PHẦN 1
Hành Quân Lam Sơn 207A (Pegasus ) từ 1/4 đến 12/4/1968
Căn cứ Khe Sanh một tiền đồn đèo heo hút
gió ở vùng cực Bắc của Việt Nam Cộng Hòa, tọa lạc trên một trảng cao của ngọn
núi cao nhất vùng Đông Trị trong dảy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi
nhánh của Sông Quảng Trị, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp. Phía Bắc
và Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Các ngọn đồi
này được dùng như là các tiền đồn để bảo vệ căn cứ cũng như quan sát để xác định
các vị trí pháo và phòng không của địch.Khe Sanh chỉ cáchbiên giới Lào-Việt chừng 6 miles (10
km) trên con đường số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng
Trị, ngang qua
Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào. Căn cứ
Khe Sanh cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 2
Khi xưa, vì thuộc địa Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây dựng đường số 9
để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9
là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng quân xử dụng để xâm nhập người và vũ
khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc Việt Nam Cộng Hòa.
Về phương diện hành chánh, Khe Sanh thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị với quận
đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hóa do một Đại Úy chỉ
huy, gồm chừng một đại đội Địa Phương Quân (ÐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một số
cảnh sát. Thông thường có thêm một Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ
Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105 ly với 2 khẩu đặt tại
sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Làng Vei.
Sau này, vì tình hình an ninh không đuợc khả quan nên Quận Hướng Hóa được di
chuyển về vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc.
Về dân cư, vì là vùng đồi núi hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng
trên ngàn người Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đình nhân viên, binh sĩ
phục vụ tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng chừng
50,000 người sống rải rác trên các đồi, núí dọc biên giới Lào, nhưng qui tụ khá
đông đảo tại hai làng Khe Sanh và Làng Vei dọc đường số 9. Cũng như những sắc
dân thiểu số khác như Rhadê, Hrê v.v... tại miền Trung và Bắc Việt Nam, giống
Bru thuộc chủng loại Mã Lai- Polynesia nên
đen đúa và khá lực lưỡng.
Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu,
nhưng khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều trận
đánh lớn. Lý do vì con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với đường mòn HCM, lại
nằm trong vùng đồi nuí hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người
và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương,
người Mỹ đã lập hàng rào điện tử McNamara theo hình vòng cung dọc theo mặt Bắc
đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt tới Khe Sanh gần biên giới Lào.
Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần đất Việt
Nam, giữ nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo kỹ thuật và chiến lược của quân lực
Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm nhập của các đại đoàn chính quy CSBV
cơ động sát vùng Bắc Vĩ Tuyến 17 và phía Tây biên giới Việt Lào cũng như trên
lãnh thổ Lào. Thủy quân lục chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng
quân trong căn cứ Khe Sanh . Đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ giới
cùng một đơn vị Tình Báo chiến lược.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 3
Năm 1968 Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng được nhắc nhở đến nhiều nhất.
Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng khởi đầu chiến dịch tổng
tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ. Trong chiến dịch này, 20,000 bộ
đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến HK cùng Tiểu
Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH. Nhưng Khe Sanh đã chẳng thất thủ.
Trận chiến kéo dài 77 ngày và Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất. Ngày
19/1/1968 Một đơn vị TQLC Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đã đụng độ dữ dội với cộng
quân. Chiều ngày hôm sau một Trung Úy CSBV tên Lã Thanh Tòng, Đại đội trưởng
pháo đội 14 phòng không thuộc trung đoàn 95/SĐ325 về đầu thú, và tiết lộ kế hoạch
tấn công căn cứ Khe Sanh. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn
công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng
hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe
Sanh.
Ngày 20/1/1968 đúng như lời tiết lộ của Trung Úy Tòng, nửa đêm hôm đó sau nửa
giờ pháo kích, lực lượng CSBV khoảng 300 cán binh xung phong lên đồị tấn công
vào căn cứ. Nhưng lực lượng trú phòng Đại Đội K/3/26 đã chuẩn bị sẵn sàng tác
chiến phản công. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại
47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sỉ TQLC bị tử thương.
Sáng ngày 21/1/1968, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho bom dự trử bị
nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài
3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609
m) đài kiểm lưu bất khiển dụng, nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng...Tình
hình trở nên vô cùng nghiêm trọng.
Ngày 22 tháng 1/1968, trước tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ được
trực thăng vận đến tăng viện cho Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9
đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào
năm 1967 vừa qua
Ngày 25/1/1968 Thiếu Tướng J.J.Tolson, Tư lệnh Sư Đoàn 1 KBKV, bắt đầu soạn thảo
kế hoạch chuẩn bị một cuộc hành quân để giải tỏa căn cứ Khe Sanh.
Ngày 27/1/1968 Tiểu Đoàn 37BĐQ-VNCH, được không vận đến để tăng viện thành 5 Tiểu
đoàn họp thành lực lượng phòng thủ căn cứ. TĐT/TĐ37BĐQ là Đại Úy Hoàng Phổ. Như
vậy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một Tiểu Đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt
Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh gồm một pháo đội súng cối
106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 lỵ. Về thiết
giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu
đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm
trong tầm tác xạ hỏa yểm của 4 pháo đội đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3
pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 4
Trong khi đó tin tức tình báo ghi nhận lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không
kém hiện diện chung quanh Khe Sanh. Có ít nhất 3 sư đoàn và thêm một số đơn vị
biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau:
- SĐ325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía Bắc đồi 881 Bắc.
- SĐ304 từ Lào cũng đã xâm nhập vào VN và hiện đang có mặt tại phía Tây-Nam của
Khe Sanh.
- Một Trung Đoàn của SĐ324CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân sự cách Khe
Sanh chừng 24 km về hướng Tây Bắc.
- SĐ320CSBV đang ở phía Bắc căn cứ hỏa lực Rock Pile, cũng có thể tiếp ứng cho
mặt trận Khe Sanh.
- Ngoài ra, Cộng Sản còn huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54
cùng hai Trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh.
Theo ước tính của các cơ quan tình báo liên quân Việt-Mỹ, quân số tham chiến của
Cộng quân tại chiến trường Khe Sanh vào lúc đó đã lên đến khoảng 50 ngàn quân,
trong đó 4/5 là lực lượng chính quy CSBV.
Ngày 30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch
"Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam.
Có tất cả 25 tỉnh lỵ và thị trấn trong số 44 Tỉnh của VNCH bị tấn công, trong
đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất.
Từ ngày 5/2/1968 ( mồng 7 Tết) Cộng quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng
bộ binh và bao vây quanh vòng đai căn cứ chiến lược Khe Sanh. Địch quân đã phối
trí rất nhiều vị trí phòng không xung quanh căn cứ và các dàn pháo 130 ly đặt
sâu trong các sườn núi từ phía biên giới Lào, cách Khe Sanh khoảng 20 cây số, y
hệt như chiến thuật sử dụng tại Điện Biên Phủ năm 1954. Nhưng lực lượng trú
phòng đã phản công chống trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho địch quân.
Đêm 6 tháng 2/1968, Quân CS Bắc Việt sử dụng một biệt đội chiến xa thuộc Trung
Đoàn 202 chiến xa gổm 12 chiếc PT 76 có bộ binh tùng thiết và Trung đoàn 101 D
chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng Vei, cách Khe Sanh 6
miles (10 km) về hướng Tâỵ. Trại này do Trung ta' Schungel chỉ huy gồm 1 phân đội
Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người và khoảng 400 Dân sự Chiến đấu (Biệt kích
quân biên phòng) phần lớn là dân thiểu số miền núi tỉnh Quảng Trị.
Ngày hôm sau, 7/1/1968, trại này bị tràn ngập bởi lực lượng Cộng quân, một số
đông binh sĩ và cố vấn do Trung ta' Schungel chỉ huy phải rút về Khe Sanh.
Ngày 9/2/1968 một Tiểu đoàn CSBV thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325 tấn công
đồi 64 do Đại Đội A/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc
quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng
đồi 64 và tác xạ. Một lực lượng TQLC khác được gởi đến tiếp viện. Trong 3 tiếng
đồng hồ máu lửa này, có 200 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử
thương.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 5
Sau trận đánh ở Đồi 64 nầy, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung
quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Ngày 11 tháng 2, Cộng quân gia
tăng pháo kích vào phi đạo, việc tiếp tế cho quân trú phòng đã gặp khó khăn.
Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu của các họng pháo Cộng
quân nhắm vào, hai phi cơ vận tải C-130 đáp xuống Khe Sanh, một chiếc bị nổ
tung vì trúng đạn pháo kích bốc cháy trên phi đạo 6 nhân viên phi hành đoàn bị
tử thương. Chiếc thứ hai cũng bị hư hỏng và được gấp rút sửa chữa rồi bay
"khập khễnh" về phi trường Đà Nẵng.
Ngày 21/2/1968 khoảng 1 Đại đội cộng quân tấn công vào phòng tuyến của Tiểu
Đoàn 37 Biệt Động Quân tại khu vực hướng Đông căn cứ Khe Sanh. Nhưng các binh
sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động
Quân bẻ gảỵ
Hai ngày sau 23/2/1968, quân CSBV tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba
trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng
hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10
quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.
Khoảng 9.30 giờ đêm 29/2/1968, một Tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV)
đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của TĐ37 Biệt
Động Quân VNCH. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần biển-người xung
phong, CSBV cũng không phá được phòng tuyến thép. Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt
Động Quân bình tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới
khai hỏạ. Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân đã chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến
đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả
3 lần xung phong của Bắc quân.
Ngày hôm sau, kiểm điểm tình hình
chiến trận họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ Sau nhiều ngày thảo
luận tình hình chiến sự, sau cùng Tướng Westmoreland chấp thuận kế hoạch hành
quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên Pegasus ( có tài liệu viết là
Pagasus) về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 207A.
Cả hai cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng J.J. Tolson. Lực
lượng tham dự hành quân gồm có :
1/ Lữ Đoàn 1 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.F. Stannard.
2/ Lử Đoàn 2 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.C. Mc Donough.
3/ Lữ Đoàn 3 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá H.S.Campbell.
4/ Trung Đoàn 26 TQLC với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá D.E. Lownds
5/ Trung đoàn 1 TQLC.
6/ Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù –VNCH trách nhiệm khu vực phía Bắc quốc lộ 9 và phía
Tây căn cứ Khe Sanh gồm 3 Tiểu Đoàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Khoa
Nam.
- Tiểu Đoàn 3 ND – TĐT là Thiếu Tá Trần Quốc Lịch.
- Tiểu Đoàn 6 ND – TĐT là Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước.
- Tiểu Đoàn 8 ND – TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ.
Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến
khoảng 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo binh.
Ngày 25/3/1968 Thiết Đoàn 1/9 KBKV dưới quyền chỉ huy của Trung Tá R.W.Diller sử
dụng trực thăng trinh sát dọc theo QL 9 hướng về Khe Sanh để thu thập tin tức về
địch quân, xác định các vị trí bải đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ
phòng không của địch.
Sáng ngày30/3/1968, SĐ3TQLC Mỹ phối họp với SĐ1BB-VNCH hành quân nghi binh tại
vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực lượng của Mỹ hơp thành lực lượng đặc nhiệm Kilo
trong khi cánh quân SĐ1BB-VNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân
chấm dứt lúc trưa ngày 1/5/1968. chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể.
Ngày 1/4/1968 cuộc hành quân chính thức khai diển. Hai Tiểu Đoàn 2/1 và 1/3
TQLC Mỹ từ Cà- Lu tiến dọc hai bên đường QL9 hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho
TĐ11Công Binh tu sửa lại con đường nầy. Trong khi đó 3 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn
3KBKV được trực thăng vận đổ xuống các bải đáp phía trước cách Khe Sanh khoảng
5 dậm.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 6
Ngày 2/4/1968 liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn 2 và 1 KBKV được thả xuống phía Nam
căn cứ Khe Sanh và đường số 9 tảo thanh quanh khu vực đồn điền của người Pháp
khi xưa.
Sau khi được thả xuống bải đáp, TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng
độ với một Tiểu Đoàn cộng quân đang cố thủ tại đây,TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng,
Trung Tá Runkle Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương. TĐ2/5KBKV được lịnh vào thay thế
nhưng cộng quân đã rút lui.
Trong khi đó, các đơn vị phòng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt
đầu tấn công ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật gộng kềm,
ép đơn vị Tiểu Đoàn 7 Trung Đoàn 66 địch quân vào giửa. Cộng quân cố thoát ra
khỏi vòng vây nhưng với hoả lực hùng hậu của các đơn vị tham chiến, Công quân
phải rút chạy và bỏ lại chiến trường 148 xác.
Ngày 4/4/1968 Các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8 Nhảy Dù thuộc LĐ3ND-VNCH được thả xuống
khu vực LZ Snake phía Tây và Tây Nam căn cứ Khe Sanh. ( bên ngoài và phía sau vị
trí của địch quân đang bao vây căn cứ.) để chận đường lui binh của địch.
Tiểu Đoàn 3 Dù của Thiếu Tá Trần Quốc Lịch được trực thăng vận phía Tây Nam của
đồi 471,
Tiểu Đoàn 6 Dù của Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước được thả về phía Bắc của TĐ3ND.
Tiểu Đoàn 8 Dù của Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và một
pháo đội 105 ly được thả về khu vực phía Bắc Làng Khe Sanh .
Vừa được thả vào buổi chiều, thiết lập xong các công sự phòng thủ thì TĐ8ND
cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn bị địch quân tấn công phủ đầu vào buổi tối vì
chúng nghĩ rằng đây là một đơn vị của Hoa Kỳ. Bị chống trả mãnh liệt, địch phải
tháo lui. Trong trận này, Tham Mưu Trưởng Chiến Đoàn là Thiếu Tá Bùi Văn Thạch,
cùng khóa 3 Thủ Đức với Trung Tá Nam, tử trận.
Ngày 6/4/1968 các đơn vi KBKV đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi
471.Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ
ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681. không gặp một kháng cự nào của địch.
Trận Khe Sanh 1968 - phần 7
Cùng lúc đó về mặt Bắc, TĐ2/26TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mủi tiến quân nầy
gập sự chống trả mạnh mẽ của công quân; trận chiến phải mất hết 2 ngày mới bứng
hết các ổ kháng cự.
Ngày 7/4/1968 trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo QL9, TĐ2/7KBKV đã chạm địch mạnh
tại địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dậm. Để 3 Đại Đội cầm chân địch quân ở mặt
trận chính, Đại Đội thứ tư lòn ra sau bọc hậu, mới đánh bật được Cộng quân ra
khỏi các công sự phòng thủ.
Cũng trong ngày nầy các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đã chạm địch, Sau khi TĐ3ND
và TĐ6ND đáp xuống vị trí ổn định, Trung Tá Nam Chiến Đoàn Trưởng cho lệnh các
đơn vị mở rộng đội hình tác chiến dàn hàng ngang tiến vào phía căn cứ.
Khi biết có đơn vị Nhảy Dù VN tăng cường, binh sỉ TQLC bên trong căn cứ lên
tinh thần nên khi lực lượng Nhảy Dù chạm địch, bên trong căn cứ cũng bắn ra dữ
dội. Do đó địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn, vì quá gần trong khoảng cách
không quá 200m, biết không thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi
pháo tác xạ vào ngay lên đội hình của chúng nên bị chết rất nhiều, một số bị bắt
sống, bên ta cũng bị tổn thương khá cao. Đại Đội 33 Nhảy Dù bị tổn thất nặng nhất:
Đại Úy Nguyễn Đức Cần, ĐĐT cùng 2 Chuẩn Úy Trung Đội Trưởng bị tử thương . Một
Thiếu Úy Trung Đội Trưởng bị thương. chỉ còn một Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy
Trương Văn Dũng không bị thương tích.
Bị dồn ép và không chịu nổi bị tấn công từ nhiều phía, địch quân bắt buộc phải
bỏ chạy. Sau đó Lực lượng Nhảy Dù trở lại hành quân giải tỏa Làng Vei lúc này vẫn
do một tiểu đoàn CSBV chiếm đóng, còn dân chúng thì đã di tản ra khỏi vùng.
Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tương đối còn nguyên vẹn, được lệnh chuyển hướng về phía
Nam để án ngữ sườn phía Bắc của Làng Vei trong khi đó một lực lượng của Sư Đoàn
101 Hoa Kỳ tiến từ hướng Đông.
Ngay hôm đó, Truyền Tin Tiểu Đoàn 3 Dù dò tần số địch biết được địch đang tăng
viện thêm hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn chận đánh Tiểu Đoàn 6 Dù còn tiểu đoàn
kia hỗ trợ cho Làng Vei, liền báo cáo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn.
Tiểu Đoàn 6 Dù được lệnh dừng quân chuyển qua đội hình phòng thủ. Chưa kịp đào
công sự chiến đấu thì TĐ6ND đã bị địch xung phong. Tiểu đoàn 3 Dù bắn yểm trợ
khoảng 100 đạn súng cối trên hướng tiến quân của địch. TĐ6ND nhờ chuẩn bị trước
nên phản công quyết liệt, địch phải rút lui trước sự chống trả của các chiến sĩ
Dù. Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, Y Sĩ Trưởng của Tiểu Đoàn 6 Dù tử thương.
Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó đã sử dụng tối đa ưu thế của không quân chiến thuật
oanh kích các tiểu đoàn địch khiến họ phải rút về biên giới Lào.
Sau cuộc hành quân Pegasus nầy, các đơn vị của Cộng Sản Bắc Việt đang được điều
động đến khu vực Khe Sanh phải bỏ dở ý định tấn công vì không muốn làm mồi cho
hỏa lực Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ do đó áp lực địch vào căn cứ Khe Sanh giảm
đi và thế là giấc mơ tạo dựng một chiến thắng quân sự như kiểu Điện Biên Phủ của
Võ Nguyên Giáp để eo sèo đòi hỏi Mỹ và VNCH nhượng bộ kể như không thành. Các
binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị. Nhiều đơn
vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm.
Ngày 8/4/1968 Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải toả sau 77 ngày bị cộng quân
vây hảm , các đơn vị tham chiến tung quân càn quét các khu vực xung quanh, chỉ
một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 Bắc.
Tổng kết về cuộc hành quân Pagasus thiệt hại về phía đồng minh 41 Bộ Binh Mỹ,
51 TQLC Mỹ và 33 quân nhân VNCH bị tử trận và 667 M ỹ 187 Việt bị thương, đổi lại
1304 quân CSBV bỏ xác tại trận và 23 tù binh (chưa kể số thiệt hại vì pháo đài
B52 và Pháo binh tác xạ)
Trận Khe Sanh 1968 - phần 8
Cuộc hành quân Lam Sơn 207 A chính thức kết thúc vào ngày 15/4/1968 Lữ Đoàn 3ND
được đưa về Huế để tham dự một cuộc hành quân mới ‘Lam Sơn 216’ chiếm lại thung
lủng A Shau.
Thiếu Tướng Dư Quốc Đống Tư Lệnh Sư
Đoàn Nhảy Dù đang gắn huy chương cho Trung Tá Nguyễn Khoa Nam, Chiến Đòan Trưởng
LĐ3ND
Sau này, có người nhận xét cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe
Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Người khác lại
cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như
Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử
Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông
mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa
lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Nhưng lịch sử đã đổi chiều không phải của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm
1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh
trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không
chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Đó là chưa
kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn
thương binh.
Tài liệu tham khảo:
- Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the
Viet Nam War.
- Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Tiến Sĩ Nguyẽn Đức Phương, nxb Làng Văn
2001.
- Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưởng. Tác giả xb 1998
- The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant General Willard
Pearson Dept of The Army Washington, D.C., 1975
- Phỏng vấn trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
- Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm Cường Lể trên trang nhà History of
the VN War.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
TRẬN CHIẾN KHE SANH
Lời tựa của Linh Vũ: Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như những diễn
đàn đều có post bài dịễn văn nhậm chức của Tổng Thống Barack Hussein Obama thứ
44 của Hoa Kỳ trong đó ông đã nhắc đến điạ danh 'Khe Sanh' vùng cực Bắc Nam Việt.
Địa danh Khe Sanh không chỉ có những người lính của hai miền Nam Bắc Việt Nam
biết đến mà hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở VN đều
không thể quên được trong suốt hơn 42 năm qua.
Trận chiến Khe Sanh một trong những trận chiến lớn nhất thế giới ngang tầm vóc
với các trận như Concord , Gettyburg và Normandy .
Một điạ danh nơi đèo heo hút gió đã viết đậm nét trong trang quân sử Hoa Kỳ và
Quân Lực VNCH.
Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải nhắc
đến và người Việt chúng ta khi nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi xúc động.
Và trong những bài dịch, một số dịch gỉa không biết vô tình hay cố ý đã bỏ sót
điạ danh ' Khe Sanh' đã làm cho nhiều người trong cộng đồng bất mãn.
Sau đây tôi xin mượn bài viết của Phạm Cường Lễ ' Khe Sanh 77 ngày trong năm
1968' để chúng ta nhìn lại trang sử Việt và cho những ai chưa từng biết Khe
Sanh là gì có cơ hội tìm hiểu Khe Sanh như thế nào?
Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Năm Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám
KHE SANH... một địa danh đèo heo hút gió ở vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng
Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về phía Đông của
vương quốc Làọ Nếu không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi đây có
thể sẽ được kể là một trong những gì đẹp nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng kể
từ tháng 5 năm 1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này bắt đầu bị giao động.
Năm đó, bộ đội Bắc Việt thiết lập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh để khởi động
công cuộc xâm lăng miền Nam .
Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay tiền đồn. Nhưng vì nằm gần biên giới
và giáp ranh Đường Số 9 --trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt,
Lào-- nên Khe Sanh đã nghiễm nhiên trở thành một trong những cứ điểm quan trọng
nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam.
Đến 1967, các hoạt động của Cộng quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó
khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe Sanh để trở
thành một tiền đồn kiên cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào, cạnh bên Quốc
Lộ 9, án ngữ cửa ngõ xâm nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị.
Khi Hoa Kỳ tăng cường lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh, tướng Võ Nguyên Giáp của
Bắc Việt đã có kế hoạch bao vây để biến nơi này thành Điện Biên Phủ của người Mỹ.
Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng nhất nhì thế giới. Nhưng đó
chẳng phải vì nổi tiếng qua phong cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành nhất, hoặc
có du khách ngoại quốc đến thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đã nổi tiếng vì có
nhiều trận đánh lớn xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968.
Năm 1968 là thời điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm
của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên toàn
lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ
Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000
Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng 200 tay súng Biệt Động Quân miền Nam. Nhưng Khe
Sanh đã chẳng thất thủ. Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng quân hứng chịu
hơn 10,000 tổn thất.
o O o
Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng
điệp, Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng ở tỉnh Quảng Trị.
Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng
đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Làọ Vị trí
chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm
lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt.
Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh.
Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để
canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ
Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực.
Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần
cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc
Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong
77 ngàỵ
Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10,000 đến 13,000
cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr.130).
Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ.
Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị thương.
Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương binh
(Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam,
1963-75, tr.175).
MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967
Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105
ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4.2 inch.
Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ
đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2
miles (3.5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175
ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó.
Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với
bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861.
Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo
quân số về vùng nàỵ
Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh.
Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn
3") TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh.
Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường.
Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ.
Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC
Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861.
Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881.
Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những
tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần
lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ngọn đồi 861, 881-Bắc, và
881-Nam.
Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe
Sanh, thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường
thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3.
Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục
công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ.
Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt
bị thiệt hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng.
Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng
4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động.
Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại
Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh.
Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn
26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ.
Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh.
Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng
quanh vùng nàỵ
TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968
Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản.
Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả
một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về
ngành truyền tin và hành quân.
Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng
nàỵ
Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số.
Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam
(Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của
Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam. Xem bản đồ).
Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm
Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội
K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại đội trưởng
Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3
đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 lỵ
Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát
vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên
lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động
giữ dộị Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ
loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véọ Trong vòng chưa đến một
phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống
tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứụ
Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng
về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ.
Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm
ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng.
Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.
Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là
"Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận
đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm
sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc.
Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ
đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và
không yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabney đã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân
tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe
Sanh Veterans Home Page, Time Line).
Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy r Lúc 2 giờ chiều,
một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu
thú. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi
861 và 881-Bắc.
Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt
đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.
Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng, lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng
quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861.
Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích
rồi nổ tan.
Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồị
Nhưng Đại Đội K/3/26 biết trước. Họ gờm súng chờ đợị. Trận đánh kéo dài đến 5
giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một
binh sĩ tử trận.
Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn
biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng
"depart" từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưạ Những hạt mưa
to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 lỵ
Khi quả đạnh đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống
hầm. Một số khác co lại trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm
theo tiếng nổ của đạn pháo binh.
Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lồ trong căn cứ với 1,500 tấn đã phát nổ
tan tành.
Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, bị
rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải
cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh.
Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường
Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh
tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa quạ
Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu
Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn,
đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòạ Trách nhiệm của họ là tạo vòng
đai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh.
CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN CHIẾN TẠI KHE SANH
- 20 tháng 1 Đụng độ mạnh giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội Bắc Việt
trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy Bắc
Việt ra đầu thú và đã cho biết kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn cứ Khe
Sanh.
- 21 tháng 1 Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn trong căn cứ nổ tung,
phi đạo bị hư hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy
lui cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt.
- 22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ.
- 26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe
Sanh. Đây là lực lượng tăng viện sau cùng trong khoảng thời gian căn cứ bị bao
vâỵ
- 30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi
Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xã bị tấn công, trong đó
có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất.
- 6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực
Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Ngày hôm
sau, Làng Vei thất thủ.
- 9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134
xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử thương.
- 11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì
trúng đạn pháo kích. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh"
về phi trường Đà Nẵng bình an.
- 21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào vòng đai phòng thủ tại khu vực hướng Đông ở
Khe Sanh. Nhưng không chọc thủng được bức tường phòng thủ kiên cố của Biệt Động
Quân VNCH.
- Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường độ pháo kích của Cộng quân tại
Khe Sanh quá ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất là móc các kiện hàng vào những
cánh dù rồi thả xuống từ các vận tải cơ trên vòm trờị
- 23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo
kéo dài 8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người
khác bị thương.
- 29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở cuộc tấn công ác liệt vào vòng đai phòng thủ ở
phía Đông căn cứ, nhưng gặp phải mức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động
Quân. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân bị đẩy luị Họ để lại 70 xác chết trên
trận địạ
- 1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân PEGASUS (của quân đội Mỹ)
và LAM SƠN 207 (của quân đội VNCH) được tiến hành. Chiến dịch kết thúc vào ngày
15 tháng 4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ
Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600 bị thương,
Việt Nam Cộng Hòa: 34 tử thương, 184 bị thương,
Cộng Sản Bắc Việt: 10,000 đến 13,000 tử thương.
Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt
Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm một pháo
đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 lỵ
Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos
với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc.
Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội đại
bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll.
Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém:
Tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài ra, ông còn
có thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận
như sau:
- Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc của Đồi 881 Bắc
- Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng quân về phía Tây Nam của Khe
Sanh
- Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang có mặt ở gần vùng phi quân sự,
cách Khe Sanh 15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc
- Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía Bắc của căn cứ hỏ a lực Rock Pile
Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm
- một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng
- hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh
Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi
Nghĩa (thường được gọi là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lãnh thổ
miền Nam Việt Nam. Tại những thành phố lớn, các đơn vị Việt Cộng cố các trận
đánh lớn để gây tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, tình hình tương đối yên tĩnh.
Nhưng sự yên tĩnh chỉ kéo dài được 6 ngàỵ
- Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên đồi 861Ạ Một tiểu đoàn Việt Cộng
(thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc tấn công. Địch quân chiếm một phần tại vòng đai
phía Bắc trong khu vực trách nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau đó, Bắc quân bị
đánh bật trở ra trong một cuộ c phản công quyết liệt của các binh sĩ Cọp Biển.
Tổng kết trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía bên kia Cộng quân thiệt mất
109 cán binh (Khe Sanh Veterans Home Page: Time Line).
- Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng
Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Quân Bắc Việt có cả
chiến xa PT-76. Và đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp Bắc Việt trực tiếp lâm
chiến tại miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho Cộng Sản miền Bắc, các
xe PT-76 chạy trên xích sắt, được trang bị nòng súng 76 ly, và có khả năng lội nước.
Tuy vỏ bọc bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ cứng của thép cũng đủ để ngăn chận
các loại đạn trung liên từ 7.62 ly trở xuốn g.
Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng quân dẫn đầu. Theo sau là một
tiểu đoàn bộ đội yểm trợ. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới quyền điều
động của Sư Đoàn 304.
Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị
tiêu diệt, nhưng quân trú phòng không ngăn nổi trận biển người của đối phương.
Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong
số 24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ.
Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung
Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn giữ. Các vị
trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Trong tình huống nguy cập, các
binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm trợ. Không chút chậm trễ, các khẩu đại
bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi 64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC khác
được lệnh phải đến tiếp viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150
bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.
Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số.
Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn cứ Khe Sanh lại
bị tấn công. Lần này, một đại đội địch quân gây áp lực tại phòng tuyến của Tiểu
Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Trận
này kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ
Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo binh để phục hận. Một
nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart:
Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã
làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân
Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.
Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hãm Khe Sanh chợt bùng nổ với một trận bộ chiến
sau cùng:
Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng
vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của các binh sĩ Biệt Động
Quân VNCH.
Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường, và sau ba lần trận biển-người xung
phong, tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá được phòng tuyến thép của lính "rằn
ri."
Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấu. Họ đợi đối phương
xung phong đến thật gần rồi mới kha i hỏa.
Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng.
Súng trường M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet). Lựu đạn đeo ở bụng, trước ngực, hoặc
choàng vaị Băng đạn sát bên người, ở hông và đầy trong túị Khi Bắc quân tấn
công, tiểu đoàn Biệt Động Quân chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự
gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần
xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng rào kiểm
điểm tình hình. Họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địa.
Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một
cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: "Rạng
sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất được nhắm vào vòng đai trách
nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng
rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân),
lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt
bên ngoàị Bảy mươi (70) xác chết của họ vì vậy đã được xem như như một công cuộc
bại thảm nặng nề."
Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả
và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục
Chiến, nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn
37 Biệt Động Quân.
May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến
trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75": ".. .[Tướng]
Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn
là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không
thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn
vị thiện chiến rất giỏị"
Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công
cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa
Khe Sanh bắt đầụ Cuộc hành quân mệnh danh "PEGASUS" (của Mỹ) và Lam
Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị
thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam . Trục tiến quân giải tỏa
Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9.
Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ Giấc mộng tạo
dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh
đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Nhiều đơn vị bị
xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm.
Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về
chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn
quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Một
lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một
chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong
khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã
"tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần
Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Nhưng lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm
1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh
trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không
chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Đó là chưa
kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn
thương binh.
4/1972 - Trước tình hình
khẩn cấp này, Bộ Chỉ huy Trung đoàn quyết định sử dụng TD 4/54 BB làm nỗ lực
chính hổ trợ tiếp tế cho hai căn cứ. Theo kế hoạch, tiểu đoàn chia thành hai
cánh quân. Cánh quân thứ nhất tiếp tế cho Bastogne do Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
Trần Công Đài chỉ huy, cánh thứ hai do Tiểu đoàn phó điều động, tiếp tế cho Checkmate.
Kế hoạch vận chuyển tiếp tế được thực hiện vào ban đêm, cả tiểu đoàn xuất phát
từ vòng đai ngoài của căn cứ Bình Điền và tiến về hướng tây. Trên lộ trình hành
quân, mỗi cánh quân có hai thành phần: Thành phần mở đường để triệt hạ các chốt
chận của địch trên lộ trình, thành phần đi sau, mỗi binh sĩ mang theo lương thực
tiếp tế đủ cho hai binh sĩ đơn vị bạn ăn trong một thời gian 5 ngày. Trong hai
đêm liên tiếp, TD 4/54 BB đã hoàn thành xuất sắc cuộc hành quân tiếp tế. Nhờ kế
hoạch linh động và táo bạo này, TRD 54 BB đã kịp thời tiếp ứng lương thực cho
hai căn cứ đang bị địch bao vây.
Chiều ngày 28 tháng 4/1972,
hai cánh quân thuộc hai Trung đoàn 29 và 803 thuộc Sư đoàn 324B CSBV đồng loạt
tập trung tấn công vào căn cứ Bastogne. Dù bị áp đảo về quân số, nhưng TD 2/54
BB do Đại úy Hà Văn Khâm, Tiểu đoàn phó xử lý thường vụ Tiểu đoàn trưởng chỉ
huy, đã chận được các đợt tấn công trong
hai giờ đầu. Trong khi đó, từ căn cứ hỏa lực Bình Điền, tiểu đoàn Pháo
binh tăng phái cho TRD 54 BB điều động các khẩu đội tác xạ tập trung quanh Bastogne
để bảo vệ căn cứ khỏi bị Cộng quân tràn ngập. Tuy nhiên, nỗ lực của Pháo binh
chỉ làm giảm tốc độ tấn công của Cộng quân một thời gian ngắn, vì cùng với cuộc
tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã mở trận địa pháo dữ dội vào căn cứ.
Khoảng 8 giờ tối cùng ngày, Đại úy Hà Văn Khâm báo cáo cho Trung tá Nguyễn
Thanh Hạnh, Trung đoàn trưởng TRD 54 BB, tình hình nguy kịch của căn cứ và xin
được triệt thoái. Trung tá Hạnh cho phép Đại úy Khâm được tùynghi hành
động, cố gắng mở đường máu để vượt thoát khỏi vòng vây của địch. Gần 10 giờ
đêm, sau khi họp với Ban Chỉ huy TD 2/54 BB và các đại đội trưởng để phổ biến lệnh
triệt thoái, Đại úy Hà Văn Khâm đã cùng tiểu đoàn mở đường máu vượt thoát vòng
vây của địch. Ra khỏi căn cứ được khoảng 1 giờ di chuyển trong đường núi, Đại
úy Khâm và toàn Ban Tham mưu, một số đại đội trưởng, trung đội trưởng và hơn một
nửa tiểu đoàn bị địch chận bắt.
Bastogne thất thủ, tuyến phòng ngự
của TD 1/54 BB tại căn cứ Checkmate bị địch cô lập. Để tránh tổn thất, đêm 29
tháng 4/1972, sau khi liên lạc với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh SD 1 BB, Trung tá
Hạnh ra lệnh cho Thiếu tá Nguyễn Phú Thọ, Tiểu đoàn trưởng TD 1/54 BB triệt
thoái. Trên lộ trình rút quân, tiểu đoàn bị chận đánh, một số sĩ quan và gần
1/3 binh sĩ bị địch bắt. Riêng vị Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn phó và một số sĩ
quan Ban Chỉ huy Tiểu đoàn vượt thoát được về tuyến sau an toàn. Dù hai Tiểu
đoàn 1/54 và 2/54 BB bị tổn thất nặng trong cuộc triệt thoái, nhưng với hai tiểu
đoàn còn lại TD 3/54 BB và TD 4/54 BB, TRD 54 BB đã phối hợp với TRD 1 BB tăng
viện, giữ vững phòng tuyến tây Huế trong mùa Hè 1972.
Trong bài viết về giới thiệu Sư
đoàn 1 Bộ binh (BB) đăng trên VB cách đây hơn 1 năm, chúng tôi đã trình bày tổng
lược về tình hình chiến sự từ tháng 3 đến tháng 9/1972 tại cụm phòng tuyến Tây
Nam Huế do hai Trung đoàn 1 và 54 BB đảm trách. Trong khoảng thời gian nói
trên, 6 Trung đoàn thuộc 2 sư đoàn chủ lực của CSBV đã thay nhau mở hàng loạt
cuộc tấn công vào cụm phòng tuyến nói trên, nhưng chỉ chiếm được vài tiền đồn
trong một thời gian ngắn, sau đó đã bị các đơn vị Sư đoàn 1 BB phản công tái
chiếm. Một trong những trận chiến đã thu hút sự chú ý của nhà quân sử Hoa Kỳ,
các hãng thông tấn, truyền hình quốc tế là trận chiến tại tiền cứ Phú Xuân và
cao điểm 342 từ tháng 4 đến giữa tháng 5 (quân sĩ Sư đoàn 1 BB thường gọi tên
các căn cứ theo danh hiệu
liên lạc với Không quân Hoa Kỳ, Phú Xuân gọi là Bastonge và cao điểm 342 gọi là Checkmate để
tiện liên lạc).
Trận chiến tại Phú Xuân là một
trong những trận đánh đầy bi tráng, và trong suốt thời gian giao
tranh diễn ra, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB lúc bấy giờ là thiếu tướng Phạm
Văn Phú hàng ngày đã bay đến bộ chỉ huy Trung đoàn 54 BB để theo dõi và đôn đốc
quân sĩ. Nhân kỷ niệm 28 năm chiến tích của Sư đoàn 1 BB tại Tây Nam Huế, VB
trân trọng giới thiệu bài tường trình chi tiết về trận chiến nói trên. Bài viết
được biên soạn dựa theo lời kể của một số sĩ quan Trung đoàn 54 BB, bản tin
hàng tuần do Khối chiến tranh chính trị Sư đoàn 1 BB phổ biến trong năm 1972, đặc
san Sư đoàn 1 BB phát hành năm 1974, tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân
Hoa Kỳ, và tài liệu riêng của VB.
* Trung đoàn 54 BB tại cụm phòng
tuyến Tây Nam Huế
Trước khi cuộc chiến Mùa Hè 1972 bùng nổ vào cuối tháng 3/1972, từ giữa tháng
3/1972, theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, Trung đoàn 54 BB (có biệt
danh là Trung đoàn Bạch Hổ) do trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, Trung đoàn trưởng,
chỉ huy, được điều động từ Nam và Tây Nam Thừa Thiên vào khu vực cận sơn quận
Nam Hòa, nằm ở phía Tây Huế. Tuyến phòng thủ chiều ngang do
Trung đoàn 54 BB đảm trách chạy dài từ phía Bắc căn cứ Phú Xuân (cách Huế khoảng
12 km đường chim bay) đến phía Nam cao điểm 342 (danh hiệu liên lạc vô tuyến với
Không quân Hoa Kỳ: Checkmate). Theo phối trí, bộ chỉ huy hành quân Trung đoàn
54 BB đặt tại căn cứ Bình Điền, tiểu đoàn 1/54 án ngữ cao điểm 342 và cụm điểm
quanh căn cứ 342, tiểu đoàn 2/54 phòng ngự căn cứ và vòng đai Phú Xuân, tiểu
đoàn 3/54 và 4/54 phòng thủ chiều sâu, ban chỉ huy tiểu đoàn 3/54 đóng chung với
bộ chỉ huy Trung đoàn, tiểu đoàn 4/54 hành quân di động.
Về hoạt động của đối phương, từ đầu
tháng 3/1972, tin tức tình báo ghi nhận các đợt chuyển quân của 3 Trung đoàn
29, 803 và 812 thuộc sư đoàn 324 B từ phía Bắc vào thung lũng Ashau nằm ở hướng
Tậy Thừa Thiên. Cùng lúc đó, Trung đoàn 24 thuộc sư đoàn 304 CSBV cũng được ghi
nhận là đã di chuyển khỏi mật khu Ba Lòng (Quảng Trị) và trên đường di chuyển về
phía Nam. Từ giữa tháng 3/1972 đến đầu tháng 4/1972, trong
khu vực trách nhiệm của Trung đoàn 54 BB không có những trận giao
tranh lớn, chỉ có những đợt pháo kích của Cộng quân ở mức độ nhỏ. mang tích
cách thăm dò khả năng phản pháo của tiểu đoàn Pháo binh tăng phái cho Trung
đoàn.
Trong 10 ngày đầu của tháng 4/1972,
Cộng quân áp lực nặng trục lộ đi ngang qua khu vực phòng ngự của Trung đoàn 54
BB. Cùng thời gian này, các đại đội tiền đồn của hai cứ điểm Bastogne và
Checkmate đã phát hiện các cuộc chuyển quân của Cộng quân từ hướng Tây về hướng
Đông, đồng thời tiểu đoàn 4/54 đang hành quân lưu động đã có những cuộc đụng độ
nhỏ với các thành phần tiền sát của đối phương. Trong tuần lễ thứ hai của tháng
4/1972, việc tiếp tế bằng đường bộ cho hai tiểu đoàn 1/54 và 2/54 đã không thể
thực hiện được do Cộng quân tổ chức các chốt chận trên lộ trình. Để các đơn vị
nói trên có đủ lương thực và đạn dược để chiến đấu, bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB đã
điều động các phi đội trực thăng tăng phái thực hiện các phi vụ tiếp tế khẩn cấp
cho quân trú phòng, tuy nhiên các nỗ lực tái tiếp tế này đã gặp nhiều khó khăn
do pháo phòng không của địch đã bắn chận không cho trực thăng đáp xuống. Cuối
cùng quân lương được thả bằng dù xuống căn cứ, nhưng hơn một nửa rơi ngoài căn
cứ, lọt vào tay Cộng quân.
* Lực lượng xung kích tiếp tế đêm
cho hai căn cứ bị địch bao vây
Sau khi đã khống chế về tiếp vận, đến giữa tháng 4/1972, Cộng quân tăng quân
bao vây và khởi động các đợt tấn công thăm dò vào hai cứ điểm Bastogne và
Checkmate, đồng thời pháo kích dồn dập vào cụm tuyến phòng ngự của hai tiểu
đoàn 1/54 và 2/54 tại hai căn cứ này. Trong thời gian từ 15 đến 27/4/1972, tất
cả các đợt tấn công của Cộng quân đều bị lực lượng trú phòng đẩy lùi. Vào đầu
tuần lễ thứ ba, bộ chỉ huy Trung đoàn 54 BB nhận được báo cáo khẩn là lương thực
dự trữ tại căn cứ Bastogne đã gần cạn, trong khi đó tại căn cứ Checkmate, tình
hình lương thực tuy không nguy khốn như tại căn cứ Bastogne, nhưng cũng chỉ đủ
để dùng tối đa là 3 ngày.
Trước hiện trạng đó, để quân trú
phòng yên tâm cố thủ, bộ chỉ huy Trung đoàn 54 BB quyết định sử dụng tiểu đoàn
4/54 làm nỗ lực chính vận chuyển quân lương cho hai căn cứ. Theo kế hoạch, tiểu
đoàn chia thành 2 cánh quân, cánh quân tiếp tế cho Bastogne do thiếu tá Trần
Công Đài,tiểu đoàn trưởng, chỉ huy, cánh thứ hai do tiểu đoàn phó điều động. Kế
hoạch tái tiếp tế được thực hiện vào ban đêm, cả tiểu đoàn xuất phát từ vòng
đai ngoài của căn cứ Bình Điền và tiến về hướng Tây. Trên lộ trình hành quân tiếp
tế, mỗi cánh quân có hai thành phần: thành phần mở đường để triệt hạ các chốt
chận của địch trên lộ trình, thành phần đi sau, mỗi binh sĩ mang đầy lương thực
tiếp tế đủ cho 2 binh sĩ đơn vị bạn đủ ăn trong một chu kỳ 5 ngày. Trong hai đêm
liên tiếp, tiểu đoàn 4/54 đã hoàn thành xuất sắc cuộc hành quân tiếp tế, nhờ kế
hoạch rất linh động và táo bạo này, Trung đoàn 54 BB Bạch Hổ đã kịp thời tiếp ứng
lương thực cho các hai tiểu đoàn đang bị địch bao vây.
* Cuộc triệt thoái khỏi căn cứ
Bastogne và Checkmate
Chiều ngày 28 tháng 4/1972, hai cánh quân thuộc hai Trung đoàn 29 và 803 thuộc
sư đoàn 324B CSBV đồng loạt tấn công cường tập vào căn cứ, dù bị áp đảo về quân
số, nhưng tiểu đoàn 2/54 do đại úy Hà Văn Khâm, tiểu đoàn phó xử lý thường vụ
tiểu đoàn trưởng, chỉ huy, đã chận được các đợt tấn công của Cộng quân trong
hai giờ đầu. Trong khi đó, từ căn cứ hỏa lực Bình Điền, tiểu đoàn Pháo binh
tăng phái cho Trung đoàn 54 điều động các khẩu đội, tác xạ tập trung vào quanh
Bastogne để bảo vệ căn cứ khỏi bị Cộng quân tràn ngập. Nỗ lực của tiểu đoàn
Pháo binh chỉ làm giảm tốc độ tấn công của đối phương thêm một thời gian ngắn,
vì cùng với cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã pháo hỏa tập dữ dội vào
căn cứ này.
Khoảng 8 giờ tối ngày 28/4/1972,
qua hệ thống truyền tin, bằng ám danh và ngụy hóa đàm thoại, đại úy Hà Văn Khâm
đã báo cáo cho trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 54 BB
tình hình nguy kịch của căn cứ và xin được triệt thoái. Đại úy Khâm cũng cho biết
sẽ “im lặng vô tuyến” với Trung đoàn để bảo mật trên lộ trình rút quân. Sau vài
lời dặn dò, trung tá Hạnh cho phép đại úy Khâm được tùy nghi hành động, cố gắng
mở đường máu để vượt thoát khỏi vòng vây của địch. Trước khi tắt máy, đại úy
Khâm nói với vị Trung đoàn trưởng của mình: 71 yên tâm, con cháu sẽ cố về nội!
(71: ám số truyền tin để chỉ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 54)
Gần 10 giờ đêm 28/4/1972, sau khi họp với ban chỉ huy tiểu đoàn 2/54 và các đại
đội trưởng để phổ biến lệnh triệt thoái, đại úy Hà Văn Khâm đã cùng tiểu đoàn mở
đường máu vượt thoát vòng vây của địch. Ra khỏi căn cứ được khoảng 1 giờ di
chuyển trong đường núi, tiểu đoàn bị địch phục kích và bao vây với một lực lượng
đông gấp 5, sau hơn nửa giờ tử chiến, trước sự chênh lệch về hỏa lực, cuối cùng
đại úy Hà Văn Khâm và ban chỉ huy, cùng với hơn 1/2 số quân sĩ tiểu đoàn bị địch
bắt. Số anh em còn lại chia nhau thành từng toán nhỏ, phân tán vào rừng và ngày
hôm sau đã về đến căn cứ bộ chỉ huy hành quân Trung đoàn 54 BB.
Bastogne thất thủ, tuyến phòng ngự
của tiểu đoàn 1/54 tại căn cứ Checmate đã bị địch cô lập. Để tránh tổn thất,
đêm 29/4/1972, sau khi liên lạc với thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Sư đoàn 1
BB, trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 54 BB ra lệnh cho
thiếu tá Nguyễn Phú Thọ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/54 điều động toàn tiểu
đoàn triệt thoái. Trên lộ trình rút quân, tiểu đoàn 1/54 còn khoảng bị khoảng 3
tiểu đoàn CQ bố trí dọc theo sơn lộ ùa ra chận đánh, cận chiến đã diễn ra ác liệt,
một số sĩ quan, và gần 1/3 tiểu đoàn bị địch bắt. Riêng vị tiểu đoàn trưởng, tiểu
đoàn phó và một số sĩ quan ban chỉ huy tiểu đoàn, hơn 2/3 quân sĩ phá được vòng
vây địch, về tuyến sau an toàn.
Dù hai tiểu đoàn 1/54 và 2/54 bị tổn
thất nặng trong cuộc triệt thoái, nhưng với hai tiểu đoàn còn lại 3/54 và 4/54,
Trung đoàn 54 BB đã phối hợp với Trung đoàn 1 BB tăng viện, giữ vững phòng tuyến
Tây Huế trong mùa Hè 1972.
* Tái chiếm Bastogne và Chekmate
Ngày 15 tháng 5/1972, để tái chiếm một vị trí trọng yếu đã bị rơi vào tay Cộng
quân, tướng Phú đã tổ chức một trung đội cảm tử quân gần 40 chiến binh do một
thiếu úy chỉ huy, được trực thăng vận nhảy ngay xuống căn cứ Bastogne và tấn
kích ngay vào bộ chỉ huy của Cộng quân. Bị tấn công bất ngờ và bị một phi đội
trực thăng chiến đấu oanh kích quanh vòng đai phòng thủ căn cứ nên Cộng quân bỏ
chạy. Chỉ trong vòng nửa giờ, trung đội cảm tử quân của Sư đoàn 1 đã làm chủ trận
địa. Tin chiến thắng báo về, được sự ủy nhiệm của tổng tham mưu QL/VNCH, tướng
Phú đã thăng cấp trung úy thực thụ tại mặt trận cho thiếu úy trung đội trưởng cảm
tử quân. Tất cả các hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc trung đội này cũng được đặc
cách thăng 1 cấp. Một tuần sau, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 1 BB đã tái chiếm
cao điểm 342.
* Câu chuyện về hai sĩ quan tiểu
đoàn trưởng 1 và 2/54 Bộ binh
Trước khi căn cứ Bastogne bị CSBV chiếm, khoảng 1 tuần trước đó, Tổng thống
VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã bay thị sát chiến trường Trị Thiên, khi nghe tướng Phú
trình bày tình hình căn cứ Bastogne và căn cứ Checkmate (do tiểu đoàn 1/54 trú
phòng) và tinh thần quyết chiến của 2 tiểu đoàn nói trên trong suốt gần một
tháng, Tổng thống Thiệu đã ra khẩu lệnh thăng cấp tại mặt trận cho hai sĩ quan
chỉ huy tiểu đoàn 1 và 2/54.
Theo khẩu lệnh của Tổng thống, thiếu
tá Nguyễn Phú Thọ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/54, được thăng trung tá thực thụ
và đại úy Hà Văn Khâm, xử lý thường vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/54, được
thăng thiếu tá thực thụ. Tuy nhiên, vì đang hành quân, nên trung tá Nguyễn
Thanh Hạnh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 54 BB quyết định chờ tình hình chiến sự
lắng xuống sẽ cho trực thăng bốc 2 sĩ quan nói trên về bộ chỉ huy để gắn cấp bậc
mới. Do đó khi bị CSBV bắt, tiểu đoàn trưởng Hà Văn Khâm vẫn còn mang cấp đại
úy. Anh được trao trả vào tháng 3/1973 tại bờ sông Thạch Hãn cùng với các chiến
hữu tiểu đoàn 2/54 bị bắt trong mùa Hè 1972. Ngày trở về, anh bị thâu hồi cấp bậc
thiếu tá đã được thăng tại mặt trận, vài tháng sau, anh được giải ngũ. Sau 30
tháng 4/1975, anh bị CQ giam giữ ở tổng trại Kỳ Sơn và đã chết trong trại tù
vào khoảng thời gian 1977-1978. Anh Hà Văn Khâm xuất thân khóa 16 Sĩ quan Trừ bị
Thủ Đức, trước khi nhập ngũ, anh là giáo sư trung học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét