Hà Sĩ Phu
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như
sau:
- Thực chất của công hàm đó là “công
khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho
Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.
- Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (xem hình
bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện
hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một “công thư”, coi văn bản này “không
có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả
cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời
hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”!
- Vì vậy. để hủy bỏ được
công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là“Quốc Hội
mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”.
Đấy là những kết luận dứt khoát dựa trên những
chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã công nhận những kết luận ấy không
thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát
khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn kẽ.
1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản
động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm
ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu
trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra
là gì?
2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?
Mọi người đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng
buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm đó. Nhưng tùy
thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh
hai kiểu thoát hiểm.
- Muốn bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ
dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó,
hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý của Công hàm, coi Công hàm là thứ
chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt
dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và
cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể
tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng
một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần
quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong
khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm
cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một… chân lý ấy không bao
giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam
là một” thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là
một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản
lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một
vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu
lâm, khôi hài đến chảy nước mắt.
- Tóm lại là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958
kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra
Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý
(chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ
sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã chốt được tính pháp lý chính danh của Công
hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958
và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ
trì hoãn không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất“đạo đức” là sợ làm đổ mất
“bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế vào!).
Kiểu chống đỡ này lúng túng bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt Tổ quốc phải hy
sinh cho chế độ, vô tình hay hữu ý tránh né việc phê phán sai lầm của chế độ.
- Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách
khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví
dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động
ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Nhưng giải pháp này có hiệu quả
đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm
Văn Đồng - Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên bố
của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi theo luật
như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có
trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã nguyện kế tục sự nghiệp của
ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn
Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam
tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của
chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt
cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung,
ích nước lợi nhà như vậy không?
Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà
bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách
phải giải Cộng, thoát Cộng! Chỉ có nhân dân đứng lên, trong một thể chế của
nhân dân, mới vô hiệu hóa được mọi ký kết phản quốc, vi hiến, đã ký kết sau
lưng nhân dân như Công hàm PVĐ!
3/ Thoát Cộng được lợi những gì?
Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát
Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình”thực
ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ
nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực
chất nhất.
Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu
những tai hại gì?
- Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam
kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản,
giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.
- Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc bởi
quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm 1958, cam
kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú
Trọng…
- Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc
Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các
khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành
phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội
với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều
bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra
sức mạnh? Giữ được nước hay không chủ yếu là do có sức mạnh hay không, đừng
trông chờ quá nhiều ở công pháp quốc tế.
Trái lại, chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những
trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn
tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa
giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra,
nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực
chất.
4/ Thoát Cộng dễ hay khó?
- Sẽ quá khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ
ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa
dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương”
thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự
đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống?
- Nhưng không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng
biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên hết mà vượt trên quá khứ,
chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước tiên tiến thì Đảng có mất chỉ
mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm
gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn
tình trạng “thấy mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa
như vậy, về vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn
tiếng rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn
sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm
chứ, sao lại không?
Quả bóng cứu dân cứu nước hiện đang trong chân
người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người cầm quyền biết xử lý thông minh,
khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng
(chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên
dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của
dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời
mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…
H.S.P. (2-6-2014)
Hà Sĩ Phu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét