Lên ngôi năm 13 tuổi, tại vị trong vòng một
năm (07/1884-07/1885), nhà vua trẻ Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch) (1871-1944)
trở thành biểu tượng chống Pháp của phong trào Cần Vương trong suốt bốn năm.
Tháng 11/1888, chính phủ Pháp đưa vua Hàm Nghi sang lưu đày tại Alger cho tới
cuối đời. Sử sách đề cập tới nhiều phong trào Cần Vương, thế nhưng quãng thời
gian sống tại Alger của vua Hàm Nghi vẫn là một khoảng trống và thu hút sự quan
tâm của mọi người.
Chúng tôi đã may mắn gặp được cô Amandine Dabat, cháu năm
đời của vua Hàm Nghi. Hiện chị đang làm luận văn tiến sĩ về cuộc đời và sự
nghiệp của vua Hàm Nghi tại đại học Sorbonne-Paris 4. Chị cho biết, bên
cạnh một ông vua An Nam bị lưu đày biệt xứ, Hàm Nghi còn là một nghệ sĩ đa tài,
một họa sĩ.
Hoàn cảnh lưu đày
Vua Hàm Nghi tới Alger vào tháng 1 năm 1889. Chính phủ Pháp bắt
ngài vào tháng 11 năm 1888 để chấm dứt phong trào Cần Vương của người Việt và
họ quyết định đày ngài sang Alger, cùng với một phiên dịch, một người hầu và
một đầu bếp.
Amandine Dabat : « Khi tới Alger, họ được đại uý Henri de Vialar, lúc
đó là sĩ quan tuỳ tùng của Tirman, Toàn quyền Algérie, tiếp đón. Và chính sĩ
quan Vialar chịu trách nhiệm tìm nhà cho vua Hàm Nghi. Ngôi nhà có tên là «
Biệt thự cây thông » (Villa des Pins), ở El Biar, trên một ngọn đồi thượng
Alger. Bắt đầu từ lúc này, vua Hàm Nghi bị truất ngôi, chỉ được coi như
hoàng tử và người ta thường gọi là « Hoàng tử An Nam ». Đây cũng chính là tên
thông thường của vua trong suốt cuộc đời lưu vong tại Alger. Những năm đầu
tiên, ngài sống trong ngôi nhà mà người Pháp thuê cho. Chỉ từ năm 1906 trở đi,
sau khi kết hôn với một phụ nữ Pháp vào năm 1904, họ mới xây một ngôi nhà mới,
có tên là « Biệt thự Gia Long », do Guiauchain, một kiến trúc sư người Pháp tại
Alger thiết kế. Và vua sống trọn đời tại đây cùng với gia đình. »
Cụm từ « sống lưu đày » (vie d’exil) khiến nhiều người hình dung
một cuộc sống vất vả và khó khăn. Liệu cuộc sống lưu đày của nhà vua có nặng nề
như ý nghĩa của cụm từ đó ? Amandine Dabat giải thích :
« Cuộc sống lưu đày của nhà vua chắc chắn là nặng nề, hay khó
khăn theo nghĩa xa cách quê hương. Đó chính là nỗi khổ tinh thần đối với gia
đình. Nhưng thực ra, cuộc sống lưu đày của ngài khá thoải mái. Vì mục đích của
chính phủ Pháp khi đưa vua Hàm Nghi đến Alger, trước hết là để biến ngài thành
một người thân Pháp, vì thế, phải khiến ngài yêu nước Pháp. Quả thực, ngay khi
bị lưu đày tại Alger, vua Hàm Nghi vẫn là một hoàng tử kế nghiệp và vẫn có thể
kế ngôi vua Đồng Khánh. Chính vì vậy, từ thời điểm đó, ngài phải được đối đãi
tử tế, phải học tiếng Pháp và hưởng phong cách Pháp. Từ đó để vua Hàm Nghi phải
yêu nước Pháp. Vậy nên, dù vua Hàm Nghi buộc phải ở lại Alger, ngài vẫn được
sống trong một ngôi nhà tiện nghi. Ngài có thể đánh quần vợt, đi xem hát, đi
săn. Ngài có bạn bè và bắt đầu học vẽ. Tất cả các hoạt động này đều được chính
phủ Pháp cho phép. Phải để cho vua Hàm Nghi cảm thấy thoải mái tại Alger, vì
trong trường hợp ngài được đưa về Việt Nam và lên ngôi vua, cần phải để cho
ngài có thiện cảm với nước Pháp. »
Sau khi vua Hàm Nghi thoát ly triều đình, đứng đầu phong trào
Cần Vương, chính phủ thuộc địa Pháp đưa vua Đồng Khánh (Nguyễn Phúc Ưng Kỷ) lên
ngôi. Thế nên, dù sống lưu đày tại Alger, vua Hàm Nghi vẫn có khả năng nối
ngôi, trong trường hợp vua Đồng Khánh băng hà.
Amandine Dabat : « Chính phủ Pháp tự hỏi là có nên đưa vua Hàm Nghi về kế
vị vua Đồng Khánh hay không. Đây là những thông tin được lưu lại trong nhiều
tài liệu lưu trữ thuộc địa. Nhưng cuối cùng, họ cho rằng việc này quá mạo hiểm.
Vì vua Hàm Nghi còn có quá nhiều người ủng hộ tại Việt Nam và chính phủ Pháp e
ngại rằng nhà vua sẽ lại đứng đầu phong trào kháng chiến chống Pháp. Chính vì
vậy mà vua Hàm Nghi phải ở lại Algérie. Tôi không biết chính xác tới ngày nào,
chính phủ Pháp vẫn coi ngài là quân cờ trong thế trận Đông Dương, hay là một
hoàng tử kế vị. Tôi cũng không biết tới tận ngày nào, vua Hàm Nghi vẫn không
được phép quay lại Đông Dương. »
Cuộc sống dưới vòng giám sát
Dù có một cuộc sống khá thoải mái về vật chất và được phép tham
gia một số hoạt động thể thao và nghệ thuật, nhưng vua Hàm Nghi suốt đời bị
theo dõi, thậm chí các cuộc thăm viếng cũng bị kiểm soát. Ví dụ, ngài phải xin
phép chính phủ Pháp để rời Alger du lịch trong nước Algérie, hay đi sang Pháp
lục địa. Và khi ngài tới Pháp, ngài cũng liên tục bị theo dõi. Mọi thư từ trao
đổi của ngài đều bị chính phủ Pháp chặn lại. Người ta chỉ đưa cho ngài những
bức thư từ Algérie hay Pháp lục địa. Ngài không thể nào nhận được thư từ Đông
Dương.
Amandine Dabat : «
Biện pháp theo dõi này là do chính phủ Pháp đại lục áp đặt dưới sức ép của
chính phủ Pháp tại Đông Dương. Thực vậy, chính phủ Pháp tại Đông Dương luôn giữ
hình ảnh của vua Hàm Nghi như một người chống đối nguy hiểm. Họ cũng sợ rằng
Hàm Nghi vẫn giữ liên hệ với phong trào Việt Nam chống chế độ thuộc địa. Chính
chính phủ Đông Dương đã buộc chính phủ Pháp đại lục theo dõi vua Hàm Nghi.
Nhưng chính phủ Pháp tại Algérie nhanh chóng hiểu rằng vua Hàm Nghi tại Alger
không còn nguy hiểm và không thể liên lạc với Đông Dương và ngài cũng không còn
là một mối đe doạ lớn. Chính vì thế, chính phủ Pháp tại Algérie giảm bớt việc
theo dõi. Điều này cũng thể hiện rằng ngay trong nội bộ chính phủ Pháp vẫn có
bất đồng quan điểm. Chính phủ Pháp tại Algérie cố bảo vệ vua Hàm Nghi và nới
lỏng việc theo dõi. Trong khi đó, chính phủ Pháp lục địa và Đông Dương thì lại
muốn việc theo dõi nghiêm ngặt hơn. »
Với những biện pháp theo dõi chặt chẽ như vậy, liệu vua Hàm Nghi
có tiếp cận được những thông tin về tình hình phong trào khởi nghĩa chống Pháp
hay, sau này, là cuộc chiến tranh Đông Dương ? Amandine Dabat cho biết chi tiết:
“Chúng ta không biết được chính xác làm thế nào vua Hàm Nghi có
được thông tin về những gì đang diễn ra tại Đông Dương. Vì về mặt chính thức,
nhà vua không nhận được thư từ Đông Dương. Nhưng trên thực tế, Hàm Nghi có rất
nhiều bạn, chủ yếu là những người bạn Pháp, sĩ quan hay nhà truyền giáo. Những
người này thường đi lại giữa Algérie, Pháp đại lục và Đông Dương. Họ cung cấp
cho ngài các tin tức về Đông Dương, nhưng đó chỉ là tin truyền miệng.
Trong một vài bức thư, đôi khi có vài thông tin về những sự kiện
đang diễn ra tại triều đình Huế. Nhưng chúng tôi không có một chút dấu tích gì
về phản ứng của nhà vua. Điều duy nhất mà tôi biết là ngài luôn từ chối nói về
chính trị, hay trong mọi trường hợp, viết về vấn đề chính trị. Vì ngài biết
rằng nếu chẳng may chính phủ Pháp đọc được thư, ngài sẽ bị theo dõi chặt chẽ
hơn và thậm chí có thể bị giam hãm. Vì thế, trong mọi thư từ, ngài từ chối nói
chuyện chính trị. Nhưng thái độ của ngài tại Alger cũng chứng minh rằng ngài
chưa bao giờ thật sự quan tâm tới chính trị, ngay cả tình hình chính trị Pháp
thời bấy giờ. Khi ngài bình phẩm chính trị tại Pháp lục địa, luôn dưới góc độ
hài hước và không có chút bận tâm thật sự nào.
Tôi nghĩ rằng bắt đầu từ lúc đi đày, ngài đã hiểu ra rằng nếu
muốn sống một cuộc sống an bình, thì cần phải thể hiện rõ mình không còn là một
nhà chính trị, không còn là một mối nguy hiểm cho chính phủ Pháp. Đó là những
gì mà các văn bản, những bằng chứng viết, cho thấy rõ. Còn chúng ta không biết
được là chuyện gì xảy ra qua lời nói. Những gì mà vua Hàm Nghi viết không thể
hiện điều ngài nghĩ. Chính vì thế, chúng ta không biết được tận sâu đáy lòng,
ngài nghĩ gì. Chúng ta chỉ biết được qua những gì ngài viết về bối cảnh lúc đó.”
Giữ liên lạc với Việt Nam
Nhiều thông tin cho rằng vua Hàm Nghi từ chối học tiếng Pháp khi
đặt chân tới Alger. Phải chăng đó là ngôn ngữ của kẻ xâm lược? Hay là sự từ
chối hợp tác với kẻ thù? Sau này, khi lập gia đình, các con của vua Hàm Nghi
lại không nói tiếng Việt. Hoàn cảnh nào đã dẫn tới việc quyết định chỉ cho các
con học tiếng Pháp? Đó có phải là ý định đoạn tuyệt với Việt Nam? Amandine
Dabat tiếp tục giải thích:
“Vua Hàm Nghi bắt đầu cuộc sống đi đày vào tháng 01/1889 và
trong những tháng đầu tiên, ngài từ chối học tiếng Pháp. Nhưng chỉ trong vài
tháng. Bắt đầu từ tháng 7, có nghĩa là 6 tháng sau, ngài đã chấp nhận học tiếng
Pháp và đã yêu cầu chính phủ Pháp cho mình một giáo viên tiếng Pháp. Tôi cho là
nhà vua hiểu ra rằng phiên dịch của ngài sẽ không vĩnh viễn ở lại Alger. Nếu
muốn giao tiếp, không chỉ giao tiếp với chính phủ Pháp, mà còn diễn giải cho
chính phủ Pháp những nhu cầu của mình, hay những điều mà ngài không đồng tình,
thì Hàm Nghi cần phải tự lập về ngôn ngữ. Vì thế, trên thực tế, Hàm Nghi nhanh
chóng chấp nhận học tiếng Pháp.
Chưa bao giờ vua Hàm Nghi từ chối cho các con mình học tiếng
Việt. Ngài kết hôn với một phụ nữ Pháp vào năm 1904, trước khi Nhà thờ và Nhà
nước tách rời nhau tại Pháp. Và trong bối cảnh xã hội thực dân tại thời điểm đó
ở Algérie, con cái của ngài buộc phải được dạy dỗ như những người Pháp nếu muốn
hoà nhập được vào xã hội. Và chính người vợ của vua Hàm Nghi nài nỉ để con cái
của họ nói tiếng Pháp. Có lẽ vua Hàm Nghi cũng rất muốn dạy con học tiếng Việt,
nhưng ngài không thể làm được. Một phần vì vợ ngài muốn dạy con tiếng Pháp,
nhưng một phần cũng do những sức ép của xã hội trong giai đoạn đó. Trong bối
cảnh thuộc địa tại Alger khá khép kín, con cái của họ cần phải được coi như
những người Pháp.
Tôi không nghĩ là vua Hàm Nghi có chủ ý cắt đứt quan hệ với Việt
Nam, chỉ vì ngài không có lựa chọn. Chính chính phủ Pháp đã quyết định thay
ngài. Chính họ là người ra sức cản trở ngài liên lạc với Đông Dương. Vua Hàm
Nghi cũng đã gặp gỡ được một số người Việt tại Alger, đa số là học sinh trường
trung học Alger. Một số học sinh này, khi quay về Đông Dương, vẫn giữ liên lạc
với vua Hàm Nghi. Họ liên lạc đường vòng, bằng cách gửi thư qua người khác để
vua có thể nhận được. Vì vậy, chưa bao giờ vua Hàm Nghi có ý định cắt đứt liên
lạc với Việt Nam. Mà trái lại, ngài không ngừng tìm cách để giữ liên lạc với
quê hương, với gia đình và bạn bè. Chỉ có điều ngài phải qua đường vòng, vì
chính phủ Pháp tìm mọi cách để ngăn cản.”
Hậu duệ vua Hàm Nghi không muốn đưa di hài vua về an táng tại
Huế. Hiện nay, ngài vẫn an nghỉ tại làng Thonac, vùng Dordogne (Pháp), nơi công
chúa Như Mai, trưởng nữ của vua Hàm Nghi sinh sống. Đây là khu mộ gia đình, nơi
các con của vua Hàm Nghi quyết định an táng cha mẹ mình, và sau này là công
chúa Như Mai. Amandine Dabat cho biết, lý do chính là, với thế hệ ông bà của
chị, vua Hàm Nghi là ông của họ. Điều quan trọng với họ là có thể đến viếng mộ
tổ tiên. Ngoài ra, tuổi tác cao cũng sẽ không cho phép con cháu tới viếng mộ
vua tại Việt Nam. Chính vì thế, thế hệ con cháu hiện nay vẫn tôn trọng nguyện
vọng của thế hệ ông bà.
Các thành viên hậu duệ gia đình vua Hàm Nghi đã từng tới du lịch
Việt Nam với mong muốn khám phá quê hương tổ tiên mình. Đây là mối liên hệ duy
nhất mà gia đình còn giữ lại với Việt Nam. Bản thân Amandine Dabat là người
sống tại Việt Nam lâu nhất, khoảng 18 tháng, từ năm 2011 tới nay, để phục vụ
luận văn nghiên cứu của chị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét