dục của mình thông qua một loạt các nỗ lực tâm lý và tư vấn. Báo cáo năm 2009 của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ cũng có đánh giá đột phá về trị liệu đối với khách hàng đồng tính muốn đấu tranh để vẫn trung thành với đức tin tôn giáo và không chấp nhận mình là đồng tính. Chủ tịch của Liên minh Công giáo quốc tế, Alan Chambers, mô tả bản thân mình là một người "đã vượt qua thu hút đồng tính không mong muốn", và ông bày tỏ sự hài lòng với phần này của báo cáo.

Bà Judith Glassgold hi vọng rằng báo cáo 2009 sẽ làm dịu tranh cãi giữa 2 bên ủng hộ và phản đối: "Các nhà tâm lý tôn giáo nên nhìn nhận khía cạnh tích cực của người đồng tính. Các nhà trị liệu thế tục thì phải nhận ra rằng một số người sẽ chọn đức tin của họ thay vì ham muốn tình dục.".

Đồng tính luyến ái và rối loạn định dạng giới

Bài chi tiết: Rối loạn định dạng giới

Cần phân biệt người có xu hướng tình dục đồng giới khác với ba dạng khác:

Trạng thái tự cho bản thân thuộc giới tính khác: những người hoàn toàn bình thường về giải phẫu và sinh học nhưng tự cho bản thân thuộc giới tính khác và tìm cách thực hiện ý định chuyển đổi giới tính bằng các phương pháp phẫu thuật và sinh hóa (tiêm Hormone).


Trạng thái tự cải trang quần áo để biểu lộ thành giới khác: là những người chỉ thích mặc quần áo khác giới để cảm thấy mình đặc biệt so với người khác.

Những trường hợp này còn gọi là Rối loạn định dạng giới (gender identity disorder). Rối loạn định dạng giới được phân loại như là một chứng rối loạn tâm thần bởi Trung tâm quốc tế về Phân loại bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan, biểu hiện của nó là những hành vi, thái độ chối bỏ giới tính của bản thân mình, gồm 3 tiêu chuẩn chẩn đoán: 

Muốn được sống và chấp nhận như một người khác giới tính, thường đi kèm với những mong muốn làm cho cơ thể, ngoại hình càng giống người khác giới càng tốt (qua trang phục, đi đứng, cách cư xử, thậm chí qua phẫu thuật chuyển giới), dù các bộ phận giới tính và sinh lý cơ thể của họ hoàn toàn bình thường và không bị dị tật.

Tâm lý trên tồn tại liên tục trong ít nhất hai năm.
Rối loạn này không phải là một triệu chứng của một chứng rối loạn tâm thần khác hoặc sự bất thường của nhiễm sắc thể.

Như vậy, Đồng tính luyến ái không phải là rối loạn định dạng giới. Nhưng ngược lại, Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì bệnh nhân sẽ chuyển biến thành Đồng tính luyến ái hoặc sẽ đi tiến hành chuyển đổi giới tính. Một nghiên cứu của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ cũng khẳng định: 75% thiếu niên bị rối loạn định dạng giới sẽ có xu hướng đồng tính khi bước vào tuổi vị thành niên. 

Nhân khẩu học và tự nhiên học

Nhân khẩu học

Bài chi tiết: Nhân khẩu học thiên hướng tình dục

Thống kê tỉ lệ người đồng tính gặp phải một số khó khăn:

Phải lựa chọn yếu tố nào để xác định một người là đồng tính. Số người có ham muốn quan hệ đồng giới có thể nhiều hơn số người thực hiện ham muốn đó, hoặc số người thực hiện này lại có thể nhiều hơn số người tự nhận mình là đồng tính/song tính.

Số liệu về tỉ lệ người đồng tính có ý nghĩa trong việc hoạch định các chính sách chẳng hạn như xác định chi phí và phúc lợi của từng gia đình, tác động của việc hợp pháp hóa đồng tính.

Tỉ lệ người hoàn toàn đồng tính trong dân chúng (ở các nước phương Tây) là từ 1% đến 10% tùy theo các nghiên cứu khác nhau, đồng tính nam nhiều hơn đồng tính nữ. Ở các nước phương Đông chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng các ước tính tỷ lệ này có phần thấp hơn phương Tây (thường dưới 1% dân số)

Các số liệu thay đổi tùy quốc gia. Một nghiên cứu 1992 cho thấy 6,1% nam giới ở Vương quốc Anh từng có hành vi tình dục đồng tính, trong khi ở Pháp là 4,1%.[160] Theo một thống kê 2003, 12% người Na Uy từng có hành vi quan hệ tình dục đồng giới. Trong một cuộc thăm dò 2008, trong khi chỉ có 6% người Anh tự nhận là đồng tính hoặc song tính, 13% người Anh đã từng có hành vi tình dục nào đó với người cùng giới.

Tự nhiên học

Bài chi tiết: Đồng tính luyến ái ở loài vật

Roy và Silo, hai con chim cánh cụt đực ở vườn thú Trung tâm, New York, tương tự như trong hình, đã nổi tiếng trên thế giới khi chúng cặp đôi và được cho một trứng để ấp và nuôi con. Chúng đã thành công.

Hành vi đồng tính cũng có ở nhiều loài động vật. Các biểu hiện về hành vi đồng tính thật sự có ở một số loài trong thế giới động vật, đặc biệt trong các loài chim biển, động vật có vú, khỉ và các loài linh trưởng lớn. Đã có 1500 trường hợp được quan sát, trong đó có khoảng 500 trường hợp được miêu tả khá cụ thể.

Có những đôi chim cánh cụt đực coi nhau như những người bạn đời. Chúng xây tổ cùng nhau, lấy một hòn đá thay trứng để ấp. Năm 2004, ở Central Park Zoo, Mỹ, người ta đã thay một hòn đá của đôi chim cánh cụt đực bằng một quả trứng thật, kết quả là đôi chim đó đã chăm sóc quả trứng này cũng như con non nở ra như chính con của chúng. Hiện tượng này cũng được báo cáo bởi một số vườn thú khác. Jannet Mann, giáo sư của Đại học Georgetown cho rằng, các biểu hiện đồng tính ở động vật, ít nhất là ở cá heo, là một giải pháp về tiến hóa để giảm thiểu sự xâm chiếm lãnh thổ, đặc biệt là giữa những con đực

Tuy vậy, theo nhà di truyền học Simon Levay vào năm 1996 thì: "Mặc dù hành vi tình dục đồng giới là khá phổ biến trong thế giới động vật, nhưng có vẻ là rất hiếm khi các loài vật có khuynh hướng lâu dài để tham gia vào các hành vi như vậy trong khi lại từ chối các hoạt động tình dục khác giới tính. Thiên hướng tình dục đồng tính (thuật ngữ được dùng với loài người), nếu chúng ta có thể nói về điều đó ở động vật, có vẻ là rất hiếm". Chỉ có một loài động vật (trừ loài người) được ghi nhận là có những cá thể đực chỉ giao phối đồng tính trong khi từ chối giao phối với những con cái, đó là cừu Ovis.

Đồng tính luyến ái và luật pháp.

Bài chi tiết: Luật về đồng tính luyến ái

Luật pháp trên thế giới về đồng tính luyến ái

Mặc dù đồng tính luyến ái đã không còn bị coi là phạm pháp nhiều nơi ở phương Tây, chẳng hạn như. Ba Lan 1932, Đan Mạch 1933,Thụy Điển 1944 và Anh 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70. Một bước ngoặt quan trọng là vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đưa đồng tính luyến ái ra khỏi Danh sách các rối loạn tâm thần. Năm 1977, Québec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục.  Những năm 80 và 90, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Tính tới cuối năm 2013, trong tổng số 207 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có 16 quốc gia đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, 17 nước chấp nhận hình thức đăng ký sống chung. Ngược lại, có khoảng 80 nước coi hành vi đồng tính là tội phạm với các mức án phạt khác nhau (có 8 nước có mức án tử hình).

Tới năm 2013, không có quốc gia Châu Á nào công nhận hôn nhân đồng tính hoặc đăng ký sống chung. Tại Thái Lan có cộng đồng LGBT sôi nổi, nhưng điều này chỉ có ở ngành kinh doanh giải trí thu lợi nhuận vốn tách biệt với nền chính trị và xã hội Thái bảo thủ. Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Ở Singapore, quan hệ tình dục đồng tính nam là bất hợp pháp tuy nhiên luật này thường không được thực thi. Năm 2003 ở Đài Loan, một dự luật được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã không đạt đủ số phiếu để thông qua. Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân đồng tính thì không được công nhận.

Ở khu vực Trung Đông vốn tập trung nhiều nước đạo Hồi, đồng tính luyến ái bị pháp luật cấm nghiêm khắc. Duy nhất ở Israel, quyền của người đồng tính được pháp luật hỗ trợ. Israel là nước có tỉ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao nhất thế giới với 61% người dân ủng hộ. Israel là nước châu Á đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận sự chung sống không đăng ký của cặp đôi đồng giới. Mặc dù chưa công nhận hôn nhân đồng giới, Israel là quốc gia Trung Đông đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận hôn nhân đồng giới ở nước khác. Kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục bị cấm vào năm 1992. Theo một quyết định năm 2008, các cặp đồng giới cũng được quyền nhận con nuôi. Ở đây, người đồng tính được quyền công khai tham gia quân ngũ. 

Hôn nhân đồng giới

Việc công nhận hôn nhân đồng tính hay không là chủ đề tranh cãi tại nhiều nơi trên thế giới. Những người ủng hộ cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng tính là thể hiện sự bình đẳng giữa con người, rằng pháp luật không nên ngăn cản việc kết hôn của con người nếu họ thực sự muốn vậy. Ngược lại, nhiều người phản đối hôn nhân đồng tính bởi lo ngại những hệ lụy mà nó gây ra cho xã hội, đặc biệt là với trẻ em.

Từ đầu thế kỷ 21, một số nước Tây phương bắt đầu công nhận hôn nhân đồng tính. Tính đến cuối năm 2013 đã có 16 quốc gia trên thế giới công nhận, bao gồm: Anh, Argentina,Bỉ, Bồ Đào Nha, Brasil, Canada, Đan Mạch, Iceland, Hà Lan, Na Uy, Nam Phi, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, và Uruguay; thêm vào đó nhiều địa phương cấp thấp hơn (bang, thành phố) ở México và Hoa Kỳ cũng công nhận. Tại nhiều nước phương Tây, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ngày càng có nhiều người ủng hộ hôn nhân đồng tính. Mặt khác, tại các nước Hồi giáo và các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi, các cuộc thăm dò ý kiến vẫn cho thấy người dân kịch liệt phản đối người đồng tính cũng như hôn nhân đồng tính.

Bài hay đoạn này cần người am hiểu về chủ đề chú thích dài như thế kỷ biên tập lại.

Bạn có thể giúp chỉnh sửa bài hoặc nhờ một ai đó. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.

Các tổ chức khoa học ủng hộ hôn nhân đồng tính gồm có: Hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Hội Tâm lý học Canada, Đoàn Bác sĩ Tâm lý Hoàng gia, Hội Xã hội học Hoa Kỳ, Hội Y khoa Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ, Hội Nhân loại học Hoa Kỳ. Các tổ chức này cho rằng các nghiên cứu chuyên ngành của họ cho thấy hôn nhân đồng tính không tác hại đến xã hội mà còn đem lại nhiều cái lợi về mặt tinh thần và sức khỏe cho những người đồng tính cũng như con cái họ.

Các tổ chức phản đối hôn nhân đồng tính bao gồm chủ yếu là các tổ chức tôn giáo (ví dụ như Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ, Tổ chức Tầm nhìn nước Mỹ, Hội đồng Nghiên cứu gia đình,Viện Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ, Tổ chức Quốc gia về hôn nhân...). Các tổ chức này tuyên bố: việc họ phản đối hôn nhân đồng tính là nhằm bảo vệ các giá trị gia đình truyền thống, bảo vệ trẻ em trước các tác động tiêu cực của hôn nhân đồng tính. Các tổ chức này cho rằng hôn nhân đồng giới sẽ làm xói mòn định nghĩa, giá trị truyền thống về hôn nhân giữa nam và nữ từ lâu nay, khiến việc sinh con ngoài giá thú phổ biến hơn, mục đích cơ bản nhất của hôn nhân (sinh sản và chăm sóc trẻ em) sẽ bị coi thường, tước đi quyền có được cả cha lẫn mẹ của trẻ em và điều này sẽ khiến trẻ em chịu nhiều ảnh hưởng về tâm lý và lối sống, các vấn đề này sẽ dẫn đến nhiều tác động tiêu cực cho tương lai của xã hội. (xem chi tiết tại Phản đối hôn nhân đồng tính).

Người đồng tính nuôi dạy trẻ em.

Bài chi tiết: Người đồng tính, song tính hoặc hoán tính làm cha mẹ

Một cặp đồng tính nam và con nuôi

Giáo sư Judith Stacey thuộc Đại học New York cho biết: "Hiếm khi nào có nhiều sự đồng thuận trong bất kỳ lĩnh vực khoa học xã hội như vấn đề nuội dạy con cái của cha mẹ đồng tính, đó là lý do Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và tất cả các tổ chức nghề nghiệp lớn có chuyên môn liên quan tới phúc lợi xã hội về trẻ em đã ban hành báo cáo và nghị quyết ủng hộ quyền làm cha mẹ của người đồng tính nam và đồng tính nữ. 

Tất cả các hội ngành nghề nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp lớn và uy tín nhất thế giới về tâm thần học, tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, trẻ em học, lao động học... của Hoa Kỳ, Canada và Australia như: Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ,Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ, Hiệp hội nhân chủng học Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội phân tâm học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Canada, Hiệp hội tâm lý - xã hội học Úc, Đại học tâm lý học hoàng gia Ạnh... đều đồng thuận rằng:

Không có sự liên quan giữa thiên hướng tình dục của cha mẹ với sự phát triển của trẻ em. Sự thành công của trẻ em phụ thuộc vào chất lượng gia đình (mối quan hệ hạnh phúc của cặp cha mẹ, mối quan hệ đối xử và nuôi dạy của cha mẹ với con cái, sự hỗ trợ của xã hội với họ...), không phụ thuộc vào khuynh hướng tình dục của cha mẹ.

Các cặp cha mẹ đồng tính nam và đồng tính nữ đều có khả năng nuôi dạy con cái tốt như các cha mẹ dị tính.
Trẻ em nuôi dạy bởi các cặp cha mẹ đồng tính nam và đồng tính nữ có sự phát triển bình thường và lành mạnh về tâm sinh lý, thể chất, giới tính và hành vi xã hội.
Bác bỏ quan điểm của các cá nhân, tổ chức chống đối hôn nhân đồng tính rằng trẻ em nuôi bởi các cha mẹ đồng tính dễ trở thành đồng tính hơn hay thể hiện sự phát triển tâm lý lệch lạc. Các quan điểm này không được hỗ trợ bởi khoa học hoặc dựa vào số ít các nghiên cứu có sai sót nghiêm trọng về phương pháp luận đã bị bác bỏ. Không có bất kỳ bằng chứng thuyết phục nào hỗ trợ cho quan điểm con cái nuôi bởi các cha mẹ đồng tính là không tốt bằng hay có bất cứ nguy cơ nào so với con cái của các cha mẹ khác giới.

Nhiều người đồng tính, song tính có thể trở thành cha hoặc mẹ bằng nhiều cách như xin con nuôi, thụ tinh nhân tạo hoặc nhận đỡ đầu hoặc có khi có con riêng của một người với vợ hoặc chồng cũ là dị tính luyến ái, hoặc nhờ sinh con hộ. Theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, 33% cặp đồng giới nữ và 22% cặp đồng giới nam đang sống với ít nhất một người con dưới 18 tuổi. Vài trẻ không biết rằng cha/mẹ của chúng là người đồng tính/song tính. Tình trạng công khai thiên hướng tình dục cũng khác nhau và vài người không bao giờ công khai với con mình. 

Người LGBT làm cha mẹ nói chung và nhận con nuôi nói riêng là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều nước phương Tây và thường được xem là cuộc chiến văn hóa giữa quan niệm bảo thủ và tự do. Tháng 1 năm 2008, Tòa án châu Âu về quyền con người tuyên bố các cặp cùng giới có quyền nhận con nuôi. Ở Hoa Kỳ, người đồng tính/song tính có thể nhận con nuôi một cách hợp pháp ở tất cả các tiểu bang trừ Florida.

Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy kết quả rằng người đồng tính cũng thích hợp và có khả năng làm cha/mẹ như người dị. Các nghiên cứu này ghi nhận rằng không có sự liên quan giữa thiên hướng tình dục của cha/mẹ với sự điều chỉnh tình cảm, tâm lý và hành vi của đứa trẻ và hôn nhân sẽ nâng cao tình trạng tài chính, tâm lý, thể chất và rằng việc được nuôi dưỡng bởi một cặp được pháp luật công nhận sẽ tốt cho đứa trẻ. Giáo sư Judith Stacey, Đại học New York cho rằng khoa học xã hội có sự đồng thuận cao về vấn đề con nuôi của người đồng tính, do đó Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và các tổ chức chuyên ngành về bảo vệ trẻ em đã có những báo cáo hỗ trợ quyền nuôi con của người đồng tính.

Một vấn đề quan tâm là khi con cái được nuôi bởi những người đồng tính có khả năng trở thành đồng tính khi lớn lên hay bị rối loạn về giới tính hay không. Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học như Kirk Patrick, Susan Golombok, Ann Spencer, Michael Rutter, Richard Green... cho biết: Khi nghiên cứu các cặp sinh đôi và con nuôi của các cặp đồng tính nữ, bằng chứng cho thấy thiên hướng tình dục là kết quả tác động phức tạp từ cả yếu tố sinh học và yếu tố môi trường và sự nuôi dạy. Các nghiên cứu này đã tìm thấy sự liên hệ về việc phát triển thiên hướng tình dục của trẻ em theo chiều hướng tương tự như cha mẹ nuôi của chúng, có nghĩa là nếu cha mẹ nuôi là người đồng tính thì khả năng đứa trẻ có hành vi đồng tính sẽ tăng lên (để biết thêm chi tiết, xin mời đọc Yếu tố môi trường trong thiên hướng tình dục). 

Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ gặp phải nhiều vấn đề hơn hẳn so với con cái của những gia đình thông thường, cụ thể

Áp phích của Phong trào Bảo vệ trẻ em của chúng ta tại Mỹ

Vấn đề gặp phảiCon nuôi cặp đồng tính nữCon nuôi cặp đồng tính namGia đình thông thường
Thất nghiệp28%20%15%
Có ý định tự tử12%24%9%
Phải điều trị tâm lý gần đây19%19%9%
Có quan hệ đồng tính7%12%2%
Bị cưỡng ép quan hệ tình dục31%25%11%

Mark Regnerus tin rằng còn quá sớm đưa ra các kết luận sâu rộng về ảnh hưởng đối với con cái của các cặp đồng tính, và hiện không có bằng chứng thuyết phục rằng con cái của cặp đồng tính khác biệt so với những đứa trẻ có đủ cha mẹ. Trước khi có nhiều bằng chứng hơn, Nhà nước nên thận trọng và nên quy định hôn nhân trong phạm vi truyền thống (1 nam và 1 nữ), Regnerus tin rằng đó là điều tốt nhất dành cho trẻ em. 

Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài hạn, cũng như bản chất "bất ổn định" của cặp đồng tính. Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc "cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường". Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính.

Sau khi Mark Regnerus công bố nghiên cứu của mình trên một tạp chí, hơn 200 nhà khoa học đã cùng ký tên và gửi một bức thư cho tạp chí này bày tỏ "những mối lo ngại đáng kể về giá trị của bài báo này". Các nhà nghiên cứu đã cùng chỉ ra nhiều bất ổn, không phù hợp thực tế, không chính xác trong phương pháp luận của Regnerus, cũng như đặt nghi vấn về quá trình mà tạp chí này đã tiếp nhận, xem xét, chấp nhận nghiên cứu của Regnerus và cho phép xuất bản không đảm bảo thời gian yêu cầu. Đại học Texas (nơi Mark Regnerus làm việc) đã đưa ra tuyên bố: "Nghiên cứu này của Mark Regnerus là của riêng ông, không phản ánh quan điểm của Đại học Texas hay Hiệp hội Xã hội học Mỹ", "những kết luận rút ra từ nghiên cứu của ông về người đồng tính làm cha mẹ là cơ bản không hoàn thiện trên cơ sở khái niệm và phương pháp luận", đồng thời các kết quả nghên cứu của Regnerus "đã được trích dẫn trong các nỗ lực không phù hợp nhằm hạn chế các quyền dân sự và chính đáng của các đối tác LBGTQ và gia đình của họ". Đồng thời, Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ (ASA) đã nêu ra 5 sai sót cơ bản không trong phương pháp luận nghiên cứu của Mark Regnerus và kết luận: "Tóm lại, do sự đánh đồng con cái của cha mẹ đồng tính với các cá nhân tự nhận rằng họ có cha hoặc mẹ tham gia vào mối quan hệ yêu đương đồng tính, đánh đồng các cá nhân đó như con cái của người mẹ hay người cha đồng tính, nghiên cứu của Regnerus đã che lấp thực tế là nó đã không kiểm tra và xác thực con cái của hai bố mẹ đồng tính. Theo đó, nó không thể bàn luận về các tác động của kết quả việc nuôi dạy của cha mẹ đồng tính lên con cái".

Tiến sĩ Stanton L. Jones, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wheaton, nói rằng ông có Bảng tổng hợp ý kiến giữa các chuyên gia về điều này: "Tôi sẽ không coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh giống như tâm thần phân liệt hay rối loạn ám ảnh. Nhưng cũng không thể xem nó là một "lối sống bình thường" giống như kiểu sống nội tâm hoặc sống hướng ngoại."

Mặt khác, trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em", 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường

Tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: "Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác."

Phân tích tổng hợp của Stacy và Biblarz (năm 2001) cho thấy rằng: các bà mẹ nuôi là đồng tính nữ có ảnh hưởng lớn, khiến con trai nuôi của họ trở nên nữ tính trong khi con gái nuôi thì lại trở nên nam tính. Họ báo cáo: "...các cô gái vị thành niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính sẽ có tỷ lệ cao hơn về tình dục bừa bãi... nói cách khác, trẻ em (đặc biệt là trẻ em gái) được nuôi bởi nữ đồng tính có xu hướng đả phá các quan niệm giới tính truyền thống, trong khi trẻ em được nuôi bởi các bà mẹ thông thường sẽ có biểu hiện phù hợp với giới tính của mình". Một nghiên cứu năm 1996 bởi một nhà xã hội học Úc cho thấy: những đứa trẻ của các cặp vợ chồng bình thường là giỏi nhất, trong khi con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính lại học hành kém nhất, điều này đúng tại 9 trên 13 trường học được khảo sát.

Đồng tính luyến ái và xã hội.

Xem thêm: Thái độ xã hội đối với đồng tính luyến ái

Thái độ của xã hội về đồng tính phản ánh thái độ của chính quyền và tôn giáo, đã thay đổi rất nhiều trong suốt chiều dài lịch sử cũng như bề rộng của Trái Đất, từ việc bắt mọi người đàn ông có quan hệ, đến việc chấp nhận, đến việc xem nó như một tội nhỏ bị cấm đoán qua luật pháp và tòa án, cho đến việc xem nó như là một trọng tội đáng bị xử tử.

Tình trạng thành kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử với người đồng tính.

Mỗi cá nhân sinh ra không tự bản thân lựa chọn thiên hướng tình dục. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh và khẳng định đồng tính luyến ái không phải là một bệnh tâm lý, nó là một trong các thiên hướng tình dục bình thường của con người. Tuy nhiên trên thực tế, do thuộc thiên hướng tình dục thiểu số, người đồng tính vẫn phải chịu sự thành kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử từ những người dị tính và xã hội nói chung. Hậu quả của thành kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử có thể khiến cho nhiều người đồng tính thường xuyên gặp vấn đề tâm lý lo âu, áp lực, căng thẳng dẫn đến trầm cảm, thậm chí một tỷ lệ cao từng có ý định và nỗ lực tự tử[241]. Một nghiên cứu của Viện Ontario Nghiên cứu Giáo dục, Trường Đại học Toronto, Canada đã chỉ ra: "Người đồng tính nam và nữ thường trải cảm giác tiêu cực về tâm lý khi họ lần đầu tiên nhận ra xu hướng đồng tính luyến ái của mình trong thời niên thiếu hay tuổi trưởng thành. Điều này làm cho quá trình hình thành bản sắc giới tính diễn ra khó khăn hơn và có thể gây ra thách thức về tâm lý cho người đồng tính trong suốt cuộc đời.

Các hình thức khác nhau mà người đồng tính luyến ái có thể gặp phải bởi hành vi thành kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử:

Công khai thiên hướng tình dục, nhưng bị từ chối bởi các thành viên gia đình và bạn bè.

Bị bắt nạt hay chế giễu bởi bạn cùng học (học sinh sinh viên).
Bị trêu trọc, đùa cợt hoặc sách nhiễu tại nơi làm việc.
Bị đe dọa hoặc đánh đập khi ra đường.
Phải che giấu một phần bản thân trong các quan hệ xã hội vì sợ bị từ chối hoặc không được tôn trọng.
Cảm thấy tội lỗi và xấu hổ về thiên hướng tình dục của bản thân khi phải đối mặt với những thông điệp tiêu cực được tuyên truyền bởi xã hội xung quanh
Một cuộc khảo sát trên đối tượng thanh niên được tiến hành bởi tổ chức GLSEL- Mỹ đã báo cáo kết quả: những thanh niên đồng tính được khảo sát cho biết đã từng bị quấy rối bằng lời nói (61%), quấy rối tình dục (47%), sách nhiễu bằng hành động (28%) và tấn công bằng hành động (14%). Đại đa số thanh thiếu niên thuộc nhóm tình dục thiểu số (90%) thường xuyên hoặc đôi khi nghe thấy những nhận xét thành kiến, kỳ thị đồng tính tại các trường của họ, và nhiều người (37%) đã nghe thấy những phát biểu từ chính các giảng viên hoặc nhân viên nhà trường. Một nghiên cứu khác cũng thấy thanh niên thuộc nhóm tình dục thiểu số bị bắt nạt nhiều hơn 2-3 lần so với những người dị tính, và gần như tất cả các sinh viên chuyển giới đã bị quấy rối bằng lời nói (như trêu chọc, đe doạ tại trường)".

Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Q. Campus Pride (Mỹ) về người đồng tính trong môi trường đại học, thực hiện khảo sát 5.150 người tại 100 trường đại học cao đẳng, đã cho tỉ lệ: khoảng 25 phần trăm số người đồng tính nữ, đồng tính nam và một phần ba người chuyển giới là sinh viên, giảng viên, nhân viên tại các trường đã từng bị sách nhiễu vì khuynh hướng tình dục của họ.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thanh thiếu niên là người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính có một tỷ lệ cao hơn nhiều so với người trẻ dị tính luyến ái về ý định tự tử. Trung tâm Dữ liệu Phòng chống tự tử quốc gia Hoa Kỳ (SPRC) đã tổng hợp các nghiên cứu và ước tính có từ 30 đến 40% thanh niên thuộc nhóm tình dục thiểu số tùy thuộc vào lứa tuổi và giới tính, đã từng cố gắng tự tử. Một nghiên cứu của chính phủ Hoa kỳ có tiêu đề Báo cáo của Nhóm công tác chuyên ngành của Bộ trưởng về vấn đề thanh niên tự tử , cho biết thanh thiếu niên LGBT có khả năng tự tử cao hơn những người trẻ tuổi khác gấp hơn bốn lần.

Trong một cuộc họp vào tháng 5 năm 2012 của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (OHCHR), Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-mon đã cho biết: "Trong tài liệu báo cáo của OHCHR cho thấy có một sự vi phạm nhân quyền đáng lo ngại ở tất cả các vùng miền. Chúng tôi thấy một hình ảnh của phân biệt đối xử, kỳ thị nhắm vào những con người chỉ vì họ là người thuộc xu hướng tình dục thiểu số. Có một sự bất công phổ biến tại những nơi làm việc, trường học và bệnh viện, có cả các cuộc tấn công, bạo lực kinh khủng, bao gồm cả tấn công tình dục. Có những người LGBT đã bị bỏ tù, tra tấn, thậm chí bị giết. Đây là một thảm kịch lớn cho những người phải chịu đựng, và là một vết nhơ bẩn đối với lương tâm chung của chúng ta. Nó cũng là một sự vi phạm luật pháp quốc tế."

Tháng 12 năm 2011, Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua nghị quyết đầu tiên công nhận quyền LGBT, được theo dõi và báo cáo bởi Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc về tình trạng vi phạm nhân quyền đối với cộng đồng người LGBT, bao gồm tội ác kỳ thị, hình sự hóa đồng tính luyến ái và phân biệt đối xử. Báo cáo nhấn mạnh:

"Người đồng tính, song tính và chuyển giới thường là mục tiêu lạm dụng, hành hạ của các tổ chức tôn giáo cực đoan, các nhóm băng đảng quân sự không chính thức, các phần tửchủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cũng như các hình thức bạo lực ở gia đình và cộng đồng...Bạo lực đối với người tình dục thiểu số có xu hướng đặc biệt xấu xa so với các loại hành vi tội phạm khác, một mức độ cao của sự độc ác và tàn bạo. Các Chính phủ thường hay bỏ qua bạo lực và phân biệt đối xử dựa trên cơ sở thiên hướng tình dục."

Trưởng phụ trách các vấn đề toàn cầu - Uỷ ban nhân quyền Liên hiệp quốc Charles Radcliffe cũng cho biết: "Một trong những điều chúng tôi nhận thấy là nếu luật pháp cơ bản phản ánh tâm lý thù ghét đồng tính, thì sau đó nó sẽ tạo ra nạn thành kiến kỳ thị đồng tính trong xã hội nói chung. Nếu Chính phủ đối xử với họ như là tầng lớp hay thành phần thứ hai, hoặc tệ hơn là tội phạm, thì nó sẽ dẫn đường cho công dân làm điều tương tự". Ông nhấn mạnh rằng tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc có nghĩa vụ tuân theo Luật nhân quyền quốc tế để hợp pháp hoá đồng tính luyến ái.

Dựa trên các báo cáo được theo dõi, Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi tất cả các quốc gia bãi bỏ các điều luật kết án đồng tính luyến ái và ban hành toàn diện pháp luật chống phân biệt đối xử với người đồng tính. Ngoài ra, các chiến dịch thông tin tới cộng đồng cần được tuyên truyền phổ biến, đặc biệt là trong các trường học để chống lại hội chứng kỳ thị. Các cảnh sát và các quan chức thực thi hệ thống pháp luật cũng cần được đào tạo để đảm bảo những người LGBT được đối xử một cách đúng đắn và công bằng. 

Bà Margaret Chan, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới WHO đã phát biểu: "Sự kiện WHO loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh sách bệnh tâm lý từ năm 1990 là một bước tiến quan trọng, tuy nhiên trong hơn hai thập kỷ sau đó, sự kỳ thị và phân biệt đối xử chống lại người đồng tính vẫn còn tồn tại, và có thể dẫn đến hạn chế tiếp cận các dịch vụ y tế và bỏ qua các mục tiêu quan trọng trong các chương trình y tế. Phân biệt đối xử trên cơ sở xu hướng tình dục sẽ làm gia tăng tính dễ tổn thương dẫn đến trầm cảm, lo âu và lạm dụng thuốc ở thanh thiếu niên và người lớn; làm trầm trọng thêm bạo lực; cản trở tiếp cận với dịch vụ y tế do bị kỳ thị; và làm tăng nguy cơ các bệnh qua đường tình dục, bao gồm cả HIV".

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban-kimoon đã tuyên bố thông điệp: "Với những bạn là người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hay chuyển giới, cho tôi nói rằng: Các bạn không đơn độc! Cuộc đấu tranh của các bạn nhằm chấm dứt bạo lực và phân biệt đối xử là một cuộc đấu tranh chung. Bất kỳ cuộc tấn công nào nhắm vào các bạn cũng là cuộc tấn công vào các giá trị cốt lõi của Liên hiệp quốc. Tôi thề sẽ đứng lên bảo vệ và giúp đỡ các bạn. Ngày hôm nay tôi đứng với các bạn, và kêu gọi tất cả các quốc gia, tất cả mọi người cùng đứng về phía các bạn".

Trong nghị quyết thông qua tháng 4/2014, Hiệp hội tâm lý học Mỹ và Hiệp hội quốc gia các nhà tâm lý học "Khuyến khích các chuyên gia sức khỏe tâm thần kết hợp với trường học để giáo dục cho thanh thiếu niên về xu hướng tình dục đa dạng, bao gồm sự phát triển các đặc điểm giới tính, biểu hiện giới tính và khuynh hướng tình dục trong tất cả chính sách liên quan tới giáo dục, chú trọng chính sách chống bắt nạt và chống phân biệt đối xử. Khuyến khích giáo dục, đào tạo, phát triển chuyên môn liên tục về giới và thiên hướng tình dục đa dạng của học sinh sinh viên cho các nhà giáo dục và giáo viên trong nhà trường; giáo dục kiến thức và tinh thần cho các học viên ngành y tế, các chuyên gia trường học, những người lãnh đạo và nhân viên các trường học. Đào tạo và giáo dục như vậy nên sẵn sàng với các học sinh sinh viên, phụ huynh và mọi người dân trong cộng đồng".

Kỳ thị

Xem thêm: Chứng ghê sợ đồng tính luyến ái và Chủ nghĩa dị tính luyến ái

Chống kết hôn đồng giới ở Tây Ban Nha.

Trong nhiều nền văn hóa, người ta thường có thành kiến và kỳ thị người đồng tính. Người đồng tính nam được xem là ẻo lả và chạy theo mốt. Tuy vậy nghiên cứu cho thấy họ có những quan hệ tình cảm lâu dài. Nhiều người cho rằng người đồng tính nam thích ấu dâm và lạm dụng tình dục trẻ em hơn là người dị tính nam, các nghiên cứu cho thấy điều này không đúng. Nhiều người nghĩ người đồng tính nữ là những người sắt đá như đàn ông và đôi khi căm ghét đàn ông hoặc người bị ám ảnh bởi việc đấu tranh cho quyền phụ nữ. Nhiều người khác thì nói rằng họ cởi mở với đồng tính, nhưng khi xem ảnh thân mật của các cặp đồng tính thì họ lại đều cảm thấy ghê sợ, cho thấy tâm lý ghê sợ đồng tính thực ra vẫn tồn tại trong những người này, trái với lời nói bên ngoài của họ.


Trong nhiều trường hợp người đồng tính bị kết tội là nguyên nhân của tệ nạn xã hội. Trong thế kỷ 20, Đức quốc xã hành quyết những người đồng tính vì cho rằng họ đe dọa cho sự nam tính và làm dơ bẩn "giống nòi Aryan". Những năm 1950, hàng trăm người bị sa thải vì là đồng tính trong một chiến dịch có tên là "Nỗi sợ hoa oải hương" của McCarthyism. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị đã chỉ trích một cách mỉa mai ông vì có phụ tá là người đồng tính, Roy Cohm.

Vào tháng 1 năm 2001, Bộ văn hóa Ai Cập cho đốt 6.000 quyển sách thơ đồng tính thế kỷ thứ 8 của nhà thơ Ba Tư-Ả Rập Abu Nuwas để xoa dịu người Hồi giáo.

Bạo hành đối với người đồng tính.

Bài chi tiết: Bạo hành chống đồng tính

Ở Mỹ, theo FBI 15,6% vụ tấn công do thù ghét được trình báo với cảnh sát là do kỳ thị đồng tính. Trong đó 61% vụ tấn công là nhằm vào người đồng tính nam. Năm 1998, một sinh viên đồng tính là Mathew Shepard đã bị giết, đây là một trong những vụ tai tiếng nhất ở Mỹ.

Hiện nay đồng tính luyến ái có thể bị xử tội tử hình ở 8 nước là Iran, Mauritanie, Nigeria, Pakistan, Ả Rập Saudi, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen.

Đồng tính luyến ái và tôn giáo

Bài chi tiết: Tôn giáo và đồng tính luyến ái

Vài nhà thờ nhận rửa tội cho các cặp đồng giới, vài nhà thờ khác nhận tổ chức hôn lễ. Trong ảnh là dòng chữ tiếng Anh: Kết hôn là một quyền công dân.

Các tôn giáo có nhiều quan niệm khác nhau về tình yêu và tình dục đồng giới. Chống đối đồng tính luyến ái thay đổi từ ngấm ngầm can ngăn cho đến chính thức cấm đoán đồng tính luyến ái và tích cực chống lại sự chấp thuận của xã hội đối với người đồng tính.

Vài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện quy tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời và họ cũng tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người.

 Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh sự hiệu quả hoặc tác hại của những phương pháp trị liệu. Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì họ lo ngại có thể có tác hại nào đó. Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học gây ra chống đối từ các nhóm ủng hộ đồng tính, nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép.
Nhiều giáo hội dạy rằng nên yêu thương người đồng tính dẫu cho ham muốn tình dục của họ thế nào, nhưng họ chống lại các mối quan hệ đồng tính. Sách giáo lý (Catechism) của Giáo hội Công giáo cho rằng hành vi đồng tính là "suy đồi nghiêm trọng, về bản chất là rối loạn và trái với luật tự nhiên". Giáo hội Mặc môn thì tỏ ra khoan dung hơn, họ lên án bạo hành với người đồng tính và chính thức tuyên bố "giang tay đón nhận bằng sự thấu hiểu và tôn trọng" vì Thiên Chúa đã dạy phải khoan dung với mọi người. Tuy vậy, họ cũng nói thêm là sẽ kiên quyết phản đối hôn nhân đồng tính vì nó sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho mỗi gia đình và trẻ em, rằng "hôn nhân đồng tính sẽ dẫn đến sự kết thúc của tự do tôn giáo và các tiêu chuẩn đạo đức xã hội."

Các giáo hội khác đã thay đổi học thuyết để thích nghi với mối quan hệ đồng giới. Do Thái giáo cấp tiến, nhánh lớn nhất của đạo Do Thái ngoài Israel, đã tạo điều kiện cho các đám cưới đồng giới trong giáo đường.

Mặt khác, Anh giáo gặp phải sự bất đồng giữa một bên là các giáo hội Anh giáo tại châu Phi (trừ vùng Nam Phi) và tại châu Á và một bên là các giáo hội Anh giáo tại Bắc Mỹ khi giáo hội Mỹ và Canada chấp nhận các giáo sĩ đồng tính và bắt đầu ủng hộ kết hợp dân sự đồng giới.

Nhiều nhóm tôn giáo lại tẩy chay các công ty có chính sách ủng hộ cộng đồng thiên hướng tình dục thiểu số. Đầu năm 2005, Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ đe dọa tẩy chay sản phẩm của Ford khi công ty này ủng hộ hôn nhân đồng giới.

Thái độ của Tòa thánh Vatican chống lại hôn nhân đồng tính ngày càng kiên quyết. Giáo hoàng Benedict XVI, bậc lãnh đạo của 2 tỷ tín đồ Thiên Chúa giáo trên toàn cầu, tiếp tục quan điểm này khi cho rằng, hôn nhân đồng tính cấu thành hành vi chống lại sự thật bản chất của con người. Đó là một nỗ lực không mệt mỏi của cả Vatican mà người đứng đầu là Đức giáo hoàng, nhằm cố gắng thức tỉnh Hoa Kỳ và một loạt các nước châu Âu đang đòi hỏi công nhận hôn nhân đồng tính trong thời gian qua. Giáo hoàng Benedict XVI đã lên tiếng bày tỏ quan điểm rằng: hôn nhân đồng tính là phi tự nhiên và có thể gây nhiều phẫn nộ ảnh hưởng tới hòa bình và công lý trên thế giới. Giáo hoàng Benedict XVI kêu gọi mọi người:

Chúng ta cần phải phổ cập và lan truyền kiến thức về hôn nhân tự nhiên trong sự giao hòa giữa phái nam và phái nữ nhằm gia tăng nỗ lực chống lại mọi sự dị biến hôn nhân. Những dị biến như thế làm mất ổn định tính tự nhiên của hôn nhân, che lấp bản chất vốn có của hôn nhân và làm phai nhạt vai trò quan trọng của nó đối với xã hội. Nguyên tắc hôn nhân này không phải là chân lý đức tin mà đơn giản là hệ quả tất yếu của quyền tự do tôn giáo, thể hiện bản chất của con người và là một thành quả phát triển của nhân loại.

Hãy biết thêm về giá trị của gia đình và hôn nhân, là tín đồ Kitô, chúng ta có bổn phận trọng đại bảo vệ nguyên tính và nhất thống của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ trước bất kỳ hình thức diễn dịch lệch lạc nào.

Đồng tính luyến ái và sức khỏe.

Xem thêm: Bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS

Để giảm nguy cơ lây nhiễm, nam quan hệ với nam được khuyến cáo nên:

Tìm hiểu về tình dục an toàn.


Sử dụng bao cao su trong tình dục hậu môn vàlàm tình bằng miệng.

Sử dụng tấm chắn (ví dụ miếng nhựa, bao cao su cắt ra) khi tiếp xúc miệng-hậu môn.
Trùm lên đồ chơi tình dục (sex toy) một bao cao su mới khi dùng với bạn tình khác; nên dùng một chiếc đồ chơi cho từng người; dùng bao tay nhựa và dầu bôi trơn cá nhân trong bất kỳ hành vi tình dục nào có thể gây chảy máu. 

Nếu người đồng tính nam có quan hệ tình dục với người nam khác thì thuộc nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam nên các vấn đề về sức khỏe tương tự như nhóm hành vi này. Đọc các vấn đề sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam để biết thêm chi tiết. Nam quan hệ với nam không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nam, song tính luyến ái nam mà bao gồm tất cả người nam có quan hệ tình dục với nam với mọi mục đích.

Theo báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS năm 2012, tỉ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở Thành phố Hồ Chí Minh là 16%, tỷ lệ chỉ đứng sau nhóm tiêm chích ma túy. Tại đây, cứ 5 nam quan hệ đồng giới thì có 1 người nhiễm ít nhất 1 trong các nhiễm khuẩn giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, chlamydia sinh dục hoặc chlamydia trực tràng. Nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao do một đồng tính nam thường có nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác. Bên cạnh đó, các đồng tính nam thường quan niệm sai lầm rằng, chỉ có quan hệ khác giới mới bị nhiễm HIV, giang mai, mào gà... còn đồng tính thì không. Họ ít khi sử dụng các biện pháp phòng tránh khi quan hệ tình dục như một khảo sát của Ban quản lý dự án phòng chống HIV/AIDS (Việt Nam) trên 300 đồng tính nam cho thấy một số chỉ sử dụng bao cao su với bạn tình mới quen lần đầu, khi thân rồi họ không đề phòng nữa.

Tương tự, đọc nữ có quan hệ tình dục với nữ để biết thêm chi tiết. Nữ quan hệ với nữ không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nữ, song tính luyến ái nữ mà bao bồm tất cả người nữ có quan hệ tình dục với nữ.

Năm 2010, một báo cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết trong số các ca nhiễm HIV mới ở Hoa Kỳ thì số ca thuộc cộng đồng nam thanh niên đồng tính trẻ tuổi cao hơn rất nhiều so với mức chung, có nhiều nguyên nhân cho việc này:

Tỷ lệ bị nhiễm HIV trong cộng đồng đồng tính luyến ái nam vốn cao, làm tăng khả năng lây nhiễm trong cộng đồng so với dân số thông thường.

Các yếu tố xã hội như kỳ thị, thành kiến, phân biệt đối xử và thiếu khả năng tiếp cận hệ thống y tế đối với cộng đồng này.
Nam giới trẻ có quan hệ đồng giới thường có các hành vi nguy cơ cao (như quan hệ tình dục với nhiều hơn 4 bạn tình, tiêm chích ma túy).

Thống kê của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ năm 2011 cho biết: nam đồng tính có khả năng nhiễm HIV cao gấp 44 tới 86 lần so với nam giới bình thường, và cao gấp 40 tới 77 lần so với nữ giới. Năm 2009, thống kê cho biết có 61% số ca nhiễm HIV mới ở Mỹ là đồng tính hoặc song tính, dù nhóm này chỉ chiếm khoảng 2% dân số Mỹ.

Hoa Kỳ hiện đang cấm nhóm đối tượng nam quan hệ tình dục với nam đi hiến máu "vì họ là một nhóm có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, viêm gan B và một số bệnh nhiễm trùng khác có thể được lây truyền qua truyền máu" Vương quốc Anh và nhiều nước châu Âu đã cấm tương tự.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét