Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo
Lời nói đầu:
Nghĩa tử là nghĩa tận. Trước một
“nhân vật của quần chúng” (a person of the public) vừa nằm xuống, giữ im lặng
là thái độ nghiêm chỉnh nhất. Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều
người khen qúa độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng mức
mà không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài BBC cũng tường thuật
rất tỉ mỉ về đám tang của ông.
Hãy thử tìm con người đích thực của
PD qua tác phẩm, hành động và lời nói của ông để biết nguyên do của cái dư luận
ồn ào sau tin ông qua đời.
A/ NHỮNG LÝ DO KHIẾN PD ĐƯỢC NHIỀU
NGƯỜI NHẮC TỚI
1/ Ông là một nhạc sĩ được ngưỡng mộ
bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ gìa, từ giới bình dân tới giới
trí thức, từ thời chiến tới thời bình, từ chủ nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự
Do, từ chính quyền độc tài tới chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.
2/ Cảm tình của quần chúng đối với
ông rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người chê. Nhiều người vừa khen vừa
chê. Nhiều người trước khen nay chê. Nhiều người trước chê nay khen.
Phe Việt Cộng, sau nửa thế kỷ căm thù
ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài “Hòa Giải Dân Tộc”.
Phe Tự Do, qua nửa thế kỷ quý mến
ông, nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua chuộc.
Những biểu lộ ấy (khen-chê, yêu-ghét,
mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ không ngẫu nhiên (mà có lý
do thầm kín) gán ghép cho ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về
và nếp sống buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong sự phán xét của
họ.
3/ Những tác phẩm của ông, từ dân ca,
tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v. v.. đều có gíá trị độc đáo: mang âm giai
ngũ cung hài hòa của dân tộc và lời ca truyền cảm của ca dao.
4/ Nhạc phổ thơ của ông là một tuyệt
kỷ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù thủy” của loại nhạc này. Dù phổ
nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi của Huy Cận..) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng
Sáo Thiên Thai của Thế Lữ..) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía trị.
5/ Đời tư của ông có một vài tì vết. Ông
sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất chấp hậu quả (vụ Khánh Ngọc và Julie
Quang) khiến những người đạo đức khinh bỉ và những người đối lập khai thác.
6/ Lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước
trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một người có tình yêu giả tạo không
thể nào làm được những bài Tình Ca, Tình Hoài Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung,
Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về,
Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…
B/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI KHEN
Hầu hết những người khen đều công nhận
rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc Việt và là một nhạc sĩ có thiên tài,
có lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước chân thành. Có người đã tặng ông những đức
tính mà thực sự ông không có (như khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người
còn vinh danh ông là chiến sĩ chống Cộng hoặc nhà tư
tưởng thâm thúy. Những nhận xét như vậy chỉ đúng nửa vời:
1/ Quả thực ông là một đại thụ của
nền tân nhạc Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ vết: ông đã 2 lần vi phạm luân lý Việt
(vụ Khánh Ngọc và Julie Quang).
2/ Ông không khiêm nhượng mà
còn háo danh. Một thí dụ: Trong cuốn video Paris By Night 19, ông trả lời
ký giả Lê Văn của đài BBC: “Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi như một người Việt
Nam”. Khiêm nhượng thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói:
“Tôi sẽ làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca cho Phật giáo
thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới công bằng”. Thế ra ông là người
ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo này! Nét háo danh đã lộ liễu trong lời nói vụng
về ấy.
3/ Ông không phải là một chiến
sĩ chống Cộng mà chỉ là một nhạc sĩ muốn được sinh hoạt văn nghệ mà không
bị chỉ đạo bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng Chiến về Thành không phải vì muốn xả
thân cho lý tưởng chống Cộng mà vì muốn gia đình được sống thoải mái trong
chính thể Dân Chủ và bản thân được tự do sáng tác theo tiếng nói của con tim.
Ông đã hưởng trọn vẹn ân huệ của những
người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do cho gia đình ông sống yên vui.
Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ bằng vài trăm bài ca bất hủ xưng tụng những
thứ cao đẹp mà họ trân qúy. Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự
do nhưng ông đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm
đáng khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng (chiến sĩ chống
Cộng).
4/ Ông không phải là một nhân vật
thâm thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào xứng đáng cho danh hiệu ấy.
Một bài nhạc của ông có câu: “Đừng cho không gian đụng thời gian”. Ông
mượn ý đó trong thuyết Tương Đối của Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có
không gian, không có thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường
không gian; thí dụ: hai thiên hà cách xa nhau một tỷ năm ánh sáng).
Có người đã xin ông giải thích câu đó nhưng ông chỉ trả lời loanh quanh, vô
nghĩa, chứng tỏ ông đã không hiểu ông muốn nói gì.
Thật là khôi hài khi một anh chàng
văn sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông: “Nhạc PD còn thì tiếng ta
còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Hắn nhái câu thậm xưng của Phạm Quỳnh trong
thập niên 1930: “Chuyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta
còn”.
(Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây để
nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca ngợi ông mà chụp cái mũ “thân Cộng”
cho ông).
C/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI CHÊ
Những lời chê ông nở rộ trong 2 thời
kỳ:
1/ Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới
2005:
Khi ông bỏ Kháng Chiến về Thành, VC
đã chê ông là phản động.
Ông đã không phản động mà
chỉ phản Cộng.
Phản Cộng vì Cộng không thể cung cấp
những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia đình ông và không cho phép ông
phục vụ văn nghệ theo sở trường mà còn buộc ông phải khai tử một bài hát vô tội
(innocent): bài Bên Cầu Biên Giới. Giản dị thế thôi !
2/ Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới
nay:
Khi ông quyết định trở về VN để sống
nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê ông là phản bội những
anh hùng chống Cộng.
Công bằng mà xét thì ông không phản bội
ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản dị như lý do ông về Thành thuở
xưa.
Ở Hoa Kỳ, các con của ông không có nghề
ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì không cung ứng đủ những nhu cầu vật
chất cho chúng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc
sĩ Việt. Những người lớn tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi
đại nhạc hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì giới trẻ trung thì thích nhạc Mỹ
do nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp nhĩ hơn. Bản quyền sáng
tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc được sao chép và bán rẻ rúng công khai
trong mọi tiệm nhạc. Sống nhờ trợ cấp xã hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận
2000$ để phổ nhạc vài bài thơ “con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh Hải thì
tủi thân cho một nhạc sĩ tài danh như ông.
Giữa lúc nghèo túng thì cơ hội chợt tới:
một khế ước trị giá 400 ngàn đô-la trong 4 năm để sưu tầm, hòa âm, trình diễn tất
cả những bài ca do ông sáng tác tại VN từ 1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc
ông phải hòa âm những bản nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC.
Thính giả của ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy bất
kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau khế ước đó: sách
lược “Hòa Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong thời gian này. Một
người có “khí tiết” ắt không chấp thuận. Nhưng Phạm Duy không phải hạng người
có khí tiết. Ông không thích sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả,
sung túc như thường tình.
Thế là ông đưa gia đình về quê hương
sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần. Ông rất thích câu của ai đó
nói rằng: “Về đi thôi! Kiếp sau biết có hay không?”. Tính tình của ông khác đời
ở chỗ: rất thích thú khi được khen và rất ít phiền hà khi bị chửi.
Trong 8 năm ấy ông đã gặp đủ hạng người,
trong mọi lứa tuổi: ca nhạc sĩ đã quen hoặc chưa quen, thính giả yêu nhạc của
ông dù đã biết hoặc chưa hề biết tên ông, lãnh tụ CS kể cả những người đã từng
cấm hát nhạc của ông như Võ Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên
bố một câu vô liêm sỉ năm 1989: “PD hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho
phổ biến nhạc của ông ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp mặt những lãnh
tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng phàn nàn nếu ông muốn gặp một
vài lãnh tụ CS đã chơi thân với ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất
dễ tính và vô tư trong việc gặp bạn cũ, chuyện làm quà chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ
niệm xưa, không bàn về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những cuộc gặp gỡ lấy
lệ hoặc xã giao như vậy.
Có một điểm son đáng ghi nhận: ông
không hề bợ đỡ một lãnh tụ CS nào và cũng không hề nói xúc phạm tới bất cứ ai của
chính thể VNCH trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ
đã phạm lỗi này).
Tôi muốn tóm tắt thái độ của Phạm Duy
trong một câu sơ sài: Khi sáng tác thì tận tình, khi vui chơi thì tận hưởng,
khi nói năng thì thì tận tục. Duyên Anh đã thuật lại rằng PD, trong lúc
đùa rỡn với bạn bè, đã nói trong hơi men: “Ai ngu mới thích nghe nhạc của
tôi. Chúng đã được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm những bài Tục Ca
trong cầu tiêu.
D/ KẾT LUẬN:
Nhạc sĩ tài danh Phạm Duy là một người
đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ. Cuộc đời của ông trôi nổi qua nhiều
vinh nhục, thăng trầm. Ông thích sống buông thả và chỉ có một tham vọng tích cực
(productive): sáng tác những bản nhạc có giá trị.
Lối phát ngôn của ông thuộc loại Tú
Xương (“Một thày, một cô một chó cái” hoặc “Cao lâu thường ăn quịt,
thổ đĩ lại chơi lường”). Từ 50 năm nay, chả có ai coi ông như một “quý nhân”. Họ
mến ông vì ông đã cống hiến cho họ nhiều bài ca bất hủ, và đi chung với họ trên
một đoạn đường dài nhất của cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước nổi
trôi”.
Ông chưa bao giờ là công cụ của CS.
Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa hề làm một khúc ca xưng tụng
một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng những anh hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới
khi cáo hồ ló đuôi thì ông bỏ chúng về Thành.
Ông cũng chưa bao giờ là công cụ của
chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong chính thể Quốc gia, ông chưa hề
làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào. Những bài hát “xây dựng nông thôn” là
những bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi một nhạc sĩ chuyên nghiệp;
chúng đã không thọ lâu.
Khoảng 100 bài ca bất hủ của ông đã
đi sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ ngách của thành thị rồi “di tản”
ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn của vài triệu người sống lưu vong.
Cuộc “trở về quê” của ông chỉ tổn
thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh hưởng đáng kể tới tinh thần
chống cộng của quần chúng. Chả có ai “hòa giải dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy
đã hồi hương. Sự hòa giải ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa
giải khi nào chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng của
quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy thì chả nên quá
quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của chúng. Nó đã chết ngay sau
khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt bớt nỗi căm thù VC rồi xối vào những ca nhạc
sĩ như Phạm Duy, Từ Công Phụng, Khánh ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v... Có một cái gì
“bất đắc dĩ” trong viêc trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ không đem
đô-la về nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số thương gia và những kẻ
ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của chúng (lãnh thù lao bằng đô-la). Hãy
thông cảm cho họ (thông cảm không có nghĩa là cổ võ cho người khác trở về) miễn
là họ chỉ thân thiện với dân, chỉ hát cho dân nghe những bài ca mà chúng ta chấp
nhận và không nói lảm nhảm, xúc phạm tới tinh thần chống Cộng.
Riêng đối với Phạm Duy, hãy để cho
ông yên nghỉ, gọi là đáp lễ những bài ca bất hủ mà ông đã cống hiến trong suốt
cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận! Có cả ngàn người (phần lớn là thường dân)
đã tiễn đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc
vừa đồng ca trước mồ ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một
bài chưa được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Về Cõi Chết). Từ vạn
dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một chút ngậm ngùi, một chút
vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào cũng tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó
có tự do chọn lựa lối sống) hơn bất cứ điều gì trên đời
Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét